Lời nói đầu
Năm 2007, Nhà xuất bản Tri thức đã ra mắt bản dịch cuốn à tưởng mới từ các kinh tế gia tiền bối (Hướng tới những tư tưởng kinh tế hiện đại). Hiếm khi chúng ta có thể tìm thấy một tổng thuật các lý thuyết kinh tế học và thị trường thế giới hiện đại được trình bà y một cách rõ rà ng, chặt chẽ và lôi cuốn đến như vậy.
Tuy nhiên, bản dịch đã được xuất bản tại Việt Nam lại thiếu sót một chương quan trọng nói về Karl Marx. Đây là một chương hết sức thú vị thể hiện quan điểm của một học giả phương Tây đối với người thà y của chủ nghĩa cộng sản, Karl Marx. Nay tôi xin phép ra mắt bạn đọc bản dịch tiếng Việt toà n bộ chương VI của nguyên bản tiếng Anh tái bản có chỉnh sửa lần 2 và o năm 2007 tại Mỹ.
Bản dịch nà y do tôi hiệu đÃnh lại từ một bản dịch của một dịch giả vô danh trên mạng. Bản hiệu đÃnh nà y đã có sự tham khảo và bổ sung các thuật ngữ kinh tế chÃnh trị Marx-Lenin. Tôi đã quyết định trÃch lại bằng tiếng Việt toà n bộ những đoạn trÃch của Marx mà tác giả sử dụng từ bộ Toà n tập Mác – Ăngghen do NXB ChÃnh trị Quốc gia Hà Nội ấn hà nh.
Đọc chương VI về Karl Marx, chúng ta sẽ có một cái nhìn toà n cảnh về các lý thuyết kinh tế của Marx cũng như chủ nghĩa Marx mà hiếm một tác phẩm nà o ở Việt Nam có được. Với văn phong trong sáng, ngắn gọn nhưng rõ rà ng, tác giả đã là m cho những tư tưởng của Marx trở nên dễ hiểu hơn rất nhiều với bạn đọc Việt Nam. Tôi hy vọng đây là một tác phẩm có thể giải đáp được cho bạn đọc, nhất là những bạn đọc trẻ những câu hỏi về Marx và chủ nghĩa cộng sản trong thời đNngà y nay. Mời các bạn đón đọc.
YesMan2008
Thà nh viên Diễn đà n X-cafevn.org – Tôn trọng sự khác biệt
CHƯƠNG VI
KARL MARX – NHÃ TIÃN TRI GIẬN DỮ
Khi còn là một cậu bé, Adam Smith đã có lần bị và i tên ranh ma bắt cóc. Sau và i giờ bắt cóc, chúng đã thả cậu xuống lề đường và cậu đã được trả về cho gia đình. Một nhà viết tiểu sử đã nhận xét rằng nhà kinh tế học đãng trÃ, ngây thơ không thể trở thà nh một kẻ xảo quyệt được. Người ta cũng nói rằng may mắn là Karl Marx chưa bao giờ bị các nhà tư bản bắt cóc. Ã"ng ta không thể trở thà nh một nhà tư bản giỏi giang được. Giống như việc ông không bao giờ là nhà tiêu dùng thông thái. Marx luôn ngập chìm trong nợ nần.
Bằng những lời đanh thép và lối viết kÃch động, Marx đã đoán trước sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản. Trước cả khi ông tiến hà nh nghiên cứu cẩn thận về những quy luật của chủ nghĩa tư bản và bộ quy tắc bà ẩn quyết định sự phát triển của nền văn minh.
Vị trà của Marx trong lịch sử các học thuyết kinh tế là rất khó xác định. Bằng nhiều cách, các nhà kinh tế học chÃnh thống ngà y nay lùa Marx sang cuộc đà m luận cocktail của những nhà tư bản. Tuy nhiên vẫn có một tỷ người đang phải vật lộ để tồn tại dưới những chế độ tự nhận mình là trung thà nh với chủ nghĩa Marx. Cùng với Freud và Darwin, Marx tác động ghê gớm tới tư duy của thế kỷ XX. Nhưng trong suốt cuộc đời mình, Marx có rất Ãt tiếng tăm và Ãt người ủng hộ. John Stuart Mill, một người có học vấn uyên bác nhất trong thời đại của Marx lại chưa bao giờ nghe đến tên ông.
Marx là một người được tận hưởng buổi bình minh của giai cấp tư sản trong thị trấn Trier vùng Rhineland. Sinh năm 1818, ông đã hòa nhập với tầng lớp trung lưu và thượng lưu của Trier. Sau nà y, Marx đã bà y tỏ niềm tự hà o rằng người cha Heinrich của mình, một luật sư xuất sắc, cũng sở hữu một vườn nho. Người vợ tương lai và là bạn thời thơ ấu của Marx là Jenny sống ngay gần đó. Cha của bà là Nam tước Von Westphalen được Marx coi như một ông bác lúc Marx còn bé.
Sau khi người anh ruột chết lúc bốn tuổi, Marx trở thà nh anh cả và bắt đầu bắt nạt những đứa em gái kém thông minh hơn. Một trò chơi ưa thÃch của Marx là âcưỡiâ lên lưng em gái mình và bắt chúng chạy hộc tốc như những con ngựa khắp các dãy phố của thị trấn Trier. Ngoà i trò cưỡi ngựa ra, Marx còn ép những đứa em gái của mình tham gia những cuộc thi ăn bánh mà họ phải ăn những chiếc bánh được cậu là m ra với hai bà n tay không rửa ráy gì và cứ để bẩn mà nhà o bột. Mặc dù vậy, những đứa em gái của Marx ngưỡng mộ sự thông minh của cậu và những câu chuyện thú vị cậu kể cho các em. Những bạn cùng lớp với Marx cũng yêu quý và sợ cậu, người là m cả lớp cười bằng những trò đùa tinh quái và cũng là m cho mọi người sợ rùng mình bởi những câu thơ mỉa mai châm biếm của cậu.
Suốt cuộc đời mình, Marx có thiên hướng và khiếu độc và lạm dụng việc chỉ trÃch cá nhân. Ã"ng đã thoát khỏi và i cuộc công kÃch đầy ác ý đối với nguồn gốc Do Thái của mình. Cha mẹ của Marx đều xuất thân từ những dòng dõi giáo sĩ Do Thái xuất sắc. Chú của ông là người đứng đầu giới giáo sĩ Do Thái ở Trier. Tuy vậy, những đạo luật bà i Do Thái đã khiến cha của Marx quyết định cải đạo sang Cơ đốc giáo, cho dù ông coi những người Do Thái mới chÃnh là những “tÃn đồ cùng chà hướng”. Nhưng con trai ông lại hắt hủi tổ tiên Do Thái của mình một cách hết sức ngang ngạnh. Các học giả có thể tranh luận liệu ông có thực sự có tư tưởng bà i Do Thái hay không. Nhưng không có gì phải nghi ngờ rằng chÃnh Marx đã từng thốt ra rất nhiều câu lăng mạ, sỉ nhục độc địa.1 Â
Giống như John Stuart Mill, Marx đã hÃt đủ cả hai thứ chất độc hại là chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa duy lý. Cha cậu truyền thụ cho cậu chủ nghĩa duy lý của Pháp thế kỷ XVIII đã được những người kinh nghiệm chủ nghĩa ở Anh là m cho đỡ cứng nhắc. Ã"ng khuyên con trai mình “quy phục” với “niềm tin của Newton, Locke và Leibnitz”.2 Trong khi đó, Nam tước Von Westphalen đầy học thức đã bỏ bùa mê cậu thanh niên trẻ tuổi Karl Marx bằng cách dắt cậu đi dạo khắp những cánh rừng điền viên và kể cho cậu những câu chuyện của Shakespeares, Homer và những người theo phái lãng mạn. Trớ trêu thay, chÃnh ngà i nam tước quý tộc lại là người đưa Marx đến với chủ nghĩa xã hội không tưởng và không có giai cấp. Trà óc sắc sảo và sáng suốt của ông Heinrich không mảy may tác động được tới con trai mình nên Marx có lẽ đã tin và o những ý niệm mờ nhạt, mơ hồ của những người theo chủ nghĩa không tưởng. Nhưng hễ ở đâu họ trông thấy hạnh phúc, là Marx lại thấy có đấu tranh.
Tại Đại học Tổng hợp Bonn, cuộc đấu tranh lớn nhất mà Marx đương đầu là thói nghiện rượu và thói tiêền phóng túng của mình. Cậu đã thua cuộc còn ông Heinrich thì mất rất nhiều tiền. Marx học luật và thu được một chút kinh nghiệm thực tiễn về luật pháp khi cậu bị bắt giam vì tội say mèm. Kể từ khi trường đại học có thùng rượu cho uống đến say thì việc bắt giam không còn nghiêm khắc nữa. Những người khách có thể chơi bà i và tiếp tục uống với người đang bị xử phạt. Sự tự do phóng túng đã chứng tỏ tác dụng. Thắng lợi chÃnh trị đầu tiên của Marx là m cho cậu trở thà nh vị chủ tịch hội Tửu quán Trier.
Sau một năm với những bữa tiệc ở Bonn, Heinrich chuyển cậu con trai quý tử của mình sang Đại học Berlin, một nơi Ãt chè chén nhậu nhẹt hơn. Ã"ng hy vọng như vậy. Nhưng Heinrich nhanh chóng mất ngay hy vọng: “Cứ như thể là chúng tôi được là m bằng và ng. Cậu con trai quý tử của tôi tiêu sạch 700 đồng thale chỉ trong vòng có một năm, vi phạm mọi điều cam kết và các tục lệ. Trong khi đó người già u nhất cũng chỉ tiêu có hơn 500 đồng thôi”.3 Những người cho vay đã kiện Marx và i lần. Việc nà y khiến cậu phải chuyển nhà Ãt nhất là mười lần trong vòng năm năm ở Berlin.
Heinrich còn phà n nà n nhiều hơn về sự phóng đãng: Marx là một kẻ lười biếng và bẩn thỉu. Một ông thánh biện hộ cho những sinh viên đại học đầu tóc bù xù, không tắm rửa gì. Nước da ngăm đen là m cho cậu có cái biệt danh “Người Maroc”. Những người bạn và những đứa con của ông sau nà y thường hay gọi ông như thế một cách trìu mến. Với mà u da tối và mái tóc dà i bết chặt và o nhau, cậu xuất hiện như là một lời biện hộ bờm xờm cho một sinh viên.
Heinrich cũng phản đối sự vòng vo trong con đường học vấn của Marx khi cậu chọn học môn luật và triết học. Nếu Marx đi loanh quanh, chắc chắn cậu ta sẽ đi loanh quanh ở bên ngoà i lớp học. Trong những năm học cuối, cậu chỉ theo có và i cua học và trở thà nh một “sinh viên tự do phóng túng, một người chỉ coi trường đại học như là nơi cắm trại”.4 Mặc dù vậy, Marx học triết học theo cách của riêng mình và gia nhập Phái Hegel trẻ, những người phê phán triệt để tôn giáo và những môn đệ theo chủ nghĩa chiết trung của Hegel – một triết gia ở Berlin đã qua đời và i năm trước khi sự nghiệp học đại học của Marx bắt đầu. Marx đã tiếp thu một cách tà i tình phương pháp của Hegel và chứng minh cho thế giới thấy rằng bỏ học đôi khi phải trả giá (mặc dù không phải trả giá về mặt tà i chÃnh).
Thật không may, Marx chưa bao giờ chứng minh được điều nà y với cha mình. Cha cậu đã qua đời và o năm 1838. Marx vẫn giữ được lòng thương trìu mến đối với cha mình, cậu luôn mang theo mình một bức ảnh của cha. Nhưng Marx không bao giờ thể hiện lòng yêu mến như vậy đối với mẹ cậu, cậu chỉ coi bà như một nguồn tà i trợ keo kiệt. Cậu không tham dự đám tang của bà và cũng chẳng hề chảy nước mắt khi bà qua đời.
Sau cái chết của cha, Marx nghĩ khôn ngoan hơn cả là nên kết thúc việc học hà nh ở đây. Đột nhiên cậu hăm hở rời bỏ học thuật rồi từ chối nộp bản luận văn về triết học Hy Lạp của mình theo các thủ tục nghiêm ngặt ở Đại học Berlin. Thay và o đó, cậu gửi luận văn tới Đại học Jena, một xưởng sản xuất bằng cấp có tiếng. Một cua học từ xa sáu tuần lẽ ra phải kéo dà i hơn. Chỉ và i ngà y sau đó, Jena đã lấy con dấu cao su mục nát của mình và phong tặng cậu học vị tiến sĩ.
Nhà báo trẻ tuổi
Với mảnh bằng trong tay, Marx loanh quanh trong giới báo chÃ, viết rồi sau đó là m biên tập cho tờ Rheinische Zeitung, một tờ báo tự do của giới trung lưu. Thật trớ trêu, ông kiểm soát được các tay bút cấp tiến hơn của tờ báo, những người có khuynh hướng cộng sản chủ nghĩa. ChÃnh phủ chuyên chế Phổ rất muốn kiểm duyệt sự phê phán và Marx thường phải là m việc với các quan chức ngốc nghếch nà y. Có lần họ đã kiểm duyệt và cấm quảng cáo cho bản dịch tác phẩm Hà i kịch Thánh thần của Dante. Tại sao? Ở nước Phổ, nhà ngươi không được nhạo báng thánh thần thông qua hà i kịch.
Một người quan sát giai đoạn Marx là m việc ở tờ báo đã phác họa chân dung của nhà biên tập trẻ:
Karl Marx người xứ Trier là một con người mạnh mẽ mới có 24 tuổi. Mái tóc đen, dà y, xoăn, trùm lên cằm, lên cánh tay, mũi và cả tai. Anh ta độc đoán, hống hách, mạnh mẽ, đầy đam mê, vô cùng tự tin. Nhưng đồng thời rất ham hiểu biết và học hỏi, một nhà biện chứng không ngơi nghỉ. Một người với sự thông thái kiểu Do Thái đã đẩy mọi quan điểm của học thuyết Hegel trẻ tới kết luận cuối cùng. Và sau đó, nhờ sự tập trung nghiên cứu về kinh tế của mình, anh ta đã sẵn sà ng đưa niềm tin của mình đến với chủ nghĩa cộng sản. Dưới sự lãnh đạo của Marx, tờ báo non trẻ ngay lập tức bắt đầu nói năng liều lĩnh.5
ChÃnh phủ phản ứng lại sự xấc xược của Marx bằng cách đưa ra một lựa chọn: hoặc là tờ báo phải đóng cửa, hoặc là Marx phải rời bỏ nó. Marx đã từ chức.
Ã"ng đã mất việc là m. Nhưng đồng thời ông lại kiếm được một người vợ là Jenny von Westphanlen. Những người họ hà ng của cô nghĩ rằng con gái của nhà quý tộc đã kết hôn với một kẻ thấp kém. Tuy nhiên họ không biết rằng cô ta sẽ tụt dốc bao xa.
Năm 1843, gia đình Marx chuyển đến Paris. Ở đó Marx biên tập một tạp chà chÃnh trị mới, bắt đầu xem xét chủ nghĩa cộng sản, nhập bọn với đám người cấp tiến trẻ và ngạo mạn. Những người mà Heinrich Heine mô tả như là một “đám người vô thần và tự cho mình là Chúa”.6 Tờ tạp chà chỉ xuất bản một số. Ngay sau đó Marx và những người bạn theo chủ nghĩa cộng sản của ông bất đồng với đồng chủ biên Arnold Ruge. Ruge cũng học cách bất chấp đám đông vô thần nà y: “Họ mong muốn giải phóng con người⦠nhưng lúc nà y đây họ đặt trọng tâm lớn nhất và o của cải và đặc biệt là và o tiền⦠Để giải phóng những người vô sản về mặt trà tuệ và thể xác khỏi gánh nặng của sự bần cùng, họ mơ có một tổ chức có thể phổ biến sự nghèo khổ nà y và bắt tất cả mọi người phải chịu cái gánh nặng của sự nghèo khổ đó”.7
Là một kẻ trong đám người đó, Friedrich Engels trở thà nh một người quan trọng trong cuộc đời và sinh kế của Marx. Là con trai của một ông chủ công xưởng già u có, Engels có hai cuộc sống. Ban ngà y ông là m việc trong doanh nghiệp của cha mình và kiếm được một đồng lương đáng kể như một nhà tư bản. Ban đêm ông đọc Hegel và các nghiên cứu về chủ nghĩa cộng sản. Mặc dù là một người Đức, Engels sống ở Anh trong và i năm và cai quản doanh nghiệp dệt may của gia đình. Sau một thời gian sống ở Manchester, ông viết bà i bóc trần và phê phán gay gắt sự nghèo khổ ở nước Anh có tên là Tình cảnh giai cấp công nhân Anh năm 1844. Nhưng Engels không tự nguyện đem những thu nhập tư bản của mình chia cho người nghèo hay từ bỏ những thói hư tật xấu kiểu tư sản của mình. Thực ra, ông dường như không bị giằng xé gì về mặt tâm lý bởi cuộc sống lưỡng phân của mình. Ã"ng cảm thấy khá thoải mái với trò đi săn cáo, nhâm nhi những cốc rượu xê rét và đấu kiếm. Ã"ng có thể nâng một cốc champagne hảo hạng và uống mừng người vô sản một cách rất hà o hoa. Khi nà o không săn đuổi cáo thì ông săn đuổi phụ nữ. Ã"ng cũng tuyên bố rằng: “Nếu tôi có một thu nhập 5.000 franc, tôi sẽ không là m gì mà chỉ việc vui thú với đà n bà cho tới khi chết. Nếu không có đà n bà Pháp, cuộc đời sẽ không còn gì đáng sống nữa.”8 Đúng là một bước nhảy v�! ��t khỏi quan niệm của Socrates: “Không khám phá hết cuộc đời thì thật không đáng sống”.
Trong những năm 1840, Marx bắt đầu xây dựng những học thuyết sau nà y là m thay đổi thế giới. Tất nhiên không phải ai cũng tán thà nh. ChÃnh quyền Phổ liệt quan điểm trong những bà i viết của Marx và o sổ đen khi tuyên bố Marx mắc tội mưu phản. Khi nước Pháp trục xuất ông một năm sau đó, ông đã lánh sang Bỉ.
Những bà i viết phản động đã buộc Marx và gia đình của ông phải di chuyển từ một nước châu Ãu nà y sang một nước châu Ãu khác là gì vậy? Trong những năm 1840, Marx xây dựng những cơ sở triết học và lịch sử cho việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản. Những lý thuyết nà y chứng minh điều gì? Nà o là những nền móng của chủ nghĩa tư bản sẽ nhanh chóng suy sụp, nà o là quần chúng sẽ sớm vùng lên là m cách mạng và là m rung chuyển những kẻ có của cho tới khi họ phải lật nhà o khỏi chân đế của mình.
Nhà duy vật lịch sử
Triết học và lịch sử của Marx đều sử dùng những thuật ngữ của Hegel, nhưng ông không sử dụng như một con vẹt. Marx dùng đúng những từ đó nhưng ông thay đổi trật tự. Để hiểu được ông là m điều đó thế nà o, trước hết hãy xem xét một nguyên lý cơ bản của người thầy thông thái của ông.
Hegel dạy rằng mục tiêu của triết học nằm ở những tri thức có được từ việc khám phá ra những ý niệm. Những ý niệm và tinh thần loà i người dẫn dắt lịch sử. Thế giới vật chất, những thứ mà chúng ta nhìn thấy và sờ mó được và những thiết chế trong xã hội đều được dẫn dắt bởi những ý niệm. Nhà xã hội học người Đức – Max Weber cũng dùng luận điểm nà y trong công trình nổi tiếng của mình là Nền đạo đức Tin Là nh và tinh thần của chủ nghĩa tư bản. Nói một cách đơn giản, Weber tin rằng sự nổi dậy của đạo Tin Là nh sẽ dẫn tới chủ nghĩa tư bản; nghĩa là lòng tin và o Chúa đã chuyển thà nh những thiết chế kinh tế.
Theo Hegel, chúng ta có thể truy tìm dấu vết của lịch sử nhờ những chủ nghĩa dân tộc từng có ảnh hưởng lớn: thời đại Ai Cập, Hy Lạp, La Mã và nhiều thời đại khác nữa. Là một người yêu nước, Hegel nghĩ nước Phổ là người lãnh đạo thời đại của nó.
Marx phản đối chủ nghĩa duy tâm của Hegel. Theo gót nhà triết học Đức Ludwig Feuerbach, Marx tìm kiếm những lực lượng duy vật trong lịch sử. Theo tác phẩm Bản chất đạo Cơ đốc của Feuerbach, Chúa chỉ đơn giản là sự phóng chiếu những mong muốn, những đòi hỏi và những đặc trưng của con người. Con người sáng tạo ra Chúa; Chúa không sáng tạo ra con người. Cái thực sự có trên đời là con người đã dẫn đến ý tưởng về Chúa. (Những tác phẩm của Feuerbach là m cho Marx sau nà y lên án tôn giáo, coi đó là “thuốc phiện của nhân dân”.9 Chừng nà o mà con người còn biểu hiện những khát khao của mình lên Chúa và cõi âm thì họ sẽ thụ động chấp nhận những điều kiện vật chất và sự bất công ở thế giới thực tại)
Cho tới giờ Marx có vẻ giống một kẻ đà o tẩu khỏi trường phái Hegel hơn là một người theo phái Hegel Trẻ. Nhưng Marx vẫn giữ lại cái then chốt trong phương pháp của Hegel là phép biện chứng. Hegel quả quyết rằng lịch sử, giống như thực tại, không tuân theo dạng thức từ từ và bằng phẳng. Nó cũng không bao gồm hà ng loạt những sự kiện xảy ra độc lập. Lịch sử hà m chứa sự đấu tranh giữa những mặt đối lập. Mọi tư tưởng đều có mặt đối lập của nó. Các nhà triết học thường tóm lược phép biện chứng của Hegel bằng cách nói rằng mọi luận đề hay tư tưởng đều bị phản bác bởi những phản đề của nó. Cuộc chiến giữa những tư tưởng nà y tạo ra một hợp đề hay một luận đề mới. Rồi luận đề mới nà y lại gặp những phản đề của nó. Thế giới luôn thay đổi. Lịch sử không bao giờ lặp lại chÃnh nó.  Mặc dù những nhà sử học ba hoa có thể lặp lại chÃnh họ.
Hãy so sánh phương pháp biện chứng với cách tiếp cận kiểu Newton đối với kinh tế học, một cách tiếp cận chỉ nhìn thấy những mối quan hệ nhân quả không thay đổi. Điều duy nhất không thay đổi trong cách nhìn nhận của Hegel là luôn luôn tồn tại sự biến chuyển.
Marx lắp ráp phương pháp biện chứng và o chủ nghĩa duy vật. Engels sau nà y đặt tên cho sự kết hợp nà y là chủ nghĩa duy vật biện chứng hay chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nếu cái đầu của Hegel ở trên mây thì Marx muốn cắm mũi của chúng ta xuống đất. Ã"ng nói rằng lịch sử xảy ra trên Trái đất. Hãy quên việc nghiên cứu tôn giáo, đạo đức hay chủ nghĩa dân tộc đi. Chỉ cần nhìn ra cửa sổ và hãy xem cách thức mà con người phải vật lộn để có được những thứ thiết yếu chỉ cốt cho đủ sống. Chẳng có lịch sử nếu không có con người. Và cũng chẳng có con người nếu không có thức ăn. Do vậy, “hà nh động lịch sử đầu tiên là â¦sản xuất ra của cải vật chất để thỏa mãn những nhu cầu đó”.10 Các nhà sử học duy tâm có lẽ cũng viết lịch sử của xứ O”>
Marx vẽ ra con đường đi của lịch sử từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến chế độ phong kiến tới chủ nghĩa tư bản rồi tới chủ nghĩa xã hội. Con đường nà y không nằm ở trên các vì sao hay trong các quy luật mà là trong sản xuất, cụ thể hơn là trong mối quan hệ của con người với quá trình sản xuất. Mỗi một hệ thống sản xuất đều tạo ra những giai cấp thống trị và bị trị. Mỗi một thời đại được đánh dấu bởi một cách thức nhất định để những kẻ cai trị bóp nặn thêm thu nhập cho mình. Trong thời đại La Mã, bất cứ kẻ nà o sở hữu nô lệ đều nắm quyền sở hữu đối với sản lượng do nô lệ là m ra. Trong thời kỳ phong kiến, các địa chủ nắm quyền sở hữu những sản lượng của nông nô. Dưới chủ nghĩa tư bản, những người chủ công xưởng và đất đai nắm quyền sở hữu những sản lượng của những người là m công cho họ. Sự sống còn của giai cấp trị vì dựa và o lao động của giai cấp phục tùng. Điều nà y có đem lại cho những người công nhân quyền mặc cả lớn hơn không? Không. Những người công nhân phải hợp tác với giai cấp thống trị vì những kẻ thống trị kiểm soát những phương tiện sản xuất. Người công nhân không thể “lấy những bộ đồ bằng đá cẩm thạch và đi về nhà ”. Họ không sở hữu những đồ vật bằng đá cẩm thạch đó.
Do đó, tồn tại một sự phụ thuộc lẫn nhau. Tuy nhiên những kẻ cai trị vẫn cố ra vẻ như thể là họ chẳng cần đến những người công nhân như những người công nhân cần họ. Nếu thà nh công, họ sẽ bà nh trướng thêm sự thống trị của họ.
Họ cố duy trì địa vị của họ bằng cách nà o? Những quan điểm của Hegel về đạo đức, chủ nghĩa dân tộc và tư tưởng đã đề cập đến điều nà y. Giai cấp thống trị sử dụng tÃn ngưỡng, luật pháp, văn hóa, tôn giáo, đạo đức và lòng yêu nước nhằm hỗ trợ cho quá trình sản xuất. Một người công nhân yêu nước sẽ huýt sáo khi anh ta là m việc và không gian lận với người chủ bằng cách giải lao đi uống cà phê quá nhiều. Ngà y nay, các nhà máy chế tạo ô tô và sản xuất bia thÃch gắn kết nước Mỹ với hình ảnh của một “ngà y là m việc chăm chỉ và trung thực”. Giấc mơ Mỹ vỡ tan trong một giai điệu quảng cáo quen thuộc “bóng chà y và xúc xÃch nóng, bánh táo và Chevrolet”. Chevrolet thực sự thay thế người mẹ. (Liệu giấc mơ phức cảm của người Mỹ có cả ham muốn dà nh cho chiếc xe ô tô của người Cha không?)
Hệ thống luật pháp và đạo đức của chúng ta dạy chúng ta cảm thấy tội lỗi nếu chúng ta lẩn trốn công việc của mình. Vậy tại sao những người chủ sở hữu lại được hưởng lợi nhuận kiếm được nhờ mồ hôi của chúng ta? Chúng ta đáp lại rằng bởi vì họ sở hữu tà i sản. Marx hỏi tiếp: Nhưng tại sao chúng ta phải chấp nhận hệ thống luật pháp nà y?
Theo Marx, những kẻ cai trị, những kẻ có quyền lợi trong chế độ tư hữu đã thôi miên quần chúng lao động. Sức thuyết phục và sự ám thị là m cho người Mỹ mơ đến cổ phiếu, trái phiếu và những chiếc BMW. Tất nhiên, một cá nhân nghĩ rằng những giấc mơ là của riêng anh ta và tự anh ta tiếp nhận những ám thị đó một cách vô thức. Marx gọi những tư tưởng, luật pháp và quy tắc đạo đức tương ứng với thiết chế xã hội là thượng tầng kiến trúc.
Câu nói nổi tiếng của Marx trong lời tựa cho cuốn sách của ông Góp phần phê phán khoa Kinh tế ChÃnh trị là : “Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt, xã hội, chÃnh trị và tinh thần⦠Không phải ý thức của con người quyết định sự tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ.”11
Những nông nô cúi mình và thể hiện lòng trung thà nh với lãnh chúa. Thợ phụ tự hà o khi được là m việc cùng thợ cả. Người là m công ăn lương cố gắng được đề bạt bằng cách là m việc tÃch cực hơn. Tất cả họ là m việc cần cù và mong kiếm được một cuộc sống tốt hơn trong chế độ đang cai trị họ.
Marx không lập luận rằng giai cấp thống trị chủ mưu xây dựng nên thượng tầng kiến trúc. Những người hữu sản có lẽ thực sự tin và o tôn giáo của họ và không xem tôn giáo như một công cụ để lợi dụng. Thượng tầng kiến trúc xuất hiện bởi quá trình sản xuất đã bóp méo và là m xơ cứng nhận thức của mọi người. Đối với Marx, “con người là m ra lịch sử của chÃnh mình, nhưng không phải là m theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lấy, mà là trong những điều kiện trực tiếp có trước mắt, đã cho sẵn và do quá khứ để lại. Truyền thống của tất cả các thế hệ đã chết nặng như quả núi đè nặng lên tâm trà của những người đang sống”.12 (Điều bất ngờ là sau nà y Engels đã thừa nhận rằng Marx và ông đôi khi nhấn mạnh quá mức quan hệ nhân quả giữa sản xuất và thượng tầng kiến trúc. Những tư tưởng đôi khi có những hậu quả thực tế của nó)
Nếu một nguyên tắc đạo đức hay nền văn hóa tự động nảy sinh để củng cố thêm cho xã hội phân chia giai cấp thì tại sao Marx lại công kÃch mở mà n trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản rằng “lịch sử tất cả các xã hội tồn tại từ trước đến ngà y nay là lịch sử đấu tranh giai cấp”?13 Tại sao mọi người phải đấu tranh? Có ai biết đấu tranh ngay từ đầu không? Những người chủ bóp nặn công nhân và công nhân bằng lòng chấp nhận sự bóp nặn một cách thoải mái như một tÃn hữu giáo hội Thống Nhất (Moonie) bị thôi miên đem tặng những bông cúc ở sân bay. Chừng nà o mà người Moonie/công nhân được hưởng lợi một cách hình thức thôi thì nền kinh tế vẫn cứ vận hà nh và lợi nhuận vẫn cứ chảy đều và o tà i khoản ngân hà ng của các ông chủ.
Sự nổi loạn diễn ra khi có sự thay đổi trong công nghệ sản xuất. Một công nghệ mới hay một phương pháp mới là m thay đổi chất lượng hay số lượng của đất đai, lao động và tư bản. Những phát minh, phát kiến, giáo dục và sự gia tăng dân số khiến cho những lực lượng sản xuất vật chất luôn biến động. Với một tập hợp mới những lực lượng vật chất, quá trình sản xuất cũ trở nên lỗi thời. Chẳng hạn, nô lệ có thể đem lại lợi nhuận khi mà tỷ lệ giữa đất đai và người lao động còn cao. Nhưng nếu những chiếc máy kéo và máy gặt là m việc hiệu quả hơn nô lệ hoặc nếu số người lao động tăng lên thì nô lệ sẽ tạo ra Ãt lợi nhuận hơn. Tương lai nằm ở trong quá trình sản xuất mới.
Tuy nhiên đừng quên rằng toà n bộ hệ thống luật pháp, đạo đức, chÃnh trị lại dựa và o phương pháp cũ. Các mục sư thường dạy rằng an phận nông nô là con đường dẫn tới vương quốc của Chúa. Đó là một sự thực vĩnh cửu được khắc sâu trong tâm trà và trên những phiến đá của các thánh đường Trung cổ. Thật vậy, thượng tầng kiến trúc có vẻ tĩnh.
Đấu tranh xảy ra khi giai cấp cai trị cũ tự cô lập mình khỏi vòng quay năng động của lịch sử bằng cách bám chặt lấy những tư tưởng cũ kỹ và ngăn trở sự phát triển của nền kinh tế. Marx viết rằng cối xay quay tay sinh ra địa chủ phong kiến. Còn động cơ hơi nước loan báo sự hiện diện của nhà tư bản công nghiệp. Nhưng các lãnh chúa phong kiến chống lại người kế tục mình là những nhà công nghiệp. Sau đó thợ cả phường hội cãi lộn với chủ công xưởng. Hãy quên đi những câu chuyện bịa đặt về Ngà i Lancelot và Galahad. Cuộc đấu thương trên lưng ngựa với những cây thương sắc nhọn nhất diễn ra không phải giữa những hiệp sĩ châu Ãu thời Trung cổ mà là giữa các lãnh chúa và những lực lượng thương mại.
Giai cấp thống trị luôn luôn vấp phải mối đe dọa khi mà đất đai, lao động, tư bản hay công nghệ thay đổi. Họ có thể đổ nhà o từ trên mái của những ngôi nhà được xếp từ những quân bà i trong khi kêu khóc cho “chân lý vĩnh cửu” trong triết lý của họ. Lịch sử xáo bà i và ai nắm giữ lá bà i K thì người đó có thể bị chém đầu.
Câu chuyện sau sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn. Ngà y xửa ngà y xưa, những tên lÃnh gác nhanh nhẹn đã sốt sắng cảnh báo lãnh chúa rằng sẽ có một cơn lũ. Gã lãnh chúa nà y chạy ngay đến thánh đường và cầu xin Chúa cứu giúp. Khi mà nước lũ trà n đến những bậc thềm của tòa thánh đường, một nông nô đã chèo một con thuyền nhỏ đến chỗ bậc thềm và đề nghị vị lãnh chúa lên thuyền. “Không, cám ơn. Ta tin và o Chúa, và ta tin và o công lý. Chúa sẽ cứu ta.” Khi nước dâng lên, gã lãnh chúa bước lên bục giảng kinh. Lần nà y một chiếc xuồng máy chạy vội đến chỗ ông ta. Khi nước vỗ mạnh và o bục giảng kinh, người lái tà u la lên: “Tôi sẽ cứu ngà i. Hãy nhảy lên đây!” Lại một lần nữa gã lãnh chúa quý tộc đáp lại: “Đừng lo. Ta tin và o Chúa. Chúa sẽ cứu ta. Ta không cần những cái máy ồn à o.” Cuối cùng, nước đã nhấn chìm thánh đường. Khi lãnh chúa nắm được đỉnh ngọn tháp cao nhất, thân thể ông ta bị sóng đánh tả tơi. Một chiếc trực thăng bay đến trên đầu ông ta. Viên phi công hét lên: “Xin ngà i, ông chủ của tôi. Hãy nắm lấy cái thang nà y.” Gã lãnh chúa lại đáp: “Đừng lo. Ta tin và o Chúa. Chúa sẽ cứu ta.” Một lúc sau, nước dâng lên cao hơn và gã lãnh chúa chìm nghỉm.
Trên thiên đường (suy cho cùng ông ta là một vị lãnh chúa tốt), ông ta gặp được Chúa. “Chúa”, ông nói, “tôi tin Ngà i cả đời. Tôi là m theo mọi điều mà thầy tu khuyên bảo tôi. Khi mà những người khác nghi ngờ và quay sang nhờ đến máy móc, tôi tin Ngà i sẽ cứu tôi. Nhưng Ngà i là m tôi thất vọng.”
“Tên ngốc!” Chúa ngắt lời. “Ngươi nghĩ ai đã đưa thuyền, xuồng máy và trực thăng đến hả!”
Ai không tuân theo dòng chảy của chủ nghĩa duy vật lịch sử, người đó sẽ bị chết chìm dưới dòng chảy đó. Marx mô tả dòng chảy:
Tới một giai đoạn phát triển nà o đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có … những quan hệ ấy trở thà nh những xiềng xÃch của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội. Cơ sở kinh tế thay đổi thì toà n bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn Ãt nhiều nhanh chóng. Khi xét những cuộc đảo lộn ấy, bao giờ cũng cần phân biệt cuộc đảo lộn vật chất – mà người ta có thể xác nhận với một sự chÃnh xác của khoa học tự nhiên – trong những điều kiện kinh tế của sản xuất, với những hình thái pháp lý, chÃnh trị, tôn giáo, nghệ thuật hay triết học, tóm lại, với những hình thái tư tưởng trong đó con người ý thức được cuộc xung đột ấy và đấu tranh để giải quyết cuộc xung đột ấy.14
Bởi vì chủ nghĩa tư bản dựa trên hệ thống phân chia giai cấp nên tất yếu dẫn tới cách mạng và thắng lợi của giai cấp công nhân. Tác phẩm bất hủ của Marx, cuốn Tư Bản đã phác họa “những xu hướng đang tác động và đang được thực hiện với một tất yếu gang thép”.15 Chỉ có một xã hội không giai cấp mới có thể tránh khỏi được các cuộc cách mạng. Và theo quan điểm của Marx, một xã hội không có giai cấp cuối cùng sẽ xuất hiện. Những nhà tư bản thối nát cuối cùng sẽ bị tiêu diệt. Sau nhiều thế kỷ bị chiếm đoạt thà nh quả của mình, cuối cùng những ngư̖ sẽ được tự do.
Nếu chủ nghĩa tư bản “tất yếu” phải sụp đổ để biến thà nh chủ nghĩa xã hội, thì chắc hẳn chủ nghĩa phong kiến phải sụp đổ để biến thà nh chủ nghĩa tư bản? Có phải chủ nghĩa tư bản là điểm dừng cần thiết trên con đường tiến tới chủ nghĩa cộng sản? Nếu vậy thì đó không phải là một cuộc tà n sát vô cớ hay một cuộc nổi dậy kém may mắn của nhân loại như nhiều người xã hội chủ nghĩa không tưởng quan niệm. Marx bị cự tuyệt bởi những người lãng mạn phản khoa học, những người mô tả chủ nghĩa tư bản như là một tai nạn tồi tệ do những kẻ xấu xa tạo ra. Thực ra, Marx cũng viết những lời tán dương hùng hồn dà nh cho các nhà tư bản. Bởi vì theo quan điểm của ông, chủ nghĩa tư bản đã giải phóng con người thoát khỏi những điều kiện tồi tệ hơn. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của Marx không dà nh cho những tay lái buôn ngớ ngẩn có óc hoà i cổ:
Nhờ cải tiến mau chóng công cụ sản xuất và là m cho các phương tiện giao thông trở nên vô cùng tiện lợi, giai cấp tư sản lôi cuốn đến cả những dân tộc dã man nhất và trà o lưu văn minh. Giá rẻ của những sản phẩm của giai cấp ấy là trọng pháo bắn thủng tất cả những vạn lý trường thà nh và buộc những người dã man bà i ngoại một cách ngoan cường nhất cũng phải hà ng phục ⦠Giai cấp tư sản, trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ, đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.16
Marx đã phê phán giai cấp tư sản nhưng ông lại dà nh những lời công kÃch hiểm độc nhất cho những người có tư tưởng xã hội chủ nghĩa nhưng bất đồng quan điểm với ông. Không phải là người có thể tập hợp được những người khác quanh mình. Ngay cả với những người bạn chân thà nh nhất, ông cũng chỉ giống như một con mãng xà đang cuộn tròn mình l Marx có lẽ sẽ rất căm ghét đảng Xanh và mơ những thà nh viên của nó bị nghẹn vì những Quả Nho ngớ ngẩn của họ. Ã"ng viết rằng chủ nghĩa tư bản “đã cứu một bộ phận đáng kể dân chúng khỏi sự ngu ngốc của cuộc sống thôn quê”.17 Ã"ng sẽ đáp lại những người ủng hộ chủ trương “quay về với thiên nhiên” bằng những cuốn sách lịch sử để họ hiểu cuộc sống thời kỳ tiền công nghiệp khủng khiếp như thế nà o. Marx đã đáp lại một cách gay gắt cuốn Triết học của sự khốn cùng của Pierre Proudhon bằng cuốn Sự khốn cùng của Triết học. Những người thông minh không cố gắng xóa bỏ hay “nhớ lại” những giai đoạn lịch sử và gửi chúng trở về công xưởng nhỏ bé của Chúa để sửa chữa.
Chủ nghĩa tư bản là một điều kiện tất yếu cho chủ nghĩa xã hội. Bởi vì chủ nghĩa tư bản sản xuất ra rất nhiều của cải. Nó cho phép một hệ thống Ãt phải điều hà nh hơn là chủ nghĩa xã hội có thể kế tục. Các quốc gia tiền tư bản chủ nghĩa không thể hy vọng và o việc là m cách mạng cộng sản chủ nghĩa để lật đổ các lãnh chúa hay Nga Hoà ng. Marx không để ý tới nước Nga. Ã"ng cũng không trông chờ chủ nghĩa cộng sản sớm xảy ra ở Đức, bởi vì chỉ có 4% lao động nam giới là m việc trong các công xưởng lúc bấy giờ. Những xiềng xÃch có lẽ sẽ bị gãy vụn đầu tiên ở Anh và ở Pháp, những thà nh trì của chủ nghĩa tư bản tiên tiến. Nước Pháp sẽ báo hiệu khi nà o nước Đức chÃn muồi cho chủ nghĩa cộng sản: “Khi tất cả những điều kiện bên trong đã chÃn muồi, ngà y phục sinh của nước Đức sẽ được báo hiệu bằng tiếng gáy của chú gà trống xứ Gô loa.”18
Tư Bản và sự sụp đổ của Chủ nghĩa Tư bản
Marx không chỉ cao ngạo chờ đợi tiếng gáy của chú gà trống. Thay và o đó ông tự cao tự đại thảo ra một công trình phân tÃch cẩn thận và đầy đủ về tư bản là cuốn Tư Bản. Trong thập niên 1850, Marx tự chôn mình trong đống sách giáo khoa kinh tế học ở Bảo tà ng Anh quốc ở London. Gia đình ông nhịn đói trong khi ông phân tÃch sự khổ sở trừu tượng của giai cấp vô sản. Gia đình Marx sống trong một căn hộ nhếch nhác ở một trong những khu nghèo nhất ở London. Một mật thám theo dõi Marx đã mộ tả chân dung sống động hiếm có về sự bần cùng mà gia đình ông phải chịu đựng:
Khi một ai đó bước và o phòng của Marx, mắt họ bị cay xè vì khói than và mùi thuốc lá tới mức lúc đầu người ta phải dò dẫm y như ở trong một cái hang⦠Mọi thứ đều bẩn thỉu và đầy bụi, ngay cả việc ngồi xuống cũng hết sức nguy hiểm. Chỗ nà y thì có cái ghế ba chân, chỗ kia thì bọn trẻ chơi đùa và họ chuẩn bị cơm nước trên một cái ghế có vẻ còn nguyên vẹn.
Đối với bản thân Marx, “ông là một người cực kỳ bừa bãi, hay chỉ trÃch người khác cay độc, một chủ nhà nghèo khổ. Ã"ng sống giống kiểu dân gipsy. Hiếm khi thấy ông tắm, chải chuốt và thay đồ lót. Ã"ng còn thường xuyên say bà tỉ. Ã"ng thường tiêu phà thời gian của ngà y một cách vô Ãch, nhưng nếu ông phải là m việc thì ông là m việc cả ngà y đêm không mệt mỏi”. Jenny mặc dù lớn lên trong gia đình quý tộc “nhưng cũng chịu được cảnh nhà cửa bần cùng như thế nà y”.19
Gia đình Marx mất ba đứa trẻ vì bệnh viêm phổi, viêm phế quản và bệnh lao trong năm năm bất hạnh ở London. Điều khủng khiếp nhất là những người là m dịch vụ tang lễ lại không cho nợ. Jenny trở nên vô cùng phiền muộn. Đã có lần bà phải đi ăn xin 2 bảng để mua quan tà i cho đứa con. Mặc dù Marx thường hay thô lỗ với những người xung quanh, nhưng ông vẫn còn chút lòng thương xót với những đứa connh. Bản thân ông cũng suy sụp khi chúng qua đời:
Bacon nói rằng những người thực sự quan trọng có rất nhiều mối liên hệ với thiên nhiên và với thế giới. Họ có rất nhiều thứ để quan tâm nên họ dễ dà ng vượt qua những mất mát. Tôi không thuộc về những người quan trọng như vậy. Cái chết của những đứa con đã hủy hoại sâu sắc trái tim và khối óc của tôi và tôi cảm thấy sự mất mát chỉ như mới ngà y hôm qua thôi.20
Marx cố nhiên quy cảnh ngộ tuyệt vọng của mình cho giai cấp tư sản và hứa là sẽ bắt họ phải trả giá cho những tai họa của gia đình ông và sự ốm đau của chÃnh ông, kể cả những đám mụn đỏ trên mặt ông.
Marx hiếm khi tự trách mình. Lẽ ra ông phải là m như vậy. Marx còn ý thức rất trẻ con về kinh tế gia đình. Có người đã mô tả điều đó giống như việc một đứa trẻ cứ hét to ở đầu con kênh nà y và chẳng có trách nhiệm gì ở đầu kia. Nếu tÃnh những món quà từ gia đình Jenny và Engels gửi cho và những khoản nhuận bút cho những bà i báo trong tờ New York Daily Tribune thì gia đình Marx phải “kiếm” được một khoản tương đương với thu nhập của một gia đình trung lưu cấp thấp. Trong những năm tháng khốn khó nhất của họ, họ chỉ kiếm được một khoản thu nhập gấp ba lần thu nhập của một công nhân không có kỹ năng. Một nhà thơ cấp tiến người Đức cũng bị trục xuất khỏi quê hương, viết rằng một khoản thu nhập tương tự như của Marx lúc nà o cũng có thể mua được cho ông “một miếng bò bÃt tết thơm ngon mang hương vị tha phương”.21
>
Nhưng thay vì thường xuyên chăm lo gia đình mình, Marx đầu tư tiền và o những tờ báo chÃnh trị và đà n piano, âm nhạc, những bà i tập khiêu vũ cho những đứa con của mình! Mặc dù là vợ của một nhà cách mạng nhưng Jenny vẫn cứ in những giấy viết xa xỉ ghi tên mình là “Nữ Nam tước Von Westphanlen”.
Vấn đề trở nên tồi tệ thêm khi Marx là m cho người hầu gái mang thai (cô ta là một món quà từ nhà Von Westphanlen). Một lần nữa Marx chối bỏ trách nhiệm của mình. Ã"ng nói với Jenny rằng Engels là cha đứa bé. Người hầu gái bỏ đi một thời gian, rồi sau đó quay trở về với một đứa trẻ tóc rậm, da hơi ngăm đen. Đứa bé sau nà y được đem cho người khác là m con nuôi.
Với tình cảnh gia đình như vậy, không ngạc nhiên gì khi biết rằng trong suốt những năm 1850 và 1851, Marx ở trong Bảo tà ng Anh quốc nhiều hơn là ở nhà . Ã"ng đọc hầu hết tất cả những gì liên quan đến kinh tế học. Ã"ng bỏ ra hà ng tháng trời để ghi chép những đoạn trÃch dà i của khoảng 80 tác giả. Engels thúc giục ông là m nhanh hơn nhưng Marx chậm rãi một cách khó hiểu và quá câu nệ các tiểu tiết. Marx cũng gặp khó khăn khi tìm kiếm một nhà xuất bản chấp nhận xuất bản cuốn Tư Bản theo nguyên mẫu của ông. Engels quở trách nhà cộng sản ương ngạnh: “Thể hiện một chút đầu óc kinh doanh xem nà o.”22
Mãi đến năm 1867, Marx mới hoà n thà nh việc nghiên cứu, viết lách, biên tập của mình và bình phục sau và i lần ốm đau. Tập I cuối cùng cũng ra đời. Ba tập tiếp theo được xuất bản sau khi tác giả qua đời.
Để miêu tả cuốn Tư Bản, ta có thể chọn một trang bất kỳ trong cuốn Từ điển Đồng nghĩa và Dị nghĩa của Roget và đọc thật to bất kỳ tÃnh từ nà o. Cuốn sách đó có tất cả 2500 trang bao gồm toà n bộ trÃch dẫn từ hơn 1500 tác phẩm khác. Một và i trang thực sự là những kiệt tác văn chương. Một số trang toát ra logic sáng sủa. Và một số trang lại mang nặng tÃnh chuyên môn, tầm thường và chán ngắt là m người ta nhớ đến lời phê phán kịch liệt của Truman Capote dà nh cho nhà văn Jack Kerouac: “Đây không phải là viết mà chỉ là đánh máy thôi.”
Chúng ta hãy nghiên cứu tác phẩm Tư Bản theo ba bước. Thứ nhất, chúng ta sẽ khám phá điều cốt lõi của chủ nghĩa tư bản, tư tưởng của Marx về sự bóc lột lao động. Thứ hai, chúng ta sẽ xem xét những quy luật vận động của chủ nghĩa tư bản, những quy luật tất yếu sẽ dẫn đến sự sụp đổ của nó. Thứ ba, chúng ta sẽ xem xét những thiệt hại tâm lý của chủ nghĩa tư bản.
Marx không chọn con đường dễ đi. Ã"ng không chỉ thẳng và o những doanh nghiệp lũng đoạn thị trường mà tuyên bố rằng kỷ nguyên của những doanh nhân mạo hiểm và sự cạnh tranh hoà n hảo kiểu Smith đã hết thời rồi. Hãy nhớ rằng ông là một người theo phái Hegel trẻ; ông muốn cho thế giới thấy rằng ngay cả những mô thức lý tưởng của chủ nghĩa tư bản nhất định phải tự sụp đổ. Ã"ng bắt đầu với những công cụ kinh điển.
Giống như Smith và đặc biệt là Ricardo, Marx “chứng minh” rằng giá trị của một sản phẩm được quyết định bởi lượng lao động cần tết để sản xuất ra nó. Máy móc chỉ là lao động quá khứ được tÃch lũy lại dưới dạng sắt thép. Một bộ dà n nghe stereo tiêu tốn hết mười giờ lao động thì nó có giá trị gấp đôi so với giá trị của một cái khác chỉ mất có năm giờ lao động.
Nếu điều đó là đúng, thì không thể có lợi nhuận trừ khi công nhân bị bóc lột lao động. Chúng ta có tam đoạn luận như dưới đây:
1. Giá trị của một sản phẩm (giá cả của nó) được quyết định bởi lượng lao động.
2. Những người công nhân nhận được đầy đủ giá trị của cái mà họ đóng góp và o để sản xuất ra sản phẩm đó.
3. Do đó, giá trị của một sản phẩm bằng với lượng giá trị mà người công nhân nhận được.
Nhưng giá bán của sản phẩm lại không chỉ chia cho công nhân. Người chủ giữ một phần là lợi nhuận. Hãy quên đi bà n tay vô hình. Bà n tay hữu hình và thô bạo của nhà tư bản mới thực sự hoạt động. Lợi nhuận từ đâu mà ra? Tiền đề thứ 2 chắc chắn là sai. Công nhân không thể nhận được đầy đủ giá trị mà họ đóng góp và o sản phẩm. Họ phải bị bóc lột. (Những người phê phán Marx tất nhiên lập luận rằng tiền đề thứ 1 không đúng)
Nhà tư bản lừa công nhân như thế nà o? Thay vì trả cho họ một khoản bằng với giá trị được cộng thêm và o việc kinh doanh của nhà tư bản, nhà tư bản chỉ trả sao cho họ tồn tại tiền lương chỉ đủ để họ sống và là m việc. Nhà tư bản mua sức lao động y như một thứ hà ng hóa. Sau đó anh ta bắt nó phải là m việc X giờ mỗi ngà y.
Chúng ta hãy sử dụng những thuật ngữ của Marx. Marx miêu tả việc nhà tư bản cung cấp các công xưởng và thiết bị được gọi là tư bản bất biến. Họ cũng trả công cho lao động. Công nà y được gọi là tư bản khả biến. Khi tiến hà nh sản xuất, nhà tư bản chắc chắn phải đảm bảo rằng giá trị cuối cùng của sản phẩm phải cao hơn tổng tư bản bất biến và khả biến. Giá trị tăng thêm (lợi nhuận) có được khi họ trả cho công nhân Ãt hơn giá trị mà công nhân sản xuất ra. Nói cách khác, giá trị của người công nhân thêm và o giá trị sản phẩm vượt quá tư bản khả biến mà họ được trả. Marx gọi đây là sự ăn cướp giá trị thặng dư của người lao động.
Và dụ, Jasmine là một thợ may là m việc cho chương trình sân khấu Radio City Music Hall. Khán giả thường không thÃch những bộ trang phục rách nát. Vì thế công việc may vá của cô là m tăng thêm giá trị của một buổi biểu diễn khoảng 10 đô la. Nhưng cô chỉ được trả 6 đô la thôi. Các ông chủ bóp nặn 4 đô la thặng dư của Jasmine cho mỗi buổi biểu diễn hằng ngà y. Tỷ lệ giữa giá trị thặng dư đối với tiền lương (4/6) là tỷ suất giá trị thặng dư.
Tại sao Jasmine lại không đòi 10 đô la cho công sức của mình? Chủ nghĩa tư bản dẫn đến thất nghiệp và một đội quân dự bị sẵn sà ng thế chỗ của Jasmine nếu cô đòi lương cao hơn. Cô không sở hữu máy may, trang phục hay sân khấu. Các ông chủ mới là người sở hữu. Bằng cách kiểm soát những phương tiện sản xuất, họ thống trị thị trường lao động.
Các ông chủ đặt ra mức lương 6 đô la cho Jasmine như thế nà o? Các ông chủ chỉ cần trả lương cho những người công nhân đủ để họ sống. Jasmine nhận 6 đô la bởi vì 6 đô la sẽ giúp cô sống được. Cô ta nhận được một đồng lương đủ sống. Nếu cô ta kiếm được 1 đô la cho mỗi giờ là m việc thì sáu giờ là m việc sẽ giúp cô đủ sống. Nhưng các ông chủ không để cô là m việc đúng sáu giờ. Họ buộc cô phải là m việc nhiều hơn trong một ngà y, vá chữa nhiều bộ trang phục rách hơn. Chẳng hạn họ kéo 6 đô la tiền lương của cô ra hơn mười giờ là m việc. Kết quả là : Cô ta là m việc sáu giờ cho chÃnh mình và thêm bốn giờ cho ông chủ. Khoản thặng dư bốn giờ đi ngay và o túi ông chủ. Họ chẳng cần phải đụng đến một cái đê nà o cả.
Tại sao người công nhân chỉ được trả lương đủ sống? Chúng ta đã nói rằng giá trị của một hà ng hóa được quyết định bởi lượng lao động kết tinh và o hà ng hóa đó. Nguồn cung lao động cũng là một loại hà ng hóa. Do vậy, giá cả của lao động là khoản tiền cần thiết để sản xuất và duy trì sự tồn tại của một con người.
Nói chung, các ông chủ không trả đủ cho công nhân để mua cái mà họ sản xuất ra. Những người công nhân vật lộn chỉ để có được một phần thôi. Trong và dụ của chúng ta, Jasmine không thể mua nổi một chiếc vé 10 đô la cho buổi biểu diễn mặc dù chÃnh cô đóng góp 10 đô la giá trị và o đó. Có lẽ các ông chủ sẽ để cho cô mua một chiếc vé 5 đô la nếu cô hứa chỉ xem các diễn viên từ phần thắt lưng họ trở lên.
Nếu lợi nhuận có được nhờ bóc lột lao động, chúng ta có thể xác định tỷ suất lợi nhuận bằng tỷ lệ phần thặng dư trên tổng tư bản bất biến và khả biến (s/[v + c]). Nhà tư bản có thể tăng lợi nhuận nếu ông ta ép buộc những người là m thuê cho mình là m việc nhiều hơn trong một ngà y. Hoặc ông ta có thể tăng được lợi nhuận bằng cách bóc lột thêm lao động của phụ nữ và trẻ em. Trong thời đại mà Marx viết, giờ là m kéo dà i ra và ngà y cà ng có nhiều lao động nữ và trẻ em đã gia nhập và o lực lượng lao động công nghiệp.
Đến đây chúng ta hiểu lợi nhuận có được nhờ bóc lột như thế nà o. Nhưng tại sao lại không thể duy trì được điều nà y? Những quy luật nà o của chủ nghĩa tư bản rốt cuộc sẽ giải thoát người công nhân khỏi sự tuyệt vọng và buộc các nhà tư bản phải quỳ gối? Marx không chỉ tuyên bố rằng một cuộc cách mạng xã hội sẽ nổ ra. Ã"ng mô tả một cách cẩn thận những mâu thuẫn kinh tế của chủ nghĩa tư bản. Chúng ta sẽ khảo sát năm âquy luậtâ hoặc âkhuynh hướngâ dẫn tới sự tự sụp đổ từ bên trong của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Chẳng những không hoan nghênh chủ nghĩa tư bản, bà n tay vô hình rút cục lại phá tan nó.
1. Tỷ suất lợi nhuận giảm xuống và sự tÃch lũy tư bản. Cũng như Adam Smith, Marx nhận thấy nhà tư bản đương đầu với sự cạnh tranh. Nếu một công ty mở rộng quy mô sản xuất của mình, nó có thể sản xuất hiệu quả hơn. Công ty nà o có khả năng đổi mới sẽ ép buộc các đối thủ cạnh tranh của nó phải phát triển hơn. Các công ty thuê mướn nhiều công nhân hơn. Nhưng điều đó lại là m tăng tiền lương lên vượt mức đủ sống. Các ông chủ là m gì? Họ sẽ thay thế lao động bằng máy móc. Nếu họ không là m điều đó, lợi nhuận của họ sẽ giảm xuống. Bởi vì trả cao hơn sẽ tạm thời chấm dứt sự bóc lột của họ đối với công nhân. Sự cạnh tranh bắt buộc họ phải thay thế như vậy.
Nhưng ở đây các ông chủ khôn ngoan hơn và họ bị rơi và o thế tiến thoái lưỡng nan. Các khoản thặng dư chỉ có thể bóp nặn được từ con người. Những nhà tư bản bán máy móc có thể đòi trả giá đúng và đủ cho các sản phẩm của họ. (Nếu một thiết bị in tráng phim tốc độ cao tăng doanh thu cho công ty vì nó có thể in tráng nhiều ảnh hơn trong một giờ thì nhà sản xuất thiết có thể tÃnh một mức giá mới cho công ty là m ảnh) Hãy nhìn lại công thức về tỷ suất lợi nhuận s/[c + v] của Marx. Bằng cách cộng thêm máy móc [c], các nhà tư bản là m giảm lợi nhuận của mình. Mặt khác của tình thế khó xử nà y là nếu họ chống lại việc đưa thêm máy móc và o sử dụng, không ai sẽ mua những sản phẩm không cạnh tranh của họ:
Ngoà i ra, sự phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là m cho sự tăng thêm không ngừng của số tư bản bỏ và o một xà nghiệp công nghiệp trở thà nh một sự tất yếu, và cạnh tranh là m cho những quy luật bên trong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thà nh những quy luật bên ngoà i có tÃnh chất cưỡng chế đối với mỗi một nhà tư bản cá biệt. Cạnh tranh buộc nhà tư bản không ngừng mở rộng tư bản để giữ được tư bản, và hắn chỉ có thể mở rộng tư bản của mình bằng cách tÃch lũy ngà y cà ng nhiều hơn mà thôiâ¦
Hãy tÃch lũy đi, hãy tÃch lũy đi! Đó chÃnh là Moses và các nhà tiên tri … Cho nên, hãy để dà nh đi, hãy để dà nh đi, nghĩa là hãy biến một phần thật nhiều giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư trở lại thà nh tư bản! 23
Một kết cục tương tự xảy ra nếu một nhà tư bản nâng cấp một cái máy. Người chủ nà o tạo ra được một chiếc máy may tốt hơn có thể đưa ra giá thấp hơn cho sản phẩm của mình. Bởi vì các ông chủ phải ganh đua với nhau nên các đối thủ cạnh tranh phải dà nh dụm những khoảng thặng dư moi được từ lao động và đầu tư và o máy may mới.
“Lòng tham không đáy” của nhà tư bản buộc họ phải bị hủy diệt. Để tránh thua lỗ, các ông chủ cố gắng bóc lột lao động thậm tệ hơn nữa. Bằng cách nà o? Họ sẽ tăng tốc độ là m việc. Và họ sẽ kéo dà i ngà y lao động hơn nữa. Tất nhiên, những chiến thuật nà y chỉ kéo dà i hơn sự chịu đựng của người lao động một cách nguy hiểm.
2. Sự tập trung cao độ quyền lực kinh tế. Khi các nhà tư bản buộc phải mở rộng và phát triển thì cuộc chiến sẽ diễn ra ngà y cà ng ác liệt. Những công ty lớn nhất, những công ty có giá thà nh sản xuất rẻ hơn sẽ chiến thắng. Cuộc chiến đẫm máu “bao giờ cũng chấm dứt bằng sự phá sản của nhiều nhà tư bản nhỏ, tư bản của họ một phần lọt và o tay những kẻ chiến thắng, một phần bị tiêu vong”.24 Những kẻ sống sót sẽ nhanh chóng hạ gục kẻ bại trận.
3. Khủng hoảng và suy thoái sâu sắc. “Những lời nhảm nhà con nÃt ⦠rác rưởi ⦠vô lý bịp bợm.” Marx dùng những từ nà y để mô tả lập luận của Say về tÃnh ổn định của chủ nghĩa tư bản. Khi các nhà tư bản sử dụng máy móc thay thế cho lao động, nạn thất nghiệp tăng lên. Ai mua hà ng hóa khi các ông chủ mở rộng sản xuất? Không ai cả. Hà ng hóa không bán được. Nạn phá sản tăng vọt. Sự hoảng loạn xuất hiện khắp mọi nơi. Các nhà tà i phiệt bán tống bán tháo những cổ phần họ nắm giữ. Đầu tư tụt xuống. Các nhà đầu tư nhảy lầu. Dĩ nhiên, chu kỳ sẽ bắt đầu một chu trình mới sau khi giá cả tụt xuống. Những kẻ sống sót sẽ lại thu gom những doanh nghiệp phá sản và thuê mướn lại những người công nhân tuyệt vọng. Các khoản thặng dư và lợi nhuận xuất hiện trở lại. Nhưng chỉ để suy thoái nhanh hơn và sâu hơn nữa ở lần kế tiếp.
4. Đội quân dự bị công nghiệp. Nhờ sử dụng máy móc thay thế lao động và suy thoái, các nhà tư bản cà ng ngà y cà ng niều người hơn ra đường. “Đội quân” nà y không mang tÃnh chiến đấu hơn Đội quân Cứu tế lúc ban đầu. Chừng nà o mà đội quân nà y còn bình tĩnh thì nó vẫn còn là một nguồn lao động giá rẻ. Sự thừa thãi công nhân giúp các nhà tư bản kiểm soát được tình hình lúc ban đầu.
5. Bần cùng hóa giai cấp vô sản. “Con số những tên trùm tư bản tiếm đoạt và nắm độc quyền tất cả những cái lợi của quá trình chuyển hóa đó ngà y cà ng giảm đi không ngừng ⦠thì nạn nghèo khổ, áp bức, nô dịch, thoái hóa, bóc lột cà ng tăng thêm”25. Ngà y là m việc dà i hơn và Ãt kỳ nghỉ hơn chỉ đem lại sự bần cùng hơn cho những người lao động bị chà đạp. Những tác phẩm trước đó của Marx lập luận rằng mức sống tuyệt đối của họ tụt xuống. Nhưng trong cuốn Tư Bản, được viết khi ông vấp phải những bằng chứng cho thấy mức sống tuyệt đối của công nhân tăng hơn trước thì ông rút lại, thừa nhận rằng những người công nhân chỉ có một phần nhỏ hơn của sự thịnh vượng so với trước.
Cuối cùng, sau nạn thất nghiệp, sa sút lợi nhuận, sự tuyệt vọng vô nhân đạo và sự bần cùng, giai cấp vô sản sẽ nhìn thấy ánh sáng ở cuối đường hầm. Cái mặt nạ của thượng tầng kiến trúc sẽ bị lột bỏ. Con quái vật xấu xa mà người ta gọi là chủ nghĩa tư bản sẽ lộ rõ. Quần chúng bị áp bức sẽ vùng lên: “Giờ tận số của chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa đã điểm. Những kẻ đi tước đoạt bị tước đoạt lại.”26
Giai cấp vô sản sẽ già nh được nhiều thứ hơn là các công xưởng. Họ già nh lại được con người thật của họ. Các nhà tư bản không chỉ cướp đoạt túi tiền của người vô sản. Họ còn cướp đi cả tr tim và khối óc. Đối với Marx, lao động đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Con người bị ép buộc phải tạo nên và nâng cao cuộc sống của mình thông qua tự nhiên và các mối quan hệ với người khác. Nhân cách của con người không thể phát triển nếu không là m việc sáng tạo. Dưới chủ nghĩa tư bản, lao động chỉ là một loại hà ng hóa mà thôi. Con người bị buộc ép buộc phải chấp nhận những công việc thường lệ và tẻ nhạt. Họ trở thà nh những công cụ sống. Họ cảm thấy lạc lõng với chÃnh họ, với thế giới và với người khác. Sự lạc lõng trở thà nh một chủ đề nổi bật của những nhà Marxist và những chỉ trÃch của những người theo thuyết hiện sinh đối với xã hội hiện đại.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Marx và Engels hối thúc những người vô sản nắm lấy nền kinh tế và giải phóng chÃnh mình:
Những người cộng sản coi là điều đáng khinh bỉ nếu giấu giếm những quan điểm và ý định của mình. Họ công khai tuyên bố rằng mục đÃch của họ chỉ có thể đạt được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toà n bộ trật tự xã hội hiện hà nh. Mặc cho các giai cấp thống trị run sợ trước một cuộc Cách mạng cộng sản chủ nghĩa! Trong cuộc cách mạng ấy, những người vô sản chẳng mất gì hết, ngoà i những xiềng xÃch trói buộc họ. Họ sẽ già nh được cả thế giới.
Vô sản tất cả các nước, đoà n kết lại! 27
Gần 20 năm sau sự ra đời của cuốn Tư Bản, những người vô sản mới có thể hậu thuẫn cho những khẩu hiệu súc tÃch của mình bằng những phân tÃch sắc sảo>
Nhưng điều gì xảy ra sau cách mạng? Có phải tất cả mọi người đều vui vẻ và hưởng thụ trong xã hội mới hình thà nh? Có phải tất cả mọi người đều ngồi xung quanh đống lửa trại, tay nắm tay và hát “Cum-Ba-Ya”? Một và i nhà Marxist đương thời có lẽ là m cho người ta nghĩ vậy.
Rõ rà ng là Marx coi khinh chủ nghĩa xã hội không tưởng và cười khinh bỉ sự đơn giản quê mùa của nó. Ã"ng ta là một người vô cảm. Ã"ng khinh bỉ niềm khát khao mong mỏi sự phân phối thu nhập “công bằng” hay sự tái phân phối tà i sản quy mô lớn. Những người công nhân, ngay cả dưới chủ nghĩa xã hội, cũng không được hưởng “đủ giá trị” lao động của mình. Tuy nhiên, khoản thặng dư sẽ tới tay “nhân dân” thông qua những dịch vụ tập thể.
Vậy chủ nghĩa cộng sản thực sự có nghĩa gì? Chúng ta không biết được. Marx đã cố ý né tránh việc để lại “công thức chế biến” cho những “tiệm ăn tương lai”28. Nếu không có công thức cụ thể, chủ nghĩa Marx với tư cách là một hệ thống cai trị trở thà nh một món xúc xÃch của chÃnh trị: một cách thức rẻ tiền để biến hội đồng lãnh đạo trở thà nh công cụ phục vụ cho một nhóm thiểu số.
Marx cho rằng cuối cùng thì nhà nước sẽ “tiêu vong”. Đồng thời nền chuyên chÃnh của giai cấp vô sản sẽ thống trị. Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản bao gồm một kế hoạch mười điểm để thực thi “sự xâm phạm một cách chuyên chế và o quyền sở hữu”:”> 1. Tước đoạt sở hữu ruộng đất và trao nộp địa tô và o quỹ chi tiêu của nhà nước. 2. Ãp dụng thuế lũy tiến cao. 3. Xóa bỏ quyền thừa kế. 4. Tịch thu tà i sản của tất cả những kẻ lưu vong và của tất cả những kẻ phiến loạn. 5. Tập trung tÃn dụng và o tay nhà nước thông qua một ngân hà ng quốc gia với tư bản của nhà nước và ngân hà ng nà y sẽ nắm độc quyền hoà n toà n. 6. Tập trung tất cả các phương tiện vận tải và o trong tay nhà nước. 7. Tăng thêm số công xưởng nhà nước và công cụ sản xuất; khai khẩn đất đai để cầy cấy và cải tạo ruộng đất theo một kế hoạch chung. 8. Thực hà nh nghĩa vụ lao động đối với tất cả mọi người, tổ chức các đạo quân công nghiệp, đặc biệt là cho nông nghiệp. 9. Kết hợp nông nghiệp với công nghiệp, thi hà nh những biện pháp nhằm dần dần xóa bỏ sự khác biệt giữa thà nh thị và nông thôn bằng cách phân bố dân cư một cách đồng đều hơn trong cả nước. 10. Giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả các trẻ em. Xóa bỏ việc sử dụng trẻ em là m trong các công xưởng như hiện nay. Kết hợp giáo dục với sản xuất vật chất, v.v.. 29 Những người Marxist sau nà y sẽ phải tự suy nghĩ xem là m thế nà o để thực hiện được kế hoạch đó. Không quá lạc quan về những phong trà o xã hội chủ nghĩa bị vỡ vụn ở châu Ãu, Marx đã có lần tuyên bố rằng ông không còn là một nhà Marxist nữa. Trong Kinh Thánh, Chúa ngăn cho Moses không và o Miền Đất hứa. Nhưng những người Marxist không giống như những người Israel, không có Joshua dẫn đường khi Marx chết và o năm 1883. Đánh giá Marx Là m thế nà o mà chúng ta có thể phê phán một cách toà n diện những phân tÃch thiên tà i của Marx? Nhiệm vụ nà y thật là đáng sợ. Trong suốt thế kỷ qua, giới trà thức đã viết hà ng triệu trang giấy để ngợi ca, lăng mạ và ba hoa, bốc phét về Marx. Một dà n ý đơn giản để đánh giá Marx là như thế nà y: (1) Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx bẻ cong khái niệm lao động thặng dư như thế nà o? (2) Những điều tiên đoán về sự bần cùng hóa, nạn thất nghiệp và sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản có chÃnh xác không? (3) Ã"ng đóng góp cho kinh tế học hiện đại những gì? (4) Ã"ng đóng góp gì cho chÃnh trị học hiện đại? 1. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx bẻ cong khái niệm lao động thặng dư như thế nà o: Trong tác phẩm Những người khốn khổ của Victor Hugo, Jean Valjean thường xuyên phải đối diện với kẻ báo oán: Thanh tra Javert. Và cuộc đời cứ luôn kéo Javert về đối diện với Valjean. TÃnh biện chứng văn ch một cuộc tranh đấu kịch tÃnh cho mỗi bên. Nếu không có nhân vật kia, cuộc đời sẽ trở nên quá đơn giản đối với họ. Vấn đề trong chủ nghĩa lịch sử của Marx là ở chỗ nhà biện chứng bậc thầy nà y lại bỏ qua sự biện chứng kịch tÃnh nhất: giữa những nguyên nhân ý thức và những nguyên nhân vật chất. Về cơ bản, Marx miêu tả những yếu tố vật chất là nguyên nhân cho mọi sự thay đổi. Chúng thiết lập và thay đổi ý thức hay thượng tầng kiến trúc của xã hội một cách định kỳ. Mặc dù thừa nhận mối quan hệ nà y nhưng Marx lại luôn coi thường những tác động của ý thức. Và sai lầm nà y lan sang hủy hoại lý thuyết kinh tế của ông. Khái niệm về lao động thặng dư là cơ sở cho toà n bộ học thuyết Marx về chủ nghĩa tư bản. Hãy nhớ lại phép tam đoạn luận đơn giản. Tại sao lao động phải bị bóc lột? Bởi vì Marx nắm chặt lấy “học thuyết giá trị lao động” để giải thÃch việc nhà tư bản thu được lợi nhuận. Theo Marx, “không một nguyên tử” giá trị nà o bắt nguồn từ nhà tư bản.30 Không chút đắn đo, Marx cho rằng cô thợ may Jasmine hay người thợ rèn đang đập thình thịch và o cái đe mới tạo ra giá trị. Marx đã quên mất điều gì? Ã"ng không để ý tới khả năng sáng tạo và tà i kinh doanh. Để tạo ra của cải đòi hỏi phải có những thứ hơn cả nguyên liệu hữu hình. Việc chế tạo ra các đầu máy video (VCR) không cần những loại vật liệu thô mới hay những phương thức bóc lột lao động tà n nhẫn hơn. Ngà nh công nghiệp video đòi hỏi hai điều: phát minh và bản lĩnh kinh doanh – sẵn sà ng chấp nhận rủi ro trong đầu tư. Tại sao người Nga sống dưới chế độ cộng sản lại phải những chiếc quần bò vải bông chéo do người Mỹ là m ra? Không phải vì Liên Xô thiếu bông hay thiếu công nhân để sản xuất quần áo chất lượng cao, mà bởi vì họ thiếu năng lực sáng tạo, động cơ là m việc và kỷ luật. ChÃnh những cái vô hình nà y phân biệt những công ty và quốc gia thà nh công với số còn lại. Chủ nghĩa duy vật của Marx không may lại là m ông phớt lờ tất cả các loại vốn, như vốn nhân lực tức là tri thức, tà i khéo léo hay kỹ năng quản lý đều rất quan trọng đối với lợi nhuận. Là m thế nà o mà học thuyết giá trị lao động có thể giải thÃch được những giây phút lóe sáng hay sự sáng suốt như và dụ dưới đây? Và i năm trước, khi một người bước qua một khu rừng, một bông gai nhỏ bắt chặt lên chiếc tất len của anh ta. Tà i khoản ngân hà ng của anh ta giờ đây đầy ắp tiền. Anh ta phát minh ra khóa dán Velcro. Liệu tất cả lợi nhuận của anh ta có được là do đánh cắp của công nhân? Trong chương sau, chúng ta sẽ thấy Alfred Marshall tấn công Marx vì đã bỏ qua giá trị của việc chấp nhận rủi ro và “chờ đợi” đối với xã hội. Bằng cách đầu tư, nhà tư bản từ bỏ sự thỏa mãn tức thời của việc mua hà ng hóa. Những khoản kiếm được nhờ đầu tư trả cho sự chờ đợi và trì hoãn thỏa mãn của anh ta. Nếu mọi người đều tiêu thụ tất cả mọi thứ bây giờ, xã hội sẽ chẳng tạo ra được cái gì mới. Do vậy, lợi nhuận đóng một vai trò cốt yếu và hoà n toà n hợp lý. (Thật tình cờ, cuộc “cách mạng” của những người theo phái cận biên mà Marshall là người đi đầu, chứng minh rằng giá trị bắt nguồn từ cầu, cũng như từ sản xuất hay cung. Và o thời điểm tập II của Tản xuất bản sau khi tác giả đã chết, những người theo phái cận biên đã tấn công dữ dội cách tiếp cận trọng cung của Marx và những nhà kinh điển) Bằng việc thừa nhận học thuyết giá trị lao động, Marx coi thường quá nhiều yếu tố động và yếu tố ý thức. Ricardo không mắc phải sai lầm nà y, bởi vì ông nhìn nhận học thuyết giá trị lao động chỉ là một công cụ tÃnh toán tiệm cận thôi, chứ không phải là nguyên nhân quyết định giá trị. Khi Marx cố chứng minh lý thuyết bằng toán học, ông rơi và o một đống bông gai. Thật ngạc nhiên là ông lại không khám phá ra khóa dán Velcro hồi thế kỷ XIX. 2. Những điều tiên đoán về sự bần cùng hóa, nạn thất nghiệp và sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản có chÃnh xác không? Marx không có ý định đưa ra lời tiên đoán. Ã"ng nhằm và o sự tiên đoán khoa học, dự báo tiến trình lịch sử dựa trên những khuynh hướng có thể nhận biết được. Nhưng khi lịch sử đi chệch khỏi những dự báo của ông, thì những hậu duệ của ông sau khi ông chết đã tạo ra một thứ giả-tôn giáo từ những công trình của ông. Thật vậy, những “quy luật” của ông tuân theo lịch sử. Sau khi mô hình hóa những quy luật, những học trò của ông có thể công bố tÃnh chÃnh xác của những điều tiên đoán. Mặc dù có xuất phát điểm là khoa học vô thần, chủ nghĩa Marx trong thế kỷ XX lại giống như một cửa sổ kÃnh mà u cho ánh sáng Mặt trời đi qua nó một cách chọn lọc và hiếm khi thừa nhận sai lầm. Một khi những quy luật trở thà nh kinh sách tôn giáo, thì những nỗ lực nhằm kiểm chứng tÃnh khoa học của chủ nghĩa Marx đều thất bại. Marx sống đ để trông thấy một và i người ủng hộ mình tung hô và tán tụng những quy luật của ông, dựng lên những bục giảng đạo và ban phát bánh thánh. Nhà chủ trương học thuyết vô chÃnh phủ Proudhon đã cảnh báo Marx đừng có tạo ra một cuốn giáo lý vấn đáp: Vì sự nghiệp của Chúa, sau khi chúng ta bãi bỏ tất cả chủ nghĩa giáo điều suy diễn, chúng ta hãy chấm dứt tiêm nhiễm một loại giáo điều khác và o đầu dân chúng vì bất kỳ lý do gì đi nữa⦠Chúng ta hãy luận chiến với nhau một cách lịch sự và chân thà nh ⦠Vì chúng là người đi đầu của phong trà o, chúng ta hãy đừng biến mình trở thà nh lãnh tụ của sự tin tưởng mù quáng mới, chúng ta đừng thể hiện như là tông đồ của một tôn giáo mới ‐ ngay cả khi tôn giáo nà y là tôn giáo của logic, tôn giáo của lý trÃ.31 Ngay cả khi chúng ta không thể bác bỏ được những dự đoán của Marx, chúng ta vẫn có thể quan sát một số phát triển trong các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa kể từ thời đại của ông. Thứ nhất, mức sống của công nhân đã được nâng lên rất đáng kể trong suốt 100 năm qua. Tỉ lệ người sở hữu nhà và ôtô tăng lên cực kỳ nhanh. Theo định nghĩa về sự nghèo đói hiện nay, giai cấp tư sản mới nổi ở thời của Marx đã bị nghèo đi và bị “bần cùng hóa” theo thuật ngữ của Marx. Và nếu chiểu theo định nghĩa ở thời của Marx, thì giai cấp công nhân ngà y nay là già u có một cách phô trương. Không ai có thể bác bỏ sự tăng lên trong mức sống “tuyệt đối” của người công nhân. Tuy tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã cảnh báo trước những người công nhân rằng “người công nhân hiện đạiâ đã không vươn lên được cùng sự tiến bộ của công nghiệp mà còn luôn luôn rơi xuống thấp hơn, dưới cả những điều kiện sinh sống của chÃnh giai cấp họ. Người lao động trở thà nh một người nghèo khổ”. Nhưng Marx sớm nhận ra rằng và tiền của công nhân đã trở nên dà y hơn. Ã"ng thậm chà cũng phải thừa nhận rằng mười năm sau khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, tiền lương của công nhân đã tăng lên 40%.32 Vì lý do nà y nên Marx đã sửa đổi những định nghĩa và cảnh báo rằng công nhân sẽ trở nên ngà y cà ng nghèo hơn so với nhà tư bản. Cảnh khải huyền của người lao động cứ mờ nhạt dần đi: Người già u sẽ già u hơn và người nghèo cũng trở nên già u hơn. Nhưng người già u sẽ già u nhanh hơn.33 Marx ép định nghĩa mới và o cuốn Tư Bản bằng cách tuyên bố rằng “sự tồn tại” là một thuật ngữ tương đối, tùy thuộc và o lối sống đương thời. Có lẽ là trong thế kỷ XX, sự sinh tồn tối thiểu cần có máy truyền hình mà u vì những người “nô lệ ăn lương” trung bình trong lĩnh vực chế tạo đều có thể mua được. Bằng cách lùi và o lập luận mang tÃnh chất tương đối như vậy, Marx từ bỏ sự giận dữ và cảm giác tuyệt vọng về cảnh ngộ của người công nhân. Chừng nà o mà người nghèo vẫn trở nên già u có hơn, thì viễn cảnh đó thậm chà còn vượt qua được phép kiểm định công bằng xã hội của nhà triết học John Rawls (cho phép người già u kiếm được chỉ khi nà o người nghèo cũng có lợi).34 Cho nên những người Marxist hiện đại nhấn mạnh đến tâm lý khổ sở và sự lạc lõng. Họ có lẽ đúng; những người công nhân vẫn thường cảm thấy buồn chán và phẫn nộ. Nhưng Marx không nói với chúng ta về cách thức mà chủ nghĩa xã hội là m cho việc nhặt rác trở nên thú vị. Nếu những người lao động hạnh phúc là m việc tốt hơn thì Ãt nhất dưới chủ nghĩa tư bản, những người chủ cũng có động cơ thuyết phục để là m hà i lòng nhân viên của mình. Hơn nữa, là m thế nà o để chúng ta có thể định nghĩa được hạnh phúc của những người lao động? Nếu tiền lương chỉ là tương đối, tại sao đó không phải là hạnh phúc? Liệu chúng ta có phải đưa ra câu hỏi tuyệt đối: Những người công nhân hiện tại có hạnh phúc hơn những người công nhân 100 năm trước không? Hay chúng ta phải đặt ra câu hỏi tương đối: Mức độ gia tăng hạnh phúc của họ có nhanh hơn mức gia tăng hạnh phúc của các nhà tư bản không? Hãy xem xét điều nà y: Người già u trở nên hạnh phúc hơn, và người nghèo cũng trở nên hạnh phúc hơn. Nhưng người già u trở nên hạnh phúc hơn nhanh hơn. Một khi chúng ta bắt đầu diễn giải sự hạnh phúc sao cho chúng ta có thể kiểm định được âtÃnh khoa họcâ của chủ nghĩa Marx, thì đó là một ngà y đáng buồn cho những người Marxist cũng như những người không phải là Marxist. Marx cũng tiên đoán sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản, một hệ thống tự tạo ra những “người đà o mồ chôn” chÃnh mình. Nhưng chủ nghĩa tư bản lại có vẻ chưa chết. Nạn thất nghiệp có cao hơn một chút so với hồi đầu những năm 1900. Nhưng nếu chúng ta xét đến tỷ lệ phần trăm dân số lao động và đặc biệt sự gia nhập của phụ nữ và o lực lượng lao động thì tỷ lệ có việc là m lại cao hơn. Hơn thế nữa, chủ nghĩa tư bản thường sản sinh ra tầng lớp trung lưu gián tiếp sở hữu một số phương tiện sản xuất thông qua thị trường chứng khoán. Trong những năm cuối của thập niên 1980, hà ng triệu người Anh thuộc tầng lớp trung lưu dưới mua cổ phiếu của những công ty được “cổ phần hóa” như British Telecom, British Steel và British Airways. Hầu hết các quỹ hưu trà nghiệp đoà n ở Mỹ đều đầu tư nhiều và o cổ phiếu các tập đoà n. Một số người bảo vệ Marx chỉ ra sự gia tăng vai trò của chÃnh phủ trong các quốc gia tư bản chủ nghĩa như là vị cứu tinh bất ngờ của chủ nghĩa tư bản. Các khoản chi tiêu phúc lợi xã hội bảo vệ các nhà tư bản khỏi suy thoái sâu hơn và cách mạng. Những người bảo vệ Marx có lẽ đúng. Nhưng hãy nhớ rằng, Marx tiên đoán rằng hệ thống chÃnh trị và thượng tầng kiến trúc sẽ giữ bất động, chống lại sự thay đổi. Sự cứng nhắc sẽ phá hủy nó. Nếu xét về quá khứ, thượng tầng kiến trúc đã nhượng bộ để cứu chủ nghĩa tư bản, thì Marx tiếp tục sai thêm một lần nữa. Cuối cùng, những người Marxist giải thÃch sự thà nh công ngạc nhiên của chủ nghĩa tư bản bằng cách viện dẫn những quốc gia bên ngoà i. Họ nói rằng các nhà tư bản bắt đầu bóc lột những những công nhân nước ngoà i ở những nước kém phát triển hơn và những người công nhân bị bóc lột ở nước ngoà i nà y đã chống đỡ cho nền kinh tế trong nước. Một lần nữa, ngay cả khi lập luận nà y có giá trị, thì nó cũng đưa chúng ta chệch xa khỏi sự phân tÃch của Marx về sự hủy hoại biện chứng nằm trong lòng chủ nghĩa tư bản. Nói tóm lại, Marx đã nghĩ hệ thống khoa học trong tác phẩm Tư Bản. Ã"ng tự tin tiên đoán quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản. Với lối diễn giải phóng khoáng và láu cá, có lẽ thỉnh thoảng ông mới đúng. Nhưng có một điều chắc chắn là Marx rất khinh thường những người mộ đạo đầy cảm tÃnh. Ã"ng sẽ giận dữ bác bỏ những nỗ lực già nh chiến thắng trong lập luận bằng lòng khoan dung của trà tuệ. 3. Marx đóng góp cho kinh tế học hiện đại những gì? Khi mỉa mai tÃnh thiết thực của một lý thuyết nà o đó của đồng nghiệp, nhà kinh tế học Joan Robinson thường nói: “Hãy tưởng tượng một con chó chạy qua cánh đồng đuổi bắt một con cáo. Con chó đi theo mùi của con cáo. Lý thuyết của đồng nghiệp tôi là con bọ chét trên lưng con chó đó.” Đối với hầu hết các nhà kinh tế chÃnh thống ở Mỹ và Anh, các lý thuyết kinh tế của Marx là những con bọ chét đó. Trong phạm vi lý thuyết kinh tế chÃnh thống, sự thách thức của Marx chỉ là thùng rỗng kêu to. Paul Samuelson mô tả học thuyết giá trị lao động là sự ngụy biện siêu hình hay sự ngụy biện định nghĩa. Trong cuộc Đại Suy thoái, George Bernard Shaw đã cố thuyết phục John Maynard Keynes về những ưu điểm của Marx. Keynes đã phủ định lại: Cảm nghĩ của tôi về cuốn Tư Bản cũng giống như cảm nghĩ của tôi về kinh Koran. Tôi biết rằng nó quan trọng về mặt lịch sử. Và tôi biết có nhiều người, mặc dù không phải là dốt nát nhưng lại coi là Hòn đá tảng của mọi Thời đại và chứa nhiều nguồn cảm hứng. Tuy nhiên khi tôi xem kỹ nó, tôi cảm thấy không thể giải thÃch được là tại sao nó lại có được những tác động như vậy. Cách bút chiến khoa học lỗi thời và tồi tà n của nó dường như hoà n toà n không phù hợp với mục đÃch nà y. Nhưng như tôi đã nói, tôi chỉ cảm thấy nó giống hệt với kinh Koran thôi. Là m thế nà o mà hai cuốn sách nà y lại có thể đem cảnh nước sôi lửa bỏng đến một nửa thế giới? Tôi không thể hiểu nổi. Rõ rà ng có nhược điểm gì đó trong sự hiểu biết của tôi. Ngà i có tin và o cuốn Tư Bản cũng như kinh Koran không? Hay chỉ có cuốn Tư Bản thôi? Cho dù có bất cứ giá trị nà o về xã hội học gần đây của cuốn Tư Bản, tôi dám chắc rằng giá trị kinh tế đương thời của nó (ngoà i một và i điểm lóe sáng nhưng không liên tục và không có tÃnh xây dựng ra) là bằng không. Ngà i hứa sẽ đọc lại nó một lần nữa chứ, nếu tôi cũng là m vậy? Shaw đọc lại. Keynes đọc lại. Keynes có nhìn thấy ánh sáng hay Thánh địa Mecca không? Ã"ng không thấy gì: ʺTôi ưa thÃch Engels hơn cả. Tôi có thể thấy rằng họ đã tạo ra một phương pháp tiến hà nh nà o đó và một lối viết rất rẻ tiền. Còn những người kế tục họ đã duy trì lòng trung thà nh đối với họ. Nhưng nếu ngà i bảo tôi rằng họ đã phát hiện ra một đầu mối của một bà ẩn kinh tế nà o đó, thì tôi xin đầu hà ng ʺ.35 Kể từ khi Keynes thiên tà i như vậy đầu hà ng thì hầu hết các nhà kinh tế học hiện đại đã từ bỏ các cuộc luận chiến và ngừng nghiên cứu Marx. Theo Frank Hahn, một nhà phê bình xuất sắc chủ nghĩa tư bản tự do kinh tế thì: “Hầu hết những người Marxist chưa bao giờ đọc Marx cả. Thế nên, bạn không thể trách họ.” Tuy vậy, Marx vẫn còn núp đằng sau những lập luận của hà ng nghìn nhà kinh tế học cấp tiến xuất bản Tạp chà Kinh tế ChÃnh trị cấp tiến. Họ có một tiếng nói mạnh mẽ ở Đại học Massachusetts ở Amherst. Từ nguyên của từ “cấp tiến” (radical) là từ “radic” tức là gốc rễ, giống với (radish) củ cải vậy. Y như Marx, các nhà kinh tế học cấp tiến tin rằng cái gốc của lý thuyết kinh tế học hiện đại bị mục nát trong sự phân tÃch của nó về chủ nghĩa tư bản. Dù sao những người cấp tiến không muốn chịu trách nhiệm cho tất cả những câu mà Marx thốt ra hoặc mọi lời tiên đoán mà ông ta công bố. Một và i người cấp tiến vẫn còn ôm lấy học thuyết giá trị lao động của Marx. Tuy nhiên, tất cả bọn họ đều nhấn mạnh đến vấn đề kiểm soát trong chủ nghĩa tư bản. Các ông chủ tìm mọi cách “chia để trị”, và duy trì sự kiểm soát ở nơi là m việc và trong phòng bỏ phiếu. Nhà Marxist người Ba Lan Michal Kalecki đã lập luận rằng hồi những năm 1940, chÃnh phủ cố ý tạo ra những đợt lạm phát và suy thoái để bóp chết cầu của công nhân. Nhà cấp tiến hiện đại Stephen Marglin thì cho rằng các doanh nghiệp thường hoan nghênh những cuộc suy thoái. Nếu Marglin đúng thì đang có rất nhiều người hoạt động theo “ý thức sai lầm” của Marx. Chúng ta hãy xem xét bà i viết của Marglin về cuộc bầu cử tổng thống năm 1980: Ronald Reagan hứa hẹn tỉ lệ lạm phát thấp hơn mà không có suy thoái. Thật là ngốc nghếch, ông ta nghĩ rằng các ông chủ không thÃch suy thoái. Nhưng các ông chủ lại bầu cho Reagan. Tại sao vậy? Họ biết là ông ta sẽ thất bại và vô tình gây ra suy thoái. Đúng là ông ta đã thất bại và theo như luận thuyết của Marglin thì các ông chủ rất vui sướng khi nhìn thấy giá cổ phiếu của họ giảm xuống.36> Các nhà cấp tiến hiện đại tiến hà nh nhiều cuộc chiến – chống lại những mô hình của những nhà kinh tế đồng nghiệp của họ, chống lại chÃnh phủ, chống lại các nhà tư bản, và đôi khi chống lại chÃnh ký ức của thà y họ, Karl Marx. Cho đến nay người ta khó lòng mà đếm được những lần chiến thắng của họ. 4. Marx đóng góp gì cho chÃnh trị học hiện đại? Tiếng than khóc to nhất trong bất kỳ một cuộc tranh luận nà o về chủ nghĩa cộng sản ngà y nay đều xuất phát từ những người Marxist, những người chỉ trÃch gắt gao nền chÃnh trị Liên Xô cũ và những nước đồng minh của nó. Họ hét to lên rằng đây không phải là chủ nghĩa cộng sản của Marx. Tất nhiên là họ đúng. Ngay từ đầu, Marx chỉ giới hạn chủ nghĩa cộng sản ở những nước đã được công nghiệp hóa (mặc dù trong những năm cuối đời, ông cẩn thận xem xét một cuộc cách mạng có thể xảy ra ở nước Nga). Stalin có một nhiệm vụ khó khăn là tăng tốc, đưa nước Nga nông nghiệp tiến và o kỷ nguyên công nghiệp. Dựa và o điểm (1) và (9) trong bản kế hoạch của tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Stalin đã buộc nông dân phải gia nhập các nông trang tập thể và nhà nước. Và o mùa đông những năm 1932-1933, ông cố tình gây ra nạn đói là m chết hà ng triệu người để bẻ gãy sự kháng cự của họ, đặc biệt là ở Ukraina.37 Trước Stalin, Lenin đã gặp phải những rắc rối chÃnh trị tương tự khi định hình lại tư duy của người Nga. Trong thời kỳ ông cầm quyền, nền chuyên chÃnh vô sản là nền chuyên chÃnh của Đảng – một chế độ độc tà i sẽ không nhanh chóng tự tiêu vong đ Đến cuối thập niên 1980, Mikhail Gorbachev cố gắng cứu chữa một nền kinh tế bị xơ cứng. Như những người bảo vệ nó thường nói, nền kinh tế của họ bị quặt què trong suốt 70 năm xấu trời. Và o thời điểm đó Gorbachev dường như đã sẵn sà ng vứt bỏ Marx và chấp nhận một và i cơ chế thị trường tự do, kể cả việc cho thuê dà i hạn đất đai nông trang và các phân xưởng sản xuất nhằm kiếm lợi nhuận và tạo ra những hợp tác xã tư nhân. Mặc dù vậy, Gorbachev lại không thể duy trì được tình thế khi những lực lượng thị trường là m bỏng những bà y tay cộng sản đã quen nắm chặt nền kinh tế. Có thể nói rằng chiếc máy fax đóng một vai trò to lớn trong việc kết thúc Chiến tranh Lạnh giống như một công nghệ quân sự, bằng cách cho phép các tổ chức dân chủ có thể truyền bá những thông điệp của mình. Tổng thống Nga Boris Yeltsin đã vật lộn để thúc đẩy nền kinh tế Nga tiến lên, nhưng lại bị cản trở bởi tham nhũng, thế lực mafia mới nổi lên và dân số già cỗi cảm thấy có quá Ãt lợi thế cho họ trong một nền kinh tế mới. Đối với những người hưu trÃ, chủ nghĩa cộng sản đảm bảo cho họ một số tiền – một số tiền không đáng kể nhưng Ãt nhất là một khẩu phần chắc chắn. Chủ nghĩa tư bản chẳng bảo đảm cho họ cái gì ngoà i sự hỗn loạn. Trái lại, những người Nga trẻ tuổi đã chớp lấy cơ hội xây dựng nên những doanh nghiệp mới để đi lại tự do và cố gắng bắt ta! y và o kinh doanh. Đây là một sự phân hóa xã hội nguy hiểm gần như không thể hà n gắn được. Một sự phân ly còn sâu sắc hơn cả sự bất hòa giữa “nhà tư bản và công nhân” mà Marx và Lenin đã lợi dụng. Tháng Bảy năm 1998, Yeltsin tham gia nghi lễ an táng dà nh cho Nga hoà ng Nicholas và gia đình ông ta ở St. Petersburg; những người mà hà i cốt của họ đã bị thiêu đốt và để mặc trong quên lãng hà ng thập kỷ. Yeltsin lên án hà nh động giết Nga hoà ng một cách man rợ của những người Leninist, hy vọng tìm ra một vấn đề mà những người già và trẻ có thể đồng ý với nhau Người Trung Quốc tôn thờ Marx sau cuộc cách mạng năm 1949 của họ. Ngay sau đó họ trở thà nh người đa thần giáo bằng cách đặt Mao Trạch Đông lên cùng bà n thờ. Nhưng đến cuối những năm 1970, dưới thời Đặng Tiểu Bình, người Trung Quốc bắt đầu nhanh chóng chuyển hướng sang tự do kinh doanh trong nhiều khu vực kinh tế. Điều nà y thực sự là sự quở trách Marx và chửi rủa Mao. Đặng, người đã bị Mao tống và o tù hồi Cách mạng Văn hóa đẫm máu trong những năm 1960, là một người thực dụng. Ã"ng phát biểu rằng “mèo trắng hay mèo đen không thà nh vấn đề miễn là bắt được chuột”.38 Ã"ng cho phép các chủ hiệu được giữ lại lợi nhuận và nông dân được tự do bán lương thực của mình. Họ gọi xu hướng nà y là gì? Họ đã chuyển chữ thuật ngữ “thị trường tự do”. Hà ng triệu người Trung Quốc tưởng rằng “thị trường tự do” là một thuật ngữ gốc Trung Quốc. Tuy nhiên, sau khoảng mười năm tự do hóa, những lực lượng bảo thủ khẳng định lại vị thế của họ và o năm 1987 (mặc dù họ không chấm dứt việc kinh doanh của nhà hà ng Gà Rán Kentucky – KFC nằm ở phÃa đối diện của lăng Mao Trạch Đông). Mặc dù vậy, sự thụt lùi chỉ là tạm thời. Sau khi Đặng chết, thủ tướng mới Chu Dung Cơ và chủ tịch Giang Trạch Dân cam kết thúc đẩy hơn nữa kinh tế tư nhân và cắt giảm phạm vi hoạt động của các công ty đại chúng. Năm 1998, Giang thậm chà còn nắm cả quÃ�! �n đội. Những ngón tay của ông ta có thể sờ đến tất cả các khu vực kinh doanh từ khách sạn, các nhà máy sản xuất tủ lạnh, đến các quầy bar karaoke. Các doanh nhân Trung Quốc đã len lỏi và o nền kinh tế thế giới. Hầu hết đồ chơi tại các cửa hà ng đồ chơi Toys “R” Us ở địa phương nơi bạn ở đều được chế tạo tại Trung Quốc. Trong khi đó, ngà y cà ng nhiều người Trung Quốc gội đầu bằng dầu gội đầu Procter & Gamble hơn bất kỳ nhãn hiệu nà o! Điều kỳ quặc trong sự thà nh công của Chu và Giang là trong khi thúc đẩy hơn nữa tự do kinh doanh, họ vẫn duy trì quyền lự Đảng Cộng sản để dọa dẫm. Mặc dù vẫn còn một số hồ nghi nhưng đó không còn là Đảng Cộng sản của cha ông họ nữa. Liên Xô và Trung Quốc là những quốc gia cuối cùng trong số các quốc gia cộng sản lớn nhất tuyên bố trung thà nh với chủ nghĩa Marx. Khi Bức Mà n Sắt tan chảy dọc theo đường biên giới của Ba Lan, Đông Đức, Tiệp Khắc, Hungary và Rumani, ngà y cà ng có nhiều công nhân già nh được tự do để đoà n kết; chống lại những tư tưởng của Marx. Cho tới nay, không còn một nước nà o tuân theo chủ nghĩa Marx đúng như trong mường tượng của những người ngưỡng mộ ông ta nữa. Ngay cả khu định cư của Israel dường như cũng đang chuyển đổi từ những dự án xã hội chủ nghĩa thà nh những dự án tư bản chủ nghĩa. Có lẽ sẽ không còn nước nà o thực hiện giấc mơ của Marx nữa. Giấc mơ hứa hẹn hơn cả thế giới thực tại, một thế giới đầy rẫy sự khan hiếm, sự Ãch kỷ và xấu xa. Đó là một giấc mơ giống kiểu một thiên đà ng đã bị mất, phù hợp hơn đối với những thiên thần hơn là với những người vô sản. Thật không may, lòng mong mỏi khát khao trở nên mạnh mẽ tới mức những người tốt đã bị mê hoặc. Họ ủng hộ những chế độ đồi bại chuyên giảng đạo, nhưng lại không thực hiện giáo lý của chủ nghĩa Marx. George Bernard Shaw đã bắt tay Stalin và quan sát sự đà n áp của chế độ Xô viết trong một thời gian dà i trước khi ông tỉnh ngộ. Đối với nhân loại ngà y nay, Marx nhắc nhở chúng ta rằng thay đổi về kinh tế có thể gây ra đau đớn, rằng quyền lực có thể chuyển thà nh sự áp bức và bộ phận dân cư tầng lớp dưới phải được bảo v sự bóc lột. Những chế độ cộng sản đã cho thấy những cảnh báo trên là hoà n toà n chÃnh xác. Những người ngưỡng mộ Marx tán dương Marx thời trẻ và Marx Ãt khoa học hơn. Không phải là một nhà kinh tế lý thuyết có sức thuyết phục hay một nhà lãnh đạo chÃnh trị uy tÃn, Marx trở thà nh một tiếng nói hiện thời cho sự công bằng xã hội mang tÃnh nhân văn. Ã"ng trở nên giống như Tom Joad trong tác phẩm Chùm nho uất hận của John Steinbeck: Bao giờ con cũng có mặt trong bóng tối, khắp nơi. Khắp nơi nà o mẹ nhìn. Khắp nơi nà o mà có một cuộc đánh lộn để con người đói khát có thể già nh giật nhau miếng ăn, nơi đó sẽ có con. Khắp nơi nà o có một tên cảnh sát đang đánh đập một con người, sẽ có con.⦠nơi nà o có tiếng kêu thét của những người đang nổi giận vì họ đói khát, con sẽ ở đấy ⦠Và khi nà o những người cùng cảnh với chúng ta đang ngồi trước bà n ăn có đủ những thứ họ trồng trọt và gặt hái khi nà o họ ăn ở trong những ngôi nhà mà họ xây dựng ở đây, sẽ có con. Mẹ hiểu không, mẹ? 39 Đặt sự lạm dụng và tà n bạo dưới cái tên của Marx, đây có lẽ là chỗ tốt nhất dà nh cho ông ta.
Ghi chú
Chương VI
Karl Marx â" nhà tiên tri giận dữ
1. David McLellan, Karl Marx: His Life and Thought (New York: Harper & Row, 1973), tr.4. Xem Karl Marx, âOn the Jewish Questionâ, trong The Marx-Engels Reader (New York: W. W. Norton, 1978) do Robert C. Tucker biên soạn, tr.26-52; Gertrude Himmelfarb, âThe Real Marxâ, trong Commentary (tháng Tư năm 1985), tr.37-43 và âLettersâ (tháng Tám năm 1985).
2. McLellan, tr.6-7.
3. Sđd, tr.33.
4. Robert Payne, Karl Marx (New York: Simon and Schuster, 1968), tr.77.
5. McLellan, tr.53.
6. Saul K. Padover, Karl Marx: An Intimate Biography (New York: McGraw-Hill, 1978), tr. 179.
7. McLellan, tr.99
8. Karl Marx và Friedrich Engels, Collected Works (New York: International Publishers, 1982), tập 38, tr.115.
9. Karl Marx, âIntroduction to A Critique of Hegel’s Philosophy of Rightâ, trong K. Marx, The Early Texts, D. McLellan biên soạn (Oxford: Oxford University Press, 1971), tr.116.
10. Karl Marx, The German Ideology, do Tucker biên soạn, tr.155-56.
11. Karl Marx, A Contribution to the Critique of Political Economy, N. I. Stone dịch (Chicago: Charles Kerr, 1904), Lời tựa.
12. Karl Marx, The Eighteenth Brumaire of Louis Bonaparte, do Tucker biên soạn, tr.595.
13. Karl Marx và Friedrich Engels, The Communist Manifesto, Samuel Beer biên soạn. (Arlington Heights: Harlan Davidson, 1955), tr.9.
14. Marx, A Contribution to the Critique of Political Economy, lời tựa.
15. Karl Marx, Capital, tập 1 (Chicago: Charles Kerr, 1906), tr.13.
16. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.13-14.
17. Sđd.
18. McLellan, tr.98.
19. Sandover, tr.291-293.
20. Payne, tr.295.
21. McLellan, tr.264, 357.
22. Sđd, tr.284.
23. Karl Marx, Capital, tập 1, tr.649, 652 align=”justify”>24. Sđd, tr.687.
25. Sđd, tr.836.
26. Sđd, tr.837.
27. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.46.
28. Marx, Capital, tập 1, tr.21.
29. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.31-32.
30. Marx, Capital, tập 1, tr.637.
31. Payne, tr.143.
32. Marx và Engels, The Communist Manifesto, tr.22; Thomas Sowell, Marxism: Philosophy and Economics (New York: William Morrow, 1985), tr.138.
33. Vấn đề nghèo khổ tương đối là rất khó đánh giá. Thứ nhất, bởi vì có một khoảng cách về thu nhập giữa người già u và người nghèo, thậm chà ngay cả khi người nghèo kiếm được thu nhập với tốc độ nhanh hơn, thì chênh lệch tuyệt đối về đồng đô la vẫn có thể tăng lên. Hãy so sánh một người là A khởi đầu với 10.000 đô la và kiếm thêm được 10% mỗi năm với người B khởi nghiệp với 100.000 đô la và chỉ kiếm được thêm 5% mỗi năm. Trong khoảng bảy năm, A kiếm được khoảng 20.000 đô la, trong B kiếm được hơn 140.000 đô la. Thứ hai, ở nước Mỹ, trải qua mỗi thế hệ lại có sự dao động lên xuống đáng kể. Một nghiên cứu quan trọng cho thấy rằng khoảng một phần ba số con cái có cha mẹ là những người già u có trong nước nhận được thu nhập dưới mức trung bình của quốc gia. Hơn thế nữa, khoảng một phần ba số con cái có cha mẹ là những người nghèo nhất lại vươn lên và vượt mức trung bình của quốc gia. Xem Christopher Jencks và cộng sự, Inequality: A Reassessment of the Effect of Family and Schooling in America (New York: Basic Books, 1972), tr.209-216. Để tham khảo cách tiận quốc tế đối với sự dao động, hãy xem W. W. Rostow, Why the Poor Get Richer and the Rich Slow Down (Austin: University of Texas Press, 1980). Chúng ta có thể tự tin mà nói rằng trong phần lớn thế kỷ XX, tất cả mọi tầng lớp xã hội ở Mỹ đều đạt được sự tiến bộ tuyệt đối. Mặc dù vậy, trong thời kỳ lạm phát đình đốn từ n! ăm 1974 đến năm 1982, tất cả các tầng lớp xã hội đều bị suy giảm thu nhập. Người nghèo đặc biệt phải chịu đựng cả những gánh nặng kinh tế lẫn tâm lý khi số các hộ gia đình mà phụ nữ là m chủ hộ tăng vọt lên khoảng 40%. Trong thời kỳ giữa và cuối thập kỷ 1980, nước Mỹ lại đạt được và vượt mức bình ổn của năm 1973.
34. John Rawls, A Theory of Justice (Cambridge: Harvard University Press, 1971).
35. John Maynard Keynes, The Collected Writings of John Maynard Keynes, tập 28 (London and New York: Macmillan/St. Martin’s Press, 1973), tr.38, 42.
36. Xem Stephen A. Marglin, âRadical Macroeconomicsâ (Cambridge: Harvard Institute of Economics Research, 1982), Discussion Paper số 902, tr.1-26.
37. Xem Robert Conquest, The Harvest of Sorrow (New York: Oxford University Press, 1987).
38. David S. G. Goodman, Deng Xiaoping and the Chinese Revolution: A Political Biography (London: Routledge, 1994), tr.3.
39. John Steinbeck, The Grapes of Wrath (New York: Penguin Books, 1986), tr.537.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét