Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2013

Tam Quoc Chi Dau la su that.html

Những phát hiện khoa học kỳ lạ về Khổng Minh

Trong khoa học, kỹ thuật, tạo ra được một chuyển động vĩnh cửu là một công việc dường như không thể. Để một vật chuyển động, nó bắt buộc phải chịu một lực tác động từ bên ngoài. Chính vậy mà vào đầu thế kỷ hai mươi, khi bộ tiểu thuyết lịch sử Tam Quốc Diễn Nghĩa được dịch ra tiếng Anh, nó đã tạo ra một chấn động trong làng khoa học thế giới. Các nhà khoa học đọc đi đọc lại những sáng chế của Khổng Minh nhưng không thể hiểu nổi. Nhiều người nghi ngờ bản dịch nên đã cố công học tiếng Hán để nghiên cứu nguyên tác nhưng vẫn không tìm thấy các bí mật ở trong đó. Những người nản chí thì cho đó là những tưởng tượng của nhà văn. Nhưng có khá nhiều người vẫn còn tin vào khả năng thần kỳ của nền kỹ thuật Trung Quốc và tin vào nhận định: tác phẩm Tam Quốc Diễn Nghĩa là một tác phẩm lịch sử có tới bảy phần thực.

Khổng Minh là một nhân vật mưu lược, quyền biến, trung thành và đặc biệt có những khả năng được người dân Trung Quốc tôn sùng như một vị thánh.Trong những trận đánh liên miên từ khi Lưu Bị còn chưa có đất dụng võ cho tới khi thiên hạ (nước Trung Hoa xưa) chia thế chân vạc, Khổng Minh đã thể hiện bản lĩnh của một vị quân sư, một vị tướng hiểu thời, hiểu thế và do vậy, hầu như ông không có đối thủ thực sự trên chiến trường. Cho đến gần cuối đời, Khổng Minh mới gặp một địch thủ thực sự cho dù người này luôn nhận mình kém cỏi so với ông. Đó chính là Tư Mã Ý, ngườ! i đã đặt nền tảng thống nhất đất nước Trung Hoa cho con trai mình.

Trong cuộc đấu sức, đấu trí với Tư Mã Ý, Khổng Minh đã để lại cho hậu thế hai "bí kíp" lớn nhất về sự sáng chế khoa học. Đó là phép "rút đất" và những con trâu ngựa gỗ có thể tự động vận chuyển lương thực. Ngày nay, các nhà nghiên cứu đã chứng minh được nền khoa học kỹ thuật phát triển rất cao của người Trung Hoa cổ. Vậy nếu như khôi phục được hai "bí kíp" kia thì đó là một điều thần kỳ đối với cuộc sống nhân loại.

Trong một trận chiến, để dụ tướng giặc, Khổng Minh ngồi trên xe nhỏ bốn bánh được quân lính đẩy ra giữa trận. Tướng giặc thấy vậy, cáu tiết đuổi theo bắt cho kỳ được. Khổng Minh truyền quay xe và chạy. Ba phía khác lần lượt xuất hiện một cái xe y như thế với Khổng Minh khăn áo là lượt.(Đó chính là ba viên tướng đóng thế Khổng Minh) Tướng giặc liền nhằm một cỗ xe và đuổi riết. Chiếc xe do người đẩy chỉ chạy chầm chậm nhưng quân giặc với đàn ngựa chiến không sao đuổi được. Càng đuổi, chiếc xe càng chập chờn trước mắt. Đuổi nhanh, xe chạy nhanh, đuổi chậm, xe chạy chậm lại. Và tất nhiên, tướng giặc không thể bắt nổi chiếc xe đó. Xét về tốc độ thì một chiếc xe bốn bánh do người đẩy không thể chạy nhanh bằng nước phi của một con ngựa chiến được.

Hiển nhiên trong chuyện này phải có một yếu tố “kỹ thuật” nào đó. Các nhà khoa học nghiên cứu một hồi cũng không thể đưa ra một giả định! hay hơn các nhà nghiên cứu quân sự được. Họ cho rằng, cuộc chiến giữa hai bên diễn ra ở vùng núi Kỳ Sơn rất hiểm trở và rừng rậm um tùm.

Khổng Minh là một nhân vật mưu lược, quyền biến, trung thành và đặc biệt có những khả năng được người dân Trung Quốc tôn sùng như một vị thánh.Trong những trận đánh liên miên từ khi Lưu Bị còn chưa có đất dụng võ cho tới khi thiên hạ (nước Trung Hoa xưa) chia thế chân vạc, Khổng Minh đã thể hiện bản lĩnh của một vị quân sư, một vị tướng hiểu thời, hiểu thế và do vậy, hầu như ông không có đối thủ thực sự trên chiến trường. Cho đến gần cuối đời, Khổng Minh mới gặp một địch thủ thực sự cho dù người này luôn nhận mình kém cỏi so với ông. Đó chính là Tư Mã Ý, người đã đặt nền tảng thống nhất đất nước Trung Hoa cho con trai mình.

Trong cuộc đấu sức, đấu trí với Tư Mã Ý, Khổng Minh đã để lại cho hậu thế hai "bí kíp" lớn nhất về sự sáng chế khoa học. Đó là phép "rút đất" và những con trâu ngựa gỗ có thể tự động vận chuyển lương thực. Ngày nay, các nhà nghiên cứu đã chứng minh được nền khoa học kỹ thuật phát triển rất cao của người Trung Hoa cổ. Vậy nếu như khôi phục được hai "bí kíp" kia thì đó là một điều thần kỳ đối với cuộc sống nhân loại.

Trong một trận chiến, để dụ tướng giặc, Khổng Minh ngồi trên xe nhỏ bốn bánh được quân lính đẩy ra giữa trận. Tướng giặc thấy vậy, cáu tiết đuổi theo bắt cho kỳ được. Khổng Minh truyền quay xe và chạy. Ba phía khác lần lượt xuất hiện một cái xe y như thế với Khổng Minh khăn áo là lượt.(Đó chính là ba viên tướng đóng thế Khổng Minh) Tướng giặc liền nhằm một cỗ xe và đuổi riết. Chiếc xe do người đẩy chỉ chạy chầm chậm nhưng quân giặc với đàn ngựa chiến không sao đuổi được. Càng đuổi, chiếc xe càng chập chờn trước mắt. Đuổi nhanh, xe chạy nhanh, đuổi chậm, xe chạy chậm lại. Và tất nhiên, tướng giặc không thể bắt nổi chiếc xe đó. Xét về tốc độ thì một chiếc xe bốn bánh do người đẩy không thể chạy nhanh bằng nước phi của một con ngựa chiến được.

Hiển nhiên trong chuyện này phải có một yếu tố “kỹ thuật” nào đó. Các nhà khoa học nghiên cứu một hồi cũng không thể đưa ra một giả định! hay hơn các nhà nghiên cứu quân sự được. Họ cho rằng, cuộc chiến giữa hai bên diễn ra ở vùng núi Kỳ Sơn rất hiểm trở và rừng rậm um tùm.

Khổng Minh lại là một người ưa dùng nghi binh và dùng "tà pháp" đánh vào tâm lý của đối phương nên phép “rút đất" được lý giải như sau: Do chiếc xe bốn bánh dùng sức người đẩy chắc chắn không thể sánh với tốc độ của ngựa chiến được mà ngựa chiến vẫn không đuổi kịp là vì hai điều: thứ nhất; chiếc xe không có thực trên cùng một đường chạy, thứ hai, có nhiều chiếc xe giống nhau tham gia vào phép "rút đất” này. Mặc dù người Trung Hoa đã sử dụng gương hay những mặt đồng tạo hình ảnh từ rất sớm nhưng nếu cho rằng Khổng Minh đã dùng gương tạo ra một ảo ảnh trên đường chạy là một điều hoang đường. Bởi vì nếu Khổng Minh có thể sử dụng kỹ thuật phản chiếu qua gương như vậy thì ông cần gì phải bố trí ba tướng khác đóng giả y hệt mình ở ba góc trận.? Loại trừ khả năng này, chúng ta đến với khả năng thứ hai.

Khổng Minh là một người đặc biệt nhạy cảm về địa thế chiến trường. Với ông, nếu tận dụng được địa thế thì một dòng suối cũng nhấn chìm được cả đoàn quân. Chúng ta thử hình dung trận địa diễn ra ở những sườn núi, sườn đồi mấp mô. Do đó, tầm mắt của đối phương bị che lấp liên tục. Khổng Minh đã dùng các tướng đóng giả mình và phục sẵn ở lưng chừng các mỏm núi có rừng bao phủ. Câu chuyện diễn ra từa tựa như truyện cổ tích rùa tinh khôn chạy thi với thỏ. Khi tướng giặc chạy lên điểm cao thì nhìn thấy chiếc xe, nhưng khi chạy xuống lòng chảo (dù rất nh�! �) viên tướng đó cũng sẽ mất tầm nhìn trong một đoạn thời gian. Đoạn thời gian này đủ để chiếc xe ấy lẩn vào rừng cây và chuyển vào một vị trí định sẵn. Khi tầm nhìn của tướng giặc mở ra, viên tướng đó sẽ lại thấy một chiếc xe khác y nhệt như thế xuất hiện.

Do đã nắm chắc địa thế và lại là người chủ động khiêu khích giặc nên Khổng Minh đủ sức bố trí phép "rút đất" như vậy. Ở đây có một câu hỏi lớn đặt ra là ông đùa giỡn với tướng giặc thế làm gì khi ông có thể tóm gọn kẻ thù trong lúc viên tướng đó sa vào thế trận của ông. Chúng ta nên nhớ rằng, Khổng Minh chỉ có chưa đến mười vạn quân so với vài chục vạn quân Ngụy. Hơn nữa, trước khi ra Kỳ Sơn đánh Ngụy, Khổng Minh phải để lại một số lượng lớn quân để giữ nước. Lực lượng của Khổng Minh chỉ bằng một phần nhỏ của quân địch. Chính vậy nên Khổng Minh đã dùng cách này để “hù doạ" quân địch. Có lẽ sự thật về phép "rút đất" từng làm bao nhiêu nhà quân sự, nhà khoa học và độc giả phải đau đầu nằm trong câu chuyện cổ tích của người Việt: Rùa chạy thi với thỏ.

Trong chiến tranh, lương thực tiếp tế cho các đoàn quân là điều kiện sống còn. Do địa hình vùng núi Kỳ Sơn rất phức tạp, dốc đá hiểm trở nên việc vận chuyển lương thực vô cùng khó khăn. Tư Mã Ý có lý khi cho rằng chỉ cần không ra đánh, cứ cố thủ, quân của Khổng Minh hết lương thực tất phải tự vỡ. Quả nhiên quân Thục gặp những rắc rối về việc vận chuyển lương thực. Do địa hình quá là hiểm trở nên những con ngựa kéo xe rất nặng nề và thường xuyên chết cả đàn vì chướng khí. Khổng Minh gọi thợ lấy gỗ và vẽ mẫu để làm trâu ngựa gỗ. thật lạ lùng, những con trâu ngựa gỗ ấy kéo xe lương thực đi như không trên những sườn núi cao. Nếu con người hiện đại biết được cách chế tạo trâu ngựa gỗ thì chúng ta sẽ tiết kiệm được bao nhiêu năng lượng.

Tuy nhiên nhiều người cho rằng Khổng Minh đã phù phép để cho các con vật bằng gỗ ấy cử động được. Có một "chứng cứ khoa học" rằng khi Tư Mã Ý thấy vậy liền cho quân bắt lấy một con mang về tháo rời ra. Tư Mã Ý cũng là một nhà kỹ thuật đại tài nên ông bắt chước y như đúc các kích thước của con trâu gỗ và tạo ra được cả một bầy dùng để kéo xe. Như vậy cấu tạo đặc biệt của trâu ngựa gỗ đã tạo ra hành động của chúng. Nhưng chúng ta đều biết những con trâu ngựa gỗ đó không thể tự tạo ra một bộ máy chuyển động vĩnh cửu để hoạt động được.

Yếu tố ngoại lực chắc chắn phải xuất hiện, nhưng nếu đẩy nó như đẩy xe thì tội gì phải chế tạo trâu ngựa gỗ cho thêm rắc rối. Trâu ngựa gỗ giúp cho quân lính chuyên chở lương thực rất nhẹ nhàng, do đó nó ưu việt hơn nhiều là phải đẩy một cái xe. Các nhà nghiên cứu quân sự trở lại với địa thế hiểm trở của những ngọn núi Kỳ Sơn. Để vận chuyển lương thực, những đoàn xe đó tất nhiên phải đi men theo các sườn núi đá. Những con đường mấp mô, gập ghềnh khi lên cao khi xuống thấp. Đây chính là địa thế dành cho trâu ngựa gỗ. Trong khớp nối ở mỗi ống chân gỗ, người thợ sẽ tiện một đĩa gỗ tròn sao cho cơ thể con trâu có thể trượt về đằng trước hay trượt về đằng sau một khoảng bằng bán kính của đĩa gỗ. Như vậy nếu đứng trên một mặt phẳng thì con trâu hoặc là chúi về phía trước hoặc là trượt về phía sau chứ không thể đứng! thẳng được. Tất cả các khớp nối của bốn chân con trâu, con ngựa đều tuân thủ nguyên tắc này. Khi mang các bao lương thực trên lưng, sức nặng ấy sẽ tạo ra một lực đẩy rất mạnh hoặc về phía trước hoặc về phía sau.

Trên địa hình mấp mô, gập ghềnh, sau khi trọng lượng lương thực “dúi" phần lưng nó về phía trước, theo con trượt, lưng nó sẽ lại trở lại phía sau theo đà lắc. Nhưng nếu như thế thì chúng vẫn chưa thể đi được, nhất là khi đà dốc chỉ đủ “dúi" nó tới gần đỉnh cao nhất của dốc đá lồi lõm trên đường. Mặc dù có địa thế lồi lõm như thế, để có thể đi được, những con trâu ngựa gỗ đó vẫn cần một ngoại lực nào đó. Điều này một lần nữa được hé mở qua bộ phận lưỡi của chúng. Khi Tư Mã Ý dùng trâu ngựa gỗ chuyển lương thực, Khổng Minh đã cho quân của mình bôi mặt giả làm quỷ để doạ quân Ngụy.

Để cướp lương thực, quân Thục chỉ cần tháo lưỡi của trâu ngựa gỗ là chúng không đi được. Như vậy ngoại lực sẽ truyền qua lưỡi và tác động lên các trục tròn qua những thanh sắt “chuyển lực". Bộ khung sắt lnày nằm kín trong bụng trâu ngựa gỗ và nó được kéo quay tròn như thể một cái guồng nước. Nó có bốn thanh chính. Khi thanh thứ nhất và thanh thứ hai quay làm cho chân trước và chân sau phía bên kia của con trâu "trượt" về phía trước thì hai thanh còn lại “gạt" hai chân còn lại về phía sau, tạo ra một chuyển động nhịp nhàng. Đặc biệt chuyển động này tận dụng tối đa sự! “x! uống dốc, lên dốc" của mặt đường gập ghềnh. Như vậy, các nhà khoa học hiện đại kết luận, chắc chắn sợi dây “dắt" trâu ngựa gỗ sẽ được buộc vào lưỡi của chúng. Một hoặc hai người lính sẽ "dắt" trâu bằng cách kéo nhẹ vào dây khi đà lăn gần hết, để tiếp tục tạo cho chúng một đà lăn mới.

Trên lý thuyết, các nhà phân tích "giải mã" được cấu tạo của những con trâu ngựa gỗ. Tuy nhiên chưa có ai làm thực nghiệm. Điều này có thể vì nhiều lý do nhưng lý do lớn nhất là, những con trâu ngựa gỗ (như trên) nếu có thể chế tạo được thì cũng không mang lại ích lợi cho con người bởi vì hệ thống giao thông hiện nay đã quá hiện đại và rất khó có thể tìm thấy những con đường lồi lõm dù ở cả những miền núi cao./

Giải mã Khổng Minh theo lòng… độc giả!

Nếu hành động của bạn làm người khác mơ mộng nhiều hơn, học nhiều hơn, làm nhiều hơn và thành công hơn, bạn là một lãnh tụ. – Tổng thống Mỹ John Quincy Adams

* Những người dày dạn trận mạc không nổi giận, những người biết cách chiến thắng không sợ hãi. Và người thông thái chiến thắng trước khi chiến đấu, còn kẻ ngu muội chiến đấu để thắng – Học giả, nhà chiến lược quân sự cổ đại Gia Cát Lượng

Tôi vẫn luôn nghĩ rằng không chỉ làm việc chăm chỉ mà cả làm việc một cách thông minh cũng rất quan trọng. Dù trong lĩnh vực nào, từ kinh doanh, chính trị tới chiến tranh hay những nghề khác, những suy nghĩ và kế hoạch chiến lược thường tạo ra khác biệt rất lớn, một bên là thành công vang dội, bên kia là thất bại thảm hại. Trong lịch sử thế giới, tôi đã được học và rất ngưỡng mộ những chiến lược gia tài ba như Alexander Đại Đế, Julius Caesar, tướng Douglas MacArthur, Napoleon Bonaparte và anh hùng lỗi lạc thời Tam Quốc ở Trung Hoa Cổ Đại, Gia Cát Lượng.

Trong kinh quanh, tôi ngưỡng mộ Warren Buffett của Mỹ (hãy tưởng tượng xem, ông ta thông minh đến mức để người bạn tỷ phú Bill Gates của mình làm thay các công việc từ thiện!), Li Ka Shing của Hồng Kông và Robert Kuok Hock Nien, một người Malaysia gốc Trung Quốc, thuộc tập đoàn khách sạn Shangri-La. Ở Philippines, ngay cả các đối thủ cũng phải thừa nhận John Gokongwei Jr. là một nhà chiến lược tài ba (ngay cả khoản tiền đóng góp từ thiện trong lần sinh nhật thứ 80 của ông cũng là khoản ủng hộ từ thiện lớn nhất, và được tổ chức tốt nhất trong lịch sử kinh doanh Philippines). Họ không chỉ làm việc cần cù với kỷ luật và ý chí mà còn với tầm nhìn chiến lược.

Và giờ tôi đang đi nghỉ một tháng ở Trung Quốc. Khi tôi nói với những khách du lịch nước ngoài khác, hay thậm chí cả người dân Trung Quốc địa phương, rằng tôi sẽ đi tàu đến thành phố Hán Trung của tỉnh Thiểm Tây (từ Tây An, trên đường tới Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên), là họ đồng loạt bảo tôi rằng đó không phải là một điểm du lịch. Ngay cả người có học nhất ở đây cũng cố can ngăn tôi, nói rằng ở đó chẳng có gì nhiều để xem, chứ không được như Tây An với Đội quân Đất nung hay Vạn Lý Trường Thành và Tử Cẩm Thành của Bắc Kinh. Khi tôi giải thích rằng tôi muốn đến thăm mộ Gia Cát Lương dưới chân núi Định Quân, họ hỏi tại sao.

Tôi không đồng ý với những người coi những phép màu kinh tế đáng kinh ngạc của Trung Quốc là công của những lãnh tụ như nhà cách mạng Mao Trạch Đông hay người kế nhiệm ông, nhà cải cách Đặng Tiểu Bình, hay những người chỉ chăm chăm ngợi ca các hoàng đế và tướng lĩnh Trung Hoa. Tôi tin rằng nguồn gốc thực sự của sức mạnh của nền văn minh vĩ đại này được tạo dựng nhờ những nhà tư tưởng như nhà triết học Khổng Tử, nhà thơ – nhà chính khách Khuất Nguyên, các thiên tài văn học như nhà thơ Lý Bạch đời Đường, và tất nhiên là cả Gia Cát Lượng.

Cứ đi hỏi người dân Đông Á, từ người Hoa, người Hàn Quốc, người Việt Nam hay Nhật Bản, phần lớn trong số họ biết về tài thao lược có một không hai, phẩm chất cao quí, tính hoà nhã và tinh thần Nho giáo của Gia Cát Lượng (còn được biết đến với tên Khổng Minh), được miêu tả trong bộ tiểu thuyết kinh điển Tam Quốc Diễn Nghĩa. Bộ tiểu thuyết kể lại những chuyện có thật trong lịch sử, xoay quanh cuộc chiến của ba nước nhằm giành thiên hạ từ tay nhà Hán đang suy vong. Lãnh đạo các doanh nghiệp châu Á, từ chủ tịch Metrobank George S.K. Ty, chủ tịch Philippine Airlines Lucio Tan, ông trùm địa ốc quá cố Tan Yu, cho tới Wee Cho-Yaw của Singapore, Robert Kuok của Malaysia hay Li Ka Shing của Hồng Kông, đều có thể kể lại chi tiết những chiến công của Gia Cát Lượng cứ như thuật lại những trận đấu Dwyane Wade hay Lebron James tại NBA (giải vô địch bóng rổ nhà nghề Mỹ).

Nước Nguỵ của Tào Tháo, một con người đầy tham vọng, chiếm vùng đất phía Bắc. Nước Ngô của tộc người Sun ở vùng đất phía Đông Nam dễ phòng thủ, và nước Thục, với lý tưởng khôi phục nhà Hán của Lưu Bị, được Gia Cát Lượng giúp sức. Ba quốc gia này tiến đánh lẫn nhau để quyết định số phận Trung Hoa. Tam Quốc Diễn Nghĩa kể lại câu chuyện đề cao chiến tranh, tình yêu, mất mát, vinh quang, lòng dũng cảm và lòng trung thành.

Gia Cát Lượng sinh năm 181 sau Công nguyên, tức là thời kỳ cuối Đông Hán, tại Dương Đô, tỉnh Sơn Đông. Bạn có nhớ bộ phim ăn khách Ngoạ Hổ Tàng Long của đạo diễn Đài Loan Lý An không? Trong lịch sử, Gia Cát Lượng có tên hiệu Ngoạ Long vì người đương thời coi thường tài năng của ông. Không chỉ là một chính khách tài ba và một nhà chiến lược quân sự lớn, ông còn là một học giả, một kỹ sư và nhà phát minh, tinh thông cả khoa học và nghệ thuật.

Gia Cát Lượng đã phát minh ra mìn, liên nỏ (một loại vũ khí bán tự động) dùng trong chiến tranh và dạng sơ khai của chiếc xe cút kít. Ông còn tạo ra đèn trời để làm tín hiệu trong chiến đấu và các kiệt tác công nghệ khác. Ông điều động bộ binh và kỵ binh theo đội hình dựa trên sách Taoist book I Ching cực kỳ điêu luyện. Rất nhiều người dân Đông Á thuộc lòng những chiến thắng lẫy lừng của Gia Cát Lượng.

Giống như nhiều nhân trong lịch sử, Gia Cát Lượng mồ côi từ nhỏ. Khi cùng gia đình chạy xuống phía Nam tránh vụ thảm sát của nước Nguỵ. Khi đó Tào Tháo đã cho giết 400.000 thường dân.

Thời thanh niên, ông ẩn cư 10 năm trong một túp lều tranh ở Long Trung (thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay), sống cuộc đời bình lặng của một nông dân, nhưng vẫn không ngừng nghiên cứu chiến lược và thế sự. Bước ngoặt trong đời ông đến khi Lưu Bị, một hậu duệ xa của hoàng tộc nhà Hán nghe tiếng Gia Cát Lượng uyên bác và ba lần đến mời ông làm quân sư. Ông cảm kích trước tấm lòng Lưu Bị và lên kế hoạch xây dựng một quốc gia, liên kết với nước Ngô ở phía Đông để chống lại nước Nguỵ lớn mạnh của Tào Tháo.

Khi đó Gia Cát Lượng 26 tuổi, còn Lưu Bị đã 47. Họ cùng nhau dựng lên nước Thục, ngày nay là tỉnh Tứ Xuyên. Ông làm tể tướng nước Thục, với lòng trung thành, sự chính trực và tài thao lược. Dù Lưu Bị muốn ông giành ngai vàng nếu hoàng gia không đủ khả năng nhưng Gia Cát Lượng vẫn phục vụ con trai Lưu Bị là Lưu Thắng.

Năm 234 sau Công Nguyên, Gia Cát Lượng chết khi đang tiến quân lên phía Bắc. Cái chết của ông đánh dấu sự suy vong của nước Thục. Ngay cả kẻ thù cũng phải nghiên mình trước tài thao lược và lòng trung của ông. Ngày nay, địa điểm nơi ông từng luyện quân vẫn còn tại khu vực Trùng Khánh. Từ đó đến nay, Đền Võ Hầu được xây dựng ở khắp đất nước Trung Quốc để tưởng nhớ Gia Cát Lượng. Đền thờ nổi tiếng nhất trong số đó nằm ở Nam ngoại ô thành phố Thành Đô, rộng 3.7 hecta.

Tôi tin là một câu hỏi trong Kinh Thánh rất có giá trị với tất cả chúng ta, những người đang lao động để tìm kiếm thành công, vinh quang, quyền lực và sự giàu sang. Một người được lợi gì nếu anh ta có cả thế giới nhưng đánh mất linh hồn của chính mình. Khi đón năm mới ở đây, thành phố xa xôi mang tên Hán Trung, và tỏ lòng tôn kính người anh hùng tôi ngưỡng mộ, tôi nhắc mình rằng Gia Cát Lượng chính là một điển hình của thành công thực sự. Ông vĩ đại hơn nhiều so với các vị hoàng đế khoác lác, các tướng lĩnh và các nhà chính trị trong lịch sử Châu Á. Tôi coi Giá Cát Lượng là một hình mẫu lý tưởng cho tất cả mọi người, thuộc mọi thế hệ, không phải vì ông có tài lãnh đạo mà vì ông có những phẩm chất cao đẹp, luôn luôn biết nghĩ đến mọi người.

Đi tìm Khổng Minh thật trong “Tam quốc diễn nghĩa”

Khổng Minh là một nhân vật rất quen thuộc với độc giả Việt. Đối với nhiều người đọc, Khổng Minh là một nhân vật đầy mưu lược, thông hiểu đạo lý, phù chính nghĩa trong tác phẩm “Tam Quốc diễn nghĩa” lừng danh. Tuy nhiên hiện nay ở Trung Quốc, dư luận có nhiều cách lý giải mới về Khổng Minh. Điều đó có thể do các giá trị cũ thay đổi, hoặc vì một lý do nào đó khác… Chúng ta có thể tự cảm nhận khi đọc bài viết này.

Tác giả của phần trích trong hai chương sách bình về Gia Cát Lượng được trích dưới đây là Mai Triêu Vinh, sinh năm 1970 ở Vũ Hán, Hồ Bắc, gốc là người Nam Xương, Giang Tây. Ông hiện là Tổng Giám đốc Nhà xuất bản Đại học Vũ Hán, chi nhánh Bắc Kinh. Vốn nổi tiếng bởi những cuốn sách gây sốc và bán chạy vào loại nhất. Mai Triêu Vinh đã viết rất nhiều tác phẩm và hầu hết đều gây được sự chú ý của người đọc.

Các tác phẩm của ông bao gồm: Tiến hóa luận: câu chuyện mạnh được yếu thua; 12 quy luật suy vong của các triều đại Trung Quốc; Lược sử nhân loại: Chúng tôi có 300 vạn năm; Siêu đế quốc: giải mã những vương triều cường thịnh Trung Quốc; Nhà đại cải cách Ung Chính: thực lục về việc phản đối lợi ích của tập đoàn; Bình luận về 7 đại gian hùng trong lịch sử Trung Quốc;… Hầu hết những tác phẩm của ông đều mang tính chất phản đề, "nói ngược". Và cũng vì những cuốn sách này, người ta đã coi Mai Triêu Vinh là nhà bình luận lịch sử xã hội sắc sảo.

Gần đây, cuốn sách Mai Triêu Vinh bình luận về Gia Cát Lượng đã gây xôn xao dư luận Trung Quốc. Lần đầu tiên một học giả đã trên giấy trắng mực đen công khai tuyên bố Gia Cát Lượng là kẻ ngụy quân tử, đầy thủ đoạn, giả nhân giả nghĩa nhằm đạt bằng được dã tâm chính trị của mình. Cuốn sách thực sự là một cú sốc lớn bởi lẽ lâu nay Gia Cát Lượng vẫn tồn tại như một điển hình về sự mưu trí tuyệt đỉnh.

Ý kiến về cuốn sách do vậy rất trái ngược. Người tung hô, cho rằng đây là kiến giải mới mẻ, lập luận thuyết phục, là những phản đề đầy giá trị. Kẻ cho rằng đó chỉ là cách "làm tiền" lộ liễu… Đoạn trích dưới đây thuộc phần 12 chương II và phần thứ nhất chương III trong cuốn sách đó.

"Giả thần mượn quỷ"

Trong thời kỳ Tam Quốc, Gia Cát Lượng được mọi người công nhận là kẻ "thông hiểu thần thánh". Trong hồi thứ 49 Tam quốc diễn nghĩa nói đến việc ông mượn gió Đông, hỏa thiêu Xích Bích, đại phá 80 vạn quân Tào Tháo. Gia Cát Lượng tự kể: "Từng gặp đạo nhân, được truyền thụ kỳ môn độn giáp, có thể hô phong hoán vũ". Nhưng thật ra đây chỉ là một mánh khóe nhằm lừa bịp Chu Du mà thôi.

Gia Cát Lượng chẳng qua đã lợi dụng sự mê tín của mọi người đối với thần thánh để giở trò huyễn hoặc. Công bằng mà nói, ông là người cực kỳ thông minh, giỏi nắm bắt cơ hội. Những gì ông làm thường rất giản đơn, nhưng ông ta che che đậy đậy, lúc ẩn lúc hiện khiến cho mọi người không biết đâu mà lần ra đầu mối. Những điều thực ra rất giản đơn, ông biết cách làm cho nó trở nên rắc rối, khó hiểu.

Mỗi khi Gia Cát Lượng điều binh khiển tướng, đều có một chút gì đó thần bí. Không phải chỉ đơn giản trao túi gấm cho tướng lĩnh, mà còn sẵn sàng lắng nghe những kháng nghị của họ. Điều này làm cho các tướng lĩnh cũng như binh sĩ không hiểu rõ ràng toàn bộ diễn biến của chiến cục. Thuộc hạ chỉ còn biết "y kế" mà hành sự. Tác dụng của việc làm như thế là khiến cho mọi người có cảm giác thần bí về Gia Cát Lượng, trở thành một quân cờ trong tay ông, không nắm được toàn bộ chiến lược nên thiếu hẳn tinh thần hợp tác. Hai mặt này hiển nhiên sự nguy hại của cái sau lớn hơn so với cái trước rất nhiều.

Vô vị nhất là việc mượn gió Đông. Khi mọi người đồng tâm đồng sức kháng Tào, Gia Cát Lượng lại lợi dụng một chút hiểu biết về thiên văn của mình để giở mánh khóe lừa bịp ba quân. Đăng đàn làm phép, làm trò huyễn hoặc, thần thánh hóa bản thân mình để đạt được mục đích chính trị. Khoa trương công lao của bản thân, cướp đoạt công lao to lớn của Hoàng Cái và Chu Du, tựa hồ thắng lợi trong trận hỏa thiêu Xích Bích hoàn toàn là do việc Gia Cát Lượng làm phép mà đem lại. Bao nhiêu khó nhọc vào sinh ra tử của các tướng lĩnh và hàng vạn binh sĩ trở thành một vở kịch trên sân khấu.

Một tướng như Gia Cát Lượng đã khiến cho sự nghiệp của Thục Hán gặp rất nhiều gian truân. Trận Đương Dương chính là một ví dụ. Đương nhiên nếu đọc Tam quốc diễn nghĩa mà chỉ thấy miêu tả Triệu Vân xả thân cứu A Đẩu, Trương Phi hét lớn lui quân Tào trước cầu Tràng Bản… Như thế chính là tác giả muốn che giấu sự bất tài của Gia Cát Lượng. Vốn là Tào Tháo truy kích thắng lợi, nhưng trong tác phẩm ngược lại, quân Lưu Bị ở đâu cũng chiếm được thượng phong. Thực tế trong trận Đương Dương, Gia Cát Lượng không hề giành được thắng lợi nào về mặt chính trị. Bởi vì lần này là đánh trực diện ông không có cách nào giở trò bịp bợm ma quỷ được. Cuối cùng không thể không nhắc tới câu nói thẳng thắn trong Tam Quốc chí Gia Cát Lượng truyện: "Tại Hạ Khẩu, Lượng nói: Việc rất gấp, hãy phục mệnh đi cứu Tôn tướng quân".

Gia Cát Lượng giở trò quỷ thần, lừa dối chỉ là nhất thời, ông không thể lừa được cả đời.

Gia Cát Lượng gặp Lưu Bị khi Cửu Châu đang hỗn loạn, anh hùng khắp nơi nổi lên. Quân thần tương ngộ, như cá gặp nước. Nhưng không thể cùng quân Tào tranh thiên hạ đành vứt bỏ Kinh Châu, lui về Ba Thục, dụ dỗ cướp nước của Lưu Chương, giả liên minh với quân Ngô, cùng khổ giữ đất Kỳ Sơn, tiếm quyền ở những nơi xa xôi… đó là kế sách của những kẻ hèn mọn.

"Nhân giả, nghĩa cũng giả theo"

Con người có thất tình lục dục, khóc và cười vốn đối lập. Từ khi con người oa oa chào đời, âm thanh đầu tiên mang đến thế giới là "tiếng khóc", tới khi con người đi hết cõi đời, âm thanh cuối cùng lưu lại dương gian cũng là "tiếng khóc". "Khóc", trên thực tế là một bản năng của con người. Khi buồn thương khóc, khi vui sướng cũng khóc. Khóc đã trở thành cách biểu hiện tình cảm nội tâm,

Khóc, thuở bé không phân biệt giới tính, bé trai bé gái đều có thể khóc bất cứ lúc nào, đến khi thành niên, khóc dường như trở thành độc quyền của nữ giới, đàn ông thì nhất định "có nước mắt nhưng không dễ để rơi", phụ nữ khóc lại là "cành hoa lê mùa xuân điểm chút mưa".

Khi đã thành gia thất, đàn ông có chuyện bực bội, cùng lắm chỉ có thể đạp cửa mà đi, uống say xỉn rồi về. Nhưng tuyệt đối không thể để rơi nước mắt đau khổ. Phụ nữ thì lặng lẽ rớt nước mắt, âm thầm sầu não. Thảo nào có người nói: trẻ con dùng nước mắt để đối phó với người lớn, phụ nữ lấy nước mắt để đối phó với đàn ông, còn đàn ông thì sao? Chỉ có thể dùng nước mắt để đối phó với thế giới! Trong tiếng khóc, họ giải toả áp lực, thách thức số phận.

Khóc và cười là một cặp biểu tượng tình cảm đối lập. Con người có thể khóc khi vui sướng, cũng có thể cười khi đau đớn. Tào Tháo gặp khó khăn cũng có khóc và cười. Chiến bại Xích Bích là giao lộ của tính mệnh. Nhưng tác giả không tập trung miêu tả vào mưu kế để thoát thân mà lại tập trung miêu tả ba lần họ Tào cười lớn trên đường tháo chạy.

Lần thứ nhất, ở "phía tây Ô Lâm", Tào Tháo ngồi trên ngựa "ngửa mặt cười không dứt", Tào nói; "Ta không cười người khác, chỉ cười Chu Du vô mưu, Gia Cát Lượng thiểu trí. Nếu là lúc ta dụng binh, ta sẽ cho một đội quân mai phục ở đây, như thế chẳng hơn ư?" Nói chưa dứt, Triệu Tử Long đột nhiên xông ra, khiến cho sự đắc chí của Tào Tháo phải nhanh chóng "hạ mã uy".

Lần thứ hai, ở "Hồ Lô khẩu", Tào Tháo ngồi dưới một khu rừng thưa, ngửa mặt cười lớn, lại chê Gia Cát Lượng, Chu Du trí mưu chưa đủ, kết quả là Trương Dực Đức xuất hiện làm cho ông ta hồn xiêu phách tán. Không chỉ tổn thất nghiêm trọng, đến cả ngựa xe, quân lương cũng bị cướp.

Lần thứ ba, trên "đường nhỏ Hoa Dung", Tào Tháo lại cười Gia Cát Lượng, Chu Du là "loại vô năng". Đang cười thì Vân Trường cầm đao đứng sừng sững trước mặt, ông ta cười không thành tiếng, chỉ còn biết cúi đầu cầu xin tha mạng.

"Ba lần cười" này trong tiểu thuyết có thể nói là tuyệt bút. Tuy có thể thấy Gia Cát Lượng dụng binh vô cùng kỳ diệu, nhưng Tào Tháo so với những người khác cũng rất đáng nể vì. Thân lâm cảnh hiểm, vẫn có thể cười, chế giễu đối thủ của mình thiếu trí tuệ cơ mưu. Nếu là người khác, chỉ e chạy thoát thân còn chẳng kịp, huống hồ trong những trường hợp như vậy. Đặc biệt là ba lần cười của ông ta, càng khiến cho người ta vỗ bàn mà khen là tuyệt bút. Quân ít ngựa thiếu, bản thân không còn lực để tiếp tục chiến đấu mà Quan Vũ thần dũng vô song, chém Nhan Lương, giết Văn Sú nếu như dùng biện pháp cứng rắn thì hung nhiều hơn cát.

Tục ngữ nói, kẻ thức thời mới là tuấn kiệt. Đến bước đường cùng, Tào Tháo đã dùng tình nghĩa để làm mềm lòng Quan Vũ, cầu xin được mở cho một con đường sống. Bởi vì ông ta trong quá khứ đã từng có ân với Quan Vũ mà Quan Vũ lại là con người lấy "nghĩa" làm đầu. Cuối cùng Tào Tháo đã tự mình hóa giải nguy nan. Có thể khuất phục được nhân tài ấy chính là đại trượng phu, cách xử sự với mọi người của Tào Tháo thể hiện điều đó.

Trong cuộc sống có khoái lạc, cũng có đau thương, bất tất phải cố ý tu sức cho bản thân mình. Chỉ cần dùng chân tâm, chân tính, chân cảm của bản thân thì có thể đối diện với cuộc sống, lớn tiếng mà khóc, lớn tiếng mà cười. Dùng cái chân tình biểu hiện cho chính mình, ấy mới có thể xem như là một con người…

Đối lập với cái gian hùng của Tào Tháo là cái "kiêu hùng" của Lưu Bị, cũng có cách xử lý mà không người nào làm được, ông ta dùng nước mắt để tranh thiên hạ. Lưu Bị thích khóc đến nổi tiếng.

Lưu Bị dưới sự trợ giúp của Từ Nguyên Trực, đóng quân Tân Dã, chiêu binh mãi mã, tích trữ lương thảo, khí tượng ngày một thịnh. Nhưng Tào Tháo đã bắt chước bút tích của Từ Mẫu đưa cho Nguyên Trực, khiến cho ông ta phải rời bỏ Lưu Bị. Lưu Bị khóc rằng: "Nguyên Trực đi rồi, ta sẽ không biết làm thế nào?", rồi ngưng nước mắt mà ngóng theo. Từ Thứ vì điều này mà tâm tư nhiễu loạn, nước mắt lưng tròng, khi sang phía Tào Tháo từ đầu chí cuối không đưa ra một kế sách nào.

Lưu Bị ba lần đến lều cỏ, gặp phải lời từ chối khéo của Khổng Minh, khóc rằng: "Tiên sinh không xuất sơn, thiên hạ sẽ sống như thế nào?". Lưu Bị nói đi nói lại, càng động đến tâm sự sâu kín, tâm tư trăm mối, lúc đó "nước mắt thấm ra tay áo, làm ướt hết cả vạt áo".

Khi Lỗ Túc Đông Ngô đòi Kinh Châu, Lưu Bị lại khóc, dày vò những thủ hạ của Lỗ Túc không biết xử trí thế nào, cuối cùng không hoàn thành được nhiệm vụ.

Khi tin Quan Vũ bị sát hại truyền tới, Lưu Bị "thét lên một tiếng lớn, hôn mê ngã vật xuống đất", lệ thấm ướt vạt áo, ba ngày không ăn. Biểu hiện huynh đệ tình thâm.

Lưu Bị từ đầu chí cuối đều dùng nước mắt để cảm động văn thần võ tướng, khóc để giành được một địa bàn lập nghiệp rồi cũng dùng khóc để có được vị trí vua đất Thục.

Là thủ hạ của một vị quân vương khóc rất nhiều, việc khóc của Gia Cát Lượng cũng rất có bản lĩnh. Chí ít việc khóc của ông ta cũng có thể cùng Lưu Bị tạo nên công trạng. Nhưng Lưu bị dù nói gì đi nữa, cũng có một chút vì quốc gia mà khóc. Còn việc khóc của Gia Cát Lượng cũng chỉ là kiểu mèo khóc chuột, mượn sự thương xót để giải hiềm nghi mà thôi.

Gia Cát Lượng đầu tiên là khóc Chu Du. Năm 36 tuổi, vị đô đốc thủy quân của Đông Ngô Chu Du đã bất hạnh tiêu vong, Gia Cát Lượng mang theo Triệu Tử Long và một số người khác nữa đến phúng viếng. Chỉ thấy Khổng Minh tới trước linh sàng Chu Du, bày lễ vật, tự rót rượu, đổ xuống đất rồi khóc lớn, vừa khóc vừa thuật lại Chu Du sinh thời anh hùng, văn tài võ lược, rộng lượng chí cao như thế nào, rồi giúp Tôn Quyền cát cứ Giang Đông, xây dựng sự nghiệp ra sao. Ông ta cực lực ca ngợi tấm lòng trung nghĩa, khí chất anh hùng của Chu Du. Đứng trước quan tài của Chu Du, ông đau đớn nói: "Hỡi ôi Công Cẩn, sinh tử vĩnh biệt!". "Hồn phách có linh, xin chứng giám cho tấm lòng của tôi: từ đây trong thiên hạ, sẽ không tìm thấy đâu kẻ tri âm! Than ôi đau đớn thay!". Ông ta nước mắt như suối, bi thương khóc lóc không dừng, thực là cảm động lòng người. Những người có mặt trong buổi hôm đó không ai là không bị nước mắt của ông ta làm cho cảm động, các tướng lĩnh không có ai không bị tình cảm của ông ta cảm hóa.

Gia Cát Lượng giống như đám tang mẹ, khóc lóc kêu gào. Các tướng lĩnh Đông Ngô đều bị tung hỏa mù. Họ nghĩ không ra rằng vì sao Chu Du chết. Không phải là người trước mắt họ, nói lời mà không giữ, chua ngoa cay nghiệt thì Chu Du đâu đã chết nhanh như vậy. Giờ đến đám tang khóc viếng, phân minh là không ai ăn hiếp Giang Đông cả, có ý muốn hạ thấp Chu Du, trình hiện trước thế nhân một giả tượng rằng: không phải là tôi, Gia Cát Lượng, thế này thế nọ mà là ông, Chu Du, nhỏ nhen, việc ông tức khí mà chết hoàn toàn không liên quan tới tôi. Ông xem ông chết mà tôi vẫn còn tới khóc viếng ông, ông phải nói tôi thật rộng lượng mới đúng! Đối với một người đã chết mà ông ta vẫn không từ bỏ, lòng dạ Gia Cát Lượng quả thật còn hơn lang sói.

Nghe nói loài cá khi ăn thực vật, có một loài có biểu hiện rất giống con người: chảy nước mắt. Loài cá quả thực là có biết chảy nước mắt, chỉ là chúng hoàn toàn khóc không phải vì thương tâm mà là do lượng muối dư thừa trong cơ thể nó bài tiết ra. Chức năng bài tiết của thận cá không được hoàn thiện như, trong cơ thể dư thừa quá nhiều muối, cần phải dựa vào một tuyến muối đặc thù để bài tiết. Tuyến muối trong cơ thể loài cá nằm rất gần vùng mắt của cá. Tuyến muối này có thể giúp loài cá tiêu giảm bớt lượng muối trong nước biển, từ đó mà nước biển nhạt đi. Vì thế, tuyến muối là dụng cụ làm nhạt nước biển của thiên nhiên.

Nước mắt của loài cá này hoàn toàn không phải là do tình cảm mà là một loại giả từ bi, giả thương tâm, giả cảm thông. Loại nước mắt này chỉ là một tuyến ở vùng phụ cận của mắt làm ra một trò đùa quái đản, chỉ cần khi cá ăn, loại tuyến phụ sinh bài tiết ra một loại dung dịch muối của tự nhiên. Trong cuộc sống loại ngụy quân tử giả từ bi này thật đáng mỉa mai!

Tiếng khóc "ghi dấu kinh điển" của Gia Cát Lượng chính là lần khóc chém Mã Tốc. Gia Cát Lượng ra Kì Sơn bắc phạt, ban đầu giành thắng lợi, giành được ba quận vùng Lũng Tây, thanh thế làm chấn động Ngụy quân. Đột nhiên có tin báo, Tư Mã Ý xuất quan, hành quân cấp tốc. Gia Cát Lượng liệu định chắc rằng Tư Mã Ý sẽ lấy Nhai Đình, chặn yết hầu của quân Thục. Vì thế muốn phái một thượng tướng danh tiếng đến trấn thủ ở Nhai Đình, không ngờ Mã Tốc muốn được nhận nhiệm vụ, cam kết "nếu như thất bại, chém đầu cả nhà". Mã Tốc vốn là một thư sinh, bàn việc binh trên giấy còn khả dĩ, không hề có một chút kinh nghiệm thực chiến. Chỉ vì ông ta có sự giao hảo riêng với Gia Cát Lượng, lại là một nhân vật thuộc phái Kinh Tương. Chỉ vì cho ông ta một cơ hội kiến công lập nghiệp, Gia Cát Lượng đã không nghe lời mọi người mà đề bạt Mã Tốc. Kết quả, Mã Tốc sau khi tới Nhai Đình đã chống lệnh, không nghe lời can gián, lập trại ở trên núi, cuối cùng đã bị Tư Mã Ý trước chặn đường thủy, lại phóng hỏa đốt núi, tuy Thục quân mấy lần cứu viện nhưng rốt cục Nhai Đình vẫn mất.

Sau khi Nhai Đình thất thủ, Gia Cát Lượng phải sửa chữa cục diện thất bại của mình, thân là chủ tướng ông ta không thể đổ thừa trách nhiệm cho ai. Nhưng là một để bảo toàn danh dự cho bản thân, nên đã đem toàn bộ sai lầm trong cuộc chiến đó đẩy hết cho Mã Tốc, luôn miệng nói là thất bại Nhai Đình là một sự kiện trọng đại trong chiến tranh. Mẫ Tốc không cách gì đã trở thành vật hy sinh của ông ta. Gia Cát Lượng chém khi chém Mã Tốc có ba lần ông ta chảy nước mắt như loài cá.

Lần khóc thứ nhất là trách mắng sai lầm của Mã Tốc. Nói Nhai Đình là gốc của quân Thục, ngươi đã lấy sinh mạng cả gia đình để lĩnh trách nhiệm nặng nề đó, nay mất đất mất thành, tất sẽ bị xử chém. Lúc đó Mã Tốc cầu xin rằng sau khi giết chết ông ta có thể ban ân tha chết cho con ông ta, Gia Cát Lượng bị lời khẩn cầu của một người sắp chết làm cho cảm động, ông ta lập tức đáp ứng thỉnh cầu, đổng thời chảy nước mắt nói: "Ta và Nhữ Nghĩa (tên tự của Mã Tốc) là huynh đệ, con của ông cũng chính là con của ta, không cần dặn dò quá nhiều". Ý là muốn Mã Tốc yên tâm mà đi.

Mã Tốc vốn có giao hảo với Gia Cát Lượng, nay vì lợi ích của bản thân, ông ta không thể không giết Mã Tốc. Giờ đối diện với đề xuất cuối cùng của một người cha cho con mình, lương tâm của ông ta cũng không hoàn toàn mất đi.

Lần thứ hai khóc là lần can gián của Tưởng Uyển. Trong cách nhìn của Tưởng Uyển: "Nay thiên hạ chưa định, mà giết người mưu trí, chẳng đáng tiếc lắm hay sao?". Khổng Minh cũng biết rằng Mã Tốc cũng có chỗ khả dụng. Trước đây Mã Tốc đã vì Khổng Minh hiến kế hai lần và cả hai lần đều giành được thắng lợi lớn: Lần thứ nhất là bảy lần bắt Mạnh Hoạch, ông ta kiến nghị lấy công tâm làm đầu. Một lần khác là lợi dụng kế phản gián, gây xích mích trong quan hệ giữa Tào Duệ và Tư Mã Ý, kết quả là Tư Mã Ý bị biếm về quê. Gia Cát Lượng không phải không biết tài năng của Mã Tốc Mã Tốc không chết nhất định trở thành cánh tay đắc lực của ông ta, nhất định có thể giúp ông ta đối phó với một số người như Lý Nghiêm,… Nhưng ngày hôm nay nếu như không chết, rất có thể địa vị của ông ta trong tập đoàn Kinh Tương sẽ bị lung lay. Giết chết Mã Tốc cũng giống như chặt đứt một cánh tay của ông ta. Lúc đó nội tâm của ông ta cực kì phức tạp mâu thuẫn, làm sao ông ta không thương tâm cho được?

Lần thứ ba là sau khi nhìn thấy thủ cấp của Mã Tốc, Không Minh lại không nén nổi sự đau đớn nội tâm, khóc lớn không thôi. Lúc này Tưởng Uyển vẫn ngoan cường hỏi: "Nay kẻ ấu trĩ thường mắc tội, đã xử theo quân pháp, thừa tướng hà cớ gì phải khóc?". Đây là lần đâu tiên Khổng Minh nghĩ tới thất bại do việc mình dùng người không đúng gây ra, và lại sai lầm này là không thể thông cảm được. Gia Cát Luợng từ sau khi Lưu Bị chết, gạt bỏ sự độc chiếm quyền bính của Lý Nghiêm, ….

Gia Cát Lượng khóc Chu Du, khóc Mã Tốc là giả nhân nghĩa lấy lòng người, vừa ăn cướp vừa la làng. Là một kẻ đầy mưu mẹo trên chính trường, ông ta rất giỏi vận dụng những biểu tượng để ngụy trang cho chính mình. Tào Tháo ba lần cười cũng có ba lần khóc. Ông ta khóc lần thứ nhất là khóc toàn gia đình mình bị Đào Khiêm giết chết, ai không thương cha thương mẹ, Tào Tháo khóc, có thể nói là khóc một cách thực tâm. Lần thứ hai khóc là khóc Điển Vi. Năm đó, Tào Tháo dẫn quân thảo phạt Trương Tú, bị trúng kế của Trương Tú, thân bị bao vây. Điển Vi sau khi mơ thấy cảnh đó, tỉnh dậy đã "ra sức hướng về hành quân", đến chết cũng không lui, máu chảy đầy đất mà chết nhờ thế mà Tào Tháo thoát hiểm. Tào Tháo sau khi chỉnh đốn quân đội, đánh lui Trương Tú, lập tức làm lễ tế Điển Vi, tự thân mình khóc tế ông ta. Hai năm sau, Tào Tháo lại dẫn quân tới Uyển Thành tấn công Trương Tú, Tào Tháo đột nhiên khóc lớn, còn nói, ta từng đau đớn mất con trưởng, cháu yêu, nhưng ta chỉ khóc đại tướng Điển Vi của ta. Đây cũng là lần Tào Tháo khóc để lấy lòng người. Lần thứ ba khóc là khóc Quách Gia sau thất bại trong trận Xích Bích, "Nếu có Phụng Hiếu ở đây, ta đã không cô độc đến thế này". Lần khóc này là để che đậy cho sai lầm của bản thân mình cũng là trách mắng bọn mưu sĩ vô năng, đương nhiên ông ta không quên rẳng Tuân Húc từng nhắc nhở ông ta về kế trá hàng, kế liên hoàn của Đông Ngô và cả chuyện gió Đông nữa! nhưng là do Tào Tháo không nghe. Lần khóc này là sự che đây ngụy trang cho sai lầm của bản thân ông ta mà cũng là bộc lộ sự gian xảo giả dối của ông ta.

Tập Tạp Xỉ bình Gia Cát Lượng nói: "Vì thiên hạ chủ trì đại cục, muốn đại thu lực vật mà không lượng tài năng mà nhậm trọng trách, theo tài phó nghiệp; biết đó là một lỗi nặng, không tuân sự nhắc nhở của minh chủ, giết người hữu ích, thật khó mà gọi là người có trí được vậy". Tập Tạp Xỉ cho rằng Gia Cát Lượng không đủ để gọi là người có trí nhưng ông ta không nhìn thấy rằng tuy Gia Cát Lượng tuy không phải là người có trí nhưng mà ông ta là bậc có mưu. Chỉ nhìn mấy lần ông ta dùng nước mắt để tạo ra cái thanh danh hiền thần hiếu tử cũng có thể thấy là đã đạt tới đỉnh cao của kẻ giết người không dao.

Trên thế giới vốn không có hận thù vô duyên vô cớ, cũng không có tình yêu vô duyên vô cớ. Là một con người có thất tình lục dục, phải sống trên trên cõi hồng trần tục thế, không cách nào thoát khỏi những hỷ nộ ai lạc do cuộc sống mang lại. Trong cuộc sống có khoái lạc, cũng có đau thương, bất tất phải cố ý tu sức cho bản thân mình chỉ cần dùng chân tâm, chân tính, chân cảm của bản thân thì có thể đối diện với cuộc sống, lớn tiếng mà khóc, lớn tiếng mà cười. Dùng cái chân tình biểu hiện cho chính mình, ấy mới có thể xem như là một con người./.

Tổng lược về Khổng Minh: Kẻ tiểu nhân cần thiết?

Lịch sử chân thực luôn bị che giấu dưới vô vàn lớp văn tự bị sửa chữa bị trích lược cùng những lần sách vở mục nát, có lẽ chúng ta sẽ vĩnh viễn không thể biết được chân tướng của nó. Thế nhưng, chúng ta cần phải phát hiện và cần có lòng dũng cảm để phát hiện, cùng gây dựng tái tạo sự chân thực của lịch sử. Chúng ta sẽ thử tìm hiểu sự thật lịch sử từ một góc nhìn khác, có thể kể tới như: Gia Cát Lượng là một nhà chính trị xuất sắc, lòng trung của ông với triều Thục Hán khiến người ta cảm khái. Nhưng là một quyền thần và chính khách tiêu biểu trên vũ đài chính trị và quân sự, ông chắc chắn không thể tránh khỏi việc phải chịu những chế ước, những quy tắc trong trò chơi chính trị. Ông không thể là một người không có khiếm khuyết và hoàn toàn trong sáng được. Vietimes xin giới thiệu một vài phần trích dịch từ cuốn sách "Sử trhuyết tân ngữ" (NXB Công ty xuất bản Hữu Nghị Trung Quốc) đi sâu khai thác chủ đề thú vị này.

Năm 223 SCN, Thục Hán Chiêu Liệt Đế Lưu Bị liên tiếp gặp phải những trắc trở trầm trọng, thành Kinh Châu, yết hầu trọng yếu vùng Trung bộ bị thúc thủ sau đợt tập kích kìm kẹp của Tào Nguỵ và Đông Ngô, rồi đến Quan Vũ, Trương Phi những đại tướng tâm phúc cũng nối nhau bỏ mạng. Lưu Bị thân chinh đem quân đi chinh chiến, thất bại trong trận Di Lăng phải rút lui, cuối cùng cũng chết bệnh tại thành Bạch Đế.

Lúc trọng bệnh nguy ngập, Lưu Bị triệu vời Thừa tướng Gia Cát Lượng, Thượng thư lệnh Lý Nghiêm gửi gắm hai người phò tá con là Lưu Thiện. Giữa Lưu Bị và Gia Cát Lượng đã từng có một đoạn đối thoại, theo ghi chép từ "Tam quốc chí", "Thục thư" và "Gia Cát Lượng truyện" ghi lại: "Mùa xuân năm thứ 3 Chương Vũ, tiên chủ lâm bệnh ở Vĩnh An, Triệu Lượng từ Thành Đô tới, những chuyện hậu sự về sau, dặn Lượng rằng: "Ngươi tài gấp 10 phần Tào Phi, ắt trị được nước, định đoạt đại cục. Nếu con ta có thể phò trợ được, hãy giúp nó; nếu nó quả tình bất tài, ngươi có thể tự thay mình vào". Lượng đổ lệ mà rằng: "Thần những muốn kiệt cùng tận lực, bảo tồn tiết khí trung trinh, đến chết mới thôi!” Tiên chủ lại hạ chiếu cho hậu chủ rằng, “Mi cùng với thừa tướng tòng sự, nhớ phải đối đãi ngài như cha!”

Đoạn đối thoại này cùng những chuyện về sau đã trở thành giai thoại thiên cổ về nghĩa cử quân thần trung trinh nương dựa "tại Bạch Đế gửi gắm con côi " mà người đời sau vẫn thích nhắc tới. Đoạn đối thoại này, lại đi kèm thêm "xuất sư biểu" do Gia Cát Lượng lập nhân lúc Bắc phạt, từ trước tới giờ vẫn luôn được coi là điển cố thực chứng tôn sùng Gia Cát Lượng là bậc "thiên cổ đệ nhất thần".

Về việc này, tôi lại có cách nghĩ khác.

Gia Cát Lượng, là một nhân vật theo đuổi thuật Thân Hàn (Thân Bất Hại – Hàn Phi Tử) của phái Pháp gia giữa thời loạn thế, con người ấy không có điểm nào khiêm cung như những bậc tao khách văn nhân vẫn thường được miêu tả mà là một chính trị gia luôn hiểu rõ thời cơ nắm chặt quyền lực và thực lực, vào thời điểm then chốt không bao giờ nương tay với bất cứ ai. Vương chủ thứ hai của ông ta – Lưu Thiện hay bất kỳ đại thần nào trong ngoài triều tới đông đảo dân chúng đều không có ngoại lệ.

Chúng ta xét tích " tại Bạch Đế gửi gắm con côi" trước nhất.

Tại Bạch Đế gửi gắm con côi, câu nói của Lưu Bị với Gia Cát Lượng "ngươi tài gấp 10 phần Tào Phi, ắt trị được nước, định đoạt đại cục. Nếu con ta có thể phò trợ được, hãy giúp nó; nếu nó quả tình bất tài, ngươi có thể tự thay mình vào" cùng hình tượng "cung kính nghiêm cẩn, nhất nhất một lòng" của Gia Cát Lượng về sau này vừa không phải do Lưu Bị phát kiến ra mà cũng chẳng phải chỉ xảy đến với một mình Gia Cát Lượng. Chẳng cần nói xa xôi, vào đầu thời kỳ Tam Quốc, người sáng lập triều Đông Ngô Tôn Sách lúc lâm chung đã từng được ghi lại tích truyện như vậy. "Tam Quốc chí", "Ngô thư", "Trương Chiếu truyện" có viết: "Sách nói với Chiếu: "Nếu Trọng Mưu không gánh vác được, ngươi hãy tự đứng ra đảm đương thay nó. Tấn công trực diện lần nữa mà không thắng thì trở lui chậm về phía Tây, không có điều gì phải lo lắng". Trương Chiêu trên dâng biểu tấu với nhà Hán, dưới dời Chúc Thành, các tướng lĩnh trong ngoài đều được lệnh riêng. Tôn Quyền vì đau khổ còn chưa rõ rành sự việc, Trương Chiều bèn thân chinh đỡ Quyền lên ngựa, bày binh mà ra trận, sau rồi lòng dân đều theo về.”

Lúc bấy giờ, Tôn Quyền tuổi mới tầm 19 còn Lưu Thiện 17 tuổi đã lên ngôi, tuổi đời xấp xỉ nhau. Nhưng khi Tôn Sách băng, quân phiệt cát cứ khắp nơi đang hỗn chiến, Tôn Sách thừa cơ Đông chinh Tây chiến để mở rộng lực lượng nhưng thế lực của ông ta không được củng cố thêm bao nhiêu, rõ ràng không thể so sánh với chính quyền Thục Hán căn cơ ổn định. Vậy nên một loạt những động thái mà Tôn Sách dặn dò Trương Chiêu lúc lâm chung còn trọng yếu hơn nhiều những gì Lưu Bị "gửi gắm con côi" lại cho Gia Cát Lượng. Nói về địa vị, địa vị của Trương Chiếu ở Đông Ngô càng không thể tôn quý như của Gia Cát Lượng ở Thục Hán. Về mặt lịch đại, Tôn – Trương cũng là người đi trước, những kẻ hậu thế chỉ thấy nhắc tới Chiếu Liệt, Khổng Minh mà bỏ qua Hoàn Vương, Tử Bố (Trương Chiêu) rõ ràng không phải bởi không nhớ nổi những việc xưa ấy mà nghĩa cử đẹp nức lòng người ấy e chỉ mang dụng ý tô đẹp hình tượng Khổng Minh. Bởi thế nên nói một cách chân thành, việc ấy chẳng có gì đáng tâm đắc biểu dương cả, nếu muốn nêu gương thì phải nói tới Tôn Sách cùng Trương Chiêu mới phải lẽ.

Mặt khác, vào thời điểm Lưu Bị gửi gắm ở Bạch Đế cũng đâu chỉ có cho vời mỗi Gia Cát Lượng mà còn có cả Lý Nghiêm bên cạnh. Lưu Bị có thể triệu vời Gia Cát Lượng từ tận Thành Đô về để gửi gắm, điều đó cho thấy ông đã có đủ thời gian để suy xét và xử lý vấn đề này. Vậy nên khi gửi gắm lại cho hai người cũng không chỉ vì lý do Lý Nghiêm đang tiện ở cạnh mình mà chắc chắn là đã suy xét thật chín, thậm chí có thể nói là đã phải vắt kiệt tâm can mà quyết như vậy.

Chúng ta biết rằng, chính quyền Thục Hán có nền tảng chủ yếu do 3 tập đoàn thế lực hợp thành: tập đoàn Kinh Sở con cháu chính thất Lưu Bị chiếm địa vị chủ đạo; tập đoàn Đông Châu của Lưu Chương, thứ sử Ích Châu ngày trước; tập đoàn Ích Châu của địa chủ trong vùng. Tập đoàn Ích Châu kể từ thời kỳ của Lưu Chương đã không còn chiếm vị trí quan trọng trong đường chính sự, luôn ở vào thế bồi thuộc, không đáng ngại. Về điểm này, chúng ta xem trong truyện ký "Tam quốc chí" có thể thấy được ngay, Thục Hán nếu trừ đi các thành viên của vương thất, các nhân tài chí sỹ trong phần liệt truyện có 19 người, chiếm 1/3 nhân vật, lại chẳng có lấy một ai là quan thần đại triều mà chỉ là những quan nhàn thuộc lớp thị lang hay quan lại hạ cấp. Do vậy cần phải suy xét tới vẫn là những vấn đề về tập đoàn Kinh Châu và Đông Châu.

Mất yếu điểm chiến lược Kinh Châu; Quan Vũ, Trương Phi lần lượt bại vong rồi trận chiến Di Lăng, một loạt những sự kiện ấy khiến tập đoàn Kinh Sở vấp phải những mất mát to lớn. Trong lúc ấy Lưu Bị bệnh nặng bất xuất, tất nhiên sẽ nghĩ tới cảnh thân mình một khi chẳng còn thì mâu thuẫn giữa 3 tập đoàn này và việc củng cố chính quyền Thục Hán sẽ ra sao. Chúng ta cũng có lý do để tin rằng ông không hoàn toàn tin cậy Gia Cát Lượng và không có những suy xét tính toán riêng.

"Ngươi tài gấp 10 phần Tào Phi, ắt trị được nước, định đoạt đại cục. Nếu con ta có thể phò trợ được, hãy giúp nó; nếu nó quả tình bất tài, ngươi có thể tự thay mình vào", Lưu Bị tuy đã dốc hết gan ruột mình như vậy thì Gia Cát Lượng cũng chỉ còn cách "khóc ròng mà thưa": "Thần những muốn kiệt cùng tận lực, bảo tồn tiết khí trung trinh, đến chết mới thôi!". Thái độ này cho thấy rõ ông ta chỉ dám tận trung tới chết chứ không dám thay mình vào. Dù có thế nào, vào thời kỳ ấy ông ta không thể nào nhanh nhảu mà trả lời một tiếng "vâng" được cả. Nhưng nếu như vậy, nếu quả ngày sau Lưu Thiện không đủ tài lực và Gia Cát Lượng thực sự muốn thay mình vào chỗ ấy thì ông ta sẽ mang tiếng xấu phò tá bất lực, nuốt lời phản chúa. Chính trị, dư luận và cả lòng dân cũng sẽ lưu tội danh "bất thần bất trung bất nghĩa" muôn thuở, rồi bởi thế sẽ đẩy ôg ta vào cảnh bất chốn dung thân. Cho nên Lưu Bị nói lời ấy chẳng nên xét là tin cậy và gửi gắm mà nên xem là một sách lược uy hiếp chế ngự, hay một mưu quyền bất đắc dĩ nội nắm ngoại buông.

Một nhân vật quan trọng khác là Lý Nghiêm, vào thời Lưu Chương là nhân vật nổi trội trong tập đoàn Đông Châu. Từ sau khi Lưu Bị vào làm chủ Thành Đô, Lý Nghiêm đã nhiều lần bình định được những cuộc phản loạn lớn chỉ với một thiểu số binh lực, qua đó đã thể hiện được khả năng chính trị và quân sự xuất sắc của mình. So ra mà nói, Gia Cát Lượng chỉ thi triển được tài năng xuất chúng trong chính trị và ngoại giao chứ về quân sự thì không hề có cơ hội lập công. Do vậy Lưu Bị đã quyết định sáng suốt thế này: "Nghiêm và Gia Cát Lượng cùng thụ di chiếu phò Thiếu chủ; Nghiêm giám hộ Trung Đô, thống lĩnh việc quân trong ngoài" (1).

Trên thực tế, một năm trước khi Lưu Bị lâm chung, năm Chương Vũ thứ 2, thì đã phong Lý Nghiêm làm Thượng Thư lệnh, xét về bậc phẩm thì ngang hàng với Gia Cát Lượng. Gia Cát Lượng lo việc của Thừa tướng, Lý Nghiêm nắm việc quân sự trong ngoài, sự phối hợp này vừa khéo để hai người chế ước cân bằng lẫn nhau tránh lộng quyền. Xem xét từ sự phân phối thực quyền và kết cấu của cơ cấu quyền lực chính quyền nhà Thục Hán cũng làm chúng ta tin rằng người mà Lưu Bị phải phòng tránh lộng quyền, càng không thể là người không chiếm địa vị hàng đầu trong tập đoàn chủ đạo và trong trung tâm quyền lực thời bấy giờ như Lý Nghiêm. Chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi, việc thăng cho Lý Nghiêm từ vị trí một quan lại địa phương là Thái thú Kiền Vi lên tới chức Thượng Thư lệnh, lại thêm xuất phát từ sự thăng tiến về chính trị và cơ sở vốn có đã đưa Lý Nghiêm trở thành đại diện của tập đoàn Đông Châu trên thực tế. Sự thực này đã cho thấy Lưu Bị đối với Lý Nghiêm chỉ là cố chế ngự chứ không phải là đề phòng. Lưu Bị nâng chức nhanh như vậy, một anh kiệt mới chưa từng thâm nhập được vào trung tâm quyền lực như Lý Nghiêm lại trở thành một trong hai trọng thần được gửi gắm, lại còn được lệnh "thống lĩnh việc quân trong ngoài", liên hệ với cách nói "ngươi có thể tự thay mình vào" rõ ràng mục tiêu Lưu Bị phải phòng bị, chế ngự là Gia Cát Lượng là điều không có gì phải bàn cãi.


Nhưng mặt khác, một bậc Quân vương như Lưu Bị chắc chắn cũng hi vọng hai người bọn họ có thể toàn tâm hợp lực củng cố vương quyền. Vừa vặn Lý Nghiêm ngoài những ưu thế vừa kể còn có một điều kiện thuận lợi khác, đó là ông là người Nam Dương, "có gốc gác cùng với ông Gia Cát lưu khách từ Từ quận". Vậy nên Lưu Bị hi vọng hai người này có thể tăng thêm khả năng hiệp trợ ràng buộc, nhờ đó thông qua sự hợp tác của hai nhân vật đứng đầu hai tập đoàn lớn để điều tiết hai tập đoàn, ứng phó với những nguy hiểm có thể lường trước và nhất định sẽ xảy đến một khi Lưu Bị qua đời, hòng củng cố hơn nữa chính quyền Thục Hán.

Đáng tiếc là, tính cách và chí hướng nhất quán của Gia Cát Lượng khiến ông ta không thể xét tới Lý Nghiêm và việc cùng Lý Nghiêm phân chia quyền lực, thậm chí đến việc Lý Nghiêm len vào được Thành Đô – trung tâm cơ cấu quyền lực chính trị ông ta cũng bất mãn khôn cùng.

Nếu chúng ta không phải những người ngây ngô mà tích cực nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, thì ngay từ thiên "Xuất sư biểu" mà hậu thế vẫn tôn sùng Gia Cát Lượng cũng có thể cảm nhận sâu sắc được đại quyền độc tôn, khuynh đảo triều chính của Gia Cát Lượng lúc bấy giờ. Thấy rõ rằng, ông ta dắt bước chỉ tay từng hành động của hậu chủ Lưu Thiền, thậm chí còn uy hiếp Lưu Thiền. Đồng thời từ thiên biểu đó ta thấy rõ trong lòng ông ta vẫn còn rất nhiều điều phải ưu . Mặt khác, chúng ta cũng có thể qua đó để hiểu rõ cuộc đấu tranh quyền lực khốc liệt trong triều đình Thục Hán lúc bấy giờ.

Hai trọng thần được gửi gắm, xét theo khía cạnh nào cũng đều phải đóng trụ tại Thành Đô, nhất là cỡ tư lệnh tam quân "thống lĩnh việc quân trong ngoài" như Lý Nghiêm. Đặt giả sử sau khi Lưu Bị chết,Thục Hán lâm vào thế cục đối địch với Đông Ngô thì việc Lý Nghiêm lưu tại Vĩnh An là chuyện tất yếu. Nhưng sau khi Thục Hán cùng Đông Ngô "Ngô vương Tôn Quyền cùng nhà Thục cho quan sang sứ, năm ấy qua lại tốt đẹp" (4) vào năm Kiến Nguyên thứ nhất, nếu vẫn để Lý Nghiêm, trọng thần đã được ủy thác thống lĩnh việc quân trong ngoài", mọi mặt đều được xếp ngang hàng cùng Gia Cát Lượng tiếp tục ở tại Vĩnh An vùng tiếp giáp với Đông Ngô rõ ràng sẽ gây dị nghị. Nhưng trong tình hình như vậy, vào mùa xuân năm Kiến Hưng thứ tư, Lý Nghiêm lại phải đốc tới thành Giang Châu, tuyến thành trì thứ hai để giáp mặt với Đông Ngô, trước sau vẫn chưa thể về Thành Đô – thủ đô trung tâm quyền lực chính trị.

Là người dạn dày giữa chốn quan trường mấy mươi năm, lại có tài lược chính trị quân sự, Lý Nghiêm không thể không hiểu rõ mặt trái của việc ở xa trung tâm quyền lực chính trị. Càng xa rời tập đoàn quan lại của giai cấp thống trị thì sức ảnh hưởng chính trị sẽ càng bị suy giảm, rốt cuộc sẽ dần bị người ta quên lãng.

Lại rõ rằng ông không hề tơ tưởng việc tự mình xưng bá một phương nên không có lý nào ông lại tự nguyện xin đi Giang Châu. Xét những hành động sau này ông từng "trùng tu thành lớn, trong vòng 60 dặm… xin về Ba Châu làm vương quận, Thừa tướng Gia Cát Lượng không cho"(3), ta thấy rõ ông rất muốn đứng vào giữa trung tâm quyền lực.

Chỉ bởi đã biết không thể vào được Thành Đô nên đành chỉ dám xin "lấy Ba Châu làm vương quận", tin chắc rằng ông cũng hiểu rõ khả năng được như vậy thấp như thế nào, do vẫy có thể đó chỉ là một cách để ông biểu lộ sự bất mãn mà thôi.

Dù thế nào thì, những việc này đều có thể cho thấy ông không phải tự nguyện xa khỏi Thành Đô, bức được ông phải làm việc ấy, trong cả nước Thục duy chỉ có mình ông Gia Cát là làm được vậy mà thôi.

Tên gọi hậu thế dành cho hai người này vẫn là "cố mệnh đại thần", nghĩa là dù xét về chức quan, địa vị chính trị hay phân phối quyền lực cũng cần phải ngang hàng về cơ bản. Nhưng trên thực tế từ ngày Gia Cát Lượng đưa linh cữu Lưu Bị về Thành Đô thì Lý Nghiêm đã bị gạt sang một bên:

"Kiến Hưng nguyên niên, phong Lượng làm Vũ Hương Hầu, lập phủ quản chính sự. Không lâu sau, lại cai quản luôn cả Ích Châu. Chính sự không phân việc lớn nhỏ đều nằm gọn về mối Lượng". (Tam Quốc chí, Thục Thư, Gia Cát Lượng truyện)

"Kiến Hưng nguyên niên, phong (Lý Nghiêm làm Đô Hương Hầu, Giả Tiết, thêm cả Quang Lục Huân" (Tam quốc chí, Thục Thư, Lý Nghiêm truyện)


Cùng là trọng thần được gửi gắm, Gia Cát Lượng trước đó đã là Giả Tiết, nay được tấn phong là Hương Hầu, được lập phủ, hưởng lộc đất Ích Châu. Tất cả những chi tiết đó mang ý nghĩa rằng ông ta có thể xin với triều đình lập quan lại trong phủ, là đại quan chính trị quân sự cao nhất của Ích Châu, nắm chắc thực quyền trong tay. Trong khi ấy, Lý Nghiêm tuy cũng được tấn phong Hương Hầu, Giả Tiết nhưng vẫn chỉ thêm được cái hư vị Quang Lục Huân, so ra mà xét, rõ ràng bị yếu thế đi nhiều.

Nếu chúng ta không phải những người ngây ngô mà tích cực nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, thì ngay từ thiên "Xuất sư biểu" mà hậu thế vẫn tôn sùng Gia Cát Lượng cũng có thể cảm nhận sâu sắc được đại quyền độc tôn, khuynh đảo triều chính của Gia Cát Lượng lúc bấy giờ. Thấy rõ rằng, ông ta dắt bước chỉ tay từng hành động của hậu chủ Lưu Thiền, thậm chí còn uy hiếp Lưu Thiền. Đồng thời từ thiên biểu đó ta thấy trong lòng ông ta vẫn còn rất nhiều điều phải ưu . Mặt khác, chúng ta cũng có thể qua đó mà hiểu được cuộc đấu tranh quyền lực khốc liệt trong triều đình Thục Hán lúc bấy giờ.

Trong "Xuất sư biểu", ông ta đề cập trước nhất chuyện trước mắt là mùa thu nguy cấp sống còn, tình thế khó khăn rồi chuyển đoạn viết thành: "dốc lòng mở mang thánh đức, làm rạng ngời di đức của tiên đế, xốc lại tinh thần của chí sỹ, không nên coi thường bản thân, nói ra những lời không xác đáng ngăn trở chúng thần biểu lộ lòng trung nghĩa. Nội cung nội phủ hợp thành một, thưởng phạt phân minh, không được để khác biệt. Nếu có kẻ gây tội hay người trung hiếu thì tuỳ nghi mà luận thưởng phạt theo lý xét phân minh của bệ hạ, không được nương tay làm cho hình pháp trong ngoài không giống nhau".

"Nội cung nội phủ hợp nhất, thưởng phạt phân minh, không được để khác biệt", câu nói này đã đưa "nội cung" của Lưu Thiền hợp với "nội phủ" của Gia Cát thành "một thể hợp nhất", cung thất hoàng đế đồng đẳng với phủ đệ thừa tướng.

Sau đó lại nói "nếu có kẻ gây tội hay người trung hiếu thì tuỳ nghi mà luận thưởng phạt theo lý xét phân minh của bệ hạ, không được giảm nhẹ làm cho hình pháp trong ngoài không giống nhau", chẳng qua là một cách yêu cầu rõ ràng hơn nữa, đòi Lưu Thiền đem mọi sự biến tình hình trong cung phải giao lại cho mạc phủ mà ông ta sẽ "lập phủ" ra để cai quản, không cần dùng tới cơ chế quản lý trong cung nữa.

Nếu Lưu Thiền không đồng tình thì há chẳng phải đã thành ra "hình pháp trong ngoài không giống nhau" rồi  hay sao, làm vậy thì "bệ hạ" nhà anh sẽ rước vào những hiềm nghi không "mở mang thánh đức", không "làm rạng ngời di đức của thiên đế, xốc lại tinh thần của chí sỹ", "coi thường bản thân, nói ra những lời không xác đáng ngăn trở chúng thần biểu lộ lòng trung nghĩa", "nương tay" lại còn không "phân minh".

Tôi tin rằng sau khi đọc hết chừng ấy tội trạng sẽ sản sinh nếu không đồng tình mà Gia Cát Lượng liệt ra, Lưu Thiền ắt hẳn không dám không thuận theo. Những lời này càng giống như một vị thượng cấp giáo huấn thuộc hạ chứ đâu còn là lời của quần thần với hoàng đế. Ấy thế mà những lời ấy lại khiến Gia Cát Lượng được hậu thế tung hô là thiên cổ đệ nhất thần, l�! � bậc thần tử "nhất thân duy cẩn thận", chẳng lẽ không phải là kỳ lạ hay sao?

Chỉ có điều Gia Cát Lượng cảm thấy chừng ấy vẫn là chưa đủ, sau khi đòi Lưu Thiền chuyển tất cả những sự việc triều chính giao cho mạc phủ của ông ta để xử lý, Gia Cát Lượng còn tiến cử Hướng Sủng tướng quân "để đôn đốc", nắm quyền cai quản Cận vệ quân của kinh sư, truyền lệnh chỉ cần "việc trong cung đều cần coi sóc giúp ắt có thể khiến đạo đời hoà hợp, ưu việt vạn phần".

Trước đó, nắm chức đầu lĩnh Cận vệ quân bảo vệ hoàng đế là Triệu Vân tâm phúc của Lưu Bị, Lưu Bị coi Triệu Vân là "nghiêm cẩn trọng yếu, tất có khả năng chỉnh trị, đặc trách nắm nội sự". Sau khi vào Thành Đô thăng lên làm tướng quân Dực quân, Dực – cũng là Vệ, trước sau vẫn là thống lĩnh cai quản an nguy sát sườn Lưu Bị. Vậy mà lúc bấy giờ, Gia Cát Lượng lại điều Triệu Vân xuất chinh, đổi vị trí ấy cho Hướng Sủng là người mình đã tiến cử nâng đỡ.

Tuy xét từ một khía cạnh nào đó, việc này cũng là để tận dụng hết sở dụng của Triệu Vân nhưng khi liên hệ với ngữ nghĩa và tình hình lúc bấy giờ trước và sau "xuất sư biểu" thì không thể nói việc này không tiềm ẩn những mục đích khác. "Nếu có kẻ gây tội hay người trung hiếu thì tuỳ nghi mà luận thưởng phạt theo lý xét phân minh của bệ hạ, không được nương tay làm cho hình pháp trong ngoài không giống nhau", câu nói này rõ rằng có hàm ý, chỉ có điều rốt cuộc đang nói tới ai thì trong thời hiện tại này chúng ta tuy không thể nào biết được, có điều cũng nhân đó mà ta phải phục cái kế không lập sử qu! an của Gia Cát.

Nhắc tới chuyện lập sử quan, chúng ta lại thấy có vấn đề. Tôi nghĩ với một người "làm chính trị thiện nghệ", có tư duy cẩn toàn lại có tác phong cẩn trọng "đánh hơn 20 gậy là phải đích thân xét quyết" như Gia Cát Lượng không thể nào không biết đến những cái hại của việc không lập sử quan.

Hậu quả trực tiếp nhất của việc "nước không có sử quan" ấy là sau khi Thục mất tuy Trần Thọ là đệ tử của Tiếu Chu sử gia nổi danh bậc nhất đời Thục Hán, trong bối cảnh người lúc bấy giờ sửa chữa sử sách, phụng mệnh biên sửa lại "Tam Quốc chí" thì trong đó chỉ có phần Thục thư do "sự vụ lắm mối, bỏ những sách coi là xa xỉ dị kiến", những tư liệu các loại thiếu hụt trầm trọng khiến cho rất nhiều nhân vật nổi tiếng và quan trọng không thể dựng thành liệt truyện riêng, cuối cùng chỉ mới sửa được một cuốn thì đã hết cách (5).

Lại giả dụ khi còn trong tay Lưu Bị, do Thục Hán mới được lập nên, không tính xét được đến việc ấy thì trong một khoảng thời gian dài đương chính của Lưu Thiền, chính quyền ổn định vững chắc thì việc ấy càng cần phải được đề cao. Thêm vào bối cảnh có trong tay vô số nhân tài văn sử kiệt xuất như Lưu Ba, Tần Mật, Tiếu Chu, Hứa Tĩnh…, tự xưng là triều truyền thừa chính tông của nhà Hán mà triều Thục Hán lại vẫn "nước không có sử quan". Ngần ấy việc làm sao có thể giải thích thông lọt bằng sai sót giản đơn "cũng còn có chỗ chưa chu toàn", mà nếu từ khía cảnh "sự vụ lắm m�! ��i" xét ra thì càng làm người ta nghi hoặc mục đích thực sự của việc "nước không có sử quan" này.

Gia Cát Lượng ngoài việc đưa ra những "kiến nghị" mà Lưu Thiền không thể không đồng thuận theo như vậy tất nhiên cũng không quên thu xếp nhân sự chuẩn bị cho việc ông ta rời khỏi Thành Đô bắc phạt. "Thị trung, thị lang Quách Tu Chi, Phí Vĩ, Đổng Duẫn thảy đều dùng được, chí khí trung thuận, được tiên vương di chiếu lại phụng sự bệ hạ. Ngu thần đem những việc trong cung không phân lớn nhỏ đều nghe xét ý quần thần rồi đem thi hành tất có thể bổ khuyết chỗ bất túc, có ích lắm lắm… Thân hiền thần, xa tiểu nhân, ấy là cách Tiên Hán hưng vượng; thân tiểu nhân, xa hiền thần, ấy là cách Hậu Hán khuynh đảo. Ngày Tiên vương còn, mỗi lần cùng thần luận bàn tới việc này đều không đừng được căm hận Hằng Đế, Linh Đế. Thị trung, Thượng thư, Trưởng sử, Tham quân, những đại thần tiết tháo trung trinh này xin bệ hạ gần với họ tin lấy họ thì nhà Hán hưng vượng chỉ còn tính theo ngày mà thôi".

Khổng Minh có biết Lưu Bị không tin mình?

Vào năm Kiến Hưng thứ nhất, Gia Cát Lượng sớm đã "lập phủ quản chính sự, không lâu sau, lĩnh quản Ích Châu", từ sau đó "chính sự không phân lớn nhỏ đều thu về mối Lượng quyết cả". Là Thượng Thư lệnh chỉ xếp sau Gia Cát Lượng, lại là một trong hai trọng thần được gửi gắm, Lý Nghiêm chỉ được cái danh hão Quang Lộc Huân, lại bị điều đi Giang Châu xa xôi, hậu quả thực sự của việc này đã dẫn tới việc vắng bóng hoàn toàn vai trò của Lý Nghiêm trong một chiến dịch quân sự lớn như cuộc Bắc phạt lần này.

Chúng ta có thể phát hiện được rằng, Gia Cát Lượng đề xuất một khi ông ta đi khỏi Thành Đô thì hậu chủ "thị trung, thị lang Quách Tu Chi, Phí Vĩ, Đổng Duẫn thảy đều dùng được, chí khí trung thuận, được tiên vương di chiếu lại phụng sự bệ hạ. Ngu thần đem những việc trong cung không phân lớn nhỏ đều nghe xét ý quần thần rồi đem thi hành tất có thể bổ khuyết chỗ bất túc , có ích lắm lắm…", hết thảy số ấy không trừ một ai là cốt cán của tập đoàn Kinh Sở, không có bất cứ một nhân sỹ nào của Đông Châu hay Ích Châu. Đặc biệt là Lý Nghiêm, là trọng thần được gửi gắm ngang cơ Gia Cát Lượng như thế, "thống lĩnh việc quân trong ngoài", Thượng thư lệnh đương triều vậy mà trong kế hoạch Bắc phạt đại sự liên quan tới quốc kế dân sinh này lại không hề có cơ hội lên tiếng.

Khi Gia Cát Lượng không ở đó, theo lí mà xét cũng phải do ông chủ trì chính trị trong triều vậy mà trong biểu chương xin đi Bắc phạt, thu xếp nhân sự chủ trì công việc trong triều sau khi đi Bắc phạt của Gia Cát Lượng lại không hề nhắc một chữ nào tới Nghiêm. Dù xét từ khía cạnh nào, đây cũng là một việc không bình thường. Cái Gia Cát Lượng gọi là "thân với hiền thần" thì những nhân sỹ trong tập đoàn Kinh Sở như Quách Du Chi, Phí Vĩ, Đổng Duẫn, Hướng Sủng … tuy quả là hiền thần thực nhưng nói đi thì nói lại, Lý Nghiêm, Phí Quan, Hà Tông, Vương Mưu (6)… chẳng lẽ không phải là hiền thần hay sao. Hơn thế họ cũng không là đại thần được gửi gắm thì cũng là đại thần phẩm cấp cửu khanh, ch! ỉ xét về thứ bậc thôi cũng đã cao hơn nhiều những vị thị trung, thị lang. Không nêu ra họ nói tình nói lý gì cũng chẳng thông, cho nên Gia Cát Lượng làm vậy chắc chắn không phải là ngẫu nhiên.

Trong lòng Gia Cát Lượng, ông ta trước sau gì đều đặt mình ở vị trí tối thượng, coi thường người khác, luôn cho rằng Thục Hán đến khi ông ta "ngày không còn thân này nữa thì khó lòng bước tới Trung Nguyên, tranh hùng cùng nước lớn" (7). Cũng có lý do để tin rằng ông ta nắm rất rõ mục đích của Lưu Bị xếp Lý Nghiêm cùng ông ta phò tá Lưu Thiền là để lợi dụng Lý Nghiêm mà chế ước ông ta. Do vậy, để đảo bảm sự thao túng của ông ta trong chính quyền Thục Hán, ông ta quyết không cho phép người có thể uy hiếp mình về mặt chính trị như Lý Nghiêm bước vào trung tâm quyền lực và nắm thực quyền quân sự. Đó là vì sao ngoài việc ông ta luôn ngăn trở Lý Nghiêm vào Thành Đô, ông ta đã sớm ra tay dấn thêm một bước nữa làm giảm thực quyền của Lý Nghiêm trước khi Bắc phạt.

Như trên tôi đã nói, trước Bắc phạt, Gia Cát Lượng không có cơ hội thi triển tài trí quân sự của mình mà chỉ mãi gắn với tài hoa trong chính trị và ngoại giao. Cuộc nam chinh vừa kết thúc, do đối thủ chỉ được coi là những dân tộc thiểu số man di nên cũng khôg mang lại cho ông ta nhiều tăm tiếng về quân sự. Sau khi ông ta phát động Bắc phạt, phản ứng của nước Nguỵ "coi ở nước Thục chỉ có Lưu Bị. Bị đã chết, bao nhiêu năm chẳng có động tĩnh gì, chẳng có gì là lạ" cũng đã cho thấy về cơ bản Tào Nguỵ không coi ông ta là một đối thủ quân sự đáng để lưu tâm. Do vậy Gia Cát Lượng phát động Bắc phạt, dù cố nhiên xuất phát từ yêu cầu chiến lược của chính quyền Thục Hán. Nhưng phải đối mặt với đối thủ như Lý Nghiêm giàu tài thao lược quân sự, lại là một trong hai trọng thần được gửi gắm, đối mặt cả với những thế lực chính trị không tâm phục khẩu phục ông ta, thì việc Bắc phạt còn là một nhu cầu quyết liệt về chính trị của cá nhân Gia Cát.

Trước Bắc phạt, Gia Cát Lượng từng lấy lý do sau khi Bắc phạt Hán Trung sẽ xuất hiện khoảng trống lực lượng quân sự mà đòi Lý Nghiêm phải điều đội quân đồn trú ở Giang Châu về Hán Trung. Giả dụ Lý Nghiêm quả có đi Hán Trung, rõ ràng quân đội của ông sẽ bị trưng tập, trở thành một nhánh trong đội quân Bắc phạt do Gia Cát Lượng thống soái, ông cũng sẽ trở thành một tướng lĩnh dưới trướng Gia Cát Lượng. Vậy thì những tư cách của vị đại thần được gửi gắm, được Lưu Bị phong cho "thống lĩnh việc quân trong ngoài", ngang hàng với Gia Cát sẽ bị xoá bỏ triệt để hết mọi địa vị và thực lực trong đối trọng với Gia Cát Lượng. Lý Nghiêm hiểu rõ hậu quả này hơn ai hết nên đã tìm mọi lý do cự tuyệt yêu cầu của Gia Cát Lượng. Về phần mình, trong việc xử lý vấn đề này, Gia Cát Lượng tỏ ra không đủ mạnh để cưỡng theo ý mình được. Bởi Giang Châu là trấn ở tuyến hai khu tiếp giáp giữa vùng Đông Thục Hán với Đông Ngô, Tào Nguỵ, quan trọng không kém vị trí của Hán Trung đối diện với thế lực của Tào Nguỵ phía Bắc, trong chuyện này, Gia Cát Lượng không có cách nào làm người khác tâm phục được, nhất định đòi bám riết lấy lý do đòi Lý Nghiêm và quân ở Giang Châu điều về Hán Trung.

Quá thừa kinh nghiệm chính trị, Lý Nghiêm lúc ấy không những cự tuyệt yêu cầu này của Gia Cát mà còn nhân dịp ấy phản kích lại. Ông thừa thế đòi gom 5 quận ở tuyến phía đông của Thục Hán là Ba, Ba Đông, Ba Tây, Bồi Lăng lại thành Ba Châu, giao cho ông làm Thứ sử.

Vào năm Kiến Hưng thứ nhất, Gia Cát Lượng sớm đã "lập phủ quản chính sự, không lâu sau, lĩnh quản Ích Châu", từ sau đó "chính sự không phân lớn nhỏ đều thu về mối Lượng quyết cả". Là Thượng Thư lệnh chỉ xếp sau Gia Cát Lượng, lại là một trong hai trọng thần được gửi gắm, Lý Nghiêm chỉ được cái danh hão Quang Lộc Huân, lại bị điều đi Giang Châu xa xôi, hậu quả thực sự của việc này đã dẫn tới việc vắng bóng hoàn toàn vai trò của Lý Nghiêm trong một chiến dịch quân sự lớn như cuộc Bắc phạt lần này.

Do vậy ông ta chủ ý làm vậy nhằm tỏ rõ sự bất mãn, hơn thế là đòi hỏi phải có được những lợi ích chính trị tương đương như "lĩnh quản Ích Châu" của Gia Cát Lượng, đòi phải làm Thứ sử Ba Châu. Thứ sử tức Châu mục, một khi quả tình có lập ra Ba Châu mà cho Lý Nghiêm làm Thứ sử thì đồng nghĩa với việc đặt toàn bộ vùng phía Đông Thục Hán vào phạm vi thế lực của Lý Nghiêm. Là một Thượng Thư lệnh, Lý Nghiêm lúc ấy sẽ ngang hàng phải lối với thừa tướng kiêm lĩnh lộc Ích Châu Gia Cát Lượng. Yêu cầu này của ông chiếu theo thân phận lúc bấy giờ cùng địa vị của ông trong chính quyền Thục Hán phải nói là rất xứng hợp, không có gì quá đáng cả. Chỉ có điều xét về phía Gia Cát Lượng thì không thể cho phép chuyện ấy diễn ra được. Có điều ông ta cũng không có cách nào nắm được Lý Nghiêm, chỉ đành làm lơ việc ấy không quyết, cũng không nhắc tới việc đòi Lý Nghiêm và quân của ông về Hán Trung. (8)

Lần đầu tiên dám phản bác lại việc người ta chèn ép mình, Lý Nghiêm đã để lộ tiếng nói công khai không hoà hợp lần đầu tiên giữa hai trọng thần của triều Thục Hán, điều này cũng khiến Gia Cát Lượng ý thức được địa vị của mình trong triều bị uy hiếp, thế lực của tập đoàn Đông Châu, Ích Châu là không thể xem nhẹ. Vậy nên Gia Cát Lượng trong "Xuất sư biểu" mới nêu một loạt những động thái thâm thuý khiến người ta phải nghiền ngẫm làm vậy, lại thêm những điều nói với Lưu Thiền như: "Thị trung, thị lang Quách Tu Chi, Phí Vĩ, Đổng Duẫn thảy đều dùng được, chí khí trung thuận, được tiên vương di chiếu lại phụng sự bệ hạ. Ngu thần đem những việc trong cung không phân lớn nhỏ đều nghe xét ý quần thần rồi đem thi hành tất có thể bổ khuyết chỗ bất túc , có ích lắm lắm…. Thân hiền thần, xa tiểu nhân, ấy là cách Tiên Hán hưng vượng; thân tiểu nhân, xa hiền thần, ấy là cách Hậu Hán khuynh đảo. Ngày Tiên vương còn, mỗi lần cùng thần luận bàn tới việc này đều không đừng được căm hận Hằng Đế, Linh Đế. Thị trung, Thượng thư, Trưởng sử, Tham quân, những đại thần tiết tháo trung trinh này xin bệ hạ gần với họ tin lấy họ thì nhà Hán hưng vượng chỉ còn tính theo ngày mà thôi". Câu nói này có mục đích và định hướng rõ ràng, chính là để có cách giải thích hợp lý, đồng thời qua đó cũng thể hiện sự đấu tranh trong nội bộ chính quyền Thục Hán đã bước vào giai đoạn quyết liệt.

Mùa xuân năm Kiến Hưng thứ 6, Cuộc Bắc phạt mà Gia Cát Lượng đã dày công hoạc định bao lâu nay cũng đã bắt đầu. Nhưng bởi tướng tiên phong Mã Tốc do Gia Cát Lượng đích thân chỉ định thiếu kinh nghiệm thực chiến trầm trọng nên chỉ vài đạo quân của đại quân "biết quyền biến, thiện chiến dạn dày, liệu địa hình chiến cuộc không gì không tỏ, từ Gia Cát trở đi đều phải e dè" (9) do một trong năm đại danh tướng của Tào Nguỵ là Trương Cáp đã dễ dàng đánh bại suốt một dải Nhai Đình, dẫn tới cuộc Bắc phạt lần đầu do Gia Cát vạch nên không chỉ thảm bại quay về không chút vinh quang thắng lợi mà còn gây nên những tổn thất nhất định.

Mã Tốc đại tướng tiên phong do đích thân Gia Cát Lượng phong lúc bấy giờ không giống như chuyện lưu truyền rộng rãi là đi tìm Gia Cát Lượng thỉnh tội mà sau khi thất bại trở về chọn cách sợ tội đào tẩu, sau rồi bị bắt về quy án. Gia Cát Lượng xử tội chết rồi, còn chưa kịp thi hành đã lâm bệnh rồi chết trong ngục. Mã Tốc đào tẩu còn dẫn tới việc Hướng Lang (thúc phụ Hướng Sủng), một cốt cán khác của tập đoàn Kinh Sở có quan hệ tốt với Mã Tốc do biết thông tin mà không trình báo, bị cách chức, sau rồi ưu nhàn tận những 20 năm ròng (về việc này có thể xem cuốn "Gia Cát Lượng không giết Mã Tốc"). Có thể nói thế này, lần Bắc phạt đầu thất bại khiến tập đoàn Kinh Sở cùng Gia Cát Lượng bắt đầu phải đối mặt với những vấn đề và trải nghiệm nghiêm trọng nhất kể từ sau khi Lưu Bị qua đời, khởi đầu mối nguy cơ lần này hoàn toàn là do Gia Cát Lượng quá cố chấp nhất nhất theo ý mình.

Về việc lựa chọn người tiên phong trong lần Bắc phạt lần này, Gia Cát Lượng đã tỏ rõ mặt cố chấp ngang ngược trong tính cách của ông ta. Trước khi Lưu Bị lâm chung có thể do biết quan hệ mật thiết giữa anh em Mã thị với Gia Cát Lượng nên từng nhắc nhở Gia Cát: "Mã Tốc nói không bằng làm, không thể dùng vào việc lớn, ngươi phải giám sát chặt!". Vậy mà Lưu Bị qua đời rồi, "Lượng lại đổi ngoắt, cho Tốc làm Tham quân, mỗi lần gọi vào bàn chính sự, suốt từ lúc trời sáng tới tận khuya". Có thể thấy Gia Cát Lượng không coi những lời cảnh báo của Lưu Bị ra gì, nói cho nghiêm trọng thì, việc làm này thậm chí có thể nói là một hành vi "phản chủ". Gia Cát Lượng cứ nhất nhất tự tác, bỏ không dùng những lão tướng như Nguỵ Diên, Ngô Nhất "bỏ để dùng Tốc", có thể thấy được sẽ khiến những người ấy bất bình đến mức nào. (10).

Nếu Bắc phạt thu được một vài chiến tích nhất định thì những vấn đề này sẽ chỉ như mây mờ khói ảo chẳng có gì quan trọng, nhưng lần Bắc phạt này lại phải thoái lui không một chiến tích, lại chịu những tổn thất khá nặng nề. Trong bối cảnh như vậy, những vấn đề này mới trở nên nghiêm trọng ngoài dự liệu.

Trước hết, Gia Cát Lượng phải đối mặt với những chất vấn của phe có thực quyền trong quân đội gồm Nguỵ Diên, Ngô Nhất…, tại sao tiên đế đã nói rõ ràng "Mã Tốc nói không bằng làm, không thể dùng vào việc lớn, ngươi phải giám sát chặt", ngươi đã bội phản lại ý chỉ của tiên đế, không dùng chúng ta mà còn "bỏ để dùng Tốc". Thứ nữa tất nhiến phải kể tới những lời cật vấn của những đối thủ chính trị trong triều như Lý Nghiêm.

Tập đoàn Đông Châu, Ích Châu tôn Lý Nghiêm làm đầu lĩnh, luôn phải chịu sự chèn ép bài trừ của tập đoàn Kinh Sở của Gia Cát Lượng. Trong cả quá trình Bắc phạt lần này, mang danh là đại thần được ký thác "thống lĩnh việc quân trong ngoài" mà Lý Nghiêm thậm chí còn không có một cơ hội nào để lên tiếng hay để trổ tài. Tuy ông không đến mức ngáng đường hay gây khó dễ cho cuộc Bắc phạt mà Gia Cát Lượng đã dày công hoạch định và chỉ huy lần này nhưng với một cơ hội hiếm có, có khả năng giúp vỗ mặt Gia Cát Lượng và tập đoàn Kinh Sở một phen như thế này, bọn họ chắc chắn không dễ gì bỏ qua mà nhất định sẽ thừa cơ để dâng tấu chương làm to chuyện.

Đối mặt với nguy cơ chính trị nghiêm trọng như vậy, Gia Cát Lượng một mặt tự biện bạch với Hậu chủ: "Thần tài hèn chẳng xứng, liều nắm quân quyền mà điều động ba quân, không thể giúp tỏ tường ý pháp, lúc lâm sự thì sợ hãi, đến cả thành Nhai Đình làm trái thánh ý, gây nên tổn thất dù đã cố ngăn chặn, mọi tội trạng đều vì thần không cách gì đảm đương được. Thần không biết nhìn người, xét việc u minh, tứ bề tội trạng xin chỉ để người đầu lĩnh này chịu, đáng lắm đáng lắm. Xin tự giáng xuống 3 cấp để tự răn mình". Rõ ràng ông ta cũng biết chỉ riêng những lời "không cách gì đảm đương", "không biết nhìn người" cũng không khác gì những lời chỉ trích của Lý Nghiêm hay thậm chí của Nguỵ Diên, Ngô Nhất. Do vậy một mặt Gia Cát Lượng còn cần một người gánh hộ những thất bại của cuộc Bắc phạt do ông ta chỉ huy lần này để cho mình một cơ hội thoát thân và cơ hội ấy rõ ràng chỉ có thể đến từ Mã Tốc. Vậy là rốt cục hậu quả chỉ có thể là "lôi Tốc ra chém chết trước thiên hạ", Gia Cát Lượng thì giáng xuống là Tả tướng quân nhưng vẫn như trước "làm việc của thừa tướng, thực quyền vẫn như trước" (11). Mã Tốc làm con dê tế thần, trở thành vật hi sinh cho cuộc đấu tranh quyền lực và chính trị lần này.

Gạt lệ chém Mã Tốc: Lòng Khổng Minh vui mừng khôn tả?

Những giọt nước mắt Gia Cát Lượng khóc Mã Tốc, tôi thấy hoàn toàn không giống gì những điều người ta vẫn ca tụng cho rằng Gia Cát Lượng chấp pháp nghiêm minh hơn cả Tôn Vũ, là bằng chứng cho thấy ông ta có phẩm cách đạo đức cao thượng. Ngược lại, nếu liên hệ với những sự việc ông ta dung túng, biến tướng ủng hộ Pháp Chính giết người tràn lan để xem xét thì lại cho thấy ông ta tự cao tự đại, là con cáo già về chính trị, là một quyền thần chỉ một tay che lấp cả bầu trời trên chính trường.


(…) Trong sự kiện này với kết cục Mã Tốc bị hạ sát, tôi cho rằng chính là do Gia Cát Lượng gây nên. Có 4 lý do:

1, Chính Gia Cát Lượng là người phản lại di mệnh của Lưu Bị "bỏ để dùng Tốc", tội ông ta trước nhất;

2, Lần Bắc phạt này ông ta toàn quyền chỉ huy, tuy Mã Tốc ở Nhai Đình có "làm trái thánh ý" nhưng hành động sau này lại có "gây nên tổn thất dù đã cố ngăn chặn", những điều này không thể trách tội lên Mã Tốc. Vậy nên tra xét đến cùng thì cũng là do ông ta "không cách gì đảm đương được", "không thể giúp tỏ tường ý pháp", đổ hết tội lên Mã Tốc có chiều không thoả đáng.

3, Mã Tốc tuy "trái sự quản chế của Lượng, hành động bất lợi, bị Cáp phá vỡ tan tác", nhưng cái gọi là "tướng ở ngoài quân mệnh có khi không nghe", là một chỉ huy tiền tuyến thì phải có khả năng tự chủ, dù có chiến bại thì tội cũng không đến mức phải xử tử.

4. Điểm cuối cùng, trên thực tế là rất quan trọng, chính là Gia Cát Lượng trước giờ đều không giống như những gì người ta ca tụng chấp pháp nghiêm minh công tâm, chấp pháp nghiêm minh của ông ta phải xem đối tượng có phải là nhu cầu chính trị không chứ tuyệt đối không có gì là công tâm.

"Tam quốc chí" "Thục thư" "Pháp chính truyện" viết: "Đường đường là Thái thú Thục quận, Dương Vũ tướng quân, ngoài cai quản thành luỹ, trong mưu sự cùng vương chủ. Đức mỏng oán cừu con con cũng quyết báo thù, sát hại huỷ hoại biết bao người. Hoặc như có người nói với Gia Cát Lượng "Pháp Chính ở Thục quận quá ngang ngược, tướng quân nên bẩm với chúa công, khống chế cái bạo ngược của ông ta". Lượng đáp: "Chúa công… Vào lúc này, tiến thoái lưỡng nan, Hiếu Trực (tên tự của Pháp Chính) là cánh tay phải của chúa công, ra tay nhanh như chớp, không thể cứu vãn được. Làm sao cấm cản được Pháp Chính mà không làm trái ý ông ta đây!" Pháp Chính ở Thục quận tác oai tác quái, chỉ vì một oán thù cỏn con ngày trước cũng báo thù "sát hại huỷ hoại biết bao người". Vậy mà Gia Cát Lượng khi được người khác trình tấu, đòi ông đi thỉnh Lưu Bị ngăn cản cái ngạo ngược vô đạo của Pháp Chính thì ngay đến cả việc đi trình tấu chúa công ông ta cũng cự tuyệt. Không những thế, ông ta thậm chí còn thuyết giáo rằng biết Pháp Chính có thể "ra tay chớp nhoáng, không thể cứu vãn" thì bay giờ việc gì phải cấm cản ông ta vui sướng với việc báo thù đây? Ý tại ngôn ngoại, ấy là nói Pháp Chính có công lao to lớn nhường ấy, là người hùng trước mặt đại vương, ông ta có giết mấy người thì cũng xá chi, đến cả sau khi ông ta giết người rồi thì ngăn cản ông ta cũng hoàn toàn không cần thiết, bởi làm vậy sẽ khiến ông ta không vui.

Đây là những lời một người chấp pháp nghiêm minh có thể nói ra miệng được thật quả là miệng lưỡi của kẻ tự tư tự lợi ngang ngược. Trong việc này, phản ứng và cách xử lý của Gia Cát Lượng cùng với những phẩm chất cùng phong cách "một lời thưởng phạt cũng đầy trách nhiệm" vẫn được người ta tôn sùng đã sai khác với nhau quá xa. Nhưng tôi cho rằng đó mới là khuôn mặt thật của ông ta. Bởi ở ông ta, những điều gọi là quốc pháp, quân pháp có cần chấp hành hay không thuần tuý chỉ được quyết định bởi tầm quan trọng của đối tượng phải chấp hành và hơn thế là xem xem nó có hàm chứa nhu cầu chính trị cho việc thực hiện hay không chứ không hề phụ thuộc vào đối tượng đó có điều thất thố hay hành vi sai phạm nào không. Do vậy tôi mới nói rằng chuyện Mã Tốc được sống hay phải chết, Gia Cát Lượng nếu muốn thì hoàn toàn đủ năng lực và quyền lực để Tốc không phải chết. Nhưng ông ta cũng không phải vì hình tượng chấp pháp nghiêm minh của mình, chỉ cần xem cái thái độ và cách xử lý đối với kẻ "giết hại huỷ hoại vô số người" như Pháp Chính cũng đủ biết rõ con người ông ta rồi.

Là mưu sĩ qua lại mật thiết với Gia Cát Lượng lại trụ chân lâu dài giữa trung tâm quyền lực, quen thuộc với thế cục cùng từng sự việc trong chính trị quân sự Thục Hán, Mã Tốc tất nhiên biết những hậu quả của thất bại này về chính trị và quân sự. Ông ta cũng hiểu quá rõ kết quả này sẽ nguy hại ra sao cho Gia Cát Lượng cũng như toàn bộ tập đoàn Kinh Sở, lại càng hiểu rõ con người Gia Cát Lượng. Tôi tin rằng đó mới là nguồn cơn chính của việc ông ta sợ tội mà tìm đường đào tẩu. Do vậy trong ngục ông ta mới viết một bức thư cho Gia Cát Lượng thế này: "Cái nghĩa thâm cùng giết Cổn rồi hưng Vũ (tích xưa cha Vũ là Cổn được vua Nghiêu sai đi trị thuỷ nhưng không thành công nên bị vua Thuấn giết. Vũ kiên trì dốc lòng huy động vật lực sức lực hoàn thành cho bằng được –ND), để công lao thuở bình sinh không bị uổng phí, Tốc này dù có chết cũng không oán hận chi chúa công" (12). Ông ta viện dẫn điển cố "giết Cổn rồi hưng Vũ", lại dùng các cách nói "để công lao thuở bình sinh không bị uổng phí" một mặt cho thấy ông ta thừa nhận mình có tội, mặt khác rõ ràng cũng bày tỏ ông ta mong trong tình hình khó lòng may mắn được thoát tội như hiện nay có thể để ông ta tự mình gánh chịu hậu quả, giúp Gia Cát Lượng tránh được những đối thủ công kích, tiếp tục nắm giữ cục diện chính quyền Thục Hán.

Nhờ vậy chúng ta có thể hiểu rõ hơn việc vì sao Gia Cát Lượng không màng tới lời khuyên ngăn của những người như Tưởng Uyển, thậm chí còn trừng phạt những người như tham quân Thừa tướng Lý Mạo khuyên ngăn ông ta đừng giết Mã Tốc. Ông ta kiên quyết đòi giết Mã Tốc, còn có thái độ rõ ràng là sợ việc giết hại không thành. Thực sự thì mối quan hệ giữa Gia Cát Lượng với anh em Mã Lăng – Mã Tốc cũng là quan hệ nòng cốt của tập đoàn Kinh Sở, thân mật như anh em thường ngày, nếu ông ta quả thực vì yêu cầu của chính pháp mà đành phải ra tay giết Mã Tốc thì ông ta phải cảm kích những người khuyên ông ta không nên giết Mã Tốc mới phải. Nhưng thực tế ông ta không cảm kích gì những con người ấy mà thậm chí có thể nói là biểu lộ thái độ căm ghét và không ngần ngại tìm cách xử phạt:

"Mã Tốc đại bại ở trận tiền, Lượng đem giết bỏ, Mạo Cáp lấy lời "Tần tha Mạnh Minh, rồi dùng để quản Tây Nhung, Sở giết Tử Ngọc, hai đời sau không mạnh lên được " thất ý Lượng, bị phạt" (Tam quốc chí, Thục thư…)

Điều này đã chứng tỏ vào lúc ấy ông ta rất cần Mã Tốc chết, nếu không đã không căm ghét những người khuyên ngăn đến mức ấy. Từ đó ta thấy ông ta kiên quyết giết Mã Tốc, khi phán quyết Mã Tốc tội tử hình lại "vì hắn mà đổ lệ", sau khi Mã Tốc chết lại "tự giam mình, chăm sóc con Tốc như con", không chỉ thể hiện mối thâm tình của mình với anh em họ Mã mà còn có nguyên nhân chính trị sâu xa, ngần ấy nguyên nhân khiến ông ta không giết Mã Tốc không xong nhưng vẫn lo sợ không giết được.

Trên thực tế, tội trạng thực sự có thể khiến Mã Tốc phải chết vẫn là việc Mã Tốc sợ tội đào tẩu. Nhưng kỳ lạ là, trong biểu chương Gia Cát Lượng thỉnh tội tự giáng chức thì không có lấy một chữ nào nhắc tới việc này, âu đấy cũng là cái cao tay của Gia Cát Lượng.

Vì Gia Cát Lượng lúc bấy giờ cần Mã Tốc gánh hết những trách nhiệm chủ yếu của cuộc Bắc phạt thất bại, nếu Mã Tốc vì sợ tội đào tẩu mà bị xử chết rõ ràng trong vụ thất bại kia thì trách nhiệm của Gia Cát Lượng lại càng phải lớn hơn nữa. Điều này so với những gì ông ta xin tự trừng phạt mình rõ ràng là đã giảm nhẹ đi quá nhiều, không đủ để làm yên sóng gió chính trị vì vụ này mà đang bùng lên căng thẳng bất lợi cho ông ta, vậy nên ông ta mới không nhắc tới việc ấy. Kết cục như vậy vẫn là ông ta thành công trong việc dựa vào cái chết của Mã Tốc để tạm thời hoá giải được những nguy cơ lần này đối với địa vị chủ đạo của bản thân ông ta cùng tập đoàn Kinh Sở trong chính quyền Thục Hán.

Những giọt nước mắt Gia Cát Lượng khóc Mã Tốc, tôi thấy hoàn toàn không giống gì những điều người ta vẫn ca tụng cho rằng Gia Cát Lượng chấp pháp nghiêm minh hơn cả Tôn Vũ, là bằng chứng cho thấy ông ta có phẩm cách đạo đức cao thượng. Ngược lại, nếu liên hệ với những sự việc ông ta dung túng, biến tướng ủng hộ Pháp Chính giết người tràn lan để xem xét thì lại cho thấy ông ta tự cao tự đại, là con cáo già về chính trị, là một quyền thần chỉ một tay che lấp cả bầu trời trên chính trường.

Gia Cát Lượng tuy hi sinh mạng Mã Tốc để tạm thời thoát được những nguy cơ về chính trị và quân sự nhưng ông ta không thu được thành quả quân sự nào, lại cũng chẳng củng cố được địa vị của mình về chính trị. Nghiêm trọng hơn, ông ta không những không chứng minh được năng lực quân sự của bản thân mà còn trao cho Lý Nghiêm, những đối thủ dày dặn chiến công quân sự, những lão tướng trong quân đội như Nguỵ Diên, Ngô Nhất một dịp ghi nhận gót chân Asin về khả năng quân sự của ông ta. Do vậy mục đích của lần Bắc phạt lần này của ông ta không đạt được, thậm chí về chính trị có thể nói đã hoàn toàn thất bại và bị thụt lùi một bước dài.

Thất bại đã được ghi tạc ấy khiến Gia Cát Lượng phải tiếp tục tiến hành Bắc phạt để thoát khỏi thế cục này, xuất phát từ cả nhu cầu phán đoán chiến lược chính quyền Thục Hán lẫn nhu cầu chính trị của bản thân ông ta. Bắc phạt tuy do Gia Cát Lượng chủ động khởi xướng nhưng thất bại Nhai Đình lại đã khởi động cỗ xe chiến tranh mà ông ta cũng không thể kìm nó lại được, khiến cho ông ta dù muốn hay không cũng phải theo đuổi nó. Nhưng cầm lái cỗ xe Bắc phạt này xông về phía trước đẩy số mạng chính trị sau này của mình gắn chặt vào Bắc phạt. Cốt lõi của vấn đề là ở chỗ ông ta thực quả là một tay lái cự phách, tuy cỗ xe Bắc phạt đã không thể ghìm dừng lại được nhưng ông ta vẫn có thể điều khiển phương hướng của nó. Nhờ đó nó khiến ông ta rốt cục tuy không thể thành công cũng vươn tới tột đỉnh huy hoàng trong cuộc đời.

Mùa đông năm đó, Bắc phạt lần 2 mở màn, quân Thục đã có thắng lợi bước đầu, nhưng do quân lương cạn kiện đành thoái lui trắng tay.

Năm sau, năm Kiến Hưng thứ 7, Bắc phạt lần 3 tiếp tục, Gia Cát Lượng điều đại tướng Trần Thức đánh Vũ Đô, Âm Bình của Nguỵ. Thứ sử Ung Châu của Nguỵ là Quách Hoài dẫn quân nghênh chiến, Gia Cát Lượng cho Kiến Uy ra đấu, Quách Hoài rút chạy, Lượng chiếm được Nhị quận. Bấy giờ, Hậu chủ ra chiếu phục chức Thừa tướng cho Gia Cát Lượng. Nhưng trong lần Bắc phạt này cũng vẫn không thấy bất cứ bóng dáng nào của Lý Nghiêm hay những nhân sĩ nòng cốt của tập đoàn Đông Châu và Ích Châu. Tôi tin rằng bọn Lý Nghiêm không thể không có ý kiến trong việc này.

Trong thời gian Gia Cát Lượng Bắc phạt, Lý Nghiêm cũng không ngồi rỗi, mà tích cực liên lạc ngầm với bộ tướng của Tào Nguỵ là Mạnh Đạt, nguyên là Long tướng nhà Thục. Trong một bức thư ông ta từng khuyến dụ Mạnh Đạt thé này: "Ta và Khổng Minh đều được ký thác, tình sâu nghĩa nặng, cách nghĩ gần gụi". Từ đó có thể thấy, ông luôn ghi tạc trong lòng địa vị chính trị quan trọng của một đại thần được gửi gắm ngang hàng cùng Gia Cát Lượng, luôn lấy đó làm nhiệm vụ của mình và vô cùng coi trọng nó. Nhưng trước sau ba cuộc Bắc phạt quan trọng nhường ấy Gia Cát Lượng đều không có chút biểu hiện gì cho ông tham dự vào. Có thế khẳng định rằng điều đó khiến ông rất bất mãn, do vậy ngoài những biểu hiện lồ lộ như đòi "làm vương quận đất Ba Châu" ra còn có những cách khác để tỏ rõ sự phản kháng của mình đối với thái độ bài trừ của Gia Cát Lượng.

Trương Phi hóa ra là cháu rể của Tào Tháo

Giáo sư Viện Văn học, Đại học Tứ Xuyên, phó Hội trưởng thường trực Học hội "Tam quốc diễn nghĩa" Trung Quốc Thẩm Bách Tuấn mới cho ra đời cuốn "Tam Quốc mà bạn chưa biết tới" do Nhà xuất bản Văn hối ấn hành.

"Qua năm ải Quan Vũ chém sáu tướng" – Lộ gót chân Archilles

"Qua năm ải Quan Vũ chém sáu tướng" trong hồi 27 của "Tam quốc diễn nghĩa" vẫn luôn là một trong những tích được lưu truyền rộng rãi nhất của truyện. Tích này kể chuyện Quan Vũ sau khi treo ấn từ quan, cáo biệt Tào Tháo, mang hai phu nhân Cam, Mi đi về Hà Bắc (phía Bắc Hoàng Hà) với Lưu Bị, lần lượt phải trải qua đủ 5 ải. Vì không xin Tào Tháo văn bằng nên dọc đường bị ngăn trở, bất đắc dĩ phải chém 6 viên Tào tướng. Chiến tích về sức mạnh vô song dẹp tan mọi ngáng trở này đã trở thành một bộ phận tổ thành quan trọng trong binh nghiệp lẫy lừng của Quan Vũ.

Trong lịch sử có sự kiện "Qua năm ải Quan Vũ chém sáu tướng" này thật không? Không có, đó hoàn toàn chỉ là hư cấu nghệ thuật của La Quán Trung.

Theo ghi chép từ "Tam quốc chí, Thục thư, Tiên chủ truyện", năm Kiến An thứ 5 (tức năm 200 SCN), "Tào Công (chỉ Tào Tháo) cùng Viên Thiệu giao chiến với nhau ở Quan Độ, Lưu Tích (tướng Hoàng Cân cũ) ở Nhữ Nam phản lại Tào công mà theo Thiệu. Thiệu phái binh tướng của Tiên chủ cùng quân của Tích tới đánh đất Hứa. Quan Vũ bỏ về với Tiên chủ". Điều này có nghĩa là, trước khi Quan Vũ rời Tào Tháo thì Lưu Bị đã phụng mệnh Viên Thiệu đến quận Nhữ Nam ở phía nam của Hứa Đô, cùng với bọn Lưu Tích chỉ huy đánh ra bốn phía của Hứa Đô, làm rối loạn hậu phương của Tào Tháo. Quan Vũ được tin của Lưu Bị, theo lẽ dĩ nhiên chỉ có thể quy về cố chủ theo đường phía Nam của Hứa Đô, không thể nào đi theo hướng bắc lên Hà Bắc để tìm Lưu Bị được. Do vậy, không hề có chuyện ông "qua năm ải", vì thế nên cũng chẳng có việc "chém sáu tướng" được.

Lại theo "Tam quốc chí, Nguỵ thư, Tào Nhân truyện": "Thái tổ cùng Viên Thiệu đấu với nhau ở Quan Độ đã lâu, Thiệu phái Lưu Bị theo Cường chư huyện". Có thể thấy Lưu Bị lúc bấy giờ đang ở vùng Cường (nay là địa danh gần phía đông sông Dĩnh, thuộc tỉnh Hà Nam), cách Hứa Đô không quá 200 dặm, đi 3-4 ngày đường là tới nơi. Cho nên, Quan Vũ đi theo đường ấy không thể gọi là xa được chứ đừng nói đến "một mình rong ruổi ngàn dặm".

Để thể hiện tiết khí trung nghĩa khẳng khái quả cảm không từ nan đi ngàn dặm tìm anh của Quan Vũ, La Quán Trung đã hư cấu tình tiết "qua năm ải chém sáu tướng", cho Quan Vũ khởi đầu đi Hà Bắc, rồi lại vòng về Nhữ Nam, điều này là chấp nhận được về mặt nghệ thuật đối với một tiểu thuyết. Vấn đề là ở chỗ, do tri thức địa lý lịch sử của La Quán Trung không đầy đủ, việc hư cấu của ông đã lộ một gót chân Archilles kha khá lớn – phương hướng địa lý hỗn loạn. Theo tình theo lý, Quan Vũ đã phải đi Hà Bắc để về với Lưu Bị, vậy thì sau khi ông rời Hứa Đô thì phải đi về hướng Bắc, thẳng hướng Diên Tân (nay là phía tây bắc Diên Tân – Hà Nam) hoặc Bạch Mã (nay là phía đông huyện Hoá – Hà Nam), vượt qua Hoàng Hà thì mới đi vào vùng Dực Châu được. Ấy vậy mà, La Quán Trung lại cho ông đi lần lượt qua ải Đông Lĩnh (một địa danh hư cấu), rồi đột ngột không duyên không cớ quành lên phía Tây Bắc, chạy hơn một ngàn dặm để tới Lạc Dương, mất công chạy nguyên một đường vòng rõ lớn. Sau đó lại rẽ xuống hướng Đông, qua ải Nghi Thuỷ (tức ải Hổ Lao trong hồi 5 của "diễn nghĩa"), Vĩnh Dương, sau cùng đến được Hoá Châu (phải là Bạch Mã mới đúng), từ đó qua sông. Lộ trình như vậy giống như một chữ "chi" lớn, cho nhân vật chạy lòng vòng, kéo hành trình giãn ra tới gần 3 ngàn dặm, không hề hợp logic chút nào. Bên cạnh đó, trong việc thiết kế các sự kiện cụ thể, cũng có điểm bất hợp lý. Ví dụ, Hàn Phúc muốn ngăn Quan Vũ qua Lạc Dương, chỉ cần đóng cửa thành lại! là khiến Vũ lực bất tòng tâm rồi, vậy mà ông ta lại ra khỏi thành kiếm cái chết, thật quả làm người ta thấy khó hiểu.

Nhưng dù vậy, "qua năm ải chém sáu tướng" lại vẫn phù hợp với tâm lý thẩm mỹ của quảng đại quần chúng nghe chuyện Tam quốc mà không suy xét gì tới phương hướng địa lý. Ngày rộng tháng dài, tích truyện này không những được người đọc chấp nhận mà còn trở thành một điển cố, một thành ngữ. Có thể thấy được ảnh hưởng của truyện "Tam quốc diễn nghĩa" rộng lớn thế nào.

Tào Tháo và Trương Phi – lộ ra quan hệ máu mủ ruột già

Xem đề mục này, ắt hẳn sẽ có độc giả bật cười: hai nhân vật không đội trời chung này làm sao có thể có quan hệ ruột thịt được? Thế mà, thực quả đây không phải là chuyện mạn đàm chơi, mà là một sự thực lịch sử có thật.

Quan hệ ruột thịt giữa Tào Tháo và Trương Phi được hé lộ qua gia tộc Hạ Hầu Uyên.

Trước hết là Tào Tháo. Cha của Tào Tháo là Tào Tung, là con nuôi của Tào Đằng một viên cự thần vào cuối đời Đông Hán, vốn dòng Hạ Hầu. Theo "Tam quốc chí, Nguỵ thư, Vũ Đế kỷ" chú dẫn hai cuốn "Tào Man truyện" và "Thế ngữ": "(Tào) Tung, con của dòng tộc Hạ Hầu, thúc phụ của Hạ Hầu Đôn. Thái tổ (chỉ Tào Tháo) là anh em tòng phụ của Đôn". Điều này có nghĩa là, xét về quan hệ huyết thống, Tào Tháo chính ra là đời sau của họ Hạ Hầu; đại tướng đứng đầu trong đám thủ hạ của ông ta là Hạ Hầu Đôn chính là em họ của Tào Tháo, một viên đại tướng khác là Hạ Hầu Uyên cũng là em họ xa. Hạ Hầu Đôn có tư cách riêng không ai bằng, "được gặp riêng Thái tổ, ra vào phòng thất, các tướng không ai bằng" ("Tam quốc chí, Nguỵ thư, Hạ Hầu Đôn truyện). Hạ Hầu Uyên nhiều lần đem quân đi chinh phạt cũng rất được trọng dụng, ngoài tài thao lược tự thân ra, quan hệ ruột thịt của ông ta với Tào Tháo cũng là một nguyên nhân quan trọng. Không chỉ có vậy, Tào Tháo còn có ý thắt chặt thêm quan hệ với Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên. Con của Hạ Hầu Đôn là Hạ Hầu Mậu (Theo "Tam quốc diễn nghĩa" thì Hạ Hầu Mậu vốn là con Hạ Hầu Uyên, từ nhỏ đã được Hạ Hầu Đôn nhận về nuôi, điểm này không đúng), lấy con gái Tào Tháo là Thanh Hà công chúa, phong làm Liệt hầu, "Lịch vị thị trung, thượng thư, An Tây, Trấn Đông tướng quân, Giả tiết" (Tam quốc chí, Nguỵ thư, Hạ Hầu Đôn truyện), có thể coi là quyền cao chức trọ! ng. Trưởng nam của Hạ Hầu Uyên là Hạ Hầu Hằng, cũng "lấy con gái Hải Dương viên hầu em Thái tổ, ân sủng đặc trọng" ("Tam quốc chí, Nguỵ thư, Hạ Hầu Uyên truyện"). Tổng kết lại là, trong tập đoàn Tào Nguỵ, gia tộc Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên thực vinh hoa tột bực. Cho nên, Trần Thọ trong cuốn sử "Tam Quốc chí" đã dứt khoát gộp Hạ Hầu Đôn, Hạ Hầu Uyên cùng Tào Nhân, Tào Hồng cùng họ hàng thân thích họ Tào thành một truyện, đặt tên là "Chư Hạ Hầu Tào truyện".

Về phần Trương Phi, là đại tướng tâm phúc của Lưu Bị, nói về xuất thân gia thế hay về quan điểm chính trị vốn chẳng có dây mơ rễ má gì với gia tộc họ Hạ Hầu. Vậy nhưng, vào những năm tháng thiên hạ đại loạn, vận mệnh con người biến ảo khôn lường khi ấy, do những cơ hội đầy ngẫu nhiên, ông lại trở thành con rể của nhà Hạ Hầu. Theo "Tam quốc chí, Nguỵ thư, Chư Hạ Hầu Tào truyện" chú dẫn "Nguỵ lược", sự tình là thế này: "Năm Kiến An thứ 5 (năm 200 SCN), bấy giờ (Hạ Hầu) Bá có em họ tuổi tầm 13-14, tung tú cầu kén chồng trong quận, Trương Phi bắt được quả cầu ấy. Phi biết là con gái nhà gia giáo, lấy về làm vợ, sinh con gái, sau là hoàng hậu của Lưu Thiền". Điều này cho thấy, vợ của Trương Phi là "em họ" của Hạ Hầu Bá (con trai thứ của Hạ Hầu Uyên), tức là cháu họ của Hạ Hầu Uyên. Xét về thứ bậc, Trương Phi phải được tính là cháu rể của Hạ Hầu Uyên.

Diễn giải theo cả hai hướng như trên khiến sự việc trở nên hết sức rõ ràng: Tào Tháo rõ là anh họ của Hạ Hầu Uyên mà Tào Phi lại là cháu rể của Hạ Hầu Uyên, vậy thì Trương Phi có thể nói cũng chính là cháu rể của Tào Tháo. Không chỉ có vậy, đến cả Hậu chủ Thục Hán là Lưu Thiền (con gái Trương Phi là Hoàng hậu của Lưu Thiền) cũng phải tính là cháu rể xa của Tào Tháo.

Từ tháng riêng năm Kiến An thứ 5 Tào Tháo thân chinh xuất quân đi đánh Lưu Bị, sau khi chiếm lại Từ Châu, Tào – Lưu hai tập đoàn lớn luôn ở trong trạng thái đối lập sống còn. Cho nên, Tào Tháo với Trương Phi tuy là máu mủ ruột già vẫn không có cơ hội đi lại với nhau cho đúng tình ruột thịt. Có điều, dù hai bên chỉ giáp mặt nhau bằng gươm giáo thì cũng không hoàn toàn quên được mối quan hệ thân thích này.

Năm Kiến An thứ 14 (tức năm 219 SCN), Lưu Bị đưa quân vào tranh chấp vùng Hán Trung, từ sau năm Kiến An thứ 20 (năm 215 SCN) liên tục giao tranh với tướng trấn thủ Hán Trung là Hạ Hầu Uyên, rồi bộ hạ của Lưu Bị là Hoàng Trung giết được Hạ Hầu Uyên ở núi Định Quân. Vợ Trương Phi nghe tin bèn "xin đi làm lễ táng cho ông ta", coi như là tận hiếu đạo đối với người chú họ. Hai mươi năm sau, những người lập ra hai triều Nguỵ, Thục đều đã tạ thế, nhưng thế đối nghịch của hai nước vẫn y nguyên. Nhưng thế đối nghịch này cùng việc công phạt lẫn nhau của hai bên chủ yếu là xuất phát từ đòi hỏi về chính trị, còn về phương diện tình cảm, hai bên – con cháu Tào Tháo, Hạ Hầu Uyên cùng con cháu Lưu Bị, Trương Phi – đã phai nhạt dần đi tâm lý thù hận, quan hệ thân thích này càng trở thành một miếng ngọc bảo đảm lúc nguy nan.

Năm Chính Thuỷ thứ 10 nước Nguỵ (năm 249 SCN), Tư Mã Ý phát động chính biến, mưu diệt tập đoàn Tào Sảng, độc chiếm đại quyền Tào Nguỵ. Hạ Hầu Bá đương chức Tả tướng quân, "Chinh Thục Hộ quân" sợ bị liên luỵ vội chạy sang phía Thục, trên đường Âm Bình bị lạc đường, lương thực cạn kiệt, phải giết ngựa để ăn, đi bộ tới gãy chân, thật quả vô cùng thảm hại. Bên Thục Hán nghe tin báo, vội vã cho người đi đón. Hạ Hầu Bá tới được Thành Đô, Lưu Thiền đích thân tiếp kiến, còn ra ý giải thích cặn kẽ: "cha ngài lâm hại bởi miệng lưỡi thị phi, không phải bởi lưỡi dao của tiên phụ tôi". Lưu Thiền còn trỏ con trai mình mà rằng: "con dì con già của họ Hạ Hầu đây thôi". Từ đó, Lưu Thiền đối với Hạ Hầu Bá "hậu đãi lại phong thêm quan tước", một mực đưa Hạ Hầu Bá lên làm Tướng quân quân kỵ. Cứ như vậy, Hạ Hầu Bá trở thành một trong những trọng tướng vào cuối thời Thục Hán.

Tào Tháo và Trương Phi là họ hàng thân thích, đây vốn là một tư liệu tiểu thuyết hấp dẫn. Thế nhưng, khi La Quán Trung viết "Tam Quốc diễn nghĩa" lại hoàn toàn không đả động gì tới điểm này, ông không những không cho vợ của Trương Phi xuất hiện bất cứ một lần nào mà còn có ý làm lơ sự thật này, có vẻ như lo rằng viết về nó sẽ làm mờ đi khuynh hướng tư tưởng "tôn Lưu đè Tào". Đó vẫn là một câu đố lớn khó trả lời.

Điêu Thuyền: Tiếc thay một Giai nhân không có thật!

Người từng đọc "Tam quốc diễn nghĩa", số đa đều có ấn tượng khá sâu đậm với nhân vật Điêu Thuyền. Người ca kỹ tài sắc song toàn trong phủ Vương Doãn này, để đền đáp ân hậu đãi dưỡng dục của Vương Doãn đã theo "liên hoàn kế" do Vương Doãn sắp đặt. Bằng sắc đẹp và mưu trí, Điêu Thuyền đã khéo léo xen vào giữa Đổng Trác kẻ kiêu bạc tàn bạo và Lã Bố kẻ thấy lợi bỏ nghĩa, khiến cho Lã Bố vì oán cừu mà sinh hận Đổng Trác, đến mức không đội trời chung. Kết cục là theo về phía Vương Doãn, giết Đổng Trác, từ đó lập nên công trạng lớn tiêu diệt tập đoàn Đổng Trác đã quá hủ bại.


Đúng ra, trong lịch sử không hề có nhân vật Điêu Thuyền. Việc Vương Duãn thuyết phục được Lã Bố cùng mưu diệt Đổng Trác là có thực nhưng ông ta không hề sử dụng tới "liên hoàn kế". (Tam quốc chí, Nguỵ thư, Lã Bố truyện) chỉ viết: (Đổng) Trác tính rắn nhưng hẹp hòi, khi cáu giận thì không suy xét phải trái gì hết, từng có chỗ thất ý nên ném khiên giáo vào Bố. Bố mau lẹ né được, lạy tạ Trác, Trác cũng hết giận. Tuy vậy Bố vẫn ngầm oán Trác. Trác thường lưu Bố lưu lại trong phủcủa mình, Bố tư thông với thị tỳ của Trác, sợ chuyện bị phát giác nên tâm luôn luôn  bất an. Trước thì Tư đồ Vương Doãn thấy Bố là bậc dũng sỹ trong Châu (tác giả dựa theo tích: Vương Doãn là người huyện Kỳ quận Thái Nguyên, Lã Bố là người Cửu Nguyên quận Ngũ Nguyên, Thái Nguyên Ngũ Nguyên đều thuộc Bính Châu nên Vương Doãn xem Lã Bố là "bậc dũng sỹ trong Châu) nên thu nạp khoản đãi rất hậu hĩnh. Sau Bố theo về với Doãn, kể lại chuyện Trác mấy phen giết người. Lúc bấy giờ Dõan cùng Bộc dạ sỹ Tôn Thuỵ mật bàn mưu hại Trác bằng cách sai Bố làm nội ứng. (…) Bố hứa làm theo, dùng đao chém chết Trác.


Có thể thấy là, Lã Bố vì chuyện Đổng Trác phải lúc tức khí ném khiên giáo vào mình mà "ngầm oán Trác", lại vì tư thông với thị tì của Đổng Trác mà "tâm bất an", chừng ấy duyên do nên mới bị Vương Doãn bắt trúng mạch mà quyết cùng diệt Trác chứ chẳng hề tồn tại vai trò của vở "mỹ nhân kế" Điêu Thuyền.

Hình tượng Điêu Thuyền hoàn toàn là sản phẩm của sự hư cấu nghệ thuật quen thuộc từ đời Tống Nguyên trở lại đây. Trong tiểu thuyết diễn xướng thể loại dài, nghệ nhân dân gian đã sửa đổi chi tiết "Bố tư thông với thị tì Trác" trong sử liệu, sáng tạo ra hình tượng Điêu Thuyền. Vở tạp kịch "Liên hoàn kế mỹ nữ ở Cẩm Vân đường" (gọi tắt là "liên hoàn kế") khuyết danh vào đời Nguyên đã gán thân thế cho Điêu Thuyền bằng hình thức tự thuật rằng: Con ngươi không phải người vùng này, là người thôn Mộc Nhĩ vùng Hân Châu, con gái Nhiệm Ngang, tiểu tự là Hồng Xương. Do Hán Linh Đế cho tuyển cung nữ, nên con gái ngươi được nhập cung, được ban mũ Điêu Thuyền nên sau gọi là Điêu Thuyền. Linh Đế ban con ngươi cho Đinh Kiến Dương, bấy giờ Lã Bố là con nuôi Đinh Kiến Dương, Đinh Kiến Dương lại đem con ngươi gả cho Lã Bố. Sau rồi giặc Hoàng Cân gây loạn, hai vợ chồng thất tán… Con ngươi may mắn được nương nhờ phủ lão gia, được đối xử như với con cháu trong nhà…

Tích "Vương Doãn hiến Điêu Thuyền cho Đổng Trác" trong quyển thượng của "Tam quốc chí bình thoại" đời Nguyên, tiết 1 cũng có viết về thân thế Điêu Thuyền:

Tiện thiếp vốn họ Nhiệm, tiểu tự Điêu Thuyền, có chồng là Lã Bố. Từ khi thất lạc nhau ở Lâm Đào phủ, đến giờ vẫn chưa được gặp lại, thế nên mới thắp hương. So sánh ra thì giới thiệu về thân thế Điêu Thuyền trong "bình thoại" đơn giản hơn sao với tạp kỹ. Về tổ chức tình tiết thì hai cuốn cũng có chỗ không giống nhau: "bình thoại" viết Vương Doãn khởi đầu mời Đổng Trác dự tiệc, tỏ ý hiến Điêu Thuyền cho Đổng Trác. Sau rồi mời Lã Bố dự tiệc, cho Điêu Thuyền gặp lại chồng rồi nhận lời với Lã Bố: "Chọn ngày lành tháng tốt, đưa Điêu Thuyền về phủ Thái sư, đoàn tụ với Ôn hầu". Mấy ngày sau, Vương Doãn đưa Điêu Thuyền nhập phủ Thái sư, Đổng Trác coi Điêu Thuyền là của riêng, Lã Bố nộ khí xung thiên, thừa lúc Đổng Trác uống say, cầm kiếm chém chết. Tạp kỹ lại viết Vương Doãn trước thì mời Lã Bố dự tiệc, gọi Điêu Thuyền vào mời rượu ca hát, cho vợ chồng nhận nhau rồi nhận lời chọn ngày lành tháng tốt chuyển phòng, để hai người được đoàn viên. Sau đó Vương Doãn lại bày tiệc mời Đổng Trác, gọi Điêu Thuyền vào quạt, Đổng Trác thấy sắc thì mê, Vương Doãn nhận lời hiến Điêu Thuyền cho Trác làm thiếp. Sau chuyện ấy, Lã Bố biết Điêu Thuyền bị đưa về với Trác thì nổi giận, lén vào phủ hỏi chuyện Điêu Thuyền. Đổng Trác cho Bố vào để ghẹo Điêu Thuyền, muốn bắt Bố. Lã Bố chạy đến phủ Vương Doãn, cùng bày mưu lừa Đổng Trác vào triều phụng mệnh rồi nhân đó chém chết.

Hai nội dung này cũng có một chỗ tương đồng: Điêu Thuyền và Lã Bố vốn là vợ chồng, vì loạn lạc mà thất tán rồi Điêu Thuyền lạc vào phủ Vương Doãn. Để vợ chồng đoàn tụ, Lã Bố đã tức giận mà giết chết Đổng Trác kẻ mưu độc chiếm Điêu Thuyền. Thế nhưng, quan hệ nhân vật tương tự nhau này cũng khiến hai nội dung này mắc một khuyết tật giống nhau: Thứ nhất, Vương Doãn đã biết Điêu Thuyền và Lã Bố là vợ chồng, còn cho hai người nhận nhau giữa phủ, sau lại đem Điêu Thuyền hiến cho Đổng Trác làm thiếp, khó lòng không lộ cái cơ mưu hạ tiện, không phù hợp với mục tiêu của ông ta là vươn tới địa vị tột cùng trong Hán thất. Thứ hai, Điêu Thuyền sau khi nhận vợ chồng cùng Lã Bố lại chẳng oán hận gì mà về phủ Đổng Trác làm thiếp, thật quả chẳng hợp tình hợp lý chút nào. Thứ ba, Lã Bố để đoạt lại vợ thì tức giận mà giết Đổng Trác, đây là điều đương nhiên chứ chẳng liên quan gì tới bản chất thấy lợi vong nghĩa cả. Thứ tư, theo quan hệ nhân vật này, Điêu Thuyền ở giữa Đổng Trác và Lã Bố không có đường lùi, cũng không thể giả điên giả dại, ly gián quan hệ hai người cũng không còn cần thiết. Nói tóm lại, theo quan hệ nhân vật này để khai thác miêu tả, không chỉ hạ thấp hình tượng Vương Doãn, làm lẫn lộn tính cách của Lã Bố, làm mất đi vẻ mê hoặc của hình tượng Điêu Thuyền, hơn thế còn khiến tình tiết tổng thể thiếu đi cơ chế nội tạ phát triển kịch tính.

La Quán Trung khi sáng tác "Tam quốc diễn nghĩa", theo nguyên tắc sáng tạo "dựa vào chính sử, nhặt nhạnh tiểu thuyết" đã khéo léo thu nhận tình tiết chủ đạo cảu tạp kỹ và "bình thoại", sửa đổi mang tính sáng tạo đối với quan hệ nhân vật, thành ra Lã Bố và Điêu Thuyền không thân không thích. Sự sửa đổi nho nhỏ này khiến quan hệ nhân vật trở nên hợp lý. Nhờ đó, Vương Doãn lập ra "liên hoàn kế", chỉ làm người đọc cảm nhận rõ cái cơ mưu thâm thuý của ông ta. Đổng Trác và Lã Bố vì tranh giành Điêu Thuyền mà trở mặt, tình tiết này phù hợp với đặc trưng tính cách của hai nhân vật và có lô gíc thống nhất với sự thực lịch sử. Điêu Thuyền không còn là người con gái thông thường chỉ mong vợ chồng đoàn tụ mà trở thành quái kiệt quần hồng mang sứ mạng lịch sử, tuy nhẫn nhục tuân mệnh nhưng cũng có được sự tự do trong tâm lý, tha hồ tự tung tự tác ở giữa Đổng – Lã. Cả tình tiết cũng nhờ đó mà rùng rùng sống động, hư cấu nghệ thuật cùng tái hiện sự thực lịch sử hoà quyện nhuần nhuyễn. Chính ở trong tình tiết lung linh muôn vẻ này, vẻ đẹp, trí thông minh, tài cơ mưu của Điêu Thuyền mới toả sáng rực rỡ, giúp Điêu Thuyền trở thành hình tượng nghệ thuật đầy xúc động, nhân vật ai ai cũng đều thuộc nằm lòng.

Vì Điêu Thuyền được xếp vào một trong "tứ đại mỹ nữ" Trung Hoa, lại vì là nhân vật nữ gây ấn tượng sâu sắc nhất trong "tam quốc diễn nghĩa", từ đời Minh Thanh trở đi, người ta luôn muốn chứng thực trong lịch sử có nhân vật này. Ví như Hồ Ứng Lân trong "Thiếu thất sơn phòng bút tùng" quyển 41 "Trang Nhạc Uỷ đàm" hạ viết: "chém Điêu Thuyền là việc chưa từng có, chỉ là lời đàm của Uỷ Hạng. Sau "(Quan) Vũ truyện" có ghi chú: " Vũ muốn lấy vợ của (Lã) Bố, gọi Tào Công, Công nghi vợ Bố có sắc đẹp hiếm có, cho nên lưu lại cho mình". Không gì là vô cớ mà ra cả". Lương Chương Cự đời Thanh trong "Lương tích tục đàm" quyển 6 thì viết: "Điêu Thuyền… hẳn có con người này thật." Những học giả nổi danh này hoặc giả định vu , hoặc quả quyết khẳng định chủ yếu cũng thống nhất với nhau ở 3 luận cứ:

Một là, dẫn theo "Tam quốc chí, Nguỵ thư, Lã Bố truyện" có đoạn "(Lã) Bố tư thông với thị tỳ của (Đổng) Trác", "Hậu Hán thư, Lã Bố truyện" cũng có đoạn ghi chép tương tự. Có người bèn nói "thị tỳ" này chính là Điêu Thuyền. Thế nhưng, xét từ những ghi chép kể trên, thị tỳ này chỉ là tư thông với Lã Bố chứ không có bất cứ vai trò gì trong việc mưu diệt Đổng Trác, làm sao sánh kịp với vai chính Điêu Thuyền đóng "mỹ nhân kế" của Doãn đây?

Hai là, có người nói biết Quan Vũ muốn lấy người thiếp của Lã Bố, Tào Tháo lại tranh trước đòi lấy làm của mình, vậy người thiếp này chắc chắn phải rất đẹp, người mỹ nữ này chính là Điêu Thuyền. Sự thực thì, theo "Tam quốc chí, Nguỵ thư, Quan Vũ truyện" chú dẫn "Thục ký", người Quan Vũ muốn lấy là Đỗ thị thiếp của Tần Nghi Lộc – bộ tướng của Lã Bố nhưng bị Tào Tháo tranh chiếm lấy. Đỗ thị này không phải là "vợ Lã Bố", tất nhiên càng không phải là Điêu Thuyền. Cho dù là học giả nổi tiếng cỡ như Hồ Ứng Lân cũng có khi đọc sách không cặn kẽ, hiểu lầm ghi chép rõ ràng của sử sách mà phạm sai lầm cho Quan Vũ là "muốn lấy người thiếp của Lã Bố" rồi theo đó mà nhầm rằng "muốn lấy Điêu Thuyền".

Ba là, có người dẫn câu "người con gái mặt hoa da phấn dưới lá đại kỳ" trong "Lã tướng quân ca" của thi sỹ đời Đường Lý Gia để nói "người con gái mặt hoa da phấn" ấy là Điêu Thuyền. Điều này càng hoang đường. Trong thơ Lý Gia đa phần là tưởng tượng theo trường phái của chủ nghĩa lãng mạn, sao có thể có chút thực chứng nào? "Người con gái mặt hoa da phấn" này với Điêu Thuyền thì có liên hệ gì?

Những chi tiết trên đều là khảo chứng học thuật không nghiêm chỉnh, không thể chứng thực quả có một Điêu Thuyền trong lịch sử. Ngược lại, chỉ có thể nói là trong truyền thuyết diễn xướng lâu dài của nghệ nhân dân gian, đã hư cấu chi tiết "Bố tư thông với thị tỳ Trác" có trong sử liệu để sáng tạo nên hình tượng mỹ nhân Điêu Thuyền, biến Điêu Thuyền thành vai chính trong "mỹ nhân kế" của Vương Doãn La Quán Trung đã sửa đổi đầy sáng tạo mối quan hệ nhân vật, làm nổi rõ hơn vẻ đẹp, trí thông minh và tài cơ mưu của Điêu Thuyền, khiến hình tượng này càng thêm mê đắm lòng người.

Hiểu rằng Điêu Thuyền là một nhân vật hư cấu, văn hoá dân gian khi tả thuật quê quán, lịch sử nhân vật này tất sẽ có sự tuỳ hứng phóng tác. Tiêu biểu là vở tạp kỹ đời Nguyên "Cẩm Vân đường mỹ nữ liên hoàn kế", trong đó Điêu Thuyền tự thuật thân thế mình là "người thôn Mộc Nhĩ Hân Châu". Về việc này, giới học thuật trước nay không xem là thực bởi vốn đã là hư cấu.

Ngày nay, tuy có lúc vẫn có người nêu ra những cách nói này khác nhằm kéo lại cho Điêu Thuyền một "quê nhà". Năm 1991, có người đã viết bài đăng trên "nhân dân nhật báo" bản hải ngoại với nội dung "Điêu Thuyền là người Cốc Câu thuộc Điêu gia ở huyện Bảo An (nay là huyện Chí Đan) tỉnh Thiểm Tây". Bấy giờ tôi đã viết bài phản bác lại. Về sau, lại có người dựa theo những tích truyện dân gian, nói Điêu Thuyền và Lã Bố cùng là người Định Nhương tỉnh Sơn Tây. Gần đây, lại có huyện X ở Tứ Xuyên tự xưng là tìm thấy mộ Điêu Thuyền thế là Điêu Thuyền lại thành ra người Tứ Xuyên. Những cách nói này lười biếng trong dàn dựng hơn nhiều so với thuyết "Hân châu" ở trên đã đề cập. Đó chẳng qua chỉ là vô số những dị bản trong truyền thuyết dân gian mà thôi.

Bất bình thay cho Tào Tháo, tiếng oan mãi cứ ngàn năm?

Dù đã được không ít danh nhân như Lỗ Tấn, Quách Mạt Nhược… dày công giải thích thì nay quan điểm xem Tào Tháo là hoá thân của gian thần vẫn có môi trường sống khoẻ khoắn rộng rãi. Điều này không khỏi khiến chúng ta giật mình trước sức mạnh của văn học, sức mạnh của truyền thống. Bài viết dưới đây xuất phát từ hai luận điểm chủ yếu là những cống hiến của Tào Tháo đối với tác phẩm "Binh pháp Tôn Tử" và thái độ trọng đãi nhân tài của ông để bất bình thay cho Tào Tháo. Bên cạnh đó cũng phân tích bởi "ép Thiên tử cho mình làm Chư hầu, mong hỗ trợ Hoàng đế trị vì, vì thế mà từ đời Tống về sau chẳng còn thấy những lời bình tốt đẹp về Tào Tháo", có thể cũng giúp giải đáp phần nào lý do vì sao Tào Tháo phải mang trên mình án oan làm nhân vật phản diện suốt hơn 1000 năm. 

Tào Tháo: Sự đối lập giữa hình tượng dân gian và diện mạo lịch sử

"Nhắc Tào Tháo, Tào Tháo đến liền" là câu tục ngữ trong dân gian Trung Quốc. Câu nói này có thể hiểu rằng ông Tào Tháo này khắp cùng nam phụ lão ấu người Trung Quốc đều thuộc nằm lòng cả. Nhưng nhận thức dân gian đối với Tào Tháo lại chỉ gói gọn trong một đại từ "gian hùng một thời". Nhận thức này chủ yếu đến từ "Tam quốc diễn nghĩa". "Tam quốc diễn nghĩa" được xếp vào một trong bốn bộ danh tác của văn học cổ điển Trung Quốc cùng với "Hồng Lâu Mộng", "Thuỷ Hử

truyện", "Tây Du ký", trong đó có viết lại một câu bất hủ của Tào Tháo: "Thà ta phụ người trong thiên hạ, còn hơn để người trong thiên hạ phụ ta". Như đổ thêm dầu vào lửa, hết lượt hý kịch, bình thư, điển nghệ suốt trong lịch sử đều dốc sức dặm mắm thêm muối, trên sân khẩu hý kịch Tào Tháo đã mang một bộ mặt trắng toát mắt kẻ chỉ, tượng trưng cho hình ảnh tên gian thần vạn phần gian ác.

Kinh kịch là quốc tuý của Trung Quốc, có thanh thế lớn cả ở trong và ngoài nước, vô số khách nước ngoài cũng chỉ vì kinh kịch mà tới Trung Quốc để tìm hiểu. Những vở trong Kinh kịch như "Xúc phóng Tào", "Kích cổ giá Tào" và "Từ mẫu giá Tào", trong vở "Thăm nhà" có vai ông cụ bà cụ, hát giọng hào sảng sôi nổi, uyển chuyển cảm động, làm cho người mê kịch nghe như ngây như dại, nhưng những tình tiết hư cấu này không chỉ vu hại Tào Tháo mà còn hạ thấp Tào Tháo cả về tài trí lẫn năng lực, dựng nên một hình tượng nghệ thuật đa nghi giảo quyệt, giết người không nương tay, ngang ngược bạo hành và tự tư một cách cực đoan.

Diện mạo chân thực của Tào Tháo trong lịch sử ra sao? Thiên đầu tiên trong "Tam quốc chí" dành hẳn làm truyện ký cho Tào Tháo, tức "Vũ Đế kỷ", đây là truyện ký đầu tiên viết về Tào Tháo trong lịch sử, ước dài khoảng hơn một vạn ba ngàn chữ. Truyện ký ghi thuật lại một cách khách quan công quả của Tào Tháo trong mấy chục năm chinh chiến. Tào Tháo sinh vào năm Đông Hán Vĩnh Thọ nguyên niên (155), mất vào năm Kiến An thứ 25 (năm 220 SCN). Cùng năm, sau cái chết của Tào Tháo, con Tháo là Tào Phi lên kế ngôi Nguỵ Vương. Không lâu sau, Hán Hiến Đế Lưu Hiệp bị bức phải nhường ngôi, Tào Phi trở thành hoàng đế đầu tiên của vương triều Nguỵ, sử gọi là Nguỵ Văn Đế, truy phong cha mình Tào Tháo là Nguỵ Vũ Đế chứ bản thân Tào Tháo lúc sinh thời chưa hề được làm hoàng đế. Tác giả "Tam quốc chí" Tr�! �n Thọ gọi ông là: "con người phi thường, kiệt nhân xuất thế".

Mao Trạch Đông lúc phê vào cuốn "Tư trị thông giám" đã viết, "Tào Tháo thống trị miền Bắc Trung Quốc, sáng lập nước Nguỵ, ông đã cải cách nhiều hủ hoá trong triều Đông Hán, áp chế cường hào, phát triển sản xuất, thực hiện chế độ tuân điền, còn đôn đốc khai hoang, cho thực thi pháp chế, đề xướng tằn tiện, biến một xã hội đã bị phá vỡ nghiêm trọng bắt đầu đi vào ổn định, khôi phục, phát triển. Ngần ấy chẳng lẽ không đủ để khẳng định, chẳng lẽ không phải là tài cán phi thường hay sao? Nói Tào Tháo là gian thần mặt trắng ấy là bản án oan mà quan niệm chính thống của nền chính trị phong kiến đã tạo tác nên, bản án này cần phải được lật lại." Ông còn ngợi khen khí khái hùng tráng của thơ văn Tào Tháo, trong bài từ "Lương đào sa. Bắc Đới Hà" của mình ông đã viết "Nguỵ Vũ quất roi, Đông lâm Kiệt thạch có áng văn lưu truyền muôn thuở", vun đắp hình tượng nhà chính trị vĩ đại Tào Tháo. Trong thư ông viết cho các con gái, ông cũng yêu cầu họ phải học thơ văn Tào Tháo để nâng cao tu dưỡng văn học của mình. Trong bài thơ nổi tiếng "Quy tuy thọ" (rùa tuy thọ), Tào Tháo dùng những ngôn từ hùng tráng "tuổi cao tráng chí càng cao, chí ngoài ngàn dặm. Kẻ dạn dày công trạng, cuối đời hùng tâm tráng chí vẫn còn nguyên" để tỏ rõ thế thái của người dù già lão vẫn tráng kiện, câu nói ấy đã trở thành danh ngôn lưu truyền thiên cổ.


Ngày 23 tháng 3 năm 1959, tờ "Nhân dân nhật báo" đã đăng tải bài viết của Quách Mạt Nhược, viện trưởng Viện khoa học Trung Quốc với đầu đề "thay Tào Tháo lật lại hồ sơ", trong đó có một tiêu đề nhỏ viết rằng: Tào Tháo đã phải làm tấm gương của kẻ phản diện hơn một ngàn năm đầy oan uổng, ngày hôm nay, phải thay ông khôi phục danh dự. Nhà lịch sử nổi tiếng Tiễn Bách Tán cũng đã viết một bài trên tạp chí "Sử học" lúc bấy giờ với tiêu đề "Phải khôi phục danh dự cho Tào Tháo".

Kìm kẹp Thiên tử, dùng danh nghĩa mà hạ lệnh cho kẻ dưới: bậc đế vương thời hậu thế khó xét cho xuôi

Có thể nói, tài trí của Tào Tháo vượt xa Tôn Quyền, Lưu Bị và Gia Cát Lượng, không hổ danh là nhất đại anh hùng giữa thời loạn thế. Những thành tựu trác việt của ông trong tất cả các mặt chính trị, ngoại giao, quân sự, kinh tế, văn học … có công lao không thể phủ nhận. Đặc biệt trong chính sách tôn trọng trí thức và trọng dụng nhân tài, những cống hiến của ông xứng đáng được học hỏi, mang ý nghĩa lịch sử và ý nghĩa hiện thực sâu sắc. Lại nhờ sức hút tỏa ra từ nhân vật này mới có thể khiến hàng trăm văn nhân võ tướng biết tên biết mặt của thời bấy giờ đều tới quy tụ dưới trướng ông, chúng ta sẽ cùng phân tích cách đối nhân xử thế của ông.

Nói về việc đối nhân xử thế, đây là chủ đề phức tạp nhất, vi diệu nhất, cao viễn thâm sâu nhất và uyên áo nhất trong xã hội loài người. Đối nhân xử thế đụng chạm tới hết thảy cổ kim trong ngoài, như quan hệ trong nước – quốc tế, quan hệ dân tộc, quan hệ thượng cấp – thuộc hạ, quan hệ gia đình, quan hệ thày – trò, quan hệ nam nữ v..v…, nói cho cùng cũng đều là đối nhân xử thế cả. Đối nhân xử thế có xử lý tốt thì quốc mới thái dân mới an, sự nghiệp có thành tựu, quốc phú dân cường; xử lý không tốt thì chuyện lớn là chiến hoạ theo đó mà khởi phát, dân không còn đường sống; chuyện nhỏ là gia đình bất hoà, láng giềng bốn bề bất an, gà chó chẳng yên.

Trong xã hội phong kiến mấy ngàn năm, đối nhân xử thế khó xử lý nhất là quan hệ quân thần. Cái lẽ làm bạn vua như cưỡi trên lưng hổ, vua muốn bề tôi phải chết, bề tôi không thể không chết, ấy là quan niệm luân lý thời phong kiến. Dù có công phò trợ lập quốc, một khi bị vua có ý hoài nghi hay mang hận thì chỉ nội trong một đêm, khắp nhà đầy cảnh chém giết, thậm chí còn chu di cửu tộc. Dang tướng Ngũ Tử Tư và Hàn Tín bị chém đầu, thậm chí bị diệt đến cả ba họ sau những công trạng hiển hách đó thôi. Vậy nên, sử sách đã viết nên câu bất hủ thế này: "tóm được thỏ rồi chó săn cũng bị làm thịt, thiên hạ đã định xong công thần không còn đường sống; chim bay hết thì cung nỏ cũng chẳng còn tác dụng; kẻ địch bại, mưu thần tất vong". Ấy là lời sấm truyền cho quan hệ quân thần trong xã hội phong kiến.

Đứng trước cảnh nước nguy nan, Tào Tháo cảm nhận rõ thiên tử là một nhân vật nguy hiểm, nhưng cũng lại là nhân vật trọng yếu mà một quốc gia thống nhất cần phải có. Do vậy thoạt tiên ông đem vị tiểu hoàng đế mới vỏn vẹn có 16 tuổi Lưu Hiệp (sử gọi là Hán Hiến Đế) đưa đến căn cứ địa của mình là Hứa Xương, thực hiện chính sách "phụng mệnh Thiên tử để ra lệnh", đây chính là điều mà hậu thế vẫn lưu truyền về cái gọi là: "kìm kẹp thiên tử, dùng danh nghĩa mà phát lệnh cho kẻ dưới". Cách hành xử chính trị này của ông biến Thiên tử thành biểu trưng hình tượng của quốc gia, bản thân mình thì nắm đại quyền chính trị quân sự của triều đình, khó tránh khỏi điều tiếng mà lịch sử gán cho. Trong khi ấy thì, một đời Lưu Hiệp sống cảnh Thiên tử an bình, sống cho tới tận 15 năm sau khi Tào Tháo chết, chỉ năm tháng trước khi Gia Cát Lượng bệnh mà chết trong đoàn Ngũ trượng nguyên quân mới già lão mà tạ thế. Ý ở đó nên nhà lịch sử nổi tiếng của Đài Loan – Trung Quốc là Bách Dương mới gọi ông ta là "hoàng đế cuối triều may mắn nhất trong lịch sử Trung Quốc".

Nhưng cách hành xử ấy của Tào Tháo đã uy hiếp nền chính trị của vương triều phong kiến. Do vậy từ triều Tống trở về sau, các hoàng đế trong lịch sử ít khi khen ngợi Tào Tháo, ngược lại, Quan Vũ được xem là hoá thân của con người trung nghĩa, được đưa lên tôn sùng tột bực. Vua Càn Long đời Thanh thậm chí còn phong Quan Vũ làm Quan Đế, lập đền thờ cúng ở khắp nơi. Có thể nói, việc này mang nhiều ý tứ tuyên truyền cho cương thường luân lý phong kiến. Đặc biệt là tới hoàng đế Càn Long triều Thanh, khi đặt cho Tào Tháo cái danh "thoán nghịch" (thoán đoạt phản nghịch), mặt khác lại xây Miếu Quan Đế cho Quan Vũ. Cách nhận định đánh giá kiểu quan phương chính thức này từ đó đã trở thành một giới luật chính trị vô hình của triều Thanh.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét