Mục lục
Bà i 1: Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên và chiếc đồng hồ in hình Bác Hồ
Bà i 2 : Chiếc đà i và vị tướng trở về từ âcõi chếtâ
BÃ i 3: Bốn kỷ vật của Đại tướng Văn Tiến Dũng
Bà i 4 : âChiến lợi phẩmâ của vị tướng anh hùng thu được của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
BÃ i 5: Tấm bản đồ chỉ đường cho Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu
Bà i 6: Tám huy hiệu của Bác Hồ tặng Thượng tướng Phạm Thanh Ngân
Bà i 7 : Khẩu thần công dưới nhà Đại tướng Chu Huy Mân
Bà i 8 : Vị đại tướng đầu tiên và những kỷ vật vô giá
Bà i 9: cây âđèn thầnâ của tướng Nguyễn Ngọc Doanh
Bà i 10: âPhi đội quyết thắngâ và kỷ vật của tướng Nguyễn Văn Tri
Bà i 1: Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên và chiếc đồng hồ in hình Bác Hồ
Lần theo dấu chân và những kỷ niệm, nhà sưu tập Trần Thu Hằng, nhân viên Bảo tà ng Lịch sử quân sự Việt Nam đã sưu tập được hà ng ngà n kỷ vật của tướng lĩnh Việt Nam.
Quân đội ta là quân đội của dân, từ nhân dân mà ra. 60 năm qua, từ trong lòng dân, đã có bao người trở thà nh những vị tướng. Trên con đường trở thà nh những vị tướng ấy, biết bao gian khó, hy sinh. Lần theo dấu chân và những kỷ niệm, nhà sưu tập Trần Thu Hằng, nhân viên Bảo tà ng Lịch sử quân sự Việt Nam đã sưu tập được hà ng ngà n kỷ vật của tướng lĩnh Việt Nam. Mỗi kỷ vậy mà chị thu thập chứa đựng một câu chuyện đầy cảm động. Nhân dịp 60 năm thà nh lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tiền Phong lần lượt kể về những kỷ vật ấy…
Là một trong số những tiến sỹ luật đầu tiên của nước ta, ông cũng là một trong số những người đầu tiên sáng lập ra tờ báo Thanh Nghị, tiếng nói của trà thức và sinh viên yêu nước Việt Nam lúc bấy giờ…Không một ngà y qua trận mạc, nhưng ông lại được Chủ tịch Hồ Chà Minh tin cậy, mời giao trọng trách Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà . Ã"ng là tiến sỹ luật Phan Anh.
Từ nhà yêu nước trở thà nh Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên
Vợ ông, bà Nguyễn Hồng Chỉnh kể rằng, sinh thời, chưa bao giờ ông nghĩ mình sẽ là Bộ trưởng Quốc phòng. Sau khi từ Pháp trở về, đi đến đâu, ông cũng cảm nhận khà thế sục sôi của nhân dân cả nước nổi dậy tổng khởi nghĩa già nh chÃnh quyền trong Cách mạng Tháng Tám, đối với giới trà thức
Sinh ngà y 1 tháng 3 năm 1912, ở là ng Tùng ảnh, xã Châu Phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Cha ông là cụ Phan Điện, một nhà nho yêu nước. Mẹ ông là cụ Võ Thị Cưu, là m nghề dệt lụa. Thủa nhỏ ông học hà nh chăm chỉ25, ông nhận bằng certificat ở Hải Phòng. Năm 1930, ông nhận bằng diplom tại Trường Bưởi. Năm 1933, ông nhận ba bằng tú tà i, sau đó học trường Luật. Trong thời gian học trường Luật từ năm 1934-1937, ông tham gia hoạt động xã hội, là Chủ tịch Tổng hội Sinh viên và và o Đảng Xã hội Pháp. Vừa học, ông vừa tham gia dạy học ở trường Gia Long và trường Thăng Long. Năm 1937, ông sang Pháp du học, rồi nhận bằng tiến sỹ luật. Năm 1940, chiến tranh thế giới lần thứ hai xảy ra, ông quyết định rời nước Pháp trở về nước. Ã"ng tham gia đoà n luật sư Hà Nội và nhận là m luật sư cho toà đại hình quân sự. Ã"ng là một trong số những người đầu tiên sáng lập ra tờ báo Thanh Nghị, tiếng nói của trà thức và sinh viên yêu nước Việt |
trong đó có ông như là một sự kiện đột phá những mối lo âu, trăn trở, mở ra một chân trời mới, một con đường đầy hy vọng cho những người yêu nước Việt
Ngà y 2 tháng 3 năm 1946, Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ nhất họp tại thủ đô Hà Nội. Trước ngà y đó, Chủ tịch Hồ Chà Minh cho gọi Phan Anh đến Bắc Bộ phủ. Chủ tịch nói: âChúng ta cần phải thà nh lập ChÃnh phủ Liên hiệp nhằm đoà n kết nhân dân, thống nhất hà nh động. Để thà nh lập ChÃnh phủ Liên hiệp, Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng cần giao cho những người ở vị trà trung lập. Tôi đề cử chú nhận nhiệm vụ quan trọng đóâ. Ã"ng xúc động nói với Chủ tịch Hồ Chà Minh rằng: âTôi rất cảm kÃch về sự gợi ý đó, nhưng để đáp ứng tinh thần của Chủ tịch, tôi xin đề cử một trà thức có cảm tình với cách mạng, đã từng học qua trường quân sự cao cấp Polytechnique ở Paà ông Hoà ng Xuân Hãnâ. Chủ tịch Hồ Chà Minh không tán thà nh và thuyết phục ông là m Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Chủ tịch Hồ Chà Minh an ủi: âChú đừng ngại, tuy chú đảm nhận trọng trách Bộ trưởng Quốc phòng, nhưng không phải tập trung công việc và o chuyên môn quân sự vì đã có chú Võ Nguyên Giáp. Nhiệm vụ của chú là tập trung và o vấn đề chÃnh trị, nhằm đoà n kết trong ngoà iâ. Thế là tiến sỹ Phan Anh trở thà nh Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên của nước Việt
Được Bác tặng đồng hồ, vì là m việc tốt
|
Bộ trưởng Quốc phòng Phan Anh (bên trái) cùng Bác Hồ tại Việt Bắc năm 1950 |
Nhậm chức Bộ trưởng, việc đầu tiên ông Phan Anh cùng các cộng sự là m là thống nhất các lực lượng vũ trang, đặc biệt đưa những lực lượng vũ trang của phe đối địch với cách mạng và o sự quản lý thống nhất của ChÃnh phủ. Ã"ng và ông Tạ Quang Bửu (khi đó là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng) đã kiến nghị với Chủ tịch Hồ Chà Minh, với tư cách là Chủ tịch nước ban hà nh những sắc lệnh về tổ chức quân đội, bổ nhiệm những người phụ trách. Sau đó, hà ng loạt sắc lệnh ra đời: Sắc lệnh số 34 ngà y 25/3/1946, về tổ chức Bộ Quốc phòng; Sắc lệnh 35 ngà y 25/3/1946, cử các chức vụ: ông Nguyễn Ngọc Minh là Chủ nhiệm Bộ Quốc phòng, ông Hoà ng Đạo Thuý- ChÃnh trị cục trưởng, ông Phan Tử Lăng- Quân chÃnh cục trưởng, ông Phan Văn Phác- Quân huấn Cục trưởng, ông Vũ Anh- Quân nhu cục trưởng, ông Vũ Văn Cẩn – Quân y cục trưởng, ông Lê Văn Chất – Quân pháp cục trưởng⦠Sắc lệnh 33/QP ngà y 23/3/1946 xác định Vệ Quốc đoà n là Quân đội quốc gia nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà . Ngoà i ra, ông còn đề xuất với Chủ tịch Hồ Chà Minh về việc thà nh lập trường Võ bị Trần Quốc Tuấn.
Về công tác đối ngoại, ông nổi tiếng là người giỏi Pháp ngữ, nên được Bác Hồ trực tiếp cử tham gia phái đoà n ChÃnh phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đi dự hội nghị Fontainebleau ở Pháp cuối tháng 3 đến tháng 9 năm 1946, với tư cách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng thuyết trình viên chuyên về pháp luật. Ã"ng là m Bộ trưởng Quốc phòng cho đến năm 1947 thì chuyển qua là m Bộ trưởng Bộ Kinh tế.
Ngà y 13 tháng 10 năm 1954, tại Sơn Tây, trong một cuộc họp ChÃnh phủ trước khi về tiếp quản Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chà Minh đã tặng thưởng Huân chương Độc lập cho linh mục Phạm Bá Trực, đồng thời tặng phần thưởng cho một số cán bộ trong ChÃnh phủ có thà nh tÃch xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Riêng Tiến sỹ Phan Anh được Bác tặng chiếc đồng hồ Thuỵ Sỹ, hiệu Movado có hình Bác Hồ. Bác nói: âVới những đóng góp của chú trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhất là trong thời gian giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, chú đã thực hiện tinh thần đoà n kết trong nước và quốc tế âdĩ bất biến, ứng vạn biếnâ. Nêu cao chÃnh nghĩa vì độc lập, tự do của Tổ quốc… Chú xứng đáng được tặng phần thưởng nà yâ. Từ đó, ông đã sử dụng và giữ gìn chiếc đồng hồ như một kỷ vật thiêng liêng trong suốt cuộc đời đi theo cách mạng. Năm 1985, chiếc đồng hồ bị hỏng, nhân chuyến công tác tại Thuỵ Sỹ, ông đã tìm đến tận nơi sản xuất ra chiếc đồng hồ để sửa chữa. Ã"ng mất và o ngà y 28 tháng 6 năm 1990, khi trái tim ông ngừng đập, chiếc đồng hồ dừng nhằm lúc 1h15 phút.
Hiện chiếc đồng hồ của Bác Hồ tặng cố Bộ trưởng Phan Anh đang được lưu giữ như một kỷ vật quý hiếm tại Bảo tà ng Lịch sử quân sự Việt
Bà i 2 : Chiếc 3;à i và vị tướng trở về từ âcõi chếtâ
|
Tướng Trần Văn Trân |
Năm 1968, khi chiến trường miền Nam bước và o thời kỳ ác liệt nhất, Đại tá Trần Văn Trân được triệu về Bộ chỉ huy miền ở Lộc Ninh để nhậm chức Sư đoà n trưởng Sư đoà n 1. Nhân dịp nà y, ông được tướng Hoà ng Văn Thái tặng chiếc radio. Chiếc đà i nhỏ đã theo ông đi khắp các chiến trường… Ngà y được tin ông hy sinh, vợ ông đặt chiếc rađio lên bà n thờ mà hương khói. Chỉ sau nà y bà mới biết, chÃnh trong thời gian đó, ông vẫn đang sống và hoạt động trong nhà tù của địch…
Thoát chết nhờ giả danh là lÃnh thường…
Sau khi nhận chức vụ Sư đoà n trưởng Sư đoà n 1, Đại tá Trân được lệnh cơ động xuống đồng bằng chiếm lại vùng Bẩy Núi- An Giang. Để chuẩn bị cho trận đánh, một bộ phận từ biên giới Cămpuchia vượt sông đi trước. Còn ông cùng mấy anh em trinh sát và một trung đội đi nghiên cứu chiến trường, chuẩn bị cho đánh lớn. Hôm đó, địch lùng sục rất dữ. Trên trời, máy bay rình ngó, dưới sông tà u bo bo kiểm tra gắt gao. PhÃa trước, dọc sông Vĩnh Tế cách 1 km có trạm gác của bọn bảo an, mật độ gác dà y đặc. Chờ mãi, đến sẩm tối, nghe tiếng tà u bo bo thưa dần, Sư trưởng Trân quyết định vượt kênh Vĩnh Tế. Với chiếc quần xà lỏn, ông cùng một số anh em men ra phÃa bờ kênh. Không ngờ, một đi đội biệt kÃch Mỹ đã ém sẵn ở đó. Ã"ng chỉ huy anh em đánh trả nhưng quân ta Ãt, lại phải đối mặt với lực lượng địch quá đông, nên hầu hết anh em hy sinh và bị thương. Ã"ng cũng bị thương nặng. Sư trưởng Trân quờ tay sang bên cạnh, đồng chà y tá đi theo bị trúng đạn đã tắt thở. Ã"ng với lấy túi thuốc của y tá quà ng lên người. Bọn địch đến gần, rà soát thấy ông còn thở, chúng đưa ông về Cần Thơ. Chúng thu được trên người ông một khẩu CKC, một túi y tá có cao hổ cốt, cao khỉ với giấy tờ mang tên Nguyễn Văn Thương, Thượng sỹ đông y.
Khi một số anh em đi cùng còn sống quay trở lại tìm không thấy thủ trưởng đâu, nghĩ rằng Trần Văn Trân đã hy sinh, liền báo về c! ho đơn vị. ChÃnh ủy sư đoà n Nguyễn Viên, cử trinh sát tiếp tục đi tìm. Nhân dân vùng đó cho biết đã chôn cất một số anh em. Theo mô tả, có một người giống như ông Trân. Đơn vị đề nghị cho khai quật mộ kiểm tra, nhưng nhân dân cho biết nếu là m như vậy, bọn địch sẽ tà n sát, phá phách vùng nà y, gây khó dễ cho nhân dân. Đơn vị quyết định báo lên trên. Một thời gian sau, Bà thư Trung ương Cục Phạm Hùng nhận được giấy mật báo từ cơ sở cách mạng ở Cần Thơ. Giấy viết mấy chữ nguệch ngoạc: âHiện trong nhà tù Cần Thơ có một tù binh tên là Thương, có em là Viên, Uynh. Nghĩ mãi, cuối cùng ông Phạm Hùng cũng luận ra đó chÃnh là Sư trưởng Trần Văn Trân, vì Viên là ChÃnh uỷ Sư đoà n 1, Uynh là Sư đoà n phó Sư đoà n 1. âKhông thể để bọn địch biết Trân là cán bộ cao cấpâ, ông Hùng ra lệnh phải nghi binh bọn địch, cho đơn vị là m lễ truy điệu cho Sư trưởng Trân bình thường, đồng thời thông báo về gia đình biết và cấp chế độ liệt sỹ.
VÃ mưu trÃ
|
Chiếc đà i của tướng Hoà ng Văn Thái tặng tướng Trân |
Ba năm bị bắt là m tù binh, hơn 1.000 ngà y trong nhà tù của địch. Chúng hết tra tấn lại dụ dỗ nhưng không thể khuất phục. Tại nhà tù Cần Thơ, ông được đồng đội tin cậy giao trọng trách Bà thư chi bộ nhà tù. Ã"ng được anh em tù nhân che giấu nên địch không hay biết.
Sinh thời, ông Trân kể rằng, có lần tên Vui là nhân viên nhà tù, quê ở Bến Tre bắt ông chữa bệnh di tinh. Ã"ng trả lời: lấy cái gì mà chữa, tôi là m gì có thuốc. Lần khác tên trung tá Mã Khắc Quy thẩm vấn ông: âMà y là Bà thư Đảng uỷ nhà tù Cần Thơ, phải không Thương?â. Ã"ng trả lời: âCác thầy bắt tôi, giấy tờ trong người là thượng sỹ đông y còn gìâ. Mã Khắc Quy thử: âCó mấy thằng Việt cộng nói với tao tiêm nước dừa, huyết gà là tốt hơn xe rom, mà y nghĩ sao?â. Ã"ng trả lời: âTôi không thạo thuốc tây lắm nhưng đứng trước cái sống, cái chết và thiếu thốn, dùng nó là cần thiết, song có lẽ về khoa học không bằng thuốc tây, cao hổ cốt, cao khỉ. Hắn lại hỏi: âMà y nói xem, dụng cụ nấu cao gồm có gì?â. Ã"ng đáp: â Hai cái chảo gang, một nồi đồng, một cưa sắt và một cái môi vớt bọtâ. Đó là những câu trả lời của anh em tù nhân bà y cho ông. Nghĩ lại mà phát hoảng, nếu ông chỉ trả lời sai những câu hỏi âcà i bẫyâ của chúng, dễ gì chúng tha cho ông. Không chỉ bị giam ở Cần Thơ, sau một lần đấu tranh, toà n trại Cần Thơ tuyệt thự! c trước lúc bầu cử tổng thống Thiệu, 800 tù nhân bị chúng đà y ra Phú Quốc, Sư trưởng Trân là thương binh nên bị đưa về nhà tù Hố Nai- Suối Máu.
Năm 1973, sau khi ra tù, Đại tá Trân được bố trà ra Hà Nội gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, và các đồng chà trong Quân uỷ Trung ương, được Ban tổ chức Trung ương cấp giấy chứng nhận toà n bộ tuổi Đảng trong tù. Nằm viện Quân y 108, ông được Tổng Bà thư Lê Duẩn, Thủ tướng Phạm Văn Đồng tới thăm, động viên. Được 3 tháng, ông xin ra viện để gặp các tướng Song Hà o, Lê Quang Đạo đề nghị cho ra đơn vị chiến đấu. Tướng Song Hà o vỗ vai ông nói: âVội gì, cậu cứ nghỉ ngơi, khôi phục sức khoẻ đã!â. Ã"ng trả lời: â Thưa các anh, sức khoẻ của tôi hồi nà y hơn hồi đi B năm 1964. Vả lại, tôi được nghỉ ròng 3 năm trong tù rồiâ. Tháng 11 năm 1973, Bộ Quốc phòng quyết định thà nh lập Sư đoà n 341, ông nhận quyết định Sư đoà n trưởng. Trước khi vơn vị, ông về thăm gia đình, lúc đi mang theo chiếc radio mà tướng Hoà ng Văn Thái tặng. Trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, ông đã chỉ huy đơn vị tham gia chiến dịch Hồ Chà Minh, tham gia quân quản thà nh phố. Năm 1976, ông được bổ nhiệm giữ chức Phó tư lệnh Quân đoà n 4. Năm 1979, ông giữ chức Phó viện trưởng Học viện Lục quân Đà Lạt. Năm 1985, ông là Tham mưu phó mặt trận 719, chỉ huy bộ đội chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và là m nhiệm vụ quốc tế giúp bạn. Cũng năm nà y, ông được Nhà nước phong quân hà m thiếu tướng. Năm 1995, ông nghỉ hưu và qua đời năm 1997. |
Với sự mưu trà của vị Sư trưởng, bọn địch không phát hiện được ông là cán bộ cao cấp của quân đội. Cho đến ngà y18 tháng 3 năm 1973, ông được địch trao trả tại sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Cởi bỏ quần áo tù, ông bơi một mạch sang bờ Bắc sông Thạch Hãn, không qua trạm liên hợp. Xe và cán bộ của Quân khu 4 đã chờ sẵn. Anh em đưa ông về Bộ tư lệnh B5. Lúc xe chạy vụt đi, bọn địch mới phát hiện được ông là cán bộ cao cấp, chúng biết đã trao trả nhầm nhưng đã muộn. Thế là sau 3 năm, 1 tháng 16 ngà y, ông lại được mặc bộ quân phục Quân đội nhân dân Việt Nam. Tại Bộ tư lệnh B5, ông gặp lại những người anh em thân thiết như Lê Tự Đồng, Cao Văn Khánh, Nguyễn Hữu An, được chiêu đãi một bữa tiệc thịnh soạn, nhưng nà o ông có ăn nổi. Bát cơm chan đầy nước mắt bởi ông xúc động trước tình cảm sâu sắc của đồng đội, người thân.
Kỷ vật một thời
Bà Võ BÃch Hà , vợ tướng Trân nhớ lại: âMùa hè năm 1970, tôi nhận được giấy mời của Tổng cục ChÃnh trị. Trong giấy mời chỉ ghi tóm tắt: âĐồng chà đại tá Trần Văn Trân, Sư đoà n trưởng Sư đoà n 1, đã anh dũng hy sinh ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, trong lúc đang là m nhiệm vụâ, mời gia đình ra Hà Nội dự lễ truy điệu. Đọc xong tờ giấy, tôi bà ng hoà ng, sững người. Tim đau nhói, ông đi chiến trường biền biệt, lúc mất chẳng gặp vợ con. Tôi vừa thương ông ấy, vừa thương đà n cừa lo cho mình. Là m sao nuôi được các con khôn lớn, đứa bé nhất mới có 6 tuổi. âNghĩ vậy, tôi nuốt nỗi đau, để tang thờ chồng. Ngà y truy điệu ông ấy, bà Hồ Thị Bi ở Cục ChÃnh sách- Tổng cục ChÃnh trị trao chiếc radio lại cho gia đình. Tôi đặt chiếc radio, vật kỷ niệm còn lại của ông lên bà n thờ từ đóâ, bà Hà tâm sự. Năm 1973, sau khi ra tù, chiếc radio lại theo ông suốt những ngà y ra trận. âSuốt từ năm 1973, đến lúc mất năm 1997, chiếc radio ông dùng mở nghe tin tức qua Đà i phát thanh tiếng nói Việt Nam, tin tức quốc tế, trong nước, nắm tình hình phổ biến cho anh em đơn vị, bè bạn, người thânâ, bà Hà nhớ lại.
Hôm chúng tôi và o thà nh phố Hồ Chà Minh, đến thăm bà cũng là để xin chiếc đà i của ông về là m vật lưu niệm tại bảo tà ng, chiếc radio do Nhật sản xuất lại được bà đặt trên bà n thờ, gần với ảnh ông. âChỉ khác là lần nà y ông ra đi mãi mãi!â. Kể đến đây, bà Hà lấy khăn lau nước mắt. Bà đưa cho chúng tôi xem lại cuốn sổ tang. Những bức ảnh, những lời của đồng đội, người thân khắp mọi miền đất nước, ở nước bạn đến chia buồn, khóc thương, ca ngợi ông – một vị tướng trưởng thà nh từ liên lạc viên, với những trận đánh âxuất quỷ nhập thầnâ. Trên bà n thờ, bức ảnh ông, vầng trán rộng, đôi mắt sáng, đầy vẻ hiên ngang. Đồng đội viếng ông hai câu: âSống anh dũng, thác trường tồnâ…
Lặng đi một hồi, bà quay ra bà n thờ thắp nén nhang, cúi xin ông, rồi lấy chiếc radio xuống. Bà ôm chặt nó và o lòng như muốn giữ lại hơi ấm từ kỷ vật thiêng liêng ấy. Bà rút chiếc khăn lau mấy giọt nước mắt lăn trên gò má nhăn nheo…Trao kỷ vật cho nhân viên bảo tà ng, bà nói: âNếu vì việc nghĩa, các cháu đưa về bảo tà ng giáo dục các thế hệ sau, chắc ông cũng mãn nguyệnâ. Từ đó, chiếc radio mang ký hiệu 9350-K 1066, được trân trọng trưng bà y tại Bảo tà ng Lịch sử Quân sự Việt
BÃ i 3: Bốn kỷ vật của Đại t Văn Tiến Dũng
|
Ngay cả lúc chỉ huy chiến dịch ông cũng đội âmũ mềmâ |
Đại tướng Văn Tiến Dũng được giao trọng trách chỉ đạo trực tiếp nhiều chiến dịch lớn: từ chiến dịch Đường 9 Nam Là o (1971), Trị Thiên (1972), Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên (1975), Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chà Minh (4/1975)… Cũng bởi thế, ông là vị tướng đã để lại khá nhiều kỷ vật cho Bảo tà ng Quân đội Việt
Tướng ra trận mang theo… nồi
Sinh ngà y 2/5/1917, ở xã Cổ Nhuế (Hà Nội), ngoà i cái tên Văn Tiến Dũng, ông còn có bà danh Lê Hoà i. Hoạt động cách mạng từ thời còn đang là anh công nhân của Xưởng dệt Hà Nội. Sau nà y, có lần ông tâm sự: âChuyện tôi theo cách mạng cũng là chuyện tình cờ. Thời ấy, Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939) sôi nổi lắm, phong trà o công nhân đấu tranh đòi tự do, dân chủ cà ng mạnh, nó cứ hút mình và o…â. Ã"ng trở thà nh đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương khi vừa tròn 20 tuổi. Nhìn cái vẻ thư sinh của chà ng trai gốc Hà Nội, không ai nghĩ, cậu thanh niên Văn Tiến Dũng lại là một người Cộng sản gan lì có tiếng. Trong đời hoạt động của ông, hơn ba lần bị giặc Pháp bắt giam, từng bị chúng kết án tử hình vắng mặt…
Đầu những năm 1990, một số nhân viên Bảo tà ng Quân đội đến nhà ông xin số ảnh ông chụp chung với Bác Hồ để trưng bà y. Gạ mãi, ông dẫn chúng tôi đi thăm phòng lưu giữ những kỷ vật suốt thời kỳ hoạt động cách mạng: từ những kỷ vật thời kỳ ông là m Uỷ viên Thường vụ Uỷ Ban Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ (Bộ Tư lệnh Quân sự miền Bắc Đông Dương), thời kỳ chỉ đạo vũ trang già nh chÃnh quyền ở các tỉnh Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá tháng 8/1945… đ̓ những kỷ vật của thời kỳ ông là Cục trưởng Cục ChÃnh trị Quân đội Quốc gia Việt
Mỗi kỷ vật của ông, đều gắn với một câu chuyện đời thường nhưng đầy ý nghĩa. Chỉ tay và o hai chiếc nồi, ông kể: âCuối năm 1974, đầu năm 1975, ăn tết xong, tôi trực tiếp đi thị sát chiến trường Tây Nguyên, để chuẩn bị cho chuyến đi, người cần vụ mang theo hai chiếc xoong (một xoong có cán, một không). Và o đến Quảng Bình thì người dân tặng tôi một con gà mái là m thịt, chú cần vụ định giết thịt luôn, nhưng tôi bảo âchú đừng thịt mà cứ mang theoâ. Chú cần vụ cho gà và o lồng xách. Trên đường và o chiến trường, lúc đi xe, khi đi bộ. Dừng chân ở đâu thì cần vụ lại cho gà ăn, để nó đẻ trứng. Trong khẩu phần ăn ở chiến trường hồi đó, dù mình là Đại tướng, Tư lệnh chiến dịch Hồ Chà Minh nhưng cũng chỉ toà n lương khô và thịt hộp. Nên gà đẻ trứng nà o thì cần vụ lại hấp trứng với cơm, coi như đó là một bữa ăn tươiâ. Con gà mái đẻ ấy là nguồn sản sinh trứng bồi dưỡng cho Đại tướng trong suốt chiến dịch Tây Nguyên.
âTướng mũ mềmâ
Những người ở gần ông thường thấy tướng Dũng gắn bó rất chặt chẽ với chiếc mũ lưỡi trai mềm: kể cả khi đi họp, lúc ở chiến trường…thì ông đều đội. Bởi thế, có người vẫn thân thiện gọi ông là âTướng mũ mềmâ. Khi ông đã nghỉ, nhân viên bảo tà ng đến hỏi xin chiếc mũ mềm mà ông vẫn thường đội về trưng bà y, ông bảo âđó là vật bất li thân, là m sao cho đượcâ. Rồi ông kể: âNăm 1965, máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc, ông đi thăm các đơn vị bộ đội pháo cao xạ ở Khu 4. Nắng Khu 4 cháy bỏng, nhưng bộ đội trực chiến phải ngồi trên mâm pháo, dưới cát nóng, trên trời nắng cháy, nhưng chiến sỹ lại phải đội trên đầu mũ sắt. Hỏi âanh em đội mũ sắt có nóng không?â, anh em bảo cũng, lại hỏi âthế có chịu được không?â, trả lời âchịu được!â. Sau chuyến đi ấy, hình ảnh những người lÃnh pháo binh phải đứng giữa trời chống chọi với cái nóng cứ ám ảnh ông mãi. âTôi cứ day dứt, phải nghĩ ra cái gì đó bọc chiếc mũ sắt cho anh em đỡ nóngâ, ông tâm sự. Ã"ng liên tưởng đến chiếc mũ mềm, có lưỡi trai cứng bên ngoà i của quân đội Pháp. Rồi quân đội của một số nước cũng có chiếc mũ lưỡi trai kiểu như vậy. Nghĩ vậy, ông gọi Cục quân trang lên hỏi: âCác anh xem có thể cải tiến được cái mũ không?â, rồi ông gợi ý những kiểu mũ có lưỡi trai của quân đội các nước. Cục quân trang về may một chiếc mũ cho Ã�! �ng đội thử, ông khen: âThế nà y là tốt, chỉ cần chỉnh sửa chút Ãt và gắn sao và ng phÃa trước là đẹpâ. Đội bình thường cái lưỡi trai có thể che nắng phÃa trước đỡ chói mắt, còn khi cần chỉ cần quay lưỡi trai ra phÃa sau thì sẽ che nắng được sau gáy. Từ đó, khắp các chiến dịch Tây Nguyên, Hồ Chà Minh, đi đâu ông cũng đội mũ mềm. Tại Đại hội Anh hùng chiến sỹ thi đua toà n miền Nam 1966-1967, chiếc mũ mềm bắt đầu được sản xuất hà ng loạt cho bộ đội. Chiếc mũ được giữ trong quân đội đến năm 1992, thì được thay bằng mũ kêpi.
Và đôi già y vạn dặm
Chị Trần Thanh Hằng, nhân viên Bảo tà ng Quân đội kể rằng, trong một lần đến xin tướng Dũng những đôi già y mÃ
Những chức vụ Đại tướng Văn Tiến Dũng từng đảm nhiệm |
ông đã đi trong các chiến dịch Đường 9 – Nam Là o, Tây Nguyên và chiến dịch Hồ Chà Minh về là m vật trưng bà y, mới nghe được câu chuyện khá thú vị: trong suốt những chiến dịch ấy, Đại tướng chỉ sử dụng đúng một đôi già y, do chÃnh ông đặt một người thợ ở Hà Nội đóng. Hỏi vì sao? ông nói: âVì kiểu chân tôi hơi khác loại, nên không đi được già y theo cỡ chung mà phải đặt đóngâ. Cũng chÃnh thế, ông rất quý đôi già y đó. Trong suốt các chiến dịch mà ông trực tiếp chỉ huy, đôi già y đã được ông thay đế đến 5 lần. Cứ mòn đế ông lại đóng lại. âChúng tôi phải năn nỉ mãi, Đại tướng mới ârút ruộtâ mang đôi già y tặng bảo tà ngâ, chị Hằng nói.
Trước khi mất, tướng Dũng còn tự tayng tặng Bảo tà ng Quân đội khẩu súng ngắn K59, do Liên Xô viện trợ giúp Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, được Bộ Tổng tham mưu trang bị khi ông là m Tổng tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Khẩu súng ấy được ông dùng từ năm 1970 để tự vệ trên đường đi công tác tại các chiến trường. Ã"ng bảo: âTuy khẩu súng được ông mang theo trong suốt các chiến dịch, nhưng chưa khi nà o ông phải dùng nóâ. Một lần, nhân ngà y 30-4, ông đến Bảo tà ng mang theo bộ quân phục, còn nguyên cả quân hà m Đại tướng tặng Bảo tà ng. Sau đó một năm thì ông mất…
Bà i 4 : âChiến lợi phẩmâ của vị tướng anh hùng thu được của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
|
Ã"ng Võ Viết Thanh năm 1970 , khi ông mới được phong Anh hùng LLVTND |
Điều gây chú ý với chúng tôi là bộ sưu tập vũ khà cá nhân treo trên tường, trưng bà y trong tủ. Toà n súng là …súng.
Mê súng từ nhỏ, trưởng thà nh từ một người lÃnh âBiệt động Sà i Gònâ, ông là một trong những người đầu tiên đặt chân và o Dinh Độc Lập, giải phóng Sà i Gòn. Được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Với mỗi chiến công, ông đều có những kỷ vật là …súng. Ã"ng chÃnh là cựu Chủ tịch UBNDTP Hồ Chà Minh Võ Viết Thanh.
âBảo tà ngâ súng trong… nhÃ
Ngôi biệt thự số 9, đường Tú Xương, phường 7, quận 3 là nhà ông. Cánh cửa sắt hé mở. Biết chúng tôi hẹn trước, người giúp việc nói: âông đang đợi trong nhà â. Mặc dầu ông đã rời nhiệm sở từ mấy năm nay, nhưng ông vẫn khá bận rộn. Sau hai lần lỡ hẹn, lần nà y chúng tôi gặp được ông, khi đó kim đồng hồ đã chỉ 21 h.
Dáng cao gầy, đi lại nhanh nhẹn, vầng trán rộng trên khuôn mặt cương nghị. Ã"ng nói vừa mới từ Tây Nguyên về, rồi sáng mai lại phải đi tiếp Cần Thơ. Công việc quá bận nên lỡ hẹn, mong chúng tôi thông cảm vì sự chậm trễ. Ã"ng đưa chúng tôi lên căn phòng lưu niệm của gia đình. Ã"ng cho biết, vật gì ở đây cũng gắn với ông, với những kỷ niệm về các trận đánh, về đồng đội, người thân, trong đó người còn, người mất. Chúng tôi ngạc nhiên vì ý thức giữ gìn và sự cẩn thận, tỷ mỷ của gia chủ.
Điều gây chú ý với chúng tôi là bộ sưu tập vũ khà cá nhân treo trên tường, trưng bà y trong tủ. Toà n súng là …súng. Như đoán được ý nghĩ đó, ông lấy ra từng khẩu rồi kể: âĐây là Khẩu M-79 mang số hiệu A-90951, chiến lợi phẩm tôi thu được của bọn Mỹ năm 1963, khi chúng cà n quét công xưởng ở Cồn Rừng, xã Thanh Phong, huyện Thanh Phú. Đây là khẩu AK kiểu báng gập Liên Xô sản xuất, mang số súng 61 K2615, do Xưởng sản xuất vũ khà của tỉnh đội Bến Tre trang bị cho, khi tôi là đại đội phó của xưởng năm 1964. Đây là khẩu súng ngắn K-59 do Liên Xô sản xuất mang số súng 6237, tỉnh đội Bến Tre trang bị năm 1968… âTất cả các loại súng nà y là vật bất ly thân, lúc nà o tôi cũng mang theo sử dụng khi chiến đấuâ, ông tâm sự. Khẩu AK dùng ắn thẳng, khẩu M-79 dùng bắn cầu vồng, khẩu K-59 dùng tự vệ hoặc khi chỉ huy bộ đội chiến đấu. Với các loại vũ khà nà y, ông đã cùng đồng đội chiến đấu nhiều trận, diệt hơn 180 tên Mỹ Ngụy, bắn hỏng một tà u chiến, bắn rơi và phá huỷ 5 máy bay lên thẳng của địch, góp phần bảo vệ căn cứ, đảm bảo an toà n cho xưởng sản xuất vũ khà từ năm 1964 đến khi tiến hà nh chiến dịch Hồ Chà Minh.
Và khẩu súng bắn tỉa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
|
Hai trong số 4 khẩu súng tướng Thanh trao tặng bảo tà ng (súng dà i thu được của Nguyễn Văn Thiệu) |
Cầm khẩu súng bắn tỉa trên tay, ông say sưa giới thiệu: âCòn khẩu súng bắn tỉa nà y do Bỉ sản xuất ( Made in
Đứa con mồ côi trở thà nh Trung Tướng-anh hùng
Ã"ng sinh ra trên quê hương Bến tre, rợp bóng dừa. Tuổi thơ theo cha và o xưởng quân giới học chữ, học nghề lúc mới tròn 7 tuổi. Những năm tháng sống cùng cha ở Xưởng quân giới, âmáuâ thÃch súng đã ngấm trong ông. Lớn lên, tham gia Đội võ trang tuyên truyền. Năm 1959, cha mẹ ông đều bị địch bắt giam tại nhà tù Phú Lợi. Ngà y 26 tháng 8 năm 1962, chúng giết hại, ném xác cha, mẹ xuống sông. Chuyện nà y ba năm sau ông mới được biết qua bà Ba Định, nguyên Phó tư lệnh quân giải phóng miền
Từ một cậu bé con mê súng, anh lÃnh âbiệt độngâ, ông trở thà nh Anh hùng, được thăng tới quân hà m Trung tướng. Ã"ng từng là m đến chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục An Ninh. Trước khi nghỉ hưu, ông là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thà nh phố Hồ Chà Minh. Mặc dầu rất yêu quý những kỷ vật của mình, nhưng ông đã trao tặng cả bốn khẩu súng đó (ông đều có giấy phép sử dụng-TG) cho Bảo tà ng lịch sử quân sự, trong đó c khẩu súng bắn tỉa thu được của Nguyễn Văn Thiệu. âVì mỗi người dân cần phải có nhiệm vụ đóng góp hiện vật cho Bảo tà ng Lịch sử Quân sự Việt Nam, nhằm tuyên truyền, giáo dục truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam cho các thế hệ sau, nhất là thế hệ trẻâ, ông nói.
BÃ i 5: Tấm bản đồ chỉ đường cho Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu
|
Trung đoà n trưởng Nguyễn Huy Hiệu (thứ 2 từ phải qua) đang được má Sáu (thứ 3 từ phải qua) chỉ nơi đồn trú của địch trên bản đồ. |
Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Huy Hiệu có lần kể rằng, trong cuộc đời âbinh nghiệpâ của mình, ông không bao giờ quên được hình ảnh má Sáu Ngẫu. Hình ảnh bà má miền
Má Sáu Ngẫu và tấm bản đồ
Lúc nà y đã sẩm tối. Đội hình hà nh quân của Trung đoà n 27 tạm dừng ở một vạt cao su bên lộ. Trung đoà n trưởng Nguyễn Huy Hiệu ra lệnh cho mọi người tản ra theo đội hình chiến đấu, cử trinh sát đi kiểm tra khu vực tạm dừng, rồi triệu tập đồng chà Trịnh Văn Thư, ChÃnh uỷ Trung đoà n, và tổ trinh sát hội ý. Ngồi phệt xuống bãi cỏ nghỉ chờ mọi người đến, Trung đoà n trưởng Nguyễn Huy Hiệu cau mà y suy nghĩ. Anh tỏ vẻ lo lắng: Ngà y mai Trung đoà n sẽ tiến công cửa Lái Thiêu để tiến và o Sà i Gòn, vậy mà giờ nà y đơn vị vẫn chưa nắm được tình hình địch ở Lái Thiêu và tuyến tử thủ Sà i Gòn. Trán ông lấm tấm mồ hôi, có giọt chớt và o mắt là m cay xè…
Theo lệnh của Sư đoà n, Trung đoà n của Nguyễn Huy Hiệu có nhiệm vụ là mũi tiến công, thọc sâu và o mở cửa Lái Thiêu. Dưới sự chỉ huy của Phó tư lệnh Sư đoà n Lê Quang Thuý, Trung đoà n theo đường Tân Uyên – Tân Ba và o đánh chiếm Lái Thiêu, bảo đảm thông đường đúng thời gian quy định. âKhó khăn lớn nhất đối với Trung đoà n lúc nà y là chưa nắm được địch và tình hình khu vực. Vậy mà chỉ có đêm nay nữa thôi, mọi việc phải quyết định rồiâ, ChÃnh ủy Trịnh Văn Thư nhớ lại.
|
Tấm bản đồ của má Sáu (ảnh phải) |
Nhá nhem tối ngà y 29 tháng 4, đội hình Trung đoà n đã đến Búng, triển khai sẵn sà ng chiến đấu. ChÃnh uỷ Trịnh Văn Thư, Tham mưu trưởng và trinh sát đã có mặt. Trung đoà n trưởng mở bản đồ, trải xuống đất rồi khoanh một vòng tròn đỏ, năm mái đầu chụm lại tìm cách đánh sao cho nhanh gọn và Ãt đổ máu. Để đảm bảo chắc thắng, chỉ còn một cách là phải quan hệ chặt chẽ với lực lượng tại chỗ của địa phương. Trung đoà n trưởng cùng ChÃnh uỷ quyết định trực tiếp đi với trinh sát và o quận lỵ, phải dựa và o nhân dân để nắm địch. Trong lúc chưa biết bắt đầu từ đâu, thì tin từ Quân đoà n cho biết, ở chợ Búng, cách Lái Thiêu 3 km, có một gia đình cơ sở cách mạng. Đó là nhà má Sáu Ngẫu. Nhà má là một ngôi nhà tranh lụp xụp nằm ở giữa là ng, bên cạnh đường 13. Trung đoà n trưởng quyết định phải và o quận lỵ ngay, tìm bằng được má Sáu Ngẫu.
Đêm đó, trời bỗng đổ mưa rà o. Con đường và o quận lỵ chìm trong bóng tối và nước mưa. Tổ trinh sát đội mưa, lặn lội vượt qua bãi tha ma, bám theo hà ng cây ven đường và o quận lỵ. Đến ngôi nhà nhỏ le lói ánh sáng đèn, Trung đoà n trưởng Hiệu, ChÃnh uỷ Thư dừng lại phÃa ngoà i, trinh sát và o nhà gõ cửa. Tiếng một bà già hỏi vọng ra: âAi gọi gì đó!?â. Trinh sát trời: âChúng tôi là Quân giải phóng, là bộ đội Cụ Hồ!â. Nghe đến tên Cụ Hồ, bà má mạnh dạn ra mở cửa, giơ cao ngọn đèn, nhìn kỹ từng chiến sỹ. Nhận ra là người của ta, má khẽ reo lên: âHồ Chà Minh!â. Nhận được âmật khẩuâ, biết chắc chắn đây là cơ sở cách mạng của ta, đồng chà trinh sát đáp lại mật khẩu: âMuôn năm!â. Má mừng quýnh lên, cầm tay từng chiến sỹ kéo và o nhà rồi khép cửa lại. Má kể, chồng má là ông Hai Nhượng trước đây hoạt động cách mạng bị địch bắt và giết hại hồi Tết Mậu Thân. Trong nhà hiện có con gái tên Phước 17 tuổi và cậu Đức 13 tuổi. Má cùng hai con tham gia hoạt động ở đây. Má đề nghị Trung đoà n trưởng có yêu cầu gì cần giúp thì cứ nói. Trung đoà n trưởng Hiệu đề nghị má cho biết tình hình địch và địa hình, đường đi và o quận lỵ Lái Thiêu. Rồi ông trải tấm bản đồ lên bà n, đối chiếu với lời má kể. Má khêu to ngọn đèn, nhìn tấm bản đồ rồi nói: âBản đồ nà y má không quen, để má lấ! y bản đồ của má!â. Nói rồi, má và o nhà lấy tấm bản đồ đô thà nh Sà i Gòn đưa cho chúng tôi. Má chỉ cho chúng tôi các trục đường, các vị trà đóng quân của địch và cho biết tình hình. Vừa nói, má vừa đánh dấu các vị trÃ: Hôm qua, địch đưa một tiểu đoà n bảo an từ Sà i Gòn ra và hai khẩu pháo 175 từ Bình Dương về tăng cường cho Lái Thiêu. Từ trục lộ 13 và o Sà i Gòn vấp trại Trung tâm huấn luyện Huỳnh Văn Lương. ở đây có khoảng 2.000 tên, có 2 chi đoà n xe tăng, 1 tiểu đoà n pháo. Ngoà i ra còn có một số tà n quân từ nơi khác chạy về. Các vị trà trong khu vực được cấu trúc kiên cố liên hoà n, ngoà i có nhiều lớp dây thép gai, xen kẽ chướng ngại vật. Ban đêm địch thiết quân luật. Cầu Vĩnh Bình địch gà i mìn, chất đầy chướng ngại vật, cầu Lái Thiêu mới là m lại, hẹp, xe tăng ta khó qua được…
âChúng con hứa sẽ trả thù cho má !â
Trung đoà n trưởng Hiệu và ChÃnh ủy Thư cùng các trinh sát xin phép má lên đường. Má âxinâ trực tiếp dẫn đường cho đơn vị. Thấy má đã ngoà i 60 tuổi, lại đêm hôm mưa gió, ChÃnh uỷ Thư động viên má và hứa: âAnh em trong đơn vị sẽ quét sạch bọn địch ở Lái Thiêu, trả thù cho má và bà con cô bá.
Có bản đồ, nắm được tình hình địch, ChÃnh uỷ Thư và Trung đoà n trưởng Hiệu nhận định: Địch tuy đông, phòng thủ có chiều sâu, nhưng tổ chức ô hợp. Tà n binh chạy về gây tâm lý hoang mang. Trận đánh qua Lái Thiêu đập tan tuyến tử thủ Sà i Gòn là hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến việc hoà n thà nh nhiệm vụ của Sư đoà n. Trung đoà n 27 đánh nhanh hay chậm đều ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian thọc sâu của Sư đoà n trong việc đánh chiếm mục tiêu. Vì vậy, bằng giá nà o cũng phải tiến công đánh qua Lái Thiêu và tuyến tử thủ Sà i Gòn theo đúng kế hoạch, thời gian. Quyết tâm của Trung đoà n là : âNhanh chóng tiêu diệt địch ở chi khu và quận lỵ Lái Thiêu, bao vây chia cắt cô lập và bức hà ng trung tâm huấn luyện của địch. Đồng thời nhanh chóng đánh chiếm cầu Bình Phước, cầu Vĩnh Bình và cầu Lái Thiêu, tạo điều kiện thuận lợi cho Sư đoà n thọc sâu, đánh và o các mục tiêu chủ yếu trong Sà i Gònâ.
Nắm được tình hình địch, Trung đoà n lên phương án tác chiến và bắt đầu tiến công Lái Thiêu lúc 4h15â sáng 30/4/1975. Sau 2 giờ liên tục chiến đấu, Trung đoà n 27 đã hoà n toà n là m chủ Lái Thiêu. Cánh cửa Bắc Sà i Gòn đã mở nhưng quân địch ở cầu Vĩnh Bình vẫn chống cự ác liệt. Đánh chiếm cầu Vĩnh Bình, ngoà i Trung đoà n 27 có Đại đội xe tăng của tiểu đoà n 66 tăng cường. Dưới sự chỉ huy dũng cảm mưu trà của đại đội trưởng Hoà ng Thọ Mạc, đại đội đã phát huy tối đa sức đột phá của xe tăng. Đồng chà Hoà ng Thọ Mạc nhảy xuống xe chỉ huy bộ đội chiến đấu, tiêu diệt địch già nh giật với chúng từng mét đường để quân ta tiến qua cầu. Hoà ng Thọ Mạc đã anh dũng hy sinh trước lúc quân ta là m chủ cầu Vĩnh Bình. (Sau chiến dịch nà y, Hoà ng Thọ Mạc đã được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND).
Hoà n thà nh nhiệm vụ mở đường, Trung đoà n liên lạc với lực lượng địa phương do đồng chà Sáu Châu và nữ đồng chà Hai Mỹ dẫn đường cho Trung đoà n và o Sà i Gòn đánh chiếm 13 mục tiêu của địch ở Gò Vấp.
âTrận đá Lái Thiêu, đập tan tuyến tử thủ Sà i Gòn đánh chiếm các mục tiêu thắng lợi của Trung đoà n 27 có sự đóng góp của má Sáu Ngẫu. Với tấm bản đồ nội đô Sà i Gòn do má Sáu Ngẫu cung cấp, Trung đoà n 27 cùng với các đơn vị trong Sư đoà n tiến đánh các mục tiêu chÃnh xác, là m giảm rất nhiều thương vong cho Trung đoà nâ, cựu ChÃnh uỷ Thư khẳng định.
Sau trận đánh nà y, tấm bản đồ được Trung đoà n trưởng Nguyễn Huy Hiệu giữ lại là m kỷ niệm. Sau nà y, cứ đến ngà y kỷ niệm 30 tháng 4, chiến sỹ các thế hệ Trung đoà n 27 lại truyền nhau câu chuyện năm xưa về má Sáu Ngẫu với cái tên rất đỗi thân thương trìu mến âBà má tham mưuâ của Trung đoà n. Với sự tÃch đó nhạc sỹ Văn Thà nh Nho sau nà y đã viết bà i hát âTấm bản đồ má traoâ. Tấm bản đồ và bà i hát đã đi và o truyền thống Trung đoà n.
Nguyễn Huy Hiệu được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1973. Bây giờ ông là Thượng tướng, ủy viên Trung ương Đảng, ủy viên thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Mới đây, đơn vị đã trao tặng Bảo tà ng Lịch sử Quân sự Việt
ze=”3″ face=”Times New Roman”> |
Thượng tướng Phạm Thanh Ngân (thứ 2 từ trái qua) đón nhận Huân chương Sao Và ng do Nhà nước trao tặng Tổng cục ChÃnh trị năm 2000 . |
Bác Hồ tặng ông tám huy hiệu cho tám lần bắn rơi máy bay, được trực tiếp gặp Bác Hồ và Bác tặng ông chiếc đồng hồ có khắc chữ….
Trong cuộc đời binh nghiệp của tướng Phạm Thanh Ngân, có một điều khá thú vị là phần lớn những kỷ vật của ông đều gắn với những kỷ niệm về Bác Hồ: Ã"ng được Bác Hồ tặng tám chiếc huy hiệu, vì tám lần bắn rơi tám chiếc máy bay. Ã"ng cũng là một trong những Anh hùng không quân được trực tiếp gặp Bác Hồ, được Bác tặng chiếc đồng hồ có khắc chữ ở mặt sau âBác Hồ tặng Phạm Thanh Ngân, tháng 12 năm 1968â…
Ã"ng khệ nệ mang chiếc cặp đựng những kỷ vật của mình ra tìm chọn những thứ trao cho nhân viên bảo tà ng. âĐây là 8 chiếc Huy hiệu Bác Hồ tặng sau mỗi lần bắn rơi máy bay Mỹ. Còn đây là chiếc đồng hồ do Liên Xô sản xuất, mặt sau khắc chữâ Bác Hồ tặng Phạm Thanh Ngân, tháng 12 năm 1968â. Còn đây là bức ảnh Bác Hồ chụp với Anh hùng chiến sỹ thi đua tiêu biểu hai miền Nam Bắc tại Phủ Chủ tịch ngà y 20 tháng 7 năm 1968…â, Tướng Ngân bắt đầu câu chuyện với chúng tôi bằng những kỷ vật mà cả cuộc đời chinh chiến trận mạc ông gắn bó.
Ã"ng kể: âDạo đó đang là đầu mùa thu, 15 Anh hùng, chiến sỹ thi đua, thanh niên xung phong, du kÃch tiêu biểu, có nhiều thà nh tÃch chiến đấu và phục vụ chiến đấu xuất sắc ở hai miền Nam Bắc được mời đến Phủ Chủ tịch gặp Bác. Nhận được giấy triệu tậm của Quân chủng, tôi mừng lắm. Chỉ mong sao cho đến ngà y được gặp Cụ, thế rồi ngà y đó cũng đếnâ.
Bước chân và o Phủ Chủ tịch, một dãy bà n dủ khăn trắng, dưới vòm cây xanh mát, quanh vườn trà n ngập hương hoa ngọc lan và tiếng chim rÃu rÃt. Bác ngồi giữa bà n, hai bên là hai chiến sỹ gái ở miền
Phạm Thanh Ngân bắt đầu tham gia chiến đấu từ tháng 6 năm 1966, khi địch đánh kho xăng Đức Giang ( Hà Nội) và Thượng Lý (Hải Phòng)â¦mở đầu bước leo thang mới đánh phá hệ thống xăng dầu và Thủ đô Hà Nội. Lúc đầu Phạm Thanh Ngân rất bỡ ngỡ, vì ngay cả ở dưới mặt đất còn chưa đánh địch bao giờ huống chi đánh chúng ở trên trời. Được đồng chà Trần Hanh truyền đạt cho một số kinh nghiệm, nhưng khi gặp địch trận đầu, địch rất đông, gấp hà ng chục lần máy bay của ta, lần đầu tiên tham gia chiến đấu, Ngân không bắn rơi được máy bay Mỹ nà o. Đến khoảng tháng 10, tháng 11 năm 1967, Phạm Thanh Ngân tham gia các trận chiến đấu dồn dập hơn. Lại được Nguyễn Văn Cốc bay cùng. Hai người thường bay yểm hộ cho nhau.
|
Chiếc đồng hồ Bác Hồ tặng |
Máy bay Mỹ mỗi khi đi đánh phá miền Bắc, tốp đi đầu là bọn cường kÃch F-105, theo sau là máy bay F-4, F-4C để yểm hộ. Thời gian đầu, Phạm Thanh Ngân không bắn được máy bay cường kÃch của địch. Mục tiêu lúc đó đặt ra là phải là m sao bắn rơi được bọn cường kÃch để chúng không ném bom phá hoại miền Bắc được, nhất là Hà Nội. Trận ngà y 18 tháng 11 năm 1967, Phạmân phối hợp với tên lửa đánh một trận rất hay. Hôm đó một tốp máy bay của địch gồm 12 chiếc F-105 và 4 chiếc F-4 bám sau, xuất hiện trên bầu trời Yên Bái- Phú Thọ. Chúng bay từ Thái Lan sang, vòng xuống núp sau dãy núi Tam Đảo hướng và o Hà Nội. Sau khi phát hiện mục tiêu, Ngân nhanh chóng thông báo và lệnh cho máy bay số 2 công kÃch tốp cường kÃch bên phải còn mình xông thẳng và o tốp bên trái, mặc dù biết phÃa sau máy bay F-4 của địch đang bám theo. âTôi đột ngột tăng tốc độ, phóng một quả tên lửa thứ nhất và o tốp đi đầu, sau Ãt giây, máy bay địch bốc cháy. Lúc nà y tốc độ tiếp cận rất lớn, tôi cho máy bay vọt lên rồi phóng quả tên lửa số 2 tiêu diệt chiếc F-105 thứ 2 của địch. Cùng lúc, máy bay số 2 cũng phóng tên lửa và o tốp máy bay bên phải, một máy bay địch trúng đạn bốc cháyâ, ông nhớ lại. Trận đó biên đội của Ngân bắn rơi 3 chiếc, tên lửa đối không của ta cũng hạ được 6 chiếc, trong đó có một chiếc F-105 do một tên đại tá phi công Mỹ lái. Đây lÃ! trận đánh hiệp đồng tuyệt đẹp của không quân và tên lửa phòng không. Trong 2 ngà y tiếp theo, biên đội của Ngân bắn rơi thêm 2 chiếc nữa…â.
Với thà nh tÃch bắn rơi 8 máy bay Mỹ, chỉ huy đơn vị bắn rơi 8 chiếc khác, Phạm Thanh Ngân được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang năm 1969. Từ năm 1989 đến năm 1996, ông là Tư lệnh Quân chủng Không quân. Từ năm 1998 đến năm 2001, ông là Chủ nhiệm Tổng cục Chinh trị. Khi đã là Uỷ viên Bộ ChÃnh trị, Thượng tướng- Chủ nhiệm Tổng cục ChÃnh trị, ông vẫn nhớ như in những ngà y tháng chiến đấu oanh liệt đó. Hiện ông là Trưởng ban chỉ đạo tổng kết chiến lược về quân sự và quốc phòng trực thuộc Bộ ChÃnh trị. |
Thượng tướng Phạm Thanh Ngân hồi tưởng: âTôi kể xong, bác Phạm Văn Đồng hỏi tiếp: âThế đồng chà lái được loại máy bay gì?â Tôi trả lời: âThưa Bác, cháu lái được MIG 17 và MG-21â. Bác Đồng lại hỏi: âThế đồng chà lái máy bay nà o tốt hơnâ. Tôi trả lời: âThưa bác, cháu lái máy bay MiG-21 tốt hơn ạâ. Bác Đồng lại hỏi: âThế đồng chà bay được bao nhiêu giờ rồi?â. Tôi đáp: âThưa, được khoảng 200 giờ ạ!â. Thế số anh em mới về lái có tốt không?. Tôi trả lời: âDạ thưa, số anh em mới về trẻ, khoẻ có kiến thức nhưng chưa có kinh nghiệm thực tiễn. Các đồng chà ấy tương lai sẽ rất giỏi ạ !â…
Nghe tôi báo cáo xong, Bác Hồ căn dặn: âCác chú phải chăm học tập, rèn luyện hơn nữa, cà ng học tập, cà ng tiến bộ, cà ng tiến bộ thì đánh địch cà ng già nh thắng lợiâ. Tôi nhìn Bác lòng dâng trà o cảm động.
Ã"ng lấy từng kỷ vật. Chiếc đồng hồ đeo tay nhìn như còn mới. Ã"ng nói: âđây là chiếc đồng hồ của Bác Hồ tặng cho những người bắn rơi nhiều máy bay Mỹ khi Người đến thăm Quân chủng Phòng không-Không quân. Tôi giữ nguyên trong hộp là m kỷ niệm từ đó đến giờ. Chợt nhớ ra điều gì, ông chạy và o buồng lấy ra chiếc mũ bay. Ã"ng nói: âCòn đây nữa, chiếc mũ nà y cùng tôi lập chiến công bắn rơi 8 máy bay Mỹ từ năm 1966-1969. Tất cả những gì quý nhất trong cuộc đời chiến đấu, tôi trao cho bảo tà ng để góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ Bộ đội Cụ Hồ.
Bà i 7 : Khẩu thần công dưới nhà Đại tướng
> |
Đại tướng |
Trong số tướng lĩnh Việt Nam, Đại tướng Chu Huy Mân có niềm tự hà o riêng, ông là vị tướng duy nhất có âthâm niênâ tuổi Đảng trùng với âthâm niênâ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng bao nhiêu tuổi, tuổi Đảng của ông cũng bấy nhiêu năm. Chuyện ông phát hiện được khẩu thần công ở ngay dưới ngôi nhà mình cũng là cả một câu chuyện kỳ thú…
Súng thần công dưới nhà Đại tướng
Từ cái đận, nhà văn Chu Lai cho ra đời tác phẩm âHà Nội Phốâ, người dân Hà Nội vẫn thường gọi phố Lý
Năm 2001, gia đình ông đang sửa nhà để chuẩn bị cho lễ mừng thọ lần thứ 90 của vị tướng già . Buổi sáng ngà y 25 tháng 5, tốp thợ đà o đường ống cũ sau nhà , đến độ sâu 80 cm, phát hiện một vật gì rất rắn, họ lấy xà beng chọc xuống không nhầm nhò gì. Họ cà ng đà o, cà ng thấy vật nà y khá dà i bèn báo với gia đình.
Tốp thợ tiếp tục đà o rộng ra. Đến khi chiếc hố đà o rộng ra, chu vi dễ gần đến 2 mét, thì vị tướng già phát hiện đó là một khẩu thần công. âTôi gọi anh tổ trưởng, tổ chức hơn 10 người dùng chão, ròng rọc đưa lên khỏi mặt đất rồi khênh ra đây, rửa sạch. Tôi loay hoay tìm trên súng có đặc điểm gì không? không thấy chữ gì, lâu quá, súng han gỉ, không còn nhìn ra chữ gì nữa…â, Đại tướng nhớ lại.
Người dân Lý
|
Khẩu súng thần công của tướng |
để lại ngay dưới lòng đất, thuộc khuôn viên ngôi nhà của đại tướng, ở âphố nhà binhâ. Phải chăng các bậc tiền bối đã ban cho đại tướng súng thần công nà y (?).
Còn con trai ông, dự định sẽ rửa sạch khẩu thần công, xây một bệ đá thật đẹp ở trước cửa đặt khẩu thần công lên đó, để mọi người đến đây có thể chiêm ngưỡng nó. âNhưng buổi trưa ăn cơm xong, tôi bật ti vi xem bản tin thời sự của Đà i truyền hình Việt Nam thấy Quốc hội đang thảo luận về Luật Di sản Văn hoá. Tôi nghĩ đây là tà i sản quốc gia, mọi người dân phải có trách nhiệm đóng góp hiện vật cho bảo tà ng, để giữ gìn, bảo quản được lâu dà i, phát huy tác dụng trong công tác nghiên cứu và giáo dục. Tôi nghĩ ngay đến chuyện phải chuyển ngay khẩu súng thần công nà y đến Bảo tà ng Quân đội (nay là Bảo tà ng Lịch sử Quân sự Việt
Chị Trần Thanh Hằng, nhân viên được Bảo tà ng cử đến nhận khẩu súng thần công kể: âChiều đó, ông đưa chúng tôi tới góc vườn, nơi khẩu súng thần công đã được đưa lên khỏi mặt đất và được rửa sạch bùn đất. 15 giờ 30 phút cùng ngà y, khẩu súng thần công được cẩu lên xe chuyển về bảo tà ng, được đặt trưng bà y dưới chân kỳ đà i Hà Nội.
Trước khi đưa ra trưng bà y, Bảo tà ng mời các chuyên gia về súng thần công của Bảo tà ng Lịch sử và Viện Khảo cổ học đến xác định niên đại. Các nhà nghiên cứu căn cứ và o hình dáng cấu tạo, chất liệu, cỡ nòng, độ dà i đưa ra kết luận: Súng thần công được chế tạo từ thời Nguyễn có niên đại khoảng cuối nửa thế kỷ XIX. Khẩu thần công nà y có khả năng các cụ xưa dùng bảo vệ thà nh Hà Nội.Sau đó Ãt lâu, Tổng Bà thư Nông Đức Mạnh và Đại tướng Chu Huy Mân đến thăm Bảo tà ng Lịch sử Quân sự Việt Nam đã chụp ảnh lưu niệm cạnh khẩu thần công nà y.
Và chiếc đồng hồ Bác tặng
|
|
Với vóc dáng đậm, nhanh nhẹn, vầng trán rộng, nước da hồng hà o, nét mặt cương nghị, khó ai đoán được ông đã ở tuổi ngoà i 90. ở ông toát lên một phẩm chất đặc biệt, một tÃnh cách mạnh mẽ. Ngoà i khẩu súng thần công, ông đã hiến tặng bảo tà ng 5 kỷ vật quý giá của cuộc đời quân ngũ, cuộc đời của vị tướng cầm quân đánh giặc gan góc, lừng lẫy một thời ở chiến trường Khu 5.
Trong số kỷ vật đó có chiếc đồng hồ Wyler do Chủ tịch Hồ Chà Minh tặng ông tháng 5 năm 1957. Hỏi vì sao Bác Hồ lại tặng đồng hồ cho ông, ông bảo: âHồi đó ông Cụ chỉ nói ngắn gọn âBác tặng đồng hồ cho chú vì chú có thà nh tÃch giúp Đảng, nhân dân cách mạng Là o xây dựng lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Phápâ. Mặt sau chiếc đồng hồ khắc chữ Hồ Chà Minh bằng chữ Hán. Đây là một trong ba chiếc đồng hồ, Chủ tịch Hồ Chà Minh tặng cho ba cán bộ quân đội có đóng góp công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp (Đại tướng Chu Huy Mân, đồng chà Nguyễn Chánh- Tổng cục trưởng Tổng cục Cán bộ và đồng chà Nguyễn Bá Phát- Cục trưởng Cục bờ biển).
Ã"ng cười hiền hậu và nói với chúng tôi, đã có lúc nghĩ lại, tôi muốn đề nghị bảo tà ng cho mượn lại chiếc đồng hồ, tôi sẽ đặt là m một chiếc hộp sơn son thếp và ng thật đẹp đặt trên bà n thờ gia đình, để tôi luôn được nhớ lại những kỷ niệm của những năm tháng đánh giặc dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự dìu dắt của Chủ tịch Hồ Chà Minh. Khi tôi đi theo Bác Hồ, gia đình sẽ gửi lại bảo tà ng. âNghĩ vậy, nhưng là m sao mình phạm Luật di sản văn hoá được.
Hiện vật bảo tà ng là tà i sản vô giá của quốc gia, của dân tộc, nó có những nguyên tắc riêng. Hiện vật được lưu giữ và trưng bà y ở bảo tà ng có tác dụng giáo dục lòng yêu nước và những tình cảm cách mạng trong sáng cho các thế hệ đặc biệt là thế hệ trẻ là tốt lắmâ, ông tâm sự.
Vị Đại tướng duy nhất và o Đảng
từ năm 1930
Ã"ng tên thật là Chu Văn Điều, quê ở xã Yên Lu, tổng Yên Trường, phủ Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Nay là xã Hưng Hóa, thà nh phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Tham gia cách mạng từ năm 1929, được phân công là m Phó đội Tự vệ đỏ. Cuối năm 1930, ông được kết nạp và o Đảng Cộng sản Đông Dương. Ã"ng từng bị thực dân Pháp bắt giam lần thứ nhất và o tháng 6 năm 1931. Tháng 5 năm 1935, ông đổi tên là Chu Huy Mân. Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, năm 1954, ông là ChÃnh ủy Đại đoà n 316. Trưởng đoà n Cố vấn chuyên gia giúp Cách mạng Là o xây dựng lực lượng vũ trang, giữ cương vị Đoà n trưởng Đoà n 100 (Đoà n chuyên gia Quân sự Việt
Từ năm 1967 đến năm 1975, ông là Tư lệnh Quân khu 5, Phó bà thư Đảng ủy Quân khu, ChÃnh ủy chiến dịch Huế- Đà Nẵng. Sau ngà y giải phóng miền Nam, từ năm 1975 đến năm 1976, ông là ChÃnh uỷ, kiêm Tư lệnh, Bà thư Đảng uỷ Quân khu 5. Đại hội đại biểu toà n quốc lần thứ IV của Đảng, năm 1976, đồng chà được bầu và o Ban Chấp hà nh Trung ương và Trung ương bầu là m Uỷ viên Bộ ChÃnh trị và được Bộ ChÃnh trị giao trọng trách Phó bà thư Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục ChÃnh trị (1977-1986), phụ trách công tác giúp Cách mạng Là o, Giám đốc Trường Nguyễn ái Quốc. Ã"ng là đại biểu Quốc hội khoá II,VI,VII, Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước khoá VII, được Quốc hội bầu là m Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước (1981-1986), là Uỷ viên Ban Chấp hà nh Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá III, IV, V, Uỷ viên Bộ ChÃnh trị khoá IV,V.
Với những cống hiến to lớn đối với dân tộc, với những thà nh tÃch đặc biệt xuất sắc, ông được Đảng, Nhà nước trao tặng: Huân chương Sao và ng, Huân chương Hồ Chà Minh, Huân chương Quân công hạng nhất và nhiều huân chương cao quý khác. Đặc biệt ông là vị đại tướng duy nhất được Đảng, Nhà nước tặng huy hiệu 70
năm tuổi Đảng.
Bà i 8: Vị đại tướng đầu tiên và những kỷ vật vô giá
Đại tướng Võ Nguyên Giáp |
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã trao cho Bảo tà ng Lịch sử Quân sự Việt Nam 128 hiện vật lịch sử trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Ã"ng là vị đại tướng đầu tiên của quân đội ta, là người giữ trọng trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng suốt 30 năm. Mỗi kỷ vật của ông đều gắn với những câu chuyện đầy cảm động…
Đại tướng tuổi 37
Những năm gần đây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trao cho bảo tà ng Lịch sử Quân sự Việt Nam khá nhiều hiện vật lịch sử gắn với ông và quân đội trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và công cuộc bảo vệ Tổ quốc. Trong số đó có bộ quân phục đại lễ ông mặc trong lễ phong quân hà m cấp tướng của quân đội ta và bức ảnh Bác Hồ, cùng các lãnh đạo Đảng, Nhà nước chụp với các đồng chà được phong quân hà m cấp tướng năm 1958, tại Bộ Quốc phòng ở Hà Nội. Các tướng lĩnh được phong trong bức ảnh hồi đó còn rất trẻ, nhiều người sau nà y trở thà nh Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tham mưu trưởng, Tư lệnh các mặt trận, Quân khuâ¦những vị tướng lừng danh đến kẻ thù khi nghe tên cũng phải nể trọng.
Cầm bức ảnh trên tay, vị tướng già bồi hồi nhớ lại kỷ niệm sâu sắc nhất suốt cuộc đời mình, một lễ phong quân hà m cấp tướng diễn ra trước sự kiện trong tấm ảnh 10 năm trời. âĐó là và o một buổi chiều ngà y 25 tháng 1 năm 1948, ở Việt Bắc, tôi vinh dự được dự lễ phong quân hà m cấp tướng. Dưới vòm lá xum xuê của cây rừng, ven dòng suối nhỏ, một hội trường mới được dựng lên, trên lợp bằng phên nứa. Trong hội trường, hai bên tường là hai hà ng khẩu hiệu cắt bằngấy: âTrường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi; thống nhất độc lập nhất định thà nh côngâ. Dưới lá cờ đỏ sao và ng, là bà n thờ Tổ quốc. Bác Hồ và cụ Bùi Bằng Đoà n, Trưởng ban Thường trực Quốc hội đứng hai bên. Hà ng ghế trên cùng là các vị trong Hội đồng ChÃnh phủ, phÃa sau là các đại biểu quân, dân, chÃnh, đảng. Bác Hồ đọc Sắc lệnh 111/ SL, ngà y 20 tháng 1 năm 1948, phong quân hà m cấp đại tướng cho tôi khi đó giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, kiêm Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và nhiều đồng chà khác như: phong quân hà m trung tướng cho đồng chà Nguyễn Bình- Khu trưởng chiến khu 7, kiêm uỷ viên Quân sự Nam bộ; phong quân hà m thiếu tướng cho các đồng chà Hoà ng Văn Thái- Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam, Nguyễn Sơn- Khu trưởng khu 4, Chu Văn Tấn- Khu trưởng khu 1, Huỳnh Phan Hộ- Khu trưởng chiến khu 9, Trần Tử Bình- Trưởng phòng Kiểm tra cán bộ, Văn Tiến Dũng- Cục trưởng Cục! ChÃnh trị, Lê Hiến Mai- ChÃnh trị viên chiến khu 2, Trần Đại Nghĩa- Quân giới cục trưởng, truy phong thiếu tướng cho đồng chà Dương Văn Dương- Khu phó chiến khu 7 hy sinh năm 1946.
|
Bức ảnh kỷ luật lễ phong tướng năm 1958 mà Tướng Giáp tặng Bảo tà ng. |
Tôi được mời lên nhận sắc lệnh. Bằng một giọng trang nghiêm, Bác nói: âHôm nay, thay mặt ChÃnh phủ và nhân dân, nhân danh Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà , Bác trao cho chú quân hà m đại tướng để chú điều khiển binh sỹ là m tròn nhiệm vụ mà quốc dân phó thác choâ. Đồng chà Phan Anh, thay mặt Hội đồng ChÃnh phủ phát biểu lời chúc mừng. Đồng chà Tạ Quang Bửu, thay mặt Bộ Quốc phòng bà y tỏ lời chúc mừng và đọc lời hứa của toà n thể bộ đội nêu cao tinh thần chiến đấu anh dũng dưới sự lãnh đạo của đại tướng.
Kể đến đây, ông xúc động: âCứ nhớ lại ngà y ấy, tôi lại hồi hộp, mình còn quá trẻ, mới 37 tuổi nhận quân hà m đại tướng… Không thể diễn tả hết nỗi xúc động của lòng mình lúc bấy giờ, tôi phát biểu cảm tưởng với những ý nghĩ chân thà nh tận đáy lòng thương tiếc, biết ơn các liệt sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc, biết ơn sự dìu dắt của Bác, sự quan tâm của Đảng, Quốc hội và ChÃnh phủ đã dà nh cho tôi vinh dự cao cả nà y. Tôi nói: âNhận trọng trách lớn lao mà Đảng, Bác giao cho, tôi hứa sẽ đem hết tinh thần, nghị lực là m tròn nhiệm vụ phục sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đóng góp cống hiến nhỏ của mình và o sự nghiệp cách mạng vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩaâ.
Sau buổi lễ, vị Đại tướng trẻ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà và mọi người ngồi quây quần quanh Bác. Bác nhìn tướng Giáp căn dặn: âViệc phong tướng cho chú Giáp và các chú khác hôm nay là kết quả biết bao hy sinh chiến đấu của đồng bà o, đồng chÃ…. Các thế hệ đi trước chiến đấu cho độc lập mà sự nghiệp không thà nh, nhắm mắt mà còn chưa thấy độc lập, tự do. Chúng ta ngà y nay may mắn hơn, nhưng trước mắt còn nhiều khó khăn. Nghĩ tới hà ng nghìn, hà ng vạn người ngã xuống cho ngà y hôm nay, chúng ta cà ng phải cố gắng già nh cho được độc lập, tự do để thoả mãn vong linh những người đã khuấtâ. Kể đến đây, giọng ông lặng đi: âNhững lời nói tuy mộc mạc của Bác như người cha đối với những đứa con, cho đến giờ tôi vẫn thấm từng lời căn dặn của Ngườiâ.
Và tấm Huân chương Sao và ng
Còn đây là Huân chương Quân công hạng nhất, đây là Huân chương Hồ Chà Minh, tôi được Chủ tịch Hồ Chà Minh trao tặng năm 1954. Đây là Huân chương Sao và ng, tôi được Nhà nước trao tặng dịp sinh nhật lần thứ 80. Đại tướng chậm rãi kể lại: âSau khi nước Việt
Đây là tấm Huân chương Sao và ng, ông chỉ tay lên ngực, lặng lẽ cúi xuống tháo huân chương trao cho nhân viên bảo tà ng, ông kể lại: âChiều ngà y 20 tháng 8 năm 1992, tại Phủ chủ tịch, Hội đồng Nhà nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tổ chức lễ trao Huân chương Sao và ng cho tôi nhân dịp sinh nhật lần thứ 80. Chiều hôm đó, tôi đến Phủ chủ tịch sớm hơn giờ trong giấy mời. Đến nơi, tôi đã thấy đông đủ các đồng chÃ: Đỗ Mười, Tổng Bà thư, Ban chấp hà nh Trung ương Đảng; Phạm Văn Đồng, Cố vấn Ban Chấp hà nh Trung ương Đảng; Võ Văn Kiệt, Uỷ viên Bộ ChÃnh trị, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Lê Quang Đạo, Chủ tịch Quốc hội, Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Ngoà i ra còn nhiều đồng chà trong Bộ ChÃnh trị, Ban Bà thư Trung ương Đảng, Hội đồng Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc. Sau lời tuyên dương công trạng về những thà nh tÃch đặc biệt xuất sắc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc, đồng chà Nguyễn Việt Dũng, Tổng thư ký Hội đồng Nhà nước đọc quyết định tặng thưởng của Hội đồng Nhà nước. Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chà Công thay mặt Hội đồng Nhà nước gắn Huân chương Sao và ng lên ngực cho tôiâ.
Hôm đó, cũng như lần nhận Huân chương Quân công hạng nhất, Huân chương Hồ Chà Minh, tôi thực sự xúc động nhớ tới Bác Hồ, các vị tiền bối cách mạng, đồng bà o chiến sỹ, các bà mẹ Việt Nam trên cả nước đã hy sinh chiến đấu cho dân tộc để có ngà y hôm nay. Công lao của cá nhân dù quan trọng mấy cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Những tấm huân chương c quý đó vị tướng già luôn đeo trên ngực, nơi trái tim mình để luôn nhớ tới lời dạy của Bác Hồ: âNgười cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì người tà i giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dânâ.
Ã"ng nắm tay nhân viên Bảo tà ng lịch sử Quân sự, căn dặn: âNhững kỷ vật quý giá nhất của cuộc đời tôi trao cho bảo tà ng để góp phần giáo dục truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cho thế hệ trẻ. Tôi tin tưởng rằng lớp con cháu chúng ta sẽ là m sáng mãi phẩm chất âBộ đội Cụ Hồâ.
Trong cuộc đời tham gia cách mạng, hoạt động trong quân đội, đại tướng Võ Nguyên Giáp có nhiều tên nhưng đồng đội thường gọi ông với cái tên thân mật: anh âVănâ. Ã"ng sinh ngà y 25 tháng 8 năm 1911, quê ở là ng An Xá, xã Lộc Thuỷ, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Thân sinh ông là cụ Võ Nguyên Thân, một gia đình nhà nho nghèo yêu nước, dòng dõi khoa bảng. Chuyện kể rằng, và o khoảng năm 1946-1947, ở Huế, thực dân Pháp bắt được cụ, chúng tra tấn dã man và giam cầm cụ tại nhà lao thừa phủ. Tên mật thám Pháp mắng cụ: âKhông biết dạy con để con dám chống lại quân đội Pháp hùng mạnhâ. Cụ cười hiên ngang, vuốt râu nói rằng: âTôi đẻ con ra, chưa kịp dạy thì con đã bỏ nhà đi là m cách mệnh. Chừ tôi có muốn dạy con thì còn mô mà dạy? Vậy tôi nhờ quân đội Pháp hùng mạnh đi bắt giúp con tôi về đây để tôi dạy thử, coi con tôi có chịu nghe không?â. Tên mật thám Pháp tức giận, tát cụ và nhốt cụ và o âca sô âm phủâ. Rồi sau đó, chúng đem thủ tiêu cụ, bà mật chôn cụ lẫn lộn với thi hà i của nhiều người khác bị chúng giết hại. Sau nà y, gia đình, cơ quan không tìm được hà i cốt của cụ nữa.
|
Bà i 9: cây âđèn thầnâ của tướng Nguyễn Ngọc Doanh
=”00017″/> |
Cây đèn dầu và một số kỷ vật của tướng Nguyễn Ngọc Doanh |
Trong cư xá Bình Thạnh, mỗi khi đêm về ngắm nhìn thà nh phố sáng ánh điện, bất giác thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh lại nghĩ về ánh đèn dầu leo lét dưới hầm trong những đêm mưa lạnh giữa cánh rừng cao su bạt ngà n thời chiến tranh ở miền Đông Nam bộ.
Khi đó, vị tướng già lại mang cây đèn ra ngắm nghÃa, như để nhớ về những người đồng đội đã vĩnh viễn ra đi những trận chiến…ở chiến trường miền Đông Nam bộ trong những năm đánh Mỹ, chẳng ai bảo ai, mỗi chiến sỹ Trung đoà n 141 đều tìm cách là m cho mình một chiếc đèn dầu để thắp sáng mỗi khi mà n đêm phủ xuống cánh rừng. Đèn dầu được chiến sỹ là m bằng đủ các chất liệu: lọ dầu thuỷ tinh, hộp dầu lau súng, vỏ đạn M-79â¦Sau mỗi trận đánh, mỗi người về góc hầm nhỏ chìm sâu dưới lòng đất hay nửa chìm, nửa nổi, nằm bò ra, căng mắt, ngấu nghiến đọc thư nhà , là m thơ, viết thư cho người yêu, vá lại miếng áo rách trên vai, lau vết thương dẫu bằng chút ánh sáng đèn chỉ đủ toả sáng cho riêng mìmh. ánh sáng ngọn đèn là nơi người lÃnh gửi gắm nỗi niềm tâm sự riêng về quê hương, người thân, hoặc thả hồn theo những dòng kỷ niệm.
Có nhiều chiến sỹ khéo tay, dưới ánh sáng đèn còn chịu khó, tỉ mẩn cắt, gò giũa từ những mảnh xác máy bay, xe bọc thép, vỏ đạn M-79 những thứ vũ khà giết người của địch là m thà nh những chiếc lược chải tóc, ấm đựng nước, khay, chén⦠xinh xắn và tinh xảo để là m kỷ niệm. Trên mỗi sản phẩm, người chiến sỹ còn khắc ghi tên của mình, tên người yêu, một mái nhà có rặng dừa, cánh cò thấp thoáng, một tháp rùa giữa hồ Hoà n Kiếm, gợi nhớ tới một miền quê xa. Cảm xúc thể hiện trên mỗi đồ vật chÃnh là tình yêu quê hương, đất nước, một giấc mơ đẹp của người lÃnh giữa chiến trường miền Đông.
Trong rất nhiều trận đánh mà tướng Nguyễn Ngọc Doanh và đồng đội của ông đã trải qua, trận đánh trên đường 13 để lại trong ông kỷ niệm sâu sắc nhất. Năm 1972, ta mở chiến dịch Nguyễn Huệ. Chiến dịch tiến công giải phóng miền Đông Nam bộ đánh và o một bộ phận quân đội Sà i Gòn ở các tỉnh Bình Long, Phước Long, Tây Ninh, Bình Dương, nhằm giải phóng tỉnh Bình Long (cửa ngõ phÃa Bắc Sà i Gòn), khôi phục và mở rộng địa bà n âđứng chânâ ở miền Đông Nam Bộ. Trung đoà n 141 trong đội hình Sư đoà n 7 được giao nhiệm vụ chốt chặn địch trên đường số 13, đoạn đường kéo dà i 25 km từ thị xã Bình Long đến Chơn Thà nh. Đây là khu vực địa hình rất trống trảiể chốt chặn đoạn đường nà y, Trung đoà n và các đơn vị trong sư đoà n phải xây dựng nhiều cụm trận địa chốt liên hoà n, tổ chức lực lượng giữ chốt và cơ động.
Để đảm bảo bà mật, lệnh của Trung đoà n tuyệt đối không để lộ một chút ánh sáng dù là đèn pin hay đèn dầu. Trong hoà n cảnh ấy dù khó mấy, người lÃnh vẫn có cách để có ánh sáng, có lửa. Những ngọn đèn dầu tự tạo kia vẫn toả sáng dưới chiến hà o, đủ để những mái đầu chụm lại xác định vị trà trên bản đồ tác chiến, phổ biến nghị quyết lãnh đạo của Trung đoà n. Một chút ánh sáng trong đêm diễn ra những cuộc giằng co một mất, một còn, giữa là n phi pháo địch đối với người lÃnh được ghi nhớ như một kỷ niệm khó quên. Trong những phút căng thẳng, chờ đợi giữa hai trận đánh, cây đèn là m cho những người lÃnh nhớ lại thời thơ bé, ngọn đèn dầu giữa mâm cơm, cả nhà quây quần, tiếng gà lên chuồng, tiếng chó sủa vườn sau và bóng mẹ quấn và o là n khói bếp chiều mưaâ¦.
Sau mấy tháng chốt chặn và vận động tiến công, Trung đoà n đã góp phần đánh thiệt hại nặng sư đoà n 21, và sư đoà n 25 ngụy, trung đoà n 9 thiết giáp bị tiêu diệt, thị xã Bình Long tiếp tục bị quân ta bao vây. Đường số 13 trở thà nh con đường âsấm sétâ đối với quân ngụy. Để ghi nhớ trận đánh nà y, những người lÃnh Trung đoà n 141 đã nhặt những mảnh xe bọc thép bị cháy của địch rồi gọt giũa, là m thà nh cây đèn dầu tặng Trung đoà n trưởng Nguyễn Ngọc Doanh, cũng là quà mừng trận thắng Trung đoà n 9 Thiết giáp của Nguỵ trên đường 13 năm 1972.
Cây đèn được là m rất công phu, cách trang trà mỹ thuật trên đèn có chủ đề định trước: thân đèn hình trụ tròn, có nắp xoắn đóng mở, một vỏ đạn con con được là m thà nh ống bấc. Trên thân đèn khắc ghi dòng chữ: Ba Vì-Quyết thắng. Kỷ niệm chiến trường miền Đông. KÃnh tặng Thủ trưởng Nguyễn Ngọc Doanh.Cây đèn đã từng thao thức trong đêm, theo ông đi khắp mọi nẻo đường, nhưng vinh dự nhất là nó đã thắp sáng cho ông theo dõi bản đồ những đêm hà nh quân thốc trong đội hình Quân đoà n 4, tiến theo hướng đông, phát triển theo trục đường 1 đánh tiêu diệt chi khu Trảng Bom, Hố Nai trong chiến dịch Hồ Chà Minh.
Sống giữa đời thường khi chiến tranh đã lùi xa, cuộc sống hiện tại cũng khá tươm tất, Ãt ai còn giữ lại những cái không dùng đến. Nhưng với thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh, thì từ cái thời ông là m Trung đoà n trưởng Trung đoà n 141, cho đến khi được thăng quân hà m thiếu tướng, Phó tư lệnh Quân đoà n 4 thì gia tà i của người lÃnh năm xưa, tất cả vẫn còn nguyên vẹn trong chiếc ba lô trận mạc. Thỉnh thoảng ông lại mở kho gia tà i ấy của mình ra ngắm nghÃa lại từng thứ. Ã"ng bảo: âđể nghĩ lại chuyện xưaâ.
Câu chuyện chiếc đèn và ánh sáng kỳ diệu của nó chÃnh là âcây đèn thầnâ soi đường cho người lÃnh đi đánh giặc năm nà o bỗng hiện ra trước mắt. Ký ức về một thời đã qua như vẫn còn hừng hực cháy trong lòng ông. Trao bộ đèn dầu cho Bảo tà ng Lịch sử Quân sự, ông tâm sự: âTôi mong không chỉ thế hệ mình biết về những câu chuyện xưa mà phải để ánh sáng của ngọn đèn nà y mãi toả sáng trong lòng những người lÃnh các thế hệâ. Ã"ng bộc bạch, đó cũng là lý do khiến ông tự nguyện trao cho bảo tà ng.
Bà i 10: âPhi đội quyết thắngâ và kỷ vật của tướng Nguyễn Văn Tri
der=”0″ recindex=”00018″/> |
Đ/c Lê Văn Tri – (thứ 3 từ trái qua) báo cáo đ/c Lê Duẩn và Thượng tướng Văn Tiến Dũng kế hoạch đánh máy bay B52 1972 |
Trong lịch sử quân chủng Phòng không – không quân Việt Nam, trận đánh vỗ mặt chÃnh quyền Mỹ – ngụy ngà y 28-4-1975 của âPhi đội quyết thắngâ là một trang sử hà o hùng.
Trung tướng Nguyễn Văn Tri, nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân đã trao bức ảnh âPhi đội quyết thắngâ…… Bảo tà ng lịch sử quân sự. Điều thú vị là trong phi đội nà y ngoà i 5 phi công của QĐND Việt Nam, còn có cả một phi công của ngụy được ta cảm hóa…
Bức ảnh do phóng viên Xuân át, Cục ChÃnh trị Quân chủng Phòng không- Không quân chụp tại sân bay Thà nh Sơn- Phan Rang, chiều tối ngà y 28 tháng 4 năm 1975. Trên ảnh, 6 phi công vừa rời máy bay, trong tay mỗi người cầm mũ bay, nét cười rạng rỡ, thể hiện nỗi vui mừng khôn xiết sau khi thắng trận trở về. 30 năm trôi qua, không chỉ những phi công tham gia trận nà y coi đây là trận đánh đáng nhớ. Mà nó là ký ức không bao giờ quên của Trung tướng Lê Văn Tri, nguyên Tư lệnh Quân chủng Phòng không, không quân (từ năm 1971-1977). Nhìn và o bức ảnh, vị tướng già sau hơn 50 năm ra trận, cầm quân bồi hồi nhớ lại: âNgà y ấy, âPhi đội quyết thắngâ ngoà i phi công Nguyễn Thà nh Trung, Nguyễn Văn Lục, Từ Đễ, Mai Xuân Vượng, Hán Văn Quảng là của ta, còn có một phi công của Nguỵ Ãt được biết đến là Nguyễn Văn Onâ.
Ngà y 19 tháng 4 năm 1975, Bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chà Minh lệnh cho Bộ tư lệnh Quân chủng Phòng không- Không quân chuẩn bị cho không quân tham gia chiến dịch. Bộ tư lệnh Quân chủng quyết định âsử dụng máy bay mới thu được của địch để đánh địchâ và giao cho Bộ tư lệnh Không quân gấp rút tổ chức thực hiện. Nhưng cái khó, phần lớn máy bay ta thu được của địch là máy bay A-37 còn khá xa lạ với phi công của ta.
Tướng Tri kể: âTôi quyết định cho hai phi công và một số thợ máy của không quân ngụy mà trước đó mình bắt được ra trình diện, hướng dẫn các phi công ta về kỹ thuật và cách sử dụng máy bay A-37, trong số nà y có Nguyễn Văn On. Ngà y 24 tháng 4, sau hai ngà y học tập, các phi công của ta lần lượt tập bay thử thà nh côngâ.
Ngà y 25 tháng 4 năm 1975, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Tư lệnh chiến dịch Hồ Chà Minh điện cho Bộ Quốc phòng đề nghị Đại tướng Võ Nguyên Giáp: âCho không quân ta dùng máy bay vừa lấy được của địch ném bom và o sà o huyệt quân ngụy ở Sà i Gòn ngà y 28 tháng 4, chỉ đánh ngà y nà y, chậm nữa không đượcâ. Ngay lập tức, chiều 25 tháng 4, Cục Tác chiến chuyển điện cho đồng chà Lê Văn Tri âúng 8 giờ sáng ngà y 26 tháng 4 lên chỉ huy sở Bộ Tổng tư lệnh nhận nhiệm vụ của anh Văn giaoâ. Tại Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp hỏi tôi: âHiện ta thu được bao nhiêu máy bay A-37 của địch có thể dùng được?â. Tư lệnh Lê Văn Tri báo cáo: âThưa Đại tướng, tại Đà Nẵng có một chiếc, phi công đang học lái, còn sân bay Phù Cát, Bình Định có 5 chiếc còn nguyên vẹn, chưa cho bay thửâ. Tướng Giáp nói: âBộ ChÃnh trị đã đồng ý cho không quân ném bom xuống sà o huyệt địch nhưng phải sử dụng chÃnh máy bay chiếm được của địchâ. Ngay chiều ngà y 26 tháng 4 năm 1975, Lê Văn Tri nhận được điện của Đà Nẵng báo ra: âĐồng chà Văn Tiến Dũng đã cho Nguyễn Thà nh Trung ra sân bay Đà Nẵngâ.
Lê Văn Tri được Quân chủng giao nhiệm vụ trực tiếp tổ chức, chỉ huy trận đánh. Bộ tư lệnh Quân chủng quyết định thà nh lập âPhi đội quyết thắngâ, do phi công Nguyễn Văn Lục chỉ huy. 14 h 30 phút ngà y 28/4, âPhi đội quyết thắngâ được triệu tập để nhận mệnh lệnh chiến đấu tại sở chỉ huy. Tất cả chỉnh tề trong bộ bay với tư thế sẵn sà ng ra trận. Mục tiêu oanh tạc là khu vực để máy bay chiến đấu, đường băng, khu để bom đạn của không quân ngụy trên sân bay Tân Sơn Nhất. ý định của Bộ Chỉ huy chiến dịch phải đánh trúng, gây tiếng nổ liên tiếp, là m sao cho cột khói bốc cao để là m ám hiệu phối hợp với quần chúng nổi dậy. Đánh mục tiêu nà y là một đòn rất hiểm, nhất là lúc Mỹ ngụy chỉ còn đường hà ng không duy nhất để di tản. Ngoà i việc thực hiện ném bom xuống mục tiêu, một điều tối quan trọng đối với phi đội là phải đảm bảo an toà n cho nhân dân và hai phái đoà n đại biểu quân sự của ta đang trú tại David-Tân Sơn Nhất.
Theo kế hoạch đường bay của phi đội được tÃnh toán và lựa chọn phải bảo đảm bà mật, bất ngờ đối với địch, tránh hoả lực phòng không của ta. Đường bay theo hướng Vũng Tà u rồi từ Vũng Tà u vòng về Sà i Gòn. Nguyễn Thà nh Trung thuộc địa hình được phân công bay trước dẫn đường. Các phi công khác bay trong đội hình theo cự ly đã định, bảo đảm canh gác, cảnh giới, có công kÃch, có yểm hộ.
16 h 15 phút ngà y 28 tháng 4 năm 1975, sỹ quan trực chỉ huy trên đà i chỉ huy sân bay Thà nh Sơn bắn hai phát pháo hiệu cho phép phi đội cất cánh, 5 chiếc A-37 lao lên bầu trời. Phi đội tập hợp đội hình Nguyễn Thà nh Trung (số 1); Từ Đễ (số 2); Nguyễn Văn Lục (số 3); Mai Xuân Vượng và Nguyễn Văn On (số 4); Hán Văn Quảng (số 5). Tất cả phi đội bay vút về phÃa
|
âPhi đội quyết thắngâ, trong đó có Nguyễn Văn On (thứ 3 từ trái qua) |
Tại đà i chỉ huy sân bay đã chuẩn bị sẵn sà ng cho phi đội hạ cánh. Đồng chà trợ lý tác chiến cách mấy chục giây lại gọi một lần: âSao băngâ đâu? âSao băngâ đâu? âBắc đẩuâ gọi nghe rõ trả lời! Lúc nà y, trời đã tối sẫm, kim đồng hồ chỉ 18h 15phút. Từ Đễ và Nguyễn Thà nh Trung hạ cánh trước. Tiếp đó là Mai Xuân Vượng và Nguyễn Văn On, Hán Văn Quảng, Nguyễn Văn Lục. Tất cả hạ cánh an toà n. Tất cả mọi người ùa ra ôm hôn các phi công, mừng đến nỗi chẩy cả nước mắt, t là một trận đánh hiếm có. Kết quả trận đánh đã vượt qua con số 24 máy bay bị phá huỷ, hà ng trăm binh lÃnh và sỹ quan ngụy bị tiêu diệt. Ngà y 29 tháng 4, Mỹ buộc phải tổ chức âchiến dịchâ di tản mang tên âNgười liều mạngâ bằng máy bay lên thẳng để đưa những người Mỹ cuối cùng và một số tay sai ra khỏi Sà i Gòn.
Trong niềm vui lớn ấy, Tư lệnh Lê Văn Tri đã viết trong hồi ký của mình những câu thật xúc động âĐợi chờ một ngà y, chờ có một ngà y và hôm nay ngà y ấy đã đếnâ. Rồi vị Tư lệnh lẩm nhẩm đọc và i câu thơ: âMột tiếng bom nổ từ sân ga/Vang lên tiếng hát bản hùng ca/ Nhớ mãi không quân ngà y đại thắng/Thống nhất muôn đời Tổ quốc taâ¦â.
Bá Kiên – Trần Dương
Sưu tầm và tạo e-book: txbfull (main_main)
Email: txbfull@yahoo.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét