Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

Nguoi Cham o An Giang.html

Nguoi Cham o An Giang.html

NGƯỜI CHĂM Ở AN GIANG

Sưu tầm tài liệu và thực hiện ebook: Goldfish

Ngày hoàn thành: 07/11/2007

http://www.thuvien-ebook.com

MỤC LỤC

Người Chăm nơi đồng bằng Cửu Long

Có một Chămpa giữa lòng châu thổ

Đến với làng Chăm ở Đồng Bằng

Người Chăm An Giang- Bản sắc văn hóa độc đáo một vùng biên

Làng Chăm trong tháng Ramadam

Đạo Islam tại Việt Nam

Cộng đồng người Chăm tại Kampuchia

Nghi thức hôn lễ của người Chăm An Giang

Công nhận hai làng nghề "Dệt thổ cẩm Chăm Châu Phong" và "Tơ lụa Tân Châu"

Đặc sản dân tộc Chăm ở An Giang

Theo Tự điển Bách khoa toàn thư, người Chăm với số dân 132.873 (1999), cư trú từ Bình Định đến An Giang, đông nhất ở Ninh Thuận, Bình Thuận (46 nghìn người), An Giang (12 nghìn), và ở một số địa phương: Phú Yên, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Định, Đồng Nai và Tây Ninh.

Gia đình phổ biến là theo chế độ mẫu hệ, vùng Châu Đốc theo chế độ phụ hệ. Tuy gia đình đã chuyển sang phụ hệ, vai trò nam giới được đề cao, nhưng những tập quán mẫu hệ vẫn tồn tại khá đậm nét trong quan hệ gia đình, dòng họ với việc thờ cúng tổ tiên. Phụ nữ chủ động trong quan hệ hôn nhân, cư trú phía nhà vợ, con sinh ra theo họ mẹ. Sính lễ do nhà gái lo liệu. Gia đình một vợ một chồng là nguyên tắc trong hôn nhân" (Theo Nhóm ngôn ngữ Mã lai-Đa đảo, www.cema.gov.vn).

Một điểm đặc biệt nữa là người Chăm ở An Giang theo đạo Hồi. Người Chăm theo đạo Hồi còn được gọi là Chăm Islam hoặc Chăm Muslim. Islam là đạo Hồi, Muslim là tín đồ theo đạo Hồi. Có người cho rằng "Chính những tín đồ theo đạo Hồi này đã làm nên một bản sắc văn hóa Chăm độc đáo giữa vùng châu thổ Cửu Long giang".

Sau đây chúng ta tìm hiểu thêm cộng đồng người Chăm ở An Giang qua một số tài liệu sưu tầm trên mạng được chép lại dưới đây (các ghi chú đánh số thứ tự là của Goldfish).

Người Chăm nơi đồng bằng Cửu Long

Tác giả: Dohamide

Dohamide, dân tộc Chăm, sinh năm 1934 tại Kok Taboong, Châu Đốc. Tốt nghiệp Thủ khoa Ban Cao Nguyên và Ban Đốc Sự Hành Chánh, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh. M.A. chánh trị học, Đại học Kansas Hoa Kỳ. Sáng lập Hiệp Hội Chàm Hồi giáo Việt Nam. Đại biểu Islam Việt Nam tham dự Hội Nghị các nước Islam Đông Nam Á và Viễn Đông tại Kuala Lumpur 1964, Hội nghị Islam Thế giới tại Thánh địa Makkak, A Rạp Sau Đi 1972. Hiện định cư tại OC, Nam California. Đã xuất bản: Dân Tộc Chăm Lược sử, Bangsa Champa: Tìm Về Với Một Cội Nguồn Cách Xa… Viết cho các báo Bách Khoa, Thế Kỷ 21.

Một trong những đặc điểm nổi bật của miền châu thổ sông Cửu Long ở Tây nam Việt Nam là có khá nhiều địa danh nghe khác lạ, và còn có thể nói là rất xa lạ với tiếng Việt thông dụng. Đi từ điểm cực Nam nơi chín cửa sông Cửu Long trổ ra biển khơi, ngược dòng Tiền giang và Hậu giang tiến trở vào đất liền, hướng về vùng biên giới Việt-Kampuchea ở phía Bắc, người ta gặp ngay địa danh "Cà Mau," "Sóc Trăng," "Sa Đéc" v.v… vốn là những địa danh, được dùng quen thuộc trong dân gian từ một thời xa xưa, và có khi còn được nhà cầm quyền chánh thức đặt thành tên gọi các đơn vị hành chánh địa phương nữa. Đối với mọi cái gì gần gũi đã trở thành quá quen thuộc, hiếm thấy có ai tự hỏi về nội dung ý nghĩa đích thực của các địa danh này là gì, và như vậy là người ta đã chấp nhận cho chúng lặng lẽ hoà đồng với các địa danh hoàn toàn gốc tiếng Việt quen thuộc như Bến Tre, Gò Công, Vĩnh Long, Long Xuyên, An Giang, v.v…rồi. Tuy nhiên, khi có ai tình cờ chợt nêu lên thắc mắc, thì chắc chắn là không ít người dân bình thường sẽ phải ngỡ ngàng và băn khoăn không biết trả lời thế nào. Những người am tường hoặc có tìm hiểu cạn cùng mới làm rõ, chẳng hạn như:

- Cà Mau thực sự vốn là từ ngữ đọc trại từ Tưc Khmâu (Tức là nước, Khmâu là đen), chỉ định một vùng đất bồi phù sa màu đen.

- Sóc Trăng là do chữ Srok có nghĩa là khu vực làng xã; còn Trăng là do chữ Tlăng có nghĩa kho vàng: Xứ kho vàng (1).

- Về địa danh Sa Đéc, thì Sa là do chữ Phsar có nghĩa là chợ, và Đéc có nghĩa là sắt, được suy diễn có thể nguyên là địa điểm chợ bán hàng đồ sắt.

Còn nhiều và nhiều nữa. Các địa danh nghe lạ tai được diễn giải kể trên, sự thực, mang dấu vết văn hóa của người Khmer trong dân gian còn được gọi là người Miên, hoặc nếu có cảm thấy chút phân cách hơn là nói người Đàng Thổ, một sắc dân bản địa, sanh sống tại chỗ trước đó, khi các đoàn quân và lưu dân Việt tháp tùng Nguyễn Hữu Cảnh được Chúa Nguyễn cử vào Nam mở mang bờ cõi trong vùng châu thổ sông Cửu Long. Người Khmer ở châu thổ sông Cửu Long được các nhà cổ học – chủ yếu ban đầu là các nhà cổ học Pháp như George Coedes, Malleret, v.v. – xác định thuộc nền văn hoá Óc Eo mà các di chỉ kiến trúc cổ đã và vẫn đang được các nhà cổ học Việt Nam sau này tiếp tục khai quật. Tiền nhân của người Khmer đã xây dựng nên Vương quốc Phù Nam, được tiếp nối với nước Thủy Chân Lạp. Trải qua những giai đoạn lịch sử tiếp xúc, va chạm, đối đầu, và an bình cộng cư với người Việt, người Khmer có khuynh hướng sống tập trung trên các khu đất giồng (khu đất cao hơn mực nước dâng trong mùa nước nổi) ở các vùng ven biển ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, và Thất Sơn, có địa danh Tri Tôn (nguyên là Sway Toong) giáp giới Kampuchea, đã góp phần vào quá trình khai khẩn và canh tác đất đai cho đến ngày nay. Hiện tượng hội nhập mang tính cân bằng hai chiều được thể hiện bằng phương thức Việt hoá ngữ âm du nhập các từ Khmer để duy trì địa danh thông dụng trong dân gian Việt nói chung mà không đặt vấn đề nội dung ý nghĩa cũng như gốc nguồn.

Bên cạnh người Khmer, không thể không kể đến người Hoa. Người Hoa hẳn nhiên không phải thuộc thành phần dân bản địa như người Khmer. Họ vốn là tầng lớp người không chịu thắt bím cạo đầu làm tôi nhà Thanh ở Trung Hoa, nên vào khoảng cuối thế kỷ 17, đã theo Mạc Cửu, đến tìm nơi ẩn trú, sẵn đà, khai khẩn đất và định cư lập nghiệp tại vùng đất Hà Tiên. Trong một thời gian không lâu, nhóm người Hoa lưu dân này đã mang nguồn vốn văn hoá cùng kỹ năng từ nước mẹ của mình, góp phần phát triển Hà Tiên thành một thương cảng tấp nập, trù phú, giao dịch thương mại với bên ngoài.

Lướt qua nét đặc thù của vùng châu thổ sông Cửu Long qua khía cạnh địa danh và đóng góp khai hoang phát triển, ghi nhận sự hiện diện của người Khmer và người Hoa là hai sắc dân bản địa và lưu vong tỵ nạn cùng với người Việt cộng cư khai phá khẩn hoang như trên, chúng tôi muốn gợi lên một toàn cảnh để lồng vào đó hình ảnh làng quê nhỏ bé thân thương của bản thân, trong tầm nhìn của người trong cuộc, từ đó, giúp soi sáng về gốc nguồn của tôi là sắc dân Chăm mà hoàn cảnh lịch sử đã đưa đẩy, lưu lạc đến định cư bên cạnh người Khmer, người Hoa, người Việt tại một góc trời ở vùng châu thổ sông Cửu Long trù phú bao rộng này.

Ngôi làng sanh quán của tôi có tên khác lạ đối với ngôn ngữ Việt: làng Koh Ta Boong, trong sử sách Việt được phiên âm thành Cỏ Đầm Bôn, dưới thời Pháp thuộc là Ka Tam Bong, tên gọi chánh thức của một đơn vị hành chánh cấp Xã. Dịch theo tiếng Chăm, Koh có nghĩa là cồn, là cù lao, còn Ta-boong thì là cây gậy, ngụ ý hình dáng của cù lao này giống như một cây gậy.

Châu thổ sông Cửu Long ở miền Tây Nam Nam Việt Nam là vùng đất bồi do phù sa từ thượng nguồn và vùng Biển hồ trôi xuống, hàng năm đều có mùa nước nổi (mùa lũ lụt), mực nước tùy năm ở một số nơi có thể dâng cao lên đến ba thước, khởi đầu mùa lúa sạ; nước tràn vào các cánh đồng tạo môi trường cho các loài cá nước ngọt đẻ trứng sanh sôi nẩy nở, rồi đến mùa nước giựt, nước chảy ngược ra các vàm kinh rạch để đổ ra biển. Dưới tác động chu kỳ của thiên nhiên, dòng chảy sông Cửu Long thay đổi theo thời gian, hai bên bờ thường diễn ra hiện tượng bên lở bên bồi. Koh Ta-boong đã hình thành từ một cồn cát nhô lên dọc theo một bên bờ Hậu giang, được vun bồi lần hồi thành một cù lao, ngăn cách với đất liền bằng một con rạch.

Vào thập niên 1940, thời thuộc Pháp, hệ thống giao thông bằng đường bộ chưa được mở mang, con tàu "sà-lúp" chạy bằng hơi nước do lò củi, kéo những chiếc ghe chài (địa phương gọi là ghe chành) đầy ắp hàng hóa từ Sài Gòn về vẫn rẽ vào con rạch này để tạm tránh những dòng nước ngược chảy siết bên ngoài sông cái. Kỷ niệm khó quên của tuổi niên thiếu là mỗi khi nghe còi tàu văng vẳng từ xa, tôi thường hối hả cùng các bạn đồng lứa tuổi ù chạy ra bờ sông, cùng ngắm nhìn đoàn ghe tàu chạy qua như là một biến cố đến từ một thế giới xa lạ. Hấp dẫn và hồi hộp nhứt là ban đêm, mỗi khi chiếc tàu dòng đứng một chỗ vì dòng nước ngược chảy quá mạnh, phải bỏ thêm củi vào lò. Trên ống khói, thình lình phụt lên những luồng bụi than đỏ ửng, cả bọn trẻ tái mặt giựt mình, nhưng liền đó, lại thích thú vỗ tay reo hò vang dội. Trong phút chốc, đoàn ghe tàu lại mất hút ra ngoài vàm sông cái, trả lại sự yên tĩnh cho thôn ấp.

Từ bên này bờ sông nhìn sang bên kia, không xa lắm, chỉ vào khoảng 50 thước, tiếng trẻ em vui đùa vẫn vọng mồn một sang bên này bờ, nhưng thực tế là hai thế giới khác biệt. Thật vậy, nhà cửa bên kia sông, thường đắp nền cao rồi dựng cột và vách lên, bên trong nhà có bàn thờ tổ tiên, bày biện bàn ghế, giường ngủ có chân cao. Hầu như trước nhà nào cũng đều có một bàn thờ nhỏ gọn gọi là "bàn ông Thiên" buổi chiều khói hương nghi ngút.

Bên này sông, trái lại, nhà nhà đều có sàn, cột thường bằng gỗ nguyên cây tước hết vỏ và bào nhẵn, cao khỏi đầu người để phù hợp với mùa nước nổi dâng cao; mặt tiền nhà nào cũng có một cái thang rắn chắc bằng gỗ, và bên trong nhà hầu như không có bàn ghế, nên khi khách đến nhà thì chủ nhà thường trải chiếc chiếu hoặc tấm thảm, để chủ khách cùng ngồi xếp bằng trên sàn gỗ, nhưng phải đặc biệt lưu ý không được tự động vượt qua khung cửa có màn che được trang trí tuỳ theo mức độ giàu nghèo của chủ nhà, ngăn cách với gian nhà trong, theo tập tục, hoàn toàn dành cho đàn bà con gái sanh hoạt không lẫn lộn với đàn ông con trai. Nhà cửa cất phần lớn sát vào nhau, mở cánh cửa sổ bên này, có thể chuyện trò với nhà bên kia được, nên tạo cảm giác như con người đang hợp quần co cụm lại. Cả làng hầu như không có nhà nào trồng rau quả, vườn tược. Ở những nhà khá giả thì hầu như luôn luôn có dưới sàn một khung dệt vải cổ truyền, được kín đáo che sau một bức màn,vốn là nơi làm việc của con gái trong gia đình, vừa dệt hoặc quay tơ, vừa cất lên những tiếng hát trong trẻo vừa đủ nghe, nhưng hấp dẫn mãnh liệt những cặp mắt hiếu kỳ từ ngoài đường. Người dân bên nây bờ thường vận chăn Sa-rong vấn quanh mình, dài đến gót chân. Tưởng cần giải thích rõ, Sà-rong là cái chăn mặc của đàn ông; còn phụ nữ Chăm cũng mặc chăn che phủ đến gót chân nhưng không gọi là Sa-rong như được nhận thấy ở một vài bài viết về Chăm, mà đúng ra thì gọi là Khanh ngui, tức cái chăn mặc, trong số, có Khan! h kăk là một thứ chăn dệt công phu bằng hàng tơ lụa rất được phụ nữ mến chuộng.

Người dân bên này bờ bình thường gọi người dân bên đất liền là Yuôn, và ngược lại, những người Yuôn này lại gọi người dân bên cù lao là Chàm, có khi là Chà, và khi có chút gì không bằng lòng nhau thì gọi là Chà và, gây cấn hơn nữa, thì là Bọn Chà và!

Người dân bên cù lao tự gọi mình là Chăm, trong sanh hoạt hằng ngày, sử dụng một ngôn ngữ riêng không phải tiếng Việt mà là tiếng Chăm. Riêng chính người Chăm thì cảm thấy tinh thần nhẹ nhàng tương kính trong giao dịch khi được người đối thoại gọi mình là Chăm. Do đó, cách gọi Chăm một lúc sau này được thông dụng thay vì Chàm.

Loáng thoáng trong giới nghiên cứu người Việt được tiếp chuyện, có vị cảm thấy dị ứng về từ Yuôn, và nói theo lối thời thượng, cho là "mang tính tiêu cực," "có vấn đề." Một đôi lần, tôi còn được nghe một quan điểm thủ cựu, mang sắc thái đại dân tộc, diễn dịch từ Yuôn là do chữ Vương, thể hiện quan hệ triều cống chư hầu giữa triều đình Đại Việt và triều đình Champa trong lịch sử. Ngược lại, quan điểm mang tính đấu tranh thì cho rằng từ Yuôn mang tính hiềm khích oán hờn từ phía người Chăm nặng tinh thần dân tộc cực đoan, cũng không còn thích hợp với bây giờ nữa. Một công trình biên soạn công phu mà bản thân tôi rất trân quý, dưới quyền chủ biên của giáo sư Bùi Khánh Thế với Nhóm biên tập gồm hai học giả trẻ người Chăm gốc Ninh Thuận, quyển "Từ điển Việt Chăm," do Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản năm 1996, đã ghi là Piệt- Chăm thay vì Yuôn-Chăm đúng theo từ ngữ được lưu truyền trong dân gian. Thực tế, trong câu chuyện trao đổi hằng ngày với nhau, người Chăm khắp các vùng tại Việt Nam và cả người Chăm ở Kampuchea vẫn gọi người Việt là Yuôn (2) một cách hồn nhiên, không thấy có chút mặc cảm khác lạ gì xen vào cả.

Vào cuối thập niên 1940, thời thuộc Pháp, xã hội người Chăm ở Koh Taboong còn rất khép kín; không có nghĩa khép kín về mặt địa lý, bởi lẽ làng Koh Taboong quê tôi không có hàng rào bao quanh, cách biệt với xã hội bên ngoài như một số thôn làng Chăm còn tồn tại ở Ninh Thuận và Bình Thuận, nguyên đã trải qua những giai đoạn đối đầu xung đột với quan quân triều đình Đại Việt, gây chết chóc đẫm máu kết liễu sự hiện tồn của vương quốc Champa vào đầu thế kỷ 19. Hiện tượng khép kín ở đây thực chất là do nhu cầu hiện tồn căn sắc truyền thống Chăm, vốn được gắn chặt trong tim óc, phát xuất từ nề nếp sinh hoạt Islam, tập tục, tín ngưỡng, nói chung, vào nền văn hoá của riêng sắc dân mình, không hoàn toàn tương đồng với nền văn hoá của xã hội bao quanh. Do thiếu giao lưu về văn hóa và xã hội, giữa người Chăm bên này bờ và người Yuôn bên kia bờ rạch, dưới tác động của tinh thần phân chia "ta và họ" nói chung, đều có ít nhiều thành kiến với nhau về một số mặt thực tế trong nề nếp sinh hoạt hằng ngày. Cụ thể, người Yuôn dùng đũa ăn cơm thì bị người Chăm chê là Đấng Tạo hóa đã tạo ra bàn tay cho con người sử dụng, thì tại sao lại đi dùng hai chiếc đũa để gắp thức ăn, tựa hồ như xeo nạy (cha-kơh) khó coi trong khi các thức ăn này đều phải được xem là rizki, tức ân phước của Đấng Tạo Hóa Allah ban cho như vậy?

Ngay cả bản thân tôi, ở buổi đầu khi có điều kiện ra khỏi xóm làng đi sanh sống hội nhập vào xã hội bên ngoài, tôi vẫn cảm thấy có những mặt không ổn trong vấn đề này. Mãi về sau này, tôi mới lấy lại được phần nào tự tin trong đánh giá tập tục, nhất là vào năm 1964 khi có dịp tham dự buổi tiếp tân khoản đãi chánh thức nhân Hội nghị các nước Hồi Giáo Đông Nam Á và Viễn Đông lần đầu tiên do Chánh Phủ Malaysia tổ chức ở Kuala Lumpur, cả chủ nhà bao gồm cả cố Thủ Tướng Malaysia Tungku Abdul Rahman và khách các nước đều cùng ngồi xếp bằng trên nền nhà, cùng thoải mái ăn bốc theo một phong cách tự nhiên không khác gì tập tục ăn bốc của người Chăm tại làng quê Koh Taboong của tôi cả. Các mặc cảm trong người tôi lúc ấy mới nhẹ nhàng được giải toả và tôi mới được rõ dứt khoát không thể nói bên nào văn minh bên nào lạc hậu cả; người Yuôn và người Chăm thuộc hai nền văn minh khác biệt nhau, một bên được mệnh danh là nền văn minh đôi đũa, một bên là nền văn minh bốc tay. Ngoài ra, còn một nền văn minh khác đã được ghi nhận trong một buổi tiếp chuyện nhân Hội nghị quốc tế kể trên, đó là nền văn minh muổng nĩa của Âu Tây.

Trở lại với làng quê Koh Taboong thời thơ trẻ của tôi, cả làng từ đầu vàm trở vào, đều chỉ có khoảng một ngàn ngôi nhà người Chăm cất san sát nhau hai bên đường, và đến cuối làng mới có nhà người Việt. Toàn bộ thế giới thời thơ trẻ của tôi hầu như hoàn toàn gói ghém trong ngôi làng bình dị thôn dã này.

Ông thân sanh của tôi là giáo viên duy nhứt trường sơ học phổ thông trong làng nên một mình phải phụ trách luôn cả ba lớp một, hai và ba [vào thời đó, gọi là lớp đồng ấu (cours enfantin), lớp dự bị (cours préparatoire) và lớp sơ đẳng (cours élémentaire)]. Sau đó, muốn tiếp tục học thì học sinh phải lên trường tỉnh Châu Đốc, cách làng khoảng bốn cây số. Trong số học sinh đến trường, dĩ nhiên chỉ học Pháp văn, có một số học sinh người Việt nhà ở đầu làng, cho nên trong các trò chơi ngoài lớp, tôi có dịp học và nói bập bẹ tiếng Việt, một thứ tiếng Việt thường được diễn dịch theo từng chữ tiếng Chăm, chẳng hạn, chúng tôi nói "tắm nước" thay vì "tắm," "đứt tim" thay vì "gan dạ," các bạn học người Việt nghe lâu ngày rồi cũng quen.

Tại các lớp trong làng kể trên, tôi cũng được học một thứ chữ Chăm viết theo mẫu tự la tinh, ráp vần theo tiếng Pháp, tôi thấy rất dễ đọc và dùng để diễn dịch ý tưởng bằng tiếng Chăm cội nguồn. Thứ chữ này được hình thành do óc sáng tạo của một nhân vật nổi tiếng trong giới người Chăm Châu Đốc vào thập niên 1940 là cụ cố Kim Sop, nhờ gia đình giàu có, được học trường Tây, làm Thông phán tại Tòa Án Châu Đốc. Vì chữ Chăm thông dụng phiên âm bằng mẫu tự A Rạp đang được thông dụng, thứ chữ Chăm la tinh này không mấy được các bậc phụ huynh quan tâm, nên không tích cực khuyến khích các con em học. Nhưng riêng phần tôi và một vài bạn học thì thấy thích thú, nhứt là trong tập sách, cố Kim Sop đã cho in một vài mẫu chuyện làm bài đọc thêm, và sau này lớn lên tôi mới biết là thuộc văn học dân gian Chăm, như bài "Chim Chhơng" đồng thời cũng là một thể ca ngâm chất chứa nhiều thi vị mà tôi nhớ nằm lòng cho mãi đến tuổi thất thập này.

Hầu như tất cả các bạn học Chăm đều nghỉ học khi hoàn tất lớp cuối cùng trong làng. Bị ám ảnh trong mặc cảm e sợ con cái jưng yuôn (biến thành người Việt), phần lớn các bậc cha mẹ đều e ngại, khi cho chúng lên học trường tỉnh, thì sẽ sống theo người Việt, không còn theo nề nếp sống của xóm làng, nặng về tín ngưỡng Islam, trong đó, có một số kiêng cữ rất nghiêm ngặt như tuyệt đối cấm (harăm) ăn thịt heo, cấm uống rượu, cấm trai gái vụng trộm ngoài hôn nhân, v.v… Thực tế hơn nữa, đàn ông bé lớn đều cạo đầu và khi tham gia sanh hoạt trong làng thì đều đội mũ bằng nỉ màu đen, còn người lớn thì đội mũ trắng hoặc chit khăn Haji chứng tỏ là người đã đi hành hương ở Thánh địa Makkah bên nước A Rạp Sau Đi, được thôn làng tôn kính như các bậc trên trước. Cho nên, khi một người đi làm ăn xa mà để tóc dài trở về làng mang theo một ít phong cách phóng túng không thích hợp thì không phải chỉ bản thân người đó mà còn cả gia đình phải chịu những lời đàm tiếu, bà con lên án.

Sanh hoạt thường ngày của xóm làng xoay quanh một ngôi giáo đường gọi là masjid nằm giữa làng, kiến trúc có những nét gợi nhớ quang cảnh bên kia trời Trung Đông, bao gồm một nóc vòm và đài tháp lạ mắt, được nhận ra từ xa. Ngôi giáo đường này, người Việt sống ở lân cận vẫn quen gọi là "chùa Chàm," nhưng ở đây, kiến trúc và trang trí bên trong cho thấy chỉ là một ngôi nhà khang trang để bổn đạo tụ họp dâng lễ nguyện tập thể và nghe thuyết giảng vào ngày thứ sáu trong tuần, thể hiện sự tôn thờ Đấng Tạo Hóa Allah nên không có pho tượng thờ nào cả ngoài chiếc bục đơn giản có ba bậc như nấc thang nằm sát bên trong cùng. Mỗi ngày năm lần, khi trời rựng sáng, trưa ngọ, xế chiều, chạng vạng và trở về khuya, chính từ ngọn tháp kể trên, phát ra một hồi trống và tiếp theo là lời ngân nga kêu gọi đến giáo đường dâng lễ nguyện vang đi rất xa, điều hòa cuộc sống hằng ngày của người dân.

Bên cạnh giáo đường, có một trường gọi là Madrasah dạy đọc kinh Qur'An bằng chữ A Rạp nguyên gốc và có cả lớp dạy chữ Mã Lai giảng giải nội dung kinh sách và giáo lý Islam. Các bậc phụ huynh thích cho con em mình học các trường lớp này, và thường hãnh diện về thành tích con em đạt được nhứt là khi chúng trổ tài đọc Thiên kinh Qur'An trong các sanh hoạt tập thể của xóm làng.

Bản thân tôi đã bị trì kéo giữa hai khuynh hướng, nhứt là khi đã đến lúc phải chuyển lên trường tỉnh tiếp tục học lớp nhì (cours moyen). Mẹ tôi là một người đàn bà Chăm không biết một chữ a, b, c… nhưng lại rất thông thạo kinh Qur'An viết bằng chữ A Rạp. Được hậu thuẫn của ông bà ngoại, mẹ tôi muốn cho tôi nghỉ học trường phổ thông và chuyển sang học ở trường lớp tại giáo đường như các đứa bé Chăm khác trong làng. Ngược lại, cha tôi, có chút ít căn bản Tây học, nhứt quyết phải cho tôi lên trường tỉnh tiếp tục học. Sự bất đồng ý kiến giữa cha mẹ chúng tôi khá gay go và kéo dài, sau cùng đã chấm dứt bằng một giải pháp dung hòa; tôi được tiếp tục đi học trường tỉnh, nhưng những ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày lễ, tôi phải đi học chữ Mã Lai và A Rạp tại trường lớp của giáo đường.

Lên trường Tỉnh học, vì vào cuối thập niên 1940 chưa có cây cầu bắt ngang con rạch như sau này, người lớn trong nhà, thường là bà ngoại hoặc mẹ tôi phải bơi xuồng đưa tôi sang bên kia bờ rạch, một bước kế tiếp tạo điều kiện cho tôi mở rộng môi trường tiếp xúc với thế giới bên ngoài với những kỷ niệm khó quên.

Koh Taboong là một trong bảy làng Chăm Châu đốc. Ngoài Koh Taboong là làng chôn nhau cắt rún của tôi, còn có sáu làng Chăm khác là Mat chruk, Koh Kaboak, Plây Kênh, Plao Ba, Koh Ghoi, Koh Kaghia, Sabâu, với địa danh Việt tương ứng là Châu Giang, Đa Phước, Châu Phong, La Ma hoặc Vĩnh Trường, Búng lớn hoặc Búng Bình Thiên, Đồng Cô Ky. Phần lớn các địa danh tiếng Chăm kể trên khởi đầu bằng từ "Koh" có nghĩa là cù lao, cho thấy phần lớn các làng Chăm Châu Đốc đều nằm trên các cù lao trên ven sông Cửu Long:

- Gọi là Koh Kaghia vì cù lao này được đánh dấu bằng hàng cây sao, một giống cây, gỗ rất chắc mà người Chăm dùng làm cột nhà sàn hoăc đóng ghe xuồng.

- Về Koh Goi, có vài lối diễn dịch khác nhau tại địa phương, cần được nghiên cứu xác định sau này.

- Sở dĩ gọi là Koh Kaboăk vì xóm này chuyên dệt và mua bán tơ lụa, hầu hết dân cư đều từ Plây Kênh ở bên bờ đối diện chuyển qua, do nạn bên lở bên bồi của dòng sông Cửu Long.

Về địa danh Plây Kênh, dịch nghĩa là "xứ con kênh," do nhà cửa làng này nằm dọc hai bên bờ một con kênh đào dẫn nước từ bờ Hậu giang trổ ra phía Tân Châu. Trong dân gian, người ta thường gọi là Gah Kênh thay vì Plây Kênh; Gah là "bên." Cùng thuộc Gah kênh này, có một ấp nằm ngoài bờ sông cái gọi là Puk Pa-ok; Pa-ok tiếng Chăm là cây xoài, nên trong tiếng Việt gọi là "Hàng xoài." Và cũng từ tiêu chuẩn để nhận diện bằng hàng cây xoài này, mà tên làng Plây kênh thời Pháp thuộc mới được ghi trên giấy tờ hành chánh là Phum Soài ("soài" viết s). Phum là từ ngữ khmer có nghĩa là làng, cho thấy xuất xứ Khmer của làng này. Địa danh Phum soài, về sau, đã dược đổi thành tên Việt là Châu Phong.

Trong số các tên làng kể trên, có lẫn lộn Mat Chruk là chữ Khmer chớ không phải chữ Chăm, có nghĩa là "mõm con heo," do địa thế của làng này nằm ở một bên bờ sông Cửu Long đổ từ Nam Vang xuống, tẻ ra làm hai nhánh, khiến một bên bờ trông tợ như mõm con heo vậy. Mặc dầu người Chăm không ăn thịt heo, trong dân gian vẫn dùng tên gọi này. Sự lẫn lộn từ ngữ khmer vào tên gọi làng Chăm càng gợi thêm cho tôi sự tò mò tìm hiểu, để biết rằng đất Mat Chruk cũng như các làng Chăm khác tại đây ngày xưa là vùng đất Thủy Chân Lạp và từ "Mat Chruk" là địa danh đã sẵn có từ trước khi người Chăm đến định cư. Địa thế bảy làng Chăm kể trên không liền nhau, nhưng cùng nằm dọc theo hai bên bờ sông Cửu Long trải dài đến giáp giới với Kampuchea cho thấy đã được bố trí theo mục tiêu chiến lược phòng thủ, có tính toán và cân nhắc rõ rệt.

Vào thập niên 1940 thuộc Pháp, làng Koh Taboong về mặt hành chánh, được đặt dưới quyền cai trị của một Ban Hội tề như các làng xã khác, gồm đủ các chức việc. Tất cả đều là người Chăm ngoại trừ Chánh lục bộ chuyên trách bộ đời là một cụ già người Việt nhà ở đầu làng. Cố thân sinh tôi do là giáo viên làng, thực tế phải trở thành một nhân vật trung tâm được xóm làng đến nhờ thảo dùm từ các văn thư giao dịch với chánh quyền.

Sáu làng Chăm khác cũng ở vào tình trạng tương tự, đều thiếu người rành chữ Pháp và chữ Việt, nhưng điều nghịch lý là làng nào cũng thừa người có trình độ đào tạo về chữ A Rạp và chữ Mã Lai.

Thêm một điều nghịch lý nữa, nhưng lần này lại là do nhà cầm quyền thuộc địa Pháp. Đó là việc bổ nhiệm vào năm 1943 một chức vụ lãnh đạo cộng đồng người Chăm tại bảy làng này với chức vụ Saykhol Islam, Chef des Malais. Saykhol Islam là một chức vụ lãnh đạo do nhà cầm quyền thuộc Anh đặt ra ra tại bang Trengganu, Malaysia, nay nhà cầm quyền thuộc địa Pháp mang áp dụng tại Châu Đốc, nhưng ghi là Chef des Malais, lờ đi không nhắc gì đến căn sắc Chăm cả. Sự thực, tại một khu vực mệnh danh là Mubarak của làng Châu Giang ở ngay tại bến phà từ tỉnh lỵ Châu Đốc ngó qua, có một tập thể gốc Mã Lai trong dân gian gọi là người Java Ku mà ngôn ngữ thường ngày không phải tiếng Chăm mà là tiếng Khmer trộn lẫn với tiếng Mã Lai. Cố Haji Tangkhao Mat là người Java Ku này đã được bổ nhiệm làm Saykhol Islam đã được chọn trong số những người có sản nghiệp và có uy tín, trên nguyên tắc, có vai trò phối hợp các vị lãnh đạo Islam của từng làng Chăm gọi là Hakim điều hành cộng đồng, chuyên trách xử lý các tranh chấp về giáo lý Islam. Do cộng thêm ảnh hưởng từ Mã lai về khuôn mẫu hành đạo Islam thông qua các Tuôn là các thầy dạy kinh sách, có một thời gian nhiều thập niên, căn sắc Chăm của các làng Chăm bề ngoài bị lu mờ, tạo nên một khuynh hướng trong dân gian đa số ít học, chỉ muốn tự coi mình là người Mã Lai, nhất là trong giới phụ nữ trong chăn áo, khăn đội đầu, mỗi mỗi đều cùng nhau hướng về Mã Lai, chạy theo thời trang để mua sắm.

Trong bối cảnh bề ngoài chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hoá Mã Lai, nặng về tôn giáo Islam như trên, tinh thần dân tộc Chăm ở đây vẫn còn rất mãnh liệt, nhưng âm thầm lặng lẽ trong dân gian. Qua sự tôn kính dành cho một vài nhân vật Chăm nổi danh với một số thành tích đôi khi được chuyển thành huyền thoại ly kỳ hấp dẫn trong một số tình huống mang tính phò trợ hoặc cứu nguy người dân. Sự tôn kính này được thể hiện ở sự đặc biệt chăm sóc bảo trì một vài nấm mồ gọi là Maqam chẳng hạn như ở Koh Taboong có Maqam Tôk Ahmad nằm ở vị trí bên ngoài sông cái Hậu giang cách xa làng này khoảng hai cây số, chỉ có dân cư Việt sống kế cận, được suy đoán có lẽ người Chăm trước có cư ngụ tại đây nhưng sau đó đã dời cư về vị trí hiện nay, để được bảo vệ an toàn trước thiên nhiên sông nước hơn.

Trong sinh hoạt dân gian, ngoài những buổi lễ nguyện tập thể ở giáo đường, nhiều đêm dưới ánh đèn dầu, bên cạnh khung quay sợi, hoặc một vài ngưòi lớn lặng lẽ đan vá lưới, trên nhà sàn, bọn trẻ thường tụ họp đến nghe các cụ già kể chuyện đời xưa rất thích hợp với khối óc dồi dào tưởng tượng của thời thơ trẻ. Không biết bao nhiêu lần, tôi đã theo dõi, với những tình tiết đầy sống động, câu chuyện ông vua say mê sắc đẹp mỹ nhân ra đốn cây krêk (3) là cây thần thủ giữ nền tảng Nagar Chăm để rồi phải bị nước mất nhà tan. Hấp dẫn với nhiều pha gây cấn nhứt là các đoạn mô tả thời chiến chinh phải bồng bế nhau trốn giặc cùng những trận chiến ác liệt làm nổi bật một số nhân vật anh hùng người Chăm, nhưng giặc đó là giặc nào thì người kể không bao giờ nói rõ.

Trong xóm, chỉ có một vài cụ già, khi được hỏi, mới trang trọng đưa ra cho xem những tờ giấy vàng xưa cũ có những dòng chữ nói là akhar tapuk, chữ Chăm cổ không còn thông dụng nữa, nhưng được cất rất kỹ, hiếm thấy cho con cháu biết, vì hầu như đã trở thành một thời trang, con cháu chỉ được khuyến khích học kinh sách viết bằng chữ A Rạp và chữ Javi Malayu.

Trong hành trình soi rọi cội nguồn dân tộc, tôi đã được các bô lão ngồi say sưa kể cho nghe những giai thoại bi thương còn được lưu truyền về cuộc dời cư lịch sử của người Chăm từ vùng Phan Rí (Ninh Thuận) dưới trào của một vị vua cuối cùng là Pô Chơn, không chịu nổi chánh sách đàn áp khắc nghiệt của Vua Yuôn là Minh Mạng nhà Nguyễn để sang lánh cư trên đất Kampuchea (4), buổi đầu xoay quanh vùng lấy tên là Kampong Cham, đa số tiếp tục nghề đánh cá vùng Biển Hồ, nguyên là nghề truyền thống của cha ông. Nghề truyền thống này không còn điều kiện tồn tại trên mảnh đất quê hương cội nguồn Chăm ở miền Trung Việt Nam ngày nay nữa. Những thôn làng người Chăm ngày nay tại Ninh Thuận và Bình Thuận đều ở sâu vào vùng đất liền, xa bờ biển. nên đa số người dân chuyên về canh tác nông nghiệp hoặc chăn nuôi.

Có một chi tiết mà tôi được nghe lặp đi lặp lại nhiều lần là: "Ngày xưa, người Chăm mình có đất nước (tanưh ea) tên là Chămpa, người yuôn gọi là Chiêm Thành." Có cụ già còn xác định một cách thật thà, và được một vài cụ khác gục gặc đầu thích thú tán đồng với rất nhiều chân tình và tự hào, hẳn nhiên là bằng tiếng Chăm mẹ đẻ của tôi: "Thật ra, không phải Chiêm Thành đâu, mà là 'Chiến thắng' đó; người Chăm mình ngày trước đánh giặc giỏi lắm, đánh trận nào là thắng trận đó, nên gọi là 'Chiến thắng'!"

Bọn trẻ nghe, đứa nào cũng lấy làm thích thú. Đến khi lớn khôn tìm hiểu, tôi mới biết lời khẳng định đó vốn sai lạc do nhiều tưởng tượng. Nhưng điều làm cho tôi xúc động khắc ghi mãi trong lòng và nghĩ ngợi miên man là sự tưởng tượng đó thực sự đã xuất phát từ tận đáy lòng, từ con tim, của những con người bản tánh chơn chất mộc mạc, đã cùng các đồng tộc trải qua bao giai đoạn thăng trầm của cuộc sống, nghĩ sao nói vậy về gốc nguồn cách xa của mình. Sau này, khi có điều kiện tiếp xúc và hội nhập vào xã hội bên ngoài, tôi càng thấy thấm thía hơn khi nhận ra đó là niềm tự hào hồn nhiên tiềm ẩn sâu đậm trong tận tim óc về bản sắc dân tộc Chăm của mình, và niềm tự hào đó là chung cho mọi người, cho toàn nhân loại, chớ không phải cho riêng một dân tộc với một trình độ văn minh nào.

Cuộc dời cư của người Chăm từ đất Kampuchea về đến đất Châu Đốc vốn là một cuộc hành trình gian nan đã được các nhà biên khảo Pháp ghi lại một phần trong lịch sử Vương quốc Khmer, cho thấy người Chăm dời cư sang đất Khmer bao gồm nhiều thành phần lãnh đạo, đã từng cầm quân chiến đấu, nên xoay sở tác động vào nội tình hoàng gia Khmer khi thắng khi bại. Đến năm 1782, một lãnh đạo Champa là Đon Set xua quân từ Thabaung Khmum tiến đánh kinh đô U-đong khiến Hoàng gia Khmer phải lánh chạy sang nước Xiêm, tạo điều kiện cho người Chăm thiết lập các khu định cư riêng biệt tại Phnom Penh, Chruy Chagwar là một cù lao nằm chắn ngang sông Mekong và Tonle Sap, tồn tại đến ngày nay. Nhưng sau đó Đon Set đã bị giết chết. Năm 1858, vua Khmer đóng đô ở U Đong lại bị người Chăm giết chết, khiến vua Hariraks điều quân đến Thabaung Khmum đánh phá giết hại, người Chăm phải nương nhau theo dòng sông Cửu Long thoát thân về phía Nam, xuống đến tận Mat Chruk tức Châu Giang trước còn thuộc lãnh thổ Khmer lúc đó đang bị quân Việt chiếm đóng. Sau đó không lâu, vẫn trong năm 1859, người Chăm ở Mat Chruk đã quay trở lại đất Kampuchea tổ chức di chuyển khá nhiều đồng tộc Chăm về sanh sống tại Mat Chruk, được hiểu là "đất lành, chim đậu," người Chăm đã được triều đình Đại Việt chấp nhận cho định cư tại địa phương vùng giáp giới Kampuchea, giao bố trí thiết lập một số đồn luỹ mang tính phòng thủ chiến lược, đúng như các vị trí thường ở các đầu vàm còn tồn tại đến ngày nay. Nhiều người Chăm đã được triều đình nhà Nguyễn tuyển dụng là! m thân binh sẵn sàng vận dụng tài thao lược truyền thống của mình khi cần. Khi Thoại Ngọc Hầu khởi công đào kinh Vĩnh Tế chạy dài dọc theo biên giới Miên-Việt, trổ ra đất Hà Tiên, người Chăm đã được huy động sung vào lực lượng bảo vệ an ninh tạo điều kiện cho dân phu có thể làm việc cực lực suốt ngày đêm, và họ đã chứng tỏ hoàn thành tốt nhiệm vụ trọng yếu này (5).

Vì làng Châu Giang nằm bên kia bờ Hậu giang đối diện với Châu Phú, tỉnh lỵ Châu Đốc, nên trong dân gian, người Việt còn gọi chung người Chăm ở đây, là "Chà Châu Giang." Những người Chăm mưu sinh bằng nghề quảy trên vai gói hàng vải tơ lụa đi bán dạo khắp cùng các nẻo đường vùng châu thổ sông Cửu Long cũng thường được dân gian gọi như vậy. Sự thực, tên gọi "Chà Châu Giang" không đúng, vì Châu Giang chỉ là tên một làng.

Tên gọi mang tính phổ biến và được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong dân gian xưa nay là tên gọi "Chăm Châu Đốc" dân số trước năm 1975 được ghi nhận là 12.000 người, nay được cho biết đã tăng lên đến khoảng 20.000 người..

Vốn được tiếp xúc với nhà văn Bình Nguyên Lộc ở toà soạn Bách Khoa do anh Lê Ngộ Châu làm chủ nhiệm, tôi đã có dịp trao đổi sôi nổi nhưng vô cùng hữu ích và lý thú về văn hoá, ngôn ngữ người Chăm, có đề cập đề tài "Chà Châu Giang" nhất là sau khi tôi có bài góp ý về quyển "Lột trần Việt ngữ" đã được xuất bản tiếp sau quyển "Nguồn gốc Mã Lai của Dân tộc Việt Nam."

Nhân cuộc trao đổi trên, học giả Nguyễn Văn Hầu vốn là tác giả quyển ký sự có giá trị biên khảo trung thực nói về chuyến viếng thăm vùng Thất Sơn Châu Đốc cũng đã dựa vào sử sách Việt, xác định một số người Chăm đã có mặt tại Châu Đốc bên cạnh người Việt trước khi nhóm người Chăm từ Nam Vang kéo xuống.

Vì chế độ xuất bản vào năm 1973 không cho phép tờ Bách Khoa Thời Đại đánh số xuất bản định kỳ và ngày tháng như thường lệ, nên không thể ghi nguồn các bài viết kể trên. Chỉ xin nhắc lại ở đây như là một kỷ niệm trong khung tản mạn biểu tỏ chút tâm tư của đề bài.

(Theo Tạp Chí Thế Kỷ 21)

————————–

(1) Theo Khoa Nam trong bài Một số địa danh ở Sóc Trăng thì Sóc (xưa viết là Sốc) Trăng, Srok Khl'eang có nghĩa là "xứ kho bạc".

(2) Người Miên cũng gọi người Việt là Yuôn, có người ghi là Yun.

(3) Theo Võ Quang Yến trong bài Cây vấp gỗ cứng thì ông vua đó là Pô Rômê. Năm 1629, nhân Văn Phong là một người Chăm nổi lên đánh phá các làng di dân người Việt tại Phú Yên, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên sai Nguyễn Phúc Vinh mang quân đánh dẹp và thành lập Trấn Biên Dinh, lấn sâu vào lãnh thổ Chiêm Thành tới chân núi Thạch Bi (đèo Cả). Sau thất bại nầy, Pô Rômê (đã có 2 bà vợ) làm hòa và xin cưới con gái thứ ba của Sãi Vương là công chúa Ngọc Khoa trở thành Bia Út, tước hiệu hoàng hậu Akaran. Theo truyền thuyết, vua theo lời bà đốn cây krait (ta phiên âm là krết). Cây bảo hộ bị đốn, như hết còn được phù hộ, năm 1651, trước một trận giáp chiến với quân Việt, trong khi quân sĩ và tướng tá chạy lên trốn ở đất người Thượng, chỉ một mình vua Pô Rômê ở lại kháng cự, bị bắt và hành hình. Cũng trong bài nêu trên, tác giả cho rằng: "Trước đây hơn một thế kỷ, cây kraik lạ thường kia đã được một tác giả định danh là cây vấp (…). Gần đây, theo một học giả khác thì kraik là cây căm xe" (www.khoahoc.net)

(4) Trong bài Tìm hiểu cộng đồng người Chăm tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Văn Huy ghi: "Dòng họ còn lại của vị vua cuối cùng là Po Chongchan không được Gia Long nhìn nhận, tất cả bỏ sang Chân Lạp tị nạn". Chúng tôi không thấy tác giả Nguyễn Văn Huy đề cập đến việc lánh nạn sang Kampuchia dưới triều Minh Mạng. Để thêm về các cuộc di dân từ Việt sang Kampuchia và ngược lại xin các bạn tham khảo bài Cộng đồng người Chăm tại Kampuchia

(5) Chùa Tây An còn gọi là Tây An cổ tự, là một ngôi chùa Phật giáo tọa lạc tại ngã ba núi Sam (ngay dưới chân núi Sam) xã Vĩnh Tế thị xã Châu Đốc tỉnh An Giang. Đây là một ngôi chùa đẹp, mang phong cách kiến trúc Hồi giáo Ấn Độ pha trộn với kiến trúc Việt Nam. Ban đầu chùa chỉ là một am nhỏ kiến trúc đơn sơ, đến năm 1847 được xây dựng lại với kiến trúc gần như hôm nay (Theo Wikipedia). Không rõ người Chăm Hồi giáo có vai trò nào trong việc xây dựng chùa Tây An này không?

Có một Chămpa giữa lòng châu thổ

Tác giả: Lê Đình Bích

Nguồn: www.danangpt.vnn.vn

 

Ngó lên Châu Đốc

Ngó xuống Vàm Nao

Sóng bổ lao xao

Em thương anh mà ruột thắt gan bào

Biết anh có thương lại

Biết anh có thương lại

Chút nào hay không!

Lần theo câu ca dao, qua phà Châu Đốc, đoàn sưu tầm dân ca Chăm chúng tôi tìm về một vùng văn hoá tưởng chừng như khép kín giữa lòng Nam Bộ. Lần đầu tiên đối diện với khúc sông đầu nguồn châu thổ, ai cũng choáng ngợp trước sự trù phú của con nước phù sa: hàng trăm, hàng ngàn bè cá mang trên mình những ngôi nhà kiên cố, những thương hiệu muôn màu, muôn vẻ san sát trên sông. Đêm đầu tiên ở cù lao An Phú, chúng tôi như sống lại những ngày khai sơn phá thạch của đoàn người Nam tiến. Trong tiếng đàn kìm lắng sâu, tiếng đàn sến tuôn đổ, trong điệu hát Trường tương tư, Dạ cổ hoài lang, Trăng thu dạ khúc còn vang vọng đâu đây Xuân nữ, Hành vân, Tứ đại oán, Nam Bình… Dường như người dân Nam Bộ nào ai cũng hát được và hát hay, xuống sáu câu vọng cổ rất mùi. Khi vào bàn tiệc, khi tiếng đàn sến, đàn ghita phím lõm cất lên, những chức tước, những danh vị trong đời như gác lại, bây giờ chỉ còn anh Tư, anh Sáu, dì út…hết sức bình dị, gần gũi thân thương. “Cái tôi là cái đáng ghét nhất” – và cái tên đại diện cho cái tôi đã được thay thế bởi thứ bậc sinh trưởng trong gia đình! Người CHÂU GIANG Là Ai? Châu Giang là một xã đối diện với châu thành huyện Châu Phú, nằm bên kia bờ sông Hậu thuộc tỉnh An Giang, có đông đảo người Chăm sinh sống. Châu Giang là tên gọi Hán-Việt do người Kinh dùng để chỉ một cù lao giữa dòng Cửu Long do phù sa bồi đắp. Châu Giang gợi lên vẻ đẹp sông nước thơ mộng, êm đềm đồng thời cũng là trung tâm giao thương của nghề trồng dâu, ươm tơ, dệt lụa vốn là nghề truyền thống của người Chăm trong tương quan trao đổi hàng hoá với người Việt, Hoa, Khme và các cư dân thuộc quần đảo Mã Lai. Ngoài Châu Giang, các làng Chăm khác vẫn in đậm dấu vết pha trộn ngôn ngữ của cư dân có nền văn hoá đa sắc tộc: Đa Phước (Koh Kabõa), Katambong, Phum Soài, La Ma, Đồng Cô Ki, Tam Hội.Ngược dòng lịch sử về những thiên niên kỷ trước, những triều đại Chămpa suy vong trên đường Nam tiến đã dừng lại ở Tây Ninh, Châu Đốc và sang tận vương quốc Campuchia: Vua Pô Chơn là vị vua cuối cùng của vương quốc Chămpa theo Hồi giáo khi sang lánh nạn ở Campuchia đã lôi cuốn đa số người Chăm theo Hồi giáo rời quê hương. Và c! hính họ đã dừng chân lập cư bên bờ Châu thổ! CHĂM hay CHÀM? Một ngày biết thị thành ta rời bỏ.

Quay về thăm non nước giống dân Hời…Cứ mỗi lần đến thăm những cổ tháp, đền đài Chăm hiu quạnh, tôi lại nhớ đến nhà thơ Chế Lan Viên. Ông yêu mến nền văn hóa Chămpa, mỗi chữ trong mỗi bài thơ của ông dường như được đúc bằng những viên gạch Chàm kỳ bí. ấy vậy mà trong một khúc ca bi tráng, ông đã dùng chữ Hời để chỉ dân tộc Chămpa! Chữ Hời ở miền Trung phát nguyên từ chữ hời dùng để gọi nhau giữa người Chăm, nhưng với chính người Chăm thì chữ Hời biểu lộ một dụng ý khinh miệt. Cư dân Chămpa tự gọi mình là Chăm chứ không phải Chàm, vốn là một từ tiếng Việt. Tại Ninh Thuận, Bình Thuận, người ta còn gọi là Chăm Chuh và Chăm Bani để phân biệt người Chăm theo Bà-la-môn và người Chăm theo Hồi giáo – một tôn giáo chỉ mới xuất hiện vào thế kỷ thứ X ở Chămpa. Theo tác giả Dohamide, cách gọi này cũng giống như người Việt phân biệt lương và giáo – chỉ những cư dân theo đạo Cơ Đốc. Một điều cũng cần phải biết là người Chăm Châu Đốc không bao giờ thích người khác gọi mình là Chà hay Chàvà (Java). Chà là xuất xứ từ chữ Ja kèm theo tên để gọi nhau thân mật trong giới trẻ đồng trang lứa tương tự như “thằng” trong tiếng Việt. Ví dụ như Hô Sanh, Su Lây Man thì trong câu chuyện thay vì gọi nguyên tên thì những âm đầu bị bỏ mất đi, chỉ giữ âm chót và ghép với Ja: Ja Sanh, Ja Man. Chà ở đây hoàn toàn không phải là cách gọi tắt của Chàvà như nhiều người vẫn nhầm tưởng. Trẻ em Việt chơi với trẻ em Chăm phát âm ! trại Ja thành Chà. Cũng như người miền Trung đọc trại khách trú (người Hoa) thành các chú. Chàvà là tiếng có nguồn gốc từ Java để chỉ những thương nhân người ấn hoặc người Hồi quốc ở Sài Gòn hoặc một số tỉnh lỵ Nam Bộ khác, còn riêng tại Châu Đốc thì có một bộ phận cư dân được gọi là Java ku – cư dân Mã Lai nói tiếng Khme.Tiếng Trống Làng chăm Châu Đốc, An Phú, Tân Châu là nơi lập cư của người Chăm Nam Bộ. Cư dân ở đây sống thành từng xóm quanh các thánh đường Hồi giáo tráng lệ mà người dân gọi một cách hết sức bình dị là Chùa Chăm. Một sự hòa hợp rất chân thành giữa vùng đất đa sắc tộc và đa tôn giáo. Người Chăm dù đi bất cứ đâu vẫn giữ y phục truyền thống của mình: vấn chăn thay quần, đầu đội mũ hoặc quấn khăn. Người Chăm không uống rượu và ăn thịt heo, con gái đến tuổi cập kê thường ở trong nhà, nép sau bức màn, đi đâu thường có người lớn đi theo. Nếu người theo đạo Phật mỗi tháng có hai lần đi lễ, người theo đạo Cơ Đốc xem lễ vào ngày chủ nhật thì người Chăm Nam Bộ mỗi ngày có năm lần hành lễ tại thánh đường. Chúng tôi đã đến thăm nhà ông giáo cả Musa Haji (Haji là phụ danh cao quý chỉ người đã từng hành hương về thánh địa Mec-ca), người đã tập hợp những người hiểu biết nhất về tiếng Chăm Nam Bộ ở An Giang để thống nhất từng chữ và biên dịch lại trọn vẹn 6 cuốn sách song ngữ tiếng Việt ra tiếng Chăm, giảng dạy song song trong nhà trường cấp một vào ngày thứ năm ở các lớp có học trò người Chăm Nam Bộ. Bằng chiếc máy chữ với bộ chữ cái tiếng Ả Rập, ph�! ��i thêm! vào 6 dấu nữa bằng tay, sau khi đánh xong, ông đã dịch hằng trăm trang sách giá trị ra tiếng Chăm Nam Bộ, phổ biến trong cộng đồng Chăm ở An Giang, Tây Ninh và Thành phố Hồ Chí Minh.


Trên đường sưu tầm nền văn hóa cổ người Chăm, chúng tôi đã dừng lại ở thánh đường Darul Eih San, thuộc xã Đa Phước, huyện An Phú. Người Chăm gọi nơi này là Kokpọ (Cồn Tơ), vì nơi đây ngày trước vốn là nơi sản xuất dâu tằm để cung cấp cho nghề dệt vải, một nghề truyền thống của người Chăm Nam Bộ.Thăm một lớp dạy đọc kinh, chúng tôi lại càng hiểu hơn tấm lòng người Chăm Nam Bộ trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Từ âm nhạc, kiến trúc cho đến nghi lễ đều in đậm bản sắc văn hóa Chăm. Người Chăm tiếp khách ở nhà sàn trên nền chiếu bông, cây đòn đông gác theo trục Đông – Tây đón khách chứ không gác theo trục thần đạo Bắc – Nam như nhà người Việt, người Hoa. Khác với người Chăm Bình Thuận, âm nhạc của người Chăm Nam Bộ không có múa, không sử dụng bất kỳ nhạc khí nào ngoài bộ gõ: trống Thummạ, vốn là đặc trưng của nền văn minh nông nghiệp Nam Á. Đôi bàn tay điêu luyện của người nhạc công vừa vỗ hai đầu trống để đệm cho người ca sĩ hát hoặc vừa tự đệm vừa hát. Tiếng trống biến ảo, tài tình có thể cất lên mọi tiết tấu âm nhạc, từ dân ca Chăm trầm lắng đến những điệu rumba, boléro, valse hay tango… Trên bình diện văn hóa, âm nhạc bao giờ và trước tiên cũng là thứ ngôn ngữ sinh động nhất, nên chúng ta thấu hiểu vì sao những khúc ca của người Chăm bao giờ cũng viết bằng điệu thức thứ trầm lắng, thánh lễ, dịu dàng.

Dòng sông Điên Điển

Hai nhánh nước

cánh tay trời vạm vỡ

Ru chàng trai làng Gióng

dựng miền Nam

Không đuổi giặc với thanh gươm

mở đất với cây đàn…

Xuôi tắc ráng về Châu Giang, nhìn lại phía thượng nguồn, dòng Cửu Long – nơi chia đôi dòng nước – như hai cánh tay vạm vỡ, cuồn cuộn ôm lấy dải cù lao trù mật: Phú Tân, An Phú, Chợ Mới, Tân Châu. Có lẽ không nơi nào trên đất nước ta tên đất, tên làng lại nói lên sự giàu có, bình yên và đầy nhựa sống như ở nơi sông Tiền, sông Hậu phân nhánh tỏa khắp châu thổ này! Tôi đã uống thử nước ở vùng núi, vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, nhấm nháp vị trong lành của suối nước cao nguyên Trung Bộ… Giờ đây tôi lấy hai tay vụm thử một ngụm phù sa châu thổ. Mỗi dòng nước sông quê có mùi vị nồng đượm rất đáng yêu và tôi hiểu rằng hạnh phúc của đời tôi là được đi trên mảnh đất này, được bơi tắc ráng với người con gái Châu Giang giữa cánh đồng ngập nước mùa bông điên điển! Không có ai thương người châu thổ bằng con nước phù sa: Hãy để cho nước ngập đồng lắng đọng hạt châu, gội sạch những nhiễm ô mà vì mưu sinh, con người thời công nghiệp hóa đã để lại trên ruộng lúa. Hãy để mỗi năm nước về tắm mát vườn, ruộng một lần! Đừng đắp đê bao ngăn nước để có thêm một vụ lúa mà đất phải cạn kiệt, héo mòn. Đừng lấp đi một cửa sông làm lệch cán cân sinh thái mà thiên nhiên ban tặng. Đừng tạo những giống lúa quá ngắn ngày không đủ thời gian hấp thụ khí thiêng sông núi. Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong; thuận với quy luật tự nhiên thì tồn tại, nghịch với tự nhiên thi mất! GIỮA LÒNG CHÂU THỔ Tôi có một biệt l�! �� không bao giờ dùng địa danh Đồng bằng sông Cửu Long, mà là CHÂU THỔ CỬU LONG. Châu thổ là vạt cát bồi ở cửa sông (banc de terrain alluvionnaire) là nơi cát liền cát, sông liền sông, mỗi ngày có hai con nước là con nước lớn, con nước ròng, mỗi tháng có hai con nước là con nước ròng, con nước kém và mỗi năm có một mùa nước nổi tràn ngập các cánh đồng. Không phải ngẫu nhiên mà mỗi đứa trẻ ở dải đất này khi lớn lên đều thuộc nằm lòng câu đố của cha ông truyền thừa từ thuở khẩn hoang, lập đất: Cái gì có ông mà không có bà, có cửa không có nhà, có bốn đứa con? Đó là cái ông Trời, cái Cửa sông, cái con nước lớn, con nước ròng, con nước rong, con nước kém, cái làm nên nhịp sống của đất và người châu thổ, phân biệt rạch ròi với nhịp thủy triều của đồng bằng sông Hồng, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Đồng Nai… là nơi sóng và núi đứng kề nhau mỗi năm có một mùa mưa, lụt. Chữ và chữ lụt không có trong gốc từ của người Nam Bộ, nó được mang theo trong quá trình mở đất của đoàn người Nam tiến và cũng là hậu quả của sự tàn phá môi sinh!

Tôi, đứa con của ngọn gió lang thang cánh đồng Miền Trung nhỏ hẹp

Đứa con của nắng lửa bốn mùa cát trắng hanh hao

Đứa con của biển khơi trùng trùng bão thét

Và của đôi mắt tháp Chàm mất ngủ xanh xao.

(lnrasara)

Giờ đây có mấy ai nhớ được rằng trong đoàn người trôi dạt về Nam, có những người Chăm ở vùng duyên hải miền Trung nắng cháy, khô cằn đã đến lập cư ở vùng phù sa quanh năm chìm trong biển nước! Phải chăng chính địa lý đổi thay đã dẫn đến sự đổi thay về tập tục, văn hóa và cả tâm tính con người. Nếu thiếu một sự mẫn cảm, tinh tế và hòa ái, chúng ta khó nhận ra rằng những người Chăm Bình Thuận và những người Chăm Nam Bộ đều khởi đi từ thánh địa Trà Kiệu, Mỹ Sơn! Tạm biệt An Phú, Phú Tân, Tân Châu, Châu Đốc, tạm biệt những thánh đường lslam soi bóng bên dòng Cửu Long hùng vĩ, tạm biệt chiếc khăn Muntơra của người con gái Châu Giang! Mười bảy năm lặn lội khắp miệt vườn Nam Bộ. Vậy mà hôm nay tôi mới về đây, mới hiểu ra rằng: Có một Chămpa giữa lòng nước phù sa

Đến với làng Chăm ở Đồng Bằng

Nguồn: giaitri.vietbuzz.com

Nam bộ, dân tộc Chăm không nhiều, phần lớn sinh sống tập trung ở An Giang. Ước tính, hiện nay ở An Giang có khoảng 12.700 tín đồ theo đạo Hồi. Chính những tín đồ theo đạo Hồi này đã làm nên một bản sắc văn hóa Chăm độc đáo giữa vùng châu thổ Cửu Long giang.

(Thánh đường Mubarak)

An Phú là huyện đầu nguồn châu thổ sông Cửu Long với hai nhánh sông Tiền, sông Hậu mênh mông, rộng lớn cũng là nơi có đồng bào Chăm sinh sống tập trung đông nhất ở An Giang. Làng Chăm hiện nay sống tập trung thành chín xóm với hơn 2.000 gia đình sống tập trung thành những ấp hay liên ấp xen kẽ với người Việt từ biên giới Campuchia chạy dài theo dòng sông Hậu và sông Khánh Bình hợp lưu ở Tam Giang rồi đổ xuống đến xã Khánh Hòa, huyện Châu Phú.

Qua bến phà Châu Giang ở Châu Đốc là đến làng Chăm. Một dãy nhà sàn, vách ván, lợp ngói đỏ tươi hiện ra, nằm san sát nhau bên dòng sông Châu Đốc. Con đường đất chạy dài, uốn lượn theo bờ sông. Hai hàng cây xanh tươi, mát rượi bên đường. Trên đường, nhiều đàn ông Chăm đội mũ vải màu trắng, trên người có khi mặt áo thun, áo sơ mi hoặc ở trần, vận sà rông kẽ sọc xanh, đỏ. Phụ nữ Chăm thường ít khi ra đường, đặc biệt là khi nhà có khách đàn ông họ lại càng tránh mặt. Người Chăm tỏ ra khá thân thiện và hiền lành. Họ sống cởi mở và dễ tiếp xúc.

Kinh tế gia đình người Chăm khá dư dả. Nghề nghiệp chính của bà con là buôn bán nhỏ, đánh bắt thủy sản và làm các nghề thủ công truyền thống. Người Chăm ít buôn bán qua trung gian. Phần lớn, họ trực tiếp tiếp cận thị trường. Hàng hóa do họ làm ra trực tiếp đem ra chợ bán. Chính điều này có cái hay là làm cho người Chăm có sự giao lưu văn hóa với những dân tộc khác. Người Chăm có tập quán sống theo triền sông, vì vậy nghề đánh bắt thủy sản đã là một nghề truyền thống của họ. Họ không chỉ quăng lưới hay mà còn đẹp nữa. Nếu có dịp nào bạn đứng bên bờ sông Châu Đốc, thấy những người đàn ông mình trần, vận sà rong, quăng một tay lưới nặng, phủ cả mặt sông tạo thành một vòng to, lượn sóng từ không trung rồi từ từ phủ xuống mặt sông, thì đó chính là người Chăm.

Đồng bào người Chăm ở An Giang còn nổi tiếng với nghề dệt lụa và thổ cẩm… Đó là do họ sở hữu được những bí quyết gia truyền của nghề, như: phải dùng tơ chín, nhuộm bằng vỏ trái mặc nưa, kỹ thuật dệt hoa mây, lồng đèn, vân, lãnh… Đặc biệt khăn làm của hồi môn Icat, xà rông hoa, tơ thổ cẩm, áo thổ cẩm, bóp, khăn thêu, hộp đựng nữ trang… cũng là những mặt hàng được du khách rất ưa chuộng, tìm kiếm. Làng nghề dệt lụa của người Chăm ở An Giang đã từng một thời nức tiếng xa gần, góp phần quan trọng hình thành nên một trung tâm tơ lụa lớn nhất miền Nam trước năm 1975.

Người Chăm ở An Giang theo đạo Hồi nên họ cử thịt heo. Con trai lớn lên khoảng 13, 14 tuổi thì phải chịu lễ cắt da qui đầu, con gái thì khuê môn bất xuất. Khi dựng vợ gả chồng cho con thì đưa rể chứ không rước dâu. Mỗi ngày người Chăm hành lễ 5 lần, và mỗi năm phải chịu một tháng Ramadan, là tháng họ phải nhịn đói, không được hút thuốc và phải kiêng cử cả việc chung chạ với đàn bà.

Người Chăm có thói quen ở nhà sàn, cột thường bằng cây nguyên bào nhẵn, cao khỏi đầu người. Mặt tiền nhà nào cũng có một cái thang bằng gỗ, dùng để bước lên nhà. Phía dưới sàn họ thường để trống cho mát, đôi khi chất ít củi. Bên trong nhà hầu như không có bàn ghế, nên khi khách đến nhà thì chủ nhà trải chiếu hoặc tấm thảm ra để chủ và khách cùng ngồi xếp bằng trên sàn gỗ.

Trong khu vực cư trú của người Chăm thường có nhiều thánh đường để tiện cho việc hành lễ. Các thánh đường này được người địa phương gọi là chùa, như: chùa lớn, chùa nhỏ, trong đó tiêu biểu và nổi bật nhất là Thánh đường Mubarak, tọa lạc trên một sở đất rộng, bên bờ Châu Giang hiền hòa, thuộc xã Phú Hiệp, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang, cách thị xã Châu Đốc bởi bến phà Châu Giang.

Từ thị xã Châu Đốc, du khách qua phà Châu Giang tới bên kia bờ Phú Hiệp là thánh đường Mubarak hiện ra. Du khách sẽ vô cùng ngạc nhiên trước sự lạ lẫm nhưng hùng của ngôi thánh đường này. Đây là một lối kiến trúc hoàn toàn khác với các kiểu kiến trúc của chùa Hoa, chùa Việt, hay chùa Khmer. Đập vào mắt du khách là cổng chính thánh đường có hình vòng cung, phía trước, trên nóc có một tháp lớn hai tầng, nóc tháp hình bầu dục, dưới chân tháp có hình trăng lưỡi liềm và ngôi sao, tượng trưng cho đạo Hồi. Bốn góc trên nóc thánh đường đều có bốn tháp nhỏ, giữa nóc có hai tháp bầu tròn nhô cao. Từ cửa chính của thánh đường trở ra hai bên, mỗi bên có hai vòm hình vòng cung nhọn đầu, mỗi vòm cách nhau khoảng 2m4. Bên hông thánh đường, phía tay trái và tay phải, mỗi bên cũng có sáu vòm hình vòng cung nhọn đầu cảm nhận được một nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Chăm anh em cùng cộng cư trên mảnh đất Nam bộ này. Không gian bên ngoài thánh đường hết sức rộng lớn và thoáng mát. Đứng trước không gian thoáng đãng này du khách sẽ thấy lòng mình lâng lâng lạ thường. Vào trong thánh đường, du khách cũng lại một lần nữa ngạc nhiên: Bên trong thánh đường, do đặc điểm của đạo Hồi nên không có tượng thờ bất kỳ vị thần thánh nào, nhưng phải có hậu tẩm, là nơi chức sắc đứng hướng dẫn tín đồ làm lễ. Có Minbar là nơi thầy giảng giáo lý trong buổi lễ thứ sáu hàng tuần. Bên góc thánh đường có tháp cao để chức sắc kêu gọi tín đồ đến hành lễ: ! bốn bề của bức vách bên trong thánh đường được tô điểm bởi màu trắng và xanh lợt đã làm dịu đi cái nắng như đổ lửa ở bên ngoài, nền được lót gạch bóng lộn, những chùm đèn điện được treo trên trần đã tô điểm thêm cho thánh đường cái vẻ sang trọng và quý phái lung linh huyền ảo nơi chốn tôn nghiêm này. Lúc ấy, lòng du khách khoan khoái lạ thường, tín tâm trỗi dậy, lòng tà tiêu tan. Đi thật nhẹ, nói thật khẽ… tất cả nhằm giữ cho sự tôn nghiêm nơi thánh đường và hướng lòng mình về một cõi xa xăm, huyễn hoặc.

Mubarak được xem là một thánh đường tiêu biểu có lối kiến trúc hết sức độc đáo của cộng đồng người Chăm ở Châu Giang. Kiến trúc công trình thể hiện đường nét riêng, mang đậm tính tôn giáo của dân tộc Chăm theo đạo Hồi. Vì vậy, Mubarak có dáng dấp của các thánh đường Hồi giáo trên thế giới. Nó tôn trọng những qui định về kiến trúc bên ngoài cũng như cách bay trí bên trong.

Hằng năm, thánh đường Mubarak có 3 kỳ lễ lớn: lễ Roja vào ngày 10 tháng 12 Hồi lịch, lễ Ramadan kéo dài từ ngày 1 đến 30 tháng 9 Hồi lịch (còn gọi là tháng ăn chay), lễ sinh nhật của giáo chủ Muhammed (người sáng lập đạo Hồi) vào 12 tháng 3 Hồi lịch. Trong những dịp lễ hội này, cư dân từ mọi nơi về tham gia sinh hoạt lễ hội rất đông, tạo thành những nét sinh hoạt văn hóa truyền thống hết sức độc đáo và thú vị của cộng đồng người Chăm ở đây.

Với những nét kiến trúc nghệ thuật độc đáo, mang đậm màu sắc tôn giáo của người Chăm Châu Giang, và những lễ hội truyền thống mang tính đặc trưng của đạo Hồi mà thánh đường Mubarak được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là kiến trúc nghệ thuật vào ngày 05/12/1989. Làng Chăm Châu Giang nói chung, thánh đường Mubarak nói riêng là một điểm tham quan lý tưởng cho du khách gần xa.

(Theo – Báo Cần Thơ)


Làng Chăm trong tháng Ramadam 

Tác giả: Trần Tâm

Nguồn: www.cema.gov.vn                                              

Năm nay (1), tháng chay bắt đầu từ ngày 26/10 dương lịch (theo Hồi lịch nhằm ngày 1/10) và kéo dài cho đến hết ngày thứ 30, sang ngày thứ 31 sẽ chính thức vào lễ Tết cổ truyền Roya của người Chăm An Giang. Chúng tôi về làng Chăm trong những ngày vui vẻ nhất trong tháng Ramadam của bà con; đi đến đâu cũng thấy nhà nhà tề tựu đông đủ người thân sau một năm xa gia đình. Không khí ngập tràn niềm hạnh phúc.

Người Chăm An Giang từ lâu đời đã chọn vùng đất trù phú bên dòng sông Hậu làm nơi sinh sống. Những nếp nhà sàn kiên cố vượt bên sông là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt, biết cải tạo thiên nhiên, nhưng cũng biết hoà mình vào nó để tồn tại. Làng Chăm Đa Phước (xã Đa Phước, huyện An Phú) không chỉ nổi tiếng nhờ những ngôi thánh đường uy nghi, những bè cá rộng lớn, hay một địa thế đẹp ngay ngã ba sông Châu Đốc và sông Hậu mà còn được biết đến như một làng du lịch đậm đà bản sắc dân tộc. Phó cả Hatiza, người có uy tín nhất vùng Chăm Đa Phước bên cạnh vị giáo cả, nồng nhiệt tiếp đón chúng tôi sau khi đã tham dự xong giờ lễ ở thánh đường. Có vẻ như biết những người khách lạ chưa thông hiểu về tháng chay Ramadam, cụ nói: Trong tháng này, đồng bào Chăm theo đạo Hồi phải nhịn ăn, nhịn uống từ 5 giờ kém 15 phút sáng đến 6 giờ kém 15 phút chiều và phải đến thánh đường cầu nguyện 5 lần. Vào tết Roya mọi người sẽ được ăn uống thoả thích, mặc những bộ quần áo đẹp. Tết Roya cũng là dịp người ta tha thứ lỗi lầm cho nhau, bỏ qua những điều không tốt của năm cũ để bước vào năm mới đầy những niềm vui. Nhà cụ Hatiza là một trong 4 điểm ở Đa Phước được ngành du lịch tỉnh chọn làm điểm dừng chân cho du khách nghỉ ngơi, xem phim tài liệu về đồng bào Chăm An Giang trong cộng đồng 54 dân tộc anh em ở Việt Nam. Sau đó du khách vào thăm thánh đường Hồi giáo; trở về nhà dân chiêm ngưỡng những đôi tay khéo léo của các cô gái Chăm dệt th�! � cẩm bên khung cửi và chọn mua những món quà lưu niệm… Nhiều du khách quốc tế đã tỏ ra quá đỗi ngạc nhiên trước sự thân thiện của bà con người Chăm nơi đây, đặc biệt là trước nét đẹp văn hóa truyền thống đã được gìn giữ và phát huy trong thời kinh tế thị trường, dù sản phẩm du lịch chưa phong phú, tuyến đường còn đơn điệu… Cụ phó cả cho hay: Mỗi ngày có trên dưới 50 du khách quốc tế đến thăm quan làng Chăm Đa Phước. Cho dù bà con làm du lịch ở đây chưa có thu nhập cao, nhưng vẫn nhiệt tình giới thiệu với bạn bè quốc tế và du khách trong nước hiểu hơn về một cộng đồng dân tộc nơi đầu nguồn con nước Cửu Long.

Chia tay làng Chăm Đa Phước huyện An Phú, chúng tôi gọi đò ngang qua sông Hậu thăm làng Chăm Phũm Xoài, xã Châu Phong, huyện Tân Châu. Không khí trong làng yên lặng, vì vào giờ lễ. Ngồi chờ chị Zeiloh, Chủ tịch Hội phụ nữ xã Châu Phong, chúng tôi đã kịp đọc được nhiều bằng khen, giấy khen các cấp trao tặng cho người phụ nữ Chăm năng động, giàu thành tích trong mọi hoạt động của xã như: chương trình phụ nữ giúp nhau làm kinh tế gia đình, xóa đói giảm nghèo, kế hoạch hoá gia đình, văn nghệ, thể thao…, trong đó có bằng khen của Thủ tướng Chính phủ. Chị Zeiloh cho biết: Chuyện những cô gái Chăm bị "cấm cung" chỉ quanh quẩn bên khung dệt, không được ra ngoài, không biết mặt người chồng tương lai… thì nay, đã hoàn toàn đổi khác. Các cô gái đều được hoà nhập vào cộng đồng, đến trường và tham gia nhiều hoạt động xã hội tại địa phương. Nói đến người Chăm Tân Châu, không thể không nhắc đến nghề dệt lụa đã gắn liền với câu hát truyền miệng nổi tiếng:

        "Trai nào thanh bằng trai Nhơn ái

        Gái nào lịch bằng gái Tân Châu

        Tháng ngày dệt lụa trồng dâu

        Thờ cha, dưỡng mẹ quản bao nhọc nhằn"

Tân Châu đã từng là "thủ phủ" của nghề dệt lụa ở miền Tây Nam Bộ với nhiều mặt hàng được đi bán khắp nơi trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, dưới sức ép của nền công nghiệp dệt may hiện đại, lụa Chăm Tân Châu có thời gian bị chìm vào quên lãng. Nhưng từ năm 1997 đến nay, nhờ có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Hợp tác xã dệt – thêu – đan Châu Giang ở Phũm Xoài được đưa vào hoạt động đã phần nào khôi phục các sản phẩm truyền thống dệt lụa. Bên cạnh lụa, thổ cẩm Chăm Châu Giang cũng được khách hàng đặc biệt ưa chuộng. Mặc dù vào tháng chay Ramadam, nhưng tại trụ sở HTX dệt Châu Giang vẫn nhộn nhịp tiếng rộn ràng  khung cửi, anh Hồ Sa Ich, Phó Chủ nhiệm cho biết: sau khi khung cửi được cải tiến kỹ thuật, năng suất làm việc của xã  viên tăng cao, nhờ đó thu nhập cũng đi vào ổn định hơn trước. Từ 14 khung dệt ban đầu, đến nay HTX đã có 70 khung, số thợ cũng tăng lên trên 200 người, sản phẩm làm ra ngày càng đa dạng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Nhằm giúp chị em phụ nữ Chăm có việc làm, tăng thu nhập, HTX đến nay đã liên kết với nhiều địa phương trong tỉnh mở những lớp dạy thêu, đan, dệt. Làng Chăm La Ma, xã Vĩnh Trường, huyện An Phú cũng đã có 90 chị được học nâng cao tay nghề. Hiện ở làng có trên 100 chị ở nhà đan len, nguồn vốn do Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh hỗ trợ cho vay từ 1-2 triệu đồng/chị, để mua sắm nguyên liệu và dụng cụ đan. Đến nay, các dự án này đã phát huy hiệu quả thiết thực, các chị! đều có thu nhập trung bình từ 15.000-30.000 đồng/ngày. Trên các con đường dẫn vào những ngôi làng Chăm An Giang đều đã được nâng cao vượt đỉnh lũ hoặc trải nhựa, không còn cảnh bơi xuồng hay chèo đò vào mùa nước nổi. Đến đâu bà con cũng phấn khởi trước sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, từ đó tình hình an ninh trật tự xã hội được giữ vững; văn nghệ, thể thao được tổ chức hàng năm, thu hút nhiều tầng lớp nhân dân tham gia; hộ nghèo giảm nhanh, không có tái nghèo… Toàn làng Chăm Đa Phước có 238 hộ, nhưng chỉ còn 6 hộ nghèo, làng Chăm Phũm Xoài có 444 hộ, hiện chỉ có 10 hộ nghèo…, tỷ lệ khá thấp so với các địa phương khác.

Mỗi năm, người Chăm An Giang lại gặp mặt nhau trong tháng chay Ramadam và ăn một cái tết Roya với nhiều niềm vui hơn năm trước (2).

——————–

(1) Không rõ năm nào.

(2) Một ngày lễ lớn khác của người Chăm là Katê. Lễ chính thức được tổ chức tại tháp Pô Klông Garai (Tháp Chàm – Ninh Thuận) vào ngày mùng một tháng bảy lịch Chăm. Trong phần nghi thức cũng có các chức sắc người Chăm theo đạo Hồi hành lễ. Theo Qasim Từ trong bài Góp phần tìm hiểu lễ hội Katê thì "Đứng trên phương diện văn hóa, Katê là một lễ hội của người Chăm Ahier, nhưng lễ hội này đã trở thành một di sản văn hóa của toàn thể dân tộc Champa". Tôi không rõ người Chăm theo đạo Hồi ở An Giang có "ăn mừng" lễ Katê không?

Người Chăm An Giang- Bản sắc văn hóa độc đáo một vùng biên

Tác giả: Phương Kiều (Phù Sa Lộc)

Ảnh: Trần Kim Đính

Nguồn: metinfo.blogspot.com

Có thể nói, trước 1975, người Chăm An Giang là một dân tộc sống như "ẩn cư" trong cộng đồng người Việt với nhiều luật tục, tập quán. Nhưng từ nhiều chục năm nay, dân tộc Chăm đã hòa nhịp cùng đời sống tiến bộ, vươn lên trong thế kỷ mới, vận hội mới, nên những tập tục cổ hủ đã dần được loại bỏ.

Nhờ vậy mà các cô gái Chăm xưa kia bị gò bó trong tục ga-sâm (cấm cung), nay đã được đi lại làm ăn, nhất là được ca hát, biểu diễn văn nghệ phục vụ, giúp vui cho làng xóm, tranh giải và đã đoạt nhiều huy chương trong các hội diễn, hội thi địa phương và toàn quốc. Với người Chăm tháng chay Ramadan rất quan trọng. Sau tháng nhịn ăn, họ bước vào ngày lễ Roya Phik Trok, đây là lễ quan trọng, còn được gọi là tết, diễn ra trong 3 ngày (1 – 3 tháng 10 Hồi lịch). Ngoài mục đích bố thí cho người nghèo, trong các ngày này, người Chăm còn đi chúc mừng nhau, xin xóa tội cho nhau; nhà nào cũng làm bánh, làm cơm đãi khách, khách lạ đến xóm đều được mời ăn uống thỏa thuê… Với tinh thần đoàn kết giúp nhau trong cuộc sống ấy của người Chăm, nhân Tết Roya Phik Trok, chính quyền tỉnh An Giang tổ chức Liên hoan văn hóa – nghệ thuật dân tộc Chăm tỉnh An Giang lần I-2003 tại Búng Bình Thiên, trước cửa Thánh đường Mas Jid Khoy Ri Yah xã Nhơn Hội, huyện An Phú. Đây là cuộc gặp gỡ đầy thú vị của 9 đơn vị xóm Chăm trong tỉnh, gồm: Quốc Thái, Đa Phước, Nhơn Hội, Vĩnh Tường, Khánh Bình (An Phú), Châu Phong (Tân Châu), Khánh Hòa (Châu Phú), Phú Hiệp (Phú Tân), Vĩnh Hanh (Châu Thành).

Ba đêm biểu diễn văn nghệ là ba đêm phục vụ khán giả hăng say của 9 đơn vị, họ còn mong muốn vươn lên đoạt lấy thành tích cao nhất, đem vinh dự về cho xóm mình. Trong Hội thi Tiếng hát từ xóm Chăm, với trang phục truyền thống đẹp đẽ, các chàng trai, cô gái Chăm đã cất cao giọng hát làm rung động, say mê hàng ngàn người đứng chen chân trong sân thánh đường, trên đường lộ và ngồi tràn cả bờ Búng Bình Thiên – cái hồ nước rộng mênh mông lung linh ánh điện đủ màu. Điểm nhận thấy rõ nhất là các cô gái, chàng trai này có giọng hát vút cao, trầm ấm, làm nao lòng những người dự khán. Tiếng hát của họ ngợi ca tình đoàn kết chiến đấu chống giặc ngoại xâm; tình yêu quê hương, đất nước – con người, nhất là tình yêu nam nữ qua những bài hát sống động, hào hùng và trầm lắng. Ngoài những bài hát nổi tiếng của một thuở Trường Sơn dép lốp đạp đá tai mèo lên đường đi đánh Mỹ, như "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây", "Vàm Cỏ Đông",… Người xem còn thưởng thức những ca khúc địa phương: "Châu Giang ngày mới" (Anh Chiến), "Hương chiều" (Huỳnh Duy Tâm). Đặc biệt, khán giả rất xúc động trước những sáng tác của các tác giả người Chăm: "Bác Hồ trong trái tim người Chăm" (Mi Xiêm), "Làng Chăm ơn Bác" (A-mư Nhăn), "Làng quê tôi" (Sa Mil), Hương sắc An Giang" (Sô Lay Mal), "Bến nước tình yêu" (A Mu Yang),… Đặc biệt, tổ khúc "Karim và Norisa" gồm 3 bài của Lâm Thanh Bình được Fa Go Hy Roh và So Ly (Nhơn Hội) trình diễn 2 bài "Trái táo" và "Chia xa" đã đón nhận hàng tràng vỗ tay hoa! n hô nồng nhiệt. Trước đây, "Karim và Norisa" là tác phẩm đã làm nên tên tuổi Lâm Thanh Bình, người con đất An Phú đầu nguồn sông Hậu.

Trong liên hoan, khán giả còn được xem Biểu diễn trang phục truyền thống. Các cô gái Chăm tha thướt trong chiếc áo tunic (áo dài), duyên dáng với chiếc khanh maom (khăn thêu) trên mái tóc đen tuyền. Các chàng trai Chăm trang trọng trong trang phục ao karung (áo dài nam), quấn xà-rông, đội mươt (nón). Qua bước đi của các cô, các cậu trên sân khấu và trang phục đẹp đẽ của ngày tết của khán giả người Chăm đến dự, khách Việt Nam rất sung sướng như lạc vào thế giới "Ngàn lẻ một đêm". Đặc biệt, liên hoan còn có phục hiện lễ cưới người Chăm. Vì ảnh hưởng Malaysia (Ma-lai-xi-a) nên những nghi thức trang trí cho phòng cô dâu, chú rể như gối nằm, gối dựa, những hoa văn trên tấm ti-gai (màn) có đính nhiều hạt chuỗi thủy tinh nhiều màu sắc, đính nhiều bông hoa (hoa lựu, hoa bốn cánh, các loại dây leo,…). Còn có cái khay đựng tiền và 2 cái hộp bằng đồng theo tập tục Khmer (Khơ-me), để đựng trầu cau, đựng rượu. Cô dâu mặc áo dài bằng nhung (hay nhiễu) đỏ, tím, chạy dài xuống quá gối, không xẻ hông. Một cái băng to bản màu xanh lam quấn quanh ngực và vai, có đính nhiều vòng chuỗi cườm. Dưới chân áo lộ ra chiếc xà-rông tơ tằm phủ xuống tận mắt cá. Vì là dân tộc theo mẫu hệ nên đám cưới người Chăm không rước dâu mà chỉ đưa rể. Khi chú rể bước xuống thang nhà, bạn bè hát vang bài "La mệ La mư" (bài hát giã từ cha mẹ),… Buổi biểu diễn đã toát lên được tập quán cưới hỏi độc đáo của người Chăm.

Liên hoan văn hóa – nghệ thuật Chăm tỉnh An Giang lần I-2003 cũng giống như bất cứ cuộc liên hoan nào khác, đều có các giải thưởng dành cho những đơn vị xuất sắc. Dù kết quả thuộc về đơn vị nào, nhưng thành công lớn nhất mà liên hoan đã đạt được là dịp để các nghệ nhân Chăm gặp gỡ, giao lưu, học hỏi; là cơ sở để giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa độc đáo ấy. Liên hoan này sẽ được tổ chức hàng năm trong ngày Tết truyền thống của người Chăm Roya Phik Trok.

Đạo Islam tại Việt Nam

Tác giả: Đỗ Hải Minh (Dohamide Abu Talib) California, USA

Nguồn: ttntt.free.fr

Ngược dòng lịch sử người ta đã ghi nhận vào một thời điểm hiện chưa được các cuộc nghiên cứu khoa học xác định chính xác, Đạo Islam nguyên đã được truyền chuyển vào bán đảo Đông Dương bởi các nhà thương buôn Á Rạp ghé qua các bến cảng đất Champa tức Chiêm Thành, một vương quốc đã một thời hưng thịnh tại vùng đất Trung Việt Nam ngày nay, mà kinh đô Vijaya (Thành Đồ Bàn) qua một số đền tháp, di chỉ, còn lưu lại, được đặt tại Trà Kiệu, vùng Bình Định ngày nay. Nhà khảo cổ Pháp, H. Huber, đã tìm được trong sử nhà Tống, Trung Quốc, bản tường thuật về sinh hoạt của dân tộc Chăm có ghi câu kinh A-la hòa cập bạt mà người ta suy ra là câu kinh nhật tụng Allahu Akbar (Allha vĩ đại) của người Muslim. Ngoài ra, trong câu chuyện lịch sử dân gian của người Chăm, đăng trong Excursions et Reconnaissances, XIV, trang 153, có ghi vị vua Champa trị vì vào thế kỷ thứ 10 T.L. đã nhập đạo Islam và đã có đi hành hương Thánh địa Makkah, chứng tỏ đạo Islam đã có một thời cực thịnh tại đất Champa. Sau khi vương quốc Champa từng bước tan biến trước các làn sóng nam tiến của Đại Việt, một vị vua cuối cùng của người Chăm được gọi là Pô Chơn, không chịu đượng được các chính sách ngược đãi của thời vua Minh Mạng, đã cùng một số thần dân trốn sang đất Cam Bốt và định cư tại đó (Một số địa danh như  Kompong Cham chẳng hạn trên đất Cam Bốt có nghĩa là bến hoặc làng người Chăm). Nhóm nầy sau đó lần hồi xuôi theo dòng sông Cửu Long xuống đến vùng Châu Đốc, đã định cư trong bảy làng tại đây cho đến ngày nay v�! � đã có tham gia lao động thực hiện công trình của Thoại Ngọc Hầu đào kinh Vĩnh tế thông thương với Hà Tiên. Từ biến cố lịch sử nầy, cộng đồng Chăm Muslim được chia thành hai nhóm một thời gian dài đã bị ngăn cách nhau trong không gian.

Nhóm người Chăm còn lại trên đất mẹ qua diễn biến của thời cuộc không còn ai chuyên về nghề đánh cá ngoài biển là nghề cổ truyền một thời nổi tiếng của người Chăm nữa, mặc dầu trong các lễ tục dân gian, cụ thể là lễ cúng Raja, vẫn còn phản ảnh sinh hoạt nghề nầy. Ngoài số người Chăm theo tín ngưỡng truyền thống trực tiếp chịu ảnh hưởng Ấn Giáo  và Bà La Môn, cho đến ngày nay vẫn còn lưu lại một số người gọi là Chăm Bani, sống trong các thôn ấp riêng rẽ đối với người Chăm, có một hệ thống chức sắc lãnh đạo chuyên nghiệp, trong dân gian gọi là các Thầy Chang, đảm bảo thực hiện các lễ nguyện, nhịn chay, và các lễ cúng của gia đình, còn người dân thì chỉ mang vật cúng đến thánh đường mà thôi. Thiên Kinh Qur'An cũng còn được duy trì, nhưng là bản được sao chép tay qua nhiều thế hệ nên đã thay đổi nhiều nét và cách đọc có nhiều âm khác lạ không còn là tiếng A Rạp nguyên gốc nữa. Tình trạng sai lệch đó nguyên là do sống cô lập trong thời gian dài không có giao lưu với bên ngoài, nên một số vị chỉ muốn nhận mình là người Bani để tự phân biệt ngay cả với đạo Islam, thường được phát âm là A-xa-lam. Linh mục Durand, trong bài nghiên cứu Les Chams Bani, đã suy luận chữ Bani do từ Beni tiếng A Rạp có nghĩa là con, tức con của Muhammad. Sự thực từ Bani trong tiếng Chăm có nghĩa là đạo, ý muốn nói đến người theo đạo còn những người khác là người ngoại. Mặc dầu cho đến nay chưa có cuộc nghiên cứu phân tích khoa học thực sự đi vào thực chất hành đạo của người Chăm Bani hiện dịnh cư tại tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Bình Thuận, có những bằng chứng sơ khởi xác định người Chăm Bani chính là người Muslim:

1) Dạng bản Thiên Kinh Qur'An mặc dầm ngày nay đã biến đổi nhiều và không còn gọi là Qur'An nữa mà thường đọc trại ra là Qur'ưn hoặc Kitab alhămđu, nhưng thực chất vẫn là Qur'An.

2) Các thánh đường mặc dầu ngăn cách đã lâu với bên ngoài vẫn được xây cất theo đúng hướng Qiblat, tức hướng Thánh Địa Makkha của đạo Islam.

3) Niên lịch sử dụng và cách tính năm tháng hoàn toàn đúng với niên lịch Hijrah hiện hành của Islam. Tại tỉnh Ninh Thuận, một vài thôn ấp Chăm Bani ngày trước đã giao lưu với các đồng đạo Muslim tỉnh An Giang và đã lập các cộng đồng Muslim đúng theo nề nếp Islam tại Văn Lâm, An Nhơn, Phước Nhơn, v.v… Nhất là tại Phước nhơn, một Masjid mới được xây dựng cách khoảng thánh đường của người Bani trong tầm nhìn thấy nhau, tạo nên triển vọng một ngày nào đó cả hai cộng đồng càng xích lại tìm hiểu nhau, xóa tan ngăn cách, và hòa hợp với nhau trong tình nghĩa mọi người Muslim đều là anh em như lời phán dạy của Allah trong Thiên Kinh Qur'An.

Nhóm người Chăm Muslim miền Tây Nam Bộ, trong dan gian thường quen gọi là người Chăm Châu Đốc trong quá khứ, sau khi định cư, đã có tiếp xúc với các thương buôn người Mã Lai đi thuyền ngược dòng sông Cửu Long đến trao đổi hàng hóa. Cuộc tiếp xúc nầy đã tạo điều kiện cho người Chăm Châu Đốc hòa hợp về mặt đạo giáo, khi có phương tiện thì tìm cách gởi con em qua Mã Lai học đạo, nhất là tại Kelantan. Các du học sinh nầy sau một thời gian học đạo tại Mã Lai đã trở về quê nhà và thường đảm trách việc truyền dạy giáo lý Islam, đào tạo môn sinh, phân phối về các thôn ấp đảm trách trường lớp thường được xây cất gắn liền với các Masjid (Thánh đường) trong dân gian gọi là Tuôn, được xã hội nể trọng. Những vị học đạo nhiều năm tại Mã Lai theo thời gian được cộng đồng cử nhiệm làm Hakim trên nguyên tắc đứng đầu quán xuyến điều hành việc đạo một cộng đồng (jam'ah). Điển hình có vị nổi danh như Tuan Haji Umar' Aly trong cuối đời đã đảm trách chức vụ Mufty, đứng đầu toàn Cộng Đồng, phối hợp hoạt động các Hakim. Vị Mufty đương nhiệm là Tuan Haji ISMA'IL FICKRY, hoặc Tuan Hakim Haja IDRESS thuộc Cộng Đồng Muslim Mubarak Châu Giang, tỉnh An Giang, cũng đã một thời gian lưu học đạo tại Mã Lai.

Trong những điều kiện phát triển giao lưu với cộng đồng Muslim Mã Lai như trên, cộng đồng Muslim Châu Đốc, theo truyền thống, hành đạo theo Madhahab Shafi'y [*] và do khuynh hướng tự nhiên bảo tồn căn tính (identity) của dân tộc đã theo khuôn mẫu Mã Lai dùng mẫu tự A Rạp để viết chữ Chăm để đồng thời đọc Thiên Kinh Qur'An luôn; còn chữ Chăm cổ truyền thì theo thời gian không còn mấy người biết nữa trong cộng đồng người Chăm Châu Đốc. Do đó cộng đồng người Chăm Muslim Châu Đốc thường học đọc Thiên Kinh Qur'An theo nguyên bản A Rạp, nhưng khi học diễn dịch để thông hiểu Thiên Kinh thì phải thông qua các quyển Tafsir Qur'An viết bằng chữ Mã Lai và chữ Mã Lai theo thời gian biến thành ngôn ngữ của giới trí thức, có học người Chăm Châu đốc. Tuy nhiên ngôn ngữ Chăm trong dân gian vẫn là tiếng nói mẹ đẻ được sử dụng trong sinh hoạt hằng ngày, nên để được thích hợp, giới trí thức Chăm Châu Đốc đã theo khuôn mẫu sẵn có của Mã Lai dùng các mẫu tự A Rạp để phiên âm tiếng Chăm dùng để dạy giáo lý tại các trường lớp ở mỗi thôn ấp. Thời cuộc khó khăn của những thập niên sau nầy đã làm gián đoạn một thời gian dài các dòng giao lưu tôn giáo giữa Chăm Châu Đốc và Mã Lai, cho mãi đến thập niên 1960, có điều kiện nối lập, người Chăm Muslim ở Việt Nam mới được biết rằng sau khi thu hồi độc lập và thành lập nước Malaysia, người Mã Lai đã có thứ chữ mới gọi là Malayurumi được hình thành với mẫu tự Latin và được thông dụng trong các cơ quan nhà nước cũng như trong dân gian; còn thứ chữ cũ gọi là Javi cùng khuôn mẫu c! hữ mà người Chăm Muslim vẫn sử dụng thì nay đã lùi về quá khứ, chỉ còn được dùng trong khuôn khổ giới hạn trong sinh hoạt tôn giáo tại một số địa phương nhất định mà thôi. Nhắc đến sự kiện nầy, chúng tôi muốn nêu lên một yếu tố thuận lợi chủ yếu đã góp phần làm cho sinh hoạt tôn giáo của người Chăm Muslim tại Việt Nam có tính tương đối khép kín, có ngôn ngữ riêng, chữ viết thông dụng riêng, tín ngưỡng riêng đối với môi trường bao quanh là xã hội Việt Nam nói chung. Trong một thời gian dài, người Chăm Muslim Châu Đốc đã kết hợp với niềm tự hào dân tộc, ít có gia đình nào chịu cho con em đến trường học chương trình phổ thông; ngoài ra, các bậc phụ huynh một phần cũng còn mang mặc cảm e ngại con em mình khi được đi học phổ thông thì lại hấp thụ nếp sống khác biệt, trong giao dịch sẽ uống rượu, cờ bạc, giao hợp sinh lý vụng trộm gọi là zina, vốn là những điều giáo luật răn cấm (harăm) và nếu phạm phải sẽ gây sỉ nhục cho dòng họ tông môn trong xóm làng.

Tuy nhiên theo đà phát triển, nền kinh tế tự túc địa phương đơn thuần dựa vào nghề chài lưới và dệt vải không còn đủ điều kiện bảo toàn mưu sinh cho người dân trong vòng các thôn ấp nữa; người Chăm Muslim Châu Đốc phải đi ra ngoài kiếm sống, ban đầu là bằng những chiếc thuyền con cổ truyền nương theo các kinh rạch sông ngòi, và chính những dịp đi ra ngoài nầy đã thúc đẩy người Chăm Muslim Châu Đốc nói và học nói tiếng Việt để chung đụng giao dịch thường xuyên với người Việt. Vào thập niên 1920, một chiếc thuyền con đã mang một ông lão người Chăm Muslim Châu Đốc cùng với hai người con trai xuôi theo Kinh Chợ Đệm, tỉnh Long An, đã ghé lại một bến của làng Tân Bửu có tên dân gian là Ba Cụm, tình cờ đã vận dụng y học cổ truyền của mình chữa lành cho một người mang bệnh ngặt nghèo, khiến cả gia đình nầy tin tưởng và đã nhập đạo Islam. Tại địa điểm ghé bến nầy ngày nay đã xây được một Thánh Đường (Masjid) tạo thành cộng đồng (jam'ah) Muslim đầu tiên thường được gọi là mu'al-laf gồm toàn người Việt. Trong cộng đồng mu'al-laf  nầy hẳn nhiên không thể dùng tiếng Chăm để giảng sách, nếu muốn mọi người cùng theo dỏi am hiểu. Thế là từ đó, ngoài những bài thuyết giảng bằng miệng trong các Masjid cho số tín đồ Muslim nói tiếng Việt ngày càng đông đảo, đã nảy sinh nhu cầu về các tài liệu sách vở in ấn bằng tiếng Việt. Ngoài ra trong cộng đồng người Chăm Muslim Châu Đốc theo đà phát triển cũng đã phát sinh ý thức lợi ích của việc cho con em đến trường phổ thông tạo thàn! h một tầng lớp học sinh sinh viên, vì điều kiện sinh sống và học hành không còn có thể đi theo dấu chân của cha ông khép mình riêng trong các trường lớp cổ truyền thôn ấp nữa.

Đặc biệt là tại Sài Gòn đã lần hồi hình thành một cộng đồng Muslim đa dạng, kết hợp những người hầu hết là dân tha phương, bao gồm người Mã Lai, người Ấn, người Pakistan, người A Rạp, và nhất là người Việt, đưa đến tình trạng là phải dùng tiếng Việt trong giao dịch với nhau. Ngoài ra, trong cuộc sống đô thị không còn điều kiện tự cô lập như tại các thôn ấp nữa, đạo Islam phải không bị khép trong một không gian hạn hẹp, một dân tộc, một nước nào, thì mới triển khai được tác dụng nhân ái, mang ánh sáng Thông Điệp Chân Lý của Allah đến với mọi người.

————–

[*] Madhahab Shafi'y là một trong bốn trường phái giáo luật (Madhahab) của Hệ Sunnah, phát triển ảnh hưởng tại Indonesia, Ai Cập, Mã Lai, Brunei, Phi Luật Tân, Sri Lanka, Việt Nam… được đặt dưới quền lãnh đạo của Imam Muhammad ibn Idris al-Shafi'y, sanh tại Palestine năm 767 TL. Ba trường phái khác thuộc hệ Sunnah là Madhahab Hanafy, Madhahab Maliky, và Madhahab Hanbaly. Mặc dầu có đôi chút khác biệt giữa bốn Madhahab trên, người Muslim theo hệ Sunnah cùng thừa nhận thẩm quyền sau cùng ở sự diễn dịch Thiên Kinh Qur'An và Hadith bởi các Ulema, một nhóm các nhà học giả uyên bác. Điều nầy trái ngược với hệ Shi'ah, trên cơ bản dựa vào các nhà lãnh đạo tôn giáo của họ là các Imam để có sự dẩn dắt dứt khoát.

Cộng đồng người Chăm tại Kampuchia

Tác giả: Nguyễn Văn Huy

Nguồn: Việt Nam Thư Quán


Cộng đồng người Chăm tại Kampuchia hiện nay (230.000 người) đông gấp hai lần cộng đồng người Chăm tại Việt Nam (115.000 người). Sự đông đảo này không phải tình cờ. Vì ở sát cạnh nhau, Kampuchia là vùng đất dung thân của những gia đình người Chăm trốn chạy những cuộc nội chiến và chiến tranh xảy ra tại Chiêm Thành cũ. Nhóm Chăm Java. Cộng đồng người Chăm có mặt đông đảo trên lãnh thổ Kampuchia từ sau ngày thành Ðồ Bàn (Vijaya) thất thủ năm 1471. Hàng trăm gia đình Chăm, sinh sống dọc vùng duyên hải Bình Trị Thiên, chạy lên Tây Nguyên lánh nạn, một số đã ở lại và sống lẫn với các sắc tộc Thượng đã có từ trước, một số khác vượt thảo nguyên Kontum sang Chân Lạp định cư và trở thành những dân cư Khmer gốc Chăm. Ðợt tị nạn đông nhất có ghi rõ số lượng xảy ra vào năm 1692, khi quân của Minh vương Nguyễn Phúc Chu chiếm đóng Khánh Hòa (Kauthara).


Sử liệu Khmer cho biết có khoảng 5.000 gia đình người Chăm, do những vương tôn dẫn đầu, đã băng rừng vượt núi đến Chân Lạp xin tị nạn. Vua Khmer Jaya Chetta III chấp thuận bảo vệ và cho định cư tại Udong (đế đô cũ). Những người này đều được đối xử tử tế. Với thời gian, một số di chuyển đến những địa phương khác quanh đế đô khai phá đất đai và trồng trọt. Sau 1835, có thêm nhiều đợt di dân Chăm khác đến. Những người này không chấp nhận chính sách cai trị hà khắc của vua Minh Mạng, nhất là từ khi quyền tự trị tại trấn Thuận Thành (Panduranga) bị xóa bỏ. Dân số Chăm định cư tại Chân Lạp ngày càng tăng lên, đa số được đưa đến các tỉnh Pretviha (phía tây bắc) và các tỉnh Kongpong Cham, Prayveng, Svayrieng, Kandang và Takeo (phía tây nam) định cư. Một số khác tình nguyện sang Thái Lan định cư tại các tỉnh Ubon, Ratchathani và Sisakhet.Thật ra người Khmer và người Chăm không xa lạ gì nhau. Lúc tiểu vương quốc Panduranga còn hùng mạnh, sự giao hảo giữa người Chăm và người Khmer đã rất khắng khít, dân cư hai vương quốc này đã thiết lập nhiều quan hệ sui gia thân thiết. Nhiều vị vua tại Panduranga có vợ là người Khmer. Nhiều vị vua Chân Lạp đã từng sinh trưởng tại vương quốc Nam Chiêm Thành, như Jayavarman III, và cũng có nhiều vị vương Chăm được hoàng triều Khmer nuôi nấng, như Suryavaravarman. Người Khmer gọi chung cộng đồng di dân này là Chăm Java. Tại sao Chăm Java? Theo những sử liệu Khmer, người Java (Chà Và) đã đến định cư tạ! i Kampuchia từ thế kỷ 14.


Thật ra Java là hai nhóm người khác nhau: Người Mã Lai và người Java. Vì không nắm vững địa lý và phong tục tập quán của hai nhóm này, dân chúng Khmer gọi chung là Java. Người Java từ các đảo Bornéo, Sumatra, Minang Kabau… đến Chân Lạp từ đầu thế kỷ 16; người Mã Lai đến từ các lãnh địa Singapore, Trengganu, Thái Lan… để trốn tránh chiến tranh, đói kém hay sự trù dập của các chính quyền địa phương. Ða số những người tị nạn này là đàn ông, đi trên những thuyền nhỏ đổ bộ các vùng bờ biển phía đông nam, rồi di chuyển dần vào sâu trong nội địa và định cư tại các tỉnh Prayveng, Takeo, Kandang, Kampot, Kompong Chnang, Kompong Spư. Thời gian sau đó, những nam nhân Java di cư này lập gia đình với những phụ nữ Khmer, gọi là Java Kur. (Kur theo tiếng Chăm là Khmer). Vì theo đạo Hồi chính thống (Sunnite), nhóm này sống tách biệt với người Khmer chính gốc, đa số theo Phật Giáo. Nhưng từ khi tiếp xúc được với những nhóm Chăm di cư có mặt tại chỗ, vì cùng ngôn ngữ, phong tục và tôn giáo, cả hai nhóm dân gốc Nam Ðảo ly hương này kết hợp lại với nhau để thành nhóm Chăm Java. Người Chăm và các vương triều Khmer. Sự xuất hiện của nhóm Chăm Java xảy ra đúng vào lúc hoàng triều Chân Lạp có nhiều biến loạn.


Từ 1516 đến 1525, hai tiểu vương Paramaraja II (Cau Bana Cand hay Ang Chan) và Sri Jettha (Stec Kan hay Nay Kan) tranh quyền lẫn nhau. Ðược sự hỗ trợ của nhóm Chăm Java, Paramaraja II đuổi được Sri Jettha sang Xiêm La. Từ sau ngày đó nhóm di dân hỗn hợp này đảm nhiệm nhiều vai trò quan trọng trong nội chính Chân Lạp, nhiều người được phong tới chức thượng thư (Samtec Cau Hva). Năm 1594, quân Xiêm tiến chiếm đế đô Longvek, cướp đi nhiều tài sản rồi rút về. Vua Paramaraja IV (Chetta I) cử hai lãnh tụ Chăm Java, Po Rat và Laksmana, sang Chiêm Thành cầu cứu. Vì đang bận chống lại chúa Nguyễn tại Phú Yên, vua Po Klong Halau (gốc Khmer) đã không tiếp đãi trọng hậu hai lãnh tụ này. Cảm thấy bị nhục và lợi dụng lúc đế đô Panran (Phan Rang) vắng chủ, cả hai tháo gỡ nhiều khẩu đại bác (mua của người Bồ Ðào Nha) và bắt theo một số phụ nữ Chăm mang về Chân Lạp. Trong thời gian đó, năm 1595, con của Sri Jettha tên Ram de Joen Brai (Prah Rama) đã cùng một người Tây Ban Nha tên Blas Ruiz, một người Bồ Ðào Nha tên Diego Veloso và một người Hòa Lan chiếm, trốn chạy qua Lào. Joen Brai xưng hiệu Ram I, dời đô về Srei Santhor.


Vừa từ Chiêm Thành trở về và hay tin đảo chánh, hai vị tướng Chăm Java đành ủng hộ tân vương. Ram I liền ra lệnh cho Ukena Tejo, một tướng Khmer, và hai vị tướng Chăm Java kia sang đánh Chiêm Thành nhưng bị quân Ðại Việt lúc đó đã làm chủ đất Phú Yên đánh bại. Trong lúc đó, tại Chân Lạp, Ram I bị người Tây Ban Nha ám sát năm 1596. Hay tin này, Ukena Tejo cùng Po Rat và Laksmana về chiếm lại đế đô, sát hại rất nhiều người Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha và tôn hoàng tử Cau Bana Nur con của Ram I lên ngôi, hiệu Ram II, nhưng bị hoàng tử Cau Bana Tan (Ponhea Tan, con của Paramaraja IV) được người phương Tây và vương quốc Lào ủng hộ, trở về Longvek chiếm lại ngôi báu năm 1597, xưng hiệu Paramaraja V. Ba vị tướng xin thần phục và được giao bảo vệ đế đô. Laksmana còn được cử làm đô đốc Bộ Thủy Vận đặc trách về quan thuế và giao dịch quốc tế. Nhưng chính sách bài phương Tây một cách trắng trợn vì lý do tôn giáo của ba vị tướng ngày càng bị nhiều quần thần thân phương Tây chống đối. Ukena Tejo bị phe phản loạn xử tử, Po Rat bị Diego Veloso đâm chết.


Còn lại một mình, năm 1599, Laksmana kêu gọi dân Khmer và Chăm Java nổi loạn, chiếm đế đô Srei Santhor, giết tất cả người phương Tây rồi rút về Thbuang Khmum thành lập một tiểu vương quốc riêng tên Ponhea Lu. Tại đây Laksmana bị một tân vương khác tên Paramaraja VI (Cau Bana An hay Ponhea An) đánh bại, phải chạy qua Chiêm Thành xin tị nạn nhưng bị vua Po Klong Halau bắt giết vì tội cướp người và vũ khí vài năm trước đó. Tuy bị mất những địa vị cao trong triều đình, người Chăm vẫn được cậy nhờ mỗi khi vương quyền Khmer lâm nguy. Năm 1603, với sự trợ lực của nhóm Chăm Java, hoàng tử Cau Bana Nom (Ponhea Nom) tranh chấp với Paramaraja VII (Ponhea To hay Sri Suryobarm) nhưng không thành. Năm 1621, Ponhea Nu lên ngôi, hiệu Jaya Chetta II, tuyển rất nhiều người Chăm vào đoàn quân viễn chinh sang Attopeu (Lào) tìm vàng. Năm 1630, Ang Non I lên ngôi, nhưng đến năm 1636 phải nhờ người Chăm bảo vệ và chấp nhận cho người Chăm có một lãnh thổ riêng tại Ponhea Lu (Thbuang Khmum hay Kompong Cham), cạnh thủ đô Udong.


Trong thời gian này đạo Hồi phát triển mạnh tại Chân Lạp. Sự cuồng tín và lòng dũng cảm của những tín đồ Hồi giáo được nhiều vương tôn Khmer cậy nhờ mỗi khi có biến. Năm 1642, Cau Bana Cand (Ram Cul hay Nặc Ông Chân) nhờ nhóm Chăm Java giúp lật đổ Ang Non I và lên ngôi, hiệu Ramadhipatih I (Nặc Ông Chân) và phong một phụ nữ Chăm tên Nan Hah làm hoàng hậu, hiệu Anak Mnan Kapah Pau. Nhà vua theo đạo Hồi (tên thánh là Ibrahim) và áp dụng triệt để giáo lý Hồi Giáo trong đời sống. Chính sách này đã làm dân chúng Khmer bất bình, một phong trào bảo vệ Phật Giáo chống lại Hồi Giáo nổi lên khắp nơi. Chống không lại, con cháu các vị vua Khmer cũ chạy sang Ðàng Trong cầu cứu. Năm 1658 chúa Hiền xua 3.000 quân tiến chiếm Mỗi Xuy (Biên Hòa), bắt Ramadhipatih I về giam tại Quảng Bình, đưa Batom Racha (Nặc Ông Nộn hay Ang Sur) lên ngôi, hiệu Paramaraja VIII (1659-1674) và năm 1659 đuổi được nhóm Hồi Giáo chạy sang Xiêm La, trong số này có rất nhiều gia đình vương tôn Khmer. Cộng đồng người Chăm Hồi Giáo còn lại chạy về Nokor Vat (tỉnh Svayrieng) cạnh biên giới tây-nam Việt Nam ẩn náu, một số khác ở lại phục tùng vị vua mới và được cho giữ những chức vị cao trong triều đình. Hồi giáo mất dần ảnh hưởng trong đời sống chính trị và xã hội tại Chân Lạp.


Nhưng cũng kể từ đó cộng đồng người Chăm Hồi giáo chống lại bất cứ triều đình Khmer nào thân Việt Nam hay thân Phật giáo. Năm 1672, hoàng tử Sri Jaya Chetta (Ang Chey hay Nặc Ông Ðài), cháu Ramadhipatih I, giết cha vợ là vua Paramaraja VIII lên ngôi, hiệu Padumaraja II, và nhờ Xiêm La chống lại quân Việt. Vị tân vương mời hoàng hậu gốc Chăm, vợ của vua Ramadhipatih I, từ Battambang về Udong làm thái hậu, nhưng bà này từ chối và trốn về Thbaung Khmum nhờ đồng hương giành lại ngôi báu. Padumaraja II bị ám sát chết, Udong bị chiếm đóng và hoàng hậu cũ lên ngôi nhưng chỉ tồn tại được 5 tháng. Các con của Ramadhipatih I đã vận động dân chúng Khmer lật đổ bà hoàng thái hậu và giành lại quyền lãnh đạo nhưng anh em lại tranh chấp lẫn nhau. Thommo Racha (Nặc Ông Thu) nhờ Xiêm La và nhóm Chăm Java giúp; Ang Non (Nặc Ông Nộn) chạy sang Ðàng Trong cầu cứu. Năm 1674, chúa Nguyễn sai Nguyễn Dương Lâm và Nguyễn Ðình Phái đánh chiếm thành Udong. Ramadhipatih I chạy trốn vào rừng và mất tích. Con trưởng là Nặc Ông Thu đầu hàng nhưng được chúa Nguyễn phong Ông Thu làm chánh vương cai trị Lục Chân Lạp, đóng đô tại Udong (Long Úc hay Nam Vang), Nặc Ông Nộn được phong làm phó vương cai trị Thủy Chân Lạp (miền Nam Việt Nam), đóng đô tại Prei Nokor (Sài Gòn).


Năm 1691, sau khi Nguyễn Hữu Kính đánh chiếm lãnh thổ Panduranga, giết Po Saut (Bà Tranh) vì đã dám chống cự lại Minh vương Nguyễn Phúc Chu, một lãnh tụ Chăm tên Po Chonchanh, đạo Bà Ni (Hồi giáo cải tiến), dẫn 5,000 người băng cao nguyên Di Linh sang Chân Lạp tị nạn, tất cả được đưa đến Thbaung Khnum (Kompong Cham) lập nghiệp. Trong hai thế kỷ 17 và 18, nội bộ triều đình Khmer luôn có loạn lạc, quân Xiêm La và quân Ðàng Trong liên tục sang can thiệp để đưa một vị vua thân mình lên ngôi. Trong khi đó, tất cả các vị vương Khmer đều nhờ các nhóm Chăm tại Thbuang Khmum và Chroy Chanvar giúp sức. Năm 1782, nhân dịp triều đình Khmer đang rối loạn, một người Chăm tên Duôn Ser chiếm Udong và Chroy Chanvar rồi xưng vương. Nặc Tôn chạy sang Hà Tiên tị nạn và nhờ Mạc Thiên Tứ xin chúa Nguyễn giúp, quân Chăm bị đánh bại, Duôn Ser bị giết. Dưới thời Nặc Tôn, cộng đồng người Chăm tại Chân Lạp bị sát hại tập thể, một số chạy qua Xiêm La ẩn lánh, một số khác chạy vào xứ Ðàng Trong xin tị nạn và được định cư tại Moat Chruk (Châu Ðốc).


Trong thời gian này binh lực nhà Nguyễn thường tiến qua Chân Lạp bảo vệ các triều vương Khmer thân Việt, nhóm Chăm Java cũng nhờ đó được người Khmer để yên. Thế lực của nhóm này lên cao khi năm 1795, một lãnh tụ Chăm, hoàng tử Thị Hảo (Chay Brey hay Po Ceng Sei Brei) và binh lính từ Panduranga qua tị nạn. Năm 1817, một hoàng thân Chăm (không rõ tên) được cử làm tổng trấn tỉnh Kongpong Cham. Năm 1834, con vị tổng trấn này được Minh Mạng phong tước tổng trấn thay mặt triều đình Huế cai trị Kompong Cham, nhưng chính sách bảo hộ này bị người Khmer thân Xiêm La chống đối. Năm 1854 sau khi nhờ quân Xiêm La đuổi quân Việt ra khỏi lãnh thổ, vua Ang Duong (Harirak Rama hay Ang Tuon) áp dụng chính sách bài Việt và cứng rắn với người Chăm: Quyền tự trị tại Thbuang Khmum bị bãi bỏ, sự qua lại với Châu Ðốc bị hạn chế. Nhiều chức sắc cao cấp trong cộng đồng Chăm tại Thbuang Khmum nổi lên chống lại vì không muốn bị đồng hóa với người Khmer.


Năm 1858, một sứ giả của vua Ang Duong là Udkana Yodhasangram (Yuthea Sangkream) được cử đến thương thuyết nhưng bị quân Chăm phản loạn giết chết. Ang Duong mang 10.000 quân đến đánh, giết được nhiều thủ lãnh Chăm, giải tán Ponhea Lu và tuyên án khổ sai cho hơn 6.000 người khác. Gia đình những người Chăm còn lại bị đày sang các tỉnh Pursat, Lovek, Kompong Tralach, Kompong Luong và khu vực giữa Tonlé Sap và Phnom Penh, đạo Hồi bị cấm truyền bá. Một thủ lãnh Chăm Java dẫn hàng ngàn người Chăm Java chạy sang Châu Ðốc tị nạn và giúp nhà Nguyễn tấn công các vị vua Khmer chống người Việt và người Chăm. Năm 1861 triều đình Khmer lại có loạn, Norodom (Narottam hay Nặc Ông Lân), con vua Ang Duong, vừa lên ngôi thì bị hai em là hoàng tử Sisowath (Preah Kevea hay Ang Sor) và hoàng thân Sivattha (Sivotha) tranh ngôi. Sivattha được người Chăm hậu thuẫn chiếm thành Udong, Norodom chạy qua Bangkok, thủ đô Xiêm La lánh nạn. Tại đây, Norodom kêu gọi người Chăm tại Châu Ðốc qua giúp. Nhân dịp này, với sự có mặt của quân Pháp tại Nam kỳ, cộng đồng người Chăm tại Châu Ðốc yêu cầu quân Pháp chiếm luôn Chân Lạp với hy vọng được tự do truyền bá đạo Hồi. Năm 1862 Norodom được người Pháp và người Chăm đưa về nước giành lại ngôi vua, nhưng Chân Lạp vẫn bị đặt dưới quyền bảo hộ của Xiêm La. Năm 1864, Pháp đuổi quyền Xiêm ra khỏi lãnh thổ và đứng ra bảo hộ Chân Lạp trực tiếp, đổi tên nước là Cambodge.


Dân chúng Khmer, không tán thành việc này, nổi lên chống lại triều đình. Một nhân sĩ Khmer tên Assoua, tự nhận là hoàng tử Ang Phim, cháu vua Ang Duong, kêu gọi người Khmer chống Norodom. Trong cuộc tranh chấp này, cộng đồng người Chăm bị chia rẽ. Người Chăm tại Kompong Cham theo Assoua; người Chăm tại Châu Ðốc theo Pháp ủng hộ Norodom. Vùng biên giới phía cực nam Việt Nam trở thành vùng tranh chấp giữa người Khmer, người Việt và người Chăm. Người Chăm muốn thành lập một tiểu vương quốc Hồi giáo tại Hà Tiên, chấp nhận triều cống Cao Miên và nhận Pháp bảo hộ. Cambodge xác nhận Hà Tiên là lãnh thổ của họ và người Việt nói Hà Tiên là một thị xã của miền Nam từ lâu đời. Sau cùng Pháp sát nhập Hà Tiên vào lãnh thổ Nam kỳ. Trong khi đó, tại Cambodge, triều thần muốn đưa hoàng tử Sisowath lên thay. Bị cô lập, Norodom giao cho Samdech Chau Ponhea, một tướng Chăm, bảo vệ vòng đai thành Udong nhưng sau cùng phải giao cho Brière de l' Isle, một sĩ quan Pháp, đảm nhiệm vì trong phe phản loạn cũng có người Chăm do đó rất khó phân biệt. Sau cùng Samdech Chau Ponhea được giao bảo vệ hậu cung. Năm 1865, một tu sĩ Phật giáo tên Pou Kombo (tự nhận là hoàng tử Ang Phim, con vua Ang Chan, cháu vua Ang Duong) cùng với 2.000 người Chăm tại Châu Ðốc nổi lên chống lại Norodom, bao vây thành Udong. Khoảng 1.000 người Chăm khác từ Châu Ðốc theo quân Pháp sang bảo vệ thành Udong. Pou Kombo chạy sang Châu Ðốc và Tây Ninh tị nạn.


Sau khi chiêu mộ thêm binh sĩ Chăm và Khmer, ngày 17-12-1866, Pou Kombo tiến vào Udong. Quân Khmer bỏ chạy, chỉ còn quân Chăm của Samdech Chau Ponhea ở lại tử thủ. Nhưng qua ngày hôm sau, hơn 500 quân Chăm của Pou Kombo bỏ theo Chau Ponhea vì lý do tôn giáo (Pou Kombo là một nhà sư Phật Giáo). Hoàng tử Sisowath (Preah Kevea), được cả người Khmer và người Chăm tại Kompong Cham lẫn Châu Ðốc ủng hộ, đứng ra lãnh đạo cuộc phản công chống Pou Kombo. Tháng 12-1867, quân phản loạn bị bao vây tại Kompong Thom, Pou Kombo bị giết. Pháp rất hài lòng về sự dũng cảm và sự trung thành của quân Chăm Hồi Giáo ở Châu Ðốc, buộc Norodom phải khen thưởng xứng đáng.


Nhiều nhân vật Chăm giữ những chức vị quan trọng trong triều đình vua Norodom. Nhưng vì sự cuồng nhiệt trong lối sống đạo, người Chăm Hồi giáo không chiếm được nhiều thiện cảm của dân chúng Khmer, đa số theo đạo Phật. Chỉ các vua chúa Khmer mới tin tưởng nhóm người Chăm Hồi giáo vì sự trung thành và sự cang cường của họ, một số quân nhân Chăm được tuyển mộ để bảo vệ hoàng gia và vòng đai củ thủ đô Nam Vang. Norodom mất năm 1904, hoàng thân Sisowath lên thay, vòng đai cận vệ của nhà vua chỉ toàn người Chăm. Trong hai triều kế tiếp, Monivong (1928-1940) và Sihanouk (từ 1940), người Chăm được giữ nhiều vai trò quan trọng trong vương quyền.


Năm 1970, vòng đai phòng thủ Phnom Penh được giao cho tướng Les Kosem, một người gốc Chăm và là một sĩ quan nhảy dù được huấn luyện từ Pháp. Khi đã ổn định được thế đứng trong chính quyền Cambodge, Les Kosem liền nghĩ tới việc phục hồi vương quốc Champa cũ. Sau 1954, những người Chăm Java theo đạo Hồi là Khmer Islam và tỏ ra thù nghịch với người Việt. Trong những năm 1975-1979, những nhóm người Chăm sinh sống trong những thành phố tại Kongpong Cham, Kongpong Chnang và nhiều nơi khác bị đuổi về nông thôn, hơn phân nửa đã bị Khmer đỏ sát hại, số còn lại chạy sang Châu Ðốc và vùng biên giới Thái Lan lánh nạn. Khi Khmer đỏ bị quân đội cộng sản Việt Nam đẩy lui ra khỏi lãnh thổ Kampuchia, người Khmer Islam tị nạn tại Châu Ðốc trở về Kompong Cham, Kompong Chnang và Phnom Penh sinh sống (1). Cộng đồng người Chăm Hồi giáo sống dưới chế độ cộng sản thân Việt Nam của Heng Samrin và Hun Sen được tự do giữ gìn văn hóa và giữ đạo của họ. Hiện có hơn 260 giáo đường Hồi giáo tại Kampuchia và mỗi năm có trên 20 người hành hường tại La Mecque. Cũng nên biết đương kim thủ tướng Hun Sen xuất thân từ Kompong Cham, do đó rất được người Chăm ủng hộ. Chính phủ của Norodom Ranariddh cũng thế. Sự phồn thịnh và ổn định của Kampuchia trong những năm 1979-1980 một phần là do sự đóng góp của nhóm Chăm Hồi giáo này, họ là đầu cầu vận chuyển hàng hóa từ Việt Nam qua ngõ Châu Ðốc và trên sông Hậu. Trong các chức vụ cao trong chính quyền Khmer, của Hun Sen và Ranariddh, đều có người Khmer Islam.

——————

(1) Năm 1970, tướng Lonnol lật đổ vua Norodom Sihanouk, người Việt phải tháo chạy về Việt Nam để lánh nạn "cáp Yuôn". Không rõ trong biến cố này người Chăm có bị ảnh hưởng không?

Nghi thức hôn lễ của người Chăm An Giang

Nguồn: Website Phong tục Việt Nam

An Giang có 2.110 hộ người Chăm với 13.700 người luôn sống gắn bó, hoà nhập vào cộng đồng các dân tộc anh em và giữ gìn bản sắc văn hoá riêng. Xin giới thiệu với bạn đọc nghi thức hôn lễ cổ truyền của đồng bào Chăm An Giang.

Lễ dứt lời (Pakioh – Po Nuối):

Trước "lễ dứt lời", bà mai (Maha) sang nhà gái trao đổi trước. Đúng ngày giờ đã định, nhà trai đến nhà gái. Vị Cả Chùa tuyên bố: "Hôm nay là lễ Pakioh – Po Nuối cho hai trẻ, tiền đồng là… tiền chợ là…". Hai họ dùng tiệc, chi phí bữa tiệc do đôi bên cùng lo. Vài hôm sau, đàng gái mang sang nhà trai 1 mâm bánh trả lễ, đàng trai trao tượng trưng 1 bao thư tiền.

Sau đó cứ đến ngày Ro-Ja, chú rể và bạn bè đến thăm nhà cô dâu vào ban ngày, cô dâu không được ra gặp chú rể nhưng gia đình bố trí cho nhìn lén. Buổi tối, cô dâu cùng bạn gái qua thăm nhà chú rể.

Chú rể cũng được sắp xếp để nhìn lén cô dâu. 3 ngày trước đám cưới, vị Cả Chùa và người nhà trai mang 1 cái giường qua nhà gái. Vị Cả Chùa cầu nguyện, những người cùng đi dọn phòng cưới. Tiếng Chăm gọi việc này là đi Thon – Kghe (đi ráp giường). Cũng ngày này, các phụ nữ bên nhà gái may mùng cho đôi tân hôn.

Đám cưới:

Diễn ra trong 3 ngày: ngày nướng bánh (Âm-Ha), ngày nhóm họ (Pa Thưng – Pa Gú), Ngày lễ lên ghế (lần II và III). Nhà trai đưa rể sang nhà gái. Khi chú rể bước xuống cầu thang nhà mình, mọi người hát: "Xin cha mẹ tha thứ, con từ giã cha mẹ". Khi chú rể bước tới chân cầu thang nhà gái, các bà đàng gái bưng nước rửa chân cho chú rể trong lúc mọi người hát vang bài hát có nội dung hân hoan rửa chân, và trải khăn trắng mời chú rể bước vô nhà.

Tiến hành lễ đính hôn (Ka Pol): Sau khi một người có uy tín đọc xong đoạn kinh Coran, nội dung nhắn nhủ chú rể tôn trọng người bạn đời thì cha cô dâu cầm tay chú rể nói: "Tôi gả đứa con gái tên là…". Chú rể đáp: "Tôi nhận cưới…". Khi được đưa vào phòng cô dâu, chú rể sẽ gỡ cây trâm cài trên tóc vợ, rồi cùng ngồi trên giường lắng nghe vị Cả Chùa cầu nguyện.

Bữa cơm của đôi tân hôn: Mâm cơm có 1 dĩa cơm, 1 dĩa thức ăn. 4 phụ nữ có gia đình hạnh phúc nói lời chúc mừng và đôi vợ chồng trẻ sẽ cùng bốc ăn chung.

Lễ động phòng hoa chúc (Sen Thoa):

4 phụ nữ nói trên giăng mùng, trải chiếu, tiến hành lễ "lượm bạc cắc". Người ta đặt 1 xô nước trong đó có 10 đồng bạc cắc. 2 vợ chồng thò 1 bàn tay vào một lượt để mò bạc cắc. Ai lượm số bạc cắc nhiều hơn thì được có tiếng nói quyết định trong gia đình.

Đám cưới người Chăm An Giang trang trọng, ấm áp, không xa hoa phù phiếm. Ngày nay có một chút thay đổi trong nghi lễ: đám cưới chỉ trong 2 ngày; đưa chú rể sang nhà cô dâu vào buổi sáng thay vì buổi chiều; bỏ lễ "lên ghế lần III"; trang phục cô dâu chú rể được cách tân, vẫn giữ vẻ đẹp cổ truyền nhưng tiện dụng hơn

 (Nguồn tin: Báo SGGP)

Công nhận hai làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống: "Dệt thổ cẩm Chăm Châu Phong" và "Tơ lụa Tân Châu"

Tác giả:Bùi Dung

Nguồn: socongnghiep.angiang.gov.vn

Ngày 19 tháng 4 năm 2007, tại Nhà văn hoá xã Châu Phong và tại ấp Long Hưng, thị trấn Tân Châu; UBND huyện Tân Châu long trọng tổ chức lễ công bố quyết định công nhận làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống "Dệt thổ cẩm Chăm Châu Phong" và làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống "Tơ lụa Tân Châu". Đây là 2 làng nghề đã được UBND Tỉnh công nhận tại Quyết định số 2547/QĐ-UBND và Quyết định số 2548/QĐ-UBND ngày 20/12/2006. Đến dự Lể công bố quyết định công nhận làng nghề có Lãnh đạo Sở Công nghiệp, Sở Thương mại, Đại diện Thường trực UBND huyện, Lãnh đạo các cơ quan Ban ngành cầp huyện; các vị bô lão và gần 100 hộ dân trong làng.

Làng nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống "Dệt thổ cẩm Chăm Châu Phong" tại ấp Phủm Soài, xã Châu Phong, huyện Tân Châu với phần lớn đồng bào dân tộc Chăm sinh sống và nơi đây được biết đến như một trong những địa phương mang đậm bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc Chăm. Ở đây, ngoài nghề nông nghiệp và đánh bắt thủy sản, phần lớn người dân sinh sống chủ yếu bằng ngành nghề tiểu thủ công nghiệp như: dệt, thêu, đan… với các sản phẩm: khăn choàng tắm, sà rông, vải thổ cẩm và các mặt hàng có tính chất đặc trưng của người Chăm Nam bộ. Các sản phẩm của đồng bào dân tộc Chăm được dệt từ chất liệu tơ, sợi, điểm nổi bật của các sản phẩm này là được nhuộm từ vỏ cây, trái cây và nhựa cây nên màu sắc rất tự nhiên, đa dạng về màu sắc, mẫu mã. Hàng dệt thổ cẩm của người Chăm có mặt ở hầu hết thị trường các nước Đông Nam Á, Ấn Độ và các quốc gia thuộc khối Ả Rập. Do tính chất của hoa văn kết hợp các chất liệu có sẵn từ thiên nhiên nên màu sắc có độ tinh xảo, làm tăng độ mịn, bóng của sản phẩm, từ đó làm cho hàng hoá của người Chăm càng nổi tiếng và lấy đó làm tuyên ngôn văn hóa để giao lưu cùng với các dân tộc anh em khác trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ngày nay, hàng hóa do người chăm dệt ra đã và đang vươn rộng sang thị trường trong và ngoài nước thông qua các Hội chợ thương mại, Hội chợ giao thương, làng nghề, các buổi trưng bày sản phẩm thủ công mỹ nghệ…

(Trái mặc nưa – Ảnh dvxe, Diễn đàn trường Đại học Cần Thơ)

Nghề dệt lụa Tân Châu được hình thành và phát triển rất sớm, vào những năm 1940 Tân Châu đã trở thành trung tâm tơ lụa lớn nhất vùng châu thổ sông Cửu Long lúc bấy giờ với những lò ươm tơ, dệt lụa và đã hình thành ”con đường tơ lụa” đầy huyền thoại. Nói đến Tân Châu là nói người ta nghĩ ngay đến nghề trồng dâu, nuôi tằm và các sản phẩm Cẩm tự, Lãnh Mỹ A v.v.. Tuy nhiên, đến giữa thập niên 90 của thế kỷ 20, hàng tơ tằm thủ công của Tân Châu mất dần thị trường do sự cạnh tranh gay gắt của hàng dệt từ sợi tổng hợp nhập từ nước ngoài tràn vào, có giá rẽ, đa dạng về màu sắc, mẫu mã. Đến năm 2003, trong chương trình biểu diễn thời trang chuyên về tơ lụa tại Tp.HCM và Thượng Hải (Trung Quốc) nhà tạo mẫu Võ Việt Chung đã sử dụng lụa Tân Châu làm chất liệu thiết kế trang phục trình diễn, qua đó đã quảng bá được thương hiệu lụa Tân Châu đến các địa phương trong và ngoài nước, hiện đã có nhiều đơn đặt hàng từ Pháp và nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ khác Những năm gần đây, nhờ ứng dụng có hiệu quả các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên Lụa Tân Châu ngày nay có chất lượng tốt hơn so với trước, các khung dệt đã được cải tiến nhiều, mẫu mã đa dạng nhiều màu sắc, ngoài màu đen truyền thống được nhuộm từ trái mặc nưa (1) trước đây, còn cớ các màu xanh, vàng, rêu… được nhuộm từ vỏ, lá, nhựa của một s�! �� loại cây nên màu sắc rất tự nhiên.

Trong xu thế phát triển hiện nay, với sự kiện Việt Nam đã chính thức là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO, lãnh đạo tỉnh An Giang nói chung và huyện Tân Châu nói riêng cùng với các ngành rất quan tâm khôi phục các làng nghề truyền thống vốn là thế mạnh về kinh tế của địa phương; Sở Du lịch cũng đang lập dự án du lịch cộng đồng tại ấp Phủm Soài, xã Châu Phong, nhằm thu hút khách du lịch đến tham quan, mua sắm; Sở Khoa học và Công nghệ cũng đang làm thủ tục xây dựng chỉ dẫn địa lý cho lụa Tân Châu. Về phía địa phương, cùng với các chương trình phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp và các làng nghề truyền thống trên địa bàn; sẽ tập trung thực hiện bằng nhiều giải pháp khả thi và hiệu quả để làng nghề tiểu thủ công nghiệp phát triển xứng tầm với tiềm năng, thế mạnh và truyền thống của làng nghề đã một thời vang bóng và có một bề dày lịch sử hàng trăm năm. Hy vọng rằng, trong thời gian tới cùng với việc tích cực kêu gọi đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước, các sản phẩm lụa Tân Châu, dệt thổ cẩm Châu Giang sẽ sớm lấy lại chỗ đứng, phát huy thương hiệu và sẽ vươn xa thị trường ra các nước trong khu vực và trên thế giới, nhằm đưa Tân Châu trở thành một trong những cực tăng trưởng mạnh của tỉnh và phát huy đầy đủ tiềm năng cũng như thế mạnh của mình trong tiến trình hội nhập và phát triển.

—————

(1) Có người cho biết cây mặc nưa có nguồn gốc từ Campuchia, được người Pháp đưa về đây để dùng làm chất nhuộm. Trái mặc nưa được đâm ra và lấy nhựa để nhuộm. Để có được màu đen bóng (vải đến khi rách cũng không phai màu) vải phải được nhuộm nhiều lần, nhuộm, phơi, rồi lại nhuộm… kéo dài khoảng 2 tháng mới xong. (Theo dvxe, Diễn đàn trường Đại học Cần Thơ)

Đặc sản dân tộc Chăm ở An Giang

Tác giả: Sao bang

Nguồn: Việt Namthư quán

 

Người Chăm ở miền Tây Nam bộ (sống tập trung ở cù lao Châu Giang, trên sông Hậu, đối diện với thị xã Châu Ðốc) có những món ăn đặc sản rất độc đáo mà ít người biết đến. Ngoài món càri truyền thống nổi tiếng được phổ biến, người Chăm còn nhiều món ăn khác hấp dẫn và không kém phần độc đáo.

Món tung lò mò

Trong tiếng Chăm, “tung lò mò" có nghĩa là lạp xưởng bò. Người Chăm theo Hồi giáo không ăn thịt heo nên làm lạp xưởng bằng thịt bò. Theo truyền thuyết, trước khi tạo ra con người và vạn vật trên thế gian, thượng đế (Allah) sai sứ thần lấy bốn loại đất sét đen, trắng, vàng, đỏ tạo thành người đàn ông đầu tiên Nabi Adam, có xác nhưng chưa có hồn. Sự xuất hiện của ông Adam làm cho ma quỷ lo sợ quyền uy của chúng sẽ bị mất đi. Chờ cho Adam ngủ mê chúng mới kéo lại phóng uế lên người ông để làm nhục. Khi tỉnh dậy thấy thân thể của mình toàn những thứ hôi thối, ông đau khổ và xấu hổ vô cùng, bèn tâu lên Thượng đế sai sứ thần lấy nước trên thiên đàng để tắm rửa.

Trong quá trình vệ sinh thân thể những chất dơ bẩn trôi ra từ thân thể ông Adam đã biến thành con heo và con chó. Sau khi tẩy uế sạch sẽ, ông Adam có lời thề: “Heo và chó là kẻ thù của ta và con cháu ta sau này”. Từ truyền thuyết trên, những người Chăm theo Hồi giáo không những không ăn thịt heo mà còn kỵ cả thịt chó nữa. Ngay cả những gì dính líu đến con heo đều cấm kỵ như nuôi heo, chuyên chở heo.

Món tung lò mò của người Chăm hấp dẫn mọi người, bởi từ lúc đi tìm nguyên liệu cho đến cách chế biến đều không giống ai cả. Thịt bò nạc (thường là thịt lóc xương, muốn ngon thì dùng thịt đùi) mua về lóc bỏ hết gân, rửa sạch đem xắt mỏng, ướp muối, đường cát trắng, một ít phụ gia khác và thính (hay cơm nguội) (1). Ruột bò rửa sạch, lộn bề trong ra cạo sạch rồi nhồi thịt bò đã ướp đem phơi nắng cho đến khi nào căng tròn là được. Món này có hai cách ăn: nướng hay chiên, tương tự như lạp xưởng của người Hoa. Khi ăn kèm theo rau sống, chuối chát và chấm muối tiêu vắt chanh mới ngon. Tung lò mò ăn có hương vị chua chua, hăng mùi bò, hôi hôi mùi… hèm, béo ngọt, dai… thật là!

Món ăn này để ăn cơm hay nhâm nhi đều hấp dẫn. Không riêng gì người Chăm mà người Việt, người Hoa cũng khoái món này.

Món Ga pội

Giống như cari. Thành phần chế biến gồm cari, thịt bò, dầu dừa, dừa, dầu phụng và thật nhiều ớt chín. Món này được người Chăm chế biến thành một loại cơm rang như cơm Dương Châu trong các nhà hàng hay nấu như cari rồi ăn với cơm, bánh mì, bún.

Trong các đám tiệc của người chăm, món này không bao giờ thiếu và được thực khách “chiếu cố” nhiều nhất.

Ðặc biệt ga pội qua bàn tay chế biến nhà nghề của các bà, các cô nội trợ Chăm để lâu cả nửa tháng vẫn không thiu. Có hỏi bí quyết sẽ chẳng có ai nói ra bao giờ.

Món pài pa ghênh (canh thính)

Món này bình dân, thường xuất hiện trong bữa ăn thường ngày của người Chăm. Gạo rang xay cho nhuyễn thành thính đem nấu chung với cari, cà pháo, đu đủ sống, củ cải, cà rốt… Khi chín, nêm vào hành, tỏi, bột ngọt và vài trái bứa (2). Bứa mềm dầm ra lấy chất chua và cho thêm ít mắm bò hóc (prohoc) của người Khmer vào cho đậm đà hương vị. Ai chưa ăn món này lần nào ăn vào sẽ cảm thấy ngờ ngợ, nhưng sau vài lần ăn sẽ đâm ra nghiện. Có thể ăn mặn này với bún và cơm, vừa no bụng lại khoái khẩu.

Ðến thăm thị xã Châu Ðốc, du khách qua đò Châu Giang và xã Châu Phong là đi vào “thủ phủ” của người Chăm miền Tây Nam Bộ. Có dịp tham gia lễ hội và thưởng thức các món ăn dân tộc của họ mới thấy được nền văn hoa dân tộc Chăm rất độc đáo.

——————

(1) Theo Cúc Tần, bí quyết để "tung lò mò" trở thành món ngon độc đáo hơn lạp xưởng còn nhờ cơm nguội lên men có vị chua. (www.muivi.com)

(2) Cây bứa là cây mọc hoang, ở thôn quê người ta thường dùng trái (tươi hoặc xắt mỏng phơi khô) để nấu canh chua. Một vài nơi như Phú Quốc đầu bếp cũng dùng đọt non, tương tự dùng lá giang, để nấu canh chua.

           


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét