Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

Nhat ky trong tu

Mục lục

Nhật ký trong tù

Mở đầu tập nhật ký

Bị bắt giữ ở phố Túc Vinh

Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây

Đường đời hiểm trở

Buổi sớm

Buổi trưa

Lời hỏi

Quá trưa

Chiều hôm

Cơm tù

Bạn tù thổi sáo

Cái cùm

Học đánh cờ

Ngắm trăng

Chia nước

Trung thu

Đánh bạc

Tù đánh bạc

Bạn tù họ Mạc

Bạn tù L, nguyên là chủ nhiệm

Tết Song thập bị giải đi Thiên Bảo

Đi đường

Chiều tối

Đêm ngủ ở Long Tuyền

Điền Đông

Mới đến nhà lao Thiên Bảo

Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng

Các báo đăng tin: Đại hội hoan nghênh Willkie

Tự khuyên mình

Cảnh đồng nội

Hàng cháo

Nhà lao Quả Đức

Bác Lưu, Sở trưởng Long An

Giải đi sớm

Đồng Chính

Chăn giấy của người bạn tù

Đêm lạnh

Dây trói

Rụng mất một chiếc răng

Long An – Đồng Chính

Trên đường phố

Trên đường đi

Gia quyến người bị bắt lính

Pha trò

Đi Nam Ninh

Cảnh binh khiêng lợn cùng đi

Hụt chân ngã

Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh

Nhà ngục Nam Ninh

Buồn bực

Nghe gà gáy

Một người tù cờ bạc chết cứng

Lại một người nữa…

Cấm hút thuốc

Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng

Hoàng hôn

Tiền công

Ngủ không được

Nhớ bạn

Viết hộ báo cáo cho các bạn tù

Ghẻ lở

Nghe tiếng giã gạo

Ngày 11 tháng 11

Báo động

Chơi chữ

"Quán trọ"

Nắng sớm

"Việt Nam có bạo động"

Đoàn đại biểu Anh sang thăm Trung Hoa

Giải đi Vũ Minh

Thịt chó ở Bào Hương

Phu làm đường

Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta

Cột cây số

Cháu bé trong ngục Tân Dương

Gửi Nehru

Tiền đèn

Sinh hoạt trong tù

Tiên sinh họ Quách

Trưởng ban họ Mạc

Nhà lao Thiên Giang

Nhật ký trong tù

獄中日記

Ngục trung nhật ký

Nhật ký trong tù

 

身体在獄中

精神在獄外

欲成大事業

精神更要大

 

Thân thể tại ngục trung

Tinh thần tại ngục ngoại

Dục thành đại sự nghiệp

Tinh thần cánh yếu đại

Bản dịch của Nam Trân:

Thân thể ở trong lao,

Tinh thần ở ngoài lao;

Muốn nên sự nghiệp lớn,

Tinh thần phải càng cao.

 

Trong nguyên bản, bốn câu thơ này không có đầu đề, chép ở ngoài bìa tập Ngục trung nhật ký cùng hình vẽ hai tay bị xiềng, có lẽ được tác giả xem như lời đề từ cho toàn tập.

Mở đầu tập nhật ký

開卷

Khai quyển

Mở đầu tập nhật ký

 

老夫原不愛吟詩

因為囚中無所為

聊借吟詩消永日

且吟且待自由時

 

Lão phu nguyên bất ái ngâm thi

Nhân vị tù trung vô sở vi

Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật

Thả ngâm thả đãi tự do thì

Bản dịch của Nam Trân:

Ngâm thơ ta vốn không ham,

Nhưng vì trong ngục biết là chi đây;

Ngày dài ngâm đợi cho khuây,

Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.

Bị bắt giữ ở phố Túc Vinh

 在足榮街被扣留

Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu

Bị bắt giữ ở phố Túc Vinh

 

足榮却使余蒙辱

故意遲延我去程

間諜嫌疑空捏造

把人名誉白牺牲

 

Túc Vinh khước sử dư mông nhục

Cố ý trì diên ngã khứ trình

Gián điệp hiềm nghi không niết tạo

Bả nhân danh dự bạch hy sinh

Bản dịch của Huệ Chi:

Túc Vinh mà để ta mang nhục,

Cố ý dằng dai, chậm bước mình;

Bịa chuyện tình nghi là gián điệp,

Cho người vô cớ mất thanh danh.

 

Túc Vinh là tên một phố ở thị trấn huyện Thiên Bảo, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc; nơi tác giả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt ngày 29/08/1942. Câu đầu bài thơ còn ngụ ý chơi chữ, lấy "mông nhục" (mang nhục) đối lại với "túc vinh" (đủ vinh), làm tăng ý nghĩa mỉa mai hài hước việc bắt người vô lý.

Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây

入靖西縣獄

Nhập Tĩnh Tây huyện ngục

Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây

 

獄中舊犯迎新犯

天上晴雲逐雨雲

晴雨浮雲飛去了

獄中留住自由人

 

Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm

Thiên thượng tình vân trục vũ vân

Tình vũ phù vân phi khứ liễu

Ngục trung lưu trú tự do nhân

Bản dịch của Nam Trân:

Trong lao tù cũ đón tù mới,

Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa;

Tạnh, mưa, mây nổi bay đi hết,

Còn lại trong tù khách tự do.

 

Tĩnh Tây là một huyện thuộc Quảng Tây, gần biên giới Trung – Việt. Tác giả bị bắt ở huyện Thiên Bảo cách Tĩnh Tây khá xa nhưng lại bị đưa ngược về Tĩnh Tây giam giữ.

Đường đời hiểm trở

 世路難

Thế lộ nan

Đường đời hiểm trở

走遍高山與峻岩

那知平路更

高山遇虎終無恙

平路逢人却被監

余原代表越南民

擬到中华見要人

無奈風波平地起

送余入獄作嘉賓

忠誠我本無心疚

却被嫌疑做漢奸

處世原來非易易

而今處世更難難

 

Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham

Na tri bình lộ cánh nan kham

Cao sơn lộ hổ chung vô dạng

Bình lộ phùng nhân khước bị giam.

 

Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân

Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân

Vô nại phong ba bình địa khởi

Tống dư nhập ngụ tác gia tân

 

Trung thành ngã bản vô tâm cứu

Khước bị hiềm nghi tố Hán gian

Xử thế nguyên lai phi dị dị

Nhi kim xử thế cánh nan nan.

Bản dịch của Nam Trân:

Đi khắp đèo cao, khắp núi cao,

Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao!

Núi cao gặp hổ mà vô sự,

Đường phẳng gặp người bị tống lao?!

 

Ta là đại biểu dân Việt Nam,

Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;

Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,

Phải làm "khách quý" ở nhà giam!

 

Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng,

Lại bị tình nghi là Hán gian;

Xử thế từ xưa không phải dễ,

Mà nay, xử thế khó khăn hơn.

Buổi sớm

Tảo

Buổi sớm

太陽每早從牆上

照着龍門門未開

籠裡現時還黑暗

光明却已面前來

早起人人争獵虱

八鐘响了早餐開

勸君且吃一個飽

否極之時必泰來

 

Thái dương mỗi tảo tòng tường thượng

Chiếu trước lung môn môn vị khai

Lung lý hiện thời hoàn hắc ám

Quang minh khước dĩ diện tiền lai.

 

Tảo khởi nhân nhân tranh liệp sắt

Bát chung hưởng liễu tảo xan khai

Khuyến quân thả ngật nhất cá bão

Bĩ cực chi thì tất thái lai.

Bản dịch của Nam Trân – Xuân Thủy:

Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc,

Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài;

Trong ngục giờ đây còn tối mịt,

Ánh hồng trước mặt đã bừng soi.

 

Sớm dậy, người người đua bắt rận,

Tám giờ chuông điểm, bữa ban mai;

Khuyên anh hãy gắn ăn no bụng,

Bĩ cực rồi ra ắt thái lai.

Buổi trưa

 午

Ngọ

Buổi trưa

 

獄中睡真舒服

一睡昏昏幾句鐘

夢見乘龍天上去

醒時才覺卧籠中

 

Ngục trung ngọ thụy chân như phục

Nhất thụy hôn hôn kỷ cú chung

Mộng kiến thừa long thiên thượng khứ

Tỉnh thời tài giác ngọa lung trung

Bản dịch của Nam Trân:

Trong tù khoan khoái giấc ban trưa,

Một giấc miên man suốt mấy giờ;

Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới,

Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ.


Lời hỏi

 問話

Vấn thoại

Lời hỏi

 

社會的兩極

法官與犯人

官曰你有罪

犯曰我良民

官曰你說假

犯曰我言真

法官性本善

假裝惡狺狺

要入人於罪

卻假意慇懃

這兩極之奸

立著公理神

 

Xã hội đích lưỡng cực,

Pháp quan dữ phạm nhân;

Quan viết: nhĩ hữu tội,

Phạm viết: ngã lương dân;

Quan viết: nhĩ thuyết giả,

Phạm viết: ngã ngôn chân;

Pháp quan tính bản thiện,

Giả trang ác ngân ngân;

Yếu nhập nhân ư tội,

Khước giả ý ân cần;

Giá lưỡng cực chi gian,

Lập trước công lý thần.

Bản dịch của Huệ Chi – Nguyễn Sĩ Lâm

Hai cực trong xã hội,

Quan toà và phạm nhân;

Quan rằng: anh có tội,

Phạm thưa: tôi lương dân;

Quan rằng: anh nói dối,

Phạm thưa: thực trăm phần;

Quan toà tính vốn thiện,

Vờ làm bộ dữ dằn;

Muốn khép người vào tội,

Lại ra vẻ ân cần;

Ở giữa hai cực đó,

Công lý đứng làm thần.

Quá trưa

午後

Ngọ hậu

Quá trưa

 

二點開籠換空氣

人人仰看自由天

自由天上神仙客

知否籠中也有仙

 

Nhĩ điểm khai lung hoán không khí

Nhân nhân ngưỡng khán tự do thiên

Tự do thiên thượng thần tiên khách

Tri phủ lung trung dã hữu tiên.

Bản dịch của Nam Trân:

Hai giờ ngục mở thông hơi,

Tù nhân ngẩng mặt ngắm trời tự do;

Tự do tiên khách trên trời,

Biết chăng trong ngục có người khách tiên?

Bản dịch của Vũ Huy Động:

Hai giờ ngục mở thay không khí,

Ai nấy nhìn lên: trời tự do!

Tiên khách tự do trên thượng giới,

Biết chăng, tiên cũng ở trong tù?

Chiều hôm

 

Vãn

Chiều hôm

 

晚餐吃了日西沉

處處山歌與樂音

幽暗靖西禁閉室

忽成美術小翰林

 

Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm

Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm

U ám Tĩnh Tây cấm bế thất

Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm.

Bản dịch của Nam Trân:

Cơm xong, bóng đã xuống trầm trầm,

Vang tiếng đàn ca, rộn tiếng ngâm;

Nhà ngục Tĩnh Tây mờ mịt tối,

Bỗng thành nhạc quán viện hàn lâm.


Cơm tù

 囚粮

Tù lương

Cơm tù

 

每餐一碗紅米飯

無盐無菜又無湯

有人送飯吃得飽

没人送飯喊爺娘

 

Mỗi xan nhất uyển hồng mễ phạn

Vô diêm vô thái hựu vô thang

Hữu nhân tống phạn ngật đắc bão

Một nhân tống phạn hám gia nương

Bản dịch của Nam Trân – Băng Thanh:

Không rau, không muối, canh không có,

Mỗi bữa lưng cơm đỏ gọi là;

Có kẻ đem cơm còn chắc dạ,

Không người lo bữa đói kêu cha.


Bạn tù thổi sáo

 難友吹笛

Nạn hữu xuy địch

Bạn tù thổi sáo

 

獄中忽聽思鄉曲

聲轉淒涼調轉愁

千里關河無限感

閨人更上一層樓

 

Ngục trung hốt thính tư hương khúc

Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu

Thiên lý quan hà vô hạn cảm

Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu.

Bản dịch của Nam Trân:

Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu,

Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu;

Muôn dặm quan hà, khôn xiết nỗi,

Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.

Bản dịch của Huệ Chi:

Trong lao vẳng khúc nhạc tình quê,

Âm chuyển sầu, thương, điệu tái tê;

Nghìm dặm quan hà, khôn xiết nỗi,

Lên lầu, xa ngóng, khách phòng khuê.

Cái cùm

 脚閘

Cước áp

Cái cùm

狰獰餓口似兇神

晚晚張開把脚吞

各人被吞了右脚

只剩左脚能屈伸

世間更有離奇事

人憫争先上脚鉗

因為有鉗才得睡

無鉗没處可安眠

 

Tranh ninh ngạ khẩu tự hung thần

Vãn vãn trương khai bả cước thôn

Các nhân bị thôn liễu hữu cước

Chỉ thặng tả cước năng khuất thân.

 

Thế gian cánh hưu ly kỳ sự

Nhân mẫn tranh tiên thượng cước kiềm

Nhân vị hữu kiềm tài đắc thụy

Vô kiềm một xứ khả an miên.

Bản dịch của Nam Trân:

Dữ tợn hung thần miệng chực nhai,

Đêm đêm há hốc nuốt chân người;

Mọi người bị nuốt chân bên phải,

Co duỗi còn chân bên trái thôi.

 

Nghĩ việc trên đời kỳ lạ thật,

Cùm chân sau trước cũng tranh nhau;

Được cùm chân mới yên bề ngủ,

Không được cùm chân biết ngủ đâu?

Học đánh cờ

 

學奕棋

Học dịch kỳ

Học đánh cờ

閑坐無聊學奕棋

千兵萬馬共驅馳

進攻退守應神速

高才疾足先得之

眼光應大心應細

堅决時時要進攻

錯路雙車也没用

逢時一卒可成功

雙方勢力本平均

勝利终須屬一人

攻守運籌無漏著

才稱英勇大將軍

 

Nhàn tọa vô liêu học dịch kỳ

Thiên binh vạn mã cộng khu trì;

Tấn công thoái thủ ưng thần tốc,

Cao tài tật túc tiên đắc chi.

 

Nhãn quang ưng đại tâm ưng tế

Kiên quyết thời thời yếu tấn công

Thác lộc song xa dã một dụng

Phùng thời nhất tốt khả thành công?

 

Song phương thế lực thản bình quân

Thắng lợi chung tu thuộc nhất nhân;

Công thủ vận trù vô lậu trước,

Tài xưng anh dũng đại tướng quân.

Bản dịch của Văn Trực – Văn Phụng:

Nhàn rỗi đem cờ học đánh chơi,

Thiên binh vạn mã đuổi nhau hoài;

Tấn công, thoái thủ nên thần tốc,

Chân lẹ, tài cao ắt thắng người.

 

Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ,

Kiên quyết, không ngừng thế tấn công;

Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,

Gặp thời, một tốt cũng thành công.

 

Vốn trước hai bên ngang thế lực,

Mà sau thắng lợi một bên giành;

Tấn công, phòng thủ không sơ hở,

Đại tướng anh hùng mới xứng danh.

Ngắm trăng

 望月

Vọng nguyệt

Ngắm trăng

 

獄中無酒亦無花

對此良宵奈若何

人向窗前看明月

月從窗隙看詩家

 

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa

Đối thử lương tiêu nại nhược hà?

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Bản dịch của Nam Trân:

Trong tù không rượu cũng không hoa,

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

Chia nước

 分水

Phân thủy

Chia nước

 

每人分得水半盆

洗面烹茶各随便

誰要洗面勿烹茶

誰要烹茶勿洗面

 

Mỗi nhân phân đắc thủy bán bồn

Tẩy diện phanh trà các tùy tiện

Thùy yếu tẩy diện vật phanh tra

Thùy yếu phanh tra vật tẩy diện.

Bản dịch của Nam Trân – Trần Đắc Thọ:

Mỗi người nửa chậu nước nhà pha,

Rửa mặt pha trà tự ý ta;

Ai muốn pha trà, đừng rửa mặt,

Ai cần rửa mặt, chớ pha trà.

Trung thu

 

Trung thu

中秋秋月圓如鏡

照耀人間白似銀

家裡团圓吃秋節

不忘獄裡吃愁人

獄中人也賞中秋

秋月秋風帶点愁

不得自由賞秋月

心随秋月共悠悠

Trung thu thu nguyệt viên như kính

Chiếu diệu nhân gian bạch tự ngân

Gia lý đoàn viên ngật thu tiết

Bất vong ngục lý ngật sầu nhân.

 

Ngục trung nhân dã thưởng trung thu

Thu nguyệt thu phong đới điểm sầu

Bất đắc tự do thưởng thu nguyệt

Tâm tùy thu nguyệt cộng du du!

Bản dịch của Văn Trực – Văn Phụng:

Trung thu vành vạnh mảnh gương thu,

Sáng khắp nhân gian bạc một màu;

Sum họp nhà ai ăn tết đó,

Chẳng quên trong ngục kẻ ăn sầu.

 

Trung thu ta cũng tết trong tù,

Trăng gió đêm thu gợn vẻ sầu;

Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt,

Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu.

Đánh bạc

 

Đổ

Đánh bạc

 

民間賭博被官拉

獄裡賭博可公開

被拉賭犯常嗟悔

何不先到這裡來

 

Dân gian đổ bác bị quan lạp

Ngục lý đổ bác khả công khai

Bị lạp đổ phạm thường ta hối

Hà bất tiên đáo giá lý lai!?

Bản dịch của Nam Trân:

Đánh bạc ở ngoài, quan bắt tội,

Trong tù đánh bạc được công khai;

Bị tù, con bạc ăn năn mãi:

Sao trước không vô quách chốn này!?

Tù đánh bạc

 賭

Đổ phạm

Tù đánh bạc

 

公家不給賭犯飯

欲令他們悔前非

硬犯餚饌天天有

窮犯飢涎共淚垂

Công gia bất cấp đổ phạm phạn

Dục linh tha mẫn hối tiền phi

"Ngạnh" phạm hào soạn thiên thiên hữu

Cùng phạm cơ diên cộng lệ thùy.

Bản dịch của Nam Trân – Huệ Chi:

Quan không cấp bữa cho tù bạc,

Để họ mau chừa tội cũ hơn;

Tù "cứng" ngày ngày no rượu thịt,

Tù nghèo, dãi với lệ cùng tuôn.

Bạn tù họ Mạc

 難友幕某

Nạn hữu Mạc mỗ

Bạn tù họ Mạc

 

富家子弟貧家教

賭膽如天膽似鍼

車代炮財真偉大

在囚仍想喫人葠

Phú gia tử đệ, bần gia giáo,

Đổ đảm như thiên, đảm tự châm;

"Xa đại pháo tài", chân vĩ đại,

Tại tù nhưng tưởng ngật nhân sâm.

Bảng dịch của Nam Trân:

Con nhà giàu có, nghèo gia giáo,

Đánh bạc gan trời, mật tựa kim;

"Một tấc lên mây", ghê gớm thật,

Ngồi tù mà vẫn ước nhân sâm.

Bản dịch của Khương Hữu Dụng:

Con nhà giàu, giáo dục nghèo,

To "gan đánh bạc", bé teo "gan người";

Ba hoa khoác lác thật tài,

Ở tù mà lại cứ đòi ăn sâm.

 

"Xa đại pháo tài" là một thành ngữ ở vùng Quảng Đông có nghĩa như "một tấc đến trời".

Bạn tù L, nguyên là chủ nhiệm

 

難友原主任L

Nạn hữu nguyên chủ nhiệm L

Bạn tù L, nguyên là chủ nhiệm

 

國家重托鎮邊陲

胡乃忘公只願私

鉹礦常從邊界去

金錢爐裡鑄囚詩

Quốc gia trọng thác trấn biên thùy

Hồ nãi vong công chỉ nguyện tư?

Thế khoáng thường tòng biên giới khứ

Kim tiền lô lý chú tù thi.

Bản dịch của Nam Trân – Huệ Chi:

Quốc gia phó thác giữ biên khu,

Sao nhãng việc công, mải việc tư?

Quặng thiếc chuồn qua biên giới sạch,

Nên lò đúc bạc… đúc thơ tù.

Tết Song thập bị giải đi Thiên Bảo

 

雙十日解往天保

Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo

Tết Song thập bị giải đi Thiên Bảo

 

家家結綵與張燈

國慶歡聲舉國騰

我却今天被绑解

逆風有意阻飛鵬

Gia gia kết thái dữ trương đăng

Quốc khánh hoan thanh cử quốc đằng

Ngã khước kim thiên bị bang giải

Nghịch phong hữu ý trở phi bằng.

Bản dịch của Nam Trân:

Nhà nhà hoa kết với đèn giăng,

Quốc khánh reo vui cả nước mừng;

Lại đúng hôm nay ta bị giải,

Oái oăm giá cản cánh chim bằng.

 

Tác giả vốn bị bắt ở thị trấn Thiên Bảo, sau đó bị đưa đi giam ở Tĩnh Tây, rồi lại bị giải trở lại Thiên Bảo vào đúng ngày Tết Song thập, tức lễ Quốc khánh 10-10 của Trung Hoa Dân Quốc.

Đi đường

 走路

Tẩu lộ

Đi đường

 

走路才知走路難

重山之外又重山

重山登到高峰後

萬里與图顧盼間

Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan

Trùng san chi ngoại hựu trùng san

Trùng san đăng đáo cao phong hậu

Vạn lý dư đồ cố miện gian.

Bản dịch của Nam Trân:

Đi đường mới biết gian lao,

Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;

Núi cao lên đến tận cùng,

Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

Chiều tối

 暮

Mộ

Chiều tối

 

倦鳥歸林尋宿樹

孤雲慢慢度天空

山村少女磨包粟

包粟磨完炉已烘

Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không

Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc

Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.

Bản dịch của Nam Trân:

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không;

Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng.

Đêm ngủ ở Long Tuyền

 夜宿龍泉

Dạ túc Long Tuyền

Đêm ngủ ở Long Tuyền

 

白天雙馬不停蹄

夜晚嘗嘗五味雞

虱冷乘機來夾擊

隔鄰欣聽曉鶯啼

Bạch thiên "song mã" bất đình đề

Dạ vãn thường thường "ngũ vị kê"

Sắt lãnh thừa cơ lai giáp kích

Cách lân hân thính hiểu oanh đề.

Bản dịch của Nam Trân – Huệ Chi:

"Đôi ngựa" ngày đi chẳng nghỉ chân,

Món "gà năm vị", tối thường ăn;

Thừa cơ rét, rệp xông vào đánh,

Mừng sớm nghe oanh hót xóm gần.

 

Long Tuyền là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, nằm giữa Thiên Bảo và Điền Đông. Tác giả chơi chữ: "song mã" là cỗ xe ngựa cho người quyền quý thời xưa, ngụ ý chỉ đôi chân tác giả; "ngũ vị kê" là một món ăn ngon nổi tiếng của Trung Quốc, ngụ ý chỉ đôi chân tác giả bị xiềng tréo giống như chân gà.

Điền Đông

 田東

Điền Đông

 

每餐一碗公家粥

肚子時時在嘆吁

白飯三元不鉤飽

薪如桂也米如珠

Mỗi xan nhất uyển công gia chúc

Đỗ tử thì thì tại thán nu

Bạch phạn tam nguyên bất câu bão

Tân như quế dã mễ như châu.

Bản dịch của Nam Trân – Hoàng Trung Thông:

Cháo tù mỗi bữa chia lưng bát,

Cái bụng luôn luôn rên rỉ sầu;

Cơm nhạt ba đồng ăn chẳng đủ,

Củi thì như quế, gạo như châu.

 

Điền Đông là một điểm dừng chân khi tác giả bị giải từ Tĩnh Tây đi Nam Ninh.

Mới đến nhà lao Thiên Bảo

 初到天保獄

Sơ đáo Thiên Bảo ngục

Mới đến nhà lao Thiên Bảo

 

日行五十三公里

濕盡衣冠破盡鞋

徹夜又無安睡處

廁坑上坐待朝來

Nhật hành ngũ thập tam công lý

Thấp tận y quan phá tận hài

Triệt dạ hựu vô an thụy xứ

Xí khanh thượng tọa đại triêu lai.

Bản dịch của Huệ Chi:

Năm mươi ba dặm, một ngày trời,

Áo mũ ướt đầm, dép tả tơi;

Lại khổ thâu đêm không chốn ngủ,

Ngồi trên hố xí đợi ban mai.

Bản dịch của Khương Hữu  Dụng – Nguyễn Sĩ Lâm:

Ngày cuốc năm mươi ba cột số,

Ướt đầm mũ áo, rách bươm giày;

Thâu đêm lại chẳng nơi yên giấc,

Ngồi trấn cầu tiêu, đợi sáng ngày.

Dị bản:

Năm mươi ba cây số một ngày,

Áo mũ dầm mưa, rách hết giày;

Lại khổ thâu đêm không chỗ ngủ,

Ngồi trên hố xí đợi ban mai.

Dị bản:

Năm mươi ba dặm một ngày,

Áo khăn ướt sũng, đôi giày xách xơ;

Thâu đêm thôi cứ thức trơ,

Ngồi trên hố xí đợi chờ sáng ra.

 

Không hiểu tại sao bài này lại nằm sau bài Điền Đông?! Có lẽ là hồi ức của tác giả về quãng đường đi từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo chăng?

Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng

 

難友之妻探監

Nạn hữu chi thê thám giam

Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng

 

君在铁窗裡

妾在铁窗前

相近在咫尺

相隔似天渊

口不能說的

只賴眼傳言

未言淚已滿

情景真可憐

Quân tại thiết song lý

Thiếp tại thiết song tiền

Tương cận tại chỉ xích

Tương cách tự thiên uyên

Khẩu bất năng thuyết đích

Chỉ lại nhãn truyền nghiên

Vị ngôn lệ dĩ mãn

Tình cảnh chân khả liên!

Bản dịch của Nam Trân – Hoàng Trung Thông:

Anh ở trong song sắt,

Em ở ngoài song sắt;

Gần nhau chỉ tấc gang,

Mà cách nhau trời vực;

Miệng nói chẳng nên lời,

Chỉ còn nhờ khóe mắt;

Chưa nói, lệ tuôn tràn,

Cảnh tình đáng thương thật!

Các báo đăng tin: Đại hội hoan nghênh Willkie

 各報:歡迎威基大會

Các báo: Hoan nghênh Uy-ki Đại hội

Các báo đăng tin: Đại hội hoan nghênh Willkie

 

同是中國友

同是要赴渝

君為坐上客

我為階下囚

同是代表也

待遇胡懸殊

人情分冷熱

自古水東流

Đồng thị Trung Quốc hữu

Đồng thị yếu phó Du

Quân vi tọa thượng khách

Ngã vi giai hạ tù

Đồng thị đại biểu dã

Đãi ngộ hồ huyền thù?

Nhân tình phân lãnh nhiệt

Tự cổ thủy đông lưu.

Bản dịch của Nam Trân:

Cũng là đi Trùng Khánh,

Cũng là bạn Trung Hoa;

Anh, làm khách trên sảnh,

Tôi, thân tù dưới nhà;

Cùng là đại biểu cả,

Khinh trọng sao khác xa?

Thói thường chia ấm lạnh,

Về đông nước chảy mà!

 

Uy-ki tức Wendell Willkie, đại biểu Mỹ trong phe Đồng minh chống phát-xít, trên đường đến Trùng Khánh, đi qua Đệ tứ chiến khu Quảng Tây được nhà đương cục tổ chức họi họp tiếp đãi. Bấy giờ, tác giả là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh hội, cũng là đồng minh của Trung Quốc chống Nhật nhưng lại bị chính quyền Tưởng bắt giam.

Tự khuyên mình

 自勉

Tự miễn

Tự khuyên mình

 

没有冬寒憔悴景

將無春暖的輝煌

災殃把我來鍛鍊

使我精神更健強

Một hữu đông hàn tiều tụy cảnh

Tương vô xuân noãn đích huy hoàng

Tai ương bả ngã lai đoàn luyện

Sử ngã tinh thần cách kiện cường.

Bản dịch của Nam Trân:

Ví không có cảnh đông tàn,

Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân;

Nghĩ mình trong bước gian truân,

Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

Cảnh đồng nội

 

野景

Dã cảnh

Cảnh đồng nội

 

我來之時禾尚青

現在秋收半已成

處處農民顏帶笑

田間充滿唱歌聲

Ngã lai chi thì hòa thượng thanh

Hiện tại thu thu bán dĩ thành

Xứ xứ nông dân nhan đới tiếu

Điền gian sung mãn xướng ca thanh.

Bản dịch của Nam Trân:

Tới đây khi lúa còn con gái,

Gặt hái hôm nay quá nửa rồi;

Khắp chốn nông dân cười hớn hở,

Đồng quê vang dậy tiếng ca vui.

Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm:

Khi ta mới đến còn xanh lúa,

Vụ gặt bây giờ nửa đã xong;

Khắp chốn nông dân cười hớn hở,

Câu ca tiếng hát rộn trên đồng.

Hàng cháo

 粥攤

Chúc than

Hàng cháo

 

路旁樹影凉陰下

一椽茅芦是酒樓

冷粥白盐供食譜

行人過此暫停留

Lộ bàng thụ ảnh lương âm hạ

Nhất chuyến mao lư thị "tửu lâu"

Lãnh chúc bạch diêm cung thực phổ

Hành nhân quá thử tạm đình lưu.

Bản dịch của Nam Trân – Huệ Chi:

Ven đường nấp dưới bóng lùm cây,

Một túp lều tranh: "tiệm rượu" đây;

Nào món cháo hoa và muối trắng,

Đường xa, khách tạm nghỉ nơi này.

Nhà lao Quả Đức

 果德獄

Quả Đức ngục

Nhà lao Quả Đức

 

監房也是小家庭

柴米油盐自己營

每个籠前一个灶

成天煮飯與調羹

Giam phòng dã thị tiểu gia đình

Sài mễ du diêm tự kỷ doanh

Mỗi cá lung tiền nhất cá táo

Thành thiên chử phạn dữ điều canh.

Bản dịch của Huệ Chi:

Nhà lao mà giống tiểu gia đình,

Gạo, củi, muối, dầu tự sắm sanh;

Trước mỗi phòng giam bày một bếp,

Suốt ngày lụi hụi với cơm canh.

 

Quả Đức là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, trên lưu vực sông Hữu Giang, kế sau Điền Đông.

Bác Lưu, Sở trưởng Long An

 隆安劉所長

Long An Lưu Sở trưởng

Bác Lưu, Sở trưởng Long An

 

辩事認真劉所長

人人讚诵你公平

文錢粒米都公布

乾净囚籠好衛生

Biện sự nhận chân Lưu Sở trưởng

Nhân nhân tán tụng nhĩ công bình

Văn tiền lạp mễ đô công bố

Can tịnh tù lung hảo vệ sinh.

Bản dịch của Nam Trân:

Làm việc đúng thay Lưu Sở trưởng,

Ai ai cũng bảo bác công bình;

Đồng tiền, bát gạo đều công bố,

Sạch sẽ, lao tù rất vệ sinh.

 

Long An là một phủ thuộc tỉnh Quảng Tây, nằm bên sông Hữu Giang, giữa đường từ Quả Đức đến Nam Ninh.

Giải đi sớm

 早解

Tảo giải

Giải đi sớm

一次雞啼夜未闌

群星擁月上秋山

征人已在征途上

迎面秋風陣陣寒

東方白色已成紅

幽暗殘餘早一空

暖氣包羅全宇宙

行人詩興忽加濃

Nhất thứ kê đề dạ vị lan

Quần tinh ủng nguyệt thượng thu san

Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng

Nghênh diện thu phong trận trận hàn.

 

Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng

U ám tàn dư tảo nhất không

Noãn khí bao la toàn vũ trụ

Hành nhân thi hứng hốt gia nồng

Bản dịch của Nam Trân:

Gà gáy một lần đêm chửa tan,

Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn;

Người đi cất bước trên đường thẳm,

Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn.

 

Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,

Bóng tối đến tàn, quét sạch không;

Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,

Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng.

Đồng Chính

 同正 十一月二日

Đồng Chính (Thập nhất nguyệt nhị nhật)

Đồng Chính (Ngày 2 tháng 11)

 

同正正同平馬獄

每餐一粥肚空空

水和光線彶充足

每日還開两次籠

Đồng Chính chính đồng Bình Mã ngục

Mỗi xan nhất chúc đỗ không không

Thủy hòa quang tuyến hân sung túc

Mỗi nhật hoàn khai lưỡng thứ lung.

Bản dịch của Nam Trân:

Bình Mã thế nào Đồng Chính vậy,

Bữa lưng bát cháo bụng cồn cào;

Nước và ánh sáng thì dư dật,

Ngày lại hai lần mở cửa lao.

 

Bình Mã là tên gọi khác của Quả Đức, Đồng Chính là một huyện thuộc Quảng Tây, nằm bên sông Hữu Giang, trên đường từ Long An xuống Nam Ninh. Trong bài này tác giả chơi chữ, nói láy Đồng Chính thành "chính đồng" (giống như).

Chăn giấy của người bạn tù

 

難友的紙被

Nạn hữu đích chỉ bị

Chăn giấy của người bạn tù

 

舊卷新書相補綴

紙毡猶煖過無毡

玉床錦帳人知否

獄裡許多人不眠

Cựu quyển tân thư tương bổ xuyết

Chỉ chiên do noãn quá vô chiên

Ngọc sàng cẩm trướng nhân tri phủ

Ngục lý hứa đa nhân bất miên?

Bản dịch của Nam Trân – Băng Thanh:

Quyển xưa, sách mới bồi thêm ấm,

Chăn giấy còn hơn chẳng có chăn;

Trướng gấm, giường ngà, ai có biết,

Trong tù bao kẻ ngủ không an?

Bản dịch của Hoàng Ngân:

Sách xưa vở mới khéo đem bồi,

Chăn giấy hơn không đã hẳn rồi;

Giường ngọc màn thêu ai có thấu,

Trong lao không ngủ biết bao người.

Đêm lạnh

 夜冷

Dạ lãnh

Đêm lạnh

 

秋深無褥亦無毡

縮脛弓腰不可眠

月照庭蕉增冷氣

窺窗北斗已橫天

Thu thâm vô nhục diệc vô chiên

Súc hĩnh cung yêu bất khả miên

Nguyệt chiếu đình tiêu tăng lãnh khí

Khuy song Bắc Đẩu dĩ hoành thiên.

Bản dịch của Nam Trân:

Đêm thu không đệm cũng không chăn,

Gối quắp, lưng còng, ngủ chẳng an;

Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh,

Nhòm song, Bắc Đẩu đã nằm ngang.

Bản dịch của Trần Đắc Thọ:

Cuối thu chăn đệm cũng đều không,

Co quắp nằm mà ngủ chẳng xong;

Sân chuối trăng soi thêm lạnh lẽo,

Ngang trời, Bắc Đẩu hiện ngoài song.

Dây trói

 

Bang

Dây trói

 

脛臂長龍環繞著

宛如外國武勳官

勳官的是金緦線

我的麻繩一大端

Hĩnh tí trường long hoàn nhiễu trước

Uyển như ngoại quốc vũ huân quan

Huân quan đích thị kim ti tuyến

Ngã đích ma thằng nhất đại đoan.

Bản dịch của Nam Trân – Băng Thanh:

Rồng quấn vòng quanh chân với tay,

Trông như quan võ đủ tua, đai;

Tua đai quan võ bằng kim tuyến

Tua của ta là một cuộn gai.

Bản dịch của Huệ Chi:

Rồng dài vòng quấn khắp chân tay,

Quan võ nước ngoài thắng bộ đây;

Quan võ đeo tua kim tuyến thật,

Còn ta, quấn một cuộn thừng đay!

 

Tác giả hài hước về sợi dây trói, như rồng quấn quanh người, như dây thao kim tuyến. Quả thật là khí phách của kẻ anh hùng!

Rụng mất một chiếc răng

 

落了一隻牙

Lạc liễu nhất chích nha

Rụng mất một chiếc răng

 

你的心情硬且剛

不如老舌軟而長

從來與你同甘苦

現在東西各一方

Nhĩ đích tâm tình ngạch thả cương

Bất như lão thiệt nhuyễn nhi trường

Tòng lai dữ nhĩ đồng cam khổ

Hiện tại đông tây các nhất phương.

Bản dịch của Trần Đắc Thọ:

Cứng rắn như anh chẳng kém ai,

Chẳng như lão lưỡi dẻo và dài;

Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ,

Nay kẻ chân mây, kẻ cuối trời.

Dị bản:

Cứng rắn như anh khác thói thường,

Phải đâu mềm tựa lưỡi không xương;

Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ,

Nay phải xa nhau, kẻ một đường.

Long An – Đồng Chính

 

隆安同正

Long An – Đồng Chính

 

此間土地廣而貧

所以人民儉且勤

聽說今春逢大旱

十分收穫两三分

Thử gian thổ địa quảng nhi bần

Sở dĩ nhân dân kiệm thả cần

Thính thuyết kim xuân phùng đại hạn

Thập phân thu hoạch lưỡng tam phân.

Bản dịch của Nam Trân – Băng Thanh:

Vùng đây tuy rộng, đất khô cằn,

Vì thế nhân dân kiệm lại cần;

Nghe nói xuân nay trời đại hạn,

Mười phần thu hoạch chỉ đôi phần.

 

Bài này ghi lại nhận xét của tác giả về vùng Long An và Đồng Chính. Một bài thơ 4 câu, 28 chữ đã gói đủ Thiên – Địa – Nhân và nỗi hoài cố hương.

Trên đường phố

 街上

Nhai thượng

Trên đường phố

 

街上人争看漢奸

漢奸與我本無干

無干仍是嫌疑犯

使我心中覺點寒

Nhai thượng nhân tranh khán Hán gian

Hán gian dữ ngã bản vô can

Vô can nhưng thị hiềm nghi phạm

Sử ngã tâm trung giác điểm hàn.

Bản dịch của Nam Trân:

Ngoài phố tranh nhau xem Hán gian,

Hán gian, ta vốn thực vô can;

Vô can vẫn bị nghi là có,

Thực khiến lòng ta lạnh tới gan.

Dị bản:

Ngoài phố tranh nhau xem Hán gian,

Hán gian, ta chẳng chút liên can;

Tuy không nhưng bị nghi là có,

Thực khiến lòng ta nhói tới gan.

Trên đường đi

 

路上

Lộ thượng

Trên đường đi

 

脛臂雖然被緊綁

滿山鳥語與花香

自由覽賞無人禁

賴此征途減寂凉

Hĩnh tí tuy nhiên bị khẩn bang

Mãn sơn điểu ngữ dữ hoa hương

Tự do lãm thưởng vô nhân cấm

Lại thử chinh đồ giảm tịch lương.

Bản dịch của Nam Trân:

Mặc dù bị trói chân tay,

Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng;

Vui say, ai cấm ta đừng,

Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu.

Bản dịch của Huệ Chi:

Dẫu trói chân tay đến ngặt nghèo,

Khắp rừng hương ngát với chim kêu;

Tự do thưởng ngoạn, ai ngăn được,

Cô quạnh đường xa, vợi ít nhiều.

Gia quyến người bị bắt lính

 徵兵家眷

Trưng binh gia quyến

Gia quyến người bị bắt lính

 

郎君一去不回頭

使妾閨中獨抱愁

當局可憐余寂寞

請余來暫住牢囚

Lang quân nhất khứ bất hồi đầu

Sử thiếp khuê trung độc bão sầu

Đương cục khả liên dư tịch mịch

Thỉnh dư lai tạm trú lao tù.

Bản dịch của Nam Trân:

Biền biệt anh đi không trở lại,

Buồng the trơ trọi, thiếp ôm sầu;

Quan trên xót nỗi em cô quạnh,

Nên lại mời em tạm ở tù.

 

Tác giả ngụ cảnh hài hước: chồng trốn lính, nhà cầm quyền bắt vợ ngồi tù thay.


Pha trò

 解嘲

Giải trào

Pha trò

 

吃公家飯住公房

軍警輪班去護從

玩水遊山随所適

男兒到此亦豪雄

Ngật công gai phạn trú công phòng

Quân cảnh luân ban khứ hộ tòng

Ngoạn thủy du sơn tùy sở thích

Nam nhi đáo thử diệc hào hùng!

Bản dịch của Văn Trực – Văn Phụng:

Ăn cơm nhà nước ở nhà công,

Lính tráng thay phiên đến hộ tòng;

Non nước dạo chơi tùy sở thích,

Làm trai như thế cũng hào hùng!

Đi Nam Ninh

 往南寧

Vãng Nam Ninh

Đi Nam Ninh

 

銕繩硬替麻繩軟

步步叮噹環珮聲

雖是嫌疑間諜犯

儀容却像舊公卿

Thiết thằng ngạnh thế ma thằng nhuyễn

Bộ bộ đinh đang hoàn bộ thanh

Tuy thị hiềm nghi gián điệp phạm

Nghi dung khước tượng cựu công khanh.

Bản dịch của Nam Trân:

Hôm nay xiềng xích thay dây trói,

Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;

Tuy bị tình nghi là gián điệp,

Mà sao khanh tướng vẻ ung dung.

 

Nam Ninh, còn gọi là Ung Ninh, một huyện của tỉnh Quảng Tây.

Cảnh binh khiêng lợn cùng đi

 警兵担猪同行

Cảnh binh đảm trư đồng hành

Cảnh binh khiêng lợn cùng đi

警士担猪同路走

猪由人担我人牽

人而反賤於猪仔

因為人無自主權

世上千辛和萬苦

莫如失却自由權

一言一動不自主

如牛如馬任人牽

Cảnh sĩ đảm trư đồng lộ tẩu

Trư do nhân đảm ngã nhân khiên

Nhân nhi phản tiện ư trư tử

Nhân vị nhân vô tự chủ quyền.

 

Thế thượng thiên tân hòa vạn khổ

Mạc như thất khước tự do quyền

Nhất ngôn nhất động bất tự chủ

Như ngưu như mã nhậm nhân khiên.

Bản dịch của Nam Trân:

Khiêng lợn, lính cùng đi một lối,

Ta thì người dắt, lợn người khiêng;

Con người coi rẻ hơn con lợn,

Chỉ tại người không có chủ quyền.

 

Trên đời nghìn vạn điều cay đắng,

Cay đắng chi bằng mất tự do?

Mỗi việc mỗi lời không tự chủ,

Để cho người dắt tựa trâu bò!

Hụt chân ngã

 跌洛

Điệt lạc

Hụt chân ngã

 

夜仍黑暗已登程

路又崎嶇甚不平

跌入深坑危險甚

幸能躍出了深坑

Dạ nhưng hắc ám dĩ đăng trình

Lộ hựu kỳ khu thậm bất bình

Điệt nhập thâm khanh nguy hiểm thậm

Hạnh năng dược xuất liễu thâm khanh.

Bản dịch của Nam Trân:

Còn tối như bưng đã phải đi,

Đường đi khúc khuỷu lại gồ ghề;

Trượt chân nhỡ bước sa vào hố,

May nhảy ra ngoài, suýt nữa nguy!

Dị bản:

Đêm còn tối mịt đã đi ngay,

Đường lại gồ ghề khúc khuỷu thay!

Thụt xuống hố sâu, nguy hiểm thực,

Nhảy ra khỏi hố, biết rằng may!

Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh

 半路撘船赴邕

Bán lộ tháp thuyền phó Ung

Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh

 

乘舟順水往邕寧

脛吊船欄似絞刑

兩岸鄉村稠密甚

江心漁父釣船輕

Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh

Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình

Lưỡng ngạn hương thôn trù mật thậm

Giang tâm ngư phủ điếu thuyền khinh.

Bản dịch của Nam Trân:

Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh,

Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình;

Làng xóm ven sông đông đúc thế,

Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.

Nhà ngục Nam Ninh

 

南寧獄

Nam Ninh ngục

Nhà ngục Nam Ninh

 

監房建築頂摩登

澈夜輝煌照電燈

因為每餐惟有粥

使人肚子戰兢兢

Giam phòng kiến trúc đính "ma-đăng"

Triệt dạ huy hoàng chiếu điện đăng

Nhân vị mỗi xan duy hữu chúc

Sử nhân đỗ tử chiến căng căng.

Bản dịch của Nam Trân:

Nhà lao xây dựng kiểu tân thời,

Đèn điện thâu đêm sáng rực trời;

Nhưng mỗi bữa ăn lưng bát cháo,

Cho nên cái bụng cứ rên hoài.

 

"Ma-đăng" phiên âm từ chữ "Modern" trong tiếng Anh có nghĩa là tối tân, hiện đại. Ở đây tác giả dùng ngụ ý hài hước: Chả có gì khác trước.

Buồn bực

 納悶

Nạp muộn

Buồn bực

 

環球戰火鑠蒼天

壯士相爭赴陣前

獄裡閑人閑要命

雄心不值一文錢

Hoàn cầu chiến hỏa thước thương thiên

Tráng sĩ tương tranh phó trận tiền

Ngục lý nhàn nhân nhàn chiếu mệnh

Hùng tâm bất trị nhất văn tiền.

Bản dịch của Nam Trân:

Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận,

Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh;

Trong ngục người nhàn nhàn quá đỗi,

Chí cao mà chẳng đáng đồng chinh.

Nghe gà gáy

 聽雞鳴

Thính kê minh

Nghe gà gáy

 

你只平常一隻雞

朝朝報曉大聲啼

一聲喚醒群黎梦

你的功勞也不低

Nhĩ chỉ bình thường nhất chích kê

Triêu triêu báo hiểu đại thanh đề

Nhất thanh hoán tỉnh quần lê mộng

Nhĩ đích công lao dã bất đê.

Bản dịch của Nam Trân:

Ngươi chỉ một chú gà thường,

Báo sáng, ngày ngày tiếng gáy vang;

Một tiếng, toàn dân bừng tỉnh mộng,

Công ngươi đâu có phải là xoàng.

Một người tù cờ bạc chết cứng

 一个賭犯硬了

Nhất cá đổ phạm "ngạnh" liễu

Một người tù cờ bạc chết cứng

 

他身只有骨包皮

痛苦飢寒不可支

昨夜他仍睡我側

今朝他已九泉歸

Tha thân chi hữu cốt bao bì

Thống khổ cơ hàn bất khả chi

Tạc dạ tha nhưng thụy ngã trắc

Kim triêu tha dĩ cửu tuyền quy.

Bản dịch của Nam Trân:

Thân anh da bọc lấy xương,

Khổ đau, đói rét hết phương sống rồi;

Đêm qua còn ngủ bên tôi,

Sáng nay anh đã về nơi suối vàng.

Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm:

Anh chỉ làn da bọc dúm xương,

Khổ đau, đói rét sức khôn đương;

Đêm qua còn ngủ bên tôi đó,

Mà sáng hôm nay đã suối vàng.

Lại một người nữa…

 又一个

Hựu nhất cá…

Lại một người nữa…

   

夷齊不食周朝粟

賭犯不吃公家粥

夷齊餓死首陽山

賭犯餓死公家獄

Di, Tề bất thực Chu triều túc,

Đổ phạm bất ngật công gia chúc;

Di, Tề ngã tử Thú Dương sơn,

Đổ phạm ngã tử công gia ngục.

Bản dịch của Nam Trân:

Di, Tề chẳng ăn gạo nhà Chu,

Tù bạc chẳng ăn cháo nhà nước;

Di, Tề chết đói ngàn Thú Dương,

Tù bạc chết đói trong nhà ngục.

 

Bá Di, Thúc Tề: con vua nước Cô Trúc đời nhà Ân (1401 – 1122 trước C.N), Trung Quốc. Khi Vũ Vương chiếm ngôi nhà Ân lập nên nhà Chu, Bá Di, Thúc Tề không chịu ăn gạo nhà Chu lên núi Thú Dương (nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc) ở ẩn, ăn rau vi, rồi chết đói ở đó.  

Cấm hút thuốc

 

禁烟 紙烟的

Cấm yên (Chỉ yên đích)

Cấm hút thuốc (Thuốc lá)

 

烟禁此間很厲害

你烟繳入他烟包

當然他可吹烟斗

你若吹烟罰手鐐

他:獄丁也

Yên cấm thử gian hẩn lệ hại,

Nhĩ yên kiểu nhập tha yên bao;

Đương nhiên tha khả xuy yên đẩu,

Nhĩ nhược xuy yên, phạt thủ liêu.

(Tha: ngục đinh dã)

Bản dịch của Nam Trân:

Hút thuốc nơi này cấm gắt gao,

Thuốc anh nó tịch, bỏ vào bao;

Nó thì kéo tẩu tha hồ hút,

Anh hút, còng đây, tay ghé vào.

(Nó: lính ngục)

Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng

 夜半聞哭夫

Dạ bán văn khốc phu

Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng

 

嗚呼夫君兮夫君

何故夫君遽棄塵

使妾從今何處見

十分心合意投人

Ô hô phu quân, hề phu quân!

Hà cố phu quân cự khí trần?

Sử thiếp tòng kim hà xứ kiến,

Thập phần tâm hợp ý đầu nhân.

Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm:

Hỡi ôi, chàng hỡi, hỡi chàng ơi!

Cơ sự vì sao vội lánh đời?

Để thiếp từ nay đâu thấy được,

Con người tâm ý hợp mười mươi.

Hoàng hôn

 黄昏

Hoàng hôn

 

風如利劍磨山石

寒似尖鋒刺樹枝

遠寺鐘聲催客步

牧童吹笛引牛歸

Phong như lợi kiếm ma sơn thạch,

Hàn tự tiêm phong thích thụ chi;

Viễn tự chung thanh thôi khách bộ,

Mục đồng xuy địch dẫn ngưu quy.

Bản dịch của Nam Trân:

Gió sắc tựa gươm mài đá núi,

Rét như dùi nhọn chích cành cây;

Chùa xa chuông giục người nhanh bước,

Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay.

Tiền công

 工金

Công kim

Tiền công

 

煮一鍋飯六毛錢

一盆開水銀一元

一元買物得六角

獄中价格定昭然

Chử nhất oa phạn lục mao tiền,

Nhất bồn khai thủy ngân nhất nguyên;

Nhất nguyên mãi vật đắc lục giác,

Ngục trung giá cách định chiêu nhiên.

Bản dịch của Nam Trân:

Thổi một nồi cơm, trả sáu hào,

Nước sôi mỗi chậu, một đồng trao;

Một đồng của đáng sáu hào chỉ,

Giá cả trong tù định rõ sao!

Ngủ không được

 

睡不着

Thụy bất trước

Ngủ không được

 

一更二更又三更

輾轉徘徊睡不成

四五更時才合眼

梦魂環繞五尖星

Nhất canh … nhị canh… hựu tam canh,

Triển chuyển, bồi hồi, thụy bất thành;

Tứ, ngũ canh thì tài hợp nhãn,

Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh.

Bản dịch của Nam Trân:

Một canh… hai canh… lại ba canh,

Trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành;

Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,

Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.

Bản dịch của Huệ Chi:

Canh một… canh hai… lại canh ba,

Trằn trọc, băn khoăn, khó ngủ mà;

Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,

Sao vàng năm cánh quyện hồn ta.

Nhớ bạn

 憶友   

Ức hữu

Nhớ bạn

 

昔君送我至江津

問我歸期指谷新

現在新田已犁好

他鄉我作獄中人

Tích quân tống ngã chí giang tân,

Vấn ngã quy kỳ, chỉ cốc tân;

Hiện tại tân điền dĩ lê hảo,

Tha hương ngã tác ngục trung nhân.

Bản dịch của Nam Trân:

Ngày đi bạn tiễn đến bên sông,

Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng;

Nay gặt đã xong, cày đã khắp,

Quê người, tôi vẫn chốn lao lung.

Viết hộ báo cáo cho các bạn tù

 替难友們寫報告

Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo

Viết hộ báo cáo cho các bạn tù

 

同舟共濟義難辞

替友編修報告書

奉此等因今始學

多多博得感恩詞

Đồng chu cộng tế nghĩa nan từ,

Thế hữu biên tu báo cáo thư;

"Phụng thử", "đẳng nhân" kim thuỷ học,

Đa đa bác đắc cảm ân từ.

Bản dịch của Nam Trân:

Cùng hội cùng thuyền nên phải giúp,

Viết thay báo cáo dám từ nan;

"Chiểu theo", "thừa lệnh" nay vừa học,

Đã được bao lời bạn cảm ơn.

Ghẻ lở

 癩瘡

Lại sang

Ghẻ lở

 

滿身紅綠如穿錦

成日撈搔似鼓琴

川錦囚中都貴客

鼓琴难友盡知音

Mãn thân hồng lục như xuyên cẩm,

Thành nhật lao tao tự cổ cầm;

Xuyên cẩm, tù trung đô quý khách,

Cổ cầm, nạn hữu tận tri âm.

Bản dịch của Văn Trực – Văn Phụng: 

Đầy mình đỏ tím như hoa gấm,

Sột soạt luôn tay tựa gảy đàn;

Mặc gấm, bạn tù đều khách quý,

Gảy đàn, trong ngục thảy tri âm.

 

Tác giả trào phúng mình mẩy đầy ghẻ giống như mặc áo gấm, còn động tác gãi ngứa thì như gảy đàn!

Nghe tiếng giã gạo

 聞舂米聲

Văn thung mễ thanh

Nghe tiếng giã gạo

 

米被舂時很痛苦

既舂之後白如綿

人生在世也這樣

困難是你玉成天

  Mễ bị thung thì, hẩn thống khổ,

Ký thung chi hậu, bạch như miên;

Nhân sinh tại thế dã giá dạng,

Khốn nạn thị nhĩ ngọc thành thiên.

Bản dịch của Văn Trực – Văn Phụng: 

Gạo đem vào giã bao đau đớn,

Gạo giã xong rồi, trắng tựa bông;

Sống ở trên đời người cũng vậy,

Gian nan rèn luyện mới thành công.

Ngày 11 tháng 11

 雙十一

Song thập nhất

Ngày 11 tháng 11

從前每到雙十一

紀念歐洲罷戰期

今日五洲同血戰

罪魁就是惡NA-ZI

中华抗戰將六載

烈烈轟轟舉世知

勝利雖然有把握

仍須努力反攻時

抗日旌旗滿亞洲

旌旗大小有差殊

旌旗大的固須有

小的旌旗不可無

Tòng tiền mỗi đáo Song thập nhất,

Kỷ niệm Âu châu bãi chiến kỳ;

Kim nhật ngũ châu đồng huyết chiến,

Tội khôi tựu thị ác Na-Zi.

 

Trung Hoa kháng chiến tương lục tải,

Liệt liệt oanh oanh cử thế tri;

Thắng lợi tuy nhiên hữu bả ác,

Nhưng tu nỗ lực phản công thì. 

 

Kháng Nhật tinh kỳ mãn Á châu,

Tinh kỳ đại tiểu hữu sai thù;

Tinh kỳ đại đích cố tu hữu,

Tiểu đích tinh kỳ bất khả vô. 

Bản dịch của Nam Trân:

Thuở trước nơi nơi đều kỷ niệm,

Mừng ngày đình chiến ở châu Âu;

Năm châu nay lại đang tuôn máu,

Bọn quỷ Nazi tội đứng đầu.

 

Trung Hoa kháng chiến sáu năm chầy

Oanh liệt, vang lừng khắp đó đây;

Đến lúc phản công nên cố gắng,

Mặc dầu thắng lợi nắm trong tay. 

 

Kháng Nhật, cờ bay khắp Á châu,

Cờ to, cờ nhỏ chẳng đều nhau;

Cờ to đã hẳn là nên có,

Cờ nhỏ dù sao, thiếu được đâu. 

 

Tác giả nhân ngày 11-11 (song thập nhất) kỷ niệm chấm dứt Thế chiến thứ nhất (1914-1918), viết về cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật xâm lược của nhân dân Trung Quốc, tính từ ngày 7-7-1937 đến cuối năm 1942 là gần 6 năm.

Nazi viết tắt từ Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei (Đảng công nhân xã hội quốc gia Đức, tiếng Đức), gọi tắt là Quốc xã. Đây là đảng phát xít phát động Thế chiến thứ hai (1939-1945).   

Báo động

 警報 十一月十二日

Cảnh báo (Thập nhất nguyệt thập nhị nhật)

Báo động (Ngày 12 tháng 11)

 

敵机浩蕩到天中

避襲人民跑一空

我們出籠避空襲

人人歡喜得出籠

Địch cơ hạo đãng đáo thiên trung,

Tỵ tập nhân dân bào nhất không;

Ngã mẫn xuất lung tỵ không tập,

Nhân nhân hoan hỉ đắc xuất lung.

Bản dịch của Nam Trân: 

Máy bay địch bỗng đến ào ào

Tất cả nhân dân chạy xuống hào,

Cửa mở cho tù ra lánh nạn,

Sổ lồng, ai nấy khoái làm sao!

Bản dịch của Huệ Chi:

Máy bay địch bỗng rộn không trung,

Trốn nấp, nhân dân chạy sạch không;

Tù phạm cũng tìm nơi ẩn nấp,

Được ra ngoài ngục, khoái vô cùng.

Chơi chữ

 折字

Chiết tự

Chơi chữ

 

囚人出去或為國

患過頭時始見忠

人有憂愁優點大

籠開竹閂出真龍

Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,

Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung;

Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,

Lung khai trúc sản, xuất chân long.

Bản dịch của Nam Trân: 

Người thoát khỏi tù ra dựng nước,

Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;

Người biết lo âu, ưu điểm lớn,

Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!

 

Chiết tự là một hình thức phân tích chữ Hán ra từng bộ phận để thành những chữ mới, có ý nghĩa khác với ý nghĩa ban đầu. Theo lối chiết tự, bài thơ này còn có nghĩa đen như sau: chữ tù () bỏ chữ nhân (), cho chữ hoặc () vào, thành chữ quốc (). Chữ hoạn () bớt phần trên đi thành chữ trung (). Thêm bộ nhân () đứng vào chữ ưu () trong "ưu sầu" thành chữ ưu () trong "ưu điểm". Chữ lung () bỏ bộ trúc đầu () thành chữ long ().


"Quán trọ"

旅館

"Lữ quán"

"Quán trọ"

 

照例初來諸难友

必須睡在廁坑邊

假如你想好好睡

你要多花几塊錢

Chiếu lệ sơ lai chư nạn hữu

Tất tu thụy tại xí khanh biên;

Giả như nhĩ tưởng hảo hảo thụy,

Nhĩ yếu đa hoa kỷ khối tiền.

Bản dịch của Nam Trân: 

Lệ thường tù mới đến,

Phải nằm cạnh cầu tiêu;

Muốn ngủ cho ngon giấc,

Anh phải trả tiền nhiều.

Nắng sớm

 

早晴

Tảo tình

Nắng sớm  

 

朝陽穿過籠全部

燒盡幽烟與暗霾

生氣頓時充宇宙

犯人个个笑顏開

Triêu dương xuyên quá lung toàn bộ,

Thiêu tận u yên dữ ám mai;

Sinh khí đốn thì sung vũ trụ,

Phạm nhân cá cá tiếu nhan khai.

Bản dịch của Huệ Chi: 

Nắng sớm xuyên qua nơi ngục thất,

Đốt tan khói đặc với sương dày;

Đất trời phút chốc tràn sinh khí,

Tù phạm cười tươi nở mặt mày.

"Việt Nam có bạo động"

 

越有騷動 邕報赤道訊十一月十二日

"Việt hữu tao động" Ung báo, Xích đạo tấn 14-11

"Việt Nam có bạo động" tin Xích đạo, báo Ung Ninh 14-11

 

寧死不甘奴隸苦

義旗到處又飄揚

可憐余做囚中客

未得躬親上战場

Ninh tử, bất cam nô lệ khổ,

Nghĩa kỳ đáo xứ hựu phiêu dương;

Khả liên dư tố tù trung khách,

Vị đắc cung thân thướng chiến trường.

Bản dịch của Nam Trân: 

Thà chết chẳng cam nô lệ mãi,

Tung bay cờ nghĩa khắp trăm miền;

Xót mình giam hãm trong tù ngục,

Chưa được xông ra giữa trận tiền.

Đoàn đại biểu Anh sang thăm Trung Hoa

 

英訪華团

Anh phóng Hoa đoàn

Đoàn đại biểu Anh sang thăm Trung Hoa

 

美团去了英团到

到處欣逢熱烈情

我也訪華团一部

卻遭特種的歡迎

Mỹ đoàn khứ liễu Anh đoàn đáo,

Đáo xứ hân phùng nhiệt liệt tình;

Ngã dã "phóng Hoa đoàn" nhất bộ,

Khước tao đặc chủng đích hoan nghênh.

Bản dịch của Nam Trân – Hoàng Trung Thông:

Đoàn Mỹ đi rồi đoàn Anh đến,

Khắp chốn mừng reo tỏ nhiệt tình;

Ta cũng "một đoàn" thăm quý quốc,

Lại dành riêng một lối hoan nghênh.

 

Tác giả trào phúng tình cảnh của mình khi các đại biểu Mỹ, Anh trong phe Đồng minh chống phát-xít đều được chính quyền Tưởng tiếp đãi nhiệt tình; còn tác giả là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh hội, cũng là đồng minh của Trung Quốc chống phát-xít Nhật nhưng "được" chính quyền Tưởng cho đi "thăm" các nhà tù.

Giải đi Vũ Minh

 解往武

Giải vãng Vũ Minh

Giải đi Vũ Minh

18-11

既解到南寧

又解返武鳴

鸞鸞曲曲解

徒延我行程

不平

Ký giải đáo Nam Ninh,

Hựu giải phản Vũ Minh;

Loan loan, khúc khúc giải,

Đồ diên ngã hành trình.

  Bất bình!

Bản dịch của Văn Trực – Văn Phụng:

Đã giải đến Nam Ninh,

Lại giải về Vũ Minh;

Giải đi quanh quẹo mãi,

Kéo dài cả hành trình.

Bất bình!

  

Vũ Minh là một tên huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, một địa điểm trên đường bộ từ Tĩnh Tây đến Nam Ninh. Tác giả đã bị giải đến Nam Ninh dọc theo đường sông, nay lại giải lại về phía Tĩnh Tây theo đường bộ.  

Thịt chó ở Bào Hương

 

拘肉

Bào Hương cẩu nhục

Thịt chó ở Bào Hương

 

過果德時吃鮮魚

過芭鄉時吃狗肉

可見一般迎解人

生活有峙也不俗

Quá Quả Đức thì ngật tiên ngư,

Quá Bào Hương thì ngật cẩu nhục;

Khả kiến nhất ban đệ giải nhân,

Sinh hoạt hữu thì dã bất tục.

Bản dịch của Đỗ Văn Hỷ: 

Qua Quả Đức thì chén cá tươi,

Qua Bào Hương lại xơi thịt chó;

Cho hay bọn giải tù nhân này,

Cách sống đôi khi cũng sành đó.

 

Bào Hương là một địa điểm trên đường bộ từ Nam Ninh đi Vũ Minh.

Phu làm đường

 

Trúc lộ phu

Phu làm đường

 

餐風浴雨未曾休

慘淡經營築路夫

車馬行人來往者

幾人感謝你功勞

Xan phong dục vũ vị tằng hư,

"Thảm đạm kinh doanh" trúc lộ phu;

Xa mã hành nhân lai vãng giả,

Kỷ nhân cảm tạ nhĩ công lao?

Bản dịch của Nam Trân: 

Dãi gió, dầm mưa chẳng nghỉ ngơi,

Phu đường vất vả lắm ai ơi!

Ngựa xe, hành khách thường qua lại,

Biết cảm ơn anh được mấy người?

  

"Thảm đạm kinh doanh" là một thành ngữ Trung Quốc, ý nói dốc sức, mưu toan, tận tụy với công việc.  

Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta

 

丁窃我之士的

Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích

Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta

 

一生正直又坚强

携手同行幾雪霜

恨彼奸人離我俩

長胶我你各凄凉

Nhất sinh chính trực hựu kiên cương,

Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương;

Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng,

Trường giao ngã nhĩ các thê lương.

Bản dịch của Nam Trân: 

Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường,

Dìu dắt nhau đi mấy tuyết sương;

Giận kẻ gian kia gây cách biệt,

Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương.

  

Sĩ-đích phiên âm từ tiếng Anh "stick", có nghĩa là chiếc gậy.  

Cột cây số

 公里碑

Công lý bi

Cột cây số

 

不高亦不遠

非帝亦非王

小小一片石

屹立大道旁

人賴你指示

不走錯向方

你給人指示

途路之短長

你功也不小

人人不你忘

 

Bất cao diệc bất viễn,

Phi đế diệc phi vương;

Tiểu tiểu nhất phiến thạch,

Ngật lập đại đạo bàng;

Nhân lai nhĩ chỉ thị,

Bất tẩu thác hướng phương;

Nhĩ cấp nhân chỉ thị,

Đồ lộ chi đoản trường;

Nhĩ công dã bất tiểu,

Nhân nhân bất nhĩ vương.

Bản dịch của Văn Trực – Văn Phụng: 

Chẳng cao cũng chẳng xa,

Không đế cũng không vương;

Một phiến đá nho nhỏ,

Đứng sừng sững bên đường;

Người nhờ anh chỉ lối,

Đi đúng hướng đúng phương;

Anh chỉ cho người biết,

Nào dặm ngắn, dặm trường;

Mọi người nhớ anh mãi,

Công anh chẳng phải thường.

Cháu bé trong ngục Tân Dương

 賓陽獄中孩

Tân Dương ngục trung hài

Cháu bé trong ngục Tân Dương

22-11

Oa…! Oa…! Oaa…!

家怕當兵救國家

所以我年才半歲

要到獄中跟着媽

 

Oa…! Oa…! Oaa…!

Gia phạ đương binh cứu quốc gia;

Sở dĩ ngã niên tài bán tuế,

Yếu đáo ngục trung căn trước ma.

Bản dịch của Nam Trân: 

Oa…! Oa…! Oaa…!

Cha sợ sung quân cứu nước nhà;

Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi,

Phải theo mẹ đến ở nhà pha.

  

Tân Dương là một huyện, thuộc tỉnh Quảng Tây, một địa điểm trên đường bộ từ Nam Ninh đi Quế Lâm. Cũng như bài Trưng binh gia quyến, bài này mượn lời một cháu nhỏ để châm biếm lối bắt lính của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Vì không bắt được chồng vào lính, họ đã bỏ tù người vợ cùng với con nhỏ.  

Gửi Nehru

 尼魯

Ký Nê Lỗ

Gửi Nehru

其一

我奮鬥的君活動

君入獄的我住籠

萬里遥遥未见面

神交自在不言中

其二

我們遭逢本是同

不同的是所遭逢

我居友者圈囹裡

君在仇人梏桎中

 

Ngã phấn đấu thì quân hoạt động,

Quân nhập ngục thì ngã trú lung;

Vạn lý dao dao vị kiến diện,

Thần giao tự tại bất ngôn trung.

 

Ngã môn tao phùng bản thị đồng,

Bất đồng đích thị sở tao phùng;

Ngã cư hữu giả quyền linh lý,

Quân tại cừu nhân cốc trất trung. 

Bản dịch của Hoàng Trung Thông:

Khi tôi phấn đấu, anh hoạt động,

Anh phải vào lao, tôi ở tù;

Muôn dặm xa với chưa gặp mặt,

Không lời mà vẫn cảm thông nhau. 

 

Đôi ta cảnh ngộ vốn không khác,

Cảnh ngộ giờ đây khác bội phần;

Tôi, chốn lao tù người bạn hữu,

Anh, trong gông xích bọn cừu nhân. 

  

Nê Lỗ tức Jawaharlal Nehru (1889-1964), một chiến sĩ của nền độc lập Ấn Độ và là Thủ tướng Ấn Độ từ năm 1947 đến 1964. Tác giả đã từng gặp cụ Motilal Nehru, thân sinh của Thủ tướng Nehru, cũng là một chiến sĩ lão thành, ở Hội nghị quốc tế chống chiến tranh đế quốc tại Bruxelle (Bỉ) năm 1927.

Tiền đèn

 燈光費

Đăng quang phí

Tiền đèn

 

入籠要納燈光费

桂幣人人各六元

步入朦朧幽暗地

光明值得六元錢

 

Nhập lung yếu nạp đăng quang phí,

Quế tệ nhân nhân các lục nguyên;

Bộ nhập mông lung u ám địa,

Quang minh trị đắc lục nguyên tiền!

Bản dịch của Nam Trân: 

Vào lao phải nộp khoản tiền đèn,

Tiền Quảng Tây vừa đúng sáu "nguyên";

Vào chỗ tối tăm mù mịt ấy,

Quang minh đáng giá bấy nhiêu tiền.

  

Nguyên văn "Quế tệ", tức tiền Quế. Quế là một tên khác của tỉnh Quảng Tây.  

Sinh hoạt trong tù

 獄中

Ngục trung sinh hoạt

Sinh hoạt trong tù

 

每人各有一火炉

大大小小幾個鍋

煮飯煮茶又煮采

成天煙火没時無

Mỗi nhân các hữu nhất hỏa lô,

Đại đại, tiểu tiểu kỷ cá oa;

Chử phạn chử trà hựu chử thái,

Thành thiên yên hoả một thì vô.

Bản dịch của Nam Trân: 

Hỏa lò ai cũng có riêng rồi,

Nhỏ nhỏ, to to mấy chiếc nồi;

Cơm, nước, rau, canh, đun với nấu,

Suốt ngày khói lửa mãi không thôi.

Tiên sinh họ Quách

 郭先生

Quách tiên sinh

Tiên sinh họ Quách

 

萍水相逢談片刻

郭君對我甚慇懃

雪中送炭雖然少

世界仍存這種人

"Bình thủy tương phùng", đàm phiến khắc,

Quách quân đối ngã thậm ân cần;

"Tuyết trung tống thán" tuy nhiên thiểu,

Thế giới nhưng tồn giá chủng nhân.

  Bản dịch của Nam Trân – Huệ Chi:

"Gặp nhau bèo nước", chuyện gần xa,

Ông Quách ân cần đối đãi ta;

"Rét đến cho than", không mấy kẻ,

Đời nay người thế vẫn còn mà.

 

"Bình thủy tương phùng": thành ngữ Trung Quốc nghĩa là bèo theo nước khi hợp khi tan, ý nói những người chưa từng quen biết bỗng dưng gặp nhau.

"Tuyết trung tông thán": thành ngữ Trung Quốc nghĩa là cho than sưởi ấm trong những ngày tuyết rơi, ý nói giúp đỡ người khác những lúc hoạn nạn.  

Trưởng ban họ Mạc

 莫

Mạc ban trưởng

Trưởng ban họ Mạc

 

慷慨賓陽莫班長

解囊買飯給囚人

晚間解縛給他睡

不用威權只用恩

Khảng khái Tân Dương, Mạc ban trưởng,

Giải nang mãi phạn cấp tù nhân;

Vãn gian giải phược cấp tha thụy,

Bất dụng uy quyền, chỉ dụng ân.

Bản dịch của Nam Trân: 

Trưởng ban họ Mạc người hào hiệp,

Dốc túi mua cơm giúp phạm nhân;

Đêm đến cởi thừng cho họ ngủ,

Chẳng dùng quyền thế, chỉ dùng ân.

Nhà lao Thiên Giang

 遷江獄

Thiên Giang ngục

Nhà lao Thiên Giang

1/12

籠外六十九人盎

籠中的盎不知數

監房卻像刨藥堂

又像街上買盎鋪

Lung ngoại lục thập cửu nhân áng,

Lung trung đích áng bất tri số;

Giam phòng khước tượng bào dược đường,

Hựu tượng nhai thượng mại áng phố.

Bản dịch của Băng Thanh:

Ngoài lao sáu chín chiếc ang người,

Chồng chất trong lao biết mấy mươi;

Nhà ngục mà như nhà chế thuốc,

Gọi là hàng chĩnh cũng không sai.

 

Thiên Giang: tên huyện thuộc tỉnh Quảng Tây.

Ang là một loại chậu, ang người là một kiểu áo quan giống như chiếc chậu lớn. Quảng Tây và một số tỉnh phía nam Trung Quốc có tục chôn người, thường theo tư thế ngồi, vào những chiếc ang.  

Ở một dị bản, câu 1 chép có khác biệt ở chữ nhân () thay bằng chữ cá (). Sự thay đổi này làm thay đổi cả ý nghĩ của bài thơ theo hướng nhẹ nhàng hơn.

 

Sáu mươi chín chậu đặt ngoài lao,

Chậu ở trong lao khôn xiết kể;

Nhà ngục giống như phòng bào chế,

Lại như hàng chậu dọn trên đường.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét