Mục lục
Tết Song thập bị giải đi Thiên Bảo
Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng
Các báo đăng tin: Đại hội hoan nghênh Willkie
Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh
Viết hộ báo cáo cho các bạn tù
Đoàn đại biểu Anh sang thăm Trung Hoa
Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta
Nhật ký trong tù
獄中日記
Ngục trung nhật ký
Nhật ký trong tù
身体在獄中
精神在獄外
欲成大事業
精神更要大
Thân thể tại ngục trung
Tinh thần tại ngục ngoại
Dục thành đại sự nghiệp
Tinh thần cánh yếu đại
Bản dịch của Nam Trân:
Thân thể ở trong lao,
Tinh thần ở ngoài lao;
Muốn nên sự nghiệp lớn,
Tinh thần phải càng cao.
Trong nguyên bản, bốn câu thơ này không có đầu đề, chép ở ngoài bìa tập Ngục trung nhật ký cùng hình vẽ hai tay bị xiềng, có lẽ được tác giả xem như lời đề từ cho toàn tập.
Mở đầu tập nhật ký
開卷
Khai quyển
Mở đầu tập nhật ký
老夫原不愛吟詩
因為囚中無所為
聊借吟詩消永日
且吟且待自由時
Lão phu nguyên bất ái ngâm thi
Nhân vị tù trung vô sở vi
Liêu tá ngâm thi tiêu vĩnh nhật
Thả ngâm thả đãi tự do thì
Bản dịch của Nam Trân:
Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết là chi đây;
Ngày dài ngâm đợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.
Bị bắt giữ ở phố Túc Vinh
在足榮街被扣留
Tại Túc Vinh nhai bị khấu lưu
Bị bắt giữ ở phố Túc Vinh
足榮却使余蒙辱
故意遲延我去程
間諜嫌疑空捏造
把人名誉白牺牲
Túc Vinh khước sử dư mông nhục
Cố ý trì diên ngã khứ trình
Gián điệp hiềm nghi không niết tạo
Bả nhân danh dự bạch hy sinh
Bản dịch của Huệ Chi:
Túc Vinh mà để ta mang nhục,
Cố ý dằng dai, chậm bước mình;
Bịa chuyện tình nghi là gián điệp,
Cho người vô cớ mất thanh danh.
Túc Vinh là tên một phố ở thị trấn huyện Thiên Bảo, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc; nơi tác giả bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt ngày 29/08/1942. Câu đầu bài thơ còn ngụ ý chơi chữ, lấy "mông nhục" (mang nhục) đối lại với "túc vinh" (đủ vinh), làm tăng ý nghĩa mỉa mai hài hước việc bắt người vô lý.
Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây
入靖西縣獄
Nhập Tĩnh Tây huyện ngục
Vào nhà ngục huyện Tĩnh Tây
獄中舊犯迎新犯
天上晴雲逐雨雲
晴雨浮雲飛去了
獄中留住自由人
Ngục trung cựu phạm nghênh tân phạm
Thiên thượng tình vân trục vũ vân
Tình vũ phù vân phi khứ liễu
Ngục trung lưu trú tự do nhân
Bản dịch của Nam Trân:
Trong lao tù cũ đón tù mới,
Trên trời mây tạnh đuổi mây mưa;
Tạnh, mưa, mây nổi bay đi hết,
Còn lại trong tù khách tự do.
Tĩnh Tây là một huyện thuộc Quảng Tây, gần biên giới Trung – Việt. Tác giả bị bắt ở huyện Thiên Bảo cách Tĩnh Tây khá xa nhưng lại bị đưa ngược về Tĩnh Tây giam giữ.
Đường đời hiểm trở
世路難
Thế lộ nan
Đường đời hiểm trở
一
走遍高山與峻岩
那知平路更難堪
高山遇虎終無恙
平路逢人却被監
二
余原代表越南民
擬到中华見要人
無奈風波平地起
送余入獄作嘉賓
三
忠誠我本無心疚
却被嫌疑做漢奸
處世原來非易易
而今處世更難難
Tẩu biến cao sơn dữ tuấn nham
Na tri bình lộ cánh nan kham
Cao sơn lộ hổ chung vô dạng
Bình lộ phùng nhân khước bị giam.
Dư nguyên đại biểu Việt Nam dân
Nghĩ đáo Trung Hoa kiến yếu nhân
Vô nại phong ba bình địa khởi
Tống dư nhập ngụ tác gia tân
Trung thành ngã bản vô tâm cứu
Khước bị hiềm nghi tố Hán gian
Xử thế nguyên lai phi dị dị
Nhi kim xử thế cánh nan nan.
Bản dịch của Nam Trân:
Đi khắp đèo cao, khắp núi cao,
Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao!
Núi cao gặp hổ mà vô sự,
Đường phẳng gặp người bị tống lao?!
Ta là đại biểu dân Việt Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm "khách quý" ở nhà giam!
Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng,
Lại bị tình nghi là Hán gian;
Xử thế từ xưa không phải dễ,
Mà nay, xử thế khó khăn hơn.
Buổi sớm
早
Tảo
Buổi sớm
一
太陽每早從牆上
照着龍門門未開
籠裡現時還黑暗
光明却已面前來
二
早起人人争獵虱
八鐘响了早餐開
勸君且吃一個飽
否極之時必泰來
Thái dương mỗi tảo tòng tường thượng
Chiếu trước lung môn môn vị khai
Lung lý hiện thời hoàn hắc ám
Quang minh khước dĩ diện tiền lai.
Tảo khởi nhân nhân tranh liệp sắt
Bát chung hưởng liễu tảo xan khai
Khuyến quân thả ngật nhất cá bão
Bĩ cực chi thì tất thái lai.
Bản dịch của Nam Trân – Xuân Thủy:
Đầu tường sớm sớm vầng dương mọc,
Chiếu cửa nhà lao, cửa vẫn cài;
Trong ngục giờ đây còn tối mịt,
Ánh hồng trước mặt đã bừng soi.
Sớm dậy, người người đua bắt rận,
Tám giờ chuông điểm, bữa ban mai;
Khuyên anh hãy gắn ăn no bụng,
Bĩ cực rồi ra ắt thái lai.
Buổi trưa
午
Ngọ
Buổi trưa
獄中午睡真舒服
一睡昏昏幾句鐘
夢見乘龍天上去
醒時才覺卧籠中
Ngục trung ngọ thụy chân như phục
Nhất thụy hôn hôn kỷ cú chung
Mộng kiến thừa long thiên thượng khứ
Tỉnh thời tài giác ngọa lung trung
Bản dịch của Nam Trân:
Trong tù khoan khoái giấc ban trưa,
Một giấc miên man suốt mấy giờ;
Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới,
Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ.
Lời hỏi
問話
Vấn thoại
Lời hỏi
社會的兩極
法官與犯人
官曰你有罪
犯曰我良民
官曰你說假
犯曰我言真
法官性本善
假裝惡狺狺
要入人於罪
卻假意慇懃
這兩極之奸
立著公理神
Xã hội đích lưỡng cực,
Pháp quan dữ phạm nhân;
Quan viết: nhĩ hữu tội,
Phạm viết: ngã lương dân;
Quan viết: nhĩ thuyết giả,
Phạm viết: ngã ngôn chân;
Pháp quan tính bản thiện,
Giả trang ác ngân ngân;
Yếu nhập nhân ư tội,
Khước giả ý ân cần;
Giá lưỡng cực chi gian,
Lập trước công lý thần.
Bản dịch của Huệ Chi – Nguyễn Sĩ Lâm
Hai cực trong xã hội,
Quan toà và phạm nhân;
Quan rằng: anh có tội,
Phạm thưa: tôi lương dân;
Quan rằng: anh nói dối,
Phạm thưa: thực trăm phần;
Quan toà tính vốn thiện,
Vờ làm bộ dữ dằn;
Muốn khép người vào tội,
Lại ra vẻ ân cần;
Ở giữa hai cực đó,
Công lý đứng làm thần.
Quá trưa
午後
Ngọ hậu
Quá trưa
二點開籠換空氣
人人仰看自由天
自由天上神仙客
知否籠中也有仙
Nhĩ điểm khai lung hoán không khí
Nhân nhân ngưỡng khán tự do thiên
Tự do thiên thượng thần tiên khách
Tri phủ lung trung dã hữu tiên.
Bản dịch của Nam Trân:
Hai giờ ngục mở thông hơi,
Tù nhân ngẩng mặt ngắm trời tự do;
Tự do tiên khách trên trời,
Biết chăng trong ngục có người khách tiên?
Bản dịch của Vũ Huy Động:
Hai giờ ngục mở thay không khí,
Ai nấy nhìn lên: trời tự do!
Tiên khách tự do trên thượng giới,
Biết chăng, tiên cũng ở trong tù?
Chiều hôm
晚
Vãn
Chiều hôm
晚餐吃了日西沉
處處山歌與樂音
幽暗靖西禁閉室
忽成美術小翰林
Vãn xan ngật liễu nhật tây trầm
Xứ xứ sơn ca dữ nhạc âm
U ám Tĩnh Tây cấm bế thất
Hốt thành mỹ thuật tiểu hàn lâm.
Bản dịch của Nam Trân:
Cơm xong, bóng đã xuống trầm trầm,
Vang tiếng đàn ca, rộn tiếng ngâm;
Nhà ngục Tĩnh Tây mờ mịt tối,
Bỗng thành nhạc quán viện hàn lâm.
Cơm tù
囚粮
Tù lương
Cơm tù
每餐一碗紅米飯
無盐無菜又無湯
有人送飯吃得飽
没人送飯喊爺娘
Mỗi xan nhất uyển hồng mễ phạn
Vô diêm vô thái hựu vô thang
Hữu nhân tống phạn ngật đắc bão
Một nhân tống phạn hám gia nương
Bản dịch của Nam Trân Băng Thanh:
Không rau, không muối, canh không có,
Mỗi bữa lưng cơm đỏ gọi là;
Có kẻ đem cơm còn chắc dạ,
Không người lo bữa đói kêu cha.
Bạn tù thổi sáo
難友吹笛
Nạn hữu xuy địch
Bạn tù thổi sáo
獄中忽聽思鄉曲
聲轉淒涼調轉愁
千里關河無限感
閨人更上一層樓
Ngục trung hốt thính tư hương khúc
Thanh chuyển thê lương điệu chuyển sầu
Thiên lý quan hà vô hạn cảm
Khuê nhân cánh thượng nhất tằng lâu.
Bản dịch của Nam Trân:
Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu;
Muôn dặm quan hà, khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.
Bản dịch của Huệ Chi:
Trong lao vẳng khúc nhạc tình quê,
Âm chuyển sầu, thương, điệu tái tê;
Nghìm dặm quan hà, khôn xiết nỗi,
Lên lầu, xa ngóng, khách phòng khuê.
Cái cùm
脚閘
Cước áp
Cái cùm
一
狰獰餓口似兇神
晚晚張開把脚吞
各人被吞了右脚
只剩左脚能屈伸
二
世間更有離奇事
人憫争先上脚鉗
因為有鉗才得睡
無鉗没處可安眠
Tranh ninh ngạ khẩu tự hung thần
Vãn vãn trương khai bả cước thôn
Các nhân bị thôn liễu hữu cước
Chỉ thặng tả cước năng khuất thân.
Thế gian cánh hưu ly kỳ sự
Nhân mẫn tranh tiên thượng cước kiềm
Nhân vị hữu kiềm tài đắc thụy
Vô kiềm một xứ khả an miên.
Bản dịch của Nam Trân:
Dữ tợn hung thần miệng chực nhai,
Đêm đêm há hốc nuốt chân người;
Mọi người bị nuốt chân bên phải,
Co duỗi còn chân bên trái thôi.
Nghĩ việc trên đời kỳ lạ thật,
Cùm chân sau trước cũng tranh nhau;
Được cùm chân mới yên bề ngủ,
Không được cùm chân biết ngủ đâu?
Học đánh cờ
學奕棋
Học dịch kỳ
Học đánh cờ
一
閑坐無聊學奕棋
千兵萬馬共驅馳
進攻退守應神速
高才疾足先得之
二
眼光應大心應細
堅决時時要進攻
錯路雙車也没用
逢時一卒可成功
三
雙方勢力本平均
勝利终須屬一人
攻守運籌無漏著
才稱英勇大將軍
Nhàn tọa vô liêu học dịch kỳ
Thiên binh vạn mã cộng khu trì;
Tấn công thoái thủ ưng thần tốc,
Cao tài tật túc tiên đắc chi.
Nhãn quang ưng đại tâm ưng tế
Kiên quyết thời thời yếu tấn công
Thác lộc song xa dã một dụng
Phùng thời nhất tốt khả thành công?
Song phương thế lực thản bình quân
Thắng lợi chung tu thuộc nhất nhân;
Công thủ vận trù vô lậu trước,
Tài xưng anh dũng đại tướng quân.
Bản dịch của Văn Trực Văn Phụng:
Nhàn rỗi đem cờ học đánh chơi,
Thiên binh vạn mã đuổi nhau hoài;
Tấn công, thoái thủ nên thần tốc,
Chân lẹ, tài cao ắt thắng người.
Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ,
Kiên quyết, không ngừng thế tấn công;
Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời, một tốt cũng thành công.
Vốn trước hai bên ngang thế lực,
Mà sau thắng lợi một bên giành;
Tấn công, phòng thủ không sơ hở,
Đại tướng anh hùng mới xứng danh.
Ngắm trăng
望月
Vọng nguyệt
Ngắm trăng
獄中無酒亦無花
對此良宵奈若何
人向窗前看明月
月從窗隙看詩家
Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nại nhược hà?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi gia.
Bản dịch của Nam Trân:
Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.
Chia nước
分水
Phân thủy
Chia nước
每人分得水半盆
洗面烹茶各随便
誰要洗面勿烹茶
誰要烹茶勿洗面
Mỗi nhân phân đắc thủy bán bồn
Tẩy diện phanh trà các tùy tiện
Thùy yếu tẩy diện vật phanh tra
Thùy yếu phanh tra vật tẩy diện.
Bản dịch của Nam Trân – Trần Đắc Thọ:
Mỗi người nửa chậu nước nhà pha,
Rửa mặt pha trà tự ý ta;
Ai muốn pha trà, đừng rửa mặt,
Ai cần rửa mặt, chớ pha trà.
Trung thu
中秋
Trung thu
一
中秋秋月圓如鏡
照耀人間白似銀
家裡团圓吃秋節
不忘獄裡吃愁人
二
獄中人也賞中秋
秋月秋風帶点愁
不得自由賞秋月
心随秋月共悠悠
Trung thu thu nguyệt viên như kính
Chiếu diệu nhân gian bạch tự ngân
Gia lý đoàn viên ngật thu tiết
Bất vong ngục lý ngật sầu nhân.
Ngục trung nhân dã thưởng trung thu
Thu nguyệt thu phong đới điểm sầu
Bất đắc tự do thưởng thu nguyệt
Tâm tùy thu nguyệt cộng du du!
Bản dịch của Văn Trực Văn Phụng:
Trung thu vành vạnh mảnh gương thu,
Sáng khắp nhân gian bạc một màu;
Sum họp nhà ai ăn tết đó,
Chẳng quên trong ngục kẻ ăn sầu.
Trung thu ta cũng tết trong tù,
Trăng gió đêm thu gợn vẻ sầu;
Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt,
Lòng theo vời vợi mảnh trăng thu.
Đánh bạc
賭
Đổ
Đánh bạc
民間賭博被官拉
獄裡賭博可公開
被拉賭犯常嗟悔
何不先到這裡來
Dân gian đổ bác bị quan lạp
Ngục lý đổ bác khả công khai
Bị lạp đổ phạm thường ta hối
Hà bất tiên đáo giá lý lai!?
Bản dịch của Nam Trân:
Đánh bạc ở ngoài, quan bắt tội,
Trong tù đánh bạc được công khai;
Bị tù, con bạc ăn năn mãi:
Sao trước không vô quách chốn này!?
Tù đánh bạc
賭犯
Đổ phạm
Tù đánh bạc
公家不給賭犯飯
欲令他們悔前非
硬犯餚饌天天有
窮犯飢涎共淚垂
Công gia bất cấp đổ phạm phạn
Dục linh tha mẫn hối tiền phi
"Ngạnh" phạm hào soạn thiên thiên hữu
Cùng phạm cơ diên cộng lệ thùy.
Bản dịch của Nam Trân – Huệ Chi:
Quan không cấp bữa cho tù bạc,
Để họ mau chừa tội cũ hơn;
Tù "cứng" ngày ngày no rượu thịt,
Tù nghèo, dãi với lệ cùng tuôn.
Bạn tù họ Mạc
難友幕某
Nạn hữu Mạc mỗ
Bạn tù họ Mạc
富家子弟貧家教
賭膽如天膽似鍼
車代炮財真偉大
在囚仍想喫人葠
Phú gia tử đệ, bần gia giáo,
Đổ đảm như thiên, đảm tự châm;
"Xa đại pháo tài", chân vĩ đại,
Tại tù nhưng tưởng ngật nhân sâm.
Bảng dịch của Nam Trân:
Con nhà giàu có, nghèo gia giáo,
Đánh bạc gan trời, mật tựa kim;
"Một tấc lên mây", ghê gớm thật,
Ngồi tù mà vẫn ước nhân sâm.
Bản dịch của Khương Hữu Dụng:
Con nhà giàu, giáo dục nghèo,
To "gan đánh bạc", bé teo "gan người";
Ba hoa khoác lác thật tài,
Ở tù mà lại cứ đòi ăn sâm.
"Xa đại pháo tài" là một thành ngữ ở vùng Quảng Đông có nghĩa như "một tấc đến trời".
Bạn tù L, nguyên là chủ nhiệm
難友原主任L
Nạn hữu nguyên chủ nhiệm L
Bạn tù L, nguyên là chủ nhiệm
國家重托鎮邊陲
胡乃忘公只願私
鉹礦常從邊界去
金錢爐裡鑄囚詩
Quốc gia trọng thác trấn biên thùy
Hồ nãi vong công chỉ nguyện tư?
Thế khoáng thường tòng biên giới khứ
Kim tiền lô lý chú tù thi.
Bản dịch của Nam Trân – Huệ Chi:
Quốc gia phó thác giữ biên khu,
Sao nhãng việc công, mải việc tư?
Quặng thiếc chuồn qua biên giới sạch,
Nên lò đúc bạc… đúc thơ tù.
Tết Song thập bị giải đi Thiên Bảo
雙十日解往天保
Song thập nhật giải vãng Thiên Bảo
Tết Song thập bị giải đi Thiên Bảo
家家結綵與張燈
國慶歡聲舉國騰
我却今天被绑解
逆風有意阻飛鵬
Gia gia kết thái dữ trương đăng
Quốc khánh hoan thanh cử quốc đằng
Ngã khước kim thiên bị bang giải
Nghịch phong hữu ý trở phi bằng.
Bản dịch của Nam Trân:
Nhà nhà hoa kết với đèn giăng,
Quốc khánh reo vui cả nước mừng;
Lại đúng hôm nay ta bị giải,
Oái oăm giá cản cánh chim bằng.
Tác giả vốn bị bắt ở thị trấn Thiên Bảo, sau đó bị đưa đi giam ở Tĩnh Tây, rồi lại bị giải trở lại Thiên Bảo vào đúng ngày Tết Song thập, tức lễ Quốc khánh 10-10 của Trung Hoa Dân Quốc.
Đi đường
走路
Tẩu lộ
Đi đường
走路才知走路難
重山之外又重山
重山登到高峰後
萬里與图顧盼間
Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lý dư đồ cố miện gian.
Bản dịch của Nam Trân:
Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
Chiều tối
暮
Mộ
Chiều tối
倦鳥歸林尋宿樹
孤雲慢慢度天空
山村少女磨包粟
包粟磨完炉已烘
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Bản dịch của Nam Trân:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
Đêm ngủ ở Long Tuyền
夜宿龍泉
Dạ túc Long Tuyền
Đêm ngủ ở Long Tuyền
白天雙馬不停蹄
夜晚嘗嘗五味雞
虱冷乘機來夾擊
隔鄰欣聽曉鶯啼
Bạch thiên "song mã" bất đình đề
Dạ vãn thường thường "ngũ vị kê"
Sắt lãnh thừa cơ lai giáp kích
Cách lân hân thính hiểu oanh đề.
Bản dịch của Nam Trân – Huệ Chi:
"Đôi ngựa" ngày đi chẳng nghỉ chân,
Món "gà năm vị", tối thường ăn;
Thừa cơ rét, rệp xông vào đánh,
Mừng sớm nghe oanh hót xóm gần.
Long Tuyền là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, nằm giữa Thiên Bảo và Điền Đông. Tác giả chơi chữ: "song mã" là cỗ xe ngựa cho người quyền quý thời xưa, ngụ ý chỉ đôi chân tác giả; "ngũ vị kê" là một món ăn ngon nổi tiếng của Trung Quốc, ngụ ý chỉ đôi chân tác giả bị xiềng tréo giống như chân gà.
Điền Đông
田東
Điền Đông
每餐一碗公家粥
肚子時時在嘆吁
白飯三元不鉤飽
薪如桂也米如珠
Mỗi xan nhất uyển công gia chúc
Đỗ tử thì thì tại thán nu
Bạch phạn tam nguyên bất câu bão
Tân như quế dã mễ như châu.
Bản dịch của Nam Trân Hoàng Trung Thông:
Cháo tù mỗi bữa chia lưng bát,
Cái bụng luôn luôn rên rỉ sầu;
Cơm nhạt ba đồng ăn chẳng đủ,
Củi thì như quế, gạo như châu.
Điền Đông là một điểm dừng chân khi tác giả bị giải từ Tĩnh Tây đi Nam Ninh.
Mới đến nhà lao Thiên Bảo
初到天保獄
Sơ đáo Thiên Bảo ngục
Mới đến nhà lao Thiên Bảo
日行五十三公里
濕盡衣冠破盡鞋
徹夜又無安睡處
廁坑上坐待朝來
Nhật hành ngũ thập tam công lý
Thấp tận y quan phá tận hài
Triệt dạ hựu vô an thụy xứ
Xí khanh thượng tọa đại triêu lai.
Bản dịch của Huệ Chi:
Năm mươi ba dặm, một ngày trời,
Áo mũ ướt đầm, dép tả tơi;
Lại khổ thâu đêm không chốn ngủ,
Ngồi trên hố xí đợi ban mai.
Bản dịch của Khương Hữu Dụng – Nguyễn Sĩ Lâm:
Ngày cuốc năm mươi ba cột số,
Ướt đầm mũ áo, rách bươm giày;
Thâu đêm lại chẳng nơi yên giấc,
Ngồi trấn cầu tiêu, đợi sáng ngày.
Dị bản:
Năm mươi ba cây số một ngày,
Áo mũ dầm mưa, rách hết giày;
Lại khổ thâu đêm không chỗ ngủ,
Ngồi trên hố xí đợi ban mai.
Dị bản:
Năm mươi ba dặm một ngày,
Áo khăn ướt sũng, đôi giày xách xơ;
Thâu đêm thôi cứ thức trơ,
Ngồi trên hố xí đợi chờ sáng ra.
Không hiểu tại sao bài này lại nằm sau bài Điền Đông?! Có lẽ là hồi ức của tác giả về quãng đường đi từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo chăng?
Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng
難友之妻探監
Nạn hữu chi thê thám giam
Vợ người bạn tù đến nhà lao thăm chồng
君在铁窗裡
妾在铁窗前
相近在咫尺
相隔似天渊
口不能說的
只賴眼傳言
未言淚已滿
情景真可憐
Quân tại thiết song lý
Thiếp tại thiết song tiền
Tương cận tại chỉ xích
Tương cách tự thiên uyên
Khẩu bất năng thuyết đích
Chỉ lại nhãn truyền nghiên
Vị ngôn lệ dĩ mãn
Tình cảnh chân khả liên!
Bản dịch của Nam Trân Hoàng Trung Thông:
Anh ở trong song sắt,
Em ở ngoài song sắt;
Gần nhau chỉ tấc gang,
Mà cách nhau trời vực;
Miệng nói chẳng nên lời,
Chỉ còn nhờ khóe mắt;
Chưa nói, lệ tuôn tràn,
Cảnh tình đáng thương thật!
Các báo đăng tin: Đại hội hoan nghênh Willkie
各報:歡迎威基大會
Các báo: Hoan nghênh Uy-ki Đại hội
Các báo đăng tin: Đại hội hoan nghênh Willkie
同是中國友
同是要赴渝
君為坐上客
我為階下囚
同是代表也
待遇胡懸殊
人情分冷熱
自古水東流
Đồng thị Trung Quốc hữu
Đồng thị yếu phó Du
Quân vi tọa thượng khách
Ngã vi giai hạ tù
Đồng thị đại biểu dã
Đãi ngộ hồ huyền thù?
Nhân tình phân lãnh nhiệt
Tự cổ thủy đông lưu.
Bản dịch của Nam Trân:
Cũng là đi Trùng Khánh,
Cũng là bạn Trung Hoa;
Anh, làm khách trên sảnh,
Tôi, thân tù dưới nhà;
Cùng là đại biểu cả,
Khinh trọng sao khác xa?
Thói thường chia ấm lạnh,
Về đông nước chảy mà!
Uy-ki tức Wendell Willkie, đại biểu Mỹ trong phe Đồng minh chống phát-xít, trên đường đến Trùng Khánh, đi qua Đệ tứ chiến khu Quảng Tây được nhà đương cục tổ chức họi họp tiếp đãi. Bấy giờ, tác giả là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh hội, cũng là đồng minh của Trung Quốc chống Nhật nhưng lại bị chính quyền Tưởng bắt giam.
Tự khuyên mình
自勉
Tự miễn
Tự khuyên mình
没有冬寒憔悴景
將無春暖的輝煌
災殃把我來鍛鍊
使我精神更健強
Một hữu đông hàn tiều tụy cảnh
Tương vô xuân noãn đích huy hoàng
Tai ương bả ngã lai đoàn luyện
Sử ngã tinh thần cách kiện cường.
Bản dịch của Nam Trân:
Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân;
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.
Cảnh đồng nội
野景
Dã cảnh
Cảnh đồng nội
我來之時禾尚青
現在秋收半已成
處處農民顏帶笑
田間充滿唱歌聲
Ngã lai chi thì hòa thượng thanh
Hiện tại thu thu bán dĩ thành
Xứ xứ nông dân nhan đới tiếu
Điền gian sung mãn xướng ca thanh.
Bản dịch của Nam Trân:
Tới đây khi lúa còn con gái,
Gặt hái hôm nay quá nửa rồi;
Khắp chốn nông dân cười hớn hở,
Đồng quê vang dậy tiếng ca vui.
Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm:
Khi ta mới đến còn xanh lúa,
Vụ gặt bây giờ nửa đã xong;
Khắp chốn nông dân cười hớn hở,
Câu ca tiếng hát rộn trên đồng.
Hàng cháo
粥攤
Chúc than
Hàng cháo
路旁樹影凉陰下
一椽茅芦是酒樓
冷粥白盐供食譜
行人過此暫停留
Lộ bàng thụ ảnh lương âm hạ
Nhất chuyến mao lư thị "tửu lâu"
Lãnh chúc bạch diêm cung thực phổ
Hành nhân quá thử tạm đình lưu.
Bản dịch của Nam Trân – Huệ Chi:
Ven đường nấp dưới bóng lùm cây,
Một túp lều tranh: "tiệm rượu" đây;
Nào món cháo hoa và muối trắng,
Đường xa, khách tạm nghỉ nơi này.
Nhà lao Quả Đức
果德獄
Quả Đức ngục
Nhà lao Quả Đức
監房也是小家庭
柴米油盐自己營
每个籠前一个灶
成天煮飯與調羹
Giam phòng dã thị tiểu gia đình
Sài mễ du diêm tự kỷ doanh
Mỗi cá lung tiền nhất cá táo
Thành thiên chử phạn dữ điều canh.
Bản dịch của Huệ Chi:
Nhà lao mà giống tiểu gia đình,
Gạo, củi, muối, dầu tự sắm sanh;
Trước mỗi phòng giam bày một bếp,
Suốt ngày lụi hụi với cơm canh.
Quả Đức là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, trên lưu vực sông Hữu Giang, kế sau Điền Đông.
Bác Lưu, Sở trưởng Long An
隆安劉所長
Long An Lưu Sở trưởng
Bác Lưu, Sở trưởng Long An
辩事認真劉所長
人人讚诵你公平
文錢粒米都公布
乾净囚籠好衛生
Biện sự nhận chân Lưu Sở trưởng
Nhân nhân tán tụng nhĩ công bình
Văn tiền lạp mễ đô công bố
Can tịnh tù lung hảo vệ sinh.
Bản dịch của Nam Trân:
Làm việc đúng thay Lưu Sở trưởng,
Ai ai cũng bảo bác công bình;
Đồng tiền, bát gạo đều công bố,
Sạch sẽ, lao tù rất vệ sinh.
Long An là một phủ thuộc tỉnh Quảng Tây, nằm bên sông Hữu Giang, giữa đường từ Quả Đức đến Nam Ninh.
Giải đi sớm
早解
Tảo giải
Giải đi sớm
一
一次雞啼夜未闌
群星擁月上秋山
征人已在征途上
迎面秋風陣陣寒
二
東方白色已成紅
幽暗殘餘早一空
暖氣包羅全宇宙
行人詩興忽加濃
Nhất thứ kê đề dạ vị lan
Quần tinh ủng nguyệt thượng thu san
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng
Nghênh diện thu phong trận trận hàn.
Đông phương bạch sắc dĩ thành hồng
U ám tàn dư tảo nhất không
Noãn khí bao la toàn vũ trụ
Hành nhân thi hứng hốt gia nồng
Bản dịch của Nam Trân:
Gà gáy một lần đêm chửa tan,
Chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn;
Người đi cất bước trên đường thẳm,
Rát mặt, đêm thu, trận gió hàn.
Phương đông màu trắng chuyển sang hồng,
Bóng tối đến tàn, quét sạch không;
Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,
Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng.
Đồng Chính
同正 十一月二日
Đồng Chính (Thập nhất nguyệt nhị nhật)
Đồng Chính (Ngày 2 tháng 11)
同正正同平馬獄
每餐一粥肚空空
水和光線彶充足
每日還開两次籠
Đồng Chính chính đồng Bình Mã ngục
Mỗi xan nhất chúc đỗ không không
Thủy hòa quang tuyến hân sung túc
Mỗi nhật hoàn khai lưỡng thứ lung.
Bản dịch của Nam Trân:
Bình Mã thế nào Đồng Chính vậy,
Bữa lưng bát cháo bụng cồn cào;
Nước và ánh sáng thì dư dật,
Ngày lại hai lần mở cửa lao.
Bình Mã là tên gọi khác của Quả Đức, Đồng Chính là một huyện thuộc Quảng Tây, nằm bên sông Hữu Giang, trên đường từ Long An xuống Nam Ninh. Trong bài này tác giả chơi chữ, nói láy Đồng Chính thành "chính đồng" (giống như).
Chăn giấy của người bạn tù
難友的紙被
Nạn hữu đích chỉ bị
Chăn giấy của người bạn tù
舊卷新書相補綴
紙毡猶煖過無毡
玉床錦帳人知否
獄裡許多人不眠
Cựu quyển tân thư tương bổ xuyết
Chỉ chiên do noãn quá vô chiên
Ngọc sàng cẩm trướng nhân tri phủ
Ngục lý hứa đa nhân bất miên?
Bản dịch của Nam Trân Băng Thanh:
Quyển xưa, sách mới bồi thêm ấm,
Chăn giấy còn hơn chẳng có chăn;
Trướng gấm, giường ngà, ai có biết,
Trong tù bao kẻ ngủ không an?
Bản dịch của Hoàng Ngân:
Sách xưa vở mới khéo đem bồi,
Chăn giấy hơn không đã hẳn rồi;
Giường ngọc màn thêu ai có thấu,
Trong lao không ngủ biết bao người.
Đêm lạnh
夜冷
Dạ lãnh
Đêm lạnh
秋深無褥亦無毡
縮脛弓腰不可眠
月照庭蕉增冷氣
窺窗北斗已橫天
Thu thâm vô nhục diệc vô chiên
Súc hĩnh cung yêu bất khả miên
Nguyệt chiếu đình tiêu tăng lãnh khí
Khuy song Bắc Đẩu dĩ hoành thiên.
Bản dịch của Nam Trân:
Đêm thu không đệm cũng không chăn,
Gối quắp, lưng còng, ngủ chẳng an;
Khóm chuối trăng soi càng thấy lạnh,
Nhòm song, Bắc Đẩu đã nằm ngang.
Bản dịch của Trần Đắc Thọ:
Cuối thu chăn đệm cũng đều không,
Co quắp nằm mà ngủ chẳng xong;
Sân chuối trăng soi thêm lạnh lẽo,
Ngang trời, Bắc Đẩu hiện ngoài song.
Dây trói
綁
Bang
Dây trói
脛臂長龍環繞著
宛如外國武勳官
勳官的是金緦線
我的麻繩一大端
Hĩnh tí trường long hoàn nhiễu trước
Uyển như ngoại quốc vũ huân quan
Huân quan đích thị kim ti tuyến
Ngã đích ma thằng nhất đại đoan.
Bản dịch của Nam Trân Băng Thanh:
Rồng quấn vòng quanh chân với tay,
Trông như quan võ đủ tua, đai;
Tua đai quan võ bằng kim tuyến
Tua của ta là một cuộn gai.
Bản dịch của Huệ Chi:
Rồng dài vòng quấn khắp chân tay,
Quan võ nước ngoài thắng bộ đây;
Quan võ đeo tua kim tuyến thật,
Còn ta, quấn một cuộn thừng đay!
Tác giả hài hước về sợi dây trói, như rồng quấn quanh người, như dây thao kim tuyến. Quả thật là khí phách của kẻ anh hùng!
Rụng mất một chiếc răng
落了一隻牙
Lạc liễu nhất chích nha
Rụng mất một chiếc răng
你的心情硬且剛
不如老舌軟而長
從來與你同甘苦
現在東西各一方
Nhĩ đích tâm tình ngạch thả cương
Bất như lão thiệt nhuyễn nhi trường
Tòng lai dữ nhĩ đồng cam khổ
Hiện tại đông tây các nhất phương.
Bản dịch của Trần Đắc Thọ:
Cứng rắn như anh chẳng kém ai,
Chẳng như lão lưỡi dẻo và dài;
Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ,
Nay kẻ chân mây, kẻ cuối trời.
Dị bản:
Cứng rắn như anh khác thói thường,
Phải đâu mềm tựa lưỡi không xương;
Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ,
Nay phải xa nhau, kẻ một đường.
Long An Đồng Chính
隆安同正
Long An Đồng Chính
此間土地廣而貧
所以人民儉且勤
聽說今春逢大旱
十分收穫两三分
Thử gian thổ địa quảng nhi bần
Sở dĩ nhân dân kiệm thả cần
Thính thuyết kim xuân phùng đại hạn
Thập phân thu hoạch lưỡng tam phân.
Bản dịch của Nam Trân Băng Thanh:
Vùng đây tuy rộng, đất khô cằn,
Vì thế nhân dân kiệm lại cần;
Nghe nói xuân nay trời đại hạn,
Mười phần thu hoạch chỉ đôi phần.
Bài này ghi lại nhận xét của tác giả về vùng Long An và Đồng Chính. Một bài thơ 4 câu, 28 chữ đã gói đủ Thiên – Địa Nhân và nỗi hoài cố hương.
Trên đường phố
街上
Nhai thượng
Trên đường phố
街上人争看漢奸
漢奸與我本無干
無干仍是嫌疑犯
使我心中覺點寒
Nhai thượng nhân tranh khán Hán gian
Hán gian dữ ngã bản vô can
Vô can nhưng thị hiềm nghi phạm
Sử ngã tâm trung giác điểm hàn.
Bản dịch của Nam Trân:
Ngoài phố tranh nhau xem Hán gian,
Hán gian, ta vốn thực vô can;
Vô can vẫn bị nghi là có,
Thực khiến lòng ta lạnh tới gan.
Dị bản:
Ngoài phố tranh nhau xem Hán gian,
Hán gian, ta chẳng chút liên can;
Tuy không nhưng bị nghi là có,
Thực khiến lòng ta nhói tới gan.
Trên đường đi
路上
Lộ thượng
Trên đường đi
脛臂雖然被緊綁
滿山鳥語與花香
自由覽賞無人禁
賴此征途減寂凉
Hĩnh tí tuy nhiên bị khẩn bang
Mãn sơn điểu ngữ dữ hoa hương
Tự do lãm thưởng vô nhân cấm
Lại thử chinh đồ giảm tịch lương.
Bản dịch của Nam Trân:
Mặc dù bị trói chân tay,
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng;
Vui say, ai cấm ta đừng,
Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu.
Bản dịch của Huệ Chi:
Dẫu trói chân tay đến ngặt nghèo,
Khắp rừng hương ngát với chim kêu;
Tự do thưởng ngoạn, ai ngăn được,
Cô quạnh đường xa, vợi ít nhiều.
Gia quyến người bị bắt lính
徵兵家眷
Trưng binh gia quyến
Gia quyến người bị bắt lính
郎君一去不回頭
使妾閨中獨抱愁
當局可憐余寂寞
請余來暫住牢囚
Lang quân nhất khứ bất hồi đầu
Sử thiếp khuê trung độc bão sầu
Đương cục khả liên dư tịch mịch
Thỉnh dư lai tạm trú lao tù.
Bản dịch của Nam Trân:
Biền biệt anh đi không trở lại,
Buồng the trơ trọi, thiếp ôm sầu;
Quan trên xót nỗi em cô quạnh,
Nên lại mời em tạm ở tù.
Tác giả ngụ cảnh hài hước: chồng trốn lính, nhà cầm quyền bắt vợ ngồi tù thay.
Pha trò
解嘲
Giải trào
Pha trò
吃公家飯住公房
軍警輪班去護從
玩水遊山随所適
男兒到此亦豪雄
Ngật công gai phạn trú công phòng
Quân cảnh luân ban khứ hộ tòng
Ngoạn thủy du sơn tùy sở thích
Nam nhi đáo thử diệc hào hùng!
Bản dịch của Văn Trực Văn Phụng:
Ăn cơm nhà nước ở nhà công,
Lính tráng thay phiên đến hộ tòng;
Non nước dạo chơi tùy sở thích,
Làm trai như thế cũng hào hùng!
Đi Nam Ninh
往南寧
Vãng Nam Ninh
Đi Nam Ninh
銕繩硬替麻繩軟
步步叮噹環珮聲
雖是嫌疑間諜犯
儀容却像舊公卿
Thiết thằng ngạnh thế ma thằng nhuyễn
Bộ bộ đinh đang hoàn bộ thanh
Tuy thị hiềm nghi gián điệp phạm
Nghi dung khước tượng cựu công khanh.
Bản dịch của Nam Trân:
Hôm nay xiềng xích thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp,
Mà sao khanh tướng vẻ ung dung.
Nam Ninh, còn gọi là Ung Ninh, một huyện của tỉnh Quảng Tây.
Cảnh binh khiêng lợn cùng đi
警兵担猪同行
Cảnh binh đảm trư đồng hành
Cảnh binh khiêng lợn cùng đi
一
警士担猪同路走
猪由人担我人牽
人而反賤於猪仔
因為人無自主權
二
世上千辛和萬苦
莫如失却自由權
一言一動不自主
如牛如馬任人牽
Cảnh sĩ đảm trư đồng lộ tẩu
Trư do nhân đảm ngã nhân khiên
Nhân nhi phản tiện ư trư tử
Nhân vị nhân vô tự chủ quyền.
Thế thượng thiên tân hòa vạn khổ
Mạc như thất khước tự do quyền
Nhất ngôn nhất động bất tự chủ
Như ngưu như mã nhậm nhân khiên.
Bản dịch của Nam Trân:
Khiêng lợn, lính cùng đi một lối,
Ta thì người dắt, lợn người khiêng;
Con người coi rẻ hơn con lợn,
Chỉ tại người không có chủ quyền.
Trên đời nghìn vạn điều cay đắng,
Cay đắng chi bằng mất tự do?
Mỗi việc mỗi lời không tự chủ,
Để cho người dắt tựa trâu bò!
Hụt chân ngã
跌洛
Điệt lạc
Hụt chân ngã
夜仍黑暗已登程
路又崎嶇甚不平
跌入深坑危險甚
幸能躍出了深坑
Dạ nhưng hắc ám dĩ đăng trình
Lộ hựu kỳ khu thậm bất bình
Điệt nhập thâm khanh nguy hiểm thậm
Hạnh năng dược xuất liễu thâm khanh.
Bản dịch của Nam Trân:
Còn tối như bưng đã phải đi,
Đường đi khúc khuỷu lại gồ ghề;
Trượt chân nhỡ bước sa vào hố,
May nhảy ra ngoài, suýt nữa nguy!
Dị bản:
Đêm còn tối mịt đã đi ngay,
Đường lại gồ ghề khúc khuỷu thay!
Thụt xuống hố sâu, nguy hiểm thực,
Nhảy ra khỏi hố, biết rằng may!
Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh
半路撘船赴邕
Bán lộ tháp thuyền phó Ung
Giữa đường đáp thuyền đi Ung Ninh
乘舟順水往邕寧
脛吊船欄似絞刑
兩岸鄉村稠密甚
江心漁父釣船輕
Thừa chu thuận thủy vãng Ung Ninh
Hĩnh điếu thuyền lan tự giảo hình
Lưỡng ngạn hương thôn trù mật thậm
Giang tâm ngư phủ điếu thuyền khinh.
Bản dịch của Nam Trân:
Đáp thuyền thẳng xuống huyện Ung Ninh,
Lủng lẳng chân treo tựa giảo hình;
Làng xóm ven sông đông đúc thế,
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.
Nhà ngục Nam Ninh
南寧獄
Nam Ninh ngục
Nhà ngục Nam Ninh
監房建築頂摩登
澈夜輝煌照電燈
因為每餐惟有粥
使人肚子戰兢兢
Giam phòng kiến trúc đính "ma-đăng"
Triệt dạ huy hoàng chiếu điện đăng
Nhân vị mỗi xan duy hữu chúc
Sử nhân đỗ tử chiến căng căng.
Bản dịch của Nam Trân:
Nhà lao xây dựng kiểu tân thời,
Đèn điện thâu đêm sáng rực trời;
Nhưng mỗi bữa ăn lưng bát cháo,
Cho nên cái bụng cứ rên hoài.
"Ma-đăng" phiên âm từ chữ "Modern" trong tiếng Anh có nghĩa là tối tân, hiện đại. Ở đây tác giả dùng ngụ ý hài hước: Chả có gì khác trước.
Buồn bực
納悶
Nạp muộn
Buồn bực
環球戰火鑠蒼天
壯士相爭赴陣前
獄裡閑人閑要命
雄心不值一文錢
Hoàn cầu chiến hỏa thước thương thiên
Tráng sĩ tương tranh phó trận tiền
Ngục lý nhàn nhân nhàn chiếu mệnh
Hùng tâm bất trị nhất văn tiền.
Bản dịch của Nam Trân:
Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận,
Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh;
Trong ngục người nhàn nhàn quá đỗi,
Chí cao mà chẳng đáng đồng chinh.
Nghe gà gáy
聽雞鳴
Thính kê minh
Nghe gà gáy
你只平常一隻雞
朝朝報曉大聲啼
一聲喚醒群黎梦
你的功勞也不低
Nhĩ chỉ bình thường nhất chích kê
Triêu triêu báo hiểu đại thanh đề
Nhất thanh hoán tỉnh quần lê mộng
Nhĩ đích công lao dã bất đê.
Bản dịch của Nam Trân:
Ngươi chỉ một chú gà thường,
Báo sáng, ngày ngày tiếng gáy vang;
Một tiếng, toàn dân bừng tỉnh mộng,
Công ngươi đâu có phải là xoàng.
Một người tù cờ bạc chết cứng
一个賭犯硬了
Nhất cá đổ phạm "ngạnh" liễu
Một người tù cờ bạc chết cứng
他身只有骨包皮
痛苦飢寒不可支
昨夜他仍睡我側
今朝他已九泉歸
Tha thân chi hữu cốt bao bì
Thống khổ cơ hàn bất khả chi
Tạc dạ tha nhưng thụy ngã trắc
Kim triêu tha dĩ cửu tuyền quy.
Bản dịch của Nam Trân:
Thân anh da bọc lấy xương,
Khổ đau, đói rét hết phương sống rồi;
Đêm qua còn ngủ bên tôi,
Sáng nay anh đã về nơi suối vàng.
Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm:
Anh chỉ làn da bọc dúm xương,
Khổ đau, đói rét sức khôn đương;
Đêm qua còn ngủ bên tôi đó,
Mà sáng hôm nay đã suối vàng.
Lại một người nữa…
又一个
Hựu nhất cá…
Lại một người nữa…
夷齊不食周朝粟
賭犯不吃公家粥
夷齊餓死首陽山
賭犯餓死公家獄
Di, Tề bất thực Chu triều túc,
Đổ phạm bất ngật công gia chúc;
Di, Tề ngã tử Thú Dương sơn,
Đổ phạm ngã tử công gia ngục.
Bản dịch của Nam Trân:
Di, Tề chẳng ăn gạo nhà Chu,
Tù bạc chẳng ăn cháo nhà nước;
Di, Tề chết đói ngàn Thú Dương,
Tù bạc chết đói trong nhà ngục.
Bá Di, Thúc Tề: con vua nước Cô Trúc đời nhà Ân (1401 – 1122 trước C.N), Trung Quốc. Khi Vũ Vương chiếm ngôi nhà Ân lập nên nhà Chu, Bá Di, Thúc Tề không chịu ăn gạo nhà Chu lên núi Thú Dương (nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc) ở ẩn, ăn rau vi, rồi chết đói ở đó.
Cấm hút thuốc
禁烟 紙烟的
Cấm yên (Chỉ yên đích)
Cấm hút thuốc (Thuốc lá)
烟禁此間很厲害
你烟繳入他烟包
當然他可吹烟斗
你若吹烟罰手鐐
他:獄丁也
Yên cấm thử gian hẩn lệ hại,
Nhĩ yên kiểu nhập tha yên bao;
Đương nhiên tha khả xuy yên đẩu,
Nhĩ nhược xuy yên, phạt thủ liêu.
(Tha: ngục đinh dã)
Bản dịch của Nam Trân:
Hút thuốc nơi này cấm gắt gao,
Thuốc anh nó tịch, bỏ vào bao;
Nó thì kéo tẩu tha hồ hút,
Anh hút, còng đây, tay ghé vào.
(Nó: lính ngục)
Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng
夜半聞哭夫
Dạ bán văn khốc phu
Nửa đêm nghe tiếng khóc chồng
嗚呼夫君兮夫君
何故夫君遽棄塵
使妾從今何處見
十分心合意投人
Ô hô phu quân, hề phu quân!
Hà cố phu quân cự khí trần?
Sử thiếp tòng kim hà xứ kiến,
Thập phần tâm hợp ý đầu nhân.
Bản dịch của Nguyễn Sĩ Lâm:
Hỡi ôi, chàng hỡi, hỡi chàng ơi!
Cơ sự vì sao vội lánh đời?
Để thiếp từ nay đâu thấy được,
Con người tâm ý hợp mười mươi.
Hoàng hôn
黄昏
Hoàng hôn
風如利劍磨山石
寒似尖鋒刺樹枝
遠寺鐘聲催客步
牧童吹笛引牛歸
Phong như lợi kiếm ma sơn thạch,
Hàn tự tiêm phong thích thụ chi;
Viễn tự chung thanh thôi khách bộ,
Mục đồng xuy địch dẫn ngưu quy.
Bản dịch của Nam Trân:
Gió sắc tựa gươm mài đá núi,
Rét như dùi nhọn chích cành cây;
Chùa xa chuông giục người nhanh bước,
Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay.
Tiền công
工金
Công kim
Tiền công
煮一鍋飯六毛錢
一盆開水銀一元
一元買物得六角
獄中价格定昭然
Chử nhất oa phạn lục mao tiền,
Nhất bồn khai thủy ngân nhất nguyên;
Nhất nguyên mãi vật đắc lục giác,
Ngục trung giá cách định chiêu nhiên.
Bản dịch của Nam Trân:
Thổi một nồi cơm, trả sáu hào,
Nước sôi mỗi chậu, một đồng trao;
Một đồng của đáng sáu hào chỉ,
Giá cả trong tù định rõ sao!
Ngủ không được
睡不着
Thụy bất trước
Ngủ không được
一更二更又三更
輾轉徘徊睡不成
四五更時才合眼
梦魂環繞五尖星
Nhất canh … nhị canh… hựu tam canh,
Triển chuyển, bồi hồi, thụy bất thành;
Tứ, ngũ canh thì tài hợp nhãn,
Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh.
Bản dịch của Nam Trân:
Một canh… hai canh… lại ba canh,
Trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành;
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.
Bản dịch của Huệ Chi:
Canh một… canh hai… lại canh ba,
Trằn trọc, băn khoăn, khó ngủ mà;
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,
Sao vàng năm cánh quyện hồn ta.
Nhớ bạn
憶友
Ức hữu
Nhớ bạn
昔君送我至江津
問我歸期指谷新
現在新田已犁好
他鄉我作獄中人
Tích quân tống ngã chí giang tân,
Vấn ngã quy kỳ, chỉ cốc tân;
Hiện tại tân điền dĩ lê hảo,
Tha hương ngã tác ngục trung nhân.
Bản dịch của Nam Trân:
Ngày đi bạn tiễn đến bên sông,
Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng;
Nay gặt đã xong, cày đã khắp,
Quê người, tôi vẫn chốn lao lung.
Viết hộ báo cáo cho các bạn tù
替难友們寫報告
Thế nạn hữu mẫn tả báo cáo
Viết hộ báo cáo cho các bạn tù
同舟共濟義難辞
替友編修報告書
奉此等因今始學
多多博得感恩詞
Đồng chu cộng tế nghĩa nan từ,
Thế hữu biên tu báo cáo thư;
"Phụng thử", "đẳng nhân" kim thuỷ học,
Đa đa bác đắc cảm ân từ.
Bản dịch của Nam Trân:
Cùng hội cùng thuyền nên phải giúp,
Viết thay báo cáo dám từ nan;
"Chiểu theo", "thừa lệnh" nay vừa học,
Đã được bao lời bạn cảm ơn.
Ghẻ lở
癩瘡
Lại sang
Ghẻ lở
滿身紅綠如穿錦
成日撈搔似鼓琴
川錦囚中都貴客
鼓琴难友盡知音
Mãn thân hồng lục như xuyên cẩm,
Thành nhật lao tao tự cổ cầm;
Xuyên cẩm, tù trung đô quý khách,
Cổ cầm, nạn hữu tận tri âm.
Bản dịch của Văn Trực Văn Phụng:
Đầy mình đỏ tím như hoa gấm,
Sột soạt luôn tay tựa gảy đàn;
Mặc gấm, bạn tù đều khách quý,
Gảy đàn, trong ngục thảy tri âm.
Tác giả trào phúng mình mẩy đầy ghẻ giống như mặc áo gấm, còn động tác gãi ngứa thì như gảy đàn!
Nghe tiếng giã gạo
聞舂米聲
Văn thung mễ thanh
Nghe tiếng giã gạo
米被舂時很痛苦
既舂之後白如綿
人生在世也這樣
困難是你玉成天
Mễ bị thung thì, hẩn thống khổ,
Ký thung chi hậu, bạch như miên;
Nhân sinh tại thế dã giá dạng,
Khốn nạn thị nhĩ ngọc thành thiên.
Bản dịch của Văn Trực Văn Phụng:
Gạo đem vào giã bao đau đớn,
Gạo giã xong rồi, trắng tựa bông;
Sống ở trên đời người cũng vậy,
Gian nan rèn luyện mới thành công.
Ngày 11 tháng 11
雙十一
Song thập nhất
Ngày 11 tháng 11
一
從前每到雙十一
紀念歐洲罷戰期
今日五洲同血戰
罪魁就是惡NA-ZI
二
中华抗戰將六載
烈烈轟轟舉世知
勝利雖然有把握
仍須努力反攻時
三
抗日旌旗滿亞洲
旌旗大小有差殊
旌旗大的固須有
小的旌旗不可無
Tòng tiền mỗi đáo Song thập nhất,
Kỷ niệm Âu châu bãi chiến kỳ;
Kim nhật ngũ châu đồng huyết chiến,
Tội khôi tựu thị ác Na-Zi.
Trung Hoa kháng chiến tương lục tải,
Liệt liệt oanh oanh cử thế tri;
Thắng lợi tuy nhiên hữu bả ác,
Nhưng tu nỗ lực phản công thì.
Kháng Nhật tinh kỳ mãn Á châu,
Tinh kỳ đại tiểu hữu sai thù;
Tinh kỳ đại đích cố tu hữu,
Tiểu đích tinh kỳ bất khả vô.
Bản dịch của Nam Trân:
Thuở trước nơi nơi đều kỷ niệm,
Mừng ngày đình chiến ở châu Âu;
Năm châu nay lại đang tuôn máu,
Bọn quỷ Nazi tội đứng đầu.
Trung Hoa kháng chiến sáu năm chầy
Oanh liệt, vang lừng khắp đó đây;
Đến lúc phản công nên cố gắng,
Mặc dầu thắng lợi nắm trong tay.
Kháng Nhật, cờ bay khắp Á châu,
Cờ to, cờ nhỏ chẳng đều nhau;
Cờ to đã hẳn là nên có,
Cờ nhỏ dù sao, thiếu được đâu.
Tác giả nhân ngày 11-11 (song thập nhất) kỷ niệm chấm dứt Thế chiến thứ nhất (1914-1918), viết về cuộc kháng chiến chống phát xít Nhật xâm lược của nhân dân Trung Quốc, tính từ ngày 7-7-1937 đến cuối năm 1942 là gần 6 năm.
Nazi viết tắt từ Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei (Đảng công nhân xã hội quốc gia Đức, tiếng Đức), gọi tắt là Quốc xã. Đây là đảng phát xít phát động Thế chiến thứ hai (1939-1945).
Báo động
警報 十一月十二日
Cảnh báo (Thập nhất nguyệt thập nhị nhật)
Báo động (Ngày 12 tháng 11)
敵机浩蕩到天中
避襲人民跑一空
我們出籠避空襲
人人歡喜得出籠
Địch cơ hạo đãng đáo thiên trung,
Tỵ tập nhân dân bào nhất không;
Ngã mẫn xuất lung tỵ không tập,
Nhân nhân hoan hỉ đắc xuất lung.
Bản dịch của Nam Trân:
Máy bay địch bỗng đến ào ào
Tất cả nhân dân chạy xuống hào,
Cửa mở cho tù ra lánh nạn,
Sổ lồng, ai nấy khoái làm sao!
Bản dịch của Huệ Chi:
Máy bay địch bỗng rộn không trung,
Trốn nấp, nhân dân chạy sạch không;
Tù phạm cũng tìm nơi ẩn nấp,
Được ra ngoài ngục, khoái vô cùng.
Chơi chữ
折字
Chiết tự
Chơi chữ
囚人出去或為國
患過頭時始見忠
人有憂愁優點大
籠開竹閂出真龍
Tù nhân xuất khứ hoặc vi quốc,
Hoạn quá đầu thì thuỷ kiến trung;
Nhân hữu ưu sầu ưu điểm đại,
Lung khai trúc sản, xuất chân long.
Bản dịch của Nam Trân:
Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!
Chiết tự là một hình thức phân tích chữ Hán ra từng bộ phận để thành những chữ mới, có ý nghĩa khác với ý nghĩa ban đầu. Theo lối chiết tự, bài thơ này còn có nghĩa đen như sau: chữ tù (囚) bỏ chữ nhân (人), cho chữ hoặc (或) vào, thành chữ quốc (國). Chữ hoạn (患) bớt phần trên đi thành chữ trung (忠). Thêm bộ nhân (人) đứng vào chữ ưu (憂) trong "ưu sầu" thành chữ ưu (優) trong "ưu điểm". Chữ lung (籠) bỏ bộ trúc đầu (竹) thành chữ long (龍).
"Quán trọ"
旅館
"Lữ quán"
"Quán trọ"
照例初來諸难友
必須睡在廁坑邊
假如你想好好睡
你要多花几塊錢
Chiếu lệ sơ lai chư nạn hữu
Tất tu thụy tại xí khanh biên;
Giả như nhĩ tưởng hảo hảo thụy,
Nhĩ yếu đa hoa kỷ khối tiền.
Bản dịch của Nam Trân:
Lệ thường tù mới đến,
Phải nằm cạnh cầu tiêu;
Muốn ngủ cho ngon giấc,
Anh phải trả tiền nhiều.
Nắng sớm
早晴
Tảo tình
Nắng sớm
朝陽穿過籠全部
燒盡幽烟與暗霾
生氣頓時充宇宙
犯人个个笑顏開
Triêu dương xuyên quá lung toàn bộ,
Thiêu tận u yên dữ ám mai;
Sinh khí đốn thì sung vũ trụ,
Phạm nhân cá cá tiếu nhan khai.
Bản dịch của Huệ Chi:
Nắng sớm xuyên qua nơi ngục thất,
Đốt tan khói đặc với sương dày;
Đất trời phút chốc tràn sinh khí,
Tù phạm cười tươi nở mặt mày.
"Việt Nam có bạo động"
越有騷動 邕報赤道訊十一月十二日
"Việt hữu tao động" Ung báo, Xích đạo tấn 14-11
"Việt Nam có bạo động" tin Xích đạo, báo Ung Ninh 14-11
寧死不甘奴隸苦
義旗到處又飄揚
可憐余做囚中客
未得躬親上战場
Ninh tử, bất cam nô lệ khổ,
Nghĩa kỳ đáo xứ hựu phiêu dương;
Khả liên dư tố tù trung khách,
Vị đắc cung thân thướng chiến trường.
Bản dịch của Nam Trân:
Thà chết chẳng cam nô lệ mãi,
Tung bay cờ nghĩa khắp trăm miền;
Xót mình giam hãm trong tù ngục,
Chưa được xông ra giữa trận tiền.
Đoàn đại biểu Anh sang thăm Trung Hoa
英訪華团
Anh phóng Hoa đoàn
Đoàn đại biểu Anh sang thăm Trung Hoa
美团去了英团到
到處欣逢熱烈情
我也訪華团一部
卻遭特種的歡迎
Mỹ đoàn khứ liễu Anh đoàn đáo,
Đáo xứ hân phùng nhiệt liệt tình;
Ngã dã "phóng Hoa đoàn" nhất bộ,
Khước tao đặc chủng đích hoan nghênh.
Bản dịch của Nam Trân Hoàng Trung Thông:
Đoàn Mỹ đi rồi đoàn Anh đến,
Khắp chốn mừng reo tỏ nhiệt tình;
Ta cũng "một đoàn" thăm quý quốc,
Lại dành riêng một lối hoan nghênh.
Tác giả trào phúng tình cảnh của mình khi các đại biểu Mỹ, Anh trong phe Đồng minh chống phát-xít đều được chính quyền Tưởng tiếp đãi nhiệt tình; còn tác giả là đại biểu của Việt Nam độc lập đồng minh hội, cũng là đồng minh của Trung Quốc chống phát-xít Nhật nhưng "được" chính quyền Tưởng cho đi "thăm" các nhà tù.
Giải đi Vũ Minh
解往武鳴
Giải vãng Vũ Minh
Giải đi Vũ Minh
18-11
既解到南寧
又解返武鳴
鸞鸞曲曲解
徒延我行程
不平
Ký giải đáo Nam Ninh,
Hựu giải phản Vũ Minh;
Loan loan, khúc khúc giải,
Đồ diên ngã hành trình.
Bất bình!
Bản dịch của Văn Trực Văn Phụng:
Đã giải đến Nam Ninh,
Lại giải về Vũ Minh;
Giải đi quanh quẹo mãi,
Kéo dài cả hành trình.
Bất bình!
Vũ Minh là một tên huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, một địa điểm trên đường bộ từ Tĩnh Tây đến Nam Ninh. Tác giả đã bị giải đến Nam Ninh dọc theo đường sông, nay lại giải lại về phía Tĩnh Tây theo đường bộ.
Thịt chó ở Bào Hương
芭鄉拘肉
Bào Hương cẩu nhục
Thịt chó ở Bào Hương
過果德時吃鮮魚
過芭鄉時吃狗肉
可見一般迎解人
生活有峙也不俗
Quá Quả Đức thì ngật tiên ngư,
Quá Bào Hương thì ngật cẩu nhục;
Khả kiến nhất ban đệ giải nhân,
Sinh hoạt hữu thì dã bất tục.
Bản dịch của Đỗ Văn Hỷ:
Qua Quả Đức thì chén cá tươi,
Qua Bào Hương lại xơi thịt chó;
Cho hay bọn giải tù nhân này,
Cách sống đôi khi cũng sành đó.
Bào Hương là một địa điểm trên đường bộ từ Nam Ninh đi Vũ Minh.
Phu làm đường
築路夫
Trúc lộ phu
Phu làm đường
餐風浴雨未曾休
慘淡經營築路夫
車馬行人來往者
幾人感謝你功勞
Xan phong dục vũ vị tằng hư,
"Thảm đạm kinh doanh" trúc lộ phu;
Xa mã hành nhân lai vãng giả,
Kỷ nhân cảm tạ nhĩ công lao?
Bản dịch của Nam Trân:
Dãi gió, dầm mưa chẳng nghỉ ngơi,
Phu đường vất vả lắm ai ơi!
Ngựa xe, hành khách thường qua lại,
Biết cảm ơn anh được mấy người?
"Thảm đạm kinh doanh" là một thành ngữ Trung Quốc, ý nói dốc sức, mưu toan, tận tụy với công việc.
Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta
獄丁窃我之士的
Ngục đinh thiết ngã chi sĩ-đích
Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta
一生正直又坚强
携手同行幾雪霜
恨彼奸人離我俩
長胶我你各凄凉
Nhất sinh chính trực hựu kiên cương,
Huề thủ đồng hành kỷ tuyết sương;
Hận bỉ gian nhân ly ngã lưỡng,
Trường giao ngã nhĩ các thê lương.
Bản dịch của Nam Trân:
Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường,
Dìu dắt nhau đi mấy tuyết sương;
Giận kẻ gian kia gây cách biệt,
Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương.
Sĩ-đích phiên âm từ tiếng Anh "stick", có nghĩa là chiếc gậy.
Cột cây số
公里碑
Công lý bi
Cột cây số
不高亦不遠
非帝亦非王
小小一片石
屹立大道旁
人賴你指示
不走錯向方
你給人指示
途路之短長
你功也不小
人人不你忘
Bất cao diệc bất viễn,
Phi đế diệc phi vương;
Tiểu tiểu nhất phiến thạch,
Ngật lập đại đạo bàng;
Nhân lai nhĩ chỉ thị,
Bất tẩu thác hướng phương;
Nhĩ cấp nhân chỉ thị,
Đồ lộ chi đoản trường;
Nhĩ công dã bất tiểu,
Nhân nhân bất nhĩ vương.
Bản dịch của Văn Trực Văn Phụng:
Chẳng cao cũng chẳng xa,
Không đế cũng không vương;
Một phiến đá nho nhỏ,
Đứng sừng sững bên đường;
Người nhờ anh chỉ lối,
Đi đúng hướng đúng phương;
Anh chỉ cho người biết,
Nào dặm ngắn, dặm trường;
Mọi người nhớ anh mãi,
Công anh chẳng phải thường.
Cháu bé trong ngục Tân Dương
賓陽獄中孩
Tân Dương ngục trung hài
Cháu bé trong ngục Tân Dương
22-11
Oa…! Oa…! Oaa…!
家怕當兵救國家
所以我年才半歲
要到獄中跟着媽
Oa…! Oa…! Oaa…!
Gia phạ đương binh cứu quốc gia;
Sở dĩ ngã niên tài bán tuế,
Yếu đáo ngục trung căn trước ma.
Bản dịch của Nam Trân:
Oa…! Oa…! Oaa…!
Cha sợ sung quân cứu nước nhà;
Nên nỗi thân em vừa nửa tuổi,
Phải theo mẹ đến ở nhà pha.
Tân Dương là một huyện, thuộc tỉnh Quảng Tây, một địa điểm trên đường bộ từ Nam Ninh đi Quế Lâm. Cũng như bài Trưng binh gia quyến, bài này mượn lời một cháu nhỏ để châm biếm lối bắt lính của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Vì không bắt được chồng vào lính, họ đã bỏ tù người vợ cùng với con nhỏ.
Gửi Nehru
寄尼魯
Ký Nê Lỗ
Gửi Nehru
其一
我奮鬥的君活動
君入獄的我住籠
萬里遥遥未见面
神交自在不言中
其二
我們遭逢本是同
不同的是所遭逢
我居友者圈囹裡
君在仇人梏桎中
Ngã phấn đấu thì quân hoạt động,
Quân nhập ngục thì ngã trú lung;
Vạn lý dao dao vị kiến diện,
Thần giao tự tại bất ngôn trung.
Ngã môn tao phùng bản thị đồng,
Bất đồng đích thị sở tao phùng;
Ngã cư hữu giả quyền linh lý,
Quân tại cừu nhân cốc trất trung.
Bản dịch của Hoàng Trung Thông:
Khi tôi phấn đấu, anh hoạt động,
Anh phải vào lao, tôi ở tù;
Muôn dặm xa với chưa gặp mặt,
Không lời mà vẫn cảm thông nhau.
Đôi ta cảnh ngộ vốn không khác,
Cảnh ngộ giờ đây khác bội phần;
Tôi, chốn lao tù người bạn hữu,
Anh, trong gông xích bọn cừu nhân.
Nê Lỗ tức Jawaharlal Nehru (1889-1964), một chiến sĩ của nền độc lập Ấn Độ và là Thủ tướng Ấn Độ từ năm 1947 đến 1964. Tác giả đã từng gặp cụ Motilal Nehru, thân sinh của Thủ tướng Nehru, cũng là một chiến sĩ lão thành, ở Hội nghị quốc tế chống chiến tranh đế quốc tại Bruxelle (Bỉ) năm 1927.
Tiền đèn
燈光費
Đăng quang phí
Tiền đèn
入籠要納燈光费
桂幣人人各六元
步入朦朧幽暗地
光明值得六元錢
Nhập lung yếu nạp đăng quang phí,
Quế tệ nhân nhân các lục nguyên;
Bộ nhập mông lung u ám địa,
Quang minh trị đắc lục nguyên tiền!
Bản dịch của Nam Trân:
Vào lao phải nộp khoản tiền đèn,
Tiền Quảng Tây vừa đúng sáu "nguyên";
Vào chỗ tối tăm mù mịt ấy,
Quang minh đáng giá bấy nhiêu tiền.
Nguyên văn "Quế tệ", tức tiền Quế. Quế là một tên khác của tỉnh Quảng Tây.
Sinh hoạt trong tù
獄中生活
Ngục trung sinh hoạt
Sinh hoạt trong tù
每人各有一火炉
大大小小幾個鍋
煮飯煮茶又煮采
成天煙火没時無
Mỗi nhân các hữu nhất hỏa lô,
Đại đại, tiểu tiểu kỷ cá oa;
Chử phạn chử trà hựu chử thái,
Thành thiên yên hoả một thì vô.
Bản dịch của Nam Trân:
Hỏa lò ai cũng có riêng rồi,
Nhỏ nhỏ, to to mấy chiếc nồi;
Cơm, nước, rau, canh, đun với nấu,
Suốt ngày khói lửa mãi không thôi.
Tiên sinh họ Quách
郭先生
Quách tiên sinh
Tiên sinh họ Quách
萍水相逢談片刻
郭君對我甚慇懃
雪中送炭雖然少
世界仍存這種人
"Bình thủy tương phùng", đàm phiến khắc,
Quách quân đối ngã thậm ân cần;
"Tuyết trung tống thán" tuy nhiên thiểu,
Thế giới nhưng tồn giá chủng nhân.
Bản dịch của Nam Trân – Huệ Chi:
"Gặp nhau bèo nước", chuyện gần xa,
Ông Quách ân cần đối đãi ta;
"Rét đến cho than", không mấy kẻ,
Đời nay người thế vẫn còn mà.
"Bình thủy tương phùng": thành ngữ Trung Quốc nghĩa là bèo theo nước khi hợp khi tan, ý nói những người chưa từng quen biết bỗng dưng gặp nhau.
"Tuyết trung tông thán": thành ngữ Trung Quốc nghĩa là cho than sưởi ấm trong những ngày tuyết rơi, ý nói giúp đỡ người khác những lúc hoạn nạn.
Trưởng ban họ Mạc
莫班長
Mạc ban trưởng
Trưởng ban họ Mạc
慷慨賓陽莫班長
解囊買飯給囚人
晚間解縛給他睡
不用威權只用恩
Khảng khái Tân Dương, Mạc ban trưởng,
Giải nang mãi phạn cấp tù nhân;
Vãn gian giải phược cấp tha thụy,
Bất dụng uy quyền, chỉ dụng ân.
Bản dịch của Nam Trân:
Trưởng ban họ Mạc người hào hiệp,
Dốc túi mua cơm giúp phạm nhân;
Đêm đến cởi thừng cho họ ngủ,
Chẳng dùng quyền thế, chỉ dùng ân.
Nhà lao Thiên Giang
遷江獄
Thiên Giang ngục
Nhà lao Thiên Giang
1/12
籠外六十九人盎
籠中的盎不知數
監房卻像刨藥堂
又像街上買盎鋪
Lung ngoại lục thập cửu nhân áng,
Lung trung đích áng bất tri số;
Giam phòng khước tượng bào dược đường,
Hựu tượng nhai thượng mại áng phố.
Bản dịch của Băng Thanh:
Ngoài lao sáu chín chiếc ang người,
Chồng chất trong lao biết mấy mươi;
Nhà ngục mà như nhà chế thuốc,
Gọi là hàng chĩnh cũng không sai.
Thiên Giang: tên huyện thuộc tỉnh Quảng Tây.
Ang là một loại chậu, ang người là một kiểu áo quan giống như chiếc chậu lớn. Quảng Tây và một số tỉnh phía nam Trung Quốc có tục chôn người, thường theo tư thế ngồi, vào những chiếc ang.
Ở một dị bản, câu 1 chép có khác biệt ở chữ nhân (人) thay bằng chữ cá (个). Sự thay đổi này làm thay đổi cả ý nghĩ của bài thơ theo hướng nhẹ nhàng hơn.
Sáu mươi chín chậu đặt ngoài lao,
Chậu ở trong lao khôn xiết kể;
Nhà ngục giống như phòng bào chế,
Lại như hàng chậu dọn trên đường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét