Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013

Nghe thuat song4.html

Nghe thuat song4.html

Nghệ thuật sống

Nguồn: http://www.xitrum.net

Bí quyết


Tôi lấy chồng đã gần 40 năm. Tuổi tác làm cho Scott đẫy đà hơn. Từng là vận động viên marathon, giờ anh ấy chỉ có thể chậm rãi đi trong hành lang bệnh viện. Mái tóc anh thưa dần, lưng đã hơi còng xuống vì những năm tháng lao động vất vả. Thế nhưng ánh mắt vừa dịu dàng vừa sôi nổi của Scott vẫn khiến tôi muốn kéo anh chạy ùa ra đồng cỏ, hệt như thủa chúng tôi còn trẻ.

Khi người xung quanh hỏi tôi: “Điều gì khiến cho tình yêu của bạn kéo dài mãi mãi?”, tôi thầm điểm qua trong óc những lý do như sự ràng buộc, cùng chia sẻ những mối quan tâm, không ích kỷ… Còn gì nữa nhỉ? Vui nhộn, ngạc nhiên. Thỉnh thoảng chúng tôi quay lại cái thời trẻ trung nghịch ngợm. Mới hôm qua, trong siêu thị, khách mua hàng tròn mắt khi thấy hai ông bà già (chúng tôi tự cho mình là như vậy) hùng hổ mua hàng như ăn cướp. Chẳng là chúng tôi chia đôi danh sách những món cần mua và cá độ xem ai mua xong trước. Scott giành được giải thưởng là một cây kem. Nhưng mới ăn được mấy miếng thì bị bể mánh: “Ông già” láu cá đã đẩy xe tới chỗ khuất và nhờ mấy cô bán hàng trong siêu thị lựa hàng giùm.

Tôi yêu Scott vì lúc nào anh cũng tặng tôi những điều ngạc nhiên. Ngày sinh nhật tôi năm nọ, vừa bước chân về nhà tôi nhìn thấy mẩu giấy dán trên cửa ra vào. “Có tin nhắn quan trọng trong ngăn kéo bàn trang điểm của em. Hôn em”. Mảnh giấy trong ngăn kéo viết: “Anh vội đi. Em nhớ mở tủ quần áo ngay kẻo hư hết đồ. Chìa khóa giấu dưới thảm chùi chân trong bếp”. Lo lắng không hiểu đã ! xảy ra chuyện gì, tôi hớt hãi tra khóa mở tủ. Scott! Diện một bộ đồ mới cứng, mồ hôi đầm đìa như tắm, chồng tôi đứng trong tủ, một tay cầm bó hoa tay kia cầm một cái ấm đun nước điện làm quà!

Giữa chúng tôi có sự hiểu biết. Tôi chẳng phàn nàn nếu thỉnh thoảng sau những trận bóng rổ, đám đàn ông rủ nhau làm vài vại bia. Anh cũng hiểu tại sao mỗi năm một lần, tôi giao con cái nhà cửa cho anh cai quản vài ngày để vượt vài trăm cây số tới chỗ mấy bà chị gái… tán gẫu cho sướng miệng.

Ngoài việc cùng gánh vác những công việc gia đình, Scott cố chia sẻ với tôi cuộc sống tinh thần. Biết tôi thích tiểu thuyết tình cảm, Scott chịu khó tranh thủ những lúc ngồi trên máy bay giữa các chuyến công tác để đọc chúng. Tôi biết anh chỉ thích truyện trinh thám và rùng rợn thôi, nhưng anh đã ép mình đọc tiểu thuyết tình cảm để tôi có người giãi bày, để tôi không cảm thấy đơn độc.

Chúng tôi sẵn sàng tha thứ cho nhau. Anh không bao giờ cằn nhằn nếu tôi vì bực bội ở sở làm mà lỡ to tiếng ở nhà. Và khi anh thú thật là đã để thua lỗ trong khi dùng tiền tiết kiệm của chúng tôi để đầu tư chứng khoán, tôi ôm hôn anh và nói: “Kệ nó. Dù sao cũng chỉ là tiền thôi mà, anh yêu”.

Làm nghề bác sĩ, cảnh chết chóc hàng ngày có thể làm cho con tim người ta chai đi, nhưng điều này không xảy ra với Scott. Tuần trước, anh đi làm về với ánh mắt buồn rầu. Sau bữa cơm tối, để anh chơi với các con một lát rồi tôi mới kéo anh xuống bếp. Sau một thoáng im lặng, Scott giải thích lý do. Hôm nay, anh đã chứng kiến một người chồng đứng cạnh vợ ! đang h�! �p hối trên giường bệnh. Nhìn người chồng đau khổ vì bất lực, không thể cứu được vợ sau 40 năm chung sống, Scott cảm thấy bị dằn vặt. Nghe anh kể, tôi không cầm được nước mắt. Tôi khóc vì thương người đàn ông bất hạnh kia, tôi cũng khóc vì mừng rằng trái tim của người mà tôi yêu chưa hề nguội lạnh.

Truyện Hải Âu và Dương Mai

Louise Dickínon Rich


Bà tôi có một kẻ thù tên là Wilcox. Cả bà tôi và bà Wilcox đều về làm dâu của hai nhà cách nhau một hàng giậu trên con đường tỉnh nhỏ, nơi mà nhà cửa lợp mái bằng cây du. Hai bà đã về làm dâu và sống suốt đời ở đó. Tôi không biết điều gì đã khiến hai bà trở thành kẻ thù địch của nhau từ thủa tôi chưa ra đời – và tôi nghĩ rằng khi tôi có mặt và lớn lên – 30 năm sau – chính hai bà cũng không còn nhớ được điều gì đã gây nên cuộc chiến, nhưng hai bà vẫn khiêu chiến gay gắt!

Tôi không nói sai sự thực. Ðây không phải là cuộc đấu khẩu tầm thường, mà đây là cuộc chiến toàn diện giữa các bà. Không có nơi nào trong tỉnh nhỏ này mà không bị ảnh hưởng của cuộc chiến đấu: ngôi nhà thờ ba trăm năm, vững chãi qua cuộc cách mạng nội chiến, và rồi cuộc chiến tranh giữa nước Mỹ với Tây Ban Nha, hầu như phải lung lay khi hai bà tiến hành cuộc chiến trong tổ chức tương trợ phụ nữ trong giáo hội. Bà tôi thắng cuộc chiến ấy, nhưng chiến thắng đó là một chiến thắng chỉ mang tiếng bên ngoài mà thôi. Bà Wilcox phải từ chức khỏi tổ chức này vì không làm chủ tịch được.

Bà Wilcox lại chiến thắng trong cuộc chiến ở thư viện tỉnh, khi vận động để cháu gái bà tên Gertrude được bổ nhiệm thủ thư thay vì cô tôi là Phyllis. Ngày mà cô Gertrude nhậm chức là ngày mà bà tôi ngưng đọc sách thư viện. Qua một đêm, sách của thư viện đã trở thành những thứ “ố bẩn” đối với bà. Bà tôi bắt đầu bỏ tiền mua lấy sách để đọc.

Trận chiến ở trường học là! trận hòa không phân thắng bại. Hiệu trưởng trường xin được một công việc tốt hơn trước khi bà Wilcox vận động để tống khứ ông đi, hay trước khi bà tôi vận động giữ ông lại làm việc suốt đời ở đó.

Ngoài những trận chiến chính này, hai bà còn có những cuộc đột kích và trả đũa ngang qua biên giới. Khi còn nhỏ, chúng tôi thăm bà, và một phần sinh hoạt vui chơi hồi đó là khiêu khích lũ cháu hỗn láo của bà Wilcox – (hỗn láo giống như chúng tôi!) – hái trộm nho của bà, những chùm nho mọc giữa hàng rào của hai người. Chúng tôi cũng đuổi gà của bà Wilcox, và đặt thuốc súng ở đường ray xe điện, ngay trước nhà bà Wilcox, hy vọng khi xe chạy ngang thuốc sẽ nổ làm bà Wilcox hoảng hồn cho vui.

Vào một ngày cao trào, chúng tôi thả rắn vào thùng đựng nước mưa của bà Wilcox. Bà tôi phản đối tượng trưng, nhưng chúng tôi cảm nhận được sự thông cảm ngầm của bà. Sự phản đối này rất khác biệt với tiếng trả lời “không” của mẹ tôi, nên chúng tôi vui vẻ tiếp tục với trò nghịch ngợm của chúng tôi. Nếu con tôi mà… Nhưng đó là chuyện khác.

Ðừng vội nghĩ đây là một cuộc chiến tranh khiêu chiến bởi một phía. Bà Wilcox cũng có một đàn cháu nữa chứ. Bọn chúng khỏe mạnh và tinh khôn hơn chúng tôi nữa là khác. Bà nội chúng tôi làm sao mà tránh khỏi sự trả đũa của chúng vào ngày lễ Halloween: Bàn ghế đồ đạc bỏ quên ngoài vườn, sáng hôm sau được thấy nằm hết trên mái của kho thóc, và bà tôi phải mất nhiều tiền mướn những người đàn ông khỏe mạnh để đưa chúng xuống.

Vào những ngày không có gió, ấy thế mà d�! �y phơi ! quần áo lại bị đứt một cách bí ẩn, khiến những tấm trải giường bị lấm đất phải mang đi giặt lại. Một số chuyện bí ẩn đó xảy ra là mọi người nghĩ đến lũ cháu của bà Wilcox.

Tôi không hiểu sao bà tôi lại có thể chịu đựng nổi những nghịch ngợm quấy quả đó! May là bà có một trang báo “gia đình” trong tờ nhật báo Boston để đọc cho khuây khỏa.

Trang gia đình là một trang rất hấp dẫn. Ngoài việc đăng tải những bí quyết về nội trợ, nấu ăn, lau chùi, còn có một cột hộp thư đăng những lá thư của độc giả viết cho nhau. Mục đích của cột này là khi người ta gặp vấn đề hay chuyện bức xúc, người ta có thể viết thư đăng báo, ký tên bằng những bút hiệu riêng, tỷ như bút hiệu của bà tôi là cây Dương Mai. Rồi người khác đã từng gặp vấn đề giống vậy sẽ viết thư trả lời giải thích kinh nghiệm của mình ký tên bằng bút hiệu riêng. Thường thường khi vấn đề giải quyết xong, mọi việc chìm vào dĩ vãng, thì người ta tiếp tục viết thư cho nhau trao đổi những vấn đề khác như con cái, nhà cửa, nội trợ.

Bà tôi bị lôi cuốn vào sinh hoạt này. Bà và một bà khác bút hiệu là Hải Âu đã thư từ trao đổi với nhau hơn hai chục năm, và bà tôi đã trao đổi với Hải Âu những chuyện mà bà không bao giờ hé răng với một người khác. Tỷ như có lần bà muốn sanh thêm một người con nữa, nhưng đã không sanh; một lần khác chú tôi, chú Steve đã bị lây chí ở trường, và bà tôi rất mắc cỡ, dù là bà đã cố gắng chữa trị cho chú tôi để mọi người không biết đến. Hải Âu đích thực là người bạn tri kỷ của bà tôi.

Khi tôi được 16 tuổi, bà Wilcox qua đời. Ở một tỉnh nhỏ như tỉnh này, bất kể người ta có ghét người hàng xóm đến mức nào đi chăng nữa, cách xử thế đúng đắn thông thường là phải chạy qua để xem người ta có thể giúp gì được cho gia đình có người chết.

Bà tôi, gọn ghẽ trong cái tạp dề dường như! có ý chứng tỏ là bà chuẩn bị nấu ăn, bước băng qua hai bồn bông để qua nhà bà Wilcox. Lúc ấy con gái của bà Wilcox đành nhờ bà tôi sắp xếp hộ gian ngoài tiếp khách. Và ở đó, trên bàn của phòng tiếp khách là một tập sách lớn dùng để dán sưu tập báo, trong sách sưu tập này, được dán gọn gàng theo cột, là thư từ của bà tôi gửi cho Hải Âu và thư của Hải Âu gửi lại cho bà. Kẻ thù ghê gớm nhất của bà tôi lại chính là người bạn tốt nhất của bà tôi bấy lâu nay.

Ðó cũng là dịp duy nhất mà tôi thấy bà tôi khóc, lúc ấy tôi không nhớ chính xác là bà khóc lóc điều gì, nhưng bây giờ thì tôi hiểu. Bà đã khóc cho những năm dài phung phí trôi qua không bao giờ có thể vớt vát được. Lúc đó tôi đã bị ấn tượng mạnh mẽ bởi nước mắt của bà, mà đã làm cho tôi không thể quên được ngày ấy. Ðó là ngày mà tôi bắt đầu ý thức được rằng: Có những người chúng ta có thể không chấp nhận họ được. Họ có thể là bần tiện và nhỏ mọn, nhưng nếu bạn bước sang bên trái mười bước và nhìn lại, với ánh sáng chiếu ở một góc độ khác, có thể bạn sẽ thấy người đó rộng rãi, hào phóng và tử tế. Còn tùy thuộc vào góc cạnh chúng ta đứng nhìn họ.

Truyện này do bạn Khắc Trọng (Email: ban_co_thu@msn.com) gởi đến Xitrum.net

Ga cuối

Rober J.Hastings


Chìm sâu trong tiềm thức của chúng ta là một hình ảnh hoàn hảo về cuộc sống! Chúng ta hãy tưởng tượng mình đang đi trên một cuộc hành trình bằng xe lửa xuyên qua lục địa. Chúng ta băng qua cảnh xe hơi chạy trên xa lộ, cảnh trẻ em vẫy chào trên đường băng qua phố, cảnh sườn đồi xanh mướt xa xa có đàn bò gặm cỏ, cảnh khói trắng tuôn ra từ nhà máy, cảnh bình nguyên, thung lũng hẹp, núi đồi chen nhau, cảnh đường chân trời và làng mạc.

Nhưng ngự trị cao nhất trong tâm trí chúng ta là cảnh ga cuối cùng. Vào một ngày nào đó, một giờ nào đó chúng ta sẽ vào sân ga cuối. Cờ được vẫy chào và nhạc sẽ được cử lên. Khi chúng ta tới đó, ước mơ thành hiện thực và cuộc sống sẽ hoàn chỉnh giống như hoàn thiện một truyện tranh lắp ghép hình. Chúng ta vẫn chờ đợi giờ phút tới ga cuối, đi không biết mệt mỏi và không chút nghỉ ngơi.

“Tới nơi rồi đây” – chúng ta reo lên. “Khi tôi mười tám tuổi”, “Khi tôi mua một chiếc Mercedes Benz 450SL”, “Khi con út tôi vào đại học”, “Khi tôi trả hết tiền thế chấp”, “Khi tôi được đề bạt thăng chức”, “Khi tôi đến tuổi hưu”… tôi sẽ sống thoải mái.

Chẳng chóng thì chầy chúng ta sẽ ý thức được là không có một chỗ đích nào để chúng ta đến. Vui thú của cuộc sống là trên chuyến đi. “Ga Cuối” chỉ là một giấc mơ, và thường vượt quá tầm với của chúng ta.

“Vui hưởng với thực tại đi” là một phương châm. “Thực tại không phải là gánh nặng c�! �a hôm nay mà làm cho ta điên dại. Chúng cũng không phải là sự nuối tiếc quá khứ và sự sợ hãi của tương lai. Nuối tiếc và sợ hãi là hai nguyên nhân song sinh cướp đi mất vui thú thực tại của chúng ta”.

Nên đừng vội rong ruổi đếm mau những dặm đường, mà hãy để thời gian leo núi, tắm sông, ngắm nhìn hoàng hôn, vui nhiều, buồn nhiều. Cuộc sống phải được tận hưởng mỗi ngày. Rồi ta sẽ tới đích.

Truyện này do bạn Khắc Trọng (Email: ban_co_thu@msn.com) gởi đến Xitrum.net

Nhớ đến tôi

Robert N.Test


Ngày ấy sẽ đến, khi thân xác tôi nằm trên một chiếc giường phủ drap trắng trong một bệnh viện đầy ắp những người sống và những người đang hấp hối. Chẳng bao lâu bác sĩ sẽ quyết định rằng bộ não tôi ngưng hoạt động và rằng thực tế là cuộc sống của tôi đã chấm dứt.
Khi điều đó xảy ra, đừng cố gắng giúp tôi một cuộc sống nhân tạo bằng việc sử dụng máy móc. Ðừng gọi chiếc giường này là giường chết mà hãy gọi nó là chiếc giường của cuộc sống, và hãy mang thân xác tôi ra khỏi giường để giúp đỡ những kẻ khác có cuộc sống vẹn toàn hơn.

Hãy lấy thị giác của tôi cho người đàn ông chưa bao giờ được nhìn thấy ánh mặt trời lúc bình minh, một gương mặt trẻ thơ hay tình yêu trong ánh mắt của người phụ nữ. Hãy đưa trái tim của tôi cho người có trái tim tim bị đau đớn trong những ngày tháng vô tận. Hãy lấy máu của tôi cho một thiếu niên vừa được kéo ra khỏi đống vụn xe sau tai nạn để cháu có thể sống mà nhìn thấy hậu sinh của mình. Hãy đưa trái thận của tôi cho một người phải lệ thuộc vào máy để sinh tồn từ tuần này sang tuần khác. Hãy lấy xương của tôi, lấy từng bắp thịt, thớ thịt và từng sợi dây thần kinh trong thân xác tôi và tìm cách giúp một đứa trẻ tàn tật có thể đi được.

Tìm kiếm trong từng góc cạnh của bộ não tôi. Hãy lấy những tế bào nếu cần thiết hãy để nó phát triển để đến một ngày nào đó, một cậu bé không biết nói sẽ la lớn và một cô! bé bị điếc có thể nghe được tiếng mưa rơi trên cửa sổ.

Hãy đốt những gì còn lại của tôi và rải tro vào gió để giúp cho những bụi hoa nở rộ.

Nếu phải chôn một thứ gì đó, hãy chôn đi những lỗi lầm của tôi, sự yếu đuối của tôi và tất cả những thành kiến nhân loại.

Hãy đưa những tội lỗi của tôi cho quỷ dữ. Hãy gửi linh hồn của tôi cho thượng đế.

Nếu tình cờ bạn mong muốn nhớ đến tôi, bạn hãy có những lời nói hoặc việc làm thật tử tế đối với những người cần bạn. Nếu bạn làm được như vậy tôi sẽ còn sống mãi mãi.

Cảm ơn bạn Khắc Trọng (Email: ban_co_thu@yahoo.com) đã gởi truyện này đến Xitrum.net

Đánh nhau bằng gậy


Trong một tiết học của các sinh viên trường mỹ thuật, vị giáo sư đưa cả lớp xem bức tranh mô tả thân phận con người của Goya, họa sĩ nổi tiếng người Tây Ban Nha. Bức tranh mang tên Đánh nhau bằng gậy.

Trong bức tranh, Goya vẽ hai người nông dân đang xô xát nhau. Mỗi người cầm trên tay một chiếc dùi cui sần sùi. Một người đang giơ dùi cui để bảo vệ mặt mình. Nền trời trong xanh không để lộ một nét gì sắp xảy đến. Người ta không đoán được trời sắp dông bão hay sáng rực nữa.

Cả lớp nhốn nháo. Ai nấy đều lao nhao muốn phát biểu trước. Có sinh viên nói đây là bức tranh diễn tả định luật bảo tồn của con người: "Đấu tranh bảo tồn sinh mạng". Sinh viên khác: “Bức tranh diễn tả mục đích của con người là muốn hạnh phúc vì hạnh phúc là đấu tranh”. Sinh viên khác nữa lại phân tích: “Bức tranh muốn diễn tả chân lý con người là động vật có lý trí, vì chỉ có thú vật mới cắn nhau mà ở đây là thú vật có lý trí nên cắn nhau bằng gậy”.

Vị giáo sư ra hiệu cho cả lớp im lặng rồi bảo các sinh viên hãy quan sát thật kỹ một lần nữa. Cả lớp im ăng ắng. Mãi một lúc sau ông mới chậm rãi nói: “Thoạt nhìn ai cũng nghĩ đây chỉ là bức tranh tầm thường như những bức tranh khác. Thế nhưng có một chi tiết nói lên tất cả ý nghĩa của bức tranh: hai người nông dân đang hằm hằm sát khí để loại trừ nhau lại đang mắc cạn trong cồn cát. Từng cơn gió thổi đến, cát bụi đang kéo tới phủ lấp hai người đến quá đầu gối mà hai người không ai hay biết”.!

Vị giáo sư ngừng lại hồi lâu rồi nói tiếp: “Goya muốn cho chúng ta thấy rằng cả hai người nông dân này sắp chết. Họ sẽ không chết vì những cú dùi cui giáng vào nhau mà do cát bụi đang từ từ chôn vùi họ. Thế nhưng thay vì giúp nhau để thoát khỏi cái chết, họ lại cư xử chẳng khác nào loài thú dữ: họ cắn xé nhau. Bức tranh trên đây của danh họa Goya nói lên phần nào tình cảnh mà nhân loại chúng ta đang trải qua. Thay vì giúp nhau để ra khỏi không biết bao nhiêu tai họa, đói khổ, động đất, khủng bố, chiến tranh… thì con người lại giành giật chém giết lẫn nhau.

Bức tranh ấy có lẽ không chỉ diễn ra ở một nơi nào đó ngoài cuộc sống của các bạn, mà không chừng đang diễn ra hằng ngày trong các mối tương quan của ta với người xung quanh. Cơn cám dỗ muốn thanh toán và loại trừ người khác có lẽ vẫn còn đang gặm nhấm nơi từng con người.

Một trong những cách tốt đẹp nhất để tiêu diệt một kẻ thù chính là biến kẻ thù ấy trở thành một người bạn. Ngay chính trong cơn quẫn bách và đe dọa tứ phía, ta hãy liên đới để bảo vệ nhau, bảo vệ sự sống, bảo vệ hành tinh này”.

Bobsy

Jack Canfield & Mark V. Hansen


Người mẹ trẻ 26 tuổi nhìn xuống đứa con đang bị bệnh bạch cầu đến giai đoạn chót. Mặc dù trái tim người mẹ tràn ngập đau khổ, cô vẫn có sự quả quyết mạnh mẽ. Như mọi cha mẹ khác, cô rất muốn con mình lớn lên và đạt được mọi ước mơ của mình. Bây giờ thì chuyện đó không thể có được nữa. Bệnh bạch cầu không cho phép con cô thực hiện ước mơ của mình. Nhưng cô vẫn muốn tạo ra cho con một điều kỳ diệu. Cô nắm lấy tay con và hỏi “Bobsy, con có bao giờ nghĩ đến chuyện sẽ trở thành gì khi lớn lên không? Con có mơ ước về điều mà con sẽ làm trong cuộc đời mình?”

“Mẹ à, con vẫn ước mơ sẽ trở thành lính cứu hỏa khi con lớn lên.”

Người mẹ mỉm cười “Hãy chờ xem chúng ta có thể làm cho ước mơ đó trở thành sự thật hay không.” Trong ngày hôm đó, cô đi đến đội cứu hoả khu vực cua Phoenix, Arizona. Ở đó cô gặp Lính cứu hoả Bob, người có trái tim lớn hơn cả thành phố Phoenix. Cô giải thích ước mơ của con mình và xin cho con cô được đi một vòng trên xe cứu hỏa.

Người lính cứu hỏa Bob nói “Xem này, chúng tôi có thể làm hơn thế nữa. Nếu cô có thể chuẩn bị cho con vào 7 giờ sáng thứ Tư, chúng tôi sẽ cho cậu bé trở thành lính cứu hỏa danh dự của cả ngày. Cậu bé có thể tới trạm cứu hỏa, ăn cùng chúng tôi, chạy cùng chúng tôi tới tất cả các vụ cứu hoả trong ngày. Và nếu cô cho chúng tôi kích cỡ của con cô, chúng tôi sẽ làm cho cậu bé một bộ đồng phục lính cứu hỏa dành riêng cho cậu, với một cái mũ cứu hỏa – không phải là đồ chơi – với phù hiệu lính cứu hoả Phoenix trên đó, một bộ áo nhựa màu vàng như của chúng tôi và ủng cao su. Tất cả đều được làm tại Phoenix nên chúng ta sẽ có rất nhanh thôi.” Ba ngày sau người lính cứu hỏa Bob đến đón Bobsy, mặc cho cậu bộ đồng phục của lính cứu hỏa và đưa cậu từ giường bệnh đến chiếc xe cứu hỏa đang chờ. Bobsy ngồi ở ghế sau và giúp lái chiếc xe về đến trạm. Cậu bé cảm thấy như đang ở trên thiên đường. Hôm đó có ba cú điện thoại gọi cứu hỏa và Bobsy tham dự cả ba cuộc xuất quân. Cậu đi trên một chiếc xe cứu hoả khác, một chiếc xe y tế, và cả trên chiếc xe của Chỉ huy lính cứu hỏa. Cậu còn được đài truyền hình địa phương quay phim.

Với giấc mơ trở thành sự thật, với tất cả tình yêu và sự quan tâm săn sóc mà mọi người dành cho, Bobsy vô cùng xúc động và hạnh phúc đến mức mà cậu đã sống thêm được ba tháng – một thời gian dài hơn mức tất cả các bác sĩ tiên đoán.

Một đêm nọ, tất cả các dấu hiệu sự sống của cậu bé tụt xuống một cách đột ngột. Người y tá trưởng nhớ đến ngày mà Bobsy sống như một lính cứu hỏa, cô gọi cho chỉ huy lính cứu hỏa và hỏi có thể gửi một người lính cứu hỏa trong đồng phục đến với cậu trong lúc này hay không. Người chỉ huy trả lời, “Chúng tôi sẽ có mặt ở đó trong vòng 5 phút nữa. Cô có thể giúp chúng tôi một việc được không? Khi cô nghe tiếng và ánh chớp phát ra từ xe cứu hỏa chạy đến thì xin cô hãy thông báo qua radio cho toàn bệnh viện nghe rằng đó không phải là có báo động cháy. Đó chỉ là đội cứu hỏa đến để chia tay với một trong trong những thành viên tuyệt vời nhất của mình. Và xin cô hãy mở cửa sổ của phòng cậu bé. Xin cám ơn.! 221;

Khoảng 5 phút sau, chiếc xe cứu hỏa với cả móc và thang chạy đến bệnh viện. dựng cái thang lên cho đến cửa sổ phòng Bobsy ở lầu 3, 14 lính cứu hỏa nam và 2 lính cứu hỏa nữ trèo qua thang vào phòng của Bobsy. Được mẹ cậu bé cho phép, họ ôm cậu và nói với cậu bé rằng họ rất yêu cậu.

Với hơi thở cuối cùng trong cuộc đời mình, Bobsy nhìn lên người chỉ huy và nói “Thưa chỉ huy, vậy cháu là lính cứu hỏa thật sự phải không?”

“Phải, cháu là lính cứu hỏa thật sự.” người chỉ huy nói.

Với những lời nói đó, Bobsy mỉm cười và nhắm mắt lại mãi mãi.

Sắc màu của tình bạn


Có một ngày sắc màu của thế giới này bắt đầu tranh luận với nhau xem ai có gam màu đẹp nhất, quan trọng nhất, hữu dụng nhất và được yêu thích nhất.

Xanh lá cây nói: “Tôi quan trọng nhất. Tôi là dấu hiệu của sự sống và hy vọng. Tôi được chọn màu cho cỏ cây, hoa lá. Không có tôi, tất cả mọi loài trên thế gian này sẽ không thể tồn tại. Cứ hãy nhìn về cánh đồng kia, bạn sẽ thấy một màu xanh bạt ngàn của tôi”.

Xanh dương chen vào: “Bạn có nghĩ về trái đất. Vậy bạn hãy nghĩ về bầu trời và đại dương xem sao. Nước chính là nguồn sống cơ bản nhất, được tạo ra bởi những đám mây hình thành bởi những vùng biển rộng lớn này. Hơn nữa, bầu trời sẽ cho khoảng không rộng lớn, hòa bình và sự êm ả”.

Màu vàng cười lớn: “Ôi các bạn cứ quan trọng hóa. Tôi thì thực tế hơn, tôi đem lạ tiếng cười, hạnh phúc và sự ấm áp cho thế giới này. Này nhé, mặt trời màu vàng, mặt trăng màu vàng và các vì sao cũng màu vàng. Mỗi khi bạn nhìn vào một đóa hướng dương, bạn sẽ cảm thấy cả thế giới này đang mỉm cười. Không có tôi cả thế giới này sẽ không có niềm vui”.

Màu cam lên tiếng: “Tôi là gam màu của sự mạnh khoẻ và sức mạnh. Mặc dù lượng màu của tôi không nhiều bằng các bạn, nhưng tôi mới đáng giá nhất vì tôi là nhu cầu của sự sống. Tôi mang đến hầu hết các vitamin tối quan trọng như cà rốt, cam, xoài, bí ngô, đu đủ …Tôi không ở bên ngoài nhiều nhưng khi bình minh hay hoàng hôn xuất hiện là màu sắc của tôi. Ở đây có b�! �n nào sánh kịp được với vẻ đẹp ấy không ?”.

Màu đỏ không thể nhịn được cũng nhảy vào cuộc: “Tôi là máu, cuộc sống này là máu. Tôi là màu sắc của sự đe dọa nhưng cũng là biểu tượng của lòng dũng cảm. Tôi mang lửa đến cho con người. Tôi sẵn sàng chiến đấu vì mục đích cao cả. Không có tôi, trái đất này sẽ trống rỗng như mặt trăng. Tôi là sắc màu của tình yêu và đam mê, của hoa hồng đỏ, của hoa anh túc”.

Màu tím bắt đầu vươn lên góp tiếng: “Tôi tượng trưng cho quyền lực và lòng trung thành. Vua chúa thường chọn tôi vì tôi là dấu hiệu của quyền năng và sự xuất chúng. Không ai dám chất vấn tôi. Họ chỉ nghe lệnh và thi hành!”.

Cuối cùng, màu chàm lên tiếng, không ồn ào nhưng đầy quyết đoán: “Hãy nghĩ đến tôi. Tôi là sắc màu im lặng và hầu như không ai chú ý đến tôi. Nhưng nếu không có tôi thì các bạn cũng chỉ là vẻ đẹp bên ngoài. Tôi tượng trưng cho suy nghĩ và sự tương phản, bình minh và đáy sâu cả biển cả. Các bạn phải cần đến tôi để cân bằng cho bề ngoài của các bạn. Tôi chính là vẻ đẹp bên trong”.

Và cứ thế các sắc màu cứ tiếp tục tranh luận, thuyết phục màu khác về sự trội hơn của mình. Bỗng một ánh chớp sáng lóe trên nền trời, âm thanh dữ dội của sấm sét và mưa bắt đầu nặng hạt. Các sắc màu sợ hãi đứng nép sát vào nhau để tìm sự ấm áp.

Mưa nghiêm nghị nói: “Các bạn thật là ngớ ngẩn khi chỉ cố gắng vật lộn với chính các bạn. Các bạn không biết các bạn được tạo ra từ một mục đính thật đặc biệt, đồng nhất nhưng cũng khác nhau? Các b�! ��n là n! hững màu sắc thật tuyệt vời. Thế giới này sẽ trở nên nhàm chán nếu thiếu một trong các bạn. Nào, bây giờ hãy nắm lấy tay nhau và bước nhanh đến tôi”.

Các màu sắc cùng nắm lấy tay nhau và tạo thành những màu sắc đa dạng.

Mưa tiếp tục: “Và từ bây giờ, mỗi khi trời mưa tất cả các bạn sẽ vươn ra bầu trời bằng chính màu sắc của mình và phải hợp lại thành vòng để nhắc nhở rằng các bạn phải luôn sống trong hòa thuận, và ta gọi đó là cầu vồng. Cầu vồng tượng trưng cho niềm hy vọng của ngày mai”.

Và cứ như thế mỗi khi trời mưa, để gội rửa thế giới này, trên nền trời sẽ ánh lên những sắc cầu vồng làm đẹp thêm cho cuộc sống, để nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn tôn trọng lẫn nhau.

Cậu bé chờ thư

Louise Baker


Hồi đó tôi làm giáo sư một trường trung học con trai. Một học sinh tên là Bob, trái hẳn với các bạn, không bao giờ nhận được một bức thư nào cả. Vậy mà buổi chiều nào em cũng mau chân nhất, chạy lại chỗ đặt các hộc riêng chăm chú ngó vào hộc của em cho tới khi thư phát hết rồi mới quay ra.

Không phải là gia đình em quên em đâu. Tiền ăn ở trong trường, tiền tiêu vặt của em vẫn gởi tới đều đều đúng hạn. Tháng sáu, ông Hiệu trưởng nhận được thư xin cho em đi nghỉ ở một trại hè. Thì ra viên thư ký của thân phụ em lãnh nhiệm vụ lo cho em tất cả những chi tiết dó.

Nhưng song thân em không ai viết cho em một bức thư nào cả. Khi em kể lể với tôi rằng ba má em đã ly thân nhau, tôi mới hiểu tất cả nguyên do. Và tội nghiệp em, em vẫn tiếp tục trông thư một cách tuyệt vọng. Tôi thường đem tình cảm sầu thảm của em ra nói với một ông bạn đồng nghiệp, ông Joe Hargrove. ông ấy bảo:

– Nếu em đó ít lâu nữa mà không nhận được bức thư nào cả thì đáng ngại cho em lắm, có thể tai hại.

Thế rồi một bạn học thân nhất của em, tên là Laurent nảy ra một sáng kiến. Laurent ở trong một gia đình hòa thuận, có hạnh phúc, tuần nào cũng nhận được nhiều bức thư của cha mẹ, cả của anh chị em nữa. Một hôm Bob rầu rĩ ngó xấp thư Laurent cấm trong tay. Laurent thấy vậy, bảo ngay:

– Bob, vô trong phòng tôi di, tôi đọc thư của má cho Bob nghe.

Một lát sau tôi thấy hai em ngồi sát nhau cùng bàn tán về bức thư đó. Chiều hôm sau tôi nhận thấy khi phát thư, Bob chẳng nhữn! g ngó hộc của em mà còn ngó hộc của Laurent nữa. Bob hỏi bạn:

– Lại có thư của má anh nữa hả?

– Không, hôm nay là thư của chị tôi.

Rồi Bob hỏi một bạn khác:

– Anh có thư của má anh không?

– Có !

– Anh cho tôi đọc chung với nhé?

– Ừ! Để tôi đọc lớn tiếng lên nhé!

Từ hôm đó, Bob tha hồ đọc thư của bạn. Khắp tứ phía nhao nhao lên:

– Ê, Bob, hôm nay muốn đọc thư của má không?

Tụi con trai đôi khi có vẻ tàn nhẫn, không giữ ý gì cả, nhưng tuyệt nhiên tôi không thấy một em nào thốt một lời mỉa mai bóng gió hay chế giễu gì em Bob cả. Một hôm tôi kinh ngạc nghe em Bob tự do hỏi ngay Laurent:

– Hôm nay chúng mình có thư không?

Như vậy có dễ thương không chứ! Nên thưởng cho các em nhiều kẹo, nhiều bi mới phải ! Laurent mỉm cười đáp liền, không hề do dự:

– Có, hôm nay chúng mình có một bức.

Chuyện đó làm cho ông Joe Hargrove quyết tâm hành động. Tôi thì tôi cho má em Bob là hạng người ra sao rồi. Nhưng ông Joe đã gặp bà ta nhiều lần, định làm liều xem sao. Một hôm ông ta lại kiếm tôi, tay cầm sáu bức thư đánh máy và sáu bao thư đề địa chỉ của Bob, dán cò sẵn sàng. ông ta bảo:

– Coi này, tôi gởi cho bà Lennoux đây. Bà ta chỉ cần ký tên: “Má của con” rồi mỗi tuần bỏ một bức vào thùng thư.

Tôi đọc những bức thư đó. Viết được lắm, ít bữa sau, Bob cũng lại ngong ngóng đợi ở chỗ đặt các hộc riêng, nhưng chú hết ý vào cái hộc của Laurent. Bỗng học sinh lãnh việc phát thư, la lên:

– Ê, Bob, m�! �y có th! ư này ! Có thư này!

Bob nhẹ nhàng đưa hai tay lên, cử chỉ y hệt một thiên thần đương cầu nguyện, để đỡ lấy bức thư. Em nói ,như thể vẫn chưa tin:

– Ờ có tên tôi ngoài bao thư nè!

Rồi em la lên:

– A ! Tôi cũng có thư! Tôi cũng có thư! Anh em ơi, có ai muốn đọc thư của tôi không?

Những đứa khác cũng vui mừng, đồng thanh la lớn:

– Có ! Có ! Bob, đọc thư của bồ lên, đọc lên?

Cuộc phát thư tức thì tạm ngưng lại. Chúng đun Bob lên cho đứng trên một cái bàn rồi cả bọn vây chung quanh. Bob ngập ngừng đọc:

– Con cưng của má !

Rồi ngẩng lên nói:

– Tôi không đọc nhanh được !

Laurent bảo:

– Không sao, Bob! Cứ đọc chầm chậm, càng tốt. Đọc chậm mới hiểu rõ từng chữ chớ.

Và Bob chậm chạp đọc bức thư đó, lời lẽ âu yếm như bức thư của bất kỳ bà mẹ nào gởi cho con.

Tháng sáu, buổi phát phần thưởng, tôi thấy má em Bob lại dự. Tôi không ngạc nhiên về điều đó vì, sau khi gởi hết mấy bức thư ông Joe viết sẵn cho rồi, bà ta đích thân viết cho con , quả là một phép màu ! Bob đã cho tôi coi bức thư bà báo trước sẽ tới dự buổi lễ. Phát phần thưởng xong, bà ta kéo tôi ra một chỗ, hỏi tôi:

– Bà thấy thư tôi viết cho cháu được không?

– Được lắm!

Bà ta nói tiếp giọng hơi ngập ngừng:

– Tôi nhờ bà nói về tôi cho cháu Bob nghe…

– Vợ chồng tôi đã hòa thuận với nhau hơn trước, và chúng tôi tính với nhau nghỉ hè này cho cháu về nhà, và… chúng tôi sẽ tìm cách hiểu cháu hơn.

–! Xin bà yên tâm, tôi sẽ hết sức giúp bà.

Tôi có cần gì nói thêm rằng không có công việc nào làm cho tôi vui bằng công việc đó không?

Shmily


Ông bà tôi đã cưới nhau được hơn nửa thế kỷ và họ cứ luôn hay chơi một trò đặc biệt của họ hằng ngày. Mục tiêu của trò chơi là một người phải viết từ “shmily” ở một bất ngờ quanh nhà ,còn người kia sẽ đi tìm.

Ông bà bôi từ đó lên gờ cửa sổ. Nó được viết lên hơi nước còn đọng lại trên gương sau vòi nước nóng. Thậm chí, có lần bà còn lật từng tờ của tập giấy nháp trên bàn để tìm thấy “shmily” trên tờ cuối cùng. Những mảnh giấy nhỏ với chữ “shmily” được viết nguệch ngoạc được tìm thấy khắp nơi, có khi được nhét vào trong giày hoặc dưới gối. Từ “shmily” bí ẩn này gần như trở thành một phần trong ngôi nhà của ông bà tôi, cũng giống như đồ đạc vậy.

Thái độ hoài nghi và sự thực dụng ngăn cản tôi tin vào tình yêu nồng nàn và lâu dài. Cho đến khi tôi khám phá được “trò chơi” của ông bà tôi.

“Trò chơi” đi tìm từ “shmily” cứ tiếp diễn, cho đến khi bà bị bệnh ung thư. Bà yếu dần và không dậy được khỏi giường nữa. Và một ngày kia, tất cả chúng tôi đều phải đối diện với một thực tế đau lòng: Bà mất. “Shmily” được viết nguệch ngoạc bằng màu vàng trên một dải lụa hồng đặt cạnh giường bà vào hôm bà mất. Khi tất cả họ hàng và những người quen biết đã đi về, ông tôi lại gần giường bà nằm và bắt đầu hát cho bà nghe. Giọng ông khàn và nghẹn.

Tôi không bao giờ quên được khoảnh khắc ấy. Vì tôi biết tôi đã được chứng kiến một tình yêu không bao g! iờ chết.

Tôi hỏi ông tôi, sau bao nhiêu năm, rằng “shmily” có nghĩa là gì. Và lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, tôi được biết “shmily” đơn giản là “See how much I love you”

Di chúc


Một lần tình cờ, tôi phát hiện một chiếc hộp sắt tây khóa kín để trên nóc tủ. Ba nói, nó đựng di chúc của ông nội. Trong đó viết rõ ông để lại cho tôi cái gì khi ông “về với đất”. Tôi chợt nghĩ, nếu mình cũng phải đi xa, xa thật xa, mình sẽ để lại gì cho những người mình thương yêu. Vậy là tôi quyết định mình cũng sẽ làm “di chúc”. Tôi cũng tìm một chiếc hộp có khóa. Trong đó, tôi cất tờ “di chúc” và tất cả… gia tài sản nghiệp của tôi.

Bản di chúc đầu tiên năm tôi 8 tuổi, rất ngắn vì gia tài của tôi chẳng có gì nhiều, và những người chung quanh tôi chỉ có thế. Tôi để lại cho ba tấm ảnh ba đang bế tôi trên tay cười toe toét, để lại cho mẹ tấm ảnh mẹ đang dỗ tôi ngay trước nhà thờ Đức Bà. Để lại cho hai đứa em trai của tôi những chiếc xe điện mới toanh mà tôi đã phải dọa dẫm để giành với chúng… Để lại cho ông nội cây gậy mà tôi nhặt được ở nhà kho, để lại cho đứa bạn thân nhất của tôi chiếc nón vải….

Rồi tôi lớn lên, dù có ra sao tôi vẫn về nhà vào mỗi đêm giao thừa, ngồi vào chiếc bàn bên cạnh cửa sổ, nhìn ra bầu trời tối đen, mịn màng của đêm ba mươi và viết. Mỗi năm, tôi đến nhiều nơi hơn trong những chuyến du lịch với bạn bè, những chuyến công tác.. và những thứ tôi nhặt nhạnh về cũng nhiều hơn: một chiếc lược đồi mồi từ Hà Tiên, những nụ hoa ngọc lan khô cong vẫn thơm nồng nàn như khi chúng đánh thức tôi dậy trong một đêm rất trong bên cạnh sông Tiền, một chiếc vỏ ốc tầm thường dạt ! vào bãi cát ở Nha Trang. Một mảnh đất xấu xí văng ra khi tôi những người thợ đục đá Non Nước. Và mỗi lần nhặt lên, tôi đều nghĩ rằng tôi sẽ dành lại chúng cho một người nào đó mà tôi đã gặp trong đời. Chúng đánh dấu sự hiện hữu của tôi trên thế gian, đánh dấu những bước chân của tôi đã đặt lên mảnh đất này, miền đất nọ, và đánh dấu tình yêu thương mà tôi dành cho những con người đã đến rồi đi trong đời tôi. Mỗi năm, những đồ vật chẳng đáng giá gì cứ chất đầy chiếc hộp, cả một quả bàng khô, một con ve sầu chưa kịp lột xác còn giữ nguyên màu xanh óng… đến nỗi tôi phải thay một chiếc hộp lớn hơn.

Khi ông nội mất, ba tôi mở hộp ra và đọc cho mọi người nghe tờ di chúc, thứ duy nhất ông để lại là những khoảnh đất, chia đều cho tất cả mọi người, đất trồng cây ăn trái, đất trồng khoai sắn và đất trồng lúa.. Ông để lại cho tôi tủ sách và một rẻo đất rất nhỏ hình tam giác, nằm cạnh những mảnh ruộng mà ông đã làm lụng suốt đời trên đó. Một mảnh đất đủ để tôi trồng những cây cà chua và những luống rau muống, ông viết vậy, với tất cả tình thương. Trước đây, có lần ông bảo rằng, chỉ với một miếng đất nhỏ xíu như thế thôi, người ta cũng chẳng thể nào đói được…

Tôi đã đứng trước rẻo đất ấy và khóc rất nhiều. Những ngày tháng qua đi, đến một lúc nào đó rồi chợt nhận ra là cuộc sống thật ngắn ngủi và đầy bất trắc. Tôi cũng nhận ra là làm cho những người khác biết mình yêu thương họ ngay lúc này tốt hơn là ấp ủ tình yêu đó trong những đồ vật, để rồi, có thể, mộ! t ngày n! ào đó, những kỷ vật ấy sẽ làm cho họ hụt hẫng.. Tôi buồn bã khi nghĩ rằng đáng lý, tôi phải cho em tôi những chiếc xe điện khi điều đó còn làm cho chúng vui sướng, hơn là cất giữ hàng năm trời. Từ đó, tôi không viết di chúc nữa, tôi vẫn nhặt nhạnh những đồ vật xinh xinh mà tôi nhìn thấy, nhưng không cất đi mà tặng ngay ai đó mỗi khi có dịp.

Cho đến bây giờ tôi vẫn giữ chiếc hộp đã trống không của tôi, cũng như tờ di chúc dài hai trang của ông nội, vì tôi biết, có một thứ ông để lại cho tôi vẫn luôn đầy ắp trong những chiếc hộp ấy, đó là tình yêu thương tôi dành cho mỗi người tôi gặp, và cho cuộc sống này.

Niềm tin


Ở làng quê nọ, trời đã hạn hán trong khoảng thời gian rất lâu. Các cánh đồng đều khô hạn, cỏ cây héo úa cuộc sống trở nên vô cùng khó khăn. Hàng tháng đã trôi qua và mọi người dường như đã mất hết kiên nhẫn. Nhiều gia đình đã rời khỏi làng, còn những gia đình khác chỉ còn biết chờ đợi trong tuyệt vọng. Cuối cùng ông trưởng làng quyết định tổ chức một buổi cầu nguyện tập thể trên ngọn đồi cao nhất vùng. Ông thuyết phục tất cả mọi người trong làng đến dự và mỗi người phải mang theo một vật thể hiện lòng tin của mình.

Chiều thứ bảy, những người dân làng với vẻ mặt mệt mỏi tập trung trên ngọn đồi và đều không quên mang theo những đồ vật thể hiện lòng tin. Có người mang theo một cái móng ngựa may mắn, có người mang theo chiếc mũ bảo vật của gia đình… Mặc dù chẳng ai tin chúng có thể thay đổi điều gì nhưng họ cũng đã mang theo rất nhiều thứ quý giá. Tất cả những người tham dự bắt đầu cầu nguyện và giơ cao những vật tượng trưng cho niềm tin. Như thể có phép màu, mây đen kéo tới và trời đổ mưa – những giọt mưa đầu tiên sau bao tháng trời khô hạn. Mọi người đề hân hoan vui sướng và ngay lập tức nổ ra một cuộc tranh cãi xem đồ vật nào đã mang lại may mắn cho ngôi làng. Ai cũng cho rằng đồ vật của mình là linh thiêng nhất. Bỗng người ta nghe thấy tiếng một em bé gái reo lên:

– Con đã biết thế nào trời cũng đổ mưa mà. Mẹ thấy không, con mang theo chiếc ô này, bây giờ thì mẹ con mình về nhà mà không bị ướt!

Em bé giơ cao chiếc ô và cù! ng mẹ đi về nhà trong niềm hân hoan. Những người còn lại nhìn theo và hiểu rằng chính em bé mới là người có niềm tin lớn nhất. Niềm tin ấy đã mang mưa đến.

Cách nhìn cuộc sống


John là một ông lão ít nói và thông thái. Ông thường ngồi trên chiếc ghế bành cũ kỹ trước hiên nhà, nhìn mọi người qua lại. Đôi khi ông vẫy tay chào họ. Một hôm, cô cháu gái nhỏ của ông John ngồi xuống cạnh ông mình, và cả hai cùng nhìn những người qua lại trước nhà họ.

Một người đàn ông lạ, cao lớn, anh ta nhìn quanh như tìm một nơi nào đó để dừng chân, rồi tiến đến gần hỏi ông John:

– Trong ngôi làng này người ta sống kiểu gì hả ông lão?

Ông John chậm rãi hỏi lại:

– Vậy nơi mà anh vừa đi khỏi, người ta sống ra sao?

Người lạ nhăn mặt:

– Nơi ấy hả? Mọi người chỉ toàn chỉ trích nhau. Hàng xóm thì ngồi lê đôi mách và nói chung là một nơi rất đáng chán!

John nhìn thẳng vào mắt người lạ và nói:

– Anh biết không, nơi này cũng như thế, hệt như nơi anh vừa đi khỏi vậy!

Người đàn ông không nói gì, anh ta quay đi. Một lát sau, một chiếc ôtô dừng lại bên vệ đường. Người đàn ông trên xe đỡ vợ con mình xuống xe. Người vợ hỏi ông John có thể mua một ít thức ăn cho bọn trẻ ở đâu, còn người đàn ông ở lại chỗ chiếc xe. Anh ta lại gần ông John và hỏi:

– Thưa ông, nơi này sống có tốt không ạ?

Vẫn như lần trước, ông John hỏi lại:

– Vậy nơi mà anh vừa đi khỏi thì thế nào?

Người đàn ông tươi cười :

– Ở đó, mọi người sống rất thân thiết, luôn sẵn lòng giúp đỡ nhau. Chúng tôi không muốn ra đi chút nào, nhưng vì điều kiện làm việc nên phải chuy�! �n tới đây.

Ông John nở một nụ cười ấm áp:

– Đừng lo, nơi này cũng giống như nơi anh vừa đi khỏi đấy mà, cũng tốt lắm!

Vợ con người đàn ông quay lại, họ cảm ơn và tạm biệt hai ông cháu John rồi lái xe đi. Khi chiếc xe đã đi xa, cô cháu nhỏ cất tiếng hỏi ông:

– Ông ơi, tại sao ông nói với người thứ nhất là nơi đây không tốt lành còn với người thứ hai ông lại nói là một nơi tuyệt vời?

Ông John âu yếm nhìn vào đôi mắt xanh băn khoăn của đứa cháu nhỏ và bảo:

– Cháu ạ, dù có đi đến đâu, mỗi người vẫn mang thái độ của chính mình đối với cuộc sống đi theo. Chính thái độ của riêng mình, cộng với phản ứng của những người xung quanh với thái độ đó thì nơi mới đến có thể rất tồi tệ, hoặc rất tuyệt vời theo cảm giác của riêng họ mà thôi.

Nụ hôn


Chiếc tàu tôi đang đi ghé vào một ga nhỏ. Lúc ấy đã gần sáng và trời vẫn đầy sao. Không khí lạnh cóng ùa vào toa khi tàu dừng và mở cửa đón khách. Toa tôi có thêm hai người nữa, một người đàn ông và một cậu bé.

Cậu bé phải mất một lúc mới ngồi được vào chỗ của mình sau khi len qua nhiều hàng chân người lớn. Trong khi cha cậu bé ngồi cạnh cửa ra vào, cậu bé lại ngồi cạnh cửa sổ, giữa những người trông ngái ngủ, khó tính và mệt mỏi sau một đêm không được ngủ đẫy giấc. Khi tàu bắt đầu vào đường hầm, cậu bé trượt khỏi chỗ và tôi cảm thấy tay cậu chống vào đầu gối lên một chút. Cậu bé rướn người lên, có lẽ muốn nói gì đó với tôi. Tôi cúi xuống để nghe nhưng bất ngờ thay, cậu bé hôn vào má tôi một cái!

Lúc đó tàu ra khỏi đường hầm. Rồi cậu bé ngồi lại vào chỗ của mình và ngắm cảnh bên ngoài cửa sổ. Trông cậu rất hạnh phúc. Tôi thật sự ngạc nhiên. Sao cậu bé lại hôn một người lớn không hề quen biết trên tàu nhỉ? Tôi còn ngạc nhiên hơn nữa khi cứ thỉnh thoảng, cậu bé lại đứng lên, hôn vào má những người lớn ngồi cạnh cậu, từng người một.

Bối rối, chúng tôi nhìn về phía người đàn ông. Cha cậu giải thích:

– Cháu nó rất hạnh phúc vì khỏe mạnh trở lại và được sống. Cháu đã ốm nặng rất lâu rồi!

Chuyến tàu dừng ở ga cuối. Người đàn ông và cậu bé hòa mình vào đám hành khách. Tôi vẫn còn cảm thấy cái hôn của cậu bé trên má, cái hôn làm tôi hạnh phúc và cả băn khoăn nữa. Liệu có bao nhiêu người trư�! ��ng thành trao cho nhau những cái hôn để chia sẻ niềm vui được sống? Cậu bé đã không chỉ chia sẻ với tôi một cái hôn ngọt ngào mà còn cả những băn khoăn muốn nhắn gửi: đừng để bản thân mình “chết” trước khi tim ngừng đập.

Gai hoa hồng


Ông đúng là ông già khó chịu! – Becky nói với ông già khi cô đi ra khỏi phòng bệnh của ông ta ở bệnh viện nhân đạo, nơi mà cô đã làm việc hơn một năm nay. Bệnh nhân mới này ở đây được khoảng hai tuần và ông ta làm cho cuộc sống của tất cả các y tá trở thành địa ngục. Ông ta chửa rủa, quát, đá tất cả những ai lại gần ông ta. Đó là còn chưa kể việc ông ta cố tình đổ thức ăn ra giường để y tá phải đến dọn, và để ông ta có thể nguyền rủa thêm. Becky không nghĩ là ông ta có người thân vì chẳng có ai đến thăm ông, ít nhất là trong khoảng thời gian cô phải chăm sóc ông ta.

Một hôm, một tổ chức phụ nữ đến thăm bệnh viện. Họ hát và đem hoa hồng đến, tặng mỗi bệnh nhân một bông hoa đỏ thắm. Ông già khó tính nhìn bông hoa được cắm tử tế trong lọ thủy tinh trên bàn, lấy mu bàn tay gạt cái lọ. Cái lọ rơi xuống, vỡ tan tành. Mọi người chỉ đứng nhìn ông ta vẻ kỳ lạ. Ông trở mình quay mặt vào tường xoay lưng lại những người từ tổ chức phụ nữ đến thăm.

Một người bắt đầu dọn những mảnh vụn của cái lọ. Becky nhặt bông hoa lên, cắm nó vào một cái cốc nhựa và đặt lên tủ đầu giường của bệnh nhân già kia. Khi người của tổ chức phụ nữ đã đi về, Becky quay lại phòng ông bệnh nhân khó chịu, cầm bông hoa hồng và ngắt từng cánh một, ném vào thùng rác bên cạnh. Ông già nhìn thẳng cô y tá, cho đến khi cô ngắt đến cánh cuối cùng. Còn lại cuống hoa, cô cắm trả lại cốc nhựa. Vừa khi cô định quay đi thì ông bệnh nhân già làu bàu:

– Sao cô lại l! àm thế?

– Tôi chỉ muốn ông thấy những gì ông đã làm? – Becky đáp – Ông đã phá vỡ những mối quan tâm của chúng tôi với ông như là ngắt bỏ từng cánh hoa một, kể từ khi ông đến đây.

Rồi Becky đi ra.

Sáng hôm sau, khi đến bệnh viện thì các bác sĩ bảo Becky đến dọn phòng ông bệnh nhân già. Ông đã mất vào đêm hôm trước. Khi Becky thu khăn trải giường đi giặt, cô nhìn thấy bông hoa hồng vẫn còn nguyên vẹn trong cái cốc nhựa. Những cánh hoa đã được đính vào cuống hoa bằng băng dính một cách vụng về. Becky cũng thấy ở dưới gối của ông lão có một quyển Kinh thánh. Khi cô nhấc quyển sách lên, trong đó rơi ra một tờ giấy, có ghi: “Không phải tôi muốn mọi người ghét tôi. Tôi chỉ không muốn tất cả mọi người sẽ quên tôi. Tôi đã là một đứa trẻ mồ côi và tôi chẳng bao giờ có một người thân.”

Là một đứa trẻ mồ côi từ nhỏ, Becky hiểu rằng người bệnh nhân già đó không phải là một ông lão khó chịu. Chỉ vì không có ai trên thế giới này quan tâm đến ông ấy. Vì ông thấy mọi người đều quên ông ấy, ngay cả khi ông ấy vẫn còn sống. Và tất cả những gì ông lão muốn chỉ là có ai đó nhớ tới ông…

Cạm bẫy


“Người Eskimo đã săn chó sói như thế nào trong vùng băng giá và lạnh cóng của Bắc Cực?" là một câu hỏi đã làm nhiều người dày công suy nghĩ để tìm câu trả lời.

Những người Eskimo lấy các lưỡi dao thật bén đem nhúng vào máu động vật, sau đó họ mang ra ngoài trời cho đóng băng lại. Họ làm như vậy nhiều lần để càng lúc lớp băng càng dày thêm, đến một thời điểm mà lớp băng bằng máu bên ngoài hoàn toàn che dấu lưỡi dao bên trong. Tối đến họ găm cán dao xuống tuyết. Những con chó sói đánh hơi được mùi máu của thú rừng từ lưỡi dao và mon men đến. Chúng bắt đầu liếm những lớp băng bằng máu đó, càng lúc càng hăng say hơn với tất cả những sự thèm thuồng. Cho đến một lúc những lớp băng bên ngoài lưỡi dao đã tan chảy hết và chạm đến lưỡi dao. Khi liếm những lưỡi dao, lưỡi của những con chó sói bị đứt và máu chảy ra, nhưng chúng lại tưởng đó là máu của thú rừng nên càng liếm hăng say hơn. Càng chảy máu thì nó càng khát, và càng khát thì nó lại càng liếm … Sáng hôm sau, những ngưởi Eskimo chỉ việc đi thu lượm xác của những con chó sói nằm chết bên cạnh những lưỡi dao đó.

Cái bên ngoài cạm bẫy bao giờ cũng rất hấp dẫn và thật quyến rũ.

Truyện này do bạn Huynh Thao (Email: kindgrass@) gởi đến Xitrum.net

7 kỳ quan thế giới


Một nhóm học sinh đang học cách viết luận về chủ đề 7 kỳ quan thế giới. Cuối giờ, mỗi em phải liệt kê được 7 kỳ quan thế giới theo suy nghĩ của riêng mình.

Học sinh ngồi ríu rít bàn luận rằng những công trình nào là kỳ quan của thế giới. Tháp nghiêng Pisa, tháp Effeil, Vạn lý trường thành, Kim tự tháp Ai cập… đều được chọn lựa.

Cuối giờ thu bài, một cô bé vẫn băn khoăn cầm bài viết để trắng. Cô bé giải thích:

– Em vẫn chưa liệt kê xong vì có nhiều kỳ quan quá ạ!

– Em hãy thử kể những kỳ quan theo ý em để các bạn và cô nghe xem có thể giúp em được không? – Cô giáo nhiệt tình hướng dẫn.

Cô bé do dự:

– Em nghĩ 7 kỳ quan trên thế giới nên là: Xúc giác, vị giác, thị giác, thính giác, khả năng đi lại được, nụ cười và sự yêu thương.

Bạn thân mến, bạn không phản đối cô bạn nhỏ của chúng ta chứ ? Thật vậy, chúng ta vẫn có thể sống vui nếu không có tháp Pisa, không có tháp Eiffel và kim tự tháp Ai cập… nhưng chúng ta khó khăn biết bao nếu thiếu một trong bảy "kỳ quan" của cuộc sống mà cô bạn này đã kể. Hơn nữa, nhiều tỉ người trên Trái Đất mới có một kỳ quan như Kim tự tháp, trong khi mỗi chúng ta lại có cho riêng mình 7 kỳ quan. Chúng ta thật giàu có biết bao. Đó mới là những kỳ quan mà chúng ta cần yêu quý và trân trọng nhất.

Truyện này do thành viên SkyMaster gởi đến Xitrum.net

Giúp đỡ


Năm 18 tuổi, tôi sang Anh học Đại học. Và vẫn học đối mặt với nỗi đau quen thuộc, nỗi đau của một đứa trẻ mồ côi.

Một hôm, khi đang đi chợ, tôi thấy một cụ già đang loay hoay với một cây gậy và một túi táo với những quả táo đang thi nhau rơi khỏi túi. Tôi chạy đến đỡ lấy túi táo và nhặt từng quả vào túi cho ông.

– Cảm ơn cô bé. Ông ổn rồi! – Ông mỉm cười với tôi, đôi mắt sáng hiền từ.

– Cháu đi cùng ông nhé? – Tôi nói – Cháu sợ táo sẽ rơi nữa đấy!

Tình bạn của tôi với ông Burns, người có nụ cười ấm áp như cha của tôi bắt đầu như vậy.

Tôi xách túi táo, ông Burns tì cây gậy, lê từng bước khó nhọc. Đến nơi, tôi đặt túi táo lên bàn và đi pha trà, tôi hỏi ông liệu thỉnh thoảng tôi có thể đến thăm ông không.

Ngay hôm sau, tôi lại đến, lại giúp ông pha trà. Tôi kể cho ông nghe tôi là một đứa trẻ mồ côi, sống với họ hàng và giờ đây đi du học để tự lập. Ông chỉ cho tôi hai bức ảnh đặt trên bàn. Đó là bác gái Mary và cô con gái Alice của ông, hai người cùng mất trong một tai nạn cách đây sáu năm…

Tôi tới thăm ông Burns hai lần mỗi tuần, đúng giờ và đúng ngày. Khi đến, tôi thường thấy ông ngồi trên chiếc ghế to với cây gậy bên cạnh. Thấy tôi, ông cụ luôn vui mừng. Dù tôi tự nhủ rằng tôi đã đem lại niềm vui cho một ông già cô đơn, nhưng kì thực, tôi mới chính là người hạnh phúc nhất khi bước chân lên bậc cửa căn nhà này. Đơn giản là tôi được chia sẻ và có người lắng nghe những lời tâm sự của tôi.

Sau hai tháng, tôi đến thăm ông Burns vào một ngày khác với lệ thường. Tôi cũng không gọi điện thông báo trước vì nghĩ rằng mình sẽ gây một bất ngờ đặc biệt.
Và tôi thấy ông đang làm vườn, đang đi lại, đang cúi xuống, ngẩng lên, một cách dễ dàng không cần gậy! Liệu đó có phải là ông Burns mọi khi, lúc nào cũng tựa hẳn mình vào cây gậy? Ông Burns bỗng ngẩng lên và nhìn thấy tôi. Thấy rõ sự băn khoăn lẫn ngạc nhiên của tôi, ông vẫy tôi lại gần.

– Nào, cháu yêu quý, hôm nay để ông pha trà cho cháu… – Ông Burns dẫn tôi vào nhà.

– Cháu đã nghĩ… – Tôi bắt đầu

– Ông biết cháu nghĩ gì, cháu yêu quý. Lần đầu tiên cháu gặp ông ở chợ, ừ hôm đó đầu gối ông bị đau. Va phải cánh cửa ấy mà…

– Nhưng… ông lại đi lại bình thường… từ lúc nào?

– Ngay hôm sau –Ông cụ hấp háy mắt.

– Nhưng tại sao…? – Tôi lúng túng.

– Lần thứ hai cháu đến đây, cháu yêu quý ạ, đó là khi ông nhận thấy cháu mới buồn và cô đơn có thể! tựa vào vai ông. Nhưng ông e rằng cháu sẽ không đến nữa nếu biết ông khỏe mạnh.

– Còn cái gậy thì sao ạ?

– À, cái gậy tốt! Ông hay dùng nó để chặn cửa hàng rào.

Ông Burns đã biến mình trở thành một người cần được giúp đỡ để giúp đỡ tôi như thế đấy. Đó là một cách tuyệt vời để một cô bé non nớt và nhạy cảm như tôi thấy mình thật mạnh mẽ.

Người làm công kỳ lạ


Tôi rúc đầu vào gối , đầu nặng trĩu tuyệt vọng. Chẳng lẽ với tôi đây là cả cuộc đời còn lại. Tôi, hai năm sau khi ra trường, đang bỏ cả ngày tháng cho một công việc hoàn toàn không thích hợp, lương thấp mà cũng chẳng có tương lai. Đã nhiều lần tôi cố không nghĩ đến câu hỏi này , nhưng cảm giác chán nản đó đã không tài nào thoát ra được.

Sáng hôm sau, tôi cố lết ra khỏi giường để đến chỗ làm. Hôm nay có một vài người mới – họ là những người làm công tạm thời, lương còn thấp hơn nhiều so với nhân viên chính thức như chúng tôi. Sau một lúc làm việc, ánh mắt tôi chú ý đến một người. Anh ta có vẻ lớn tuổi nhất trong số họ, mặc bộ đồng phục. Đó là điều đặc biệt vì công ty chúng tôi không hề có đồng phục. Thật ra, họ cũng không biết chúng tôi ăn mặc như thế nào. Anh ta mặc một chiếc quần thẫm màu thẳng nếp với chiếc áo xanh lao động, trên ngực túi còn may ngay ngắn cả bảng tên. Có lẽ anh ta tự mua cho mình bộ đồng phục đó.

Tôi quan sát anh trong suốt ngày hôm đó, và cả những ngày kế tiếp khi anh còn làm việc với chúng tôi. Anh không bao giờ đi trễ hay sớm, chính xác như một chiếc đồng hồ vậy. Với một công việc hết sức bình thường, anh làm việc rất cần mẫn, chuẩn xác với một sự cẩn trọng đặc biệt. Anh hòa nhã thân thiện với tất cả mọi người nhưng không bao giờ nói chuyện trong lúc làm việc.

Đến giờ cơm trưa, trong khi chúng tôi đến nhận phần ăn của mình tại quầy phân phát, anh lại lặng lẽ lôi trong túi đồ một hộp cơm cũ kỹ bằng! inox, và sau mỗi bữa ăn chỗ của anh lúc nào cũng sạch sẽ. Và dĩ nhiên, lúc nào anh ta cũng trở lại công việc đúng giờ. Có thể nói anh là một người làm công mà bất cứ ông chủ nào cũng đều hài lòng. Chúng tôi đều có những suy nghĩ như vậy, anh không chỉ tốt mà thật sự đáng khâm phục.

Rồi công việc tạm thời đó cũng chấm dứt, anh rời công ty rồi đi đâu không rõ. Nhưng đối với cuộc đời tôi anh đã hoàn toàn thay đổi cách suy nghĩ của tôi .

Tôi không mua cho mình bộ đồng phục, cũng không có hộp cơm trưa nhưng tôi bắt đầu đặt ra cho mình những nguyên tắc . Tôi bắt đầu tập làm việc như một doanh nhân chuẩn bị kỹ càng cho hợp đồng của mình, và rồi tôi được người quản lý đề bạt lên chức vụ cao hơn. Vài năm sau, tôi chuyển đến một công việc tốt hơn ở một công ty khác.

Cuối cùng, tôi cũng tự đứng ra lập công ty riêng. Cho đến mãi sau này, những thành công của tôi đều đến từ sự cần mẫn và may mắn của mình, nhưng tôi vẫn luôn nghĩ điều may mắn lớn nhất của tôi là bài học tôi đã học được từ người công nhân kỳ lạ năm xưa : SỰ TÔN TRỌNG KHÔNG ĐẾN TỪ CÔNG VIỆC MÀ BẠN ĐANG LÀM , NÓ ĐẾN TỪ CÁI CÁCH MÀ BẠN ĐANG LÀM CÔNG VIỆC ĐÓ .

Bức ảnh gia đình


Trong nhiều năm qua, gia đình chúng tôi hay có một thói quen vừa xấu vừa tốt. Thói quen tốt là ở chỗ chúng tôi thường nhét phim vào máy ảnh, chụp bất kỳ kiểu gì chúng tôi thích. Nhưng xấu ở chỗ khi chụp hết cuộn phim, chúng tôi bỏ nó vào tủ chứ không đi rửa.

Mấy hôm trước, Susan cầm vài cuộn đi rửa. Chẳng ai biết rửa sẽ ra những hình gì vì chụp cũng lâu rồi. Chúng tôi hồi hộp như chơi xổ số vậy.

Trong những bức ảnh rửa ra, rất nhiều ảnh, từ ảnh trong bếp đến bọn trẻ con chơi ngoài sân. Nhưng tất cả những bức ảnh đều giống nhau ở chỗ: không ảnh nào có Susan. Tại sao? Susan luôn là người chụp ảnh.

Khi xem những bức ảnh, tôi nhớ lại câu chuyện của anh bạn Dan kể tôi nghe năm ngoái. Dan làm việc ở một công ty lớn với hai chi nhánh ở hai đầu thành phố nên rất bận. Như bất kỳ một ông trưởng phòng nào khác, Dan có rất rất nhiều việc phải làm: Hai ngày phải họp một lần, phải làm thêm vào cuối tuần…

Dan kể chuyện, có lần cô giáo của đứa con gái anh gửi giấy mời họp tới cho anh. Tất nhiên, anh quá bận và vợ anh lo mọi chuyện họp hành cho con cái. Nhưng cô giáo nói rằng cô muốn gặp anh, chứ không phải vợ anh.

Do đó, Dan buộc phải thu xếp công việc, tới trường gặp cô. Cô giáo đưa cho Dan một bức vẽ:

– Tôi muốn anh xem bức tranh con gái anh vẽ gia đình.

Dan xem bức tranh rồi hỏi:

– Thế tôi đâu?

– Đó là lí do tôi mời anh đến đây – Cô giáo nói – Tôi đã hỏi con gái anh là bố cháu đâu. Cô bé nói! anh chẳng bao giờ ở nhà, nên cô bé không vẽ anh trong bức tranh.

Một cú đấm cũng không làm Dan đau như lúc ấy. Từ lúc đó, Dan đã thay đổi lịch làm việc của mình, quan tâm đến gia đình hơn để vừa là một doanh nhân giỏi, vừa là một người cha tốt.

Còn bạn, bạn có ở trong bức ảnh của gia đình không? Hay bạn quá bận rộn hoặc thờ ơ?

Có thể người đó là bạn


Tối hôm đó trời mưa và rất lạnh, còn tôi thì đang lái cái-gọi-là-xe-ôtô. Chỉ có hai loại người có thể công nhận đó là chiếc xe ôtô: một là những kẻ nói dối không ngượng mặt và hai là những người thông cảm cho tôi nhất.

Hồi mới mua, nó vẫn còn nguyên hình là một chiếc xe, nhưng tôi đã không bảo dưỡng nó. Bởi mỗi lần bảo dưỡng còn nhiều tiền hơn cả số tiền tôi bỏ ra mua nó, mà tôi thì chẳng dư giả gì.

Xăng bị chảy ngay cả khi tắt máy và dừng hẳn lại, xe chạy như một con ốc sên khổng lồ và tôi luôn tự an ủi rằng dù gì thì tôi cũng còn điều khiển được nó, chứ ốc sên thật thì có điều khiển được đâu. Mọi người trên đường vẫn hướng đôi mắt tò mò mỗi khi tôi lái xe chạy qua bởi họ không phân biệt nổi đây là tiếng động cơ ôtô hay máy cắt cỏ bị vỡ.

Mỗi lần lái xe, tôi thường phải đặt một tay lên ngực trái để cầu nguyện cho xe chạy. Nhưng hôm nay tôi không làm thế vì tay còn bận cầm cái điện thoại. Và hậu quả tức thì: ngay giữa đường, chiếc xe khốn khổ thình lình tắt máy. Tôi cố dùng đà xe trôi để tìm chỗ đậu xe vào nhưng xe đậu dày đặc bên lề, mỏi mắt cũng không tìm ra một chỗ. Cuối cùng, nó dừng lại, ngay trước một ngã tư. Hàng loạt còi xe vang lên phía sau. Bỗng tôi thấy người lái xe ngay sau xe tôi chui ra khỏi xe rồi tiến đến gần. Tôi lo quá. Có lẽ anh ta sẽ chửi bới.

Nhưng người đàn ông gõ vào cửa xe và hỏi:

– Có cần tôi đẩy giúp một đoạn không?

Tôi ngạc nhiên đến mức không nói được gì, ch! ỉ gật đầu. Anh ta ngoái lại phía xe mình, vẫy tay và hai cậu bé khác chạy ra. Họ đẩy xe tôi về phía trước, sát lề đường. Sau đó, họ nhảy lên xe và nhanh chóng hòa vào dòng xe đông đúc.

Tôi đã không kịp nói lời cảm ơn.

Nhiều năm trôi qua, tôi nhận ra đôi điều về “người lạ” đã dừng xe giúp tôi. Mỗi lần tôi gặp khó khăn, người đó lại xuất hiện, nhưng trông không giống như lần đầu tiên. Có lần người đó là phụ nữ. Tuổi tác cũng khác, nhưng người đó luôn xuất hiện. Và tôi hiểu được phần tốt đẹp nhất trong mỗi con người: Lòng nhân hậu không cần yêu cầu, từ một người không quen biết. Đó là sợi dây nhỏ vô hình nối kết chúng ta.

Hãy là chính mình

Denis Waitley


Lương tâm, sự trung thực, sự liêm khiết: đó là ba giá trị để đối diện với tương lai.

Đối với ông bà nội của tôi, người ta hoặc là sống trung thực hoặc là không. Ông bà đã cho gắn lên tường phòng khách câu châm ngôn sau đây: "Cuộc đời như một cánh đồng phủ đầy tuyết mới; mỗi bước chân của ta sẽ lộ ra con đường ta đi".

Bằng vào bản năng của mình, họ đã hiểu rằng sống liêm khiết, đó là có một ý thức đạo đức và ý thức này không biến đổi theo lợi ích hay hoàn cảnh nào. Sự liêm khiết là một chuẩn mực cá nhân cho phép tự đánh giá cách ứng xử của mình. Tiếc thay, phẩm chất này mỗi ngày mỗi hiếm đi.

Thế mà sự liêm khiết lại quan trọng cho mọi tầng lớp xã hội, và chúng ta cần phải tự đòi hỏi cho bản thân mình.

Một phương cách tốt để đánh giá sự trung thực của mình là tuân giữ điều mà tôi gọi là "Tam giác liêm khiết", dựa trên ba nguyên tắc sau đây:

Bảo vệ các xác tín của mình bằng mọi giá. Lấy ví dụ về một nữ y tá bắt đầu ngày làm việc đầu tiên giữa một nhóm bác sĩ phẫu thuật của một bệnh viện nổi tiếng. Cô chịu trách nhiệm về các dụng cụ và thiết bị trong ca phẫu thuật vùng bụng. Cô nói với bác sĩ:

– Bác sĩ chỉ lấy ra 11 miếng bông thấm, trong khi chúng ta đã dùng đến 12 miếng. Chúng ta cần phải tìm ra miếng còn lại.

Bác sĩ đáp:

– Tôi đã lấy ra hết rồi. Giờ thì chúng ta bắt đầu may lại vết mổ.

– Bác sĩ không được làm như thế – cô y tá nghiêm giọng ̵! 1; Hãy nghĩ đến bệnh nhân.

Với nụ cười trên môi, bác sĩ nhón chân lên và chỉ cho cô y tá miếng bông thứ 12. Rồi ông nói với cô:

– Tôi tin rằng cô sẽ trở nên xuất sắc trong nghề này.

Khi bạn biết chắc mình có lý, hãy giữ vững lập trường của mình.

Luôn nhìn nhận giá trị đúng đắn của người khác.
Bạn đừng sợ những người có ý tưởng hay hơn bạn hoặc những người xem ra thông minh hơn bạn. Đây là nguyên tắc mà David Ogilvy, người sáng lập công ty quảng cáo nổi tiếng Ogilvy and Mather, đã nhắc nhở các cán bộ lãnh đạo mới. Ông tặng mỗi người một con búp bê Nga, bên trong có năm hình nhân nhỏ dần. Trong hình nhân bé nhất ông đặt một tờ giấy có ghi mấy hàng chữ: "Nếu mỗi người trong chúng ta chọn những người cộng sự nhỏ hơn mình, chúng ta sẽ trở nên một công ty của những người lùn. Nhưng nếu chúng ta chọn những người cộng sự lớn hơn mình, thì lúc ấy Ogilvy and Mather sẽ trở thành công ty của những người khổng lồ".

Và quả thật, Ogilvy and Mather đã trở thành một trong những công ty lớn nhất và được kính trọng nhất thế giới.

Hãy trung thực với chính mình và chấp nhận nhân cách của mình. Khi người ta thiếu các giá trị chính yếu, người ta có xu hướng dựa vào các yếu tố bên ngoài – dáng dấp – để tự trấn an. Người ta sẽ hành động vì dáng dấp bề ngoài ấy chứ không phải vì sự phát triển của phẩm chất cá nhân. Do đó hãy là chính mình. Đừng bao giờ che đậy các mặt yếu kém trong nhân cách của mình. Hãy nhìn thẳng vào thực tế và trước các thử thách hãy hành động như một người! trưởn! g thành.

Sự tự trọng và một lương tâm trong sáng: đó là các thành tố chủ yếu của sự liêm khiết. Đó cũng chính là những phẩm chất thiết yếu nếu như ta muốn cải thiện mối quan hệ với người khác.

Một cuộc sống có nguyên tắc không hạ mình trước sức cám dỗ của thứ đạo đức dễ dãi, sẽ luôn giành phần thắng. Cuộc sống đó sẽ dẫn đường cho chúng ta mà không cần phải xem xét lại xem ta có đang đi đúng đường hay không.

Hai biển hồ


Người ta bảo ở bên Palextin có hai biển hồ… Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết. Đúng như tên gọi, không có sự sống nào bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước trong hồ không có một loại cá nào có thể sống nổi mà người uống cũng bị bệnh. Không một ai muốn sống ở gần đó. Biển hồ thứ hai là Galilê. Đây là biển hồ thu hút khách du lịch nhiều nhất. Nước ở biển hồ lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con người có thể uống được mà cá cũng có thể sống được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở nơi đây. Vườn cây ở đây tốt tươi nhờ nguồn nước này…

Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều được đón nhận nguồn nước từ sông Jordan. Nước sông Jordan chảy vào biển Chết. Biển chết đón nhận và giữ lại riêng cho mình mà không chia sẻ, nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ Galilê cũng đón nhận nguồn nước từ sông Jordan rồi từ đó mà tràn qua các các hồ nhỏ và sông lạch, nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muôn thú và con người.

Một định lý trong cuộc sống mà ai cũng đồng tình: Một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa lan tỏa. Một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nụ cười . Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng.

Thật bất hạnh cho ai cả cuộc đời chỉ biết giữ cho riêng mình . “Sự sống” trong họ rồi cũng chết dần chết mòn như nước trong lòng biển chết!

Phải, bạn có thể!


16 cuộc phẫu thuật sau tai nạn xe hơi đã làm Mitchell có một cơ thể bị phỏng hơn 60%, không thể nhấc dù chỉ là muỗng thức ăn, không thể quay số điện thoại hay đi vào nhà tắm mà không có người giúp.

Nhưng Mitchell, nguyên là lính thuỷ, không bao giờ tin là mình đã bị đánh bại. "Tôi phải chịu trách nhiệm về con tàu của mình", – ông nói – "Nó là sự thành bại của tôi. Tôi có thế như là khởi đầu lại từ điểm xuất phát".

Sáu tháng sau, ông đã lái máy bay được. Mitchell mua một căn nhà lớn tại Colorado, vài mảnh đất, một chiếc máy bay và một quán bar. Sau đó kết hợp với hai người bạn, ông mở một công ty sản xuất đồ gốm với số nhân công lớn thứ nhì Vermont.

Và bốn năm sau ngày bị tai xe hơi, cái máy bay mà Mitchell lái đã bị rớt xuống đường băng khi vừa cất cánh làm ông gãy 12 đốt xương sống vùng ngực và liệt hẳn nửa người bên dưới. "Tôi không hiểu chuyện quái quỉ gì đã xảy ra. Tôi đã làm gì mà phải lãnh kết quả như vậy?".

Nhưng rồi không nản lòng, Mitchell tập luyện ngày đêm để có thể lấy lại được sự độc lập cho mình càng nhiều càng tốt. Ông được bầu làm thị trưởng của Crested Butte, Colorado, để đấu tranh giữ cho thành phố thoát khỏi nguy cơ bị ô nhiễm bởi một mỏ quặng sắp được khai thác. Mitchell còn ứng cử vào quốc hội, chuyển cái vẻ bề ngoài khó coi của ông thành một sức mạnh qua khẩu hiệu: "Not just another pretty face" (Không chỉ là một khuôn mặt đẹp nữa vào quốc hội).

Mặc cho vẻ bề ngoài khó coi và khả năng hoạt động giới hạn, Mitchell vẫn tham gia đi hè, yêu và lập gia đình, lấy được bằng cao học về công tác xã hội và tiếp tục bay, tích cực bảo vệ môi trường và diễn thuyết.

Tinh thần mạnh mẽ tích cực của Mitchell đã làm ông được mời lên truyền hình trong "Chương trình hôm nay" và "Chào nước Mỹ". Nhiều bài viết về ông đã được đăng trong các báo, tạp chí như Parade, Times, The New York Times…

"Trước khi bị tai nạn tôi có thể làm được 10.000 việc, bây giờ chỉ còn 9.000 thôi. Tôi có thể cứ nghĩ đến 1.000 điều bị mất hay tập trung vào 9.000 điều tôi còn? Tôi biết mình phải làm gì. Tôi vẫn nói với mọi người rằng tôi đã lãnh hai cú đập của số phận. Nhưng tôi đã không dùng điều đó để bào c! hữa cho sự đào ngũ. Những kinh nghiệm đau đớn đã có thể được nhìn với một góc độ mới. Nhìn một cách toàn diện hơn, tôi có thể nói cũng không tệ lắm".

Xin nhớ rằng: "Điều quan trọng không phải là điều xảy ra với bạn mà là điều bạn làm sau đó".

Một câu chuyện cảm động


Câu chuyện đã xảy ra từ nhiều năm trước. Lúc đó, cô Thompson đang dạy tại trường tiểu học của thị trấn nhỏ tại Hoa Kỳ. Vào ngày khai giảng năm học mới, cô đứng trước những em học sinh lớp năm, nhìn cả lớp và nói cô sẽ yêu tất cả các học sinh như nhau. Nhưng thực ra cô biết mình sẽ không làm được điều đó bởi cô đã nhìn thấy cậu học sinh Teddy Stoddard ngồi lù lù ngay bàn đầu. Năm ngoái, cô đã từng biết Teddy và thấy cậu bé chơi không đẹp với bạn bè, quần áo thì lôi thôi lếch thếch, còn người ngợm thì lại quá bẩn thỉu. "Teddy trông thật khó ưa."

Chẳng những thế, cô Thompson còn dùng cây bút đỏ vạch một chữ thật rõ đậm vào hồ sơ cá nhân của Teddy và ghi chữ F đỏ chói ngay phía ngoài (chữ F là hạng kém). Ở trường này, vào đầu năm học mỗi giáo viên đều phải xem thành tích của từng học sinh trong lớp mình chủ nhiệm. Cô Thompson đã nhét hồ sơ cá nhân của Teddy đến cuối cùng mới mở ra xem, và cô rất ngạc nhiên về những gì đọc được. Cô giáo chủ nhiệm lớp 1 nhận xét Teddy như sau: "Teddy là một đứa trẻ thông minh và luôn vui vẻ. Học giỏi và chăm ngoan… Em là nguồn vui cho người chung quanh". Cô giáo lớp 2 nhận xét: "Teddy là một học sinh xuất sắc, được bạn bè yêu quý nhưng có chút vấn đề vì mẹ em ốm nặng và cuộc sống trong gia đình thật sự là một cuộc chiến đấu". Giáo viên lớp 3 ghi: "Cái chết của người mẹ đã tác động mạnh đến Teddy. Em đã cố gắng học, nhưng cha em không mấy quan tâm đến con cái và đời sống gia đình sẽ ảnh hưởng đến em nếu em không đ! ược giúp đỡ". Giáo viên chủ nhiệm lớp 4 nhận xét: "Teddy tỏ ra lãnh đạm và không tỏ ra thích thú trong học tập. Em không có nhiều bạn và thỉnh thoảng ngủ gục trong lớp".

Đọc đến đây, cô Thompson chợt hiểu ra vấn đề và cảm thấy tự hổ thẹn. Cô còn thấy áy náy hơn khi đến lễ Giáng sinh, tất cả học sinh trong lớp đem tặng cô những gói quà gói giấy màu và gắn nơ thật đẹp, ngoại trừ món quà của Teddy. Em đem tặng cô một gói quà bọc vụng về bằng loại giấy gói hàng nâu xỉn mà em tận dụng lại từ loại túi giấy gói hàng của tiệm tạp hoá. Cô Thompson cảm thấy đau lòng khi mở gói quà ấy ra trước mặt cả lớp. Một vài học sinh đã bật cười khi thấy cô giơ lên chiếc vòng giả kim cương cũ đã sút mất một vài hột đá và một chai nước hoa chỉ còn lại một ít. Nhưng cô đã dập tắt những tiếng cười nhạo kia khi cô khen chiếc vòng đẹp, đeo nó vào tay và xịt ít nước hoa trong chai lên cổ.

Hôm đó Teddy đã nén lại cho đến cuối giờ để nói với cô: "Thưa cô, hôm nay cô thơm như mẹ em ngày xưa". Sau khi đứa bé ra về, cô Thompson đã ngồi khóc cả giờ đồng hồ. Và chính từ hôm đó, ngoài dạy học cô còn lưu tâm chăm sóc cho Teddy hơn trước. Mỗi khi cô đến bàn em để hướng dẫn thêm, tinh thần Teddy dường như phấn chấn hẳn lên. Cô càng động viên em càng tiến bộ nhanh. Vào cuối năm học, Teddy đã trở thành học sinh giỏi nhất lớp. Và trái với phát biểu của mình vào đầu năm học, cô đã không yêu thương mọi học sinh như nhau. Teddy là học sinh cưng nhất của cô.

Một năm sau, cô tìm thấy một mẩu giấy nhét qua khe cửa. Teddy viết: "Cô là cô giáo ! tuyệt v! ời nhất trong đời em". Sáu năm sau, cô lại nhận được một bức thư ngắn từ Teddy. Cậu cho biết đã tốt nghiệp trung học, đứng hạng 3 trong lớp và "Cô vẫn là người thầy tuyệt vời nhất trong đời em". Bốn năm sau, cô lại nhận được một lá thư nữa. Teddy cho biết dù hoàn cảnh rất khó khăn khiến cho cậu có lúc cảm thấy bế tắc, cậu vẫn quyết tốt nghiệp đại học với hạng xuất sắc nhất, nhưng "Cô vẫn luôn là cô giáo tuyệt vời mà em yêu quý nhất trong đời". Rồi bốn năm sau nữa, cô nhận được bức thư trong đó Teddy báo tin cho biết cậu đã đậu tiến sĩ và quyết định học thêm lên. "Cô vẫn là người thầy tuyệt nhất của đời em", nhưng lúc này tên cậu đã dài hơn. Bức thư ký tên Theodore F. Stoddard – giáo sư tiến sĩ.

Câu chuyện vẫn chưa kết thúc tại đây. Một bức thư nữa được gửi đến nhà cô Thompson. Teddy kể cậu đã gặp một cô gái và cậu sẽ cưới cô ta. Cậu giải thích vì cha cậu đã mất cách đây vài năm nên cậu mong cô Thompson sẽ đến dự lễ cưới và ngồi ở vị trí vốn thường dành cho mẹ chú rể. Và bạn thử đoán xem việc gì đã xảy ra?

Ngày đó, cô đeo chiếc vòng kim cương giả bị rớt hột mà Teddy đã tặng cô năm xưa, xức thứ nước hoa mà Teddy nói mẹ cậu đã dùng vào kỳ Giáng sinh cuối cùng trước lúc bà mất. Họ ôm nhau mừng rỡ và giáo sư Stoddard thì thầm vào tai cô Thompson: "Cám ơn cô đã tin tưởng em. Cám ơn cô rất nhiều vì đã làm cho em cảm thấy mình quan trọng và cho em niềm tin rằng mình sẽ tiến bộ". Cô Thompson vừa khóc vừa nói nhỏ với cậu: "Teddy, em nói sai rồi. Chính em mới là người đã dạy cô rằng cô có thể s! ống kh�! �c đi. Cô chưa từng biết dạy học cho tới khi cô gặp được em."

(English Version:

Teacher's Story

There is a story many years ago of an elementary teacher. Her name was Mrs. Thompson. And as she stood in front of her 5th grade class on the very first day of school, she told the children a lie. Like most teachers, she looked at her students and said that she loved them all the same. But that was impossible, because there in the front row, slumped in his seat, was a little boy named Teddy.

Mrs. Thompson had watched Teddy the year before and noticed that he didn't play well with the other children, that his clothes were messy and that he constantly needed a bath. And Teddy could be unpleasant.

At the school where Mrs. Thompson taught, she was required to review each child's past records and she put Teddy's off until last. However, when she reviewed his file, she was in for a surprise.

Teddy's first grade teacher wrote, "Teddy is a bright child with a ready laugh. He does his work neatly and has good manners…he is a joy to be around."

His second grade teacher wrote, "Teddy is an excellent student, well-liked by his classmates, but he is troubled because his mother has a terminal illness and life at home must be a struggle."

His third grade teacher wrote, "His mother's death has been hard on him. He tries to do his best but his father doesn't show much interest and his home life will soon affect him if some steps aren't taken."

Teddy's fourth grade teacher wrote, "Teddy is withdrawn and doesn't show much interest in school. He doesn't have many friends and sometimes sleeps in class."

By now, Mrs. Thompson realized the problem and she was ashamed of herself. She felt even worse when her students brought her Christmas presents, wrapped in beautiful ribbons and bright paper, except for Teddy's. His present was clumsily wrapped in the heavy, brown paper that he got from a grocery bag. Mrs. Thompson took pains to open it in the middle of the other presents. Some of the children started to laugh when she found a rhinestone bracelet with some of the stones missing and a bottle that was one quarter full of perfume. She stifled the children's laughter when she exclaimed how pretty the bracelet was, putting it on, and dabbing some of the perfume on her wrist.

Teddy stayed after school that day just long enough to say, "Mrs. Thompson, today you smelled just like my Mom used to." After the children left she cried for at least an hour.

On that very day, she quit teaching reading, and writing, and arithmetic. Instead, she began to teach children.

Mrs. Thompson paid particular attention to Teddy. As she worked with him, his mind seemed to come alive. The more she encouraged him, the faster he responded. By the end of the year, Teddy had become one of the smartest children in the class and, despite her lie that she would love all the children same, Teddy became one of her "teacher's pets."

A year later, she found a note under her door, from Teddy, telling her that she was still the best teacher he ever had in his whole life.

Six years went by before she got another note from Teddy. He then wrote that he had finished high school, second in his class, and she was still the best teacher he ever had in his whole life.
Four years after that, she got another letter, saying that while things had been tough at times, he'd stayed in school, had stuck with it, and would soon graduate from college with the highest of honors. He assured Mrs. Thompson that she was still the best and favorite teacher he ever had in his whole life.

Then four more years passed and yet another letter came. This time he explained that after he got his bachelor's degree, he decided to go a little further. The letter explained that she was still the best and favorite teacher he ever had. But now his name was a little longer. The letter was signed, Theodore F. Stoller, M.D.

The story doesn't end there. You see, there was yet another letter that spring. Teddy said he'd met this girl and was going to be married. He explained that his father had died a couple of years ago and he was wondering if Mrs. Thompson might agree to sit in the place at the wedding that was usually reserved for the mother of the groom.

Of course, Mrs. Thompson, did. And guess what? She wore that bracelet, the one with several rhinestones missing. And she made sure she was wearing the perfume that Teddy remembered his mother wearing on their last Christmas together.

They hugged each other, and Teddy whispered in Mrs. Thompson's ear, "Thank you, Mrs. Thompson, for believing in me. Thank you so much for making me feel important and showing me that I could make a difference."

Mrs. Thompson, with tears in her eyes, whispered back. She said, "Teddy, you have it all wrong. You were the one who taught me that I could make a difference. I didn't know how to teach until I met you."

From: www.4ewriting.com)

Một câu chuyện đẹp


Khi tôi dám nhận một người từ hè phố, họ đói, tôi cho họ bánh mì. Nhưng một người đang cảm thấy chán nản, cô đơn, mặc cảm, lại là người muốn bước ra hè phố. Đó là một người thiếu nghị lực. Nghèo về tinh thần là điều khó khăn hơn để vượt qua những ngịch cảnh của cuộc đời.

Có thể những người nghèo không của cải, nhưng họ lại thấy cuộc đời đầy thú vị và ấm áp biết bao.

Một buổi tối nọ, tôi ra ngoài và đón nhận bốn người ăn xin, một trong số họ đang trong tình trạng nguy kịch. Tôi báo với người cùng đi là hãy chăm sóc ba người kia, còn tôi sẽ mang người đó về nhà, đặt lên giường, nhưng mắt người đó đã nhắm nghiền, tuy vậy nụ cười vẫn trên môi, nắm lấy bàn tay tôi và cô ta thốt lên "cảm ơn", sau đó nhắm mắt và ra đi vĩnh viễn. Tôi không thể làm gì hơn nhưng tự hỏi lòng mình: "Tôi sẽ nói gì nếu như tôi trong tình trạng giống như cô ta?". Và tôi cũng tự trả lời rất đơn giản: "Tôi sẽ phải cố gắng làm mọi cách để mọi người chú ý đến mình và cho tôi ăn, tôi sẽ nói tôi lạnh, đau đớn…".

Nhưng cô ta đã cho tôi thấy nhiều hơn nữa, đó là tình yêu, sự cảm kích của mình. Cô ta chết với một nụ cười sung sướng.

Sau đó, có lần tôi đón nhận một người đàn ông từ một ống cống, nửa người của anh ta đã bị ruồi nhặng phá hoại. Sau khi mang anh ta về nhà, anh ta chỉ nói: "Tôi đã sống như một con thú và tôi sắp chết như một thiên thần, đã được yêu mến và chăm sóc", sau đó anh chết vẫn với nụ cười trên môi.

Đi�! ��u đó quả thật tuyệt vời, anh ta đã không đổ lỗi cho hoàn cảnh, cho bất cứ ai hay so sánh với điều gì. Như một thiên thần – giàu có về lòng thương, tình nhân ái ngay cả khi nghèo khổ về của cải.

• Cuộc sống như một cơ may, hãy nắm lấy nó.
• Cuộc sống rất đẹp, hãy chiêm ngưỡng nó.
• Cuộc sống như một giấc mơ, hãy đón nhận nó.
• Cuộc sống như một thử thách, hãy đáp ứng nó.
• Cuộc sống như một trò chơi, hãy chơi với nó.
• Cuộc sống như một gia tài, hãy giữ gìn nó.
• Cuộc sống như một tình yêu, hãy thưởng thức nó.
• Cuộc sống như một nỗi buồn, hãy vượt qua nó.
• Cuộc sống như một lời hứa, hãy cố thực hiện.
• Cuộc sống như một bí ẩn, hãy khám phá nó.
• Cuộc sống như một cuộc tranh đấu, hãy chấp nhận nó.
• Cuộc sống như một sự phiêu lưu, hãy can đảm lên.
• Cuộc sống như một bài ca, hãy reo hò cùng với nó.
• Và cuộc sống vô cùng tuyệt vời, đừng bao giờ phá huỷ nó.

Chúng ta thật giàu có


Chúng ta sinh ra có Hai Mắt đằng trước thì chúng ta không nên luôn nhìn lại phía sau mà là nhìn xem có gì đang đợi chúng ta ở phía trước.

Chúng ta sinh ra có Hai Tai: một bên phải một bên trái, để chúng ta nghe được hai phía, nghe được cả lời khen và lời chê.

Chúng ta sinh ra có Bộ Não được giấu trong một hộp xương, dù chúng ta có nghèo về vật chất đến đâu, chúng ta vẫn giàu vì không ai lấy đi được những gì trong bộ não của chúng ta – những thứ ấy quý hơn cả vàng bạc và trang sức mà bạn có.

Chúng ta sinh ra có hai mắt, hai tai, nhưng chỉ có một cái miệng. Hẳn bạn biết tại sao chứ? Vì miệng lưỡi là một vũ khí sắc bén, có thể làm cho người khác cảm thấy yêu thương hay thù ghét. Hãy nhớ: nói ít, nghe và quan sát nhiều hơn.

Chúng ta sinh ra chỉ có một Trái Tim, nằm sâu trong lồng ngực để nhắc chúng ta hãy biết trân trọng và luôn cho đi sự thương yêu từ sâu trong lòng mình.

Đừng thay đổi thế giới


Ngày xưa, có một nhà vua trị vì vương quốc nọ rất thịnh vượng. Một hôm, ông quyết định vi hành đến những miền đất xa xôi của đất nước. Khi trở về cung điện, ông than phiền chân ông rất đau đớn vì lần đầu tiên đi một chuyến dài ngày như thế trên những con đường rất gồ ghề và lởm chởm đá vụn. Nhà vua ban lệnh cho mọi người phải phủ da thuộc lên khắp các con đường của vương quốc. Rõ ràng việc này cần hàng triệu bộ da bò và sẽ tiêu phí rất nhiều tiền của.

Một hầu cận thông minh, dũng cảm tâu với nhà vua:

– Sao bệ hạ lại dùng tiền một cách không cần thiết như thế? Sao bệ hạ không đo cắt một miếng da vừa với chân mình?

Nhà vua rất ngạc nhiên nhưng rồi ông chấp thuận gợi ý của người hầu cận để cho làm một "đôi giày" cho riêng mình.

Bài học vô giá từ câu chuyện này là: Để thế giới này trở thành một nơi hạnh phúc với mọi người, tốt hơn hết hãy thay đổi chính mình chứ đừng thay đổi thế giới.

(Don’t Change the World

Once upon a time, there was a king who ruled a prosperous country. One day,
he went for a trip to some distant areas of his country. When he was back to
his palace, he complained that his feet were very painful, because it was
the first time that he went for such a long trip, and the road that he went
through was very rough and stony. He then ordered his people to cover every
road of the entire country with leather. Definitely, this would need
thousands of cows’ skin, and would cost a huge amount of money.

Then one of his wise servant dared himself to tell the king, “Why do you
have to spend that unnecessary amount of money ? Why don’t you just cut a
little piece of leather to cover your feet ?”

The king was surprised, but he later agreed to his suggestion, to make a
“shoe” for himself.

There is actually a valuable lesson of life in this story : to make this
world a happy place to live, you better change yourself – your heart; and
not the world.

From: http://thirumurugan.spaces.live.com/Blog/cns!1p14Qb66n3O4heKkxp5Sz-sw!10174.entry)

Hãy thắp lên một que diêm


Một bữa tối tại vận động trường Los Angeles, Mỹ, một diễn giả nồi tiếng – ông John Keller, được mời thuyết trình trước khoảng 100.000 người. Đang diễn thuyết bỗng ông dừng lại và dõng dạc nói:

– Bây giờ xin các bạn đừng sợ! Tôi sắp cho tắt tất cả đèn trong sân vận động này.

Đèn tắt. Cả sân vận động chìm sâu trong boáng tối âm u. Ông John Keller nói tiếp:

– Bây giờ tôi đốt lên một que diêm. những ai nhìn thấy ánh lửa của que diêm đang cháy thì hãy hô to “Đã thấy!”.

Một que diêm được bật lên, cả sân vận động vang lên: “Đã thấy!”.

Sau khi đèn được bật sáng trở lại, ông John Keller giải thích:

– Ánh sáng của một hành động nhân ái dù nhỏ bé như một que diêm cũng sẽ chiếu sáng trong đêm tăm tối của nhân loại y như vậy.

Một lần nữa, tất cả đèn trong sân vận động lại được tắt. Một giọng nói vang lên:

– Tất cả những ai ở đây có mang theo diêm quẹt, xin hãy đốt cháy lên ! Bỗng chốc cả vận động trường rực sáng.

Ông John Keller kết luận:

– Tất cả chúng ta cùng hợp lực nhau có thể chiến thắng bóng tối, chiến tranh, khủng bố, cái ác và oán thù bằng những đóm sáng nhỏ của tình thương, sự tha thứ và lòng tốt của chúng ta. Hoà bình không chỉ là môi trường sống vắng bóng của chiến tranh. Hòa bình không chỉ là cuộc sống chung không tiếng súng. Vì trong sự giao tiếp giữa người với người, đôi khi con người giết hại nhau mà không cần súng đạn, đôi khi con người làm khổ nhau, áp bức bóc lột nhau mà không cần chiến tranh.

Cách t�! ��t nhất để xây dựng hòa bình là tăng thêm thật nhiều những hành động yêu thương và hảo tâm với đồng loại. Những hành động yêu thương xuất phát từ lòng nhân hậu sẽ như những ánh sáng nho nhỏ của một que diêm. Nhưng nếu mọi người cùng đốt lên những ánh sáng bé nhỏ, những hành động yêu thương sẽ có đủ sức mạnh để xua tan bóng tối của những đau khổ và cái ác.

Cho ngày hôm nay


Có hai ngày trong tuần chúng ta không nên lo lắng.

Một ngày là ngày hôm qua, với những sai lầm, những âu lo, những tội lỗi, những thiếu sót ngớ ngẩn, sự nhức nhối và những nỗi đau. Ngày hôm qua đã đi qua. Mọi tiền bạc trên đời này cũng không thể đem ngày hôm qua quay trở lại. Chúng ta không thể hủy bỏ một hành động mà chúng ta đã làm cũng như không thể nào xóa đi một ngôn từ mà chúng ta đã thốt ra. Ngày hôm qua cũng đã đi xa rồi.

Còn một ngày nữa mà chúng ta cũng không nên lo lắng, đó là ngày mai với những kẻ thù quá quắt, gánh nặng cuộc sống, những hứa hẹn tràn trề hi vọng mà việc thực hiện thì tồi tệ. Mặt trời của ngày mai sẽ mọc lên hoặc là chói lọi hoặc là khuất sau một đám mây, nhưng dù gì thì nó vẫn sẽ mọc lên. Và ngay trước khi nó mọc lên vào ngày mai chúng ta vẫn chẳng có mối đe dọa nào, bởi lẽ nó vẫn chưa được sinh ra cơ mà.

Vì vậy, chỉ còn một ngày duy nhất – ngày hôm nay – Bất cứ ai đều phải đấu tranh để sống dù chỉ một ngày. Thật ra chẳng phải những gì trải qua ngày hôm nay khiến chúng ta lo lắng, mà đó chính là sự hối tiếc về những gì đã xảy ra ngày hôm qua và những lo sợ về những gì ngày mai có thể đem đến.

Khi cuộc sống quá tồi tệ!


Tôi muốn nói cảm ơn…

Cho người bạn đời nằm bên cạnh… giựt tấm chăn của tôi… mỗi đêm. Vì tôi hiểu rằng chàng / nàng lúc ấy không đang ở chung với bất kì ai khác.

Cho người bạn trẻ không rửa bát đĩa phụ giúp gia nhân mà chỉ xem Tivi . Bởi vì cô / cậu đó đang ở nhà, chứ không phải đang la cà ngoài đường phố.

Cho con số khổng lồ tôi phải trả tiền thuế. Vì tôi biết rằng tôi đang có việc làm.

Cho một bãi chiến trường tôi phải lâu dọn sau mỗi bữa tiệc. Bởi vì nó cho tôi biết tôi đang có rất nhiều bạn bè xung quanh tôi.

Cho những bộ quần áo mà tôi cảm thấy hơi bị chật. Vì tôi hiểu rằng tôi có đủ cái để ăn.

Cho cái bóng của tôi trên mặt đường, giữa trưa hè nóng bức, cái bóng nhìn tôi lao động mỗi ngày. Vì nó cho tôi biết nơi tôi đang ở còn có ánh mặt trời.

Cho cánh cửa sổ cần phải lau chùi. Cho cái hàng rào cần sơn lại. Cho nóc nhà dột tôi phải sửa. Vì tôi vui sướng tôi có một mái nhà.

Cho tất cả những lời ca thán mà tôi nghe về chính phủ, về xã hội. Vì nó cho tôi biết tôi có quyền tự do ngôn luận.

Cho một chỗ đậu xe xa tít ở phía cuối bãi đậu xe. Vì tôi mừng rằng tôi có khả năng đi đứng, tôi còn được ban cho một phương tiện đi lại nữa.

Cho tờ hóa đơn khủng khiếp tiền điện, tiền nước, tiền khí đốt. Vì tôi Hạnh Phúc tôi được ấm, được đầy đủ.

Cho người phụ nữ hát trật nhịp trong nhà thờ, ngồi bên cạnh tôi. Vì nó cho tôi biết tôi có thể nghe được.

Cho nh! ững chậu đồ to tướng mà tôi phải giặt ủi. Vì tôi có quần áo để mặc.

Cho những khớp xương nhức mỏi sau mỗi ngày làm việc. Vì tôi vui rằng tôi có khả năng làm việc nặng.

Cho cái đồng hồ reo inh ỏi mỗi sáng. Vì tôi Sung Sướng biết rằng mình vẫn… Còn sống.

Và cuối cùng… Tôi tạ ơn cho cho việc tôi có quá nhiều email, quá nhiều FWD và REPLY… Bởi vì tôi hiểu rằng tôi có rất nhiều bạn bè, những người luôn nghĩ đến tôi.

Khi bạn cảm thấy Cuộc Sống này quá tồi tệ với bạn, hãy đọc lại lần nữa nhé!

Bạn có nghèo không?


Một ngày nọ, người cha giàu có dẫn con trai đến một vùng quê để thằng bé thấy những người nghèo ở đây sống như thế nào. Họ tìm đến nông trại của một gia đình nghèo. “Ðây là một cách để dạy con biết quí trọng những người có cuộc sống cơ cực hơn mình” – người cha nghĩ đó là bài học thực tế tốt cho đứa con bé bỏng của mình.

Sau khi ở lại và tìm hiểu đời sống ở đây, họ trở về nhà. Trên đường về, người cha nhìn con trai mỉm cười:

– Chuyến đi như thế nào hả con?

– Thật tuyệt vời bố ạ!

– Con đã thấy những người nghèo sống như thế nào rồi đấy!

– Ồ vâng.

– Thế con đã rút ra được điều gì từ chuyến đi này?

Ðứa bé không ngần ngại trả lời:

– Con thấy chúng ta có một con chó, họ có bốn. Nhà mình có một hồ bơi, họ lại có một con sông dài bất tận. Chúng ta phải đưa những chiếc đèn lồng vào vườn, họ lại có những ngôi sao lấp lánh vào đêm. Mái hiên nhà mình chỉ đến trước sân, họ thì có cả chân trời. Chúng ta có một miếng đất để sinh sống, và họ có những cánh đồng trải dài. Chúng ta phải mua thực phẩm còn họ lại trồng ra những thứ ấy. Chúng ta có những bức tường bảo vệ xung quanh, còn họ có những người bạn láng giềng che chở cho nhau.

Ðến đây người cha không nói gì cả.

– Bố ơi, con đã biết chúng ta nghèo như thế nào rồi.

Rất nhiều khi chúng ta đã quên mất những gì mình đang có và chỉ luôn đòi hỏi những thứ quá tầm tay. ! Cũng có những thứ không giá trị với người này nhưng lại là mong mỏi của người khác. Ðiều đó phụ thuộc vào cách nhìn, đánh giá và hoàn cảnh mỗi người. Xin đừng quá lo lắng, chờ đợi vào những gì bạn chưa có mà bỏ quên điều bạn đang có, dù là chúng rất nhỏ nhoi.

(Appreciate what you have

One day . . . a wealthy family man took his son on a trip to the country, so he could

have his son see how poor country people live.

They stayed one day and one night in the home of a very humble farmer. At the end

of the trip, and when they were back home, the father asked his son, “What did you

think of the trip?”

The son replied, “Very nice dad.”

Then the father asked his son, “Did you notice how poor they were?”

The son replied, “Yes.”

The father continued asking, “What did you learn?”

The son responded, “I learned that we have one dog in our house, and they have

four.

Also, we have a fountain in our garden, but they have a stream that has no end.

And we have imported lamps in our garden . . . where they have the stars!

And our garden goes to the edge of our property. But they have the entire horizon as

their back yard!”

At the end of the son’s reply the father was speechless.

His son then said, “Thank you dad for showing me how poor we really are.”)

Điều đó rồi cũng qua đi


Một ngày nọ, vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cần thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: “Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng để đeo trong ngày lễ và ta cho ông sáu tháng để tìm chiếc vòng đó”.

Benaiah trả lời: “Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, thưa đức vua, tôi sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài, nhưng chắc là chiếc vòng ấy phải có gì đặc biệt?”.

Nhà vua đáp: “Nó có những sức mạnh kỳ diệu. Nếu kẻ nào đang vui nhìn vào nó sẽ thấy buồn, và nếu ai đang buồn nhìn vào nó sẽ thấy vui”. Vua Salomon biết rằng sẽ không đời nào có một chiếc vòng như thế tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bàng.

Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để tìm ra một chiếc vòng như thế.

Vào đêm trước ngày lễ, ông quyết định lang thang đến một trong những nơi nghèo nhất của Jerusalem. Ông đi ngang qua một người bán hàng rong đang bày những món hàng trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân lại hỏi: “Có bao giờ ông nghe nói về một chiếc vòng kỳ diệu làm cho người hạnh phúc đeo nó quên đi niềm vui sướng và người đau khổ đeo nó quên đi nỗi buồn không?”. Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ trên chiếc vòng đó, khuôn mặt ông rạng ngời một nụ cười.

Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mùa lễ hội. “Nào, ông bạn của ta – vua Salomon hỏi – ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa?”. Tất cả cận thần có mặt đều cười lớn và cả chính vua Salomon cũng cười.

Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói: “Nó đây, thưa đức vua”. Khi vua Salomon đọc dòng chữ, nụ cười biến mất trên khuôn mặt vua. Trên chiếc vòng đó có khắc dòng chữ: “Điều đó rồi cũng qua đi”.

Vào chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng tất thảy những sự khôn ngoan, vương giả và quyền uy của ông đều là phù du, bởi vì một ngày nào đó ông cũng chỉ là cát bụi…

Giá trị của thời gian


Một kỹ sư đã tính được rằng với một thanh sắt nặng 5kg, chúng ta có thể làm được một trong các việc sau đây:

Nếu làm đinh sẽ bán được 10 USD.

Nếu làm kim may sẽ bán được 300 USD.

Còn nếu dùng làm những cái lò xo đồng hồ sẽ đem lại 25.000 USD

Mỗi ngày đều cho chúng ta 24h bằng nhau, còn sử dụng những nguyên liệu đó như thế nào, dùng chúng để làm gì là tùy thuộc chúng ta. Thời gian là một trong những thứ hiếm hoi duy nhất mà khi đã mất rồi chúng ta không thể nào tìm lại được. Tiền bạc mất đi có thể tìm lại được. Ngay cả sức khỏe nếu mất đi cũng có khả năng phục hồi được. Nhưng thời gian sẽ không bao giờ quay bước trở lại.

Không có cụm từ nào tai hại cho bằng ba chữ “Giết – thời – gian”. Nhiều người tìm những thú vui, tìm những việc làm để chỉ mong giết thời gian. Thật ra chúng ta được ban cho thời gian để sử dụng chứ không phải để giết chúng.

Tiếng nói của cuộc sống


Xin chào! Tôi là cuộc sống đây. Hôm nay tôi sẽ cố giải quyết mọi vấn đề bạn đang gặp phải để bạn đừng than trách tôi nữa…

Nếu bạn bị tắc đường và kẹt xe, đừng thất vọng. Còn rất nhiều người trên thế giới này, mà đối với họ, lái xe là một niềm mơ ước không thể thực hiện .

Nếu bạn cảm thấy học hành thật chán ngán. Hãy nghĩ đến người đã hàng năm trời rồi không được đi học.

Nếu bạn thất vọng vì một chuyện tình cảm đang đến hồi tan vỡ. Hãy nghĩ đến người chưa bao giờ biết yêu thương và được yêu thương là như thế nào.

Nếu bạn buồn vì một cuối tuần nữa lại sắp trôi qua. Hãy nghĩ đến những người phụ nữ ở môi trường làm việc khắc nghiệt, phải làm việc 12 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần để nuôi con.

Nếu bạn cảm thấy mất mát và tự hỏi mình cuộc sống là gì và có mục đích gì. Hãy nghĩ đến những người bệnh tật, biết trước mình không còn sống được bao lâu nữa, và không còn cơ hội để tự hỏi mình nữa.

Nếu bạn cảm thấy khủng khiếp khi là nạn nhân của những trò đùa, những sự nhỏ mọn… của người khác. Hãy nhớ: Thế vẫn chưa là gì đâu, vì tồi tệ hơn nữa là khi bạn có thể là chính những người đó!

Ưu điểm và khuyết điểm


Một đoàn hợp xướng nổi tiếng tổ chức cuộc biểu diễn báo cáo định kỳ thường niên. Khách mời có đủ các giáo sư âm nhạc, các nhà sáng tác, phê bình, các nghệ sĩ nổi tiếng và nhiều chính khách. Hết chương này nối tiếp chương khác, giọng ca của các ca sĩ cứ hoà quyện lấy nhau, dường như mỗi âm thanh, mỗi lời ca đều phát ra từ chiếc đũa chỉ huy của vị nhạc trưởng – nhịp nhàng – đúng chỗ – đúng lúc – đúng thanh điệu…; thể hiện kết quả của một quá trình luyện tập gian khổ và trình độ diễn xuất cao.

Dòng thác âm thanh cùng lời ca kỳ diệu như đưa cả người hát và người nghe vào trạng thái thăng hoa, ngây ngất như trong mơ trong mộng. Bỗng nhiên, một giọng nữ trong veo cất lên cao vút. Một giọng độc xướng kỳ lạ, nhưng lại xuất hiện ở vị trí không dành cho những người độc xướng! Vị nhạc trưởng ngỡ ngàng, ngẩng đầu; dàn hợp xướng dường như bắt đầu rối loạn… May thay, sự cố chỉ xảy ra trong một vài giây; ngay lập tức mọi thứ lại trở về quỹ đạo bình thường và buổi biểu diễn đã kết thúc hết sức mỹ mãn.

Những tràng vỗ tay như sấm và nghi lễ tặng hoa vừa chấm dứt thì vị nhạc trưởng đã hầm hầm lao vào phía sau sân khấu:

– Ai đã hát lạc giọng?

– Là tôi ạ… – một cô gái mới nhập đoàn không lâu đang thút thít ngồi khóc trong sân khấu.

Vừa đúng lúc đó có một vị thượng khách bước vào, ông nhạc trưởng đành phải tươi cười bước ra nghênh tiếp.

– Tôi rất muốn gặp c�! � gái đã hát lạc giọng – vị giáo sư âm nhạc nổi tiếng nói – Đã lâu lắm rồi, tôi chưa được nghe một giọng nữ cao nào đẹp và mượt đến mức như vậy. Nếu biết cách huấn luyện, sẽ có được một ca sĩ lớn.

Thế là cô gái hát lạc giọng bị cả đoàn chỉ trích đó đã trở thành học trò của vị giáo sư nổi tiếng. Quả nhiên, sau vài năm, cô bé lọ lem đó đã trở thành một ngôi sao lớn trong giới thanh nhạc.

Một số người chỉ nhìn thấy cái sai của những người khác. Có người lại nhìn thấy được cả ưu điểm trong những sai lầm. Để có thể trở thành loại người thứ hai, cần phải vừa có lòng bao dung vừa có trí tuệ.

Một đồng xu


Có hai bạn trẻ, một người Anh và một người Do Thái cùng đi xin việc làm. Một đồng xu của ai đó đánh rơi trên mặt đất. Anh bạn trẻ người xứ sương mù đi ngang qua trông thấy nhưng phớt lờ, còn anh bạn trẻ người Do Thái thì cúi xuống nhặt, nét mặt tỏ vẻ hân hoan.

Nhìn thấy hành động của anh bạn Do Thái, anh bạn trẻ người Anh tỏ ra khinh thường, lẩm bẩm: “Một đồng xu cũng nhặt, thật chẳng ra làm sao cả”. Chờ cho anh bạn trẻ người Anh đi qua, anh bạn trẻ người Do Thái nói: “Nhìn thấy tiền mà ngoảnh mặt làm ngơ, thật là lãng phí của Giời!”.

Hai người cùng đến xin việc ở một công ty. Doanh nghiệp rất nhỏ, công việc thì nặng nhọc mà tiền lương thì chẳng được là bao, anh bạn trẻ người Anh chẳng nói chẳng rằng vội vã bỏ đi, còn anh bạn trẻ người Do Thái thì tình nguyện xin vào làm việc.

Hai năm sau, hai người tình cờ gặp nhau trên đường phố. Anh bạn trẻ người Do Thái đã trở thành Giám đốc công ty, còn anh bạn trẻ người Anh vẫn chưa xin được việc làm. Không hiểu được sự việc, anh ta bèn hỏi: “Anh là người chẳng xuất sắc gì lắm, sao lại phất nhanh như thế?”. Anh bạn Do Thái đáp: “Tôi không bỏ qua từng đồng xu như anh. Một đồng xu cũng không quan tâm, làm sao anh có thể trở nên giàu có được?”.

Anh bạn trẻ xứ sương mù đâu phải là không cần tiền, nhưng trong con mắt của anh, anh chỉ muốn những khoản tiền lớn, song lại quên câu thành ngữ: “Tích tiểu thành đại”, vì vậy ước mơ làm giàu của anh ta phải đợi đ�! �n ngày mai. Đó là lời giải đáp cho câu hỏi của anh bạn trẻ người Anh.

Một câu nói dịu dàng

Adlai Albert Esteb


Đây là câu chuyện mà tôi được một nhà tỷ phú kể cho nghe.

“Nhiều năm về trước, có một cậu bé mồ côi tên Jim, 12 tuổi, gầy gò. Jim sống lang thang, là đầu mối của mọi trò cười và trêu chọc của mọi người sống trong thị trấn. Không ai đối xử tử tế với Jim. Những nghi ngờ của mọi vụ ăn cắp hay rắc rối đều có tên Jim đầu tiên. Cậu chỉ nhận được những lời nói cay độc, nghi ngờ. Kết quả là Jim luôn lẫn tránh những người xung quanh. Cậu càng lẫn tránh, người ta càng nghi ngờ cậu.

Tài sản duy nhất của Jim là chú chó Tige, cũng luôn khép nép và lẫn tránh mọi người như chủ nó. Jim không đối xử thô lỗ với Tige nhưng cậu cũng luôn dùng thứ ngôn ngữ cay độc mà mọi người dùng với cậu. Phần vì cậu đã quen với những ngôn ngữ đó, phần vì để trút đi mọi nỗi uất ức.

Một hôm, Jim thấy cô gái phía trước làm rơi một gói nhỏ. Cô cúi xuống nhặt thì một gói khác lại rơi khỏi tay. Jim chạy đến, nhặt hai cái gói lên đưa trả cô gái.

– Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt – Cô gái cười và xoa đầu Jim.

Jim hoàn toàn sốc. Đó là những lời nói tử tế đầu tiên cậu nghe thấy trong suốt 12 năm. Jim nhìn theo cô gái cho đến khi cô đi khuất.

… Jim huýt sáo gọi Tige, con chó ve vẩy đuôi chạy tới bên. Cả chủ và chó đi vào rừng… Jim ngồi xuống cạnh bờ suối và trong đầu cứ vang lên: “Cảm ơn cậu bé, cậu thật tốt!”… Jim cười một mình. Rồi cậu gọi: “Đến đây Tige!”. Tige chạy lại ngay, Jim xoa đầu nó và nói: “C�! ��m ơn mày! Mày thật là tốt!”.

Tige rất phấn kích và ngạc nhiên. Tai nó vểnh lên, mắt hướng về phía Jim chăm chú, đuôi vẩy lia lịa. “Đến con chó cũng thích nghe nói dịu dàng!”. Jim nghĩ và lôi trong túi ra một mảnh gương vỡ. Cậu bé thấy một khuôn mặt lấm lem. Jim rửa mặt thật cẩn thận. Sau đó, Jim lại nhìn vào gương. Cậu bé ngạc nhiên. Lần đầu tiên, cậu nhìn lên cao thay vì chỉ cúi mặt như mọi khi. Một cảm giác, cũng là lần đầu tiên cậu cảm thấy: cảm giác tự trọng.

Từ khoảng khắc đó, cuộc đời Jim hoàn toàn thay đổi bởi quyết tâm để xứng đáng với những lời nói dịu dàng”.

Ngưng một lát, nhà tỷ phú tiếp tục nói: “Thưa các bạn, tôi chính là cậu bé đó. Thị trấn nhỏ mà tôi vừa kể đến chính là thành phố này 40 năm về trước. Cái cây ở đằng kia mà quý vị có thể thấy chính là nơi một người phụ nữ đã gieo hạt giống đầu tiên của lòng nhân hậu xuống cuộc đời tôi. Mong sao ai cũng có thể làm được như thế”.

A KIND WORD
Adlai Albert Esteb


A successful businessman, addressing the commercial club of his city, told
a story in his after-dinner speech. It was the story of a boy named Jim,
who was an orphan and the laughing stock of the whole town. He was twelve
years old, slim and undersized. He never remembered having a kind word
spoken to him in his whole life. He was accustomed to harsh words,
suspicion, and rebuffs, and as a result became a shrinking, pitiful little
figure, dodging people. And the more he dodged people, the more suspicious
they became.

The only earthly possession of which Jim could boast was a dog that cringed
and shrank almost as much as his master and was as much hated. Jim was not
cruel to his dog except in words – and that is really the worst form of
cruelty, even to a dog. A harsh, unkind word can cause more misery,
heartache, and anguish than actual physical cruelty. A cruel, unkind tongue
cuts like a sword.

One day as Jim walked down the street, he saw a bundle slip from the
overloaded arms of a little lady just in front of him. As she stooped to
pick it up, the others rolled down. Jim sprang to her assistance, gathering
up the bundles and replacing them in her arms. “Thank you, dear; you are a
nice little boy,” she said kindly, and went on her way after giving him a
bright smile.

Jim was amazed; a queer choky feeling passed over him. These were the first
kind words he had ever heard in his whole twelve years of existence. He
stood and stared after her. He knew that she was the busy little dressmaker
who lived in a small cottage on the outskirts of town. He watched her until
she was out of sight, then he whistled to Tige and made straight for the
woods and a stream that wound around the town.

He sat down on the bank of the stream and did some thinking. “Thank you,
dear; you! are a nice little boy,” he pondered.

“Come here, Tige,” he commanded, and Tige slunk to his feet. Then Jim
lowered his voice in imitation of the little faded lady and said, “You are
a nice little dog.” The effect on Tige was electrical. He pricked up his
ears, and if a dog could stand at attention, Tige did. “Uhum! Even a dog
likes it,” said Jim. “Well, Tige, I don’t blame you; it is nice. I won’t
holler at you anymore.” Tige wagged his tail joyously.

The boy continued to think, and the dog sat and watched him. Finally the
boy pulled from the odds and ends in his pockets a piece of broken mirror
and looked at himself. He saw nothing but grime and dirt, the accumulation
of many days. He went down to the water’s edge and scrubbed it off
carefully, almost painfully. Then he looked again. He scarcely recognized
himself. He was surprised. He stood erect and looked up instead of down for
the first time since he could remember. He distinctly liked the sensation.
A feeling of self-respect awoke within his being. Ambition sprang full-
grown into life. At that moment the course of his life was changed; a
determination to be worthy of the kind words spoken to him by the little
dress maker, and to pass them on, took possession of his soul.

After telling this story of Jim, the orphan boy, the speaker paused; and
then he electrified the audience by saying, “Gentlemen, I was that boy.
This city–your city, my city–was that little town of forty years ago. Our
plant stands upon the spot where that gentle woman stood when she implanted
in my life the first seed of kindness. She sleeps out yonder in what was
then the cemetery of a country church. As a tribute to her memory I have
told you this story.”

Oh, that all of us would learn the lesson: “Be ye kind.” What ! transform! ing
power it has!

Bạn nên có

Kiều Mai


Bạn thấy những người gần gũi nhất với mình như thế nào? Họ tốt bụng? Hài hước? Dễ đồng cảm? Thân thiện? Họ có thể có một trong những phẩm chất trên nhưng lý do thực sự khiến bạn làm thân với họ là vì họ có được những phẩm chất mà bạn mong mình có. Sau đây là 10 người bạn mà ta cần có trong cuộc sống.

– Một người thầy, người cố vấn. Đây là người cho bạn những lời khuyên.

– Một người nuôi dưỡng – để bạn có thể tin tưởng trông cậy vào người đó.

– Một người bạn đồng minh – người luôn luôn ủng hộ bạn.

– Một người bạn tâm hồn – người luôn có chung quan điểm với bạn.

– Một người bạn đồng nghiệp – bạn có thể trò chuyện thân mật, chia sẻ mọi điều với người đó ở cơ quan.

– Một người bạn thuở ấu thơ – giúp bạn nhớ lại một tuổi thơ êm đềm.

– Một người bạn trong cùng một hội – đó là người mà ta thân nhất trong cùng một hội nhóm cùng tham gia, ví dụ như hội yêu thơ, hội cầu lông, hội các nữ doanh nhân…. để vui chơi, trao đổi kiến thức, kinh nghiệm.

– Bạn đồng cảnh – đó là những người có cùng cảnh ngộ với bạn, ví dụ đang mang thai như bạn, đang có chồng đi vắng dài ngày…. Người ấy sẽ có những cảm giác giống như bạn.

– Một người bạn cùng trong cơn khủng hoảng – người ấy sẽ chia sẻ nỗi đau đớn chung với bạn.

– Người đối lập với bạn – đó là người mà những điểm m! ạnh của người ấy lại là điểm yếu của bạn. Người đó sẽ giúp bạn khám phá những niềm vui mới trong cuộc sống.

Một người bạn có thể cùng lúc đảm nhiệm vài vai trò nhưng nên nhớ rằng không có một người nào có thể đáp ứng được tất cả mọi mong muốn trên của bạn. Nếu bạn cứ đòi hỏi điều đó thì mối quan hệ của bạn với người đó sẽ rất căng thẳng. Vì vậy, bạn chớ vội đi kiếm tìm những người bạn mới mà bằng cách nào đó chứng tỏ cho những người bạn cũ của bạn thấy bạn đánh giá họ cao như thế nào.

Đừng sợ vấp ngã


Đã bao lần bạn vấp ngã mà không hề nhớ ?

Lần đầu tiên chập chững bước đi, bạn đã bị ngã ?

Lần đầu tiên tập bơi, bạn uống nước và suýt chết đuối phải không?

Lần đầu tiên chơi bóng bàn, bạn có đánh trúng banh không?

Không sao đâu, vì…

Walt Disney từng bị tờ báo sa thải vì thiếu ý tưởng. Ông cũng nếm mùi phá sản nhiều lần trước khi sáng tạo nên Disneyland.

Lúc còn học phổ thông, Louis Paster chỉ là một học sinh trung bình.Về môn hoá, ông đứng hạng 15 trong số 22 học sinh của lớp.

Lev Tolstoy, tác giả của bộ tiểu thuyết nổi tiếng "Chiến tranh và hoà bình" bị đình chỉ học đại học vì "vừa không có khả năng, vừa thiếu ý chí học tập".

Henry Ford thất bại và cháy túi tới năm lần trước khi thành công.

Ca sĩ opera nổi tiếng Enrico Caruso bị thầy giáo cho là thiếu chất giọng và không thể nào hát được.

Vậy, xin bạn chớ lo sợ thất bại. Điều đáng sợ hơn là bạn đã bỏ qua nhiều cơ hội chỉ vì không cố gắng hết mình.

Báu vật


Ðể nhận thức được giá trị của một tháng
Hãy hỏi bà mẹ vừa sinh con chưa đầy tháng tuổi.

Ðể nhận thức được giá trị của một tuần
Hãy hỏi biên tập viên của một tuần báo.

Ðể nhận thức được giá trị của một giờ
Hãy hỏi những người yêu nhau đang chờ cuộc hẹn.

Ðể nhận thức được giá trị của một phút
Hãy hỏi người vừa trễ một chuyến xe.

Ðể nhận thức được giá trị của một giây.
Hãy hỏi người vừa trải qua một tai nạn trong gang tấc.

Ðể nhận thức được giá trị của một sao
Hãy hỏi những vận động viên vừa đoạt huy chương vàng Olimpic.


Hãy trân trọng mỗi phút giây mà bạn có
Hôm qua là lịch sử
Ngày mai là một bí ẩn còn đó
Còn hôm nay là một món quà mà chúng ta có được.
Ðó là lí do mà chúng ta gọi đó là “hiện tại”.

Bí quyết cho cuộc sống

Phong Hào


Thất bại không giết được ta… mà chỉ có thể làm ta mạnh mẽ hơn! Nhà triết học Nietzsche đã viết dòng châu ngọc này trong thời kỳ đen tối nhất của cuộc đời ông, nhờ đó ông có thể nhìn thấy ánh sáng nơi cuối đường hầm. Những yêu cầu của thời cuộc đôi lúc thúc ép bạn phải đạt được thành công. Thành công rất quan trọng nhưng đừng sợ thất bại bởi thất bại không giết được bạn. Khi bạn cảm thấy cuộc sống như không thể tồi tệ hơn được nữa – hàng chồng giấy tờ trên bàn thật khó giải quyết, các đồng nghiệp không thiện chí, thích “chơi” bạn từ phía sau… – đừng cho rằng công việc cũng chỉ có ý nghĩa thế mà thôi, rằng khó khăn thì không ngừng trong khi sự bù đắp lại quá ít. Thay vào đó, hãy nhận ra đây là một cách học tập, bạn đang được bồi bổ những kỹ năng và sẽ được thưởng xứng đáng. Đừng luôn kêu khổ đến mức bạn trở thành nạn nhân của nó. Có sự khác biệt giữa việc việc qua một tình huống khó khăn với tự cho phép mình trở thành nhu nhược, vô dụng. Sự chán nản, dưới bất kỳ hình thức nào, cũng là nguy hiểm.

Công việc và sở thích: trong cuộc sống, nhiều người đã lập nên một ranh giới giữa công việc và các thú vui riêng rẽ. Chúng ta dành ngày cuối tuần, thời gian sau công việc để thỏa mãn những niềm đam mê và sở thích của mình. Nhưng khi phải dành quá nhiều thời gian trong đời để làm việc, chúng ta nên nghĩ đến việc kết hợp kỹ năng với những lợi ích của mình. Nhiều người trong ch! úng ta tách biệt giữa đời sống việc làm với đời sống lợi ích. Nếu biết cách kết hợp công việc và lợi ích, bạn càng cảm thấy yêu nghề và thành công. Điều đó cũng có nghĩa bạn hầu như lúc nào cũng được làm những điều bạn yêu thích.

Nên đi nghỉ thường xuyên: Lời khuyên nghe có vẻ như đối ngược với đạo đức công việc mà bạn đã được dạy dỗ. Nhưng sự nghỉ ngơi thường xuyên rất quan trọng. Nó không có nghĩa luôn phải đi đến những nơi đắt tiền – đôi khi chỉ là những chuyến dã ngoại để hít thở không khí trong lành. Những đợt nghỉ ngắn ngày trong năm sẽ tốt hơn một năm chỉ có một chuyến nghỉ dài ngày. Nghỉ ngơi ngắn ngày sẽ giúp giảm bớt sự căng thẳng, giúp duy trì sự vận động và năng suất lao động ở mức ổn định trong cả năm.

Đừng oán trách mình. Thật không tốt khi hoàn toàn bị chi phối bởi những nỗi sợ không được biện hộ hoặc cảm giác tội lỗi, làm sai. Nên nhớ, mặc cảm tội lỗi khác với ý thức về bổn phận hoặc trách nhiệm. Có chỗ cho trách nhiệm trong đời sống của chúng ta, nó giúp hướng tới những hành động tốt hơn nhưng không phải cứ cố gắng làm tốt lời khuyên của mọi người, chiều theo ý thích của họ. Để rồi bạn tự hỏi liệu đó có phải là một người bạn, một người đồng nghiệp, bố mẹ hoặc thậm chí bản thân bạn nữa hay không. Điều đó làm nảy sinh cảm giác tiêu cực với người khác, thậm chí là ghê sợ chính mình. Khi cảm thấy một nỗi ân hận đang trỗi dậy, hãy gửi trả lại nơi nó đã đến và tiếp tục hành trình của mình.

Học, học nữa, học mãi! Khi đi học! , mọi n! gười bảo rằng chỉ cần trình độ nọ, bằng cấp kia là sẽ ổn cả. Thời gian luôn thay đổi, bước đi nhanh của thiên niên kỷ bắt buộc chúng ta phải lệ thuộc vào những quy tắc hoàn toàn khác nhau được đặt ra. Vì vậy, đừng có gấp sách cho vào tủ, khóa lại và vứt chìa khóa đi. Tất cả chúng ta đều cần tiếp tục học. Không thể nghĩ rằng sau 4-5 năm học để có một tấm bằng đại học chúng ta sẽ theo đuổi được thời cuộc. Không phải học để trở thành tiến sĩ, viện sĩ, những khóa học ngắn và thường xuyên sẽ giúp chúng ta cập nhật những kiến thức bổ ích cho công việc.

Ước mơ thành sự thật. Nhiều năm qua, thầy cô và cha mẹ đã áp đặt chủ nghĩa thực tế của họ lên chúng ta. “Ở lĩnh vực đó, tính cạnh tranh rất lớn, con nên thử việc khác đi…”, “Con là một họa sĩ tài năng nhưng tất cả họa sĩ phải đấu tranh rất khắc nghiệt và chẳng bao giờ có nhiều tiền cả. Tốt hơn hết chỉ coi nó là một sở thích mà thôi…”, “Con muốn trở thành một nhà văn nổi tiếng ư? Con đang mơ đấy con yêu!”. Bạn có thể đang mơ nhưng đừng để những lời nói ấy thiêu cháy khát vọng của bạn. Dù họ có ý tốt nhưng đừng chịu ảnh hưởng quá nhiều về điều đó. Nếu bạn không mơ ước, bạn sẽ không có gì để làm ở tương lai. Ước mơ có thể trở thành sự thật – chỉ cần bạn kết hợp khát vọng với những hành động cụ thể. Ước vọng mà không hành động thì chỉ là giấc mơ. Hành động mà không ước vọng thì chỉ là hoạt động đơn thuần. Ước mơ được kết hợp với hành động có thể thay đổi cả thế giới.

Cậu bé dưới bóng cây

David Coleman and Kevin Randall


Trong mùa hè giữa năm thứ nhất và năm thứ hai đại học, tôi được mời vào làm phụ trách một trại hè cho học sinh trung học thuộc một trường đại học ở Michigan. Tôi đã từng tham gia rất nhiều hoạt động của trại nên tôi nhận lời ngay lập tức.

Một giờ sau khi tôi bắt đầu ngày đầu tiên ở trại hè, giữa một đám ồn ào hỗn loạn các anh phụ trách và học sinh, tôi nhận ra một cậu bé ở dưới bóng cây. Cậu rất nhỏ bé và gầy guộc. Rõ ràng việc cậu đang mất tự nhiên và xấu hổ rụt rè càng làm cho cậu trở nên yếu đuối, mỏng manh. Chỉ 50 bước gần đó, 200 trại viên đang hăm hở rượt đuổi, chơi đùa, và gặp gỡ lẫn nhau như đã thân nhau từ lâu lắm chứ không phải chỉ mới quen. Nhưng cậu bé dưới bóng cây dường như đang ở một thế giới khác. Vẻ cô đơn đến tột độ của cậu đã làm tôi khựng lại, nhưng nhớ lại lời những anh chị phụ trách lớn tuổi hơn rằng phải chú ý đến các trại viên có vẻ tách biệt ra, thế là tôi bước đến.

Đến gần cậu bé, tôi nói “Chào em, anh tên là Kevin. Anh là một trong các phụ trách ở đây. Anh rất vui được gặp em. Em khỏe không vậy?” Với một giọng nói run run bẽn lẽn, cậu bé cố sức trả lời, “Dạ em bình thường.” Tôi nhẹ nhàng hỏi cậu rằng cậu muốn tham gia những sinh hoạt và gặp các bạn bè mới không. Cậu trả lời nhỏ “Dạ không, em không thích lắm.”

Tôi có thể cảm nhận được rằng cậu đang ở trong một thế giới hoàn toàn riêng tư. Trại hè quá mới, quá xa lạ đối với cậu. Nhưng bằng cách nào đó, tôi cũng biết rằng cũng không nên ép cậu bé. Cậu không cần một lời cổ vũ, cậu cần một người bạn. Sau một lúc lâu im lặng, câu chuyện của chúng tôi chấm dứt.

Sau bữa trưa ! ngày thứ hai, tôi hét bể cuống họng của mình để điều khiển cả trại hát. Tất cả trại đều tham gia hăm hở. Ánh mắt tình cờ xuyên qua đám đông ồn ào lộn xộn và thấy hình ảnh cậu bé đó đang ngồi một mình, nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi suýt nữa đã quên mất lời bài hát đang phải hướng dẫn. Khi lại có cơ hội gặp cậu bé, tôi cố thử một lần nữa, với những câu nói hệt như trước “Em có khỏe không? Em có sao không?” Và cậu bé lại trả lời “Dạ vâng, em khỏe. Em chỉ chưa quen thôi.” Khi tôi rời nơi cậu bé ngồi, tôi hiểu rằng để cậu bé hòa đồng phải tốn nhiều thời gian và công sức hơn tôi tưởng – dù tôi không biết rằng tôi và cậu bé có thể cởi mở được với nhau hay không nữa.

Vào buổi tối hôm đó khi họp với những người phụ trách của trại, tôi kể ra những điều lo lắng của mình về cậu bé. Tôi giải thích cho các bạn phụ trách ấn tượng của tôi về cậu bé, yêu cầu họ chú ý và dành thêm thời gian cho cậu nếu có dịp.
Những ngày ở trại trôi qua nhanh hơn tôi tưởng. Thật là tiếc, nhưng rồi đêm cuối cùng ở trại cũng đến và tôi đang theo dõi “bữa tiệc chia tay”. Các học sinh đang tận hưởng những giây phút cuối cùng của mình với các “bạn tốt nhất” của họ – những người bạn mà có thể họ sẽ chẳng bao giờ gặp lại.

Ngắm nhìn các trại viên cùng nhau chia sẻ những giây phút cuối bên nhau, tôi bất ngờ thấy được một hình ảnh mà sẽ lưu mãi trong cuộc đời tôi. Cậu bé mà từng ngồi một mình dưới gốc cây đó đang làm một điều kỳ diệu. Cậu đang chia xẻ cùng hai cô bé khác những món quà ! lưu ni�! �m. Tôi nhìn cậu đang có nhưng giây phút thân mật đầy ý nghĩa với những người mà cậu chưa bao giờ gặp chỉ mấy ngày trước đó. Tôi không thể tin nổi đó chính là cậu bé dưới bóng cây.

Vào một đêm tháng 10 năm đó, tiếng chuông điện thoại kéo tôi ra khỏi cuốn sách hóa học. Giọng một người lạ, rất nhẹ nhàng và lịch sự hỏi tôi “Dạ có phải là anh Kevin không ạ?”

“Dạ chính là tôi, xin lỗi ai đầu dây đó ạ?” “Tôi là mẹ của Tom Johnson. Cậu có nhớ Tommy từ trại hè không ạ?” Cậu bé dưới bóng cây! Làm sao tôi có thể quên được? “Dạ cháu nhớ rồi,” tôi nói. “Cậu bé rất dễ thương. Bây giờ cậu bé ra sao ạ?”

Chợt lặng đi một hồi lâu, sau đó bà Johnson nói,"Tuần này trên đường từ trường về, Tommy của tôi đã bị một chiếc xe đâm phải… Tommy đã không còn nữa rồi"

Bàng hoàng, tôi chia buồn cùng bà mẹ.

“Tôi muốn gọi cho cậu,” bà ta nói, “bởi vì Tommy nhắc đến cậu nhiều lần. Tôi muốn cậu biết rằng nó đã trở lại trường mùa thu rồi như một con người mới. Nó đã có nhiều bạn mới. Kết quả học tập lên cao. Và nó còn hò hẹn với bạn gái vài lần nữa. Tôi chỉ muốn cám ơn cậu đã làm cho Tom thay đổi như vậy. Những tháng cuối cùng là khoảng thời gian đẹp nhất của cuộc đời nó.”

Vào lúc đó tôi đã nghiệm ra: hãy dành sự quan tâm, đồng cảm, sẻ chia với mọi người quanh bạn. Bạn sẽ không thể ngờ được mỗi cử chỉ ần cần, chân thành của bạn có thể sẽ có ý nghĩa với người khác đến như thế nào đâu. Tôi kể lại chuyện này mỗi lần có d�! �p, và k! hi tôi kể xong, tôi thôi thúc người khác nhìn ra bên ngoài và tìm cho mình một “cậu bé dưới bóng cây”.

Boy Under the Tree
  by: David Coleman and Kevin Randall, Source Unknown

In the summer recess between freshman and sophomore years in college, I was invited to be an instructor at a high school leadership camp hosted by a college in Michigan. I was already highly involved in most campus activities, and I jumped at the opportunity.

About an hour into the first day of camp, amid the frenzy of icebreakers and forced interactions, I first noticed the boy under the tree. He was small and skinny, and his obvious discomfort and shyness made him appear frail and fragile. Only 50 feet away, 200 eager campers were bumping bodies, playing, joking and meeting each other, but the boy under the tree seemed to want to be anywhere other than where he was. The desperate loneliness he radiated almost stopped me from approaching him, but I remembered the instructions from the senior staff to stay alert for campers who might feel left out.

As I walked toward him I said, “Hi, my name is Kevin and I’m one of the counselors. It’s nice to meet you. How are you?” In a shaky, sheepish voice he reluctantly answered, “Okay, I guess” I calmly asked him if he wanted to join the activities and meet some new people. He quietly replied, “No, this is not really my thing.”

I could sense that he was in a new world, that this whole experience was foreign to him. But I somehow knew it wouldn’t be right to push him, either. He didn’t need a pep talk, he needed a friend. After several silent moments, my first interaction with the boy under the tree was over. At lunch the next day, I found myself leading camp songs at the top of my lungs for 200 of my new friends. The campers were eagerly participated. My gaze wandered over the mass of noise and movement and was caught by the image of the boy from under the tree, sitting alone, staring out the window. I nearly forgot the words to the song I was supposed to be leading. At my first opportunity, I tried again, with the same questions as before: “How are you doing? Are you okay?” To which he again replied, “Yeah, I’m alright. I just don’t really get into this stuff.” As I left the cafeteria, I too realized this was going to take more time and effort than I had thought — if it was even possible to get through to him at all.

That evening at our nightly staff meeting, I made my concerns about him known. I explained to my fellow staff members my impression of him and asked them to pay special attention and spend time with him when they could. The days I spend at camp each year fly by faster than any others I have known. Thus, before I knew it, mid-week had dissolved into the final night of camp and I was chaperoning the “last dance.” The students were doing all they could to savor every last moment with their new “best friends” — friends they would probably never see again.

As I watched the campers share their parting moments, I suddenly saw what would be one of the most vivid memories of my life. The boy from under the tree, who stared blankly out the kitchen window, was now a shirtless dancing wonder. He owned the dance floor as he and two girls proceeded to cut up a rug. I watched as he shared meaningful, intimate time with people at whom he couldn’t even look just days earlier. I couldn’t believe it was him. In October of my sophomore year, a late-night phone call pulled me away from my chemistry book. A soft-spoken, unfamiliar voice asked politely, “Is Kevin there?”

“You’re talking to him. Who’s this?”

“This is Tom Johnson’s mom. Do you remember Tommy from leadership camp?

The boy under the tree. How could I not remember? “Yes, I do,” I said. “He’s a very nice young man. How is he?”

An abnormally long pause followed, then Mrs. Johnson said, “My Tommy was walking home from school this week when he was hit by a car and killed.” Shocked, I offered my condolences.

“I just wanted to call you,” she said, “because Tommy mentioned you so many times. I wanted you to know that he went back to school this fall with confidence. He made new friends. His grades went up. And he even went out on a few dates. I just wanted to thank you for making a difference for Tom. The last few months were the best few months of his life.”

In that instant, I realized how easy it is to give a bit of yourself every day. You may never know how much each gesture may mean to someone else. I tell this story as often as I can, and when I do, I urge others to look out for their own “boy under the tree.”

Cho cuộc sống


Hãy mơ những gì bạn mong ước, đến những nơi bạn thích, trở thành người bạn muốn làm… bởi vì bạn chỉ có một cuộc đời cũng như một cơ hội để làm điều đó mà thôi.

Hãy đặt mình vào vị trí của người khác, nếu bạn cảm thấy bị tổn thương thì người kia cũng đau lòng không kém.

Điều hạnh phúc nhất không phải là thứ tốt nhất mà là tất cả những gì bạn đang có.

Kể cả tình yêu, hạnh phúc hay đau khổ đều bắt đầu từ nụ cười, nảy nở bằng nụ hôn và kết thúc bằng nước mắt, nhưng dẫu sao nữa đó là bài học và sức mạnh để vươn lên.

Hãy yêu bằng cả trái tim mặc dù không chắc chắn người đó sẽ đáp lại tình yêu của bạn hay không.

Có những lúc khi bạn nhớ một người, bạn muốn mang người ấy ra khỏi giấc mơ và ôm chầm lấy họ.

Khi bạn sinh ra, bạn đã khóc trong khi mọi người xung quanh bạn cười. Hãy sống sao cho đến khi chết, bạn có thể mỉm cười và mọi người đều khóc.

Năm phút


Trong công viên, trên ghế dài gần sân chơi thể thao, người phụ nữ ngồi cạnh người đàn ông.

– Con trai tôi kìa – Người phụ nữ nói và bà chỉ một cậu bé mặc áo đỏ đang chơi cầu trượt.

– Nó xinh thật – Người đàn ông cười, rồi nói – Còn kia là con gái tôi. Cháu mặc chiếc váy màu trắng và đang đi xe đạp. – Rối ông nhìn đồng hồ, cất tiếng gọi cô con gái – Melissa, đến giờ về rồi !

Cô bé vòi vĩnh :

– Năm phút nữa thôi bố nhé ! Chỉ năm phút thôi mà !

Ông bố gật đầu và Melissa tiếp tục chạy xe một cách thích thú. Năm phút trôi qua và ông lại gọi con. Lại một lần nữa Melissa nài nỉ :

– Bố ơi, năm phút nữa nhé !

Ông bố cười rộng lượng. Người phụ nữ ngồi cạnh cũng mỉm cười và khen ông :

– Anh đúng là một ông bố dễ tính và kiên nhẫn.

Người đàn ông cười thật buồn và kể :

– Con trai lớn của tôi, Tommy, đã mất trong một tai nạn giao thông vào năm ngoái khi đang tập xe ở gần đây. Tôi chưa bao giờ có nhiều thời gian dành cho cháu dù chỉ là năm phút. Tôi không bao giờ muốn lập lại lỗi lầm đó với Melissa. Melissa nghĩ là cháu có thêm năm phút để chạy xe, nhưng thực sự thì tôi mới là người có thêm năm phút để nhìn cháu chơi đùa.

Cuộc sống là tạo ra những khoảnh khắc hạnh phúc cho chính mình. Vậy niềm hạnh phúc nhất của bạn là gì ? Hãy dành năm phút mỗi ngày cho người mà bạn thương yêu. Hãy tin rằng điều đó cũng sẽ đem lại hạnh phúc cho chính bạn…

Giá trị


Vị diễn giả nổi tiếng bắt đầu bài thuyết trình của mình bằng cách giơ tờ giấy bạc 20 đôla lên trong căn phòng có tới 200 người, ông hỏi: “Ai muốn tờ 20 đôla này?”. Mọi cánh tay đều giơ lên.

Ông nói: “Tôi sẽ cho một trong các bạn tờ 20 đôla này, nhưng trước khi cho để tôi làm điều này đã.”. Ông ta vò nhàu tờ giấy bạc rồi hỏi: “Ai vẫn còn muốn lấy tờ giấy bạc 20 đôla này?”. Tất cả mọi cánh tay vẫn giơ lên.

“Thôi được rồi”, ông nói, “Ðể xem thế nào đây nếu tôi làm điều này”. Và ông thả tờ giấy bạc rơi xuống đất rồi dùng mũi giày dí nó trên nền nhà. Ông nhặt lên, trông nó dơ bẩn và nhàu nát: “Sao, còn ai muốn tờ bạc này?”. Những cánh tay vẫn giơ lên.

“Các bạn thân mến, tất cả các bạn đã học một bài học rất quý giá. Không cần biết tôi đã làm gì với tờ bạc này, các bạn vẫn muốn nó bởi vì giá trị của nó đã không hề giảm đi, giá trị của nó vẫn là 20 đôla”.

Rất nhiều lần trong cuộc sống của mình chúng ta ngã gục, bị tơi tả, bị giẫm đạp tơi bời do những quyết định sai lầm mà chúng ta đã gây ra và những trường hợp như vậy vẫn xảy ra trong cuộc sống chúng ta. Chúng ta cứ ngỡ như mình thật vô dụng, chẳng ra gì. Nhưng không cần biết bất cứ chuyện gì đã xảy ra và sẽ xảy ra, chúng ta quyết định sẽ không bao giờ đánh mất giá trị của mình.

Ðừng bao giờ để những thất vọng của ngày hôm qua che mờ những giấc mơ rực sáng của ngày mai”.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét