Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

LICH S QUYEN KINH THANH MT TAC PHAM VAN HOA GIA TRI A58F804D.html

LICH S QUYEN KINH THANH MT TAC PHAM VAN HOA GIA TRI A58F804D.html

GIỚI THIỆU VÀ PHÊ BÌNH THÁNH KINH BÁO

Cơ quan của hội Tin Lành xuất bản tại Hà Nội

 

Mới rồi, tôi nhận được Thánh Kinh báo số 1 mà chủ nhiệm báo ấy là ông mục sư W.C. Cadman gởi tặng, tôi rất lấy làm mừng rỡ, nên viết bài nầy giới thiệu tập báo ấy cho độc giả của Phụ nữ tân văn.

Thánh kinh báo ra một năm 10 số, giá bán đồng niên 1$00, mỗi số bán lẻ 0$15. Số 1 nầy đề tháng Janvier 1931, đây chắc có vì cớ gì đó nên phải xuất bản trước đến ba tháng như vậy.

Hội Tin lành mới có trong nước ta độ hơn 10 năm nay, có lẽ nhiều người còn chưa biết, ta nên cắt nghĩa sơ qua.

Trong sách Tân Ước có chữ "Évangile", chỉ nghĩa là cái đạo của Jésus-Christ, mà nghĩa đen là cái tin tức tốt lành (bonne nouvelle) về sự đắc cứu mà ngài đem rao báo cho loài người. Chữ Évangile ấy, dịch ra chữ Tàu là "Phước âm", ra chữ ta là "Tin lành".

Độc giả hãy biết trước rằng đạo Cơ đốc (Christianisme) có hai phái lớn: Một phái có từ xưa, kêu bằng "Catholique", truyền sang ta đây đã lâu, ta thường kêu là đạo Thiên Chúa. Một phái nữa mới biệt riêng ra hồi thế kỷ XVI, người ta thường kêu là đạo "Protestant". Phái nầy mới do giáo hội nước Mỹ truyền sang xứ ta, ta kêu bằng đạo Gia-tô, song chính họ tự đặt tên là "đạo Tin Lành", còn cái giáo hội (Eglise) của họ ở đây, tên là "Hội Tin Lành Đông Pháp".

Đây tôi quyết không đặt miệng mà phê bình đến tông giáo và cũng không so sánh hay là khen chê sự hay dở của hai phái ấy đâu. Tôi chỉ muốn cắt nghĩa tại làm sao họ đặt tên tờ báo cơ quan của họ là "Thánh kinh", nên tôi nói rằng: Cái giáo nghĩa của đạo Tin lành không có vẽ vời ra nhiều nghi thức như bên Công giáo (Catholique), mà chỉ lấy Kinh Thánh làm gốc, bất cứ việc gì đều căn cứ ở Kinh Thánh và nhận một mình Jésus-Christ làm Thầy, do đó lập cái cơ quan nầy ra để phát huy nghĩa lý trong Kinh Thánh.

Nếu vậy thì tôi giới thiệu tờ báo ấy ở đây làm chi? Tôi cổ động cho người mình theo đạo Tin Lành hay sao? Không phải vậy đâu. Về sự tín ngưỡng, ai nấy có quyền tự do; đây tôi giới thiệu Thánh Kinh báo là chuyên về một mặt văn học.

Nhớ dạo trước tôi có viết một bài điền bạch (article de remplissage) đăng trong Trung lập báo, không ngờ hôm nay có dịp xứng đáng được chuyển lục ra đây. Bài ấy như vầy:

Văn học với Kinh thánh.

Kinh Thánh đây tức là Bible, gồm cả Cựu ướcTân ước. Người có đạo Cơ-đốc ở xứ ta bất luận Cựu giáo (Catholique) hay Tân giáo (Protestant) đều dịch ra tiếng ta kêu bằng Kinh Thánh.

Có nhiều người An Nam mình, theo cái óc cũ, thấy đạo khác thì không ưa, nói rằng: Kinh Thánh là do người có đạo họ tôn trọng kinh của họ mà kêu như vậy; còn mình, người ngoại, không tội chi mà kêu Kinh Thánh như họ.

Ai nói vậy là còn hẹp hòi quá, không hiểu sự học đời nay. Ở bên Tàu và Nhựt Bổn, người không theo đạo cũng kêu bằng Kinh Thánh như người có đạo vậy, vì hai chữ ấy đã thành một cái tên riêng (nom propre) rồi.

Ở đời nay, bất kỳ nước nào, nếu là một nước văn học đúng đắn thì trong đó cũng có chịu ảnh hưởng của Kinh Thánh. Đương thời đây, các nhà văn học đại gia bên Tàu, dầu không phải tín đồ Cơ-đốc đi nữa, trong khi họ làm văn cũng dùng đến chữ trong Kinh Thánh luôn luôn. Như họ dùng chữ "tẩy lễ" là do chữ "Baptême" mà ra; chữ "phước âm", là do chữ "Evangile" mà ra. Mà những chữ ấy ngày nay họ dùng đã quen lắm, chẳng khác nào chữ gốc trong ngũ kinh tứ thơ vậy.

Còn nói chi về chữ Pháp, thì muốn nói là gốc bởi Kinh Thánh mà ra, cũng không phải quá đáng. Tức như bởi một chữ Bible đó mà sanh ra bộn bề chữ có nghĩa về sách vở. Ấy là như: Người làm sách thì kêu bằng Bibliographe, sự học về biên chép sách vở thì kêu bằng Bibliographie; người ham mê sách vở thì kêu bằng Bibliomane; cái tánh ham sắm sách thì kêu bằng Bibliomanie; người hay tìm mua sách vở thì kêu bằng Bibliophile; cái nhà chứa sách vở thì kêu bằng Bibliothèque. . .

Lại có nhiều câu trong Kinh Thánh đã thành ra tục ngữ (proverbe) hay là thành ngữ (expression) trong tiếng Pháp. Như: "Kẻ tiên tri không được trọng đãi trong quê hương mình"; "Dưới mặt trời chẳng có sự gì lạ" . . . mấy câu đó đều là ở trong Kinh Thánh cả.

Hết thảy những nhà văn học Pháp dầu không theo đạo nữa cũng đều có học qua Kinh Thánh hết, bởi vì văn chương ở đó mà ra. Vậy mà thấy kẻ học ở ta đây ít có người biết đến Kinh Thánh là gì, thì đáng lấy làm tiếc quá.

Đừng nói mấy ông nhà nho họ cho là dị đoan họ không ngó tới đã đành. Các ông học chữ Pháp giỏi mà cũng ít có ông nào đọc tới Kinh Thánh thì cái học ấy cũng gọi được là cái học không gốc.

Có nhiều chữ trong tiếng Pháp  nhiều không xiết kể – nếu chẳng biết đến Kinh thánh thì chỉ hiểu nghĩa cạn cạn mà thôi. Ai đã thông thạo Kinh Thánh rồi thì chắc hiểu sâu hơn mà lấy làm khoái lắm.

Văn quốc ngữ ta cũng nên dùng chữ Kinh Thánh vào. Làm như vậy thì tiếng mình được dồi dào thêm, chớ có hại gì đâu.(*)

Cái bài của tôi đó tuy ngắn cũng đủ thấy Kinh Thánh có quan hệ với văn học ngày nay thế nào. Các chi hội Tin Lành ở xứ ta, đâu đâu cũng có bán đủ Kinh Thánh bằng ba thứ chữ Pháp, Hán và quốc ngữ; ước gì mỗi người có học đều tùy mình biết thứ chữ gì thì mua mà xem. Vì tôi đối với Kinh Thánh có lòng sốt sắng như vậy, nên khi thấy Thánh Kinh báo thì mừng rỡ mà giới thiệu.

Cái chỗ tôi mừng rỡ hơn nữa, là văn chương của Thánh kinh báo còn có phần giúp ích cho văn quốc ngữ ta trong lúc mới lập nền. Bởi vì văn chương của Thánh Kinh báo đặt một cách thật rõ, thật gọn mà lại dễ hiểu nữa, rất hiệp với cái lối bình dân văn học. Tôi xin cử ra đây một vài đoạn trong bài "Tánh nết" ở trương 9 –10 của tập báo ấy:

". . . Ý tưởng kín nhiệm dầu mình không tỏ, tư dục ngấm ngầm dầu mình không lộ, lời gian dối dầu mình không nói ra miệng, sự phạm thượng dầu mình vẫn chứa trong lòng, nhưng cũng có thể làm hỏng tánh nết, và không sao che tai bịt mắt xã hội được. Tánh nết là sự mầu nhiệm, phải cố sức làm cho hoàn toàn mãi mãi. Tánh tốt quý hơn ngọc, hơn vàng, hơn quyền thế, hơn mão triều thiên. . .

Ở đời, ta phải có mục đích cao xa, nghĩ đến đời đời vô cùng, chớ chẳng phải chỉ lo tính trong tạm thời mà thôi. Không nên để hoàn cảnh uốn nắn tánh nết mình. Ai bị hoàn cảnh sai khiến ấy là người rất nhát, "giống như sóng biển bị gió động mà đưa đi đẩy đi đó" (Gia-cơ 1: 6). Cái giá một người có chí quả quyết chống nổi điều ác, giữ vững điều thiện, thật gấp triệu lần những người yếu chí nhát gan. Ta nên theo gương sáng của Đa-ni-ên quyết chí trong lòng rằng không chịu ô uế bởi đồ ngon vua ăn và rượu vua uống" (Đa-ni-ên 1: 8).

Mỗi người nên kể tánh tốt bằng sự quý nhứt trong đời mình. Cố sức bươn theo mục đích đó, thì đời mình sẽ có giá trị với xã hội và đẹp lòng Chúa… Nếu có mục đích cao xa như thế, dầu không tới được, nhưng lòng mình cũng sẽ hăm hở bươn theo. ông Disraeli có nói: "Một người thiếu niên nếu không ngửa mặt lên trời, ắt sẽ cúi đầu trông xuống; tâm thần không hướng về trời, chắc sẽ sấp mình mà bò trên đất". Ai sống trong phạm vi cao xa thì cách ăn nết ở sẽ đúng đắn hơn người bậy bạ . . .

Tóm lại, tánh nết là sự cần nhứt trong đời người. Lẽ thật đó, đơn sơ mà cao cả, đẹp đẽ mà oai nghiêm, thật là một bài đạo đức lúc trẻ nên học, khi già phải nhớ.

Xã hội nào định giá tánh nết càng cao bao nhiêu, thì trình độ càng văn minh bấy nhiêu . . . Người nào hoặc nước nào coi khinh tánh nết, thì khó tránh khỏi tiếng bậy bạ, hèn mạt và mọi rợ. Chỗ nào nhơn dân không biết chú trọng tánh nết, thì ở đó đầy dẫy tình dục và tội lỗi. Ai thích hư danh hơn tánh nết, ấy là người hèn…"

Lối văn của Thánh Kinh báo bài nào cũng đại khái như vậy. Cái sở trường ở chỗ dùng lời nói thường mà đạt được ý cao sâu. Câu nào câu nấy rắn rỏi, già giặn, không có cái bịnh quá rườm rà, nhiều lời ít lẽ. Nếu những người thức giả đọc mấy đoạn trên đây mà không đồng ý, không khen như tôi, thì tôi xin chịu là tôi không có mắt, không có óc!

Thánh Kinh báo lại có một cái giá trị đáng quý nữa là viết chữ đúng. Cả 32 trương chữ đặc mà tôi thấy chỉ sai một chữ thôi, là chữ trau mà viết ra trao, ở trương 22, cột 2. Lại còn cách chấm câu cũng thật là hẳn hòi, không chỗ chỉ trích được. Đến cách in cũng đáng phục, đã đẹp lại kỹ, đâu ra đó lắm, không có làm tạp nạp bèm nhèm như lối in của phần nhiều báo chí ta. Tôi tưởng ai hay suy nghĩ một chút, thấy tập báo nầy chắc cũng phải sanh lòng hổ thẹn: sao người ngoại quốc lại biết viết tiếng Việt Nam đúng và có phép tắc hơn người bổn quốc?

Xem tập Thánh Kinh báo nầy lại thấy ra cái Mỹ quốc hóa (Américanisme) nữa. Người Mỹ vẫn là phú hào mà lại có cái tánh cần kiệm, tiếc từng chút vật liệu cũng như tiếc từng chút thì giờ. Tập báo nầy giấy thật tốt, in thật khéo, mà bài nào bài nấy cũng cứ chẵn trương, không hề chừa một chút giấy dư. Cái đặc tánh ấy thiết tưởng ta cũng nên bắt chước. Song le, có người lại nói rằng: Việc gì mà làm như vậy thì được, chớ in sách mà làm như vậy, tất phải đẽo gọt từng bài cho tề chỉnh, e có khi làm kém cái tinh thần mỹ thuật đi và cũng có khi làm mất sự linh hoạt của văn học đi.

Trên đó tôi làm xong phần việc giới thiệu Thánh Kinh báo cho độc giả người Việt Nam; sau đây tôi có một chút ý kiến muốn đem cống hiến cho tòa soạn Thánh Kinh báo.

Trong nước chúng tôi, từ xưa học về đạo lý đều dùng sách bằng chữ Hán cả, bắt đầu từ đây mới có những sách nói về tôn giáo hay triết học bằng quốc ngữ. Sự học trong nước nầy cũng thiếu thốn như mọi đồ mặc thức dùng, chúng tôi bằng lòng nhập cảng hàng ngoại quốc về những món nào mà chúng tôi thiếu. Tuy vậy, chúng tôi chỉ ưa dùng hàng thiệt mà thôi. Nói thế, có ý bóng là khi liệt vị đem Kinh Thánh mà giới thiệu cho chúng tôi, phải nói cho thật đúng với Kinh Thánh, Kinh Thánh nói làm sao thì nói y theo làm vậy, rồi chúng tôi hiểu thế nào tuỳ chúng tôi, chớ người nhập cảng không nên pha trộn một chút gì vào.

Tôi vẫn biết liệt vị biên tập Thánh Kinh báo rất là cẩn thận, chẳng phải cậy ở trí khôn mình mà cậy ở Thánh linh soi dẫn cho. Dầu vậy, cũng còn có chỗ làm cho tôi thấy mà hồ nghi, phải chất vấn mới được.

Trương 27, về mục "Bài học ngày Chúa nhựt" cột 2, có đoạn như vầy:

"Thế gian không phải tự nhiên mà có. Nhưng phải nhờ có một quyền phép lớn lắm mà đã dựng nên trời đất, và quyền phép lớn ấy tức là Đức Chúa Trời".

Đó, câu cuối cùng đó phải làm cho tôi hồ nghi. Tôi thấy như Kinh Thánh nói quyền phép lớn ấy ra từ Đức Chúa Trời, chớ không  phải tức là Đức Chúa Trời.

Nếu nói quyền phép lớn ấy tức là Đức Chúa Trời, thì thành ra Đức Chúa Trời với quyền phép lớn chỉ có một mà thôi. Kinh Thánh có khi nào nói như vậy? Theo Kinh Thánh thì Đức Chúa Trời có hình, cho nên "ngài mới nắn người ta theo như hình của ngài". Chẳng những vậy thôi, Đức Chúa Trời lại có khi vui, khi buồn, khi nổi ghen, khi phát cơn giận và thạnh nộ nữa; thế mà bảo rằng quyền phép lớn tức là ngài, sao được? Quyền phép dầu lớn cho mấy đi nữa cũng chỉ là một danh từ trừu tượng (un nom abstrait) mà thôi, khi nào có sự vui, buồn, ghen, giận được?

Theo Kinh Thánh thì Đức Chúa Trời vẫn có hình tượng, duy người ta không thấy được, chỉ có người đời xưa như ông Áp-ra-ham, ông Môi-se thì đã thấy được ngài. Nếu ngài chỉ là cái quyền phép lớn, chỉ là một danh từ trừu tượng, thì cũng chẳng qua như cái danh từ  đạo hay , các ông ấy làm sao thấy được và nhiều khi đã nói chuyện cùng ngài?

Các Tống nho, tức là các nhà triết học Tàu về hồi thế kỷ XII, XIII, nói rằng: "Thiên tức lý dã" hay là nói: "Thiên giả lý nhi dĩ". Nghĩa là: "Trời tức là lý"; hay là: "Trời, chỉ là lý mà thôi". Vậy nếu tín đồ đạo Tin Lành mà cũng nói Đức Chúa Trời tức là quyền phép lớn, thì có khác gì ông Trời của Tống nho? Bởi vì quyền phépcũng chỉ là cái danh từ trừu tượng!

Một câu đó – riết lại chỉ hai chữ tức là – tuy không chi mà quan hệ lắm. Thấy câu ấy có thể hồ nghi cả bộ Kinh Thánh, vì gặp những chỗ khác, người ta có thể hỏi rằng: Đức Chúa Trời chỉ là quyền phép, sao lại có hình tượng, có đủ thứ tánh tình như người ta?

Tôi biện bác cái lẽ nầy cũng như trước kia phê bình sách Nho giáo của ông Trần Trọng Kim, mà tôi không chịu cái lẽ vô cực là của Khổng Tử. Tôi nói: nếu từ miệng mình nói ra, muốn nói thế nào thì nói, miễn có lý là được; nhưng khi thuật lời người đời xưa, thì phải nói y theo lời người đời xưa; bằng chẳng vậy, nhiều khi sẽ thành ra mình vu cho người đời xưa. Lời của người thường còn như vậy, huống chi lời Kinh Thánh đã được nhìn là lời của Đức Chúa Trời.

Sau hết, tôi xin có lời cảm ơn ông bà Mục sư Cadman đã gởi tặng tập báo nầy cho tôi. Vì tôi làm chung việc dịch Kinh Thánh với ông trong 5 năm (1920-1925), biết ông là người yêu lẽ thật, nên thấy trái thì nói, tôi chẳng lấy làm ngại chút nào. Trong bài nầy, nếu có chỗ nào bổ ích cho việc biên tập của ông thì có lẽ là một đoạn cuối cùng đó.

PHAN KHÔI

Phụ nữ tân văn, Sài Gòn, s.74 (16.10.1930)

Kinh Thánh – Một tác phẩm văn hoá có giá trị của nhân loại

(11/02/2009)

Cho tới nay dường như vẫn có nhiều người nghĩ rằng Kinh Thánh là sách nói về giáo lý của đạo Ki-tô, thuần tuý là sách tôn giáo, chỉ dùng cho các tín đồ Ki-tô giáo mà thôi – mà tôn giáo lại là lĩnh vực nhạy cảm, quen bị gọi là "thuốc phiện của nhân dân", chớ có dại mà đụng chạm tới; vì vậy ai không theo Ki-tô giáo thì chẳng cần đọc Kinh Thánh. Cuốn sách gối đầu giường của hơn một tỷ tín đồ và được cả thế giới xuất bản với số lượng nhiều nhất này chưa từng thấy bán tại các hiệu sách ở ta. Báo in, báo điện tử ngại đăng các bài viết liên quan tới Kinh Thánh.

                Thực ra cách hiểu như vậy là lệch lạc và bất lợi cho mọi người trong việc tìm hiểu văn hóa nhân loại và văn hóa phương Tây nói chung cũng như văn hóa Ki-tô giáo nói riêng.

Hiểu lầm nói trên có thể bắt nguồn từ bản thân tên "Kinh Thánh" đem lại ấn tượng "thần thánh", thần bí. Đây là cái tên không chính xác, dễ gây hiểu nhầm. Thực ra sách này vốn dĩ có hai tên gốc: 1) Tên tiếng Hy Lạp là Biblia, nghĩa là "sách";  2) Tên tiếng La Tinh là Scriptura, nghĩa là "trước tác" "bài viết", "bản thảo" – nói cách khác, nó hoàn toàn không có chút nào ý nghĩa thần thánh. Tiếng Anh đầu tiên gọi là Biblelh, về sau thống nhất gọi là The Bible, nghĩa là sách kinh điển.
Tên sai là do ta dùng từ hoàn toàn theo Trung Quốc. Ngày xưa, khi dịch Cựu Ước toàn thư và Tân Ước toàn thư ra chữ Hán, người Trung Quốc gán cho hai cuốn sách này cái tên "Thần thánh điển phạm" (Mẫu mực thiêng liêng) và "Thiên kinh địa nghĩa" (Đạo nghĩa muôn thủa); về sau, khi in gộp Cựu Ước và Tân Ước thành một bộ sách, họ ghép hai chữ thứ hai lại thành "Thánh Kinh", nghe nặng tính thần thánh, khiến người ta dễ hiểu lầm sách này chỉ là sách kinh điển của Ki-tô giáo. Quả thật, cái tên đó khi dịch sang tiếng Việt là Kinh Thánh đã nhuốm đậm màu sắc tôn giáo, thánh thần, trở nên xa lạ với cộng đồng người không theo tôn giáo. Thật là một sai lầm lịch sử đáng tiếc không thể sửa được vì đã quen dùng và cảm thấy thiêng liêng, hay hay. Vì thế rất ít người Việt Nam thực sự biết Kinh Thánh là gì, nội dung ra sao, có ý nghĩa thế nào đối với chúng ta. Đây là một thiệt thòi lớn về tri thức cho mọi người, nhất là thanh thiếu niên.
Sơ qua nội dung Kinh Thánh

Kinh Thánh gồm hai phần: Cựu Ước (Old Testament) và Tân Ước (New Testament), do hơn 40 tác giả viết trong suốt hơn 1600 năm từ thế kỷ XII trước CN cho tới thế kỷ II sau CN, là một tác phẩm đồ sộ, bản tiếng Việt dày tới 1400 trang chữ khổ nhỏ.

Cựu Ước – Giao ước cũ của người Hebrew (nay gọi là Do Thái) với Thượng Đế, là Kinh điển của người Hebrew, thực tế là bộ sử của một dân tộc dẫn đầu nền văn hoá nhân loại. Từ 5000 năm trước, người Hebrew đã sáng suốt chỉ tin một đấng tối cao duy nhất họ gọi là Jehovah tức Thượng Đế (God), được hiểu là một sức mạnh siêu nhiên sáng tạo ra tất cả (Tạo Hóa, the Creater) – khái niệm ấy ngày nay ta chưa hiểu rõ song lại chưa thể phủ nhận – chứ không thờ một thần thánh nào có nguồn gốc từ người hoặc vật. Cựu Ước gồm 39 cuốn chia 4 phần: – sách Luật pháp (5 cuốn đầu của Moses); – sách Lịch sử (12 cuốn); – sách Tiên tri (16 cuốn); – sách Văn thơ (6 cuốn).

Cựu Ước rất ít mầu sắc tôn giáo, nó chứa đựng vũ trụ quan, nhân sinh quan cổ xưa nhất của nhân loại, là tài liệu vô cùng quý giá rất đáng nghiên cứu. Sách Cựu Ước nguyên văn viết hầu hết bằng tiếng Hebrew và một phần bằng tiếng Aramaic (tiếng của người Aram, tức Syria cổ), do nhiều người viết suốt từ năm 1200 đến năm 100 trước CN và được truyền miệng từ rất lâu trước khi viết. Tuy cổ xưa như thế nhưng Cựu Ước là một văn bản có thực và tồn tại cho tới ngày nay. Thời gian 1947 – 1956, người ta phát hiện trong các hang động gần Biển Chết chứa hơn 900 "sách" có viết chữ (chữ Hebrew, Hy Lạp, Aramaic) bằng dùi nung trên da cừu, gọi là Sách Cuộn Biển Chết (Dead Sea scrolls), đựng trong các bình gốm cao. Giám định cho thấy số sách này được làm vào khoảng từ năm 100 trước CN tới 70 sau CN, là những bản sao cổ xưa nhất còn tồn tại của Cựu Ước (nội dung hoàn toàn như Kinh Cựu Ước hiện sử dụng) và một số kinh điển khác của người Hebrew. Phát hiện Sách Cuộn Biển Chết có ý nghĩa khảo cổ cực kỳ quan trọng.
Tân Ước – Giao ước mới của các tín đồ Ki-tô giáo với Thượng Đế, nguyên văn viết bằng tiếng Hy Lạp, ra đời một thế kỷ sau khi xuất hiện đạo Ki Tô, tức rất muộn so với Cựu Ước, và nặng mầu sắc tôn giáo hơn; nó trình bày cuộc đời và học thuyết của Chúa Jesus. Tân Ước gồm 27 cuốn, chia 3 phần: – sách Phúc Âm (5 cuốn); – sách giáo lý (21 cuốn); – sách Khải Huyền (1 cuốn). Số trang của Tân Ước chỉ bằng khoảng gần 1/3 Cựu Ước. Bản cuối cùng của Tân Ước được ấn định tại Rome vào kho�! �ng năm 382 sau CN.

Kinh Thánh là một bộ sách có tính tổng hợp, một bách khoa toàn thư rất hữu ích trong việc nghiên cứu nhân loại cổ đại về các mặt lịch sử, chính trị, quân sự, pháp luật, luân lý đạo đức, kinh tế, khoa học kỹ thuật, y học, văn hoá… Chưa dân tộc nào viết được bộ sử của mình một cách khái quát, hữu ích như Cựu Ước. Bộ sử này không viết nhiều về đời sống, hành vi của các vua chúa (như Sử Ký của Tư Mã Thiên), nhưng viết rất kỹ về quá trình di chuyển, các tai họa dân tộc (chiến tranh, đói kém…), các kinh nghiệm và đời sống của dân tộc này, qua đó đời sau có thể học được nhiều điều bổ ích.

Cựu Ước ghi lại đời sống mọi mặt của người Hebrew, từ việc lớn của quốc gia, dân tộc cho tới những chi tiết rất nhỏ nhặt trong ăn ở, đối nhân xử thế, thậm chí cả trong sinh hoạt tình dục, nhờ thế giúp hậu thế hiểu chính xác, chi tiết về đời sống tinh thần vật chất của họ cách đây mấy nghìn năm. Một thí dụ: phương pháp tránh thai phổ biến nhất, cổ nhất xưa nay là xuất tinh ngoài âm đạo – phương Tây gọi là Onasism – từ này có nguồn gốc trong Kinh Thánh, chương 38 "Sáng thế ký (Genesis)" "Giuđa và con dâu là Tama".*

Chưa dân tộc nào biên soạn và còn lưu giữ được một tác phẩm kinh điển có giá trị như Kinh Thánh phần Cựu Ước. Thí dụ "Kinh thánh" của văn minh Trung Hoa là sách Luận Ngữ hoàn toàn không có được tính tổng hợp như vậy, chưa kể còn ra đời sau 7 thế kỷ.

Kinh Thánh còn là một tác phẩm văn học đồ sộ, di sản quý báu của nhân loại. Trong Cựu Ước có các tác phẩm văn học trí tuệ, văn học tiên tri và văn học khải huyền, là những sáng tạo của người Hebrew.


Tính chất quan trọng của Kinh Thánh

Kinh Thánh có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của dân tộc Do Thái. Cựu Ước là kinh điển của đạo Do Thái, nhờ tôn giáo này mà người Do Thái dù hai nghìn năm mất tổ quốc, sống lưu vong phân tán ở khắp nơi trên thế giới, bị hắt hủi, xua đuổi, thậm chí hãm hại, tàn sát nhưng vẫn giữ nguyên vẹn được nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa và nhất là họ luôn dẫn đầu thế giới trong các hoạt động trí tuệ. Ngày ngày cầu kinh, ôn lại lịch sử khốn khổ của dân tộc mình, là cách nhắc nhở người Do Thái luôn nhớ quá khứ gian nan của mình để cố gắng vươn lên thoát khỏi nghịch cảnh. Dân tộc nhỏ bé này có đóng góp cho nhân loại nhiều hơn mọi dân tộc khác. Một thí dụ: người Do Thái chỉ chiếm 0,25% số dân thế giới nhưng họ chiếm 22% tổng số giải Nobel các loại đã trao trong thời gian 1901-2007; trong đó có 41% giải Kinh tế, 26% giải Vật lý, 19% giải Hóa, 28% giải Y học, 13% giải Văn học, 9% giải Hòa bình.

Đối với loài người, tính chất quan trọng của Kinh Thánh không chỉ thể hiện ở chỗ nó được in đi in lại với số lượng nhiều nhất thế giới, mà còn ở chỗ được người ta quan tâm đọc và trích dẫn nhiều nhất. Cho tới nay, nó đã lưu truyền mấy nghìn năm chưa bao giờ ngừng, được dịch ra 1800 ngôn ngữ của khắp thế giới, có ảnh hưởng tới hàng nghìn triệu người kể cả người không theo tôn giáo nào. Riêng nước Mỹ hàng năm in khoảng 9 triệu bản Kinh Thánh. Trung Quốc đã in hơn 40 triệu bản.

Kinh Thánh là nguồn cảm hứng và trích dẫn của nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật, lịch sử, triết học v.v… trên toàn thế giới. Từ bức tranh Bữa ăn tối cuối cùng của Leonard de Vinci, tập thơ Thần khúc của Dante, các vở kịch của Shakespeare (vở Hamlet trích dẫn Kinh Thánh nhiều nhất), cho tới tiểu thuyết Sống lại của Tolstoy…vô số tác phẩm văn học nghệ thuật đều lấy nguồn từ Kinh Thánh. Các trước tác của Các Mác và Ang ghen trích dẫn Kinh Thánh hơn 300 lần, liên quan tới hơn 80 nhân vật trong đó. Tại Trung Quốc, Lỗ Tấn, Tào Ngu, Quách Mạt Nhược, Mao Thuẫn… đều trích dẫn Kinh Thánh. Ở Việt Nam, chúng ta thường xuyên kỷ niệm lễ Phục sinh, Giáng sinh… tiểu thuyết, sách báo ta thường nói A-đam, Ê-va, Chúa… tất cả đều có nguồn gốc từ Kinh Thánh.

Bởi vậy nếu không hiểu Kinh Thánh thì sẽ rất khó tìm hiểu văn minh phương Tây – nền móng của văn minh hiện đại, cũng rất khó hiểu về dân tộc Do Thái. Không đọc Kinh Thánh thì tất nhiên sẽ dễ nói, viết sai về các điển tích đó. Rõ ràng tất cả mọi người, nhất là người làm công tác văn hóa văn nghệ, giáo dục, xã hội… đều nên đọc Kinh Thánh.
Kinh Thánh ở Việt Nam

Có thể vì nghĩ rằng Kinh Thánh là sách riêng của Ki Tô giáo, tuyên truyền cho tôn giáo, nên ở ta không thấy hiệu sách nào có bán Kinh Thánh do nhà xuất bản của nhà nước chính thức phát hành rộng rãi như một tác phẩm văn hóa bình thường.

Thực ra các giáo hữu ở ta đều có cuốn Kinh Thánh do Toà Tổng Giám mục Hà Nội kết hợp Nhà Xuất bản Hà Nội in và xuất bản với số lượng lớn nhưng chỉ phát hành nội bộ giáo hữu. Cuốn Kinh này chỉ in Tân Ước nặng tính tôn giáo; Cựu Ước quan trọng hơn thì lại không được in, thật đáng tiếc. Sách khổ nhỏ cỡ bàn tay in trên giấy tốt, bìa ni lông. Ngoài ra các giáo hữu còn có sách Kinh Thánh bằng hình (phụ bản của báo "Công giáo và Dân tộc" in tại TP Hồ Chí Minh năm 1991, lượng in 25000 cuốn); đáng tiếc là hệ thống phát hành của nhà nước cũng không phát hành cuốn này.

Lùng các hiệu sách cũ, người viết bài này mua được một bản Kinh Thánh toàn tập tiếng Việt, dày 1400 trang giấy mỏng, bìa giả da, do United Bible Societies in tại Hàn Quốc năm 1995. Sách dùng cách hành văn và từ ngữ cổ, khó hiểu; phần Tân Ước dịch khác nhiều so với bản in của Tòa Tổng Giám Mục Hà Nội.

Thiết nghĩ hệ thống xuất bản phát hành của nhà nước nên xuất bản phát hành Kinh Thánh như một tác phẩm văn hoá nghệ thuật nhằm khai thác kho tàng văn hóa vô giá này của nhân loại. Nên đưa việc học Kinh Thánh (nhất là Cựu Ước) vào chương trình giảng dạy phổ thông trung học. Cũng nên biên soạn các sách hướng dẫn tìm hiểu giá trị văn hoá lịch sử, khảo cổ… của Kinh Thánh. Việc tìm hiểu Kinh Thánh sẽ giúp chúng ta hiểu đúng đắn, toàn diện về văn minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung, giúp chúng ta hoà vào dòng chảy chung của văn minh toàn cầu, đồng thời thể hiện chúng ta biết tôn trọng văn hoá tôn giáo – một thành phần rất quan trọng của văn hoá thế giới.

Đây là một việc cần làm khi Việt Nam đã gia nhập WTO, hòa vào nhịp sống chung của toàn cầu, trong đó có đời sống văn hóa-tâm linh.

Nguyễn Hải Hoành

Nguồn: Hội Nhà Văn

 

Lịch Sử Của Quyển

Kinh Thánh

 

 

            Danh từ Kinh Thánh được dịch ra từ chữ La-tinh “biblia” có nghĩa là quyển sách. Ngày xưa người ta dùng vỏ cây cắt ra thật mỏng như tờ giấy (papyrus) để ghi chép các tài liệu, loại giấy nầy được sản xuất và bán đi các nơi từ thành phố Biblios, một hải cảng ở phía bắc nước Do Thái, của người Phê-ni-xi, gần Beyruth, Lebanon ngày nay.

            Vào thế kỷ thứ 5 S. C., các Hội thánh Hy Lạp dùng danh từ “Tà Biblia” hoặc “Biblia” cho Các Quyển Sách Thánh (Kinh Thánh). Nhiều người cho rằng Jean Chrysostome trưởng lão tại thành Constantinople (398-404 S. C.), là người thứ nhất dùng danh từ nầy. Ðến thế kỷ thứ 13, thì “Tà Biblia” trở nên “Biblio” hay “Biblia[1][1]” theo tiếng La-tinh tức là Các Sách Thánh trở nên Kinh Thánh. Sau đó các nước Tây phương cũng chấp nhận và dùng danh từ “The Bible” hoặc “La Bible”.

 

I.  Nội Dung:

            Kinh Thánh gồm có phần Cựu Ước và Tân Ước. Chữ Ước trong Cựu Ước được dịch từ danh từ berith của Hy-bá-lai có nghĩa là giao ước. Trong Tân Ước, chữ Ước được dịch từ danh từ diatheke của Hy Lạp có nghĩa là chúc thư (testament) hay giao ước (covenant). Nội dung của Cựu Ước nói lên giao ước giữa Ðức Chúa Trời và dân sự của Ngài, tức là dân Do-thái. Còn Tân Ước nói về giao ước mới của Thượng Ðế với loài người, “hầu cho hể ai tin Con Ngài đều được sự sống đời đời”.

            A. Cựu Ước của Cơ đốc giáo và Kinh Thánh Do thái giáo (Hebrew Bible) đều giống nhau. Cựu Ước có 39 quyển sách trong khi đó Kinh Thánh Do-thái có 24. Sự khác biệt nầy là do các vị lãnh đạo Cơ đốc giáo ngày xưa đã chia các sách Tiên tri và lịch sử ra làm nhiều sách riêng biệt. Cựu Ước đã được Ðức Chúa Jêsus và các Môn đồ cùng Sứ đồ nhìn nhận và gọi là Kinh Thánh (Scripture, Holy Scriptures). Các sách của Cựu Ước và Kinh Thánh Do-thái là:

 

Kinh Thánh Cựu Ước

Kinh Thánh Do thái

A.  Năm quyển sách của Môi-se:

A.  Các sách luật pháp:

            1.  Sáng thế ký

            Sáng thế ký

            2.  Xuất Ê-díp-tô ký.

            Xuất Ê-díp-tô ký.

            3.  Lê-vi ký.

            Lê-vi ký.

            4.  Dân số ký.

            Dân số ký.

            5.  Phục Truyền luật lệ ký.

            Phục Truyền luật lệ ký.

B.  Các sách về lịch sử:

B.  Các sách tiên tri:

            6.  Giô-suê.

     2a.  Tiên tri trước:

            7.  Các Quan xét.

            Giô-suê.

            8.  Ru-tơ.

            Các Quan xét.

            9.  I Sa-mu-ên.

            Sa-mu-ên (Sa-mu-ên I và II).

            10.  II Sa-mu-ên.

            Các Vua (Các Vua I và II).

            11.  I Các Vua.

     2b. Tiên tri sau:

            12.  II Các Vua.

            Ê-sai,

            13.  I Sử ký.

            Giê-rê-mi,

            14.  II Sử ký.

            Ê-xê-chi-ên,

            15.  E-xơ-ra.

            Sách mười hai: Ô-sê.

            16.  Nê-hê-mi.

                                        Giô-ên.

            17.  Ê-xơ-tê.

                                        A-mốt.

C.  Các sách văn thơ:

                                        Áp-đia.

            18.  Gióp.

                                        Giô-na.

            19.  Thi Thiên.

                                        Mi-chê.

            20.  Châm Ngôn.

                                        Na-hum.

            21.  Truyền đạo.

                                        Ha-ba-cúc.

            22.  Nhã ca.

                                        Sô-phô-ni.

D.  Các sách tiên tri:

                                        A-ghê.

            23.  Ê-sai.

                                        Xa-cha-ri.

            24.  Giê-rê-mi.

                                        Ma-la-chi.

            25.  Ca thương.

C.  Các sách văn thơ:

            26.  Ê-xê-chi-ên.

            Thi Thiên.

            27.  Ða-ni-ên.

            Gióp.

            28.  Ô-sê.

            Châm Ngôn.

            29.  Giô-ên.

            Ru-tơ.

            30.  A-mốt.

            Nhã ca.

            31.  Áp-đia.

            Truyền đạo.

            32.  Giô-na.

            Ca thương.

            33.  Mi-chê.

            Ê-xơ-tê.

            34.  Na-hum.

            Ða-ni-ên.

            35.  Ha-ba-cúc.

            E-xơ-ra và Nê-hê-mi.

            36.  Sô-phô-ni.

            Sử ký (Sử ký I và II).

            37.  A-ghê.

 

            38.  Xa-cha-ri.

 

            39.  Ma-la-chi.

 

 

            Các sách Ẩn Kinh (Apocrypha): Kinh Thánh của Giáo hội Công giáo La-mã và Chính thống giáo Ðông phương (Eastern Orthodox) có thêm các quyển sách lịch sử và thơ văn Do-thái khác vào. Các quyển sách nầy được gọi là Deuterocanon, có nghĩa là Thứ Kinh (secondary canon). Người Do-thái và Tin Lành gọi là Apocrypha, hay Ẩn Kinh (hidden canon), còn được gọi là Ngụy Kinh.

            Các sách Ẩn Kinh được viết trong thời gian nước Do Thái bị ngoại ban đô hộ và hà hiếp từ thế kỷ thứ ba đến thế kỷ thứ nhất T. C. (trong thời gian bốn trăm năm yên lặng). Các quyển sách nầy, được viết bằng tiếng Hy-bá-lai và tiếng Hy-lạp, thường không có xuất xứ rỏ ràng, và được cho vào bản dịch Bảy Mươi bằng tiếng Hy Lạp, bản dịch La-tinh thế kỷ thứ hai, bản La-tinh Vulgate thế kỷ thứ năm, nên rất phổ thông. Nội dung của các sách nầy có nhiều chỗ đi ngược lại sự dạy dỗ của cả Cựu Ước lẫn Tân Ước vì thế Hội thánh đầu tiên và Giáo Hội Công Giáo không công nhận. Mãi cho đến thời kỳ cải chánh (Reformation), vào năm 1546 S. C., Hội Ðồng Giáo Hội Công Giáo La Mã, tại thành Trent nước Ý, mới chánh thức công nhận Ẩn Kinh là Thánh (canon) để ngăn chận phong trào cải chánh vì những người theo phong trào (Protestants) không cho Ẩn Kinh như là lời của Thượng Ðế.

Hai mươi năm sau khi Ðền Thánh bị phá hủy bởi quân La mã và dân Do Thái bị tản lạc khắp nơi, vào năm 90 S. C., một số học giả Do Thái họp tại Jamnia, cách Giê-ru-sa-lem chừng 50 Km về phía tây, để thống nhất và hợp thức hóa Kinh Thánh Do Thái (họ loại bỏ Ẩn Kinh ra) vì họ nhận thức rằng chỉ có Kinh Thánh và những sự dạy dỗ trong Kinh Thánh mới có thể liên kết dân Do Thái với nhau dù họ ở nơi nào trên thế giới.

            Ðức Chúa Jêsus không bao giờ trích dẫn từ Ẩn Kinh trong chức vụ của Ngài tại thế, cũng như trong cả Tân Ước, với tổng cộng hơn 300 lần trích dẫn từ Cựu Ước, chúng ta không thấy chỗ nào dùng đến những quyển sách nầy. Tín hữu Tin lành cho rằng Ẩn Kinh có giá trị, đáng được nghiên cứu (Giáo sĩ Cadman đã trích dẫn nhiều đoạn từ Ẩn Kinh trong quyển Thánh Kinh Từ Ðiển của ông), tuy nhiên các sách nầy không có thẩm quyền như các sách Cựu Ước được Ðức Thánh Linh soi dẫn.

 

Các sách Ẩn Kinh

1. Tobit

10. Bel and the Dragon

2. Judith

11. I Maccabees

3. Phụ bản của Ê-xơ-tê

12. II Maccabees

4. Tri thức của Sô-lô-môn

13. I Esdras

5. Ecclesiasticus (Sirach)

14. Lời cầu nguyện của Ma-na-se

6. Baruch

15. Thi thiên 151

7. Thơ của Giê-rê-mi

16. III Maccabees

8. Lời cầu của A-xa-ria và ba bạn Hê-bơ-rơ

17. II Esdras

9. Susana

18. IV Maccabees

 

            B.  Tân Ước: Thánh thư Tân Ước (canon of the New Testament) là những quyển sách được Ðức Thánh Linh soi dẫn. Làm sao chúng ta biết rằng đây là những Thánh thư hay Tân Ước thật có đúng là lời của Ðức Chúa Trời hay không? Vì có rất nhiều thơ tín và văn chương Cơ đốc từ thời Chúa Jêsus, cho nên rất khó mà biết sách nào là sách Thánh.

            Vào thế kỷ thứ 4 S. C., Công giáo hội nghị (Church council) gồm mười trưởng lão đã chọn các quyển sách để biệt vào hàng Thánh thư, tức là được Ðức Thánh Linh soi dẫn để cho vào Tân Ước. Nguyên tắc lựa chọn của họ là những tài liệu thơ tín của các Môn đồ, Sứ đồ trực tiếp học hỏi từ Ðức Chúa Jêsus như Phi-e-rơ, Phao-lô, Giăng, Ma-thi-ơ, Mác, Lu-ca… là các quyển sách Thánh, được Ðức Chúa Trời hà hơi. Tuy nhiên nhiều Hội thánh lúc đầu hoài nghi về các sách Gia-cơ, II Giăng, III Giăng. Nhiều người cho rằng các vị trên đã được giao phó một công tác vượt quá khả năng của loài người, nhưng trên thực tế những vị nầy chỉ khẳng định các sách đã được giáo giới chấp nhận từ lâu, có nghĩa là họ đã hợp thức hoá các Thánh thư Tân Ước, chứ không phải có quyền cho quyển sách nào là thánh hay không.

 

Các quyển sách Tân Ước

1.      Ma-thi-ơ

10.   Ê-phê-sô

19.   Hê-bơ-rơ

2.      Mác

11.   Phi-líp

20.   Gia-cơ

3.      Lu-ca

12.   Cô-lô-se

21.   I Phi-e-rơ

4.      Giăng

13.   I Tê-sa-lô-ni-ca

22.   II Phi-e-rơ

5.      Công vụ các sứ đồ

14.   II Tê-sa-lô-ni-ca

23.   I Giăng

6.      Rô-ma

15.   I Ti-mô-thê

24.   II Giăng

7.      I Cô-rinh-tô

16.   II Ti-mô-thê

25.   III Giăng

8.      II Cô-rinh-tô

17.   Tít

26.   Giu-đe

9.      Ga-la-ti

18.   Phi-lê-môn

27.   Khải huyền

           

            Tân Ước cũng có Thứ kinh (Apocrypha) tuy nhiên vì không có giáo hội nào nhìn nhận các quyển sách nầy nên ít người biết đến. Chúng ta không đề cập đến Thứ kinh Tân Ước nơi đây.

 

II.  Tác Giả:

            Cơ-đốc nhân tin rằng Ðức Chúa Trời đã dùng những người viết hay trước giả để truyền đạt lời của Ngài và chính Ngài là tác giả của cả quyển Kinh Thánh. Tuy rằng có vài quyển sách mà chúng ta không biết rỏ người viết là ai, cơ đốc nhân tin quyết rằng “Cả Kinh Thánh là được Ðức Chúa Trời soi dẫn, có ích cho sự dạy dỗ, bẻ trách, sửa trị, dạy người trong sự công bình” (II Ti-mô-thê 3:16) vì thế chúng ta cám ơn Chúa nhận lãnh lời Ngài trong Kinh Thánh dù rằng sau nầy chúng ta có thể biết xuất xứ của một quyển sách nào đó một cách tường tận hơn sự hiểu biết hiện tại.

            1. Năm sách luật pháp: Ða số các học giả cho rằng Môi-se đã viết các quyển sách Sáng thế ký, Xuất Ê-díp-tô ký, Lê-vi ký, Dân số ký và Phục Truyền luật lệ ký, các sách nầy được viết vào khoản năm 1400 T. C., trước khi ông mất. Ðoạn cuối của Phục Truyền luật lệ ký nói về sự qua đời của Môi-se, có lẽ được Giô-suê, người  kế vị của ông viết.

            2. Các sách lịch sử:

a.      a.      Giô-suê là người viết sách mang tên ông, ông qua đời khoản 1375 T. C., đó cũng là thời điểm mà quyển sách nầy được hoàn tất.

b.     b.     Người ta không biết rõ ai đã viết Các quan xét. Có lẽ  sách nầy được hoàn tất vào đời vua Sau-lơ hay Ða-vít năm 1050-1000 T. C..

c.      c.      Trước giả của sách Ru-tơ không được biết rỏ, tuy nhiên nhiều người cho rằng Sa-mu-ên đã viết quyển nầy. Sách được viết vào đời vua Ða-vít hay sau nữa vì đoạn cuối của sách có đề cập đến Ða-vít.

d.     d.     Sa-mu-ên là người đã viết hai sách mang tên của ông. Các sách nầy kể lại từ khi Sa-mu-ên ra đời cho đến khi Áp-sa-lôn nổi loạn vào năm 975 T. C..

e.      e.      Lúc đầu người ta cho rằng tiên tri Giê-rê-mi đã viết hai quyển sách Các Vua. Về sau người ta tin rằng có lẽ do một tiên tri không được biết tên, đồng thời với Giê-rê-mi, viết lúc đế quốc Ba-by-lôn xâm chiếm Giê-ru-sa-lem vào năm 587 T. C.

f.       f.       Thầy tế lễ E-xơ-ra là người viết bốn sách Sử ký I, II, E-xơ-ra và Nê-hê-mi vào cuối thế kỷ thứ năm T. C. (Nê-hê-mi có góp phần vào việc biên chép sách Nê-hê-mi đoạn 1-7 và 11-13). Trong các bản Kinh Thánh cổ, 4 sách nầy là một.

g.      g.     Chúng ta không biết rõ ai là trước giả của Ê-xơ-tê. Sách được viết vào khoản cuối đời vua A-suê-ru, 465 T. C..

            3. Các sách thơ văn:

a.      a.      Chúng ta không biết ai là trước giả sách Gióp. Quyển sách nầy được viết vào khoản năm 2000 T. C., có người cho rằng sách được viết vào khoản năm 950 T. C..

b.     b.     Ða-vít là trước giả sách Thi Thiên, ngoại trừ các đoạn sau đây: Ðoạn 72 và 127 do Sa-lô-môn viết; Ðoạn 90 của Môi-se (năm 1500 T. C.); Ðoạn 50 và đoạn 73-83 do A-sáp viết; Các đoạn 42, 44-49, 84-85, 87-88 do con cháu Cô-rê viết; Ðoạn 88 do Hê-man (cùng với con cháu Cô-rê); Ðoạn 89 do Ê-than viết. Thi Thiên 137 là đoạn được viết vào năm 538 T. C. nói đến sự buồn thảm của những kẻ bị đày qua Ba-by-lôn.

c.      c.      Sa-lô-môn là trước giả sách Châm Ngôn, ông viết sách nầy vào khoản năm 970-931 T. C.. Ðến năm 720 T. C., người ta thêm vào các đoạn 25-29. Ðoạn 30 do A-gu-rơ viết và đoạn 31 do vua Lê-mu-ên soạn.

d.     d.     Sa-lô-môn là người viết sách Truyền đạo cùng một lúc với Châm ngôn vào khoản năm 970-931 T. C.. Nhiều học giả cho rằng cách dùng từ ngữ và câu văn cho biết sách được viết sau thời gian trên.

e.      e.      Nhã ca cũng do Sa-lô-môn viết vào năm 965 T. C..

            4. Các sách đại tiên tri:

a.      a.      Tiên tri Ê-sai, con A-mốt, viết quyển sách mang tên ông. Sách được viết vào năm 740-700 T. C..

b.     b.     Tiên tri Giê-rê-mi là trước giả của sách Giê-rê-mi, ông thường đọc cho thơ ký của ông là Ba-rúc chép lại. Ba-rúc hoàn tất sách nầy sau khi Giê-rê-mi chết năm 585 T. C..

c.      c.      Ca thương không đề cập đến ai là người biên soạn. Nhiều học giả cho là Giê-rê-mi viết sách nầy vào năm 587 hay 586 T. C. trước khi Giê-ru-sa-lem rơi vào tay người Ba-by-lôn.

d.     d.     Tiên tri Ê-xê-chi-ên là người viết sách mang tên ông lúc dân Do thái bị bắt làm phu tù ở Ba-by-lôn. Sách bắt đầu lúc vua Giê-hô-gia-kin bị bắt năm 597 T. C., Giê-rê-mi làm tiên tri cho đến năm 573 T. C.

e.      e.      Tiên tri Ða-ni-ên viết sách mang tên ông vào năm 536 T. C.. Nhiều học giả hoài nghi về điểm nầy.

            5. Các sách tiểu tiên tri:

a.      a.      Tiên tri Ô-sê, con Bê-ê-ri làm tiên tri 40 năm từ năm 755 – 715 T. C.. Ông là người viết sách Ô-sê.

b.     b.     Tiên tri Giô-ên, con Phê-thu-ên viết sách Giô-ên. Vì sách không có đề cập đến vị vua nào nên chúng ta không biết rỏ sách được viết lúc nào, có thể vào năm 835-796 T. C.

c.      c.      Tiên tri A-mốt, người chăn ở Thê-cô-ra viết sách A-mốt sau năm 760 T. C.

d.     d.     Tiên tri Áp-đia viết sách Áp-đia sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị sụp đổ vào năm 687 T. C.

e.      e.      Tiên tri Giô-na, con trai A-mi-tai viết sách Giô-na vào năm 760 T. C.

f.       f.       Tiên-tri Mi-chê, người Mô-rê-sết, làm tiên tri từ năm 750-687 T. C.. Ông viết sách Mi-chê.

g.      g.     Tiên tri Na-hum, người Ên-cốt, viết sách Na-hum vào năm 612 T. C. sau khi thành Ni-ni-ve bị chiếm và hủy diệt.

h.      h.     Tiên tri Ha-ba-cúc nói về sự hủy diệt thành Giê-ru-sa-lem vào năm 587 T. C., sách được viết vào năm 600 T. C.

i.        i.       A-ghê có nghĩa là vui vẽ, hoan lạc. A-ghê nói tiên tri làm phấn khởi dân sự sau khi bị đày ở Ba-by-lôn trở về quê vào năm 520 T. C. Ông viết sách A-ghê.

j.       j.       Xa-cha-ri, con Ba-ra-chi, viết sách Xa-cha-ri từ năm 520-475 T. C.. Có người cho rằng đoạn 9 đến 14 được thêm vào 30-40 năm sau bởi một người khác không rỏ tên.

k.     k.     Tiên tri Ma-la-chi đã viết quyển sách mang tên ông vào năm 450 T. C.

6.     6.     Bốn sách phúc âm:

a.      a.      Chúng ta không biết trước giả của Ma-thi-ơ là ai. Nhiều học giả cho rằng chính Ma-thi-ơ viết sách nầy, có lẽ vào năm 45 S. C..

b.     b.     Nhiều người cho rằng Mác là trước giả của quyển sách mang tên ông. Sách được viết vào những năm cuối của thập niên 60.

c.      c.      Sách Lu-ca được viết cho Thê-ô-phi-lơ, một quan La-mã, vào những năm đầu của thập niên 70 S. C., có lẽ do chính ông Lu-ca viết.

d.     d.     Chúng ta không biết ai viết sách Giăng. Có người cho Giăng đã viết sách nầy vào khoản cuối thế kỷ thứ nhất.

7.   Công vụ các sứ đồ: Trước giả của sách Công vụ các sứ đồ và sách Lu-ca là một (Lu-ca), được viết cho Thê-ô-phi-lơ, một quan La-mã,  vào khoản năm 70-80 S. C.

            8. Thơ tín Phao-lô: Các sách nầy đều do Phao-lô viết.

a.      a.      Rô-ma, Cô-rinh-tô I và II được viết vào năm 56 hay 57 S. C.

b.     b.     Chúng ta không biết Ga-la-ti được viết lúc nào, có lẽ là vào năm 53 S. C. hay là sau đó nữa.

c.      c.      Ê-phê-sô, Phi-líp, Cô-lô-se và Phi-lê-môn được viết khi ông bị ở tù vào cuối thập niên 50, đầu thập niên 60 S. C..

d.     d.     Tê-sa-lô-ni-ca I và II vào năm 50 hay 51 S. C.

e.      e.      Ti-mô-thê I, II và Tít, còn gọi là các Thơ Tín Mục Vụ, được viết vào khoản năm 65 S. C. trong cuộc hành trình thứ tư của Phao-lô giửa hai lần bị tù ở La mã.

9.     9.     Các sách thơ tín khác:

a.      a.      Thơ Hê-bơ-rơ không cho chúng ta biết ai là người viết. Có thể là một trong những nhân vật sau đây: Lu-ca vì cách hành văn và ông cũng biết nhiều về sự dạy dỗ của Phao-lô; A-bô-lô là người Do thái ở A-léc-xăn-đơ hoặc Ba-na-ba là người Lê-vi, cả hai đều rất thông thạo Kinh Thánh; Si-la, Phi-líp, A-qui-la, Bê-rít-sin (vợ của A-qui-la). Sách được viết trước năm 70 S. C.

b.     b.     Gia-cơ là em của Chúa Jêsus là trước giả sách Gia-cơ. Sách được viết vào khoản năm 45-48 S. C., cũng có thể vào năm 60 S. C. vì ông dựa rất nhiều vào các thơ tín của Phao-lô trước khi ông chết vào năm 62.

c.      c.      Si-môn Phi-e-rơ, sứ đồ của Ðức Chúa Jêsus Christ là trước giả hai quyển sách Phi-e-rơ được viết vào năm 64 hay 65 S. C.

d.     d.     Trước giả của Giăng I, II và III là một trưởng lão (II Giăng 1) không biết tên, ông viết “Hỡi con cái bé mọn ta” (I Giăng 5:13)… Các sách nầy được viết vào cuối thế kỷ thứ nhất, cùng thời với Sứ đồ Giăng.

e.      e.      Giu-đe, em của Gia-cơ (có lẽ là em của Chúa Jêsus) đã viết sách Giu-đe vào khoản cuối thế kỷ thứ nhất.

            10. Khải huyền: Sứ đồ Giăng viết quyển sách nầy khi bị đày ở đảo Bát-mô ven bờ biển Tiểu Á (Thổ nhỉ kỳ). Sách được viết vào những năm cuối cùng của Ðế Quốc La mã (81-96 S. C.).

 

III.  Ngôn Ngữ Nguyên Bản:

            Ngoại trừ vài đoạn viết bằng tiếng Aramaic, Cựu Ước được viết bằng Hy-bá-lai (Hebrew). Hy-bá-lai là một ngôn ngữ rất phong phú thời bấy giờ với các thành ngữ, lời lẽ đầy màu sắc rất thích hợp cho việc ghi chép lịch sử, thơ văn, luật pháp của Cựu Ước. Tiếng Hy-bá-lai là một trong các cổ ngữ rất xưa, ngôn ngữ nầy được bảo tồn một cách kỳ diệu và được hiện đại hóa để làm ngôn ngữ chánh của dân Do-thái ngày nay.

            Tiếng Hy-bá-lai được viết từ phải sang trái, theo nguyên bản thời xưa chỉ gồm có 22 phụ âm mà thôi. Người đọc phải cho vào các nguyên âm tùy theo kiến thức ngôn ngữ của mình. Vì thế những bản Kinh Thánh Hy-bá-lai được trường tồn qua nhiều thế kỷ. Chỉ có các nguyên âm thay đổi theo thời gian và địa phương.

            Nhiều học giả Do-thái thuộc phái Masoretes (do chữ masora, masorah có nghĩa là truyền thống, cổ truyền) đã tìm cách bảo tồn cách đọc chính xác bằng cách thêm vào các chấm, các gạch ở trên, dưới hay là bên trong 22 mẫu tự để chỉ cách phát âm. Các hoạt động của nhóm học giả nầy bắt đầu vào thế kỷ thứ 2 T. C. đến thế kỷ thứ 8 S. C..

            Bản Kinh Thánh cổ truyền (hay bản bằng chữ Maroretes) đã được bảo tồn cho đến ngày nay một cách huyền bí. Vào năm 1947, tại Qumran ở bờ phía tây của biển chết, người ta đã tìm được di tích của các cuộn Kinh Thánh cổ (The Dead Sea Scrolls), các sách nầy được viết vào khoảng năm 200 T. C. đến năm 68 S. C.. Những cuộn Kinh Thánh nầy đã xác nhận sự chính xác của các bản Kinh Thánh ngày nay.

            Trong khi đó, Tân Ước được viết bằng tiếng Hy Lạp, gọi là koine, đây là ngôn ngữ thông dụng của thời đại bấy giờ[2][2]. Ngôn ngữ koine có hai loại: Văn chương và phổ thông. Bốn quyển sách phúc âm được viết bằng tiếng koine phổ thông đặc biệt với ảnh hưởng của ngôn ngữ địa phương. Sau đó, các Giáo phụ chuyển sang dùng tiếng koine văn chương. Mặc dù được viết bằng tiếng phổ thông, các sách Hê-bơ-rơ, Gia-cơ, II Phi-e-rơ đã đạt đến trình độ văn học rất cao.

 

IV.  Các Bản Dịch Kinh Thánh.

            (Xin xem thêm chi tiết trong Thánh Kinh Từ Ðiển của Giáo sĩ Cadman)

            Vì Kinh Thánh không còn lại một nguyên bản nào, chỉ tìm được các bản sao chép rất xưa mà thôi, nên các bản đó, có giá trị như nguyên bản, đã được gìn giữ rất cẩn thận trong những viện bảo tàng. Nên nhớ nguyên bản rất cổ của phần thứ nhất Cựu Ước đã được viết cách nay độ 3.400 năm và phần cuối cùng Tân Ước được viết xong độ 1.900 năm trước đây. Chắc Chúa không cho để lại một tờ hoặc cuốn nào của nguyên bản, sợ gây cớ vấp phạm cho người ta thờ lạy.

            Kinh Thánh đã được dịch sang ngoại ngữ kể từ thế kỷ thứ 5 T. C., trong đời đấng tiên tri E-xơ-ra, khi dân Do-thái trở về nước sau thời gian bị lưu đài 70 năm tại Ba-by-lôn. Vào thời nầy có nhiều cộng đồng người Do-thái nói tiếng Aramaic, vì vậy cần phải dịch Kinh Thánh để họ hiểu. Lúc bấy giờ, khi nhóm họp trong đền thờ, có một người đọc Kinh Thánh bằng tiếng Hy-bá-lai và người đứng kế bên dịch lại bằng tiếng Aramaic, giống như tình trạng nhiều Hội thánh Việt Nam ở hải ngoại.

            Bước sang giai đoạn đế quốc La Mã, văn hóa thế giới chịu ảnh hưởng Hy Lạp. Rất nhiều cộng đồng Do Thái sống trong vùng nói tiếng Hy Lạp, đưa đến nhu cầu dịch Kinh Thánh ra tiếng nầy.

            Vào khoảng năm 200 T.C., vua Ptolemy của Ai-cập chọn 6 học giả từ mỗi chi phái Y-sơ-ra-ên tức 72 vị (được gọi vắn tắt là bảy mươi) đến Alexandria, Ai Cập để dịch Ngũ Kinh của Môi-se ra tiếng Hy Lạp cho thư viện nổi tiếng gồm trên 200.000 quyển sách của ông. Bản dịch nầy được gọi là bản dịch Bảy Mươi hay Septuagint, chỉ gồm 5 quyển sách luật pháp Mộ-se mà thôi. Về sau các sách khác của Cựu Ước được dịch tiếp ra tiếng Hy Lạp, bởi các học giả khác, cũng được xáp nhập vào bản Bảy Mươi.

            Các tín đồ đầu tiên nói tiếng Hy Lạp, nên bản Bảy Mươi (Septuagint) rất thông dụng. Khi Cơ-đốc giáo bành trướng ra nhiều quốc gia khác, Kinh Thánh đã được dịch ra tiếng Syrie và một bản dịch ra tiếng La-tinh được hoàn thành vào khoảng 100 S. C., bản thế kỷ thứ 2.

            Năm 383 S. C. Giáo Hoàng Saint Damasus I nhờ Giáo phụ Saint Jerome nhuận chánh bản dịch La-tinh. Bản dịch nầy hoàn thành vào năm 405 S.C., được gọi là bản Vulgate, có nghĩa là thông dụng (bản thế kỷ thứ 5).

      Bản Kinh Thánh Do Thái giáo (Hebrew Bible) hiện nay được in từ bản Masoretes năm 1088 S. C., bản nầy hiện do thư viện thành phố Saint Petersburg giữ. Bản Masoretes cổ nhất là bản Aleppo vào đầu thế kỷ thứ 10.

            Sau đây là các bản cổ xưa còn tồn tại đến ngày nay:

      1.   Bản Sinaiticus: Là bản Bảy Mươi do Tischendorf tìm ra trong nhà dòng Thánh Catherine trên núi Si-na-i vào năm 1859. Bản nầy được chép vào thế kỷ thứ 4. có Cựu Ước bằng tiếng Hy Lạp và cả Tân Ước viết rất cẩn thận trên da, hiện  được gìn giữ tại viện bảo tàng Luân đôn. Các tài liệu nầy được xuất bản thành bốn cuốn sách vào năm 1867, đây là bản cổ nhất còn lại.

      2.   Bản Vaticanus: Bản nầy được chép vào thế kỹ thứ 4, và được Giáo hoàng Nicolas V để tại thư viện thành La-mã.

      3.   Bản Alexandrinus: Bản nầy được chép vào thế kỷ thứ 5, và được Cyril, trưởng lão thành Constantinople, dâng cho Anh Hoàng Charles I, vào năm 1627 và được để tại viện bảo tàng nước Anh.

      4.   Bản Éphraemi, tại thư viện Paris (được viết chồng lên bài của Thánh Éphraem).

      5.   Bản Bazae: Bản song ngữ được viết bằng tiếng Hy Lạp và La-tinh đối ngang nhau, giữ trong trường đại học Cambridge nước Anh. Théodore de Bèze, bạn của Jean Calvin, tìm ra năm 1560 trong nhà dòng Thánh Irénée, tại Lyons.

      6.   Bản Claromontanus, thế kỷ thứ 6, để tại Paris.

      7.   Các bản cổ khác theo thứ tự của các chữ cái (Alphabet):

            a.   Các bản Arabic.

            b.   Bản Aramaic Targum (2 bản chánh là Palestinian Targum và Babylonian Targum) là các bản diển ý được dịch sau khi dân Do Thái từ Ba-by-lôn trở về.

            c.   Bản Armenian: Ðược in và xuất bản lần thứ nhất tại Amsterdam năn 1666.

            d.   Các bản Egyptian: Bằng tiếng Memphic, tiếng Thébaide hay các thổ ngữ khác.

            đ.   Bản Ethiopic: Bằng thổ ngữ cổ Axum.

            e.   Bản Gothic: Ðược dịch ra vào cuối thế kỷ thứ 4.

Bản Kinh Thánh La-tinh (Biblia Latina)

in lần đầu tiên tại Venice, Ý Ðại Lợi,

 năm 1475.



            g.   Bản La-tinh:

                  1g. Bản La-tinh cổ hoặc bản Bắc Phi thế kỷ thứ 2, dùng tiếng La-tinh bình dân cho người địa phương.

                  2g. Bản Itala hoặc bản Italian, thế kỷ thứ 4, dùng tiếng La-tinh của người La-mã, văn chương hơn.

                  3g. Bản Vulgate thế kỷ thứ 5 do Jerome hiệu đính. Ðến năm 1455, khi có máy in, quyển sách đầu tiên được in ra là quyển Kinh Thánh La-tinh Vulgate sau khi được hiệu đính một lần nữa và được gọi là bản Vulgate thế kỷ thứ 15.

            h.   Bản Samaritan.

            i.    Bản Slavonic: Bắt đầu từ cuối thế kỷ thứ 9, sau nhiều thế kỷ nữa mới xong.

            k.   Bản Syriac (Peshitta): Ðược dịch từ những thế kỷ đầu tiên sau Thiên Chúa.

 

         Các bản dịch hiện đại gồm có :

        ỈBản tiếng Anh đầu tiên do John Wycliffe dịch vào thập niên 1380.

        ỈBản tiếng Anh của William Tyndale, năm 1525 gồm Tân Ước và năm 1531 Cựu Ước.

        ỈBản dịch Kinh Thánh ra tiếng Ðức từ bản Vulgate của Luther. Tân Ước được xuất bản năm 1522, cả Kinh Thánh năm 1534, và được hiệu đính năm 1544. Kinh Thánh Ðức đã giúp đỡ nhiều trong sự cải chánh Hội Thánh và cũng dùng để dịch ra tiếng Thụy Ðiển, Hòa Lan, Ðan Mạch, Phần Lan, và Ái Nhĩ Lan.

        ỈNăm 1604, vua James I của Anh quốc lập một hội đồng gồm 50 học giả nhuận chánh lại các bản dịch Anh ngữ đã có từ trước. Công việc được hoàn thành vào năm 1611 và được gọi là bản King James (KJV) hay là “Authorized Version”. Với lời văn hoa mỹ, bản dịch đã trở thành một áng văn tuyệt tác trong kho tàng văn chương của nước Anh. Dù về sau Giáo Hội Anh Quốc cho nhuận chánh lại bản King James, công trình được hoàn tất vào năm 1895 và được gọi là bản Revised Version, nhưng đa số Hội thánh và tín đồ vẫn còn dùng bản King James cho đến ngày nay[3][3].

        ỈNhờ các bản sao cổ mới tìm được; Brian Walton xuất bản một Tân Ước tiếng Hy Lạp, năm 1657.

        ỈKinh Thánh toàn bộ được in bằng tiếng Pháp vào năm 1487; tiếng Ý vào năm 1530-32; tiếng Ðức vào năm 1534; tiếng Anh vào năm 1535; tiếng Thụy Ðiển vào năm 1541; tiếng Hòa Lan vào năm 1560; tiếng Tây Ban Nha vào năm 1569-1602; tiếng Ái Nhĩ Lan vào năm 1584; tiếng Phần Lan vào năm 1642; tiếng Ấn Ðộ (Carey) vào năm 1834; tiếng Trung Hoa (Morison) vào năm 1834; tiếng Việt Nam với La-tinh vào năm 1916; tiếng Việt Nam vào năm 1926; tiếng Ai-lao vào năm 1930; tiếng Cam-bô-chia (Tân Ước) vào năm 1934.

 

            Vào thế kỷ thứ 20, có rất nhiều bản dịch Anh ngữ dụng ý thay thế các bản dịch xưa, văn chương đã lỗi thời. Các bản nầy gồm có :

à        à        The Bible: Bản dịch tiếng Mỹ, hoàn thành năm 1931.

à        à        Revised Standard Version của Giáo Hội Church of Christ, năm 1957.

à        à        Bản Kinh Thánh Jerusalem do Giáo Hội Công Giáo năm 1966 tại Anh Quốc.

à        à        The New English Bible hoàn tất vào năm 1970.

à        à        The New American Bible của Giáo Hội Công Giáo Hoa Kỳ, năm 1970.

à        à        The New American Standard Bible năm 1971.

à        à        The Good News Bible của Thánh Kinh Hội Hoa Kỳ, năm 1976.

à        à        The New International Version (NIV), Thánh Kinh Hội Nữu Ước, năm 1976.

à        à        The Common Bible, năm 1973, đây là bản dịch Anh ngữ đầu tiên được cả ba Giáo Hội Tin Lành, Công Giáo, và Chính Thống Giáo Hy Lạp (Greek Orthodox) công nhận.

à        à        The New Revised Standard Version, của The National Council of Churches,  được hoàn tất vào năm 1990, cũng được các nhà lãnh đạo Cơ đốc giáo thừa nhận.

 

V.  Kinh Thánh Tiếng Việt Nam. [4][4]

Theo sử liệu thì vào năm 1533, có một người Tây phương được phép rao giảng đạo Thiên Chúa ở tỉnh Nam Sơn (Nam Ðịnh). Sau đó nhiều Giáo sĩ Công Giáo Âu châu đã đến Việt Nam để truyền giáo. Mãi cho đến năm 1624, có một giáo sĩ người Pháp, một học giả tài ba lỗi lạc, là Cha Ðắc Lộ hay Alexandre de Rhodes đến Việt Nam. Ông hoạt động cả miền bắc lẫn miền nam trong 22 năm. Ông thành thạo ngôn ngữ, lịch sử, địa lý Việt Nam, và đã hoàn tất việc chuyển đổi chữ nôm ra tiếng Việt dùng mẫu tự La-tinh. Với vài thay đổi và tu chỉnh sau này, ngôn ngữ do ông soạn thảo đã trở thành quốc ngữ vào cuối thập niên 1910. Trong giai đoạn phôi thai của loại chữ viết mới, các Linh Mục đã bắt đầu viết các sách từ vựng Việt Nam La-tinh… Vào năm 1872, Giáo Hội Công Giáo phát hành những phần Kinh Thánh rời rạc đầu tiên bằng Việt Ngữ. Các bản nầy được dành riêng cho hàng giáo phẩm sử dụng mà thôi.

            Khi đạo Tin Lành đến Việt Nam vào năm 1911, một số sách Phúc Âm đã được dịch ra tiếng Việt với mục đích chuẩn bị cho công việc truyền giáo. Vào năm 1916, Hội Truyền Giáo Phúc Âm Liên Hiệp (C&MA) bắt đầu cho phiên dịch toàn bộ Kinh Thánh[5][5] sang tiếng Việt. Công trình này kéo dài gần 10 năm và đến năm 1926, các tín hữu Tin Lành Việt Nam đã có bộ Kinh Thánh đầu tiên bằng ngôn ngữ của mình do Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (United Bible Societies) xuất bản. Bản dịch này do một nhóm học giả gồm có nhà văn Phan Khôi, ông bà Giáo Sĩ William C. Cadman, Giáo Sĩ John D. Olsen thực hiện với sự giúp đỡ của một số thành viên khác trong đó có: cụ Trần Văn Dõng, sinh viên trường Cao Ðẳng Ðông Dương, cụ Tú Phúc và vài học giả khác. Tuy nhiên người phiên dịch chính là cụ Phan Khôi.

            Năm 1971, nhà xuất bản Ra Khơi tại Sài Gòn phát hành Kinh Thánh toàn bộ do Linh Mục Trần Ðức Huân thực hiện, với sự giúp đỡ của Ủy Ban Phiên Dịch do Giám Mục Trương Cao Ðại hướng  dẩn.

            Năm 1976, toàn bộ Kinh Thánh do Linh Mục Nguyễn Thế Thuấn thực hiện được hoàn tất. Phần Tân Ước trong bản dịch này được phiên dịch từ nguyên văn Hy Lạp. Tuy nhiên, vì tình hình chính trị tại Việt Nam không thuận lợi cho việc xuất bản Kinh Thánh, nên các Linh Mục dòng Chúa Cứu Thế tại La Verne, California đã cho xuất bản toàn bộ bản dịch nầy vào năm 1980.

            Năm 1982, Hội Living Bible International tại Hong Kong phát hành Thánh Kinh Tân Ước do Mục Sư Tiến Sĩ Lê Hoàng Phu thực hiện. Bản dịch mới này thường được đọc giả biết đến dưới tên Thánh Kinh Tân Ước Diễn Ý.

            Cũng vào đầu thập niên 1980, Giáo Hội Công Giáo phát hành bản dịch Kinh Thánh Tân Ước do Hồng Y Trịnh Văn Căn thực hiện, tại Hà Nội. Bản dịch này được Cộng Ðồng Công Giáo Việt Nam tái bản lần thứ nhất vào năm 1985 tại Orange County, California.

            Vào năm 1987, Vietnamese Bible Inc. được thành lập tại Midland, Texas, với mục đích thực hiện một bản dịch Kinh Thánh Việt Ngữ mới. Quyển Tân Ước đã được phát hành vào năm 1996. Toàn bộ Kinh Thánh dự trù sẽ được hoàn tất vào năm 2000.

            Năm 1994, Tòa Tổng Giám Mục tại Thành Phố Hồ Chí Minh đã xuất bản 30.000 Thánh Kinh Tân Ước do Linh Mục Hoàng Ðắc Ánh và Linh Mục Trần Phúc Nhân phiên dịch do Thánh Kinh Hội Quốc Tế (International Bible Societies) bảo trợ và xuất bản.

            Năm 1995, toàn bộ Kinh Thánh Việt Nam đã được tái bản tại Ðà Nẵng, với vài hiệu đính nhỏ từ bản Kinh Thánh năm 1926. Việc tái bản này do Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thực hiện với sự hổ trợ của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS). Ðây là bản Kinh Thánh đầu tiên của Giáo Hội Tin Lành Việt Nam in và phát hành tại quê nhà sau năm 1975, đến nay tổng số phát hành được trên 100.000 quyển.

        Ngoài dự án phiên dịch Kinh Thánh sang Việt Ngữ của Vietnamese Bible Inc., nhiều Mục Sư cũng đang dịch các phần Kinh Thánh rời rạt với các sắc thái khác nhau, thích hợp cho các thành phần đọc giả Việt Nam ngày nay. Hiện nay, Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS) cũng đang bảo trợ một ban dịch thuật tại Việt Nam trong dự án hiệu đính bản Kinh Thánh năm 1926 để thỏa mãn nhu cầu ngôn ngữ ở quê nhà vì tiếng Việt Nam đã thay đổi nhiều trong một phần tư thế kỷ vừa qua.

 

VI.  Kết Luận:

            Kinh Thánh là một bộ sách gồm 66 quyển được viết bởi nhiều người từ vua, quan, các nhà lãnh đạo dân Do Thái, đến y sĩ (thầy thuốc), người thâu thuế, người chài lưới, người chăn chiên… trong thời gian hơn 1500 năm. Tuy vậy lời lẽ trong Kinh Thánh từ đầu tới cuối đều oai nghiêm giống nhau như của một tác giả độc nhất. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều dữ kiện xác nhận sự trung thực của Kinh Thánh.

            Kinh Thánh là quyển sách đầu tiên được in ra khi loài người mới phát minh máy in vào năm 1455. Kinh Thánh cũng là một quyển sách được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất, số ấn hành từ trước đến nay nhiều vô số không thể kiểm kê chính xác được.

            Nhờ Kinh Thánh mà nhiều sắc tộc trên thế giới có được một ngôn ngữ viết và tiếng nói, văn hóa họ được phong phú thêm hơn. Quyển Kinh Thánh còn có khả năng thay đổi đời sống vô số người từ tuyệt vọng, đau khổ đến hy vọng, hạnh phúc.

            Tuy nhiên mục tiêu tối hậu của Kinh Thánh là giới thiệu cho chúng ta Chúa Cứu Thế Jêsus trong chương trình của Thượng Ðế cho loài người, nối liền mối tương giao giữa chúng ta với Ðấng Tạo Hóa.

Hương Mai

Mùa Phục Sinh, 1999

The Bible – Quotes from Famous Men

Những vĩ nhân nói về Kinh Thánh

Napoleon, Emperor of the French (1804-1814), 1769-1821

"The gospel is not a book; it is a living being, with an action, a power, which invades every thing that opposes its extension, behold! It is upon this table: This book, surpassing all others. I never omit to read it, and every day with some pleasure."

Pascal, French philosopher and mathematician, developed the modern theory of probability, 1623-1662

"I prefer to believe those writers who get their throats cut for what they write."

Isaac Newton, English mathematician and scientist, 1642-1727

"We account the scriptures of God to be the most sublime philosophy. I find more sure marks of authenticity in the Bible than in any profane history whatsoever."

Voltaire, French infidel, died 1778

- said that within 100 years of his time, Christianity would be swept away from existence and pass into the obscurity of history.

-Yet 50 years after his death, the Geneva Bible Society used his house and printing press to produce stacks of Bibles.

Robert Dick Wilson, fluent in more than 45 languages and dialects

Concluded after a lifetime study of the Old Testament:

"I may add that the result of my 45 years of study of the Bible has led me all the time to a firmer faith that in the Old Testament, we have a true historical account of the history of the Israelite people."

The Cambridge History of the Bible

"No other book has known anything approaching this constant circulation."

Pope Pius X, 1903

On p. 763 Revision of the Challoner, Rheims version, edited by R. C. Scholars:

"The more we read the gospel, the stronger our faith becomes."

St. Jerome, Roman Catholic church father

"Ignorance of the Scriptures is ignorance of Christ."

Sir Ambrose Flemming, British electrical engineer and inventor, 1849-1945

"We must not build on the sands of an uncertain and everchanging science…but upon the rock of inspired Scriptures."

Jean Jacques Rousseau, French skeptic

"Jewish authors would never have invented either that style nor that morality; and the Gospel has marks of truth so great, so striking, so utterly inimitable, that the invention of it would be more astonishing than the hero."

Patrick Henry, American Revolutionary leader and orator, 1736-1799

"There is a book worth all other books which were ever printed."

President Ronald Reagan, 40th President of the United States

"Of the many influences that have shaped the United States into a distinctive nation and people, none may be said to be more fundamental and enduring than the Bible."

President George Washington, First President of the United States

"It is impossible to rightly govern the world without God and Bible."

Immanuel Kant, German idealist philosopher, 1724-1804

"I believe that the existence of the Bible is the greatest benefit to the human race. Any attempt to belittle it, I believe, is a crime against humanity."

Robert E. Lee, Civil War General who fought for the Southern Confederacy:

"In all my perplexities and distresses, the Bible has never failed to give me light and strength."

Abraham Lincoln, 16th President of the United States, 1809-1865

"I am busily engaged in the study of the Bible. I believe it is God's word because it finds me where I am."

"I believe the Bible is the best gift God has ever given to man. All the good of the Savior of the world is communicated to us through the Book."

Woodrow Wilson, 28th President of the United States, 1856-1924

"When you have read the Bible, you know it is the word of God, because it is the key to your heart, your own happiness, and your own duty."

Theodore Roosevelt, 26th President of the United States, 1858-1919

"A thorough understanding of the Bible is better than a college education."

Citations

- There are 32,000 citations of the N.T. in the writings of the Church fathers written prior to the Council of Nice (A.D. 325).

Daniel Webster, American politician and noted orator, 1782-1852

"I believe that the Bible is to be understood and received in the plain and obvious meaning of its passages; for I cannot persuade myself that a book intended for the instruction and conversion of the whole world should cover its true meaning in any such mystery and doubt that none but critics and philosophers can discover it."

"Education is useless without the Bible."

Sir David Dabrymple

States that the degree of corruption of following texts is:

New Testament . . . . . . . . . . .

- 0.5%

 

 

Iliad. . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

- 5.0%

 

 

Mahabharata. . . . . . . . . . . . .

- 10.0%

Professor M. Montiero-Williams, former Boden prof. Of Sanskrit who spent 42 years studying Eastern books

Said comparing them with the Bible:

"Pile them, if you will, on the left side of your study table; but place your own Holy Bible on the right side–all by itself, all alone–and with a wide gap between them. For…there is a gulf between it and the so-called sacred books of the East which severs the one from the other utterly hopelessly, and a forever…a veritable gulf which cannot be bridged over by any science of religious thought."

John Wesley, British religious leader who founded Methodism, 1703-1791

"This book had to be written by one of three people: good men, bad men or God. It couldn't have been written by good men because they said it was inspired by the revelation of God. Good men don't lie and deceive. It couldn't have been written by bad men because bad men would not write something that would condemn themselves. It leaves only one conclusion. It was given by divine inspiration of God."

Werner Keller

"In view of the overwhelming mass of authentic and well-attested evidence now available, as I thought of the skeptical criticism which from the eighteenth century onward would fain have demolished the Bible altogether, there kept hammering in my brain this one sentence: The Bible is right after all."

Pope Benedict XV, Pope from 1914-1922, who led the Roman Catholic Church through World War I, 1854-1922

In Introduction of the Roman Catholic Bible translated from Latin Vulgate:

"The responsibility of our apostolic office impels us to…promote the study of Holy Scripture in accordance with the teaching of our predecessors, Leo XIII and Pius X…We shall…never desist from urging the faithful to read daily the gospels, the Acts and the Epistles so as to gather hence food for their souls…ignorance of the Bible means ignorance of Christ."

"In her belief in the divine authority and the perfect truth of the Bible as being the inspired word of God, the Catholic church has never hesitated, neither has she overlooked the fact that this message must lie sealed and silent to many of her children unless given them in her own language."

John Lea

From the Greatest Book in the World:

"It seems strange that the text of Shakespeare which has been in existence less than 208 years should be far more uncertain and corrupt than that of the N.T., now over 18 centuries old, during nearly fifteen of which it existed only in manuscript…with perhaps a dozen or twenty exceptions, the text of every verse in the N.T., may be said to be so far settled by general consent of scholars, that any dispute to its readings must relate rather to interpretation of the words than to any doubts respecting the words themselves. But in every one of Shakespeare's 37 plays there are probably a 100 headings still in dispute, a portion of which materially affect the meaning of the passages in which they occur."

Bernard Ramm

"Jews preserved it as no other manuscript has ever been preserved. With their massora they kept tabs on every letter, syllable, word and paragraph. They had special classes of men within their culture whose sole duty was to preserve and transmit these documents with practically perfect fidelity–scribes, lawyers, massorettes."

"In regard to the New Testament, there are about 13,000 manuscripts, complete and incomplete, in Greek and other languages, that have survived from antiquity."

"A thousand times over, the death knell of the Bible has been sounded, the funeral procession formed, the inscription cut on the tombstone, and committal read. But somehow the corpse never stays put."

"No other book has been so chopped, knifed, sifted, scrutinized, and vilified. What book on philosophy or religion or psychology or belles lettres of classical or modern times has been subject to such a mass attack as the Bible? With such venom and skepticism? With such thoroughness and erudition? Upon every chapter, line and tenet?"

" The Bible is still loved by millions, read by millions, and studied by millions."

Horace Greeley, Editor and Politician

"It is impossible to enslave mentally or socially a Bible-reading people.  The principles of the Bible are the groundwork of human freedom."

Dr. Robert Milikan, former President of the California Inst. Of Tech. And Nobel Peace Prize winner

"I consider an intimate knowledge of the Bible an indispensable quality of a well educated man."

William Foxwell Albright, American Archaeologist and educator known for his excavations of biblical sites, 1891-1971

"The Bible towers in content above all earlier religious literature; and it towers just as impressively over all subsequent literature in the direct simplicity of its message and the catholicity of its appeal to men of all lands and times."

Prof. Edward Meyer, University of Berlin, one of the greatest living authorities on ancient history

Concerning the Bible said:

"…There is no ground at all for refusing to accept these oldest traditions as historically trustworthy in all essentials, and in their chronological ordering of history."

Francis Bacon, English statesman and writer, 1597

Called the Bible:

"The book of God's word."

Malcolm Muggeridge, British broadcaster, 1903-1990

"People say that the Bible is a boring book…but they don't say that about Shakespeare, because the people who teach Shakespeare are zealous for Shakespeare."

Victor Hugo, French writer, 1802-1885

"England has two books; the Bible and Shakespeare. England made Shakespeare, but the Bible made England."

Goethe, German writer and scientist, 1749-1832

"I look upon all four Gospels as thoroughly genuine, for there shines forth from them the reflected splendor of a sublimity proceeding from Jesus Christ."

Sir Frederic Kenyon, Director and principal librarian of the British museum, foremost expert on ancient manuscripts:

"The interval between the dates of original composition (of the N.T.) and the earliest extant evidence becomes so small as to be in fact negligible and the foundation for any doubt that the Scriptures have come down to us substantially as they were written has now been removed; both the authenticity and the general integrity of the books of the N.T. may be regarded as firmly established."

Jim McCotter

"All Scripture is God-breathed and He doesn't waste His breath."

Time Magazine

Reputable scholars now believe that the New Testament account is reliable history."   

Sưu tầm :

Phạm Quang Trung

trungfq@gmail.com

http://trungfq.blogspot.com




[1][1]  Theo tiếng Hy-lạp, Tà Biblia và Biblia là danh từ số nhiều chỉ các quyển sách, Biblio và Biblion là danh từ số ít. Chữ Biblia ở đây là tiếng La-tinh, số ít và giống cái, được các nước Tây Âu dùng.

[2][2] A-lịch-sơn đại đế hay A-lịch-sơn III là vua Hy Lạp, lên ngôi lúc 20 tuổi, là môn đệ của nhà hiền triết Aristole. Từ năm 334, khi ông 22 tuổi, đến khi ông qua đời năm 323 T. C., ông đã chinh phục tất cả các xứ trong vùng, và mang văn hóa Hy Lạp đến các nơi nầy. Ảnh hưởng văn hoá nầy tồn tại qua nhiều thế kỷ sau Chúa.

[3][3]  Khi sa son bn “Authorized Version” tiếng Anh (KJV), người ta chưa tìm được ba bn c nht: bn Sinaiticus, bn Vaticanus và bn Alexandrinus; song khi sa son “Revised Version” thì có dùng các bn ny.

[4][4] Ðon ny được trích ra t bài “Quá Trình Phiên Dch Kinh Thánh Sang Tiếng Vit” do Phước Nguyên viết và được đăng trên báo Linh Lc ca Giáo Hi Tin Lành Giám Lý vào tháng 1/1996. Xin xem thêm nguyên bn.

[5][5] Xem đính bản Biên bản buổi họp của Ban Chấp Hành Truyền Giáo tại Tourane (Ðà Nẵng) vào ngày 24-27 tháng 11, có lẽ vào năm 1920 hay 1921 ở cuối bài nầy (trang 16).


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét