Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

QDGDTHAM-TAP2-3

QDGDTHAM-TAP2-3


Phần thứ hai

Quyết định giám đốc thẩm
về hành chính


Quyết định số 01/2003/H§TP-HC
Ngày 26-02-2003 Về vụ án Tranh chấp
hành chính về thu hồi đất giữa ông
Kiều Tiến Vĩnh và Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà

Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

………

Tại phiên toà ngày 26-02-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án hành chính có các đương sự:

- Người khởi kiện: Ậng Kiều Tiến Vĩnh, trú tại số 61 Nguyễn Thiện Thuật, phường Lộc Thọ, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà;

- Người bị kiện: Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà

Nhận thấy:

Diện tích đất tại số 61 Nguyễn Thiện Thuật, phường Lộc Thọ (trước đây là lô đất số 117 đường Lê Văn Duyệt), thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà có nguồn gốc do ông Nguyễn Xuân Trường chiếm đất công. Ngày 20-11-1959, ông Trường được Tỉnh trưởng tỉnh Khánh Hoà (chế độ cũ) cấp Giấy phép tạm chiếm đất công số 11.777-HC/§C với diện tích 977m2 và ngày 07-01-1960, Tỉnh trưởng tỉnh Khánh Hoà (chế độ cũ) cấp Giấy phép  cất nhà số 169-HC/§C cho phép ông Nguyễn Xuân Trường cất một ngôi nhà trên lô đất nói trên.

Ngày 11-01-1975 Tỉnh trưởng tỉnh Khánh Hoà (chế độ cũ)  cấp Giấy phép số 0222/TXNT/§§ cho phép ông Nguyễn Xuân Trường và vợ là Trương Thị Kim Hoàn được bán ngôi nhà trệt diện tích là 27m2 làm trên lô đất công số 117 (cũ) khu Lê Văn Duyệt (nay là số 61 Nguyễn Thiện Thuật, Nha Trang), diện tích lô đất (ước độ) là 977m2 cho Toà giám mục công giáo địa phận Nha Trang (do Linh mục Hồ Ngọc Hạnh đại diện đứng tên mua). Ngày 28-02-1975 Ty điền địa tỉnh Khánh Hoà (chế độ cũ) đã chấp nhận về mặt kỹ thuật Biên bản cắm ranh và phân chiết lô đất cho ông Hồ Ngọc Hạnh với diện tích 974m2 đất, (trong đó có 949m2 không phạm lộ giới và 25m2 phạm lộ giới), do Giám định trắc địa sư Nguyễn Xuân Khương thực hiện.

Năm 1976, được sự uỷ quyền của Toà giám mục giáo phận Nha Trang, ông Hồ Ngọc Hạnh đứng tên bán căn nhà và diện tích đất tại 61 Nguyễn Thiện Thuật thành phố Nha Trang cho ông Nguyễn Phước. §ơn xin bán nhà của ông Hồ Ngọc Hạnh và §ơn xin mua nhà của ông Nguyễn Phước đều có xác nhận của Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân cách mạng phường Lộc Thọ và Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân cách mạng thị xã Nha Trang vào ngày 29-06-1976.

Ngày 01-12-1977, ông Nguyễn Phước kê khai đăng ký quyền sở hữu nhà và đất với diện tích 977m2 đất.

Ngày 08-01-1979, ông Nguyễn Phước viết giấy giao nhà 61 Nguyễn Thiện Thuật cho con trai là Nguyễn §ức §ỉnh (bộ đội đơn vị H180). Giấy giao nhà có xác nhận của Ựỷ ban nhân dân phường Tân Lập (nơi ông Phước cư trú).

Ngày 02-07-1979, ông Nguyễn §ức §ỉnh viết "Giấy nhượng lại nhà ở" bán toàn bộ nhà, đất tại 61 Nguyễn Thiện Thuật thành phố Nha Trang cho ông Kiều Tiến Vĩnh. Giấy nhượng lại nhà ở này có xác nhận của đơn vị H180 (nơi ông §ỉnh công tác), của công an thị xã Nha Trang (cơ quan nơi ông Vĩnh công tác và của Ựỷ ban nhân dân phường Lộc Thọ).

Ngày 15-10-1979, ông §ỉnh và ông Vĩnh viết lại §ơn xin bán và mua nhà (theo mẫu in sẵn) có nội dung: Ậng §ỉnh bán cho ông Vĩnh căn nhà có diện tích xây dựng là 62,92m2 toạ lạc trên diện tích đất là 977,5m2 tại 61 Nguyễn Thiện Thuật thành phố Nha Trang. §ơn này chỉ có xác nhận của Công an thành phố Nha Trang.

Năm 1987, ông Kiều Tiến Vĩnh làm thủ tục xin hợp thức hoá quyền sở hữu nhà, đất tại 61 Nguyễn Thiện Thuật thành phố Nha Trang. Ngày 11-10-1987, Ựỷ ban nhân dân thành phố Nha Trang có Công văn số 529/VP- ỰB gửi Ựỷ ban nhân dân tỉnh Phú Khánh (cũ) xin ý kiến giải quyết, nhưng chưa giải quyết.

Từ năm 1993 đến nay, ông Kiều Tiến Vĩnh nộp tiền thuế đất với diện tích là 1062m2.

Ngày 24-07-2000, Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà ra Quyết định số 3327/Q§-ỰB "thu hồi phần đất có diện tích 79,02/1053m2 tại 61 Nguyễn Thiện Thuật, phường Lộc Thọ, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà, hiện do hộ gia đình ông Kiều Tiến Vĩnh đang quản lý, sử dụng" và "giao toàn bộ diện tích đất thu hồi 79,02m2 cho Ựỷ ban nhân dân phường Lộc Thọ trực tiếp quản lý", với lý do ghi trong quyết định là "để phục vụ công tác giải toả mở rộng lòng lề đường Nguyễn Thiện Thuật theo quy hoạch"; đồng thời, Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà còn giao cho “ỰBND thành phố Nha Trang, ỰBND phường Lộc Thọ” trình cho cơ quan thẩm quyền phê duyệt phương án quy hoạch, kế hoạch sử dụng cụ thể đối với diện tích đất thu hồi (nêu trên) để phục vụ cho công tác giải toả mở rộng lòng lề đường Nguyễn Thiện Thuật theo đúng quy hoạch"…

Không đồng ý với quyết định thu hồi đất của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà, ông Kiều Tiến Vĩnh khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà yêu cầu Toà án huỷ Quyết định số 3327/Q§-ỰB ngày 24-07-2000 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà.

Ngày 12-03-2001, Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà thụ lý vụ án.

Trong quá trình Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà đang giải quyết vụ án hành chính theo đơn khởi kiện của ông Kiều Tiến Vĩnh thì ngày 24-08-2001, Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà ra Quyết định số 2883/Q§- ỰB phê duyệt quy hoạch điểm bán hoa tươi tại 61 đường Nguyễn Thiện Thuật, phường Lộc Thọ, thành phố Nha Trang (Hồ sơ quy hoạch điểm bán hoa tươi do Sở §ịa chính tỉnh Khánh Hoà lập và trình Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà phê duyệt).

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 09/HCST ngày 04-10-2001 Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xử bác đơn khởi kiện của ông Vĩnh đối với Quyết định số 3327/Q§-ỰB ngày 24-07-2000 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà.

Ậng Vĩnh kháng cáo.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 05/HCPT ngày 29-05-2002 Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố §à Nẵng đã sửa toàn bộ Bản án sơ thẩm số 09/HCST ngày 04-10-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà, xử huỷ Quyết định số 3327/Q§-ỰB ngày 24-07-2000 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà về việc thu hồi đất của ông Kiều Tiến Vĩnh.

Ngày 14-08-2002, Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà có Công văn số 1887/ỰB đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Tại Kháng nghị số 07/HC- TK ngày 28-11-2002, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, huỷ Bản án hành chính phúc thẩm số 05/HCPT ngày 29-05-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại §à Nẵng và Bản án hành chính sơ thẩm số 09/HCST ngày 04-10-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung với lý do: "Diện tích đất thực tế mua bán là 977m2 hay 1053m2 cũng chưa có căn cứ, cần thu thập chứng cứ như lời khai người làm chứng và tài liệu khác về thực trạng sử dụng đất cũng như khuôn diện đất qua các thời kỳ.

Về bức tường xây bao quanh khu đất có từ bao giờ, từ khi ông Vĩnh mua nhà, bức tường có thay đổi hay không để có cơ sở kết luận diện tích đất do Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà thu hồi của ông Vĩnh thuộc diện tích đất mua của ông §ỉnh hay ngoài diện tích đã mua. Về căn cứ thu hồi đất: Cần điều tra xác định về quy hoạch, theo Quyết định 3327/Q§-ỰB ngày 24-07-2000 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà, thì việc thu hồi đất để mở rộng lòng đường nay bổ sung quy hoạch làm "điểm bán hoa tươi", lý do có sự thay đổi quy hoạch. Việc thu hồi đất của gia đình ông Vĩnh có phù hợp với quy định tại §iều 27, 28 Luật §ất đai, Nghị định của Chính phủ hướng dẫn về việc thu hồi đất để sử dụng vì lợi ích công cộng. Mặt khác, qua điều tra xác minh, nếu không xác định được gia đình ông Kiều Tiến Vĩnh lấn chiếm đất công thì việc thu hồi đất sử dụng vào mục đích công cộng mà không giải quyết đền bù thiệt hại cũng là không đúng quy định của pháp luật. Xét thấy, Toà án cấp sơ thẩm bác đơn khởi kiện của ông Kiều Tiến Vĩnh, Toà án cấp phúc thẩm sửa toàn bộ bản án hành chính sơ thẩm; huỷ Quyết định số 3327/Q§-ỰB ngày 24-07-2000 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà là chưa đủ căn cứ ".

Tại Kết luận số 02/KL-AHC ngày 06-01-2003 Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.

Xét thấy:

Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì diện tích đất tại số 61 Nguyễn Thiện Thuật, phường Lộc Thọ, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà, được thể hiện trên giấy tờ của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền qua các thời kỳ như sau:

- Giấy phép tạm chiếm đất công số 11777/HC-§C ngày 20-11-1959 của Tỉnh trưởng tỉnh Khánh Hoà (chế độ cũ): 977m2.

- Giấy phép số 0222-TXNT/§§ ngày 11-01-1975 của Tỉnh trưởng tỉnh Khánh Hoà về việc bán và mua nhà xây cất trên đất công tại thị xã Nha Trang: 977m2.

- Biên bản cắm ranh và phân chiết đất do Giám định Trắc địa sư Nguyễn Xuân Khương lập ngày 27-02-1975 và Ty điền địa tỉnh Khánh Hoà (chế độ cũ) phê duyệt ngày 21-03-1975: 974m2 (trong đó có diện tích đất không phạm lộ giới là 949m2; diện tích đất phạm lộ giới là 25m2).

- Giấy tờ nộp thuế nhà, đất từ 1993: 1062m2.

- Hồ sơ kỹ thuật thửa đất do Sở §ịa chính tỉnh Khánh Hoà lập ngày 15-03-2000: 1060,72m2.

- Quyết định số 3327/Q§-ỰB ngày 24-07-2000 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà về việc thu hồi một phần đất tại 61 Nguyễn Thiện Thuật, thành phố Nha Trang: 1053,53m2.

Như vậy, số liệu về diện tích đất tại 61 Nguyễn Thiện Thuật thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà thể hiện trên giấy tờ của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền qua các thời kỳ có sự khác nhau. Lý do của sự chênh lệch về diện tích đất này chưa được xác minh làm rõ. Cần xác minh, thu thập chứng cứ để có cơ sở kết luận một cách chính xác diện tích đất (bao gồm diện tích đất không phạm lộ giới + diện tích đất phạm lộ giới- theo mốc giới hiện nay là 20m) tại 61 Nguyễn Thiện Thuật, thành phố Nha Trang là bao nhiêu; trên cơ sở đó, đối chiếu với diện tích đất được thể hiện tại Biên bản cắm ranh và phân chiết đất ngày 27-02-1975 (diện tích không phạm lộ giới là 949m2 và diện tích phạm lộ giới là 25m2), để kết luận diện tích đất thừa ra (nếu có) là bao nhiêu; lý do của việc thừa đất? Nếu thừa do lấn chiếm thì lấn chiếm bao nhiêu mét vuông, lấn chiếm về phía nào?

§ể có kết luận về những vấn đề trên, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của tỉnh Khánh Hoà cần phải tiến hành đo đạc lại diện tích đất tại 61 Nguyễn Thiện Thuật; phải lấy lời khai của những người có nhà, đất liền kề về ranh, mốc giới đất, về thời điểm xây dựng các bức tường bao quanh khu đất của nhà ông Vĩnh.

Nếu qua xác minh có đủ căn cứ kết luận ông Kiều Tiến Vĩnh đã lấn chiếm đất công, thì Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà có quyền ra quyết định thu hồi diện tích đất lấn chiếm và không phải giải quyết việc bồi thường thiệt hại đối với diện tích đất thu hồi. Còn nếu diện tích đất thừa ra so với diện tích đất theo biên bản cắm ranh và phân chiết đất ngày 27-02-1975 mà không phải do lấn chiếm thì Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà có quyền hoặc là cho ông Vĩnh tiếp tục được sử dụng, hoặc là thu hồi diện tích đất thừa ra đó để sử dụng vào mục đích công cộng theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà ra quyết định thu hồi đất vì mục đích công cộng đối với diện tích đất thừa ra không do lấn chiếm thì phải giải quyết việc bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật về đất đai.

Mặt khác, theo Quyết định số 3327/Q§-ỰB ngày 24-07-2000 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà, thì ngoài lý do thu hồi diện tích đất thừa ra so với diện tích ghi trên giấy tờ do chế độ cũ để lại còn có lý do khác là để "phục vụ công tác giải toả lòng lề đường Nguyễn Thiện Thuật theo quy hoạch". Sau đó, Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà lại ra Quyết định số 2883/Q§-ỰB ngày 24-08-2001 phê duyệt điểm bán hoa tươi tại 61 Nguyễn Thiện Thuật; lý do của việc thay đổi mục đích thu hồi đất này cũng chưa được làm rõ.

Căn cứ vào các chứng cứ và nhận định nêu trên và các tài liệu hiện đang có trong hồ sơ vụ án thì việc Toà án cấp sơ thẩm xử bác đơn khởi kiện của ông Vĩnh đối với Quyết định số 3327/Q§- ỰB ngày 24-07-2000 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà về việc thu hồi đất của ông Kiều Tiến Vĩnh và việc Toà án cấp phúc thẩm sửa toàn bộ Bản án hành chính sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà, xử huỷ Quyết định số 3327/Q§-ỰB ngày 24-07-2000 nói trên của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Khánh Hoà đều là chưa có đủ căn cứ. Cần huỷ Bản án hành chính phúc thẩm số 05/HCPT ngày 29-05-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại §à nẵng và bản án hành chính sơ thẩm số 09/HCST ngày 04-10-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà để Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà giải quyết lại vụ án trên cơ sở xác minh, thu thập chứng cứ làm rõ những nội dung đã nêu trên.

Bởi các lẽ trên và căn cứ khoản 3 §iều 72 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung),

Quyết định:

Chấp nhận Kháng nghị số 07/HC-TK ngày 28-11-2002 của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, xử huỷ Bản án hành chính phúc thẩm số 05/HCPT ngày 29-05-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại §à Nẵng và Bản án hành chính sơ thẩm số 09/HCST ngày 04-10-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà, giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Khánh Hoà điều tra, xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung.


Lý do chấp nhận Kháng nghị và huỷ Bản án sơ thẩm và phúc thẩm:

- Cần xác định rõ lý do của sự chênh lệch về diện tích đất.

- Cần xác định ông Kiều Tiến Vĩnh có lấn chiếm đất công hay không.

- Cần xác định cụ thể lý do của việc thay đổi mục đích thu hồi đất theo Quyết định số 2883/Q§-ỰB ngày 24 tháng 8 năm 2001.


Quyết định số 02/2003/H§TP-HC Ngày 29-05-2003
Về vụ án Tranh chấp hành chính về
giải quyết khiếu nại đối với quyết định
thu hồi, quyết định công nhận quyền sử dụng đất giữa ông Nguyễn Văn Của và Ựỷ ban nhân dân
tỉnh An Giang

Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

………

Tại phiên toà ngày 29-05-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án hành chính có các đương sự:

- Người khởi kiện: Ậng Nguyễn Văn Của, sinh năm 1940, trú tại số 349/30 đường Trần Hưng §ạo, khóm §ông Thịnh B2, phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

- Người bị kiện: Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Thuận, sinh năm 1915, thường trú tại số 46 Phạm Hồng Thái, phường Mỹ Long, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang; tạm trú tại số 349/30A đường Trần Hưng §ạo, khóm §ông Thịnh B2, phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Nhận thấy:

Ngày 09-03-1996, Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang ban hành Quyết định số 147/Q§-ỰB công nhận cho ông Nguyễn Văn Của được quyền sử dụng khu đất diện tích 1562,6m2, gồm các thửa từ 1149–1 đến 1149-3, tờ bản đồ số 1, toạ lạc tại phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang.

Ngày 22-04-1996, và ngày 20-05-1996 bà Nguyễn Thị Thuận (mẹ ông Của) cùng các bà Nguyễn Thị Hồng Duyên (cháu ông Của), Nguyễn Kim Huệ (em ông Của), là những người có quyền lợi liên quan đến quyền sử dụng diện tích đất trên, đã làm đơn khiếu nại đến Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang yêu cầu thẩm tra lại hồ sơ xin cấp quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Của; thu hồi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Của và xin giải quyết quyền lợi của các bà đối với diện tích đất nói trên.

Ngày 20-08-1998, Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang ban hành Quyết định số 1630/Q§- ỰB "thu hồi Quyết định số 147/Q§-ỰB ngày 09-03-1996 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang về việc công nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Văn Của diện tích 1.562,6m2", đồng thời quyết định "bà Nguyễn Thị Thuận có trách nhiệm làm thủ tục theo quy định hiện hành để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất".

Không đồng ý với quyết định này, ông Của làm đơn khiếu nại. Sau khi nhận được Công văn trả lời số 221/CV-ỰB  ngày 26-06-1999 của Ựỷ ban nhân dân  tỉnh An Giang khẳng định Quyết định số 1630/Q§-ỰB  ngày 20-08-1998 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang là đúng pháp luật, ông Của đã làm đơn khởi kiện quyết định số 1630/Q§- ỰB ngày 20-08-1998 của ỰBND tỉnh An Giang tại Toà án nhân dân tỉnh An Giang.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 02/HCST ngày 18-07-2000 Toà án nhân dân tỉnh An Giang đã xử: “Bác yêu cầu khiếu kiện của ông Nguyễn Văn Của đối với Quyết §ịnh số 1630/Q§-ỰB ngày 20-08-1998 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang về việc thu hồi Quyết định số 147/Q§-ỰB ngày 09-03-1996 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang về việc công nhận quyền sử dụng diện tích 1.562,6 m2 đất toạ lạc tại phường Mỹ Phước, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang cho ông Nguyễn Văn Của”.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Nguyễn Văn Của có đơn kháng cáo.

Tại Bản án phúc thẩm số 05/HCPT ngày 16-02-2001, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xử huỷ Quyết định số 1630/Q§-ỰB ngày 20-08-2000 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang để ông Của, bà Thuận khởi kiện (vụ án dân sự) tại Toà án nhân dân tỉnh An Giang (nếu có yêu cầu).

Tại Kháng nghị số 04/HC-TK ngày 15-08-2001 đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 05/HCPT ngày 16-02-2001 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đề nghị Ựỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ Bản án hành chính phúc thẩm nói trên và giao hồ sơ vụ án cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Quyết định số 01/ỰBTP- HC ngày 25-04-2002 Ựỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã xử huỷ Bản án hành chính phúc thẩm số 05/HCPT ngày 16-02-2001 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại đúng theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đang giải quyết lại vụ án, ngày 27-08-2002 Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang ban hành Quyết định số 2028/Q§. ỰB. KN với nội dung:

1- Thu hồi Quyết định số 1630/Q§- ỰB ngày 20-08-1998 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang về việc giải quyết khiếu nại của bà Nguyễn Thị Thuận;

2- Các quyết định hành chính về quản lý đất đai, về giải quyết tranh chấp và giải quyết khiếu nại đối với vụ việc của  bà Nguyễn Thị Thuận và ông Nguyễn Văn Của đã ban hành trước đây có nội dung trái với quyết định này đều bãi bỏ;

- Ậng Nguyễn Văn Của và bà Nguyễn Thị Thuận có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo biên bản ngày 04-08-1999 và biên bản thoả thuận thực hiện ngày 28-08-1999…”.

Do ông Nguyễn Văn Của rút đơn kháng cáo và rút đơn khởi kiện nên tại Bản án hành chính phúc thẩm số 24/HCPT ngày 29-08-2002 Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xử:

+ Huỷ Bản án hành chính sơ thẩm số 02/HCST ngày 18-07-2000 của Toà án nhân dân  tỉnh An Giang;

+ §ình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính giữa người khởi kiện là ông Nguyễn Văn Của và người bị khởi kiện là Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang (đối với Quyết định số 1630/Q§- ỰB ngày 20-08-1998 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang);

+ Giữ nguyên Quyết định số 2028/Q§- ỰBKN ngày 27-08-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang.

Ngày 12-10-2002, ông Nguyễn Văn Của có đơn khiếu nại đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao xem xét lại Bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm.

Ngày 12-10-2002, ông Phan Văn Tiệm và bà Lê Thị Cẩm Diêm (những người có quyền lợi liên quan đến diện tích đất đang tranh chấp) có đơn đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 24/HCPT ngày 29-08-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 14-10-2002, Ựỷ ban nhân dân thành phố Long Xuyên có Công văn số 528/CV- ỰB đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 24/HCPT ngày 29-08-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Quyết định số 01/HC- TK ngày 07-02-2003 Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm số 24/HCPT ngày 29-08-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm sửa một phần Bản án phúc thẩm nói trên theo hướng bỏ phần quyết định "giữ nguyên Quyết định số 2028/Q§.ỰB.KN ngày 27-08-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang của bản án hành chính phúc thẩm số 24/HCPT ngày 29-08-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh".

Tại kết luận số 10/KL-AHC ngày 31-03-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao áp dụng §iều 72 khoản 2 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính để sửa Bản án hành chính phúc thẩm số 24/HCPT ngày 29-08-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh theo hướng huỷ bỏ phần quyết định giữ nguyên Quyết định số 2028/Q§.ỰB.KN ngày 27-08-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang.

Xét thấy:

Tại phiên toà phúc thẩm ngày 29-08-2002, sau khi được thông báo về Quyết định số 2028/Q§.ỰB.KN ngày 27-08-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang, ông Nguyễn Văn Của đã rút kháng cáo và rút đơn khởi kiện đối với Quyết định số 1630/Q§-ỰB ngày 20-08-1998 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang. Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh căn cứ vào điểm b khoản 1 §iều 41, điểm đ khoản 2 §iều 64 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính xử huỷ Bản án hành chính sơ thẩm số 02/HCST ngày 18-07-2000 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang và đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính do ông Nguyễn Văn Của khởi kiện Quyết định số 1630/Q§- ỰB ngày 20-08-1998 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang là đúng pháp luật. Tuy nhiên, việc Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử: "Giữ nguyên Quyết định số 2028/Q§.ỰB.KN ngày 27-08-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang" là trái pháp luật, không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của ông Của và những người khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến nội dung quyết định tại đoạn 1 §iều 2 Quyết định số 2028/Q§.ỰB.KN ngày 27-08-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang.

Bởi các lẽ trên và căn cứ khoản 2 §iều 72 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung).

Quyết định:

Sửa một phần Bản án hành chính phúc thẩm số 24/HCPT ngày 29-08-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và xử như sau:

- Huỷ Bản án hành chính sơ thẩm số 02/HCST ngày 18-07-2000 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang.

- §ình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính giữa người khởi kiện là ông Nguyễn Văn Của và người bị kiện là Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang (đối với việc khiếu kiện Quyết định giải quyết khiếu nại số 1630/Q§- ỰB ngày 20-08-1998 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang).

- Ậng Nguyễn Văn Của không phải nộp án phí hành chính phúc thẩm, nhưng phải nộp 50.000 đồng án phí hành chính sơ thẩm. Hoàn lại tiền tạm ứng án phí phúc thẩm cho ông Nguyễn Văn Của.


Lý do sửa một phần Bản án phúc thẩm và huỷ Bản án sơ thẩm:

- Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử: "Giữ nguyên Quyết định số 2028/Q§.ỰB.KN ngày 27-08-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh An Giang" là trái pháp luật, không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của ông Của và những người khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.


Quyết định số 03/2003/ H§TP-HC Ngày 27-08-2003
Về vụ án Tranh chấp hành chính về
cấp Giấy phép xây dựng cửa hàng xăng dầu giữa bà Mai Thị Chữ và Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk

Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

………

Tại phiên toà ngày 27-08-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án hành chính có các đương sự :

- Người khởi kiện: Bà Mai Thị Chữ, sinh năm l943, trú tại số nhà 106, đường  Lê Duẩn, phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh §ăk Lăk, uỷ quyền cho ông Phạm Sĩ  Quang (là chồng bà Chữ) tham gia tố tụng.

- Người bị kiện: Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk;

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Sở Xây dựng tỉnh §ăk Lăk

2/ Phòng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy, Công an tỉnh §ăk Lăk.

NHậN THấỊ:

Ngày 27-09-1999, bà Mai Thị Chữ làm đơn xin mở cửa hàng bán lẻ xăng dầu tại l06 Lê Duẩn, phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh §ăk Lăk. §ơn của bà Chữ được Ựỷ ban nhân dân phường Tân Thành xác nhận ngày 28-09-1999.

Ngày 22-10-1999, Ựỷ ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột có Công văn số 552/CV-ỰB gửi Sở thương mại Du lịch §ăk Lăk báo cáo về đơn của bà Chữ xin mở cửa hàng xăng dầu tại 106 Lê Duẩn, phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột trong đó có nội dung: ”Theo qui hoạch 1998-2000 tại địa bàn này (phường Tân Thành) được qui hoạch một điểm kinh doanh xăng dầu, như vậy, việc bố trí cho phép bà Mai Thị Chữ mở cửa hàng bán lẻ xăng dầu tại 106 Lê Duẩn là phù hợp với qui hoạch chung của tỉnh. Do đó, ủy ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đề nghị Sở Thương mại du lịch xem xét giải quyết theo qui định”.

Ngày 16-11-1999, Sở Thương mại – Du lịch §ăk Lăk có Công văn số 336/CV-TM.QLHC đồng ý cho bà Chữ được mở điểm kinh doanh xăng dầu tại 106 Lê Duẩn theo quy hoạch đã duyệt và yêu cầu bà Chữ phải làm đầy đủ thủ tục xây dựng theo qui định của Nhà nước và điều kiện kinh doanh xăng dầu qui định tại Thông tư 14/1999/BTM ngày 07-07-1999 của Bộ Thương mại.

Ngày 17-11-1999, Công an tỉnh §ăk Lăk có Công văn số 120/CV-PCCC đồng ý cho bà Mai Thị Chữ xây dựng cửa hàng kinh doanh xăng dầu tại 106 Lê Duẩn và yêu cầu bà Chữ trước khi xây dựng phải gửi toàn bộ hồ sơ thiết kế kỹ thuật của cửa hàng xăng dầu để thẩm định thiết kế, thiết bị an toàn phòng cháy chữa cháy theo qui định của Nhà nước.

§ầu tháng 12-1999, khi chưa có giấy phép xây dựng, gia đình bà Chữ đã tiến hành xây dựng lắp đặt hai bồn chứa xăng, mỗi bồn có dung tích 10 m3 và bị khiếu nại. Ngày 13-12-1999, Ựỷ ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột có công văn yêu cầu đình chỉ việc xây dựng chờ quyết định giải quyết của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Ngày 22-12-1999, bà Mai Thị Chữ làm thủ tục xin phép xây dựng cây xăng dầu tại 106 đường Lê Duẩn, thành phố Buôn Ma Thuột. §ơn được Ựỷ ban nhân dân phường Tân Thành xác nhận ngày 23-12-1999.

Ngày 28-12-1999, Phòng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy Công an tỉnh §ăk Lăk cấp Giấy chứng nhận số 07/2001/PCCC thẩm định về thiết kế và thiết bị phòng cháy chữa cháy cửa hàng bán lẻ xăng dầu cho bà Chữ.

Ngày 24-02-2000, Sở Xây dựng cấp Giấy phép xây dựng số 01/GP-SXD cho bà Mai Thị Chữ.

Sau khi có giấy phép xây dựng, gia đình bà Chữ tiến hành việc xây dựng cây xăng dầu tại 106 Lê Duẩn thì bị một số công dân thuộc tổ 3, khối 1, phường Tân Thành khiếu nại việc cho phép bà Mai Thị Chữ xây dựng cây xăng dầu tại 106 Lê Duẩn.

Ngày 06-03-2000, §ảng uỷ- Hội đồng nhân dân- Ựỷ ban nhân dân- Ựỷ ban Mặt trận Tổ quốc phường Tân Thành có đơn kiến nghị Ựỷ ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột can thiệp với Sở Xây dựng, Sở Thương mại du lịch, Phòng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy không cho phép bà Chữ mở cây xăng dầu tại 106 Lê Duẩn.

Ngày 14-03-2000, Sở Xây dựng có Thông báo số 01/TB-SD về việc tạm đình chỉ xây dựng cửa hàng bán lẻ xăng dầu của bà Mai Thị Chữ để xem xét giải quyết đơn khiếu nại của công dân.

Theo báo cáo của §oàn thanh tra được thành lập theo Quyết định số 27/Q§-TTr ngày 28-06-2000 của Chánh thanh tra tỉnh §ăk Lăk, thì cửa hàng xăng dầu của bà Mai Thị Chữ đã xây dựng các hạng mục sau (hiện trạng tính đến ngày 10-07-2000):

+ Về thiết bị: §ã lắp đặt 3 cột bơm điện tử; 3 bồn chứa xăng dầu (mỗi bồn có dung tích là 5m3) đặt ngầm dưới đất; hệ thống đường ống dẫn xăng dầu và hệ thống nhập kín, van thở tự động.

+ Các hạng mục khác: §ã xây dựng gian bán hàng; mái che cột bơm, bể chứa; tường rào xung quanh xây bằng gạch ống dày 20, cao 3,8m; sân bãi đã xây bằng bê tông và có hệ thống thoát nước mưa.

Tổng chi phí xây dựng theo kết luận của §oàn thanh tra là 179.560.000 đồng.

Sau khi bị tạm đình chỉ xây dựng, ngày 03-09-2000 bà Chữ có đơn gửi các cơ quan chức năng tại tỉnh §ăk Lăk đề nghị xin được khắc phục những sai sót trong hồ sơ thiết kế và quá trình thi công về khoảng cách an toàn về phòng cháy, chữa cháy, về hệ thống xử lý nước thải (theo hồ sơ thiết kế kỹ thuật bổ sung).

Ngày 21-09-2000, Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk có Công văn số 1774/CV yêu cầu các cơ quan chức năng có ý kiến về việc gia đình bà Chữ xây dựng cây xăng dầu tại 106 Lê Duẩn.

Ngày 28-09-2000, Công an tỉnh §ăk Lăk có Công văn số 69/PCCC ”đề nghị Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk cho phép bà Mai Thị Chữ tiếp tục xây dựng cửa hàng xăng dầu 106 Lê Duẩn và dịch chuyển cột bơm, bồn chứa đến vị trí khác, đúng như sơ đồ kèm theo (công văn).

Ngày 29-09-2000, Sở Xây dựng có Công văn số 454/SXD-QLN báo cáo giải trình gửi Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk về việc cấp Giấy phép xây dựng cho bà Chữ.

Ngày 18-l0-2000, Thanh tra tỉnh §ăk Lăk có Công văn số 187/CV-T.Tr gửi Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk báo cáo ý kiến của Thanh tra tỉnh về ý kiến đề xuất của Phòng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy Công an tỉnh §ăk Lăk với nội dung: ”Việc sửa chữa khắc phục những sai sót của cửa hàng bán lẻ tại 106 Lê Duẩn theo như phương án mà Cảnh sát phòng cháy chữa cháy Công an tỉnh đưa ra nói trên là thực hiện được, bảo đảm đầy đủ các điều kiện an toàn theo qui định hiện hành của Nhà nước.

Vì vậy, Thanh tra tỉnh dự thảo quyết định của Ựỷ ban nhân dân tỉnh về việc giải quyết khiếu nại của công dân theo phương án 1à cho phép bà Mai Thị Chữ tiếp tục xây dựng cây xăng dầu tại 106 Lê Duẩn, thành phố Buôn Ma Thuột, nhưng phải dịch chuyển 3 cột bơm và 3 bể chứa xăng dầu bảo đảm đủ khoảng cách an toàn”.

Nhưng Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk không chấp nhận đơn đề nghị của bà Chữ và đề xuất của các cơ quan chuyên môn và đã ban hành Quyết định số 3346/Q§-ỰB ngày 30-11-2000 giải quyết đơn khiếu nại của một số công dân tại tổ 3 khối 1, phường Tân Thành, thành phố  Buôn Ma Thuột, tỉnh §ăk Lăk với nội dung:

1. Không chấp nhận để bà  Mai Thị Chữ tiếp tục xây dựng, kinh doanh xăng dầu tại 106 Lê Duẩn, thành phố Buôn Ma Thuột vì không đảm bảo điều kiện an toàn phòng chống cháy nổ theo quy định tại Thông tư số 14/1999/BTM ngày 07-07-1999 của Bộ Thương mại về hướng dẫn điều kiện kinh doanh xăng dầu.

2. Ịêu cầu Sở Xây dựng có quyết định bãi bỏ, thu hồi giấy phép xây dựng số 01/GP-SXD ngày 24-02-2000 đã cấp cho bà Mai Thị Chữ được xây dựng cửa hàng xăng dầu tại số nhà 106 đường Lê Duẩn, thành phố Buôn Ma Thuột.

Hộ gia đình bà Mai Thị Chữ thực hiện tháo dỡ các hạng mục công trình xây dựng, thiết bị liên quan đến cây xăng, dầu tại số nhà 106 đường Lê Duẩn, thành phố Buôn Ma Thuột vì không đảm bảo qui định tại Thông tư số 14/1999/BTM ngày 07-07-1999 của Bộ Thương mại ; thời gian thực hiện chậm nhất đến ngày 20-12-2000 bà Chữ phải thực hiện xong việc tháo dỡ…

3. Giao cho Sở Xây dựng phối hợp với Sở Tài chính Vật giá, Thanh tra tỉnh, Ban Tổ chức chính quyền tỉnh tính toán cụ thể những thiệt hại của gia đình bà Mai Thị Chữ và xác định trách nhiệm của các đơn vị và cá nhân có liên quan để tham mưu cho Ựỷ ban nhân dân tỉnh xử lý.

- Giao cho Ựỷ ban nhân dân thành phố Buôn Ma thuột  chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện tháo dỡ các hạng mục công trình xây dựng, thiết bị liên quan đến cây xăng, dầu tại số nhà 106 Lê Duẩn của bà Mai Thị Chữ. Trong trường hợp bà Chữ cố tình không thực hiện tháo dỡ, tiếp tục vi phạm, Ựỷ ban nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột thành lập Hội đồng cưỡng chế, giải toả và thực hiện cưỡng chế, giải toả theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục pháp luật qui định…".

Không đồng ý với Quyết định số 3346/Q§-ỰB ngày 30-11-2000 của Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk, bà Mai Thị Chữ đã khiếu nại và khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân tỉnh §ăk Lăk.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 08/HCST ngày 18-12-2001 Toà án nhân dân tỉnh §ăk Lăk đã xử : “Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Mai Thị Chữ ; huỷ Quyết định hành chính số 3346/Q§-ỰB ngày 30-11-2000 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk về việc giải quyết đơn khiếu nại của một số công dân.

Buộc bà Mai Thị Chữ phải khắc phục những sai sót trong việc xây dựng cây xăng 106 đường Lê Duẩn, phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột về: Khoảng cách phòng cháy chữa cháy, hệ thống xử lý nước thải theo đúng quy định của Thông tư số 14/BTM ngày 07-07-1999 của Bộ Thương mại hướng dẫn điều kiện kinh doanh xăng dầu, trước khi xin cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh xăng dầu tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Sở Xây dựng §ăk Lăk, Phòng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy Công an tỉnh §ăk Lăk theo chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của mình có trách nhiệm giám sát, đôn đốc và hướng dẫn tạo điều kiện cho bà Chữ khắc phục những sai sót trong xây dựng cây xăng 106 Lê Duẩn về khoảng cách phòng cháy chữa cháy và hệ thống xử lý nước thải theo đúng tiêu chuẩn mà pháp luật đã qui định”.

Ngày 28-12-2001, Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk có Công văn số 3138/CV-ỰB kháng cáo Bản án hành chính sơ thẩm.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 08/2002/HCPT ngày 30-09-2002 Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại §à Nẵng đã xử:

- “Bác kháng cáo của Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk.

- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện vụ án hành chính của bà Mai Thị Chữ.

Huỷ Quyết định hành chính số 3346/Q§-ỰB  ngày 30-11-2000 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh  §ăk Lăk.

Các quyết định còn lại của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị tiếp tục có hiệu lực pháp luật”.

Ngày 07-10-2002, Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk có Công văn số C2449/CV-ỰB đề nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm.

Tại Kháng nghị số 03/HC-TK ngày 17-03-2003, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm số 08/2002/HCPT ngày 30- 09-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại §à Nẵng, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng sửa Bản án hành chính phúc thẩm, huỷ Quyết định số 3346/Q§-ỰB ngày 30-11-2000 của Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk… §ể Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có liên quan ở tỉnh §ăk Lăk giải quyết lại vụ việc khiếu nại theo đúng qui định của pháp luật.

Tại Kết luận số 11/ KL-AHC ngày 05-06-2003, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm số 08/HCPT ngày 30-09-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại §à Nẵng để Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng: Sửa Bản án hành chính phúc thẩm xử: Giữ nguyên Quyết định hành chính số 3346/Q§-ỰB ngày 30-11-2000 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk yêu cầu các cơ quan chức năng có liên quan tỉnh §ăk Lăk bồi thường thiệt hại cho gia đình bà Mai Thị Chữ theo qui định của pháp luật.

XéT THấỊ:

Về thẩm quyền giải quyết khiếu nại của một số công dân thuộc tổ 3 khối 1 phường Tân Thành đối với việc các cơ quan chức năng của tỉnh cho phép bà Mai Thị Chữ xây dựng cửa hàng bán lẻ xăng dầu tại số 106 đường Lê Duẩn, phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột: Ngày 28-12-1999, Phòng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy Công an tỉnh §ăk Lăk cấp Giấy chứng nhận số 07/2001/PCCC thẩm định về thiết kế, và thiết bị phòng cháy chữa cháy cửa hàng bán lẻ xăng dầu cho bà Chữ và ngày 24-02-2000 Sở Xây dựng tỉnh §ăk Lăk cấp Giấy phép xây dựng số 01/GP.SXD cho phép gia đình bà Mai Thị Chữ được xây dựng công trình Cửa hàng bán lẻ xăng dầu tại 106, đường Lê Duẩn, phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột. Khi bà Mai Thị Chữ tiến hành xây dựng cây xăng dầu tại số 106 đường Lê Duẩn thì một số công dân khiếu nại việc cho phép gia đình bà Chữ xây dựng cây xăng dầu nói trên. Theo qui định tại §iều 21 và khoản 1 §iều 22 Luật Khiếu nại, tố cáo thì việc giải quyết khiếu nại này của một số công dân tại tổ 3 khối 1, phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột thuộc thẩm quyền của Trưởng phòng Phòng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy Công an tỉnh §ăk Lăk (đối với việc cấp Giấy chứng nhận số 07/2001/PCCC ngày 28-12-2001) và của Giám đốc Sở xây dựng tỉnh §ăk Lăk (với việc cấp Giấy phép xây dựng số 01/GPXD ngày 24-02-2000). Khi nhận đơn khiếu nại lẽ ra Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk chuyển đơn khiếu nại đến Trưởng phòng Phòng Cảnh sát phòng cháy chữa cháy Công an tỉnh §ăk Lăk và Giám đốc Sở Xây dựng để giải quyết theo thẩm quyền, nhưng Chủ tịch Ựỷ ban n! hân dân tỉnh §ăk Lăk đã thụ lý đơn khiếu nại để giải quyết và Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk ra Quyết định số 3346/Q§-ỰB ngày 30-11-2000 giải quyết khiếu nại là không đúng thẩm quyền theo qui định của Luật Khiếu nại, tố cáo.

Mặt khác, xét về nội dung thì thấy Quyết định số 3346/Q§-ỰB ngày 30-11- 2000 của Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk không chấp nhận đề nghị được khắc phục những sai sót trong hồ sơ thiết kế ban đầu và những vi phạm trong quá trình thi công của bà Chữ, cũng như ý kiến đề xuất của các cơ quan chuyên môn mà không đưa ra lý do của việc không chấp nhận cho gia đình bà Chữ tiếp tục xây dựng cây xăng dầu tại 106 Lê Duẩn và không giải quyết việc bồi thường thiệt hại do lỗi của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc cho phép bà Chữ xây dựng cây xăng dầu tại 106 Lê Duẩn phường Tân Thành (nay bị Ựỷ ban nhân dân tỉnh  §ăk Lăk không cho phép xây dựng) cho bà Chữ là không khách quan, không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bà Chữ.

Vì vậy, cần phải huỷ Quyết định số 3346/Q§-ỰB này 30-11-2000 của Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân tỉnh  §ăk Lăk về việc giải quyết khiếu nại của một số công dân tại tổ 3 khối 1, phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột để Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk chỉ đạo các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết lại vụ việc khiếu nại theo đúng qui định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên và căn cứ khoản 2 §iều 72 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung),

QỰỊếT §ịNH:

Sửa toàn bộ Bản án hành chính phúc thẩm số 08/2002/HCPT ngày 30-09-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại §à Nẵng và xử như sau:

Huỷ Quyết định số 3346/Q§-ỰB ngày 30-11-2000 của Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân tỉnh  §ăk Lăk về việc giải quyết đơn khiếu nại của một số công dân tại tổ 3, khối 1, phường Tân Thành, thành phố Buôn Ma Thuột để giải quyết lại vụ việc khiếu nại theo đúng qui định của pháp luật.


Lý do sửa toàn bộ Bản án phúc thẩm và huỷ Quyết định của Chủ tịch Ựỷ ban nhân tỉnh §ăk Lăk:

- Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân tỉnh §ăk Lăk đã thụ lý và giải quyết khiếu nại này bằng cách ra Quyết định số 3346/Q§-ỰB ngày 30-11-2000 là không đúng thẩm quyền.

- Nội dung của Quyết định số 3346/Q§-ỰB ngày 30-11-2000 đã không chấp nhận đề nghị của bà Chữ và ý kiến đề xuất của các cơ quan chuyên môn mà không đưa ra lý do gì là không khách quan và không bảo đảm quyền lợi hợp pháp của bà Chữ.


Quyết định số 01/2004/ H§TP-HC
Ngày 27-02-2004 Về vụ án Tranh chấp
hành chính về thu hồi đất giữa bà Lâm Thị Tho
và Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng

Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

………

Tại phiên toà ngày 27-02-2004 xét xử giám đốc thẩm vụ án hành chính có các đương sự :

Người khởi kiện: Bà Lâm Thị Tho, trú tại ấp Tắc Bướm, xã Thạch Thới An, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

- Người bị kiện: Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ậng Cao Xiêng, trú tại khóm 2, phường 5, thị xã Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.

NHậN THấỊ:

Thửa đất có diện tích 27.000m2 là đất nông nghiệp toạ lạc tại khóm 3 phường 5 thị xã Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng có nguồn gốc của mẹ bà Lâm Thị Tho để lại cho bà Tho canh tác. Năm 1963, bà Tho cho bà Lý Thị Phi thuê diện tích đất này đến năm 1968 thì ông Cao Xiêng và ông Nhây Hinh lấy lại để canh tác vì cho rằng diện tích đất này là của dòng họ Cao để lại; trong đó, ông Cao Xiêng canh tác 22.000m2 đất và ông Nhây Hinh canh tác 5.000m2 đất.

Năm 1978, thửa đất có diện tích 27.000m2 đất nói trên được đưa vào tập đoàn sản xuất và chính quyền địa phương đã chia cho các hộ khác để sản xuất. Năm 1990 – 1991 do có chủ trương điều chỉnh lại đất đai, bà Tho đã làm đơn xin lại đất; Ựỷ ban nhân dân phường 5, thị xã Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng đã giải quyết giao cho bà Tho 22.000m2 đất. Vào thời gian này, ông Cao Xiêng cũng có đơn gửi chính quyền địa phương xin lại đất. Ngày 28-07-1992, Ựỷ ban nhân dân phường 5, thị xã Sóc Trăng đã giải quyết rút 11.000m2 đất (đã giao cho bà Tho) để giao cho ông Cao Xiêng 8.000m2 đất và bà Neng Thị Meng (vợ của ông Nhây Hinh) 3.000m2 đất.

Bà Tho có đơn khiếu nại, ngày 07-11-1994, Ựỷ ban nhân dân thị xã Sóc Trăng đã ban hành Quyết định số 79/Q§.HC.94 có nội dung công nhận hộ ông Cao Xiêng và hộ bà Neng Thị Meng là những hộ gốc tại địa phương để được chính quyền địa phương cấp đất. Khi nhận được quyết định này, bà Tho tiếp tục khiếu nại. Ngày 29-06-1995, Ựỷ ban nhân dân thị xã Sóc Trăng đã ban hành Quyết định số 42/Q§-HC.95 với nội dung thu hồi Quyết định số 79/Q§-HC.94, ngày 07-11-1994 của Ựỷ ban nhân dân thị xã sóc Trăng để ổn định cho bà Lâm Thị Tho canh tác phần đất ruộng 11.000 m2 mà Ựỷ ban nhân dân phường 5 đã giao cho ông Cao Xiêng vào năm 1994.

Ngay sau khi nhận được Quyết định nói trên, ông Cao Xiêng đã có đơn khiếu nại gửi đến Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng. Ngày 15-01-2002, Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã ban hành Quyết định số 04/Q§-GQKT.02 với nội dung: huỷ bỏ Quyết định số 42/Q§-HC.95 ngày 29-06-1995 và Quyết định số 79/Q§-HC.94 ngày 07-11-1994 đều của Ựỷ ban nhân dân thị xã Sóc Trăng; thu hồi 11.000m2 đất của bà Lâm Thị Tho cấp lại cho ông Cao Xiêng và quyết định này là quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng.

Ngày 08-04-2002, Ựỷ ban nhân dân thị xã Sóc Trăng đã tổ chức thi hành Quyết định số 04/Q§.GQKT.02 ngày 15-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng, tiến hành đo đạc thu hồi 11.000 m2 đất của bà Tho để giao lại cho ông Cao Xiêng.

Bà Lâm Thị Tho khiếu nại, ngày 25-06-2002 Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng có Công văn số  112/CV-GQKT.02 trả lời bà Tho với nội dung vẫn giữ nguyên Quyết định số 04/Q§-GQKT.02 ngày 15-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

Ngày 09-07-2002, bà Tho đã có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.

Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 01/HCST ngày 28-03-2003 Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã xét xử: Bác yêu cầu khởi kiện của bà Lâm Thị Tho; công nhận Quyết định số 04/Q§-GQKT.02 ngày 15-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng là hợp pháp.

Ngày 31-03-2003, bà Lâm Thị Tho kháng cáo Bản án hành chính sơ thẩm.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm số 12/HCPT ngày 18-06-2003, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xử: sửa Bản án hành chính sơ thẩm; huỷ Quyết định số 04/Q§-GQKT.02 ngày 15-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng và Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng có trách nhiệm giải quyết tiếp theo thẩm quyền.

Ngày 04-08-2003, bà Lâm Thị Tho có đơn khiếu nại đề nghị Toà án nhân tối cao xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính Phúc thẩm số 12/HCPT ngày 18-06-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Quyết định số 11/HC-TK ngày 11-12-2003, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm số 12/HCPT ngày 18-06-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử lại vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng huỷ Bản án hành chính phúc thẩm số 12/HCPT ngày 18-06-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, và Bản án hành chính sơ thẩm số 01/HCST ngày 28-03-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, đình chỉ việc giải quyết vụ án, vì vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính.

Tại Kết luận số 01/KL-AHC ngày 19-01-2004, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kết luận việc kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao là có căn cứ pháp luật và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối xét xử theo hướng chấp nhận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao

XéT THấỊ:

Căn cứ vào nguồn gốc và quá trình sử dụng đất như trên, khi xảy ra tranh chấp giữa bà Lâm Thị Tho và ông Cao Xiêng, các cơ quan quản lý hành chính Nhà nước ở địa phương đã giải quyết qua nhiều cấp. Từ 1991 đến 1992, Ựỷ ban nhân dân phường 5, thị xã Sóc Trăng đã giải quyết tranh chấp đất đai theo thẩm quyền được quy định tại Luật §ất đai năm 1988. Không đồng ý với việc giải quyết tranh chấp đất đai của Ựỷ ban nhân dân phường 5, thị xã Sóc Trăng các đương sự khiếu nại và Ựỷ ban nhân dân thị xã Sóc Trăng đã tiếp tục giải quyết bằng các Quyết định số 79/Q§-HC.94 ngày 07-11-1994 và Quyết định số 42/Q§-HC.95 ngày 29-06-1995. Không đồng ý với việc giải quyết tranh chấp đất đai của Ựỷ ban nhân dân thị xã Sóc Trăng, các đương sự tiếp tục khiếu nại đến Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng. Ngày 15-01-2002 Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng đã ban hành Quyết định số 04/Q§-GQKT.02 để giải quyết tranh chấp đất đai giữa các đương sự. Như vậy, các đương sự đã lựa chọn việc giải quyết tranh chấp đất đai theo thủ tục hành chính và Ựỷ ban nhân dân các cấp ở địa phương đã ban hành các quyết định giải quyết tranh chấp đất đai là đúng trình tự, thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào khoản 2 §iều 38 Luật §ất đai năm 1993 (đã được sửa đổi, bổ sung); căn cứ vào khoản 2 §iều 23 và §iều 45 Luật Khiếu nại, tố cáo thì Quyết định số 04/Q§-GQKT.02 ngày 15-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng là quyết định giải quyết khiếu nại tiếp theo có hiệu lực thi hành. Do vậy, vụ việc nói trên không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính. Khi đương sự khởi kiện, lẽ ra Toà án cấp sơ thẩm phải căn cứ vào quy định tại khoản 6 §iều 31 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính để trả lại đơn kiện cho đương sự. Khi xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải áp dụng điểm g, khoản 1, §iều 41 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính huỷ Bản án hành chính sơ thẩm số 01/HCST ngày 28-03-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, đình chỉ việc giải quyết vụ án thì mới phù hợp với pháp luật; nhưng Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm không thực hiện đúng quy định này của pháp luật là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Vì vậy, cần phải huỷ Bản án hành chính phúc thẩm số 12/HCPT ngày 18-06-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hành chính sơ thẩm số 01/HCST ngày 28-03-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng, đình chỉ việc giải quyết vụ án, vì vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính.

Bởi các lẽ trên;

Căn cứ vào khoản 4 §iều 72 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung),

        QỰỊếT §ịNH:

Huỷ Bản án hành chính phúc thẩm số 12/HCPT ngày 18-06-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và Bản án hành chính sơ thẩm số 01/HCST ngày 28-03-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng; đình chỉ việc giải quyết vụ án.


Lý do huỷ Bản án sơ thẩm và phúc thẩm:

- Căn cứ vào quy định của pháp luật thì Quyết định số 04/Q§-GQKT.02 ngày 15-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng là quyết định giải quyết khiếu nại tiếp theo có hiệu lực thi hành. Do đó, vụ việc này không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính.

- Khi xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm đã không áp dụng quy định của pháp luật để huỷ Bản án sơ thẩm và đình chỉ việc giải quyết vụ án là đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

 


Quyết định số 02/2004/H§TP-HC Ngày 27-03-2004
Về vụ án Tranh chấp hành chính về thu hồi
tài sản sung công quỹ giữa các ông Vi ổn,
Vũ Xuân Khái với Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang,
tỉnh Gia Lai

Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

………

Tại phiên toà ngày 27-03-2004 xét xử giám đốc thẩm vụ án hành chính có các đương sự gồm:

- Người khởi kiện:  Các ông Vi ổn và Vũ Xuân Khái.

§ều trú tại tổ 4 thị trấn Kbang, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai.

- Người bị kiện: Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang, tỉnh Gia Lai.

nhận thấy:

Xuất phát từ nguyện vọng chung là muốn có điện sinh hoạt, ngày 17-12-1997 các hộ dân thuộc các tổ dân phố 3,4 thị trấn Kbang và thôn 10 xã §ông, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai đã thống nhất thành lập Ban điện và đã cử 5 người có trách nhiệm giao dịch, liên hệ với các cơ quan chức năng và ngành điện lực để xin xây dựng đường dây dẫn điện, đưa điện sinh hoạt về cho các hộ dân thuộc các khu vực nói trên. Trong Ban điện có ông Vũ Xuân Khái được cử làm tổ trưởng và ông Vi ổn làm thủ quỹ, đều trú tại tổ 4, thị trấn Kbang, huyện Kbang, tỉnh Gia Lai.

Sau khi Ban điện được thành lập, các tổ dân phố đã họp và các hộ dân đã tự nguyện đóng góp mỗi hộ 100.000 đồng để Ban điện có kinh phí sử dụng giao dịch, liên hệ với các cơ quan chức năng làm đường dây tải điện sinh hoạt cho các hộ dân. Từ cuối năm 1997 đến năm 1999, các tổ dân phố 3, 4 và thôn 10 xã §ông, huyện Kbang đã thu được số tiền đóng góp tự nguyện của các hộ dân là 26.969.000 đồng. Các hộ dân đã nhất trí giao số tiền này cho Ban điện quản lý, sử dụng và đưa ra điều kiện là Ban điện được quản lý, sử dụng số tiền trên cho các chi phí trong các quan hệ giao dịch, liên hệ với các cơ quan chức năng để sớm có điện cho các hộ dân sử dụng; nếu không thực hiện được, thì Ban điện phải bồi thường 100% số tiền các hộ dân đã đóng góp.

Thực hiện cam kết trên, Ban điện đã làm đơn, tờ trình và đã giao dịch, làm việc với các cơ quan chức năng ở địa phương và ngành điện Trung ương để xin được xây dựng đường dây tải điện. Do vậy, đến dịp Tết năm 1999, đường điện đã được xây dựng xong và các hộ dân ở các tổ dân phố nêu trên đã có điện thắp sáng, đáp ứng được nguyện vọng của các hộ dân.

§ến năm 2000, do có khiếu nại của một số người trong tổ dân phố về việc Ban điện sử dụng số tiền tự nguyện đóng góp của các hộ dân không đúng nguyên tắc, ngày 05-12-2000, Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang ra Quyết định số 1069/Q§-CT chuyển hồ sơ vụ việc khiếu kiện đến Công an huyện Kbang để tiến hành điều tra theo qui định của pháp luật. Ngày 12-11-2001, Công an huyện Kbang có Báo cáo kết thúc điều tra số 310 với nội dung: căn cứ vào Quyết định số 94/1998/BTC ngày 30-06-1998 của Bộ Tài chính qui định về chế độ công tác phí, Công an huyện Kbang chỉ chấp nhận các khoản chi sau đây theo chế độ công tác phí đối với cán bộ, viên chức được cử đi công tác:

- Tiền đi lại, ngủ nghỉ của hai ông Khái và ổn là: 8.681.000 đồng.

- Tiền làm đường xương cá và các khoản khác là: 5.281.000 đồng.

Tổng cộng số tiền hai khoản trên là: 13.962.000 đồng.

Số tiền còn lại 13.007.000 đồng (26.969.000đ – 13.962.000đ), Công an huyện Kbang không chấp nhận vì không đủ chứng từ hợp lệ theo qui định của Bộ Tài chính.

Ngày 25-08-2001, Công an huyện Kbang phối hợp với Ựỷ ban nhân dân thị trấn Kbang tổ chức cuộc họp với các hộ dân thuộc tổ dân phố 4. Tại cuộc họp này, đại diện của 39/40 hộ tham gia họp biểu quyết đồng ý không thu hồi khoản tiền 13.007.000 đồng đã giao cho hai ông Khái và ổn sử dụng để đi liên hệ xây dựng đường dây tải điện, đại diện của 1/40 hộ đề nghị thu hồi và xử lý theo pháp luật.

Ngày 27-08-2001 Công an huyện cùng Ựỷ ban nhân dân thị trấn Kbang tiếp tục tổ chức cuộc họp với các hộ dân thuộc tổ dân phố 3. Cũng tại cuộc họp này, đại diện của 36/43 hộ dân tham gia họp biểu quyết đồng ý không thu hồi số tiền 13.007.000 đồng đã giao cho hai ông Khái và ổn sử dụng để đi liên hệ xây dựng đường dây tải điện; đại diện của 5/43 hộ dân không tỏ rõ thái độ; 2/43 hộ dân yêu cầu thu hồi để xây dựng quỹ tổ dân phố.

Căn cứ vào kết quả điều tra và ý kiến của các hộ dân ở các tổ dân phố, Công an huyện Kbang kết luận chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Khái và ông ổn nên đã chuyển hồ sơ đến Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 02-01-2002, Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang đã ra Quyết định số 01/2002/Q§-ỰB thu hồi sung vào ngân sách thị trấn Kbang để đầu tư xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo đề nghị của hai tổ dân phố 3 và 4 tổng số tiền là 11.857.000 đồng (là số tiền đóng góp xây dựng đường điện của nhân dân hai tổ dân phố 3 và 4 thị trấn Kbang) mà hai ông Khái và ổn bị kết luận là đã chi không có chứng từ hợp pháp theo quy định của Bộ Tài chính.

Sau khi nhận được quyết định trên của Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang, ngày 10-01-2002 và ngày 24-01-2002  ông ổn và ông Khái đã làm đơn khiếu nại. Nhưng hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu mà khiếu nại không được giải quyết, nên vào các ngày 15 và 16-05-2002 ông ổn và ông Khái đã khởi kiện Quyết định số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang tại Toà án nhân dân huyện Kbang và Toà án nhân dân huyện Kbang đã thụ lý vụ án.

Ngày 22-08-2002, Toà án nhân dân huyện Kbang đã ra Quyết định số 02/Q§-HC đình chỉ việc giải quyết vụ án vì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân.

Hai ông Khái và ổn kháng cáo quyết định đình chỉ nói trên.

Tại Quyết định phúc thẩm số 01/Q§-PT-HC ngày 01-10-2002 Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai đã huỷ Quyết định sơ thẩm số 02/Q§-HC ngày 22-08-2002 của Toà án nhân dân huyện Kbang và chuyển hồ sơ vụ án về Toà án nhân dân huyện Kbang giải quyết lại với lý do: Toà án cấp sơ thẩm đã không xác định tư cách tham gia tố tụng của các đương sự…; lý do để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án chưa rõ ràng; việc xác minh thu thập chứng cứ không đúng nguyên tắc…

Ngày 28-11-2002, Toà án nhân dân huyện Kbang ra Quyết định số 03/Q§-§C-HC đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính vì Quyết định số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang bị khởi kiện không phải là loại quyết định hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.

Hai ông Khái và ổn kháng cáo.

Tại Quyết định phúc thẩm số 01/Q§-PT-HC ngày 02-01-2003 Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai giữ nguyên Quyết định sơ thẩm số 03/Q§-§C-HC ngày 28-11-2002 của Toà án nhân dân huyện Kbang về phần đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính với lý do: ”Quyết định số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang bị khởi kiện không phải là loại quyết định hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án”. Ngoài ra, tại Quyết định số 01/Q§-PT-HC ngày 02-01-2003 Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai còn sửa lại quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về án phí đối với ông Khái và ổn.

Tại Quyết định số 03/KN-AHC ngày 30-06-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định phúc thẩm số 01/Q§-PT-HC ngày 02-01-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai và đề nghị ”Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng huỷ Quyết định sơ thẩm số 03/Q§-§C-HC ngày 28-11-2002 của Toà án nhân dân huyện Kbang, Quyết định phúc thẩm số 01/Q§-PT-HC ngày 02-01-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai, chuyển hồ sơ vụ kiện về cấp sơ thẩm xét xử từ đầu theo thủ tục chung” với các lý do chính sau:

Quan hệ tài chính giữa nhân dân tổ dân phố trong việc liên hệ xin đường điện với Ban điện là quan hệ dân sự ; trường hợp nhân dân tự nguyện đóng góp để liên hệ làm đường điện sinh hoạt của tổ dân phố 3, 4 và thôn 10 là việc làm tự nguyện của dân, các hộ không yêu cầu hai ông (Khái và ổn) phải nộp lại số tiền đã chi phí. Do vậy, Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang căn cứ vào Nghị định số 24/1999/N§-CP ngày 06-04-1999 của Chính phủ để ra Quyết định số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 để thu hồi sung vào ngân sách thị trấn khoản tiền 11.857.000 đồng mà hai ông Khái và ổn chi không có chứng từ hợp pháp là không đúng pháp luật, cần xem xét để huỷ quyết định trên.

Quyết định số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang là thu hồi tài sản. Tuy về từ ngữ dùng trong quyết định hành chính và điều luật có khác nhau nhưng về nội dung của việc thu hồi lại sung vào ngân sách của thị trấn Kbang là giống nhau. Vì chỉ có tịch thu tài sản mới sung công qũy. Do vậy, quyết định của Ựỷ ban nhân dân huyện về thu hồi số tiền 11.857.000 đồng mà ông Khái và ông ổn chi phí là quyết định hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân theo quy định tại (khoản 7 §iều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính). Việc Toà án nhân dân huyện Kbang ra Quyết định số 03/Q§-§C-HC ngày 28-11-2002 về việc đình chỉ việc giải quyết vụ án hành chính, Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai ra Quyết định phúc thẩm số 01/Q§-PT-HC ngày 02-01-2003 giữ nguyên quyết định sơ thẩm trên vì cả hai cấp đều cho rằng quyết định hành chính số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang không thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân giải quyết là không đúng pháp luật.

Tại Quyết định số 01/G§T-HC ngày 06-08-2003 Hội đồng xét xử giám đốc thẩm của Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao đã quyết định: bác kháng nghị số 03/KN-AHC ngày 30-06-2003 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên Quyết định hành chính phúc thẩm số 01/Q§-PT-HC ngày 02-01-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai.

Tại Quyết định số 09/KN-AHC ngày 25-11-2003 Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định số 01/G§T-HC ngày 06-08-2003 của Hội đồng xét xử Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử huỷ các quyết định của cấp xét xử sơ thẩm, cấp xét xử phúc thẩm và quyết định giám đốc thẩm nêu trên của Hội đồng xét xử của Toà Hành chính Toà án nhân dân tối  cao để chuyển hồ vụ án về cấp sơ thẩm xét xử lại theo thủ tục chung với các lý do chính như sau:

Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang áp dụng Nghị định số 24/1999/N§-CP ngày 16-04-1999 của Chính phủ để ra Quyết định số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 để thu hồi  11.857.000 đồng sung vào ngân sách thị trấn Kbang mà ông Khái và ông ổn đã chi là không đúng pháp luật và đã can thiệp quá sâu vào quan hệ dân sự giữa Ban điện với các hộ dân

Xét về thẩm quyền: Quyết định số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang là thu hồi tài sản. Tuy về từ ngữ dùng trong quyết định hành chính trên và điều luật có khác nhau nhưng về nội dung của việc thu hồi lại sung vào ngân sách của thị trấn Kbang là tịch thu tài sản.Vì trong thực tế chỉ có tịch thu tài sản mới sung công qũy, còn thu hồi tài sản thì phải trả cho người có quyền sở hữu. Trong trường hợp vụ việc này, Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang không đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách cho nhân dân liên hệ xin đường điện, mà nhân dân tự nguyện đóng góp nên. Do đó, chính các hộ dân mới là người định đoạt số tiền mà họ đã giao cho Ban điện chứ không phải Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang. Vậy quyết định số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang thực chất là quyết định tịch thu tài sản của ông Khái và ổn mà các ông có được từ việc thoả thuận với các hộ dân. Do vậy, Quyết định số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang là quyết định hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo quy định tại khoản 7  §iều 11, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.

XéT THấỊ:

Quyết định số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang là quyết định hành chính của cơ quan hành chính Nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, xét về hình thức (tiêu đề) của Quyết định số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang thì đây là quyết định ”về việc thu hồi số tiền đóng góp làm đường điện của tổ dân phố 3+4 thị trấn chi sai mục đích sung vào ngân sách thị trấn Kbang”; còn nội dung của quyết định là ”thu hồi sung vào ngân sách thị trấn khoản tiền mà hai ông Vũ Xuân Khái và ông Vi ổn chi sai mục đích không có chứng từ hợp pháp (từ nguồn đóng góp xây dựng đường điện của nhân dân tổ dân phố 3+4 thị trấn Kbang…) là11.857.000đ… ” để ”đầu tư xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo đề nghị của hai tổ dân phố 3 + 4”. Như vậy, xét cả về hình thức và nội dung thì Quyết định số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 của Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang không phải là quyết định tịch thu tài sản (của ông Khái và ông ổn) nên việc khiếu kiện không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính. Số tiền trên không phải là tài sản riêng của ông Khái và ông ổn mà là tiền của nhân dân các tổ dân phố 3+4 thị trấn Kbang tự nguyện nộp cho Ban điện để liên hệ xin xây dựng đường điện cho các tổ dân phố nói trên. Ậng Khái và ông ổn chỉ là những người được giao quản lý, sử dụng số tiền này. Vì vậy, nếu người có thẩm quyền đã có đủ căn cứ để xác định ông Khái và ông ổn chi tiêu số tiền trên không có đủ chứng từ hợp pháp thì có quyền buộc ! các ông này nộp lại (thu hồi lại), số tiền trên. Trong trường hợp này, Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang đã quyết định thu hồi số tiền 11.857.000 đồng, mà Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang cho rằng các ông Khái và ổn chi không có đủ chứng từ hợp pháp, sung vào ngân sách thị trấn để đầu tư xây dựng một số công trình phúc lợi tập thể theo đề nghị của hai tổ dân phố 3+4. Vì vậy, không thể đồng nhất khái niệm thu hồi tài sản với khái niệm tịch thu tài sản đối với số tiền nói trên với lý do “thu hồi sung vào ngân sách thị trấn Kbang” có nghĩa là tịch thu tài sản.

Toà án nhân dân huyện Kbang (tại Quyết định hành chính sơ thẩm số 03/Q§-§C-HC ngày 28-11-2002); Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai (tại Quyết định Hành chính phúc thẩm số 01/Q§-PT-HC ngày 02-0l-2003) và Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao (tại Quyết định số 01/G§T-HC ngày 06-08-2003) đã căn cứ vào điểm g khoản 1 §iều 41 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án với lý do việc khiếu kiện của ông Khái và ông ổn đối với Quyết định số 01/2002/Q§-ỰB ngày 02-01-2002 Ựỷ ban nhân dân huyện Kbang không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính là có căn cứ và đúng pháp luật.

Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 1 §iều 72 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính,

QỰỊếT §ịNH:

Bác Kháng nghị số 09/KN-AHC ngày 25-11-2003 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên Quyết định giám đốc thẩm số 01/G§T-HC ngày 06-08-2003 của Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao.


Lý do bác Kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và giữ nguyên Quyết định giám đốc thẩm:

- Ậng Khái và ông ổn chỉ là những người được giao quản lý và sử dụng tiền. Do đó nếu người có thẩm quyền đã có đủ căn cứ để xác định ông Khái và ông ổn chi tiêu số tiền này mà không đủ chứng từ hợp pháp thì có quyền buộc các ông này nộp lại số tiền trên.

- Việc Toà Hành chính Toà án nhân dân tối cao đã ra quyết định số 01/G§T-HC ngày 06-08-2003 đình chỉ việc giải quyết vụ án với lý do việc khiếu kiện của ông Khái và ông ổn không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bằng vụ án hành chính là có căn cứ và đúng pháp luật.


Quyết định số 03/2004/ H§TP-HC
Ngày 30-06-2004 Về vụ án Tranh chấp
hành chính giữa ông Nguyễn Xuân Hoàng
và Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận

Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao

………

Tại phiên toà ngày 30-06-2004 xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án hành chính có các đương sự :

- Người khởi kiện: Ậng Nguyễn Xuân Hoàng, sinh năm 1934, trú tại số 144 đường Võ Thị Sáu, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận.

- Người bị kiện: Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Công ty Xuất nhập khẩu thủy sản tỉnh Bình Thuận.

NHậN THấỊ:

Diện tích đất 1.365 m2 tại thửa 63 tờ bản đồ số 30 đường Huyền Trân Công Chúa (cũ) nay là số 146 đường Võ Thị Sáu, thành phố Phan Thiết có nguồn gốc của ông Nguyễn Xuân Lộc lập tờ cho đất đề ngày 2/9 năm Bảo §ại thứ 5 cho ông Nguyễn Xuân Hoàng. Do đất bỏ hoang nên từ năm 1955 đến năm 1975, ông §ặng §ại Thọ đã cất nhà và sử dụng phần diện tích trên và cho rằng đất này đã mua của ông Nguyễn Văn §ây.

Năm 1968, ông Nguyễn Xuân Hoàng có đơn kiện đòi ông §ặng §ại Thọ trả lại đất. Toà án chế độ cũ đã xử phúc thẩm bác đơn khởi kiện của ông Nguyễn Xuân Hoàng. Ậng Nguyễn Xuân Hoàng khiếu nại đến Tối cao pháp viện (Sài Gòn) nhưng chưa được giải quyết thì miền Nam được giải phóng.

Ậng §ặng §ại Thọ thuộc đối tượng cải tạo tư sản nên ngày 31-12-1975 Chính quyền Cách mạng ban hành Quyết định số 11/Q§-X2BT tịch thu toàn bộ nhà ở, cơ sở sản xuất nước mắm và quản lý lô đất số 146 đường Võ Thị Sáu và sau đó giao cho Xí nghiệp đông lạnh (THAỤ MỌX) quản lý lô đất trên.

Từ năm 1977 đến nay, Xí nghiệp đông lạnh thuộc Công ty Xuất nhập khẩu thuỷ sản quản lý, sử dụng và đã xây dựng một nhà tập thể và dãy nhà phòng ăn cho công nhân viên của Xí nghiệp đông lạnh.

Năm 1992, ông Nguyên Xuân Hoàng làm đơn xin lại diện tích đất Xí nghiệp đông lạnh đang quản lý.

Ngày 05-01-1996, Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận ban hành Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT không chấp nhận việc xin lại khu đất tại 146 đường Võ Thị Sáu của ông Nguyễn Xuân Hoàng. Không đồng ý với quyết định trên, ông Nguyễn Xuân Hoàng gởi đơn khiếu nại đến Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận.

Ngày 07-02-2001, Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận ban hành Quyết định số 196/Q§-ỰB-BT giải quyết đơn khiếu nại của ông Nguyễn Xuân Hoàng với nội dung giữ nguyên Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT ngày 05-01-1996.

Ậng Nguyễn Xuân Hoàng tiếp tục khiếu nại đến Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận.

Ngày 08-07-2002, Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận có Công văn số 1976/ỰBBT-NC không chấp nhận nội dung đơn khiếu nại của ông Nguyễn Xuân Hoàng.

Ngày 16-08-2002, ông Nguyễn Xuân Hoàng khởi kiện vụ án hành chính yêu cầu hủy Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT ngày 05-01-1996 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận.

Bản án hành chính sơ thẩm số 02/HCST ngày 31-07-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Thuận đã xét xử bác đơn khởi kiện của ông Nguyễn Xuân Hoàng về việc yêu cầu huỷ Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT ngày 05-01-1996 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận.

Ngày 04-08-2003, ông Nguyễn Xuân Hoàng có đơn kháng cáo.

Bản án hành chính phúc thẩm số 31/HCPT ngày 17-11-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử huỷ Bản án hành chính sơ thẩm số 02/HCST ngày 31-07-2003 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Thuận, chuyển hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh Bình Thuận để xác minh, thu thập chứng cứ xét xử sơ thẩm lại.

Ngày 29-01-2004, Toà án nhân dân tỉnh Bình Thuận có Công văn số 05/HC-TA đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 31/HCPT ngày 17-11-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.

Tại Quyết định số 04/HC-TK ngày 15-04-2004, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm số 31/HCPT ngày 17-11-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng sửa toàn bộ Bản án hành chính phúc thẩm số 31/HCPT ngày 17-11-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT ngày 05-01-1996 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận về việc giải quyết khiếu nại xin lại đất thổ cư của ông Nguyễn Xuân Hoàng.

Tại Kết luận số 08/KL-AHC ngày 24-05-2004, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kết luận kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao là cần thiết và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử theo hướng sửa toàn bộ Bản án hành chính phúc thẩm số 31/HCPT ngày 17-11-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT ngày 05-01-1996 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận về việc giải quyết khiếu nại xin lại đất thổ cư của ông Nguyễn Xuân Hoàng.

XéT THấỊ:

Khi ông Nguyễn Xuân Hoàng gửi đơn xin lại đất thổ cư tại số 146 đường Võ Thị Sáu, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận ban hành Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT ngày 05-01-1996 giải quyết khiếu nại xin lại đất thổ cư của ông Nguyễn Xuân Hoàng. Quyết định trên của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận là quyết định giải quyết khiếu nại liên quan đến lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai được quy định tại khoản 7 §iều 13 Luật §ất đai năm 1993 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 1998 và năm 2001). Do vậy, căn cứ khoản 5 §iều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Toà án cấp phúc thẩm cho rằng Toà án cấp sơ thẩm ”chưa xác minh, thu thập chứng cứ để xác định Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT ngày 05-01-1996 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận là quyết định hành chính trong việc trưng dụng, trưng mua, tịch thu tài sản hay chỉ là quyết định trả lời giải quyết khiếu nại xin lại đất thổ cư của ông Nguyễn Xuân Hoàng đối với Quyết định số 11/Q§/X2/BT ngày 31-12-1975 của Ựỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh Bình Thuận về việc tịch thu tài sản của ông  §ặng §ại Thọ nhưng đã áp dụng khoản 5 §iều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính để thụ lý giải quyết vụ án (đối với Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT ngày 05-01-1996 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận) là chưa chính xác” và xem đây là một lý do để huỷ án sơ thẩm là không có căn cứ.

Không đồng ý với Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT ngày 05-01-1996 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận, ông Nguyễn Xuân Hoàng đã khiếu nại đến Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận. Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận đã ban hành Quyết định số 196/Q§-ỰB-BT ngày 07-02-2001 giải quyết khiếu nại lần đầu của ông Nguyễn Xuân Hoàng. Sau khi nhận được Quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu số 196/Q§-ỰB của Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận, ông Nguyễn Xuân Hoàng tiếp tục gửi đơn khiếu nại đến Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận. Lẽ ra, Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận phải trả lại đơn khiếu nại cho ông Nguyễn Xuân Hoàng và hướng dẫn cho ông Nguyễn Xuân Hoàng hoặc là khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo, hoặc là khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án. Nhưng Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận tiếp tục nhận đơn của ông Nguyễn Xuân Hoàng và ngày 08-07-2002 mới có Công văn số 1976/ỰBBT-NC trả lời đơn khiếu nại tiếp của ông Nguyễn Xuân Hoàng. Sau khi nhận được Công văn số 1976/ỰB-BT-NC ngày 08-07-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận, ngày 16-08-2002 ông Nguyễn Xuân Hoàng làm đơn khởi kiện vụ án hành chính đối với Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT ngày 05-01-1996. Việc ông Nguyễn Xuân Hoàng không khởi kiện trong thời hạn luật định là do có phần lỗi của cơ quan hành chính Nhà nước sau khi đã có quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu lại tiếp tục nhận đơn khiếu nại của ông Nguyễn Xuân Hoàng để giải quyết lần nữa. Cho nên cần coi đây là trở ngại khách quan khác quy định tại §iều 30 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ �! �n hành chính để tính lại thời hiệu khởi kiện cho ông Nguyễn Xuân Hoàng. Khi nhận được Công văn số 1976/ỰB-BT-NC ngày 08-07-2002 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình  Thuận, ông Nguyễn Xuân Hoàng đã làm đơn khởi kiện. Do vậy, việc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý đơn khởi kiện của ông Nguyễn Xuân Hoàng để giải quyết bằng vụ án hành chính là có căn cứ.

Trong đơn khởi kiện cũng như các lời khai tại Toà án, ông Nguyễn Xuân Hoàng xin lại diện tích đất tại thửa 63 tờ bản đồ số 30 đường Huyền Trân Công Chúa (cũ) nay là số 146 đường Võ Thị Sáu hiện do Công ty Xuất nhập khẩu thuỷ sản Bình Thuận quản lý, sử dụng. Trong quá trình thu thập chứng cứ, lời khai của ông §ặng §ại Toàn – là con của ông §ặng §ại Thọ, của ông Từ Nghi Lễ – đại diện Công ty Xuất nhập khẩu thuỷ sản tỉnh Bình Thuận đều xác định diện tích đất của ông Nguyễn Xuân Hoàng đòi lại chính 1à mảnh đất mà ông §ặng §ại Thọ đã sử dụng và hiện nay Xí nghiệp đông lạnh thuộc Công ty Xuất nhập khẩu thủy sản tỉnh Bình Thuận đang quản lý sử dụng. Toà án cấp phúc thẩm cho rằng, cần phải ”xác định Quyết định số 11/Q§/X2/BT ngày 31-12-1975 của Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh Bình Thuận có tịch thu lô đất số 63 tờ thứ 30 đường Huyền Trân Công Chúa, Phan Thiết hay không” và phải ”xác định lô đất số 63 tờ thứ 30 đường Huyền Trân Công Chúa trước kia có phải là số 146 đường Võ Thị Sáu, thành phố Phan Thiết hiện nay do Xí nghiệp thuỷ sản Phan Thiết đang sử dụng hay không” là không cần thiết.

Với những phân tích trên, thấy rằng, Bản án hành chính phúc thẩm số 31/HCPT ngày 17-11-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã nhận định Toà án cấp sơ thẩm chưa xác định rõ về thẩm quyền loại việc được qui định tại khoản 5 hay khoản 7 §iều 11 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, chưa tuân thủ về thời hạn khởi kiện, xác minh thu thập chứng cứ không đầy đủ để huỷ Bản án hành chính sơ thẩm số 02/HCST ngày  31-07-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận là không đúng.

Xét diện tích đất 1.365m2 tại số 146 đường Võ Thị Sáu tuy có nguồn gốc của gia tộc ông Nguyễn Xuân Hoàng, nhưng từ năm 1975 Nhà nước đã quản lý và giao cho Xí nghiệp đông lạnh thuộc Công ty Xuất nhập khẩu thuỷ sản tỉnh Bình Thuận sử dụng và ông Nguyễn Xuân Hoàng không trực tiếp quản lý, sử dụng, không đăng ký, kê khai quyền sử dụng đất theo quy định của Nhà nước về quản lý đất đai, không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Khi giải quyết việc ông Nguyễn Xuân Hoàng xin lại diện tích đất tại số 146 đường Võ Thị Sáu, Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận đã ban hành Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT ngày 05-01-1996 không chấp nhận đơn của ông Nguyễn Xuân Hoàng xin lại đất là đúng pháp luật và chính sách quản lý đất đai của Nhà nước.

Vì vậy, cần phải sửa toàn bộ Bản án hành chính phúc thẩm số 31/HCPT ngày 17-11-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT ngày 05-01-1996 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận về việc giải quyết khiếu nại xin lại đất thổ cư của ông Nguyễn Xuân Hoàng.

Bởi các lẽ trên;

Căn cứ vào khoản 4 §iều 72 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính,

QỰỊếT §ịNH:

Sửa toàn bộ Bản án hành chính phúc thẩm số 31/HCPT ngày 17-11-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giữ nguyên Quyết định số 15/Q§-ỰB-BT ngày 05-01-1996 của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận về việc giải quyết khiếu nại xin lại đất thổ cư tại số 146 đường Võ Thị Sáu, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận của ông Nguyễn Xuân Hoàng.

Miễn án phí hành chính sơ thẩm và án phí hành chính phúc thẩm cho ông Nguyễn Xuân Hoàng.


- Lý do sửa toàn bộ Bản án phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao và giữ nguyên Quyết định của Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận:

- Toà án cấp phúc thẩm cho rằng toà án cấp sơ thẩm chưa xác minh thu thập chứng cứ để giải quyết vụ án là chưa chính xác và đây được xem là lý do để hủy Bản án sơ thẩm là không có căn cứ.

- Việc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý đơn khởi kiện của ông Nguyễn Xuân Hoàng để giải quyết bằng vụ án hành chính là có căn cứ.

- Toà án cấp phúc thẩm cho rằng phải xác định quyết định của Chủ tịch Ựỷ ban nhân dân cách mạng tỉnh Bình Thuận về lô đất số 63 tờ thứ 30 trên đường Huyền Trân Công Chúa trước kia có phải  là số 146 đường Võ Thị Sáu ngày nay hay không là không cần thiết.

- Ựỷ ban nhân dân tỉnh Bình Thuận đã không chấp nhận đơn của ông Nguyễn Xuân Hoàng xin lại đất là đúng pháp luật và chính sách quản lý đất đai của Nhà nước. Bởi vì từ năm 1975 mảnh đất này đã giao cho Xí nghiệp đông lạnh thuộc Công ty Xuất nhập khẩu thuỷ sản trực tiếp quản lý, sử dụng, đồng thời ông Nguyễn Xuân Hoàng không trực tiếp quản lý, sử dụng, không đăng ký kê khai và cũng không thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét