KIỀU LOAN
Hoàng Cầm
Khúc hát mở đầu
Thời loạn ly ai đẹp mãi bao giờ…
Một buổi chiều mùa thu năm 1802. Một ngã ba đường ngoại châu thành Phú Xuân. Trời đã xế chiều. Xa xa nếp hoàng thành đang chìm trong sương. Bên đường một vài túp lều ủ rũ, vài thân cây khẳng khiu giơ lên nền trời úa đỏ những ngón tay tuyệt vọng. Trống thu không, chuông chùa rền rĩ.
Mở màn: Một tốp hai ba tên lính dẫn một xâu người bị trói đi từ trái sang phải. Đoàn người bị bắt đầu cúi gục, quần áo rách tả tơi, mặt xám ngoét. Những người qua đường lấm lét nhìn đoàn tù rồi cúi mặt, đi nhanh. Bọn trẻ đang chơi đùa nép vào nhau sợ hãi. Tiếng roi bọn lính vụt người nghe vun vút. Hết đoàn tù ấy đến đoàn tù khác dằng dặc… dằng dặc… Trầm trầm lơ lớ tiếng hát của bọn lính bắt người.
Phần 1
Đoạn 1
(Tiếng hát bọn lính):
Bắt người trói cả một dây
Ngày mai vùi lấp mười thây một mồ
Vợ con đói rách hãy chờ
Lĩnh tiền vua thưởng đong bồ gạo ngon.
Những đoàn tù đi hết, một lát có tiếng xôn xao:
“A ! Điên !.. điên !” Kiều Loan từ mé trái chạy ra,
xiêm áo xốc xếch, dính nhiều sợi cỏ,
nhiều cánh hoa, nhiều bùn đất. Theo sau nàng,
một đứa trẻ chạy đùa với dải áo bay lất phất.
Kiều Loan quay lại đuổi bắt đứa trẻ.
Nàng túm được nó, cười khanh khách.
Hôm nay mới gặp Tần Thủy Hoàng
Bạo chúa như ông sướng hay khổ?
Trời sang thu lá đã vàng
Ông khóc hay cười trong nấm mộ?
Đứa trẻ (sợ hãi cố gỡ ra):
Em không quen biết những người điên
Chị buông ra, em còn về cuối phố.
Kiều Loan:
Tôi đứng chờ thu xanh biếc ngõ
Trăng khuya cúi mặt nhớ phương trời
Còn ông ôm mặt nhớ Tần phi
Ông vỗ gươm vàng đè lên gió
Hát rằng: "Trường thành ta đạp đổ
Rượu ngập Hàm Dương, mắt dị kỳ
Cười rụng đầu người, thuyền xuôi máu đỏ
Bỗng nghiêng mình trắng nõn áo cung phi.
(Nàng bắt chước người chở đò)
Thuyền ơi! Ta chở giăng đi
Mênh mông biển gió thấy gì nữa đâu
Thuyền ơi! Ta ghé bến sầu
Khóc không nước mắt hoen mầu thời gian
Thuyền ôi! Tóc chảy đêm vàng
Giai nhân sóng soải hai hàng chiêm bao
(Rồi khóc nức nở)
Chồng tôi phóng ngựa phương nào
Mà đây vó sắt dẫm vào tuổi thơ
Từ lúc này, bọn trẻ con thập thò sau quán
sau cây nhìn Kiều Loan không dám lại gần,
đ! ôi lúc lại gọi léo nhéo "Cô điên ơi! Áo cô điên đẹp quá!
Hoặc “Lính nhà vua sắp bắt cô điên".
Người qua đường:
Cô đi đâu mà điên dại ngẩn ngơ. Cô nhớ ai? Kìa sao cô lại khóc?
Kiều loan:
Tôi nhớ chàng, đôi mắt trong như ngọc
Đã chìm sâu bùn lạnh đất kinh đô
Độ ấy mùa xuân ghen mái tóc
Chồng tôi say đổ nắng trai tơ
Mái gianh nghiêng rót tình phong nhụy
Hoa khép hương vàng, gọi chẳng thưa
Luyện kiếm vườn mai, chim khúc khích
Cười đôi lứa trẻ quá làm thơ
Vội vàng dăng áo che nhan sắc
Nét bướm vàng tươi nắng tỏa mờ.
Người qua đường (thở dài):
Thời buổi này, những người tươi trẻ nhất
lại thành điên…
Kiều Loan:
Tôi điên tự ngày xưa
Nhưng má phấn đã dám so xoan héo
Thời loạn ly, ai đẹp mãi bao giờ
Vó câu vẳng động trong mơ
Tỉnh ra đã nát mình tơ nõn nà
Đố ai rỡ được mái nhà
Cho đàn chim sẻ bớt tha buồn về.
Một đứa trẻ (vỗ tay):
Thật là hay! Cô hát lại cháu nghe
Rồi cháu đưa vào kia mà ngủ trọ
Kẻo nữa tối, vua cấm đèn cấm lửa
Cấm dân gian đi lại ở kinh thành.
Kiều loan (cười):
Vua cấm đèn thì chị thức thâu canh
Đôi mắt sáng soi tìm trong sáu viện
Linh hồn chị sẽ bay vào bệ kiến
Nở thành hoa trắng muốt giữa sân rồng
Thương bà công chúa nằm không
Đợi một tấm chồng đập nát lầu son
Dựng hai gò má cô đơn
Thành hai trái núi mưa hờn năm canh
Người qua đường:
Vua có lệnh bắt những người hát ! nhảm Đầu sẽ bêu sương gió nếp hoàng thành.
Kiều Loan (ngơ ngác):
Vua ở đâu? – Tôi chỉ ngủ một mình
Nằm mê thấy vua nhà ai bỏ vợ
Cưới ngay được một bông hoa bé nhỏ
Một đêm trăng hoa đẹp nở người tiên
Vội vàng hoàng đế phát điên
Xé tan người ngọc, cười nghiêng bệ rồng.
Người qua đường:
Bao nhiêu người đã vào nằm ngục tối
Cô im đi, lính phòng thành sắp tới.
Kiều loan (lườm, bĩu môi):
“Cô im đi”! Này khúc hát quê hương
Tôi hát lên đâu phải để buồn thương
Nhưng chính thực để chồng tôi đỡ khổ.
(Tôi hát rằng)
Những đêm trời đất quay cuồng gió
Ta trút y thường, cởi giấc mê
Trèo tít ngọn cau van với gió
Xin đưa thân gái đến Hà Khê
Nơi ấy chia tay chồng bỏ vợ
Hàng cau ngóng mãi bóng ai về
Có con mèo trắng ôm thân mốc
Thảm thiết gào giăng xé gió khuya.
Người qua đường:
Cuối phương tây, hoàng hôn càng tê tái
Tôi càng nghe càng ghê lạnh tình thương
Đất vua chúa, buồn vui không được nói
Cô về đi, đừng cười khóc bên đường.
Kiều Loan:
Hỡi con dế đêm trường năn nỉ
Người yêu ta ngủ kỹ nơi đâu
Về đây lượm mãi tiếng sầu
Sao ngươi nín lặng bên lầu rêu phong?
(Đổi giọng)
Mất chồng đố lại lấy chồng
Ông vua chưa vợ áo rồng rộng thênh.
Một đứa trẻ (đến gần Kiều Loan, níu áo):
Cô điên ơi, cho cháu một bông hoa
Và cho cháu cả cái vòng gỗ quý.
Kiều Loan (vui vẻ tháo vòng tay trao đứa trẻ):
Chị không tiếc – Nh! ưng này! em trông chị
có đẹp không?
Đứa trẻ:
Chị đẹp như bà tiên
Đẹp thế này, ai xui chị thành điên?
Kiều Loan (cười):
À, chị điên! Từ khi trời bỏ đất
Đây, cho em chiếc vòng này quý nhất
Gỗ hạnh hương hồng nhạt nổi mây đen
Vòng này là vật đính duyên
Mười năm thắt chặt ưu phiền trên tay.
(Chiều ngả dần. Những người qua đường bỏ về)
Đứa trẻ:
Trời đã chiều mà chị vẫn đứng đây
Chị về đâu?
Kiều Loan:
Chị sẽ nằm trên cỏ
Ngủ một giấc đến ngày mai sáng tỏ
Thì chị đi lên núi lại lên rừng
Chị buồn chị hát vang lừng
Cỏ cây sa lệ núi rừng ngẩn ngơ …
(Bọn trẻ bỏ đi nốt)
Đoạn 2
(Có hai thư sinh đi ngang qua rồi dừng lại)
Thư sinh A:
Cô ả này chiều qua tôi đã gặp
Cũng điên rồ ngồi hát bến sông Linh
Thư sinh B:
Bóng chiều nghiêng trên mấy lớp hoàng thành
Người thiếu phụ như in tranh loạn lạc.
Kiều Loan:
Hai thầy đồ chắc học hành uyên bác
Sắp đến kỳ kinh nghĩa, gió bay xa
Xếp bút nghiên mà vác giáo theo ta
Sức lực ấy, lũ gà chưa phải trói.
Thư sinh A:
Giai thời loạn thẹn mình mang chẳng nổi
dãy Trường Sơn đi lấp biển sóng cồn
Nhưng cô nương sao giận phấn hờn son
Cửa phòng khuê không chờ giăng tâm sự ?
Chốn kinh kỳ chưa nguôi cơn cuồng vũ
Quỷ không đầu còn gõ cửa đêm mưa
Biết bao cơn gió độc của nhà vua
nồng xương máu, thổi bên đường xào xạc
Thì… cây sung nào… quả rơi lác đác…
Kiều Loan:
Sung cứ rụng, còn tôi, tôi cứ hát
Tôi hát chơi đã mấy lúc rụng đầu
Tôi hát rằng:
“Tình ơi, nước chảy qua cầu
Thì tha hồ cây dương liễu nhớ mầu tà huy”.
Thư sinh A:
Thời bây giờ thiên hạ hết thương nhau
Ai hoài công nghe kể chuyện u sầu
Cô về đi, vì chòm cây yên lặng
Thấu lòng cô, chờ đêm khuya thanh vắng
Sẽ bò vào nội điện nói vu vơ.
Thư sinh B:
Thì sớm mai phơi máu chợ kinh đô
Đầu thiếu phụ lắc lư sầu vạn kiếp.
(Hai thư sinh bỏ đi)
Kiều Loan (níu lại):
Hãy dừng lại ! Hỡi chàng tôm chú tép
Ta hát chơi, đầu rụng cũng không lo
Ta hát rằng:
R! 20;Thương ơi cái lũ học trò
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”.
Thư sinh B (vui vẻ):
Cô là ai ?
Kiều Loan (lẳng lơ):
Tôi là em ruột chị Hằng
Đêm qua tôi bỏ cung giăng xuống trần
Đứng đây trông hết xa gần
Tài trai chí lớn có ngần ấy thôi.
Thư sinh A:
Chồng cô đâu ?
Kiều Loan:
Chồng tôi đi chinh chiến bốn phương trời
Oanh liệt lắm, nhưng năm xưa đã chết
Còn một mình, sự đời tôi chẳng thiết
Tôi lang thang, tôi hát để quên sầu
Tôi hát rằng:
“Tình tang, xe ngựa công hầu
Cam lòng tan nát riêng màu cỏ hoa…”
Thư sinh B:
Tiếng hát hay như từng giọt châu sa.
Thư sinh A:
Chồng nàng mất bao lâu rồi đấy nhỉ ?
Kiều Loan:
Đã mấy năm tôi không còn nhớ kỹ
Đếm biệt ly bằng lá rụng bên đường
Chồng tôi xưa lừng lẫy khắp nghìn phương
Đi dẹp giặc rồi về làm…
Thư sinh A:
… làm Tư mã ?
Kiều Loan:
Rồi về làm cái cầu vồng đẹp quá
Tan cơn mưa cầu đã tắt từ lâu
Tôi buồn, tôi hát đôi câu
Mây buông vải trắng trên đầu hoa râm…
(Nàng úp mặt vào tay khóc. Hai thư sinh lắc đầu ái ngại rồi kéo nhau đi. Xa xa, tiếng chuông chùa…)
Đoạn 3
(Nàng ngửng lên ngơ ngác, bứt một bông hoa trên mái tóc, xé vụn từng mảnh).
Kiều Loan:
Ta đứng trơ đây bêu má phấn
Mà thương thiên hạ sống bơ vơ
Chiến tranh đẫy túi phường buôn máu
Danh nghĩa chồi lên những sọ dừa
Nguyễn Huệ cớ sao thành phản nghịch?
Để loài mãi quốc dựng ngôi vua?
Nước vòng ngọc sáng gương trong vắt
Mây chẳng buồn chơi với bóng cờ.
(Một ông già chống gậy trúc lẳng lặng vào quán uống rượu)
Kiều Loan:
Hỏi thăm phỗng đá từ xưa
Chim nào bay rợp giấc mơ anh hùng
Vó câu khua động non sông
Xanh xanh trời bể thoả lòng trượng phu
Cơn khói lửa mịt mù Nam Bắc
Đường viễn chinh vằng vặc trăng soi
Nghìn năm hồ dễ mấy người
Một tay biến chuyển đất trời mênh mang
Ta hát rằng:
Hỡi ai múa kiếm trên lưng ngựa
Giờ đã nằm yên dưới suối vàng
Chí lớn từ xưa chôn chật đất
Riêng đàn đóm đóm lại thênh thang…
Đoạn 4
(Hiệu uý, trẻ tuổi, lẫm liệt trong bộ nhung phục, đi qua đường. Kiều Loan chợt trông thấy, túm áo chàng).
Kiều Loan:
Mời tráng sĩ lại đây tôi kể chuyện:
Miệng tôi cười như trăng soi mặt biển
Mắt tôi đen như vực thẳm luân hồi
(Nàng quay phắt lại chỉ thẳng vào mặt Hiệu uý)
Chàng là người phụ bạc, chàng quên tôi
Tôi tìm chàng cạn sông rồi lở núi
Suốt mười năm, bao giận hờn buồn tủi
Nước mắt này gấp mấy sóng Châu Giang?
Hiệu uý (ngơ ngác và say mê):
Nàng dị kỳ như cô gái rừng hoang
Tôi đâu biết chuyện mười năm tìm kiếm
Nàng là ai? Ôi dung nhan kiều diễm
Từ chiều nay tạc tượng đến muôn đời
Kiều Loan (càng gay gắt):
Chàng cưới bà công chúa xấu hơn tôi
Mới ba năm đã thành con ác phụ
Bị bùa yêu, chàng quên phăng vợ cũ
Mỏi gối quỳ, nô lệ sắc hồ tinh.
Hiệu uý:
Chuyện ngày xưa nàng giấu kín u tình
Chồng nàng xưa chắc là người phụ ước
Gặp chiều nay nhưng hẹn từ kiếp trước
Mắt người điên ngùn ngụt đốt lòng ta
Nàng cợt đùa, càng thêm nỗi xót xa.
Kiều Loan:
Tôi không đùa vì mắt tôi còn mở
Lòng chưa chết, bao giờ nguôi tưởng nhớ
Ngày ra đi, chàng cũng mặc áo này
Cũng thanh gươm buộc dải lụa hồng bay
Cũng đôi mắt thiết tha, và giọng nói
như than van từ lưng chừng ngọn suối
cũng say mê…
Gió hiu hiu lạnh lẽo sóng Hà Khê
Người ấy đi đâu sao không trở về?
Hiệu uý:
Tôi có việc phải vào ngay nội điện
Xin cô nương buông áo,! kẻo đêm khuya.
Kiều Loan:
Tôi không buông, chàng phải đến đằng kia
Tìm bằng được một anh chàng họ Vũ
Hiệu uý (bỗng chú ý):
Chồng cô nương là một người họ Vũ ?
Kiều Loan:
Nhắn hộ tôi rằng: ông ơi, người vợ cũ
Đang chết mòn trong cát bụi Phú Xuân
Chim tha rơm về mái tóc hoa râm
Làm tổ ấm để vợ chồng đoàn tụ
Hiệu uý:
Có đích thực chồng cô nương họ Vũ?
Kiều Loan (ôm vai Hiệu uý):
Đúng chàng rồi, chàng phải cưới tôi đi
Từ vấn danh, nạp thái đến vu quy
Cứ đem đến cho tôi con Xích thố
Và một thanh gươm, để tôi chém cổ
kẻ phụ tình đang trốn tít chân mây
Ông già (ở trong quán nói ra):
Mời cô nương và dũng sĩ cùng say
Lão tung gậy thành cầu vồng đỏ tía
Làm lễ cưới phải trăm bình rượu quý
Tế tơ hồng phải khóc lụt trần gian.
Kiều Loan (buông áo Hiệu uý, giọng nghiêm trang):
Tôi nói đùa, xin chàng đừng để ý
Mời chàng đi!
Hiệu uý:
Lòng tôi đã chia tan
Nàng là ai? Tôi muốn biết tên nàng
Để những khi thẩn thơ ngoài nội cỏ
Khi kéo quân ra ải lạnh, trăng mờ
Tôi ngậm ngùi, bâng khuâng niềm tưởng nhớ
Gọi tên nàng trong bóng khói hư vô.
Kiều Loan:
Ngày muộn rồi, tráng sĩ hãy vào thành
Vợ chồng tôi như đôi lá tròn xinh
Kết liền cánh nhịp nhàng âu yếm mãi.
Hiệu uý:
Nàng đẹp quá, tôi tiếc người điên dại
Này áo xiêm đầy bụi đất đường xa
Nắng phương nào trong cánh lụa thướt tha
Thâu g�! �p hết ! tình yêu trong cát bụi
Ảo não quá, mắt cuồng si vời vợi
Tóc trôi dài nhạc lạnh sóng trường giang
Nàng ở đâu?
Kiều Loan:
Tôi ở giữa rừng hoang
Tôi là gái goá chồng, là tiết phụ
Thở hương khói để phụng thờ người cũ
Và ban thờ là mắt lệ long lanh
Chuông thu không trong gió lạnh rùng mình
Mời tráng sĩ hãy vào trong nội điện.
Hiệu uý:
Lòng trong trắng chôn tình sâu tựa biển
Từ chiều nay vùi tâm sự thiết tha
Cô về đi, quê hương ấy còn xa
Nắng thoi thóp, tiếng chuông chùa văng vẳng
Như giục cánh chim non tìm tổ ấm
Kẻo đêm nay sấm chớp rộn lòng đau
Cô về đi, ta phải cách xa nhau
Duyên kỳ ngộ, hương vương đầy nếp áo
Và tiếng hát líu lo đường gió bão
còn kéo dài trong những buổi chiều xanh
Bao giờ quên bóng lá rụng bên thành…
(Hiệu uý đi hẳn và Kiều Loan cũng đi khuất)
Đoạn 5
(Ánh chiều tắt hẳn, ánh trăng thượng tuần
chiếu xuống xanh nhạt. Ông già ngâm thơ trong quán rượu)
Ông già:
Bảng lảng thân tàn ai có hay
Gươm ta ngủ bụi đã muôn ngày
Chiến bào thơm máu phơi trăng khuyết
Tuấn mã mòn xương ngóng cát bay
Tuổi quá sáu mươi thèm giấc ngủ
Đời trôi nghìn vạn nhớ cơn say
Bóng chiều thương chuyện mười năm trước
Mưa rụng kinh thành buốt cánh tay
(Trong quán có tiếng đổ vỡ.
Ông già bị đẩy lùi ra ngoài. Cửa quán đóng sập)
Ông già:
Ồ, các người vô lý
Cứ giục lão đi về
Nào ta biết về đâu?
Người chết nằm dưới đất
Người sống chỉ nghiêng bầu
Vua chúa rồi cũng mất
Riêng ta còn sống lâu.
Kiều Loan (ở mé đường chạy ra):
Kìa tia chớp – Bắc Bình Vương đã lại
Áo nhà vua tê tái màu son
Mắt đen hai vực sâu tròn
Chiều nay úp xuống linh hồn bơ vơ
(Nàng túm gậy ông già)
Có phải chàng? Sao dám ở kinh đô
Nơi gấm lụa vàng son che khuất bóng
người ly phụ héo hon, lệ trôi phăng gối mộng
Lệ trôi phăng cả mái nhà gianh
Quê hương có núi xanh xanh
Núi đi đi mất buồn tênh xứ người
Tôi nói thế mà chồng tôi cũng khóc
Tôi thương quá tôi bèn vò mái tóc
Suốt ba đêm lau nước mắt cho chồng
Rồi võng đưa, tôi cất tiếng:
(Nàng bắt chước người mẹ bế con và hát ru)
Bồng bống bông
Thiếp ru chàng ngủ biển Đông
Mây chiều sừng sững như lồng đau thương
Chớp nguồn, sấm động mười phương
Bao giờ chuyển đất đườn! g gươm anh hùng
Ông già:
Nghe tiếng hát, tóc không đành nhuộm trắng
Rượu không đành lật đổ khối lo âu.
Kiều Loan:
Chàng khóc mãi, lòng tôi càng cay đắng
Tôi kể chuyện: Mười năm em gánh nặng
Cái biển Đông và dãy núi Đoài
Này chàng xem: bầm tím cả hai vai
Lòng nhức nhối từng cơn tưởng nhớ
Chàng tuyệt mù trời xa cách trở
Em âm thầm dệt lụa trắng phau phau
Sớm lại chiều em quấn trên đầu
Đi thơ thẩn hát vang ngoài ngõ trúc
Đêm nhớ nhung, gió lay hồn tỉnh thức
Níu bóng chàng, em lại nằm mơ :
“Vườn hoang bàng bạc trăng mờ
Nhạc vàng giục ngựa bao giờ hồi hương”.
Ông già:
Từ chiều nay tiếng hát cạn trăm bình
Ta say rồi, vỗ trắng cuộc phù sinh
Nằm thảnh thơi chờ nghe câu tuyệt diệu.
Kiều Loan:
Tiếng võng đưa, chàng chập chờn nhắm mắt
Tôi bỗng nghe gió âm cung hiu hắt
Đến nửa đêm, thức giấc, lắng tai nghe…
Thì chồng tôi đã chết trên cành tre.
(Nàng cười rũ rượi)
Ông già:
Ai đứng kia? Ơi hỡi khách qua đường
Ngồi xuống đây, ta có bình rượu quý
Hãy cùng say, ha ha, cùng tuý luý
Cứ say đi, trời đất nghĩa gì đâu.
Kiều Loan:
Cụ nói gì, cháu tuổi thơ chẳng hiểu
Nhà cụ đâu, sao cụ không đi về?
Ông già:
Nhà ta đâu? Túp lều tranh xiêu vẹo
Nằm tương tư bóng đẹp không quay về
Nhà ta đâu? Con sông dài trắng xóa
Buồn nghe mưa trùng điệp khúc tiêu dao
Gió đã xoay chiều, giang sơn tàn tạ
Giải Trường Sơn nhớ mã! i một c! hòm sao..
Kiều Loan:
Nhà không có vì “giang sơn tàn tạ
Gió xoay chiều” – Cụ hát đến là hay
Cụ già ơi, ai xui cụ thành say?
Ông già:
Ta có muốn say đâu, này ta nâng vạt áo
hứng dòng lệ triền miên chan hoà rượu ngon
Ta có muốn khóc đâu, này cánh tay lảo đảo
như níu bóng anh hùng phai mờ nước non.
Kiều Loan:
Trong thế gian làm chi có anh hùng?
Anh hùng ở đâu? Là ai? – Thưa cụ?
Cụ đi đâu lại ôm cây cổ thụ
ngả về đây cho chật cả lòng tôi?
Cụ nhớ xem nước mắt bấy nhiêu rồi
Cụ có giả hay còn đòi uống nữa?
Tôi chỉ mong rượu chảy về chan chứa
Rượu mông mênh, tôi với cụ bồng bềnh…
Ông già:
Lão chưa say, mới uống có vài bình
Đem vò nữa, lão chưa say – Chủ quán!
Trên cõi đời khi rượu ngon đã cạn
mà chưa say, thì lão giết nhà ngươi!
Kiều Loan:
Một bình men Đông Hải đã vơi rồi
Cụ muốn say hãy vào cung chúa Nguyễn!
Ông già:
Rượu của ngươi quay cuồng như sóng biển
Ta sẽ tâu lên Hoàng đế Quang Trung
bắt nhà ngươi đi tát cạn bể Đông!
Kiều Loan:
Tát bể Đông, phải đan chiếc gầu sòng
bắt chúa Nguyễn chui vào nằm đánh trống
Tung lên gió lại thành anh Chiêu Thống
Chết vì trong tay áo có đàn ong!
Vợ chồng tôi cứ tát mãi bể Đông
Chồng tôi ngã, tôi cười như sóng vỗ
Chiều hôm ấy tôi say sưa quá độ
Nghĩ cũng thương bà công chúa Ngọc Hân
Đi lấy vua, uổng phí cả mùa xuân!
Ông già:
Than ôi, mặt đất ! chông ch�! �nh
Không dung hồn vĩ đại
Mộng nghiêng trời, dân ta chưa kịp hái
Thì ngọn gió hiu hiu làm đổ vỡ tan tành
Từ rừng xanh, từ núi đỏ, từ viễn phố, từ cô thôn
Những tiếng sáo bâng khuâng chiều lại chiều véo von
Từ lều mưa, từ quán gió, từ gác tía, từ lầu son
Có những người điên nào cười thảm, khóc ròn
Phơ phơ râu tóc mà như tuyết
Ngày tháng vu vơ mà trăng mờ héo hon
áo bụi quần sương càng ưu phiền tuế nguyệt
Nửa giấc chiêm bao đành gậy trúc hao mòn
Mời cô nương cùng ta vào bệ kiến
Xin nhà vua đủ trăm vò rượu ngon
Uống thật say rồi lên đỉnh Tây Sơn
khuân đá tảng ném bừa vào đế khuyết.
Kiều Loan:
Thưa lão trượng, cửa thành đều đóng hết
Cụ đứng đây xem cháu lên cung giăng
Nội đêm nay cháu sẽ giết cô Hằng
Lôi chú Cuội xuống trần cho uống rượu.
Ông già:
Phải, có ba thứ không bao giờ chết:
Điên cuồng pha rượu chắt thành thơ
Ngày mai thiên hạ tàn đi cả
Giữa ngã ba đường tôi với cô.
Kiều Loan:
Cụ quá say, nhưng không say vì rượu
Cụ là ai?
Ông già:
Nước mắt hoen trên đế nghiệp Tây Sơn
Mưa tầm tã trên nấm mồ Nguyễn Huệ.
Kiều Loan:
Nguyễn Huệ?
Ông già:
Người chuyển rung bốn bể
Thương nước, dựng lên áo vải cờ đào
Đôi mắt người sáng rực hai vì sao
Cứu dân tộc khỏi nanh hùm vuốt sói
Quả ngọt hoa thơm cho người nghèo đói
Tiếng nhạc lời ca cho khắp dân lành.
Kiều Loan (khoe áo):
Áo cháu dệt đây với mộn! g tuổi ! xanh
Khi biên thuỳ tan bóng giặc Mãn Thanh
Tiếng khung cửi nhịp tiếng Người bầu bạn
Giọng của Người, giọng chuông đồng sang sảng
Tiếng hô quân ngoài ba dặm vang lừng
Hạ màn
Phần 2
Đoạn 1
… Cũng muốn theo gương người hoá đá
Nhưng chồng tôi có cũng bằng không!
Sáng hôm sau, trong Hình bộ đường của triều đình Gia Long – Hình Thị lang ngồi trên sập sơn son đang xem tập hồ sơ. Hình Tham tri ngồi trên chiếc đôn gấm bên cạnh. Thư lại chắp tay đứng trước mặt Thị lang đợi lệnh.
Thị lang (bảo Thư lại):
Thầy thảo lại bản hồ sơ đêm trước
Rồi sẽ dâng lên chúa thượng ngự phê
(Thư lại cầm giấy đến ngồi ở một án thư trong góc, hí hoáy biên chép. Thị lang quay sang Tham tri).
Có hai người không biết ở đâu về
Một ông già và một cô gái đẹp.
Tham tri (mỉm cười):
Một cô gái?
Thị lang (nghiêm trang):
Mắt lạnh ngời như thép
Dáng não nùng ghê rợn như hồ tinh
Cùng ông già về do thám kinh thành.
Tham tri (chau mày):
Có lẽ nào?…
Thị lang:
Lính phòng thành bắt được
Đã ba hôm. Ồ, lão già ngỗ ngược
Thốt những câu sàm báng đến nhà vua
Ả hồng nhan thì giả cách điên rồ
Nhớ chồng xưa mà tiếc phường Tây ngụy!
Tham tri:
Bọn người điên, chắc đâu là hữu ý
Thưa đại nhân, ngài đã xét tỏ tường?
Thị Lang:
Bị cực hình tra khảo mấy đêm trường
Họ chỉ cười và lúc mê lúc tỉnh
Việc hệ trọng, ngài cùng tôi quyết định
Nội hôm nay cần biết rõ căn nguyên.
Tham tri:
Thưa đại nhân, còn quê quán, họ tên?
Thị lang:
Họ không nói, chỉ xin chờ cái chết !
Tham tri:
Theo thiển ý, họ là người khí tiết
Buổi giao t! hời khép chặt tấm lòng son
Đi khắp nơi thương gỗ đá hao mòn
Trong tiếng hát cười rơi hàng lệ thảm.
Thị lang (lắc đầu):
Đó là giặc về kinh thành do thám
Xem tình hình quân sự của bên ta
Tôi nghe đồn nghìn gái đẹp như hoa
Đi rải rác khắp nơi cầu dũng sĩ
Họ chờ dịp bên ta không phòng bị
Sẽ kéo về cướp lại đất Quy Nhơn
Tham Tri:
Các vị đại nhân thường yếu đuối dễ hoang mang
Nên nhìn đâu cũng thấy toàn kẻ địch
Đã do thám ai dễ dàng lộ ra tung tích?
Đến chỗ nào, dân chúng chẳng ai hay
Qua kinh thành êm ái như tơ bay
Nơi đông người mà bóng hình lẩn khuất
Ngài không xem những lão già hành khất
áo xác xơ, mặt mũi nhọ như niêu
Có thể là người còn giúp việc Tây triều
Chứ ông già và cô nàng xinh đẹp
Nhởn nhơ chơi trên đường về cõi chết
Chỉ làm vui cho bọn trẻ kinh thành.
Thị lang:
Nhưng dù sao, ta cũng phải giữ mình
Vì bọn ấy làm say lòng dân chúng
Bằng những thi ca ngọt ngào tán tụng
Cái vinh quang mù mịt của người xưa
Lúc quốc dân rời rã sống bơ vơ
Lòng hoang mang bâng khuâng vì loạn lạc
Còn thấp thỏm sợ gia đình tan tác
Với Quang Trung còn nhớ mãi ân sâu
Còn bồi hồi lo hạnh phúc ngày sau
Thì bọn ấy có muôn vàn sức mạnh
Họ như những thiên thần gieo số mệnh
Lừa phỉnh dân, hứa hẹn cuộc thanh bình
Một tiếng cười bằng mấy vạn hùng binh
Một giọt lệ xoáy thành cơn gió lốc
Họ biến hoá trần gian bằng lưỡi độc
Để dân hèn ngu dại rủ rê nhau
Đặt lòng tin ! khờ kh�! ��o đến mai sau
Cũng hò hét, cùng mài gươm luyện võ
Ai cũng tưởng sắp thành ra Thang, Vũ
Lòng kiêu căng, nhắm mắt kéo nhau đi
Thì bao giờ? bao giờ cho hết loạn ly?
Tham tri:
Thưa đại nhân, ngài lo xa thái quá?
Giặc nào còn?
Thị lang (trợn mắt):
Ồ, quan lớn ngủ mê
Đến bao giờ bên cổ thấy gươm kề
Ngài mới biết giặc còn hay đã hết!
Tham tri:
Thế nghĩa là… hai người kia… phải chết?
Thị lang:
Phải giết đi cho tiệt giống sài lang
Máu chảy nhiều mới giữ vững giang san
Đức chúa thượng từ lên ngôi cửu ngũ
Đã hạ chỉ cho các nơi phòng giữ
Dù tình nghi, dù vô tội cũng phanh thây
Nền an vui của xã tắc từ đây
chỉ có thể dựng nên bằng thủ cấp!
(Thư lại thảo xong hồ sơ, đệ lên)
Tham tri (bảo Thư lại):
Thầy cầm trát dẫn lính vào ngục thất
Đưa tội nhân lên xét hỏi tỏ tường
Dù ông già và cô gái điên cuồng
Có nói nhảm, cũng chớ nên hành hạ.
(Thư lại cầm trát dẫn lính đi)
Đoạn 2
(Một hồi trống báo. Vũ tướng quân có Hiệu uý cầm gươm theo hầu, bước vào)
Tham tri:
Kìa Vũ tướng quân! Xin mời ngài an toạ!
Vũ tướng quân:
Tôi được thiếp mời của cụ lớn Thị lang
Tuy việc quân đang gấp rút lên đường
cũng phải đến. – Ngài có chi khuyên bảo?
Tôi học ít, tài non, cầm quân chưa thạo
Mong được nghe lời chỉ giáo của đại nhân
Thị lang:
Việc đầu tiên, tôi muốn hỏi tướng quân
Về bọn giặc đang ngấm ngầm phá hoại
ở kinh đô. – Tôi ngày đêm lo ngại
Vũ tướng quân:
Vâng, đạo binh Trần Quang Diệu chưa tan
Giặc vẫn còn chế ngự khắp châu Hoan
Tôi cũng lo ba quân còn vất vả
Nhưng chúa thượng sẽ trị vì thiên hạ
thay Tây Sơn. Đó chính thực ý trời!
Thị lang:
Vũ tướng quân khẩu khí quả là người
rất trung dũng…
Tham tri:
…Mà thật là khiêm nhượng
Vũ tướng quân
Quân Tây Sơn tuy thế cùng lực tận
Nhưng lòng dân còn nhớ tiếc Quang Trung
Ngay giữa kinh thành mối loạn vẫn chưa xong
Việc quân sự phải có hai ngài giúp sức.
Thị lang:
Việc bên trong chúng tôi dù bất lực
Làm hình quan, phận sự quyết xong xuôi
Yên tâm ngài đi chiến trận xa xôi.
Vũ tướng quân:
Đức chúa thượng mới lên ngôi cửu ngũ
Nên lòng người đế đô còn bỡ ngỡ
Từ miếng cơm manh áo của dân lành
Còn chứa chan ơn Nguyễn Huệ lừng danh
Còn thấm thía lời Quang Trung hoàng đế
Đã có chí muốn rời non lấp bể.
Tham tri:!
Vâng, tướng quân xét đoán quả không nhầm
Mắt Quang Trung chưa khép ở lòng dân
Vũ tướng quân:
Vì lẽ đó, còn lắm người cựa quậy
Bốn chân ngai chúa công ta còn run rẩy
Người Tây Sơn còn nhan nhản quanh đây
Tôi xuất quân vào giờ Tý đêm nay
Thành bỏ trống, giặc nổi lên dễ lắm
Thị lang:
Chết! Còn vệ binh mấy nghìn trong cung cấm
Ngài đem đi ra trận hết hay sao?
Vũ tướng quân (cười):
Không, đại nhân đừng sợ… Nhưng dù sao
cũng phải đề phòng. Mắt luôn luôn mở
Nhìn kẻ sang hèn, nhìn lá cây, ngọn cỏ
Nhìn già trẻ gái trai, đầu sông bãi chợ
Đều phải tìm ra mầm mống của binh đao.
Tham tri:
Nhìn kỹ quá… chúa công thường hoảng hốt
Chém giết bừa đi… chỉ là mua chuốc
thêm oán thù!
Vũ tướng quân:
Ngài không rõ quân cơ
Chỉ cần ngồi đây, xem lại hồ sơ là đủ rõ.
Tham tri:
Hồ sơ thường bịa đặt
Khắp kinh thành, các nhà giam đã chật
Vạn tù nhân chưa thấy một tội nhân.
Vũ tướng quân:
Thà giết oan trăm mạng lương dân
Hơn để thoát một tên phản nghịch
Phải bắt hết những bọn người áo rách
Giả bán buôn, bói toán chợ xa gần
Giả điên cuồng say hát khúc thanh xuân
Gần đồn trại làm mê lòng tướng sĩ
Những gái đẹp thướt tha và uỷ mị
Chính thật là bả độc của Tây Sơn
Những người say tuý luý ở bên đường
Là do thám rất tài tình cho Quang Diệu
Những đứa bé đánh khăng và chơi kiệu
Lại đưa đường cho giặc lén vào thành
Tôi ra đi còn lo ngại quẩn quanh
Lòng bối rối mong hai ngài gia sức.
Thị lang:
ý tướng quân quả thực là… đúng lúc
Tối hôm kia lính túc vệ của tôi
mới bắt thêm hai tên giặc…
Tham tri:
Hai người!
Vũ tướng quân:
Đã bắt thêm? Thật quả là công trạng…
Thi lang:
Lại đúng như lời tướng quân xét đoán
Một gái điên, sắc đẹp… đá cũng mềm!
Một ông già tuý luý…
Vũ tướng quân:
Xin cho xem
Tôi vui lòng ngồi đây nghe xử án
Để thêm sức ra đi lấy đầu Quang Toản.
Thị lang:
Truyền đội trưởng cấm binh vào ngục
Điệu ông già cả cô gái điên cuồng
lên hỏi tội
(Lính rầm rập ngoài công đường.
Thị lang quay lại với Vũ tướng quân)
Chính là việc thứ hai muốn hỏi tướng quân
Có gái điên kia, nhan sắc tuyệt trần
Người quân Hà Khê, trấn Hà Đông ngoài Bắc…
(Vũ tướng quân giật mình. Tham tri sửng sốt)
Tham tri:
À, thế ra… người đồng hương…
Thị lang:
Vâng, đúng thật
Người cùng quê với tướng quân đây
Ả cung khai bằng nét bút như hoa bay
Như dao sắc như gươm dài múa lượn
(Giơ lên một tập giấy)
Dòng mực chưa khô, ba tờ giấy lớn
Đây, tướng quân xem
(Trao tập giấy cho Vũ tướng quân)
Tham tri:
Ngài đọc to lên
(Vũ tướng quân đọc thầm, nét mặt biến đổi nhanh)
Thị lang:
Không thể đọc to cái nỗi lòng riêng
người ly phụ! – ả viết ra bằng mực
hoà với máu suốt đêm qua đỏ rực
Ả cắn ngón tay viết trước mắt tôi!
Tham tri:
Có việc chi bí ẩn chẳng nên lời?
Vũ tướng quân (cố lấy giọng bình tĩnh)
Văn hay lắm. Lời khai đanh thép lắm!
(Ngửng lên nhìn Thị lang)
Thưa đại nhân, lời máu pha mực đậm
Có ai tin mồm lũ giặc hay không?
Tham tri:
Xin cho biết ngay ngụ ý lời cung.
Thị lang:
Chồng cô ả là tướng quân họ Vũ
Người tin cẩn của triều đình, người ngồi đó
Ngay trước mắt ta. Nàng tên gọi Kiều Loan
Người đẹp nghiêng trời, núi đổ, thành tan
Một nữ tướng anh tài củ! a nhà Tây ngụy
(Cười nhạt, nhìn Vũ tướng quân)
Người vợ yêu mà tướng quân giấu kỹ
Chẳng cho bạn đồng liêu biết chuyện riêng tư!
Vũ tướng quân (đã trấn tĩnh):
Làm hình quan cần phân biệt thực hư
Lưỡi bọn giặc khéo lắm điều lắt léo
Đây có lẽ mưu thâm Trần Quang Diệu
Gieo nghi ngờ, làm ly tán Nguyễn triều
Đất Hà Khê, tôi có người thương yêu
Cũng như đại nhân có năm thê bảy thiếp
Mười năm nay theo chúa công tôi đâu biết
chuyện quê nhà!
Thị lang (ôn tồn):
Tôi hiểu bụng tướng quân
Lời cung khai, tuy vậy, còn phân vân
Nếu quả thực ả chính là vợ quý
của tướng quân, bạn đồng triều, tri kỷ
Tôi xin bảo toàn tính mệnh phu nhân.
Tham tri:
Người vô tội thì chớ giết nhầm
Kẻ có tội cứ chiểu theo hình luật
Duyên cớ gì phải dùng lời đường mật
Uốn lưỡi cứng mềm ngay giữa bạn đồng liêu?
Thị lang (cười khẩy):
Quan Tham tri thật quả là nóng nẩy
Vợ yêu quý của người ta tin cậy
Có thể nào làm trái nghĩa bạn bè?
Vũ tướng quân (bối rối):
Không! Không phải vợ tôi! Xin đừng nghe
lời bịa đặt!
Thị lang (càng ôn tồn):
Tôi đã tâu chúa thượng
Đấng chí tôn đã từ lâu chỉ muốn
Dùng lòng nhân mà thu phục giang sơn
Có phán rằng nếu đích thị người điên
Là vợ tướng quân, sẽ không cần xét hỏi
Tình cũ, duyên xưa, hôm nay nối lại
Sắc phong ngay đệ tứ phẩm phu nhân.
Vũ tướng quân (đứng dậy):
Vợ tôi xưa cách biệt đã mườ! i năm Tôi chẳng rõ… Tôi một lòng theo chúa
Mong đại nhân cứ công minh xét xử
Nói đã nhiều, xin cáo biệt…
(Định đi)
Thị lang (cầm tay Vũ, níu lại):
Tướng quân
Cứ ngồi đây, xem rõ mặt phu nhân.
Tham tri:
Ta không nên tin lời cung điên dại
Làm nhục bạn đồng liêu
Vũ tướng quân (với Thị lang):
Ngài giữ lại
Cũng bằng thừa. Tôi, danh tướng Nguyễn triều
Lòng trung này, sống để bụng, chết mang theo
Lời xằng bậy tôi coi như cỏ rác!
Thị lang (gạt hồ sơ sang một bên):
Vâng, tôi xin đốt những lời cỏ rác
Vậy mời tướng quân nán lại mà trông
Bọn giặc già sắp giả dại, giả ngông.
Tham tri:
Theo thiển ý, sức bên ta rất mạnh
Kể từ lúc ta đánh vào Gia Định
Đi đến đâu thì trúc chẻ, ngói tan
Nhiều tướng tài Tây ngụy đã ra hàng
Ta lại có chiến thuyền từ Pháp quốc
Muôn dặm ruổi rong, giúp ta thắng cuộc
Lòng muôn dân đang:
“Lạy giời cho cả gió nồm
Cho thuyền chúa Nguyễn rong buồm thẳng ra”
Nếu quả thật sức bên ta mạnh mẽ
Há sợ gì những trò chơi con trẻ
Há sợ gì tiếng hát của người điên?
Nhà vua nào muốn giữ nghiệp lâu bền
Dùng nhân đức mà trị vì thiên hạ
Còn như kẻ đa nghi, dùng mưu cơ xảo trá
chỉ càng tỏ ra phi nghĩa, bất tài.
Thị lang:
Lời khuyên răn quý báu, cảm ơn ngài
Ta không sợ, nhưng xin đừng mê ngủ!
Tội nhân sắp đến rồi. Xin nhớ rõ
Là chúng ta ăn bổng lộc Nguyễn triều
Các tộc phả đều ghi danh khanh tư�! ��ng
Dù ngọn gió dám trêu vào thánh thượng.
Đoạn 3
(Thư lại và lính dẫn ông già đến công đường.
Lão đứng nhìn bốn phía)
Thị lang:
Lão già kia còn nghĩ ngợi điều chi?
Vào tới đây sao ngươi chẳng chịu quỳ?
Ông già (cười lớn):
Tuổi thơ, quỳ dưới gối gia nghiêm
Đi học, quỳ nghe chữ thánh hiền
Lúc gặp đấng anh hùng áo vải
Ta quỳ nghe tiếng sét kinh thiên
Ngày nay, tóc bạc, thân trơ trọi
Cha mẹ nằm yên dưới dạ đài
Thầy học qua đời, vua đã mất
Hỏi ta còn quỳ trước mặt ai?
Thị lang (ra bộ ân cần):
Ta thương tuổi già, cởi trói cho ngươi
Vào tới đây, đừng hung hăng ngỗ ngược
Hãy tường khai quê quán họ tên người.
Ông già:
Lão sinh ra chẳng biết họ tên gì
Đời vẫn gọi ta rằng: “Ông lão rượu”
Còn quê hương? Chao ôi! Con linh điểu
Rừng núi nào dung nổi cánh bao la?
Đoá hoàng vân không có đất xây nhà
Theo sự nghiệp anh hùng đi bốn hướng
Đến ngày nay thành rượu ngon rót xuống
Dâng mưa to bão lớn quét trần gian
Thành Phú Xuân chao đảo sắp rơi tàn
Dưới mũi kiếm Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ!
Thị lang:
Đó là giặc, cấm nhà ngươi ca tụng.
Ông già:
Đó là giặc nhưng nghiêng trời trí dũng
Cũng làm vua mà lại biết thương dân
Hàng trăm năm ta mới gặp một lần
Đó là giặc. Biết ai không là giặc?
Một nước nhỏ mà phân chia Nam Bắc
Xâu xé nhau vì hai chữ lợi danh
Tam vương, ngũ đế, cướp đất phá thành
Mấy trăm năm nghe dân tình xao xác
Thay cái đạo làm người bằng giáo mác
Yến ! ẩm lầu cao… xương máu chan hòa Đấng cao xanh tủi thẹn chót sinh ra
Giống quái vật lấy tên là vua chúa Nên phải có người hát ngao đây đó
Trốn ra ngoài rơm rác của cuộc đời
Ta thấy ai vừa thắng trận lên ngôi Ai là giặc? – Mà ai không là giặc?
(Cười khà khà)
Thị lang:
Quân sĩ đâu? hãy nọc tên lão tặc Đánh trăm roi cho biết phép triều đình.
Vũ tướng quân (giơ tay ngăn Thị lang):
Xin đại nhân hãy dẹp nỗi bất bình
Người tuổi tác đã sắp về cõi thọ.
Ông già (quay lại nhìn Vũ tướng quân):
Ai đấy nhỉ, mà uy nghi áo mũ
Dám can ngăn nộ khí của hình quan?
Thôi lão nhớ rồi! (cười lớn)
A! Chức trọng quan sang
Thay nét mặt nhanh bằng tay vẽ phóng!
Ông làm tướng đấy ư? – Vầng trán rộng
Sao ngày nay thấp ngắn bé tèo teo?
Hai mắt ông xưa nhân hậu trong veo
Giờ nẩy lửa! – Cả cái mồm tươi trẻ
Chỉ còn nét vạch ngang trông đúng vẻ
Bậc lược thao dũng liệt của đương triều áo mũ này,
Ông đã tốn bao nhiêu lời nịnh hót? – Thưa ông… ông họ Vũ?
Thị lang (chú ý hơn):
Lão nói gì? – Người lão quen biết cũ?
Ông già (càng đủng đỉnh):
Xưa, tướng quân đi học đạo thánh hiền
Tôi giảng dạy thế nào, ông đã vội quên?
Mà thấm thoát đã nghênh ngang quyền chức?
Hừ, tốt đỏ qua sông, bán sa chi lực!
Lọt vào cung, sĩ tượng cũng lao đao!
Buồn cười thay! Thế sự lật nhào
Tôi tiếc quá ngày ông còn để chỏm!
Thị lang (nham hiểm, quát mắng):
Làm nhục Vũ tướng quân là tộ! i lớn Không thể dung tha! Ngươi nói lại đi!
Người làm thầy Tây Sơn giảng dạy những gì
cho bọn đầu xanh?
Vũ tướng quân:
Cụ già nhầm đấy
Tôi biết cụ là ai đâu!
Ông già (cười sằng sặc):
Đúng vậy!
Làm tướng Nguyễn Triều, sao biết được ta!
Ngồi lầu cao, mắt bé bỗng đâm loà
Biết sao được ta là ai!
(Giơ tay chỉ thẳng vào mặt Vũ tướng quân, gọi to)
Vũ Văn Giỏi!
Đúng tên tiểu sinh ngày mười sáu tuổi
Cắp sách học ta, học đạo thương dân
Đạo làm người! – Ai đã học chữ “nhân”
Đều từ chối không làm quan triều Nguyễn
Chỉ có ông, học mấy pho kinh điển
Rút được ra hai chữ “lợi” và “danh”
Hai chữ vàng biến hoá rất nhanh
Đã thành chữ bất nhân! Vô sỉ!
(Vũ tướng quân định cử động, bỗng lại ngồi im, đau đớn, cắn môi. Công đường lặng đi một phút nặng nề)
Thị lang:
Hãy khai thực những ai cùng theo Ngụy
Ta tâu vua sẽ giảm tội cho ngươi.
Ông già:
Làm giặc ư? Sao lại hỏi mình tôi?
Người làm loạn là những người phẫn uất
Vì chính sự bạo tàn. Ôi! Nước mắt
bao nhiêu lần rỏ xuống những hồn oan?
Chính sự gì đi cầu viện ngoại bang
về tàn sát những người dân vô tội?
Ông Nguyễn Huệ ngày xưa đi bốn cõi
Chia kho tàng Trịnh Nguyễn cho muôn dân
Đến ngày nay ai là lũ bất nhân
đã cướp hết quả ngon vườn tươi tốt?
Chính sự gì? Lũ dã man, ngu dốt
Giết hiền tài, ưa xiểm nịnh, nạt dân lành?
Thị lang:
Cắt lưỡi đ! i!
Tham tri:
Đại nhân đừng phẫn nộ
Dùng cực hình là hành vi man rợ!
Ông già (lại giọng say):
Nơi kinh kỳ có chủ quán bao dong
Mời ta uống mỗi ngày ba nậm rượu
Đời đẹp quá, trong mùi hương mỹ tửu
Riêng chiều qua, lão cạn bốn vò đầy
Đến bây giờ, có lẽ vẫn còn say
Mắc bệnh rượu nên ta buồn ta khóc
Nghĩ tủi nhục cho non sông gấm vóc!
Thị lang (tuốt gươm trên án):
Lão già này xấc láo, chẳng mềm gan
Chém phăng đi cho hết giống nói càn!
Tham tri (gạt đi):
Quân sĩ đâu? – Giam ông già vào ngục
Chờ tỉnh rượu sẽ hỏi ra sự thực.
Ông già:
Đừng chờ ta tỉnh rượu ở đời này
Ta còn say đến khi về đất lạnh
Đầu ta rụng nhưng hồn ta lanh lảnh
Cười các ngươi toàn một lũ vô lương.
(Lính lôi tuột ông già đi)
Đoạn 4
(Đội trưởng dẫn Kiều Loan vào – Nàng đến giữa công đường,
nhìn thấy Vũ tướng quân bỗng đau đớn, ứa nước mắt.
Vũ Tướng quân quay đi, cố giấu nét nét mặt quằn quại.
Một lát, Kiều Loan cười chua chát)
Kiều Loan:
Các quan đem tôi đi lăng trì tùng xẻo
Hơn bắt tôi nhìn sự thực hiển nhiên
Đến chỗ này mới thật là địa ngục
Lửa vạc dầu đây! Ma quỷ kề bên!
Tham tri:
Tôi cởi trói cho cô nương – thân phận yếu mềm
Đã quằn quại từ đêm kia trong ngục tối!
Thị lang:
Cô gái kia! Quỳ đây, nghe xử tội.
Kiều Loan (chợt mơ màng):
Tôi chỉ biết quỳ trước mặt chồng
Ngày xưa… khi nắng rạng thư phòng
Khuyên chàng cố học làm danh tướng
Cái nghĩa phu thế chớ bận lòng
Hôm nay, sắp sửa đầu rơi xuống
Tôi nhớ chồng tôi cách núi sông
Vậy cũng xin quỳ nghe vó ngựa
Chúc mừng danh tướng đã nên công.
Chàng ngồi chót vót trên đầu núi
Thiếp đứng chân trời mỏi mắt trông
Cũng muốn theo gương người hoá đá
Nhưng chồng tôi có cũng bằng không!
(Nàng quỳ trước mặt Vũ tướng quân. Vũ cố quay đi nữa,
rắn mặt lại. Kiều Loan khóc nức nở ngay)
Thị lang:
Khóc làm chi, loài nhi nữ yếu hèn
Sao cũng đi quấy rối cuộc bình yên
Làm nao núng lòng dân bằng tiếng hát?
Kiều Loan (quay phắt lại, giọng đanh thép):
Tôi hát chơi cái thế tình đen bạc
(Chỉ vào mặt Thị lang)
Chồng ngồi kia mà chẳng dám nhìn nhau!
Chàng nên khanh tướng công hầu
Vợ hiền yêu quý sắp ! mất đầu vì nỗi nhớ thương.
(Lê đến chân Hình Tham tri)
Có lẽ nào chàng mất hết tình thương
Hay núi lở đã lấp đầy bể ái?
Thị lang:
Cô ả này thật vô cùng rồ dại
Chết đến nơi còn rỡn cả công đường.
Kiều Loan:
Từ độ ấy khóm trúc vàng ngơ ngẩn
đuổi tôi đi cùng mấy lá tà dương
Qua kinh đô tôi tìm chồng chẳng thấy
Xin các quan cho biết: chồng tôi đâu?
(Im lặng)
Tôi chênh vênh một bóng đèn run rẩy
Đợi người xưa, sương gió bạc phơ đầu
Rồi một buổi tôi cài rêu cửa lạnh
Bỏ vườn hoang nằm khóc bóng trăng mờ
Bỏ đàn chim trong căn nhà hiu quạnh
Xé lụa vàng, tôi đập nát guồng tơ.
Tôi thành điên, tôi bồng bềnh giọng hát
Tôi tìm chồng qua non nước đìu hiu
(Chỉ Vũ tướng quân)
Chồng tôi đây! Cớ sao chàng đổi khác?
(Chỉ Hiệu úy)
Chồng tôi đây! Đôi mắt đẫm thương yêu.
(Chỉ hai Hình quan)
Chồng tôi kia! Này hai ông Tư mã
nhìn kỹ xem: con bướm chết bên đường…
Tham tri:
Chồng nàng đâu mà than thở nhớ thương?
Kiều Loan:
Chồng tôi mất từ năm tôi mười tám
Mùa xuân ấy bắt đầu mùa ảm đạm
Tham lợi danh chàng chết đuối quê người
Đêm nào có bóng sao rơi
Khăn tang lệch nửa đời người thê lương
Tiễn đưa chú lái lên đường
Đi buôn áo mũ bán phường đảo điên.
Hiệu uý:
Người mê loạn, hồn không nguôi đau đớn
Máu trôi quanh mái tóc xoã ưu phiền.
Tham tri:
Quan Hiệu uý để yên nàng kể lể
! Lời ch! ua chát nhưng nghẹn đầy ngấn lệ
Nói hết đi, mở rộng tấm lòng đau.
Kiều Loan:
Chàng hãy trông: áo rách như mây sầu
Thu đã sang, lòng thiếp đây tê buốt
Chàng ở lầu cao, rèm nhung óng chuốt
Kín màu xanh dương liễu khoá tin hương
Áo giai nhân phủ ấm giấc mơ màng
Ánh đèn hoa lả lơi trên đệm gối
Người vợ cũ lang thang trong bóng tối
Mảnh áo đơn nào phủ kín thân gầy?
Không có ăn, rời rụng cả chân tay
Một buổi sớm buông xuôi hồn đau xót
Vào giữa lúc chàng bừng cơn mộng ngọt
Hé môi cười trong ánh sáng thần tiên
Thị lang (với Vũ tướng quân):
Thưa tướng quân, người ấy thật không điên
Đem nước mắt làm say lòng dân chúng
Vào tới đây say lòng người trí dũng
Nên coi chừng nước mắt của người điên.
Hiệu uý:
Người cầm quân không phải bọn ngu hèn
Để giọt lệ mỹ nhân mờ chí khí
(Với Kiều Loan)
Chồng cô nương chắc hẳn là dũng sĩ?
Chàng ở đâu sao có thể lỗi nguyền?
Kiều Loan:
Tôi đặt tên chồng tôi là: phản bội!
Thị lang:
Chính nhà ngươi mới thật là có tội
Gần điện vua, ca tụng kẻ anh hùng
Nói những lời như nhắc nhở núi sông
Nhớ lại cái vinh quang người đã chết
Đã là giặc, và nhất là đã giết
Ba đời vua, để dựng cái ngai vàng.
Hiệu uý:
Thưa đại nhân, nàng là người đau khổ
Vì nhớ thương, hờn giận đã thành điên.
Thị lang:
Việc quốc gia, tôi chẳng dám làm phiền
Quan Hiệu úy.
Hiệu uý:
Xin đại nhân ! xét kỹ!
Mất tình yêu nàng thành ra mất trí
Chứ một người như cánh bướm mong manh
Theo làm sao cơn gió lốc đao binh?
Thị lang:
Quan Hiệu uý vì đêm qua bận ngủ
Không được nghe bao nhiêu lời càn rỡ
thốt ra từ cái miệng đẹp như hoa
Lời cung khai còn đó, mực chưa nhoà
(Giơ tập hồ sơ nhìn Vũ tướng quân)
Chồng cô ả, thưa ngài, là ngụy đế
Tiếc người cũ, vương phi đem giọt lệ
làm xôn xao tấc dạ bọn dân ngu.
Tham tri:
Nàng phải chăng người sùng ái của ông vua
đã xây dựng nghiệp Tây Sơn thuở trước?
Kiều Loan:
Tôi nói thế mà có người tin được
Ôi thương ôi! chính trị đất Nam Hà
Nghĩ đáng buồn cho đứa trẻ lên ba!
Hiệu uý:
Thưa đại nhân, người điên không lẽ phải
Tôi dám quyết nàng là người vô tội
Chỉ biết sầu khi nguyệt chếch phòng khuê
Mà người yêu đi mãi không quay về.
Thị lang:
Người đã biết những gì về bọn giặc
ở Nghệ An ? Lũ tàn quân đất Bắc
còn những ai đầu rắn nối thân lươn?
Và hiện giờ lẩn lút ở Trường Sơn
Ngoài việc cướp còn làm gì thêm nữa?
Kiều Loan:
Tôi chỉ biết ngày xưa ông Nguyễn Huệ
Đẹp nguy nga như vầng nhật lên ngôi
Cao tít mù như sao sáng giữa trời
Đức vô lượng như nắng tràn bốn cõi
Tham tri:
Sở Bá Vương coi nhỏ đất Giang Đông
Suốt một đời nên sự nghiệp gì không?
Kiều Loan:
Dẹp hết ba mươi vạn quân hùm sói
Thì ngài khởi công dựng một toà lầu
Tường vàng, ngói đỏ, cột ! ngọc, r! èm châu
Êm ái nhung tơ, huy hoàng gấm vóc
Vườn ruộng mênh mông, lúa ngô đã mọc
Quân sĩ anh hùng gìn giữ nước non
Đó là nơi ngài chăm chỉ đèn hương
Cầu trời phật cho toà lầu chóng lớn
Nhưng có lẽ đấng cao xanh chẳng muốn
để Quang Trung tài đoạt cả mệnh trời
Ông ấy đánh ghen một trận tơi bời
Bốn mươi tuổi, đấng anh hùng đoản mệnh.
Thị lang (bĩu môi):
Và vương phi một sớm hoá người điên
Đi bốn phương cổ vũ bọn ngu hèn!
Tham tri:
Đến bây giờ lầu ấy có còn không?
Hay đã phai hình ảnh khắc trong lòng?
Kiều Loan:
Tít phương xa có một con hổ xám
Chỉ lăm le đến làm chủ toà lầu
Nên vợ chồng tôi bàn định cùng nhau
Sẽ nối trí anh hùng xây dựng lại
Chồng tôi đi tưởng đem tài vĩ đại
chữa toà lầu và đắp mãi lên cao
Tôi ở nhà, một sớm thấy xôn xao
Tiếng làng nước thì thào: “giang sơn đổi chủ”.
Tham tri:
Giang sơn đổi chủ, cô nương có mừng không?
Kiều Loan:
Ô kìa! Chồng tôi xênh xang áo mũ
Gối lên gươm, nằm ngủ trên lầu mây
Lầu của ai mới dựng nước non này?
Thấy khác trước, tôi ngậm ngùi vô hạn
Chao ôi! Vợ chồng ta mười năm ly tán
Thiếp ngẩn ngơ qua những cảnh điêu tàn
Chàng ở nhờ lầu của giặc thênh thang…
Tham tri:
Truyền quân sĩ đưa nàng về chỗ cũ
Cấm các ngươi không được dùng hình cụ
Cho đau thêm chiếc lá đã xa cành.
Kiều Loan:
Đưa đi đâu? – Tôi đứng giữa triều đình
Đòi trả lại chồ! ng tôi (Nàng lay vai Vũ tướng quân)
Ông Vũ Văn Giỏi
Ông đấy ư? Ông là người có tội
Đã cướp chồng tôi!
(Nàng hét lên, ngã ngất xuống, mọi người xúm lại)
Thị lang (lay gọi Kiều Loan):
Tỉnh lại! Phu nhân!
Đó, vợ của ngài, Chưởng vệ Vũ tướng quân
Ngài đã nhận ra chưa?
Vũ tướng quân (run run)
Tôi không biết!
Thị lang:
Ngài không biết? – Nhưng chúa công hiểu hết
Vợ của ngài làm loạn ở kinh thành
Ngài cầm vạn quân tinh nhuệ của triều đình
Liệu có phải là nội công, ngoại kích?
Vũ tướng quân (đỏ mặt, rút gươm)
Đừng vu cáo! Thanh gươm này vô địch
Có thể soi vào gan ruột đại nhân!
Hiệu uý:
Trông người điên đã tỉnh lại dần dần
Mắt hé
Đoạn 5
Thị lang:
Tội hai người xét kỹ đã rành rành
Ông lão già lố lăng và ngạo mạn
Là thủ lĩnh những bọn người phiến loạn
Về kinh đô phá rối cuộc trị an
Đi khắp nơi ca tụng bóng phai tàn
của tên giặc đã giết bao vua chúa
Đầu phản nghịch cần phải bêu giữa chợ
Cho bọn người khinh bạc đến soi gương
Cho lòng dân yên tĩnh đạo cương thường.
Tham tri:
Còn cô gái?
Thi lang:
Cứ cho rằng là hậu phi ngụy đế
Là Bao Tự, Tây Thi, là Đát Kỷ
Làm siêu lòng dũng sĩ với văn nhân
Đem thi ca tình cảm chuốc lòng dân
Hòng gây lại cơ đồ cho Tây ngụy
Nếu để mặc người điên đi vạn lý
Hát nghêu ngao và cười khóc nỉ non
Thì có ngày nghiêng đổ dãy Trường Sơn
Thành Phú Xuân ngất chín từng khói lửa
Bọn giặc trời lại tung hoành phen nữa
Lũ văn nhân thì bìu díu thê nhi
Vét bạc vàng, sợ chết rủ nhau đi
Bọn dũng sĩ hoài thân trong tử địa
Uổng một đời không làm nên đại nghĩa
Mà chết vì nước mắt của người điên.
Tham tri:
Xin đại nhân chớ vội vàng lên án
Cửa miệng dân gian không thiếu những điều
Ca tụng Tây Sơn, oán trách đương triều
Dân oán hận phải tìm ra gốc ngọn
Đây là Kiệt Trụ hay đây là Nghiêu Thuấn?
Chúa thượng nhân từ sao oán hận không nguôi?
Như lão già say mượn chén u hoài
Thân hàn sĩ chán vương hầu đế bá
Sự phẫn uất chất đầy sân nho giả
Gót hung đồ đạp đổ nếp tiền nhân
Nhà Tây Sơn dấy nghiệp được lòng dân
Lão tin tưởng vào đường gươm vạn thắn! g
Lòng trung liệt những chờ mưa đợi nắng
Mong non sông vươn tới cõi cao xa
Đang ước mơ, chợt Nguyễn Huệ thăng hà
Thôi đổ sụp bao nhiêu tầng oanh liệt!
Nghiệp Tây Sơn đang dần dần tự diệt
Mượn bầu men, lão nhớ thuở oai hùng
Và gieo sầu lên cây cỏ non sông
Lão thương tiếc phải đâu là có tội?
Dù khinh mạn, nhưng cuộc đời biến đổi
Ai mà không chua chát ở tròng lòng?
Chứ cánh tay người tuổi tác cô trung
chỉ đủ sức nghiêng một bình rượu quý!
Hiệu uý:
Quan Tham tri nói thực là chí lý
Lão là người mượn rượu để u hoài
Ta cứ mời ông lão rong chơi
Dạo khắp cảnh nước non thanh tú
Mặc người say bạn bầu cùng thơ phú
Rượu đầy vò, nước mắt sẽ dần vơi
Và bóng hình Nguyễn Huệ sẽ tàn rơi
Theo ánh nắng mùa xuân nhoà kỷ niệm
Tham tri:
Còn cô gái, ôi dung nhan kiều diễm
Chót lầm sinh vào thế kỷ loạn ly
Nên có người dám ví với Tây Thi
và Đát Kỷ, làm nghiêng thành đổ nước
Hồn cao rộng, trời mây nào sánh được
Trao tay chồng gươm báu giữ giang san
Nơi quê hương chờ nhạc ngựa khải hoàn
Bao nhiêu năm không bay về cánh nhạn
Bên gối mộng đã vắng người bầu bạn
Lại thấy ngày tàn tạ của Tây Sơn
Một sớm kia, nàng ngơ ngẩn lên đường
Tìm người cũ, hồn điên vì tưởng nhớ
Mộng vĩ đại thuở vinh quang rực rỡ
Đã tàn theo bóng dáng của người yêu
Đến kinh đô một buổi nắng nghiêng chiều
Lòng tê tái rung lên thành tiếng hát
Người đau khổ, toàn thân là nước mắt
Mà bảo rằng! làm lo�! ��n, ôi oan khiên !
Kết tội người điên, phép nước cũng thành điên!
Hiệu uý:
Quan Tham tri nói thực là chí lý
Kết tội người điên quả là mất trí
Hồn cô đơn lồng lộng gió thương yêu
Lòng thiết tha hoài cảm biết bao nhiêu
Theo thiển ý, cứ mời cô gái nọ
đến một cảnh trời hoa xuân đương nở
Và tìm cho cô gái người chồng xưa
Thì hết điên và hết nói vẩn vơ.
Tham tri:
Còn đến chuyện xui dân hèn khởi loạn
Bằng nhan sắc, bằng thi ca tình cảm
Thì hai người không lấy được lòng tin
của muôn dân đang muốn hưởng bình yên
Hai người ấy là kỳ hoa dị thảo
Mọc đường xa từ một chiều gió bão
Ta nhìn chơi không chắc đã hại gì
Ai đành tâm đem lưỡi kiếm giết đi?
Sự chém giết đã não lòng dân nước
Ai trị dân làm cho dân khiếp nhược
Và oán hờn, là thế tất suy vong
Từ đầu năm giặc giã nổi như ong
Vì khắp xứ treo rất nhiều thủ cấp
Các doanh trấn còn xây thêm ngục thất
Thì bọn người vào ngục cứ tăng thêm
Sự trị an cần giữ lấy uy nghiêm
Nhưng nguyên lý vẫn chỉ là nhân đức
Vua đã vậy, còn những người quyền chức
Cứ ra oai, thích chém lắm đầu người
Thì đầu mình, rụng cũng nhanh thôi.
Thị lang:
Quan tham tri đừng dài lời ngụy biện
Đầu không rụng, không hết mầm chinh chiến
(Hạ giọng nói với Vũ tướng quân)
Về việc này, theo tôn ý tướng quân
Có nên dùng hình luật chém tội nhân
Hay thả hổ về khu rừng đất Bắc?
Vũ tướng quân (bàng hoàng):
Cái án nà! y… ! tuỳ hai ngài cân nhắc…
Thị lang:
Không thể nào tha thứ bọn giặc già
Vẫn rắp tâm làm rối loạn sơn hà
Tôi xuống án: Giết hai người do thám!
Sáng sớm mai sẽ đem ra xử trảm
(Với Tham tri)
Mời đại nhân phê vào án tử hình.
Tham tri:
Tôi dám đâu đem tài hèn trí thiển
Xét tội người cùng với bậc cao minh!
Tôi không phê, ngài xử lấy một mình!
Thị lang:
Quan Tham tri chạy theo đà của giặc!
Tham tri (giận dữ):
Ngài dám bảo tôi đây là phản trắc?
Thị lang:
Vì xưa kia ông ăn lộc Tây Sơn
Khi chúa công chiếm lại thành Quy Nhơn
Ông khúm núm ra hàng cầu áo mũ
Hiệu uý:
Không ai khen những người đem chuyện cũ
Khích bác nhau! Tôi biết quan Tham tri
Về theo chúa công lúc đó, chỉ vì
Có tài năng mong giúp dân dựng nước
Quyết không phải vì tranh giành quyền tước
Như đại nhân!
Thị lang:
Quan Hiệu uý thanh niên
Nên trọng người mái tóc trắng pha đen
Hiệu uý:
Tuổi tuy ít nhưng trí này chẳng hẹp
Trí đại nhân là một vũng ao tù
Thị lang:
Tôi không ngờ quan Hiệu uý cũng về hùa
Với lũ giặc!
Hiệu uý (tuốt kiếm):
Đừng nói lời càn rỡ
Gươm danh dự không bao giờ tha thứ!
(Định chém Thị lang)
Vũ tướng quân (ngăn lại):
Nơi công đường không phải chỗ làm càn
Không trị mình sao trị nổi giang san?
(Với hai Hình quan)
Cái án này khó tìm ra manh mối
Vì sự thực hai người đều vô tội
Họ lang thang hát nhảm ở bên đường
Như ông già mượn chén nói ngông cuồng
Còn thiếu phụ chỉ là người mơ mộng
Nhưng dù sao, họ đã là những bóng
Những lá vàng rớt lại của Tây Sơn
Ta há nên giữ mãi mối căm hờn
Với những kẻ chỉ hão huyền thương tiếc?
Thị lang:
Đó là giặc, tôi tưởng cần phải giết?
Vũ tướng quân:
Lẽ cố nhiên, nhưng chớ giết vội vàng
Ta chưa tìm ra tang chứng rõ ràng.
Thị lang (cười gằn):
Vừa lúc trước đây, tướng quân đanh thép
Mà bây giờ… hừ… gớm thay sắc đẹp!
Hiệu uý:
Nào ai mê vì sắc đẹp nghiêng trời
Nhưng phải tha, vì vô tội, cả hai người!
Thị lang:
Họ còn sống, họ còn gây chinh chiến
Vũ tướng quân:
Hai đại nhân chỉ nên vào nội điện
Để đem trình Ngự lãm xét việc này
Thị lang:
Vâng, phải trình Ngự lãm, thế cũng hay
Lệnh Chúa thượng sẽ không ai bàn cãi
Chỉ ngài Ngự mới tìm ra lẽ phải
Chúng tôi xin vâng ý Vũ tướng quâ! n
(Quay sang Tham tri)
Ta phải vào bệ kiến. Mời đại nhân !
Tham tri:
Lẽ dĩ nhiên tôi phải vào trong nội
Lấy gươm sắc nhà vua ra xử tội
Ai dèm pha sỉ nhục một hàng thần ?
Thị lang (ngạo nghễ):
Tôi xin chờ gươm sắc của đại nhân.
(Thị lang giơ tay. Tham tri đỏ mặt đi nhanh.
Thị lang vênh váo nhìn Hiệu uý rồi đi sau)
Hạ màn
Phần 3
Đoạn 1
Hiệu uý (theo gót Vũ tướng quân đi quanh quẩn):
Thưa chủ tướng…
Vũ tướng quân (như nói một mình):
Đầu rơi ngoài bãi chợ
Thật không ngờ… Từ nay, vòng rực rỡ
của vinh quang, sắp khép lại rồi chăng?
Hiệu uý:
Cả trời
Thưa chủ tướng, ngài có chi phiền muộn?
(Im lặng)
Hay chủ tướng nhớ những mùa bay lượn
Gió muôn trùng cao tiếng gọi muôn phương?
Nhưng đêm nay đoàn binh sĩ lên đường
ánh lửa trại nồng reo lời tạm biệt
Tiểu tướng nghe: miền Hoá Châu xanh biếc
Khói lửa còn mù mịt các thành xa
ánh gươm đao còn múa bóng trăng tà
Trong các giải rừng sâu miền Nghệ Tĩnh
Biết bao giờ cho bốn phương bình định
Ngựa tướng quân đều nhịp trên cầu son?
Vũ tướng quân:
Ta thoáng trông như có bóng hoàng hôn
Đã đổ xuống – Lòng ta run với nắng
Hiệu uý:
Giặc chưa hết, gánh binh nhung còn nặng
Nhưng bao nhiêu mộng đẹp lúc đăng trình
Vũ tướng quân:
Đường tuy đẹp, lòng ta không đẹp nữa
Từ sớm nay, xứ ưu phiền mở cửa
Đón ta vào thương khóc những ngày xưa
Hiệu uý:
Tâm sự chi u uất tự bao giờ?
Xin chủ tướng ngỏ xem lòng ảo não
Vũ tướng quân:
Từ sớm nay lòng ta cuồng gió bão
Hỡi Kiều Loan! Ta mất hẳn em rồi…!
Hiệu uý:
Thưa chủ tướng, Kiều Loan, người điên dại
Người tuyệt sắc từ phương xa mới lại
Ngập công đường nước mắt nhớ người xưa?
Nàng là ai?
Vũ tướng quân:
Nàng chính là vợ cũ
của một người đã yên bề áo mũ
Đã phụ tình và lỗi hẹn ngày xanh
Hiệu uý:
Thật không ngờ…
Vũ tướng quân:
Mười năm trời cũ còn xanh biếc
Càng xa xôi, càng thắm lòng yêu
Sớm nay vọng lại thời thơ trẻ
Tha thướt trời xa dáng lệ kiều
Bạn với gươm đao khuây nỗi nhớ
Mình ta khóc sớm lại thương chiều…
Hiệu uý:
Không có lẽ phu nhân mà phải chết?
Ai dám xé một bông hoa diễm tuyệt?
Vì tướng quân là trung nghĩa của triều đình
Cầm trong tay hơn một vạn hùng binh.
Vũ tướng quân:
Ta nhớ ngày xưa, thân còn đói rét
Cha mẹ qua đời, họ hàng bỏ hết
Ngày đi chăn ngựa, tối ngủ chuồng trâu
Miếng cơm, manh áo, nghìn vạn lo âu
Nàng từ chối bạc vàng và lụa gấm
Trao tình yêu cho áo rách hồn đơn.
Hiệu uý:
Chí phu nhân cao đẹp như Trường Sơn
Thua số mệnh, thật muôn đời vô lý!
Vũ tướng quân:
Tình ngày xưa thật bao la như bể
Ta ốm đau ròng rã một năm dài
Thuốc như rừng mà son sắt không phai
Tay vuốt ve, nàng ru say con bệnh
Dò hơi thở để cầu xin số mệnh
Dựng thân tơ nâng đỡ xác hao mòn
Mải nuôi chồng, quên nhan sắc héo hon.
Hiệu uý:
Thưa chủ tướng, vì sao mà cách biệt
Những mười năm, để bây giờ đợi chết?
Vũ tướng quân:
Nàng khuyên ta chăm học đạo thánh hiền
Thâu đất trời bao nghĩa lý vô biên
Những sớm lạnh hoặc những chiều mưa gió
Ta luyện tập theo năm thầy dạy võ
Và đèn khuya làm bạn với binh thư…
Bờ Châu Giang, dòng nước trắng tiễn đưa
Ta lên đường trong mùa xuân tươi sáng
Thề với nàng sẽ tôn phù Quang Toản
Vua Quang Trung lúc ấy mới băng hà.
Hiệu uý:
Nhưng vì sao rồi tướng quân đổ! i chí Để ngày nay tan tác mộng ngày xanh?
Vũ tướng quân:
Một ngày kia sắp đến Phượng hoàng thành
Ta bỗng gặp một ông già ẩn sĩ
Núi La Sơn – Thấy ta về với Ngụy
Già vạch ngay tội trạng Bùi Đắc Tuyên
Cùng bọn gian thần điên đảo lộng quyền
Đã xoá sạch danh thơm và nghĩa lớn
Của Hoàng đế Quang Trung.
Ta hiểu ra bèn đổi hướng
đi vào
Trải mười năm thành nghĩa nặng ơn sâu.
Hiệu uý:
Để ngày nay đã thành người danh tướng
Ngài quên ngay đức hy sinh vô lượng
Để vợ hiền “không áo kín thân gầy
Không có ăn, rời rụng cả chân tay”
Để bây giờ phu nhân nằm ngục tối
Trong việc này, ai là người có tội?
Vũ tướng quân:
Nhưng Kiều Loan, theo công luận triều đình
Lại là người phiến loạn ở kinh thành
Thực khó nghĩ, vì ta còn danh dự
Còn uy quyền, còn tiếng tăm khắp xứ.
Hiệu uý:
Dù thế nào nên nhớ trước, nghĩ sau
Uy quyền kia, danh tiếng ấy, nhờ đâu?
Người quân tử không bao giờ bội nghĩa.
Vũ tướng quân:
Phải, ta không đáng sống trong vòng thiên địa
Nếu một mai trên bãi chợ kinh thành
Máu viết lời oán hận lên trời xanh.
Hiệu uý:
Muốn trọn đạo, phải tìm ra mưu kế
Đưa phu nhân về cuộc đời đẹp đẽ.
Đoạn 2
(Thị lang ở trong cung vua ra)
Thị lang:
Kìa tướng quân đang tư lự điều chi
Quá ngọ rồi, chưa sửa soạn ra đi?
Hiệu uý:
Ngài vào cung, và thù hằn quân giặc
Chắc đã tâu vua, xin chém đầu nữ tặc
và ông già?
Thị lang:
Ngài đoán quả không sai
Đấng chí tôn y án chém hai người.
Vũ tướng quân:
Vua y án?
Thị lang:
Vâng, Chúa công giận lắm
Có quở trách chúng tôi sao để chậm
Không tâu ngay còn xét xử lôi thôi
(Đưa bản án cho hai người xem)
Ngày Nhâm Thìn, ngày Chúa thượng lên ngôi
Sẽ lấy máu hai người ra tế miếu.
Hiệu uý:
Ba ngày nữa
Thị lang:
Vâng, tuỳ ngài định liệu
Còn đủ giờ bênh vực cho người điên
Hiệu uý (tuốt kiếm):
Đừng nói càn (Vũ tướng quân ngăn lại)
Người tóc trắng pha đen
Nói không nghĩ!
Vũ tướng quân:
Mời ngài về tư thất
Hiệu uý (vẫn tức giận):
Một tay ông làm rụng bao thủ cấp
Bao hồn oan xoã tóc đã hàm oan!
Thị lang (cười nhạt):
Ấy thế mà thiên hạ vẫn chưa an
Quan Hiệu uý còn nằm sương ngủ tuyết!
Hiệu uý:
Làm hình quan, vụ nào ông cũng giết
Để leo thang danh vọng chóng hơn người!
Vũ tướng quân:
Mời đại nhân về tư thất nghỉ ngơi
Bọn chúng ta đều một lòng vì nước.
(Thị lang đi vài bước, ngập ngừng)
Thị lang:
Tôi có chuyện riêng muốn ngỏ cùng tướng quân
Vũ tướng quân:
Xin cứ nói
! (Thị lang nhìn Hiệu uý, chần chừ)
Hiệu uý:
Vâng, tôi xin lánh mặt
Để quan lớn được yên tâm bày đặt
những trò hề!
(Đi nhanh về phía bên phải)
Thị lang:
Quan Hiệu uý thật hàm hồ…
Vũ tướng quân:
Người tuổi còn non không biết mưu cơ
Lòng thẳng dạ ngay, đại nhân đừng chấp.
Đoạn 3
Thị lang:
Chắc tướng quân đang buồn phiền…
Vũ tướng quân:
Quả thật
Tôi đang buồn – Buồn cái cảnh triều đình
Thị lang (cười nụ):
Hay đang lo vì một mối ẩn tình?
Đáng lo thật! Vì… “chuyện quan Chưởng vệ”
“Vũ tướng quân, có một người vợ trẻ”
“Người vợ điên nổi loạn chống triều đình”
Đã thành chuyện dân gian huyên náo kinh thành
Người ta nói: Vũ tướng quân làm phản!
Người lại đồn: cô gái ấy hại chồng!
Có kẻ suy ra: kinh đô sắp loạn
Vội bế vợ bồng con đi lánh nạn
Chuyện đồn đi như bão nổi ngoài sông!
Vũ tướng quân:
Lạ gì dân gian có một đồn mười
Thật đáng khen ai khéo dệt nên lời
Chuyện tơ tóc thổi lên thành quả núi!
Thị lang:
Tôi đã vào cung, nghe lời xét tội
Của Chúa công! – thật phúc cho thần dân
Kẻ tầm thường như tôi, mắt bé nhìn gần
Đâu sánh được đức trông xa thấy rộng
Của nhà vua!
Vũ tướng quân:
Chúa thượng phán làm sao?
Thị lang:
Ngài ngự truyền: “Phải dẹp tắt chuyện rêu rao
Lời đồn đại! – Phải giữ gìn phẩm giá
Cho tướng quân!” Ngài ngự truyền… (Lạ quá!
Tôi theo hầu Chúa công từ lúc thiếu niên
Nay mới biết ngài là một bậc vua hiền
Một đấng chí nhân! Đại hiền! Đại đức!)
Ngài ngự truyền: Cụ già là thầy học
(Ai làm quan cũng phải trọng ông thầy)
Tội theo Tây Sơn đáng phải chém ngay
Nhưng đã có tài giảng về đạo lý
�! �ào tạo học trò trở nên dũng sĩ
Biết cách phò vua, nên được khoan dung
Vũ tướng quân:
Thế rồi sao? – Còn thiếu phụ điên cuồng?
Thị lang:
Ngài ngự truyền: đây gái đẹp Tây Sơn
về nhũng nhiễu kinh thành. Nhưng xét kỹ
Quan Chưởng vệ mười năm xa vợ quý
Biết gác tình riêng, thờ chúa, lập công to
Vợ trung thần, dù có tội, cũng tha cho!
Ngài ngự lại truyền: Thượng thư bộ Lễ
(ối chao ôi! Thật là ơn trời bể)
Sắc phong ngay bà Ngũ phẩm phu nhân!
Lại ban cho vàng mười nén, bạc trăm cân!
(Kém lời hứa của tôi có một trật)
Vũ tướng quân:
Còn án tử hình kia?
Thị lang:
Là chiểu theo hình luật
Chúa ngự phê cho phải phép triều đình
Rồi sẽ tha – Nhưng muốn được công minh
Cần phải có chữ tướng quân nhận thực
Vào bản hồ sơ
Vũ tướng quân:
Sao ông lừa lọc bắt tôi nhận liều?
Thị lang (đủng đỉnh):
Tuỳ ý tướng quân!
Vì Chúa công muốn tỏ rõ lòng nhân
Cho thiên hạ: đấy lão già ngạo mạn
Và thiếu phụ cầm đầu quân nổi loạn
Tội bằng trời, đáng lẽ phải trôi sông
Thiên tử không quên danh tướng lập nhiều công
Cần giả nghĩa thầy trò, trọn tình vợ cũ
Nên đã tha rồi! – Lời đồn đi khắp xứ
Đức độ Chúa công sẽ cảm hoá lòng người!
Vũ tướng quân:
Tôi không hiểu!
Thị lang (mở nắp hộp son, đã sẵn bút nghiên, nâng hai tay
Trước mặt Vũ tướng quân)
Giấy mực sẵn đây rồi!
Ngài chỉ ký tên vào là! ổn chu! yện
Cửa ngục mở: lão già, tuỳ sở nguyện
Muốn làm quan, chúa thượng sẽ bao dong
Muốn về quê, chúa thượng cũng vui lòng
cho ngựa cưỡi với lương ăn đầy đủ.
Vũ tướng quân (ngần ngừ):
Không có lẽ! …
Thị lang:
Còn toà lầu bến Ngự
Lầu Phượng hoa, chờ đón rước phu nhân
Vũ tướng quân (lo lắng):
Chúa phán gì về tôi không nhỉ?
Thị lang:
Tướng quân?
Đấng chí tôn không mảy may ngờ vực
Ai dám ngờ oan một người trung thực
Một tướng tài trăm trận thắng Tây Sơn!
Vũ tướng quân (băn khoăn):
Nhận vào đây? – Được oán hay được ơn?
Thầy? – Không phải! Vợ? – Không! – Đâu vợ cũ?
Thôi! Đại nhân đừng làm phiền tôi nữa!
Thị lang (càng ngọt ngào):
Chúa biết cả rồi! Biết tiếng thở dài
Biết nét mặt buồn, biết giọt lệ rơi
Trên ngực áo người tướng tài trẻ tuổi
Chúa biết hết! – Tướng quân đừng nói dối
Chúa rủ lòng thương, ngài nhận là xong!
Chén rượu lầu Hoa, tình nghĩa vợ chồng
Say ân ái, bõ mười năm cách biệt
Vũ tướng quân:
Chúa thượng ngờ oan. Tôi chỉ còn cái chết
Tỏ lòng trung –
Thị lang:
Tôi là chỗ tình thân
Nói điều hơn lẽ thiệt với tướng quân
Nội hôm nay, nếu ngài không chịu nhận
Thì sáng sớm mai… xin đừng ân hận
Người đẹp kia: bốn ngựa xé tan tành
Lão già kia: thủ cấp treo mặt thành
Còn tướng quân, chắc đâu toàn tính mệnh
Chúa thượng nhân từ, ngài còn khủng khỉnh Lừa! dối vua, man trá với triều đình
Không mất đầu, thì… hàng vạn tinh binh
Chức Chưởng vệ chắc chi còn giữ được!
Thì sao tỏ rõ tấm lòng vì nước
Lận đận thờ vua? – Ngài nghĩ lại xem
Tôi nói đã nhiều… chẳng ép nài thêm.
Vũ tướng quân (bối rối):
Vâng, đại nhân để hồ sơ lại đó
Tôi nghĩ chiều nay!… Ôi chao!… Ai rõ?
Ai chép hồ sơ?…
Thị lang:
Rất hợp ý tôi
Giờ Dậu chiều nay, ngài sẽ trả lời
Vì nửa đêm, ngài đã đi ra trận
(Đưa tập hồ sơ cho Vũ tướng quân)
Hồ sơ đây! chỉ một lời chứng nhận
Là xong xuôi! Xin tạm biệt tướng quân!
(Vào)
Đoạn 4
(Vũ tướng quân xem hồ sơ, lắc đầu.
Một lát, Hiệu uý ra, dáng vội vã)
Hiệu uý:
Tôi nghe đồn sắp chém hai tội nhân
Các quan trong triều xôn xao bàn tán
Bãi chém phía Tây môn, mây u ám
Cỏ dướn mình lên đợi tắm máu người
Phiên chợ chiều nay không họp nữa rồi
Xin chủ tướng nhanh chân vào bệ kiến
Vũ tướng quân (lắc đầu):
Đức chúa thượng, những khi còn giao chiến
Ngài căm hờn quân địch đến vô cùng
Chém tù binh và đóng cũi trôi sông
Những tướng sĩ không kịp giờ tự tận
Nay bắt được hai người thì cơn giận
Của nhà vua càng thêm nỗi kinh hoàng
Hiệu uý:
Sợ cơn giận nhà vua để mất Kiều Loan
Cách xử sự người anh hùng không thế!
Hay tướng quân để tôi vào trước bệ
Tâu Chúa công: người đó đã chăm nuôi
Đã thương yêu, đã đem cả cuộc đời
Từ trứng nước, tạo nên người danh tướng
Cho nhà vua (bước lên bệ đá )
Vũ tướng quân:
Không! Ngươi im đi! Bước xuống
Việc riêng của ta, vùi kín là xong!
Ta mất Kiều Loan, không thể mất Chúa công
Hiệu uý:
Trả lại triều đình miếng ngon vật quý
Trả lại triều đình gươm vàng ngựa tía
Rồi trở về làm một kẻ thường dân
Có tình thương yêu, có nghĩa có nhân…
Trời ơi ! Sao tôi không gặp tình cảnh ấy?
Giá tôi là tướng quân…
Vũ tướng quân:
Đừng làm bậy! Ơn chúa công dẫu thác chửa báo đền
Dám kể chi tình nhi nữ yếu hèn…
Hiệu uý:
Nửa đêm nay lên đường đi phạt Bắc
Lòng chủ tướng sẽ âm thầm vướng mắc
Hình ảnh người đẫm máu chợ kinh đô
Vũ tướng quân:
Biết làm sao, ta cũng muốn điên rồ
Cười thảm thiết mà quên phăng dĩ vãng
Khóc vô tư cho nguôi niềm ly tán
Rồi thiếp đi trong ác mộng kinh hồn
Kiều Loan ơi! Khi mưa rụng đầu non
Quê hương ấy mịt mù bao tâm sự…!
Hiệu uý:
Ba ngày nữa thì đầu rơi giữa chợ
Máu thơm lừng dâng tôn miếu hoàng gia
Dòng máu kia …
Vũ tướng quân:
Đừng xúc động lòng ta
Từ đêm nay ta say sưa dẹp loạn
Vui với ba quân những cơn hoạn nạn
Lấy vinh quang khoá kín nỗi buồn thương
Hiệu uý:
Nửa đêm nay đoàn binh sĩ lên đường
Tôi cũng theo tướng quân đi đánh trận
Khi núi rừng xa không còn mây vẩn
Khi gió đùa trên bãi nguyệt đầu sông
Tôi lắng nghe tiếng khóc dội trong lòng
Từ chiều qua, xin tướng quân tha thứ
Tôi đã mê vì đã nghe tâm sự
Tôi đã yêu nỗi khổ của người điên
Đẹp như ma trong mớ tóc rối ren
Đẹp rớm máu trong bàn tay rét cóng
Đẹp hồ tinh trong mắt xanh sâu rộng
Trong chuỗi cười ghê rợn động từng mây…
Ôi! Kiều Loan, tiếng hát vẳng đâu đây…
Vũ tướng quân:
Đừng nói nữa, lòng ta đau như cắt
Còn tiếng thơm thì Kiều Loan phải mất!
Theo Chúa công ta phải bỏ người xưa
Để nâng cao danh nghĩa đến bây giờ
(Vũ tướng quân sững sờ, để rơi tập hồ sơ.
Hiệu uý nhặt xem)
Hiệu uý:
Hồ sơ gì đây? – à, đây bản án giết thầy học, giết v�! �� hiền! …
“Phiến loạn!” Khéo đặt điều!
Vũ tướng quân:
Chúa thượng hứa sẽ tha
Dưới bản án này, cần một chữ của ta
Hiệu uý:
Cần tướng quân nhận Kiều Loan, vợ cũ?
Hay nhận Kiều Loan là kẻ địch thù ?
Vũ tướng quân (không tự chủ được nữa):
Ta muốn chết đi, phá vỡ ngục tù
Ngục bằng đá giam người xưa hiền hậu!
Ngục giữa lòng ta bừng bừng sắc máu
Đốt ruột gan! (quờ tay vào đốc kiếm)
Ta muốn chết… là xong!
Hiệu uý (ngăn giữ):
Một nhát gươm là đêm tối hư không
Nhục, vẫn nhục! Vẫn tan tành nghĩa cũ!
Tướng quân cứ nhận đi! – Tình chồng vợ
Đã hiện lên như núi giữa triều đình
Có hèn đâu mà chủ tướng lặng thinh?
Thà để đầu rơi vì mối tình chung thuỷ
Hơn sống co ro dưới mắt quyền thần khinh bỉ!
Tướng quân nhận đi! – Chúa thượng khoan dung
Thì càng hay. Bắt tội cũng vui lòng
Mang xiềng xích, mang ngàn lời xỉ vả
Cất cao đầu mang tình yêu trong dạ
Còn hơn mang vết nhơ: đen bạc, bất nhân!
(Bên ngoài có tiếng hát lơ lớ như tiếng gọi hồn)
Đoạn 5
(Tiếng hát)
Chở gỗ (í a) thiêu người
Còng lưng chở gỗ thiêu người
Chở lên cửa Bắc xây đài lửa cao…
Vợ con, bố mẹ nơi nào
Than âm ỉ cháy không vào nhặt xương
(Một tốp lính gánh củi, khiêng gỗ đi qua sân khấu)
Hiệu uý:
Các ngươi khiêng gỗ đi đâu?
Lính (mấy người lính cùng đáp)
Thưa tướng quân:
Có lệnh trên, chúng tôi xây đài lửa…
Hiệu uý:
Ở đâu? Xây làm gì?
Lính:
Chúng tôi không rõ
Chỉ biết chất cao củi, gỗ để thiêu người
Vũ tướng quân:
Thiêu ai?
Hiệu uý (bảo bọn lính):
Các ngươi lau mồ hôi
Ngồi nghỉ đã
Vũ tướng quân (như điên):
Thiêu ai? Ai đốt lửa?
Hay thiêu cháy lòng ta?
(Vũ tướng quân bỗng nghiến răng, trợn mắt)
Cả thân trâu ngựa
Là chúng bay rồi cũng đến ra gio!
Thiêu ai? – Mà chất củi đến bao giờ
Mới phát hoả? – Ai chết quằn như nướng cá
Hay chính ta đây? – Cút ngay! Đồ khuyển mã!
Ngươi chở gỗ đến đây làm bỏng mắt tao!
Hiệu uý:
Ô kìa, tướng quân, người mê sảng đó sao?
(Với bọn lính)
Cho các ngươi lui
Lính:
Tướng quân lạ quá
Thật khác ngày thường! Khác hẳn ngày thường
(Họ lại đặt gỗ lên vai)
Nào các anh! Khiêng gỗ đến Tây môn!
Xây đài lửa! Còng cái lưng xuống đất!
Mà khiêng đi! Đầu cúi nghiêng, nhắm mắt
Mà khiêng đi! (Họ đi khuất, tiếng hát vọng lại
trầm trầm, lơ lớ)
Tiếng hát:
Vợ con! bố mẹ phương nào
Than âm ỉ cháy không vào nhặt xương
Năm năm lìa bỏ quê hương
Còng lưng chở gỗ biết thương ai cùng?
Đoạn 6
Hiệu uý (chua chát):
Chỉ một buổi sớm mai Bên lòng đau, lửa đốt đến muôn đời.
Vũ tướng quân:
Ai dắt ngươi đi theo ta từng bước
Để nhắc mãi chuyện mềm gan, nát ruột
Ngươi im đi! Hay ta sẽ thành điên?
Hiệu uý:
Nghe thân tơ rền rĩ lửa triền miên
Và đôi mắt nổ tung thành tiếng sét
Mười ngón tay tóe cao lời thống thiết
Tóc sèo sèo cháy mãi đến muôn đời
Còn ai ham sống nữa, Kiều Loan ơi!
Vũ tướng quân:
Ta khuyên ngươi ra đường mà than thở
Đừng van vỉ trên linh hồn tan vỡ
Ôi Kiều Loan, ta cũng muốn điên cuồng
Mà quên đôi mắt thê lương!
Hiệu uý:
Xin chủ tướng vào thăm qua ngục tối
Dù lạnh lùng cũng trông nhau lần cuối
Vì đêm nay, chiến mã đã lên đường,
Nơi kinh kỳ, bỏ lại đống thịt xương
thành gió bụi…
Vũ tướng quân (tĩnh trí dần dần):
Ta phải quên đau khổ
Lao thân mình vào nắng mưa khói lửa
Bỏ một người nhưng cứu được muôn người
Quên nghĩa cũ, nhưng vẹn toàn nghĩa lớn
Đặt danh thơm lên tất cả cuộc đời
Hiệu uý:
Theo nghĩa lớn mà quên người vợ nhỏ
Tìm danh thơm mà vỗ nợ người xưa
Thì nghĩa lớn chỉ còn là sáo ngữ
Uốn còng lưng chống đỡ một ngôi vua
Tôi, trẻ tuổi, trung thành cùng chủ tướng
Xin phá tan cửa ngục cứu phu nhân
Đưa Kiều Loan về quê cũ mùa xuân
Danh dự mới thơm, nghĩa tình mới lớn
Dù phải chết dưới lôi đình Chúa thượng
Tôi không hề than tiếc tuổi hai mươi
Cứu sống Kiều Loan, tôi trọn đ! ạo làm người
Vũ tướng quân (đăm chiêu):
Còn nửa ngày…
Hiệu uý:
Mong tướng quân quả quyết
Còn nửa ngày chọi nhau cùng số kiếp.
Đoạn 7
(Lại có tiếng hát ảo não của một tốp lính khác)
Tiếng hát:
Còng lưng khiêng tấm áo quan
Nặng sao nặng mãi hồn oan oán thù…
(Tốp lính khiêng ra một tấm áo quan màu đỏ)
Vũ tướng quân:
Gì nữa thế này? – Các ngươi khiêng đi đâu
Lính (đặt quan tài xuống):[/i]
Bẩm tướng quân, lệnh hoả tốc phải khiêng mau
Hai chục chiếc quan tài ra bãi chém!
Hiệu uý:
Chém ai?
Lính:
Chúng tôi nào biết đến!
Lệnh bề trên cứ chúi mũi thi hành
Vũ tướng quân:
Khiêng đi đâu? – Đi lối khác! Loài súc sinh!
Bay chôn ai? – áo quan sao có đủ
mà chôn người? – Liệu hồn các ngươi đó!
Chui cả vào quan! Lấp đất là xong!
Chui cả vào!
Lính (sợ hãi):
Quan Chưởng vệ thật lạ lùng!
Hiệu uý:
Các người khiêng nhanh nhanh đi lối khác
Đẹp đẽ gì mà phơi hòm đựng xác
Giữa đường to phố rộng của kinh thành?
Vũ tướng quân (thét lên):
Chui cả vào mà chết rấp cho nhanh
Quân khốn kiếp!
Lính (đặt quan tài lên vai):
Nào khiêng đi lối khác
Thấp đầu xuống! – áo quan bằng gỗ tạp
Mà nặng thế này! Khom mình xuống khiêng đi
Tối về nhà, vợ thấy mặt ngoảnh đi
Tưởng ma hiện!…
(Họ đi khuất rồi, tiếng hát vọng lại)
Tiếng hát:
Còng lưng khiêng tấm áo quan
Nặng sao nặng mãi hồn oan oán thù!…
Đoạn 8
Hiệu uý:
Ngày thường trông thấy máu
Không ghê sợ bằng hôm nay
Trông củi gỗ thiêu người
Trông áo quan chôn những cuộc đời
Tướng quân ôi! Lòng tôi sao lạnh lẽo
Người hãy cứu Kiều Loan.
Lửa nào đã réo ở quanh đây
Vũ tướng quân (giở lại hồ sơ, lẩm bẩm):
Ta ký nhận là xong
Tôi là người chồng! Tôi lạy Chúa công
Tha cho Kiều Loan tội thiêu trên đài lửa
Tha cho tôi tội sống thừa nhục nhã!
Tôi là chồng! Tôi nhận tội!… Xin tha!
Lạy Chúa công! Người mở lượng hải hà
Tôi đã nhận! Máu xối lên đầu bút…
(Viết và ký vào bản hồ sơ)
Hiệu uý (đỡ tập giấy):
Lời nhận tội? – Không! Tình yêu ngùn ngụt
Trên mấy chữ này! – Có tội gì đâu!
Nhận Kiều Loan, cứu vãn mối tình sâu
Lòng trong trắng đẹp như trang giấy mới
Có tội gì đâu mà tướng quân chịu tội?
Vũ tướng quân:
Cái tội của ta là trót làm chồng
Nàng Kiều Loan đau khổ bao năm ròng!…
Đoạn 9
(Tham tri mặt đỏ bừng, ở phía bên phải đi ra
dáng tìm kiếm một vật gì)
Tham tri:
Thưa tướng quân, ngài đứng đây có thấy
Con rắn độc bò đâu rồi - Nó đấy!
Nó bò vào cung, lưỡi đỏ như son
Nó bò qua đây, mắt bé gườm gườm
Phun nọc độc vào những người lương thiện
Nó đâu rồi? – Tôi muốn đem bảo kiếm đập nát đầu!
Hiệu uý:
Ngài tìm quan Thị lang?
Tham tri:
Trước mặt rồng, lưỡi nó uốn dọc ngang
Nó ỏn thót, khéo đặt điều nói nhảm
Nó bảo: tôi đây hùa theo phiến loạn!
Nó bảo: tướng quân làm kế nội công
Cho Tây Sơn nổi dậy phá Hoàng cung!
Ghê gớm thật! Tôi phải tìm giết nó!
Vũ tướng quân:
Chúa nghĩ sao về lời xằng bậy đó?
Tham tri:
Chúa ngồi im. Tôi sợ nhất lúc
Chúa công vẻ mặt trầm ngâm như bức tượng đồng
Vũ tướng quân:
Chúa xưa nay không nghe lời xiểm nịnh.
Tham tri:
Chúa ngồi im, mắt lim dim suy tính
Rồi chúa cười, chỉ nhếch một bên môi
Chúa phán rằng: sẽ tha cả hai người
Chỉ cần tướng quân nhận người điên là vợ
Lão say là thầy! – Mắt vua rực lửa
Hàm bạnh ra, ria mép cứ rung rung
Tôi toát mồ hôi, lạnh buốt sống lưng
Như rắn độc đã cắn vào sau gáy.
Hiệu uý:
Vua tha cả hai người! Quả là đúng vậy!
Vũ tướng quân:
Chúa xưa nay đã có tiếng nhân từ.
Tham tri:
Tôi nhìn Thị lang: Mắt lão lừ lừ
Lão cuộn hồ sơ, hàm răng rít chặt
Tôi rợn người!
Vũ tướ! ng quân:
Tôi đã đọc hồ sơ
Phải! người điên chính thực vợ tôi xưa
Lão già say, chính là thầy học cũ
Tôi đã nhận vào đây, máu in từng chữ
Vì tôi tin độ lượng của nhà vua.
Tham tri (trợn mắt):
Ngài nhận rồi? – Ký nhận bản hồ sơ?
Chết! Chết thật! Thế là ngài
Đoạn 10
Thị Lang:
Kìa các quan đứng cả đây đông đủ
Có việc gì vui chăng? – Bàn tính gì chăng?
Tham tri:
Lão nịnh thần! Lại mở miệng nói xằng!
Thị lang (chậm rãi, cười nham hiểm):
Chắc các ngài đang mưu đồ việc lớn?
(Chợt thấy những mảnh hồ sơ dưới đất)
Này, hồ sơ của tôi, ai xé vụn?
Tướng quân cả gan làm trái lệnh nhà vua?
Vũ tướng quân:
Tôi biết gì? Ông hỏi lắm bằng thừa
Tôi chỉ có một lòng trung gang thép.
Thị lang (nghiến răng):
Ai xé đây?
Tham tri (giọng kiêu hãnh):
Quan Thị lang muốn biết
Ai xé hồ sơ? – Ngài cứ hỏi lương tâm
Ngài định lừa ai, người ấy không nhầm
Phải xé toang cái mưu cơ hiểm độc.
Tôi xé đấy!
Thị lang:
À thì ra loài phản phúc
Trước phản Tây Sơn, nay phản Nguyễn triều!
Tham tri:
Câm mồm ngay! Mi quen giọng nói điêu
Mi trù tính gì trên những dòng vu cáo?
Thêm một nấm mồ, mi thêm mũ áo
Vùi một thây người, mi nuốt thịt ngon
Chém một ông già, mi đẻ thêm con
Cưới thêm vợ trên bao nhiêu hài cốt?
Thang danh vọng, mi định trèo chót vót
Mi nghiến răng đạp dúi cổ bạn đồng liêu
Mi gây ra tang tóc đã nhiều
Nợ xương máu, phải trả bằng xương máu.
Thị lang (bỗng mềm mỏng):
Chính đại nhân đang dùng lời vu cáo
Nói oan cho tôi! – Tôi đâu thích giết người?
Chẳng qua là… họ muốn chết mà thôi
Còn lầu cao, xe ngựa, áo mũ, thịt xôi
Vợ đống con đàn, thì… ai chẳng thế!
(Cười kh! ảy)
Hiệu uý:
Trâng tráo thật!
Tham tri:
Ngươi khom lưng trước bệ Rắn độc là ngươi, trừ diệt cho xong!
(Tuốt gươm. Thị lang hoảng sợ)
Thị lang (kêu thét chạy lên bệ ):
Loạn! Loạn! Loạn! Bay đâu! Lính cấm phòng!
(Tham tri đuổi theo, đâm xộc thanh gươm vào lưng Thị lang.
Kẻ bị đâm ngã xuống và lăn long lóc từ trên bệ cao xuống thềm,
Tham tri quăng thanh gươm ướt máu
Đạp tung cửa chạm rồng, chạy biến vào cung)
Vũ tướng quân (nhìn xác Thị lang ):
Quan Thị lang! Chao ôi! Vì sao vậy?
Một đốm lửa bốc lên thành đám cháy
Cháy ngút trời, cháy lụi cả đời ta!
Hiệu uý (như mê):
Và Kiều Loan rồi cùng sắp thành ma
Chủ tướng ơi! Đời sao đen tối quá!
Không có ngày mai, không còn gì cả
Mất Kiều Loan, đời tịch mịch thê lương
(Cúi mặt, khóc)
Vũ tướng quân (mắt cũng đẫm lệ):
Cứng cỏi lên! Đừng khóc! Đừng buồn!
Dù mất Kiều Loan, ta còn công giúp
Chúa Lòng trung liệt như nắng soi trang sử
Chí làm trai đừng uỷ mị, yếu hèn.
Đoạn 11
(Từ phía nội cung, lính khiêng xác Tham tri ra,
theo sau có một nội quan)
Hiệu uý (đau đớn trông lên):
Cái gì kia? – Thảm quá! Nói sao nên!
Vũ tướng quân (chạy lại):
Quan Tham tri…!
Nội quan (bảo tốp lính):
Lính cấm phòng, tất cả xúm nhau vào khiêng hai cái xác này
Một về phía đông, một về phía tây
Giả lại thân nhân, tuỳ nghi chôn cất
Nhanh tay lên, đừng để đây làm bẩn mắt
Chúa công.
(Tốp lính làm theo lời nội quan và đi khuất sang hai bên)
Hiệu uý:
Thưa vệ công, việc xảy ra
Như thế nào, mà bỗng chốc…! Thật là…
Hai Hình quan…
Nội quan:
Quan Tham tri phản phúc
Đã giết Hình Thị lang, vào thú thực
Với Chúa công. Ngài Ngự mệt, đang nằm
Vội chồm lên, rút bảo kiếm chém, đâm
Nát nhừ cả! Việc xảy ra nhanh quá
Tôi cũng rùng mình!
Vũ tướng quân:
Ngài có nghe… bệ hạ
Truyền lệnh chi về số phận…
Nội quan:
Chúa công
Mắt lim dim lau bảo kiếm vừa xong
Có sai tôi đi tìm quan Hiệu uý.
Hiệu uý:
Tìm tôi? Có việc gì thế nhỉ?
Nội quan:
Bẩm, hạ quan nào biết được ý vua
Ngài vào ngay bệ kiến cho kịp giờ
Chậm một khắc e Chúa công nổi giận.
Hiệu uý (quay sang nói với Vũ tướng quân):
Thưa chủ tướng, việc này tôi quyết đoán
Có kẻ dèm pha. Tôi chết cũng vui lòng
Nếu nhà vua còn độ lượng bao dung
Tôi sẽ được suốt đời theo chủ tướng
Nếu không cách gì thay lòng Chúa thượng Dẫu chết đi, tôi còn cứu vớt đạo làm người.
Vũ tướng quân:
Ta đoán chắc Chúa công cần hỏi kỹ
Về việc binh đêm nay. Nên tĩnh trí
Mà cúi tâu. Khi bệ kiến đã xong,
Về bản doanh. Ta đợi.
Hiệu uý:
Còn người điên?
Món nợ ngày xưa chủ tướng chớ quên
Đừng dìm chết ân nhân trong ngục tối.
Đừng phụ nghĩa bạc tình vì cái mồi danh lợi
Nội quan:
Đức Chúa thượng đang nóng lòng chờ đợi
Mời ngài đi…
(Hiệu uý mạnh dạn bước lên bệ đá, vào nội cung.
Nội quan vái chào Vũ tướng quân rồi theo sau.
Bỗng gần đâu đấy nổi lên một điệu kèn lâm khốc.
Rồi tốp lính khiêng quan tài lúc trước giờ lại khiêng qua sân khấu.
Họ lại hát trầm trầm. Vũ tướng quân lặng lẽ, tâm tư sụp đổ
chệnh choạng rồi ngã quỳ xuống đất )
(Tiếng hát của tốp lính khiêng quan tài)
Tiếng hát bọn lính:
Còng lưng khiêng tấm áo quan
Nặng sao nặng mãi hồn oan oán thù
Mười năm đi lính coi tù
Tự tay đắp lấy nấm mồ tuổi xanh
Vùi vùi lấp lấp bên thành
Chôn bao nhiêu xác…
lượt mình ai chôn?…
(Họ đi khuất hẳn)
Hạ màn
Phần 4
Đoạn 1
… Khuya rồi tiếng hát ai nghe đó ? Cười hộ người điên cuộc đổi thay
Ngay đêm hôm ấy, trong một căn hầm nhà ngục.
Tường đá nặng nề như đè chặt lấy người.
Một cửa giữa, có bậc đá lên mặt đất.
Một cửa bên thông sang hầm bên cạnh.
Trong hầm, một chiếc chõng tre, chỗ nằm của
Người Què. Một bình nước. Đầu chõng: một ngọn nến.
Khi mở màn, văng vẳng tiếng chiêng trống
Từ một bãi pháp trường đang xử trảm tội nhân,
Người Què đang nằm bỗng chống tay ngồi dậy nghe ngóng.
Tiếng chiêng trống mỗi lúc một rõ. Lúc đó vào đầu giờ Tuất.
Người què:
Lại chém người! Chúa Nguyễn lại chém người!
(Một lát)
Khi gà lên chuồng,
Lũ oan hồn rền rĩ khắp non sông
Còn nói chi người giả dại, giả ngông
Lấy men rượu mở tấm lòng khí tiết
Còn nói chi người đề thơ lá biếc
Gửi tin về Chúa cũ sóng đưa veo
Còn nói chi người luyện võ lưng đèo
Đem tuổi trẻ gửi bánh xe vong quốc
Chết là hết! khi bàn cờ tàn cuộc
Thì mặc chàng tiểu tốt tạo thời cơ
Ai khôn ngoan nên vào ngục đợi chờ
Sự thắng bại mặc giời cao xếp đặt.
[B]Tiếng Kiều Loan (bên cạnh hát véo von):[/B]
Sống chật đất, chết thêm dầy đất
Thà tan theo trăng rõi chân mây
Tìm hơi thở cũ mà say
Hát trên nội cỏ với bầy ma thiêng.
Người què (cười):
Giọng hát những người điên
Nghe ra nhiều lý thú
Bây giờ chưa muốn ngủ
Thì mời bạn sang chơi
Gây lấy một cuộc cười
Cho nhà tù đỡ rét
(Chợt buồn r�! ��u, se sẽ ngâm)
Ba năm chẳng biết giăng tròn khuyết
Đêm nay giăng xế đến đâu rồi?
Mắt ta nhìn mãi tường rêu đá
Cũng hoá thành giăng lạnh lẽo soi
Ta mất đêm rằm quê vợ cũ
Mất ngày rồng rắn tuổi lên mười
Vợ ta trách mãi người trong ngục
Quên bẵng tình giăng muôn dặm khơi
Ví ta mượn cánh con chim nhạn
Sẽ vút trời xanh thăm thẳm sâu
Mỏ ngậm giăng về thăm vợ cũ
Nhìn xem ngực yếm có phai mầu!
Đoạn 2
(Lại tiếng chiêng trống. Lần này Người Què nép vào một xó tường như muốn trốn tránh tiếng chiêng trống quái ác)
Người què (giọng run run):
Đừng chém người! Thôi hãy cất đao!
(Ngục quan mở cửa từ bậc đá cao bước xuống.
Người Què hốt hoảng nép vào một xó khác)
Ngục quan:
Này ông què! Có chi mà hoảng sợ?
Tôi đây mà!
Người què (nhận kỹ):
Trời! Ngục quan! Tôi nhớ
đêm trước gặp ma, hình dạng cũng thế này
Ngục quan (cười):
Tôi là ma vào chộp vía ông đây
(Dằn giọng)
Này, đêm mai đến lượt ông đứt cổ!
Người què:
Thế cũng hay! Dễ thường tôi tốt số!
Ăn cơm tù đã ngấy đến mang tai
Rụng cái đầu, hồn lại được thảnh thơi
Ngục quan:
Nói đùa thế, chứ ông thì… ai nỡ!
Người què:
Thế càng hay, vợ chờ ngày đoàn tụ
Được vỗ cái lưng còng
Được vuốt cái râu bông
Ngục quan:
Đừng đùa nữa! Tội ông là chết chém
Từ lâu rồi
Người què (cúi đầu kính cẩn một cách khôi hài):
Nhờ ơn đức Chúa công!
Ngục quan:
Chính là nhờ một bận ông chơi ngông
Đánh thuốc độc giết ngon tên phản nghịch
Là con trai quan Đô thống Nguyễn Viêm
Nên cái đầu, cái cổ vẫn y nguyên
Ông khá lắm!
Người què:
Thì cũng cho hắn nếm
Vị thuốc tiên, ngọt hơn là chết chém
Công lao gì! – Tôi thương hắn mà thôi!
Ngục quan:
Ấy nhờ ông mà nó chết xong xuôi
Quan Đô thống ngỡ thằ! ng con tự tử
Không oán hận gì. Chúa công càng tỏ rõ
Lòng chí nhân, hạ chỉ tha kẻ thù
Ngay sau khi thằng chó chết uống no
Liều thuốc độc. Lão Nguyễn Viêm càng ra sức
Đái tội lập công. Ông què tài thực!
Người què:
Thế là tôi đỡ rụng cái đầu bù
Tưởng được về quê thăm mẹ đĩ thằng cu
Ai ngờ vẫn có duyên cùng ngục đá
Hôm nay lại chém người! Nghe chán quá!
Ngục quan:
Thôi, ông ơi! Mai ông sẽ được tha!
Người què (bĩu môi):
Quan lớn nói đùa!
Ngục quan:
Nói thật đấy mà!
Đây này, vợ ông từ miền xa Quảng Ngãi
Có viết đơn trần tình lên bộ Lại
Xin tha chồng! Lời lẽ chắc hay ghê
Nên nghe đồn Chúa thượng đã chuẩn phê…
Người què:
Ai tin được!
Ngục quan:
Tôi được lệnh từ sáng
Phải đối xử với ông ra tình bầu bạn
Người què:
Lệnh của ai?
Đoạn 3
(Ông Già và Kiều Loan ở hầm bên cạnh sang.
Ông Già nhìn bức tường đá, giơ mười ngón tay cạo…)
Ông già:
Không thoát được! Tường dầy hơn một thước
Chẳng hề rung vì chiêng trống chém người
Chiều mai đây đến lượt đầu ta rơi
Xác vùi dưới chân thành như cỏ héo!
Kiều Loan:
Cụ nhầm đấy! Khi lòng người đã réo
Như sóng bể đông, núi đá cũng chìm
Xương tôi dù bụi trắng
Chí tôi xòe cánh chim đập vỡ tung cửa ngục
Nhằm gió bão đi tìm
Ông già:
Tìm chi nữa! Đến đây là tận số,
cùng đường rồi
Kiều Loan (như mong ngóng một ai đó…):
Đã hẹn nửa đêm nay
Gió sẽ nổi lên, phá vỡ ngục này…
Ông già:
Khó nổi dậy! – Hàng trăm năm loạn lạc
Nghe chuyện binh đao, dân đã chán chường
Lớp lớp đề lao … dù phá sập tường
khó cứu vãn!
Kiều Loan:
Thời cơ rồi sẽ đến!
Ông già:
Máu quánh chân tường, vàng khè lửa nến
Những bộ xương tàn lụi ở quanh đây
đã luyện vào đá lạnh, ngấm tường dầy
Cạo… cạo mãi… lấy một liều thuốc độc
Giữ sao cho cái đầu đừng lăn lóc
trên pháp trường…
Kiều Loan:
Cụ sợ chết lắm sao?
Ông già:
Một hồi chiêng, ba hồi trống, ngọt lưỡi đao
Chúa Nguyễn đốt xương ta làm thuốc nổ
Lấy đầu lâu ta kê cao giường ngủ
Lấy máu ta sơn đỏ cái ngai vàng
Kiều Loan:
Nhưng còn tiếng hát này the thé hồn oan
Vùng đứng dậy bay vào cung chúa Nguyễ! n
Nó ngủ với cung phi? – Đầu lâu ta rung chuyển
Ken két hàm răng, nó hộc máu giữa giường
Nó ăn tiệc trong lầu? – Nhìn mặt trong gương?
Máu vấy khắp người, rượu căng nổ ruột
Dù chiều mai, đầu này lăn cỏ ướt
Thì đêm nay trong tù, chỉ hát là hơn
Hát thật hay, kết bạn với oan hồn
Ân giả, nghĩa đền, oán thù rửa sạch
Ông già (vẫn cao hứng):
Móng tay nhọn sắc cạo lên tường
Nghe động hồn ma cọ đốt xương
Bụi trắng nghìn năm bay lả tả
Nghe từng triều đại nấc bi thương…
Người què (từ nãy vẫn nằm nghe, bỗng ngồi dậy)
Đừng cạo nữa! Chờ ngày mai chết chém!
Sợ đầu rơi? – Thì đập sọ vào tường
Vỡ óc ngay!
Ông già (chú ý nhìn):
Ai nói giọng ngông cuồng?
Người què:
Ba chúng ta trước khi quỳ chịu chém
Hãy cùng nhau nói vài câu chuyện phiếm.
Ông già:
Người là ai?
Người què:
Tôi là một người tù
Nhờ áo vua cơm chúa đã ba thu
Chờ đợi mãi, chẳng ai thèm đến giết
Giá được tha, tôi cũng đành chịu chết
Vì chân què chẳng biết sẽ về đâu ở đây hơn.
Cơm một nắm, nước lưng bầu
Xương lạnh buốt đã có làn da bọc
Kiều Loan:
Mà lúc ngủ thì tha hồ lăn lóc
Muỗi vo ve thành khúc nhạc Bá Nha
Ai Tử Kỳ, sao vội chết trước ta?
Người què:
Xin nhị vị cho kẻ hèn được biết
Vì cớ gì cũng vào đây đợi chết
Chốn lao tù là quán rượu đó chăng?
Ông già:
Lão ngâm nga cái trò đời biến đổi
! Có mư�! �i năm lên xuống mấy triều vua
Anh hùng, liệt nữ lần lượt xuống mồ
Người vô dụng sống hoài như cỏ dại
Người què:
Chắc lão trượng ôm giấc mơ vĩ đại
Suốt một đời không đạt mộng cao siêu
Nên ngày nay, cụ tỉnh sớm say chiều
Bất đắc chí, thì hát ngao giăng gió?
Ông già:
Thưa túc hạ, lão tài hèn sức nhỏ
Học làm chi bài lấp biển vá giời
Xét cổ nhân gần hết thuở thiếu thời
Lập được chí thì bóng dương đã xế
Mà trước mắt, cuộc xoay vần thời thế
Gạt ra ngoài hầu hết bậc tài danh
Bọn hủ nho nhan nhản khắp triều đình
Nơi tù ngục chất đầy người nghĩa khí
Kiều Loan:
Gỗ mục, thép cùn múa tay trong bị
Lau sậy nghênh ngang làm cột trụ giang sơn
Ngầm hại nhau vì danh vọng áo cơm
Ông già:
Kình vào lạch đã hết đường vùng vẫy
Phượng trong sân nhớ những mùa bay nhẩy
Các thanh niên tài trí của non sông
sống buồn tênh, ủ rũ kiếp chim lồng
Kiều Loan:
Riêng có tôi bên vai đeo thanh quất
Dải áo lụa thổi tan màu u uất
Bỏ quê hương vào tít mãi rừng sâu
Gặp anh hùng, quỳ lạy xin theo hầu
Ngài mới phán: ” Đứng lên! Mau ra trận!
Tôi cưỡi con ngựa hồng, tôi lĩnh ấn
Tướng tiên phong, đều lập được kỳ công
Thế mà thoắt đã suy vong
Thành xây bãi cát, tìm không thấy bờ…
Người què:
Người anh hùng là ai đó, thưa cô?
Kiều Loan:
Tôi khóc rằng: tìm đâu ông Nguyễn Huệ?
Đêm mịt mùng, mưa rụng nát vườn hoang…!
Ông ! già:!
Hỡi hồn Tây Sở Bá vương
Cùng ta nhắp chén tà dương ngậm ngùi
Kiều Loan:
Tôi khóc rằng: Tình hỡi tình ơi!
Xe duyên, xe mấy phương trời sợi oan
Người què (rũ ra cười):
Tôi cũng khóc rằng: ơi hỡi hồng nhan
Cớ sao chưa tỉnh giấc vàng bấy lâu?
Tình tang bạc hết mái đầu
Vẫn chưa đi thoát nhịp cầu sông mê!
Một ngày cụ uống mấy trăm be?
Chết đến nơi rồi chưa tỉnh rượu
Ngồi đây tôi kể chuyện này nghe:
Vị anh hùng mà cụ vừa ca tụng
Có phải chăng chỉ là người trong mộng?
Ông già (cười khinh bỉ):
Ô thế ra túc hạ thật vô tâm
chẳng biết gì đến việc nước mười năm!
Người què:
Tôi biết chứ! tôi biết ông Nguyễn Huệ
Với những chiến công lẫy lừng bốn bể
Với gỗ đá dựng xây phường phố, thị thành
Với hai hàng văn võ của triều đình
Với ngô lúa bốn phương trời xanh mướt
Với cung điện nguy nga, thành cao trăm thước
Với chương trình đi lấp biển vá trời
Đều chỉ là trong giấc mộng mà thôi
Và cô nương, và lão trượng và tôi
Ba chúng ta cũng là người trong mộng
Chuyện ngày xưa chỉ còn toàn những bóng
Nhớ làm chi cho mệt cái thân tàn!
Ông già:
Lão khá khen đời túc hạ an nhàn
Chỉ có việc ăn no rồi ngủ kỹ!
Kiều loan:
Nói làm chi với anh què mất trí
Hầm đá ngục tù ai đắp ai xây?
Mộng đấy à? – Thôi nút chặt lỗ tai
Nghe giọng anh, người loãng ra thành nước!
(Đi sang gian ngục bên cạnh)
Đoạn 4
Người què (trông theo):
Xin mời cô nương cứ đi ngủ trước
Chí khí can trường rồi cũng thành ma!
Ông già:
Nào, thử nghe túc hạ nói ba hoa
Còn gì nữa ? – Người thảnh thơi như thế
Lại lên giọng kẻ giang hồ bốn bể
Sao hai chân, què một đã bao lâu?
Người què:
Thời trẻ trung, tôi xách kiếm theo hầu
Ông Nguyễn Huệ từ
Ông già (kinh ngạc và vui mừng):
Ồ ! Túc hạ cũng đã từng đánh giặc?
Người què:
Tôi đã từng trông những trận ghê hồn
Rạch Gầm, Gia Định, Thuận Hoá, Quy Nhơn
Nhất là trận Đống Đa năm Kỷ Dậu
Cả trời đất đã biến thành bể máu
Quanh mình tôi, đầu giặc rụng như mưa
Tiếng chuông rền, ngựa hí, tiếng reo hò
Hoà một điệu thảm sầu, thần kinh, quỷ khốc
Tôi tưởng mình vừa sa vào địa ngục
Chợt trông lên: đôi mắt Bắc Bình vương
Lòe lửa xanh, tôi vội vã vung gươm
Răng nghiến chặt mà say sưa chém giết
Ông già:
Gươm Quang Trung kiêu hãnh biết bao nhiêu
Đã chém năm danh tướng của Thanh triều
Người què:
Trận Đống Đa thật vô cùng khốc liệt
Giặc tan hoang xô chạy gãy phù kiều
Khắp sông Hồng vang dậy tiếng người kêu
Nước đỏ thẫm, nghẹn dòng không chảy nữa
Thành Thăng Long năm ngày chưa tắt lửa
Xác giặc phơi đầy Kẻ Chợ đến biên cương
Cờ nêu cao chiến thắng đỏ chiêu dương
Mà rút lại cũng vẫn là giấc mộng!
Ông già:
Túc hạ què khi đánh trận Đống Đa?
Người què:
Tôi đuổi giặc, bất ngờ sa hố rộng
Ngã gãy chân, thành một kẻ bỏ đi
Vua đền công tôi chẳng biết làm gì
Việc ăn ngủ cũng chỉ là giấc mộng
(Cười lớn)
Ông già:
Vào nhà giam như đến nước cờ thua
Ngẫm chuyện đời sao túc hạ vẫn bông đùa?
Người què:
Vua ở ngôi ba bốn năm lồng lộng
Rồi một chiều nhắm mắt bỏ non ! sông
Mấy mươi nàng cung nữ lệ ròng ròng
Dựng nhà lá bên mồ thề giữ tiết
Đến bây giờ đã lấy chồng gần hết!
(Cười ngặt nghẽo)
Vị Đông Cung thái tử nối ngôi cha
Còn trẻ thơ, nào hiểu việc quốc gia
Giao gánh nặng cho quyền thần hiểm độc
Tham lợi danh, chém giết nhiều, dân không phục
Các nhân tài lần lượt bỏ ra đi
Mớ bòng bòng chẳng biết gỡ bằng gì
Đức Nhị thế nhà Tần ôm mặt khóc!
Ông già:
Là cận thần, chắc túc hạ biết nhiều
về những ngày thê thảm của Tây triều?
Người què:
Phải, sự nghiệp anh hùng đến hồi tàn cuộc
Thì có người thuận gió, giả thù xưa
Một lòng trung, danh tướng ngã theo cờ
Đạo tàn binh vẫn coi thường sinh tử
Các phiên trấn đã thiếu người phòng giữ
Trong mười hôm thất thủ nốt kinh thành
Chân không giày, vua chạy lên rừng xanh
Hoàng thái hậu đành cầm gươm đâm cổ
Các vương phi mỗi người ngồi một chỗ
Dăng áo hồng che mặt khóc thành mưa
Còn các quan, có kẻ chạy theo vua
Cũng có kẻ ra hàng cầu phú quý
Ông già:
Nhưng cớ sao túc hạ chẳng theo vua
lại chịu vào nằm bẹp chốn lao tù?
Người què:
Tôi què chân, không cách gì bay bổng
Để người ta đưa đến chỗ này đây
Ba năm tròn, ngần ấy sự đổi thay
Đời diễn mãi một tấn tuồng giả dối
Trong nhà giam nghe lòng người biến đổi
Nhớ công cha nghĩa mẹ thuở đầu xanh
Đã trót nửa đời theo đuổi hư danh
Việc đợi chết cũng lại là giấc mộng!
(Người Què cười to quá. Q! uản ng�! ��c mở cửa vào)
Đoạn 5
Ngục quan:
Ai cho phép bay nói cười ầm ĩ?
Mai chết chém vẫn chưa thèm để ý
Hay lão già còn muốn nếm cực hình?
Ông già:
Xin đại nhân hãy dẹp nỗi bất bình
Lão mới gặp Người Què đây, bạn cũ
Mai lão chết, xin cho già than thở
một vài câu
(Cởi tấm áo vóc bên trong)
Già chẳng có bạc vàng
Cái áo này chính thực vóc Vân Nam
Giá trăm lạng, xin ngài vui lòng nhận
Ngục quan (ướm áo):
Để ta xem
Ông già:
Lão đi đường bụi bẩn
Giặt qua loa, màu vóc sẽ không phai
Mùa tuyết sương, không cần mặc áo ngoài
cũng đủ ấm
Ngục quan (ôn tồn):
Khuya rồi, nên đi ngủ
Ông già:
Lão xin phép nói vài câu chuyện nữa
Ngục quan:
Nói chuyện gì, không được quá canh hai
Liệu bảo nhau đừng to tiếng cợt cười.
(Mang tấm áo đi)
Đoạn 6
Người què (lại rũ ra cười):
Tấm áo vóc đem quăng vào giấc mộng!
Ông già:
Thưa túc hạ, vậy thì trong kiếp sống
Có cái gì không phải giấc mơ màng?
Người què:
Cụ đứng đây, cụ hãy nhìn qua cửa
Mà tưởng lại các anh hùng liệt nữ
Bắc cầu gươm lên đỉnh núi vinh quang
Hoặc bọn quyền yêm thoán đoạt ngai vàng
Khi thất bại vội ra đường cõng rắn
Hoặc những trung thần theo vua lận đận
Tóc bạc rồi, còn giúp chúa trung hưng
Hoặc những người áo vải tít trên rừng
Kéo cờ nghĩa ào ào quân đổ xuống
Họ phải dựa vào gì, thưa lão trượng?
Ông già:
Dựa vào dân
Người què:
Lão trượng nói đúng rồi
Cái bền lâu là dân nước đó thôi
Đế bá công hầu ngựa xe rầm rập
Lúc đi ngược lòng dân là chết rấp
Làm lợi cho dân thì hương khói phụng thờ
Làm mất nhân tâm thì miếu lớn tượng to
Dân đạp gí xuống bùn là hết chuyện
(Người Què cười to quá. Ngục quan lại mở cửa vào)
Đoạn 7
Ngục quan:
Sao các ngươi vẫn cứ làm huyên náo?
Người què:
Tôi cười chuyện những ông vua lếu láo
sơn mãi cái ngai vàng mọt gậm của ông cha
Ngục quan:
Tôi xin ông đừng múa mép ba hoa
Đêm hôm nay tạm sang nằm ngục khác
Người què (ra vẻ ngớ ngẩn):
Thưa đại nhân, lại có người muốn thác
Sắp vào đây chiếm chỗ của Người Què?
Một vài hôm, tình tri kỷ đang se
Tôi lại ở một mình nghe chiêng trống
Tiễn người bạn xuống âm ti tìm mộng.
(Vẻ buồn rầu)
Ngục quan:
Cả hai người phải bỏ gian ngục này
Vì có quan Chưởng vệ sắp vào đây
Người què:
Chưởng vệ nào?
Ngục quan:
Chưởng vệ cấm binh, tướng quân họ Vũ!
Ông già:
Ngài sắp vào?
Người què (ngẫm nghĩ):
Lạ nhỉ?
Ngục quan:
Hai nhà ngươi
Sang bên kia nằm ngủ, đêm khuya rồi
Người què:
Vũ tướng quân lần mò trong đêm tối
Sắp vào đây? Vào thăm người có tội?
Hay ngài xem ngục thất có yên vui
Mạng nhện dăng có đẹp bốn tường vôi
Lũ sắp chết những ai cười, ai khóc?
Hay ngài xem có ai dùng gấm vóc
Biếu ngục quan cho nhẹ bớt cực hình?
Ngục quan:
Nhà ngươi đừng nói nhảm!
Người què:
Khắp kinh thành
Từ thánh thượng đến thằng dân ngu dốt
Người đứng đắn chỉ có tôi là một
và đại nhân sau nữa mới là hai
Ngục quan:
Vào trong kia!
Người què:
Tôi đoán chắc không sai
Quan Chưởng vệ v! ào đây thăm… sắc đẹp!
Ngục quan:
Này bác què, liệu hồn ! Đừng bép xép
Ngài vào đây căn vặn các tội nhân
Xem những ai theo giặc khắp xa gần
Người què:
Cái việc ấy ai nhờ ông tướng võ?
Ngục quan:
Chỗ thân tình… thôi thì tôi nói nhỏ:
Hai hình quan vừa chết lúc trưa nay
Ông già:
Vì sao?
Ngục quan:
Tôi không biết
Người què:
Thế càng hay
Một buổi sáng, hai hình quan cùng chết
Hay giời muốn cho triều đình tiêu diệt
Những ông nào hay chém giết bâng quơ
Để từ nay không có máu tế cờ
Chợ không xác, mặt thành không thủ cấp
Ngoài cửa ô, những đêm mây xuống thấp
Chẳng còn ai trông thấy quỷ không đầu
Đó là điềm bọn giặc sẽ theo nhau
về vui cảnh vợ con, chăm cấy lúa
Đó là điềm thái bình muôn vạn thuở
Phải không ngài?
Ngục quan:
Ai nghe được lời ông!
Mời bác Què và ông lão vào trong
Quan Chưởng vệ đến đây trong khoảnh khắc
Ông già:
Tôi bị tội đã đi theo quân giặc
Tưởng phải chờ đây để gặp tướng quân?
Ngục quan:
Nhiều tuổi rồi, cứ ngủ cho yên thân
Người què:
Thật lạ đời, chỉ hỏi riêng cô gái
Vũ tướng quân vào đây là chí phải!
Vì tội cô nàng… bất khả dung tha
Tội phanh thây, mà cái tội ấy là…
Nàng rất đẹp!
(cười lớn)
Ngục quan:
Lại sắp ầm câu chuyện!
Cái roi sắt đừng để tôi dùng đến
Vào trong kia!
(Người Què và Ông Già! bị đ�! ��y vào trong.
Ngục quan dọn dẹp)
Tiếng Kiều Loan (bên trong):
Mong đợi tình yêu mấy vạn ngày
Sao bằng ta đợi chết đêm nay?
Khuya rồi, tiếng hát ai nghe đó
Cười hộ người điên cuộc đổi thay…!
Ngục quan:
Sắp chết rồi mà thơ vẫn còn hay
(Tiếng Người Què bên trong)
Người què:
Khuya rồi ta ngủ cho ngon giấc
Ai sống mà thay với đổi thay ?
(Ngục quan dọn dẹp xong đi ra. S
ân khấu tối mịt, diễn tả một khoảng thời gian trôi qua.
Tiếng kẻng nặng nề. Vũ tướng quân vào trong gian ngục đem theo hình cụ.
Ngục quan chắp tay theo sau)
Đoạn 8
Vũ tướng quân:
Tội nhân đâu?
Ngục quan:
Dạ, bẩm lệnh tướng quân
Ngài xét hỏi ông già hay cô gái?
Vũ tướng quân:
Hai tội nhân cần tra hỏi tỏ tường
Nhưng nửa đêm ta đã phải lên đường
Dẫn cô gái ra đây, ta hỏi trước
(Quản ngục đi vài bước. Vũ tướng quân gọi lại)[/]
Này quản ngục, còn tội nhân nào khác
Ngoài cô ta và ông lão trong này?
Ngục quan:
Có Người Què bị tội ba năm nay chưa phải chết
Vũ tướng quân:
Mà giam cùng một chỗ?
Ngục Quan:
Vâng!
Vũ tướng quân:
Hai phạm nhân tử tù không phải nhỏ
Ai đem giam cùng với bọn tù thường?
Ngục quan:
Thưa tướng quân, người có tội bốn phương
Đổ cả đến kinh thành như nêm cối
Chưa chém hết nên ngục tù chật chội
Đang xây thêm mười lớp ở Tây môn
Giam ông già và cô gái ở đây hơn
Vì đường lối quanh co và khuất khúc
Dù tội nhân có rắp tâm vượt ngục
Cũng không sao thoát khỏi sáu lầu canh
Và mỗi lầu có hai chục cấm binh
Vũ tướng quân:
Việc xét hỏi tội nhân trong ngục thất
Rất hệ trọng. Phải giữ tròn bí mật
Vì tuy đem nhiều hình cụ ghê hồn
Ta cũng cần phủ dụ rất ôn tồn
Để tội nhân cung khai cho hết lẽ
Ta xét hỏi có nhiều điều cặn kẽ
Việc đầu tiên là giải tán quân canh
Ngươi truyền cho đoàn binh sĩ phòng thành
phải yên chỗ và cấm không trò chuyện
Còn Người Què mà ngươi vừa nói đến
Phải điệu đi lập tức khỏi nơi này.
Ngục quan: Vâng hạ quan vừa đuổi hắn đi ngay
Hắn đã ngủ
Vũ tướng quân:
Phải điệu đi nơi khác!
Ngục quan:
Hắn ngủ say, vả lại, thưa tướng quân
Người Què đây không phải đứa ngu đần
Nếu đưa hắn sang một nhà ngục khác
Hạ quan sợ lũ tù nhân xao xác
Vì Người Què thích tán chuyện chúa vua…
Vũ tướng quân:
Nhìn lại xem hắn ngủ đã say chưa?
Ngục quan (nhìn sang bên cạnh, một lát):
Hắn đã ngủ, cả lão già cũng ngủ
Rất ngon lành như người vô tư lự
Vũ tướng quân:
Tạm được rồi, đưa cô gái ra đây
Rồi nhà ngươi lập tức tránh đi ngay
(Ngục quan dẫn Kiều Loan đến, rồi vái chào Vũ tướng quân đi sang gian ngục bên cạnh. Một lát).
Đoạn 9
Kiều Loan:
Kìa, ông tướng! Sao không đi dẹp giặc
Lại vào đây thăm hỏi một người điên?
Vũ tướng quân (se sẽ gọi):
Kiều Loan…!
Kiều Loan:
Nàng Kiều Loan giờ đã mất
Đừng gọi tên! Lòng tôi đau như cắt
Dưới lớp đất đen này, ông cúi nghe xem:
Vua Quang Trung còn thét mắng ngày đêm
Vũ tướng quân:
Em Kiều Loan! Dù tôi có lỗi nguyền
Non nước đã thanh bình trong gió mới
Kiều Loan:
Tôi không biết, tôi là người có tội
Xin tướng quân đem hình cụ vào đây
Tôi xin chờ máu chảy xuống bàn tay.
Vũ tướng quân:
Mười năm qua, lòng tôi, ai biết rõ
Ngày biệt ly, nàng ân cần khuyên nhủ:
Chàng cố xây hạnh phúc cho mọi người
Bằng chiến công oanh liệt bốn phương giời
Nàng sẽ hỏi: vì sao khi hoạn nạn
Tôi không theo nhà Tây Sơn Nguyễn Quang Toản?
Tôi trả lời: Quang Toản mất lòng dân
Vì triều cương đổ nát bởi gian thần.
Kiều Loan:
Phải, những kẻ nào cầu phú quý vinh thân
Thường phù thịnh, ai phù suy!
Vũ tướng quân:
Phu nhân chưa hiểu…
Kiều Loan:
Hừ, lưỡi không xương nhiều đường lắt léo!
Ông nhớ xem, lúc nghèo đói nuôi nhau
Vua Quang Trung như nắng rọi trên đầu
Đánh tan quân cướp nước mặt ngựa đầu trâu
Rồi xây dựng cho đời dân sung sướng
Có vườn ruộng, có cửa nhà yên ấm
Thì ông nói: Vua Quang Trung giỏi lắm!
Cho đến khi Quang Toản mới lên ngôi
Ở miền
Thì ông nói : Triều Tây Sơn đổ nát
Nói hay quá, con thò lò sáu mặt
Điên đảo quay cuồng cũng chẳng bằng ông…!
Vũ tướng quân:
Lẽ sống còn phải tuỳ cơ xử thế
Phu nhân trách tôi, tôi chẳng bận lòng
Nếu ngày trước tôi về triều ngụy đế
Thì nội loạn trôi dài bao huyết lệ?
Là anh hùng không phải để giết nhau
Đem tài năng khơi máu, rắc oan sầu
Là anh hùng không mưu quyền cướp lợi
Xây sự nghiệp trên thi hài đồng loại.
Kiều Loan:
Hừ, "không giết nhau, không mưu quyền cướp lợi "
Ngài làm ngược với những điều ngài nói
Miệng nhân từ, lòng độc ác gian hùng!
Vũ tướng quân:
Mười năm qua, khói lửa kín non sông
Đến ngày nay tổ quốc rực xuân hồng
Mười năm qua, lòng tôi, nàng chưa rõ
Kiều Loan:
Mười năm qua, còn một đêm nay nữa
Tôi nằm đây đợi chết rất bình yên
Tôi hát mừng non nước xoá ưu phiền
Xin tướng quân để tôi yên giấc ngủ
(Quay đi)
Vũ tướng quân (níu lại):
Kiều Loan ơi! Vì sao nàng lại nỡ…
Kiều Loan:
Lòng tôi bạc đen, đừng nhắc chuyện ngày xưa
Vũ tướng quân:
Tôi không quên ngàn dương liễu đương tơ
Mái nhà trắng bên vườn mai nở tuyết
Tôi không quên những ngày xưa diễm tuyệt
Sống bình yên trong giấc mộng say nồng
Kiều Loan (thét lên):
Chàng không quên vò xé một tấm lòng!
Đừng nói nữa! Tôi van chàng lần cuối!
Mai tôi chết, trước khi chàng đánh đuổ! i
Lũ tàn quân sang rừng núi biên cương!
Trước khi vua Quang Toản nặng đau thương
Chui vào cũi để trôi về đất chết
Trước khi chàng, vị anh hùng lẫm liệt
Tàn sát bao tướng sĩ của Tây triều
Và trước khi… Ôi! Đau đớn bao nhiêu
Những ruộng tốt, vườn tươi, hoa thơm quả ngọt
Vun xới mười năm bỗng dưng mất hút
Vào tay quân hùm sói của Gia Long!
Vũ tướng quân:
Thề với phu nhân: Từ lúc cầm quân
Bảy năm giời, tôi chỉ giữ lòng nhân
Kiều Loan (chua chát):
Vâng, tôi biết… năm nghìn quân bại trận
Ở Phú Xuân theo nhau mà tự tận
Bằng con dao rất sắc của chồng tôi
Trăm tướng tài vui vẻ xuống sông chơi
Bằng cũi lớn của tướng quân đem biếu
Vũ tướng quân:
Lệnh chúa thượng ban ra, tôi đành phải chịu
Kiều Loan:
Đức thiếu quân khờ dại mất kinh đô
Chạy lên rừng còn có kẻ theo dò
Vì ai lấy được đầu Nguyễn Quang Toản
Tướng quân thưởng bạc vàng năm trăm lạng
Bùi Thị Xuân, vị nữ tướng anh hùng
Ai tẩm dầu làm đuốc rọi hoàng cung?
Ai quật mộ vua Quang Trung
Thiêu hài cốt ra tro, nhồi thuốc súng
Bắn ra ngoài biển Đông?
Ai thắt cổ bà Ngọc Hân, Tây cung hoàng hậu?
Mấy hoàng tử còn thơ ai dìm trong vũng máu?
Ai? Ai bạo tàn? Nguyễn ánh hay tướng quân?
Ai khua môi khoe mãi lòng nhân?
Ai là giặc ? Tướng quân hay Nguyễn ánh?
Vũ tướng quân:
Không phải thế, tôi một lòng vì nước
Dù Nam triều, Tây nguỵ có làm chi
Miễn làm sao thiên hạ hết loạn ly
Đức kim thượng l�! � một v! ì thánh đế
Lúc giao tranh phải giữ phần thắng thế
nên không sao tránh thoát cuộc tương tàn
Thề với phu nhân: danh vọng tôi không ham
Đã nhất quyết từ khi làm võ tướng
Dẹp hết loạn cho muôn dân sung sướng
Rồi về quê hương, bên một vườn mai
Nghe chim ca gió hát thoảng bên tai
Say ân ái trong niềm vui vĩ đại
Ta yêu nhau hết những ngày còn lại.
Kiều Loan (thở dài):
Chuyện đã qua nhắc lại có vui gì
Tướng quân vào ngục tối để làm chi?
Vũ tướng quân:
Để đưa nàng ra ngoài trời xanh biếc
Kiều Loan ơi, trong mười năm cách biệt
Tôi vẫn ôm tình cũ nặng bên lòng
Kiều Loan (lạnh nhạt):
Thưa tướng quân, tôi là gái mất chồng
Mai được chết tôi vô cùng thoả nguyện
Vũ tướng quân:
Nàng biết đâu: Trong mưa ngàn bão biển
Bao năm ròng tôi sống vắng yêu thương
Có những chiều tưởng nhớ đến quê hương
Tôi khổ sở …
Kiều Loan (cười):
Vợ vua sinh gái đẹp
Đường vào tận thâm cung nào có hẹp?
Vũ tướng quân:
Kiều Loan ơi!… xin nhớ lại tình xưa
Tin lòng tôi toàn vẹn đến bây giờ…
Kiều Loan:
Vâng, tôi tin, quá tin nên phải chết
Sao tướng quân không cắn môi nhất quyết
Phóng lưỡi gươm đâm thẳng trúng xuyên tâm
Người vợ xưa ngu dại trót thương nhầm?
(Nàng nức nở, nhà ngục yên lặng)
Vũ tướng quân:
Một lát nữa, ông Hiệu uý cấm phòng quân
Theo lệnh tôi vào đón rước phu nhân…
Kiều Loan:
Thế cũng được. Vậy sau ! khi thoá! t chết
Tôi theo ai để giữ tròn khí tiết?
Hay là theo chúa Nguyễn lập công danh?
Vũ tướng quân:
Nửa đêm nay hàng mấy vạn hùng binh
Sẽ theo tôi lên đường đi phạt Bắc
Nàng về quê, chờ dẹp yên quân giặc
Tôi hồi hương nối lại giấc mơ hoa…
Kiều Loan:
Vâng, thưa ông tôi sẽ đợi đến già
Vì khắp nước không bao giờ tàn khói lửa
Khi chúa Nguyễn còn là tên bạo chúa
Khi tướng quân còn tiến chức thăng quan
Còn sưu thuế cao, còn tù ngục, còn chết oan
Dân bốn cõi còn nổi lên như gió
quét sạch Nguyễn triều! Tôi e rằng lúc đó
tướng quân không còn đầu đội mũ về quê.
Vũ tướng quân:
Phu nhân đừng lo. Tôi giữ lời thề
Với chúa Nguyễn : dẹp cho bằng hết loạn!
Cũng chẳng bao lâu, chóng chầy năm bảy tháng
Là sóng lặng gió yên. Mũ bạch phượng chói loà
Đầu còn đây, tôi trở lại quê nhà
Kiều Loan (cười chua chát):
Không! Tôi không về! Tôi muốn xông pha
Ngoài mặt trận, để chém đầu ngụy đế
Đoàn hào kiệt xưa lừng danh bốn bể
Nay già nua rầu rãi chốn biên thuỳ
Là kẻ thù: tôi cũng phải giết đi!
Tôi lại điên! Lại rong đường hát nhảm!
Máu nhuộm tóc, tôi cười lên thê thảm
Tôi hát rằng: ta muốn xé giời xanh
Cầm dao chọc thủng mắt xanh
Đỡ nhìn mưa bão tan tành nước non
Vũ tướng quân:
Tôi nhắc lại : tôi một lòng vì nước
Ôm làm chi cái vinh quang ngày trước
Khi lê dân còn quằn quại một phương trời
Nàng cố tình không hiểu tấm lòng tôi!
Kiều Loan:
! b>Tôi kh! ông hiểu
(Tiếng trống cầm canh)
Vũ tướng quân:
Đã sắp sang giờ Hợi
Nàng phải theo…
Kiều Loan:
Theo chàng ra biên giới?
Vũ tướng quân:
Nàng trở lại cố hương…
Kiều Loan:
Chàng phải có lời thề…!
Vũ tướng quân:
Phu nhân đòi gì, tôi cũng vui lòng nghe.
Kiều Loan:
Chàng phải thề : giảng hoà cùng thiếu đế!
Vũ tướng quân (cau mày):
Ta nên hiểu cuộc xoay chiều thời thế
Nhà Tây Sơn thế tất phải suy vong
Mới có nền bình trị khắp non sông
Tôi xin thề: sẽ dùng tài, dùng sức
Tâu với Chúa công, mở lòng nhân đức
Dụ ông vua trẻ tuổi kia ra hàng
Đoạn 10
Kiều Loan (một mình với thanh gươm):
Đoản kiếm đây, ngươi lại trở về ta
Thép năm ấy vẫn sắc như nước lạnh
Ngươi đã bao phen theo hầu Nguyễn ánh?
Máu lương dân, ngươi đã tắm bao lần?
Chỉ vì ta nhầm lẫn quá, lúc thanh xuân
Để ngươi kề vai đứa vô loài đen bạc!
Vết nhơ ấy mười năm gây tội ác
Có rửa được không, ngươi nói ta nghe?
Hay ngươi buồn phiền muốn trở về quê
Treo trên vách nếp nhà tranh tiều tụy?
Hay ngươi thênh thang muốn tìm tri kỷ
Nằm trong tay ai nối nghiệp Quang Trung?
Hay ngươi giận thân muốn xuống lòng sông
Nùi dưới phù sa, nghìn năm an giấc?
Hay ngươi muốn đến thăm đầu thằng giặc?
Thằng Gia Long, cổ nó cũng mềm thôi!
Hay từ hôm nay, ngươi muốn yên vui
Bọc nhung gấm trên lầu cao yến tiệc?
Ngươi muốn gì? – nói đi! Đêm sắp hết
Lòng ta ngổn ngang, chỉ có gươm này
Gỡ mối bòng bong, gỡ hết đêm nay
Cho trọn vẹn. Kìa sao ngươi nín lặng?
Ngươi đợi chờ ai? – Chờ người trong trắng
Vào cứu ta? – Quay mũi lại triều đình?
Gia Long ngồi kia! Chúng nó hợm mình
Chúng nó chết! Sao tay ta run lạnh?
Quê cũ mùa xuân, nếp nhà hiu quạnh
Ngươi thổi bùng ngọn lửa ấm tình duyên
Trời hỡi! Lòng ta gió bão ngả nghiêng
Ngươi không nói? – Chỉ một lời ngươi nói
Đủ bằng ta nói mãi suốt mười năm…
(Thẫn thờ đi vào nhà ngục bên cạnh. Sân khấu tối sầm.
Lại một khoảng thời gian qua)
Đoạn 11
(Người Què ló đầu ra, rồi bò ra hẳn.
Ông Già bò ra sau. Người Què nghiêng đầu nhìn sang bên cạnh, bỗng ôm bụng cười lăn lộn)
Người què:
Giờ mới biết là vợ ông đại tướng
Nửa đêm nay lại bắt đầu sung sướng!
(Cười)[/]
Ông già:
Lại sắp có ông Hiệu uý vào đây
đưa người điên ra khỏi gian ngục này.
Người què:
Đã đến lúc sinh ra nhiều việc biến
Nhan sắc ấy sẽ tha hồ vẽ chuyện
Các vị tướng quân mà vướng sắc khuynh thành
thì tôi e… đổ sụp mất trời xanh!
Ông già:
Hừ, nó quên phăng ông thầy học cũ
(Người Què ló đầu ra, rồi bò ra hẳn.
Ông Già bò ra sau. Người Què nghiêng đầu nhìn sang bên cạnh, bỗng ôm bụng cười lăn lộn)
Người què:
Giờ mới biết là vợ ông đại tướng
Nửa đêm nay lại bắt đầu sung sướng!
(Cười)
Ông già:
Lại sắp có ông Hiệu uý vào đây
đưa người điên ra khỏi gian ngục này.
Người què:
Đã đến lúc sinh ra nhiều việc biến
Nhan sắc ấy sẽ tha hồ vẽ chuyện
Các vị tướng quân mà vướng sắc khuynh thành
thì tôi e… đổ sụp mất trời xanh!
Ông già:
Hừ, nó quên phăng ông thầy học cũ
Không nhắc nhở một lời! Quân vô đạo bất nhân!
Chữ nghĩa giả thầy, vợ to hơn bố
Người què:
Tôi hỏi rằng: Lão trượng lúc đương xuân
Đã lần nào say đắm một giai nhân?
Ông già:
Suốt đời lão không vương tình mềm yếu
Người què:
Ồ, thảo nào, cụ vẫn còn chưa hiểu
Sức chìm non, cạn bể của đàn bà
Cô ả này xem sắc đẹp yêu ma
Tôi đủ biết: thuộc về loài đại ác!
Mắt sắc như gươm, mi dài như mác
Tôi chợt nghe giọng nói đã rùng mình
Nhan sắc này bằng mấy vạn hùng binh?
Để người ấy đi đôi cùng danh tướng
Thì trời đất sẽ ra sao? Thưa lão trượng?
Ông già:
Hắn ra Bắc Hà… mã đáo thành công.
Người què:
Cụ nhầm rồi, thì giặc lại như ong
Vì sắc đẹp bắt gươm quay mũi lại!
Thì hai bên đã biết ai thắng bại?
Giang sơn này lại sông máu núi xương
L�! �i bồng bế nhau nghìn vạn nẻo đường
Lại đói rét lầm than chúi đầu gãy cổ
Ông già:
Túc hạ quá lo xa
Người què:
Cuộc phân chia lại diễn ra lần nữa
Nơi kinh thành chưa khỏi vết thương xưa
Tôi lại đứng đây xem một ván cờ
Kẻ sắp được bỗng lâm vào nước hết!
Tôi lại đứng đây xem người chém giết,
Cười thế gian rằng dại rằng khôn
Tôi lại đứng đây nghe giọng ghê hồn
Từ cái miệng anh đào rung đất nước!
(Mắt đăm đăm suy tính một việc gì ghê gớm)
Thưa lão trượng, tấm lòng yêu tổ quốc
Của Người Què, cụ có thấu cho không?
Ông già:
Lão hiểu rồi…
Người què:
Phiền lão trượng vào trong
Xem cô ả có say sưa giấc điệp?
(Ông già làm theo, rồi trở ra)
Ông già:
Ngủ say lắm…
Người què:
… Ngày mai cụ phải chết!
Cụ mất đầu…
Ông già:
Lão chết rất bình yên
Người què:
Còn cô ta?
Ông già:
Rồi hưởng thú đoàn viên
Với chồng cũ trong những ngày còn lại
Người què:
Không thể được!
Tôi hiến cụ cách từ trần êm ái
Ông già:
Mảnh thân già tùng xẻo cũng không đau
Vì không còn nghĩa lớn đội trên đầu
Đầu có rụng, âu cũng là thoát nợ
Người què:
Từ lúc ra đời, đầu liền với cổ
Không lẽ gì lại để cái đầu rơi
Xuống âm ty, bố mẹ h�! �i: đâu! rồi?
Tao sinh ra mày có cái đầu to lắm!
Mất đâu rồi? – Cụ biết trả lời sao?
Chúa Nguyễn ngoài kia mài sắc lưỡi đao
Tôi hiến cụ cách từ trần êm ái
(Ghé sát tai cụ già nói nhỏ)
Ông già (nhè nhẹ lắc đầu)
Sao đành tâm!
Người què:
Không, cụ phải làm ngay
Chậm một khắc e đảo điên thời cục
(Móc thắt lưng, lấy ra một gói giấy đỏ)
Cách ba năm, có một viên quản ngục
Bán cho tôi một vị thuốc dưỡng nhàn
Chờ khi nào nổi bệnh chán trần gian
Pha vào nước, uống một liều sẽ khỏi
Ngần ấy ngày đã vui cùng bóng tối
Vẫn thèm trông thế sự đổi thay màu
Nên thuốc này chưa đụng đến lòng đau
Êm ái lắm, ngọt như lời ân ái
Thơm như sữa mẹ hiền ngày bé dại
Vừa uống xong thoắt đã biến trời tiên
Hồn phiêu diêu trong hương sắc u huyền
(Chìa gói thuốc cho Ông Già và
Chỉ vào bình nước ở xó tường)
Đã đến lúc vị thuốc này đắc dụng
Chỉ nó chữa được nan y bách chứng
Riêng đêm nay nó trị bệnh loạn ly
Thuốc “thái bình” thưa lão trượng
Ông già (cầm gói thuốc suy nghĩ.
Xa xa có tiếng khánh dồn dập lẫn tiếng trống)
Người què:(Vũ tướng quân sắp đến, pha thuốc đi! Mời cô gái uống một liều bất tử (Ông già còn dùng dằng. Tiếng trống gần lại)
Liều thuốc này chữa mười người cũng đủ
Cụ đừng lo không thoát nợ trần gian
(Một lát im lặng)
Giờ đã đến, cụ liệu đường tự xử
Và đưa hồn liệt nữ lên giời xanh
Trong ngục này, tôi ở lại một mình
Chúc nhị vị siêu sinh về cõi Phật.
(Tiếng trống đổ hồi. Bị thôi miên vì giọng nói mã! nh liệt của Người Què, Ông Già đổ cả gói thuốc vào bình nước, nhưng lão vẫn ngập ngừng, đứng nhìn Người Què. Kiều Loan ra)
Không nhắc nhở một lời! Quân vô đạo bất nhân!
Chữ nghĩa giả thầy, vợ to hơn bố
Người què:
Tôi hỏi rằng: Lão trượng lúc đương xuân
Đã lần nào say đắm một giai nhân?
Ông già:
Suốt đời lão không vương tình mềm yếu
Người què:
Ồ, thảo nào, cụ vẫn còn chưa hiểu
Sức chìm non, cạn bể của đàn bà
Cô ả này xem sắc đẹp yêu ma
Tôi đủ biết: thuộc về loài đại ác!
Mắt sắc như gươm, mi dài như mác
Tôi chợt nghe giọng nói đã rùng mình
Nhan sắc này bằng mấy vạn hùng binh?
Để người ấy đi đôi cùng danh tướng
Thì trời đất sẽ ra sao? Thưa lão trượng?
Đoạn 12
Kiều Loan (tươi cười):
Tôi vừa thoảng giấc mơ êm ái nhất
Cùng người xưa lơ lửng xứ hoa hương
Nghìn tiên chấp chới y thường
Vợ chồng phiêu lãng trên đường giăng xanh
Chợt tỉnh dậy môi se và miệng đắng
Đầu nóng ran như một người cảm nắng
Mà trong tâm như đốt lửa bừng bừng…
Quản ngục ơi! Tôi khát nước vô cùng!
Người què:
Có nước lã, mời cô nương tạm uống
Kiều Loan (cười nụ):
Vâng, tôi biết, nước của trời mưa xuống
Cho tôi nguôi cơn sốt cháy buồng gan.
(Người Què ra hiệu, Ông Già bưng bình nước đến trước mặt Kiều Loan)
Ông già:
Mời cô nương!
Kiều Loan:
Xin cảm tạ muôn vàn!
(Bưng bình nước)[/iư Tôi với cụ chẳng may cùng bị bắt Một chiều qua đã cùng đem nước mắt khóc hão huyền cái chết của người xưa Thì hôm nay có một bát nước mưa Xin chia sẻ... [i](Tiếng trống vẫn dồn dập)
Ông già:
Vâng, lão xin uống trước
Chứ đợi lưỡi gươm Nguyễn ánh… nhục vô cùng
Kiều Loan:
Đừng uống cạn!
Người què:
Chỉ một hớp là xong
Bình nước ấy đủ mười người mát mẻ
Ông già (uống xong, lảo đảo):
Lão không say! Lão theo hầu tiên đế
Uống hớp nước này lão đến hoàng cung
Ngậm oán hờn, nhổ xuống mặt Gia Long!
(Ngã chúi vào một xó, nằm chết như người ngủ)
Kiều Loan:
Người thứ hai uống nước mưa mát ruột
Là ai nhỉ?
[/b]Người què:[/b]
Là cô nương và chỉ có cô nương!
Kiều! Loan (cười nhạt):
Tôi vào đây, chân còn vướng bụi đường
Chưa đáng mặt uống một liều bất tử
(Dằn giọng)
Người thứ hai là ông!
Người què (không ngờ)
Ô liệt nữ!
Nói lạ lùng thay!
Kiều Loan:
Tôi nói lẽ thường thôi
Vì thuốc độc này ông muốn giết tôi
Hai chúng ta thù gì nhau không nhỉ?
Ông nếm trước đi!
Người què (lạnh lùng):
Không gan cháy ruột sôi
Không lo phiền, không thất vọng chán đời
Có việc gì phải uống!
Kiều Loan:
Hừ, ba năm tù ngục
Đã mài mòn chí lớn, ông đã quên
Những ngày xưa theo Quang Trung dẹp giặc
Ăn cơm hẩm của Gia Long, ông đã hoá đê hèn
Đã bị bắt chỉ có hai đường thoát
Một là mắng kẻ thù rồi tự sát
Hai : trốn ra theo sự nghiệp lâu dài
Chứ như ông ! vào ngục để yên ngồi
Giương mắt ếch nhìn Gia Long thắng trận!
Triết lý yếu hèn, tâm tư ngớ ngẩn
Thì dù không gan cháy ruột sôi
Cũng nên dùng hớp nước này thôi!
Người què:
Nghĩ xem đã…!
Kiều Loan:
Trống xuất quân gần lắm!
Đánh trận này Gia Long không thể thắng
Ta thắng Gia Long ngay giữa ngục này
Ông là người vô dụng, uống đi ngay!
Người què:
Cô nương nói dễ lọt tai đấy chắc?
Kiều Loan (rút đoản kiếm giấu trong ngực áo, giơ lên):
Ta có thanh gươm sắc
Sẽ giúp ông thoát trần gian tức khắc!
Người què (bị bất ngờ):
Ừ mà cô nương bàn tính cũng kỹ càng
Trong ngục tù mà ăn nói nghênh ngang
Cũng vô ích. – ! Trốn ra! thì chẳng được!
Một chân què có ai dìu từng bước
Mà đuổi theo chí lớn của ngày xưa?
Gươm sắc của cô nương tôi chẳng chối từ
Gươm lạnh lắm…! Uống nước này ấm bụng…
(Bưng bình nước uống)
Sáng sớm mai nếu cô nương còn sống
Tôi gửi lời vĩnh biệt Vũ tướng quân
Vĩnh biệt chúa vua, vĩnh biệt quyền thần
Không vĩnh biệt những người dân trung hậu
Hồn ta đây sẽ nhập vào trong máu,
Trong mắt sáng đời sau, hồn sẽ mở to
Để nhìn xem ai xấu, tốt, hiền, ngu?
Kiều Loan:
Vào trong kia mà nhắm mắt, phàm phu!
Người què (lảo đảo đi sang gian ngục bên cạnh cười to)
Kẻ phàm phu cũng chỉ là giấc mộng!
Chào cô nương!… (tiếng trống lại dồn dập)
Đoạn 13
(Một lát Vũ tướng quân vào gọi to)
Vũ tướng quân:
Kiều Loan ơi có nghe chăng tiếng trống
đã xa rồi, quân sĩ đã lên đường
Đi ngay thôi, mau trở lại quê hương!
Kiều Loan:
Kìa, thiếp tưởng sẽ có ông Hiệu úy
Đưa thiếp đi cho đỡ vướng chân chàng?
Vũ tướng quân:
Quan Hiệu uý… Chao ôi!…
Kiều Loan:
Cũng chết rồi chăng?
Vũ tướng quân:
Sao nàng biết?
Kiều loan:
Tâm linh tôi đoán thế
Dưới triều Gia Long, người có nghĩa có tình
Đều chết thảm thương, đều chịu cực hình
Đều mang tiếng loạn thần và tặc tử!
Vũ tướng quân:
Nàng đoán không sai, chao ôi, Hiệu uý
Vì bênh vực phu nhân ngay giữa công đường
Việc đến tai chúa thượng… đấng chí tôn
Đã hạ chỉ chém đầu ngay trước bệ
Lúc giờ tuất vừa qua!…
Kiều Loan:
Gia Long nhân đức nhỉ!
Thế còn chàng? – Chàng xót thương Hiệu uý
Hay đồng tình với Chúa giết quan hầu?
Vũ tướng quân:
Thôi, chuyện triều đình ta sẽ nói sau
Trống giục giã, lên đường ngay kẻo muộn
Kiều loan (khóc đau đớn):
Quan Hiệu uý… tuổi xuân còn mơn mởn
Đã chết rồi… đã chết vì thương tôi!
Vũ tướng quân:
Đức vua ta nhân đức với muôn người
Nhưng phải chém những kẻ nào có lỗi
Những gian thần!
Kiều Loan:
Thương một người vô tội
Là mang tiếng gian thần! chàng đấy thì sao?
Chàng thương xót tôi, liệu có mất đầu?
Giữ được! đầu, có được phép thương nhau?
Có được phép nhớ tình xưa, nghĩa cũ?
Còn vợ hiền, liệu có còn áo mũ?
Mất cân đai, tình có vẹn tròn không?
Chàng nói ngay đi, cho thiếp yên lòng
Vũ tướng quân:
Ta là cánh tay trung thành của Chúa thượng
Dù thương nàng, ta còn mang nghĩa lớn
Diệt Tây Sơn.
Kiều Loan (nghiến răng):
Trời ơi! Nghĩa lớn!
(Bên ngoài, tiếng trống giục, tiếng hò reo vang dậy
Ngục quan hấp tấp chạy vào, run rẩy cúi đầu).
Đoạn cuối cùng
Ngục quan:
Bẩm… tướng quân!…
Vũ tướng quân:
Việc gì đó? Ngục quan?
Ngục quan (hổn hển):
Nguy lắm rồi… đấy… tiếng thét ầm vang
Mấy nghìn dân kinh kỳ đang nổi loạn
Vũ tướng quân:
Ai nổi loạn?
Ngục quan:
Họ có bọn Tây Sơn dũng cảm cầm đầu
Họ đòi mở cửa tù, đòi giảm thuế
Đòi chém các quan… Tiếng trống giục mau…
Có thánh chỉ triệu Ngài ra đánh dẹp
Vũ tướng quân:
Dân nổi loạn…? – Làm gì, quân tôm tép!
Cho ngươi lui. Ta phụng mệnh, sẽ ra ngay.
(Ngục quan vái chào đi ra. Vũ tướng quân
tiến nhanh lại cầm tay Kiều Loan)
Vũ tướng quân:
Dân nổi loạn rồi, tôi phải ra tay
Dẹp bằng hết. Phu nhân cầm vạt áo
Theo tôi đi.
Kiều Loan (co tay lại):
Dân nổi lên như bão
Vì Nguyễn triều đi ngược lại lòng dân
Chàng nghe tôi, đừng ra lệnh xuất quân
Đừng chém giết những người dân vô tội!
Vũ tướng quân:
Đó là gi�! ��c ! Nà! ng biết đâu dám nói?
Ta là cánh tay trung liệt của triều đình
Phải dẹp bằng tan quân phiến loạn kinh thành
Theo ta đi, nhanh lên! (định đi)
Kiều Loan (quắc mắt thét to):
Đứng lại!
Cánh tay Nguyễn triều, cánh tay quỷ quái!
Thật hết rồi!
(Nhanh như cắt, Kiều Loan phóng gươm đâm giữa ngực
Vũ tướng quân. Vũ thét lên và ngã xuống)
Vũ tướng quân:
A! Kiều Loan! Ai ngờ!…
Kiều Loan:
Tên Kiều Loan giờ mới đáng gọi to
Mà nhắm mắt!
Vũ tướng quân (gượng dậy):
Kiều Loan… nàng giết tôi…
Máu này phun ngục tối
Dòng máu mười năm trăm sông nghìn núi
Dòng máu xưa nàng âu yếm chăm nuôi
Tôi đã phụ nàng! Trời ơi! ánh lửa
Trống giục ngoài kia. – Nhà ngục mở
Ngày mai trời sáng lối quê hương
Nàng có về không? – Xin lượng thứ!
Đời tôi còn có chút tình thương?
(Ngã xuống, cố ngóc đầu lên, yếu ớt. Trong khi đó
Kiều Loan trừng mắt nhìn bàn tay mình, rồi đi men nhà ngục.
Nàng ôm ngực chồng, xoè tay như muốn bịt kín vết thương đang ứa máu)
Vũ tướng quân:
Thôi, nàng ở lại! Xin đừng kể
Câu chuyện đôi ta ở dọc đường
Tôi chỉ xin nàng hai giọt lệ
Cài trên lá cỏ… phía quê hương…
(Vũ tướng quân nhắm mắt, Kiều Loan bỗng khóc oà,
vừa khóc vừa vuốt mắt cho chồng. Tiếng trống ,
tiếng reo hò càng mạnh. Một lát Kiều Loan đứng dậy,
cầm bình thuốc độc, nâng lên miệng uống hết.
Nàng bỗng trợn mắt sáng rực, the thé một chuỗi cười ghê rợn,
bước đi chuệnh choạng, giọng lúc đầu còn vang dội,
sau yếu dần, yếu dần)
Ô này xanh biếc cõi âm
Chàng đi nghìn dặm, em nằm mây cao
Nhởn nhơ nhan sắc máu trào…
(Lại hát ru, cúi xuống vỗ lên vai chồng)
Mời chàng… lên giải mây cao
Bẻ phăng gươm báu, trôi vào mộng xưa
Ngựa hồng ai cưỡi bao giờ?
Xe ai chuyển bánh trăng mờ đêm nay?
(nói) Thương chàng em dại em say
Lòng em ngây ngất với ngày biệt ly
(Giọng yếu dần)
Âm cung hò hẹn những gì
Tướng quân tung máu… ô kìa!…
Em đã nguôi quên
Van chàng… xoá bỏ ưu phiền…
(Kiều Loan thổn thức nhè nhẹ… ôm xác chồng,
bế hẳn vào lòng… đăm đắm nhìn, đôi mắt đã dại đi…
Một lát, nàng gục đầu xuống ngực Vũ, chết)
Hạ màn
Hết
Nguồn: docsach.dec.com
Thực hiện ebook: Metquathantanay
Thuvien-ebook.com
Hanoi, 28.11.2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét