Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

Nhi thap tu hieu.html


Nhị Thập Tứ Hiếu


-LýVănPhức-

Thông tin e-book: Nguồn: vnthuquan Chuyển sang prc: whitelion211 (TVE)

Ti ểu sử tác giả Truyện thứ 1: Ngu Thuấn Truyện thứ2:VănĐế Truyện thứ3:TăngTử Truyện thứ 4: Mẫn Tử Khiên Truyện thứ 5: Trọng Do Truyện thứ 6: Diễm Tử Truyện thứ 7: Lão Lai Tử Truyện thứ8:ĐồngVĩnh Truyện thứ 9: Quách Cự Truyện thứ10:KhươngThị Truyện thứ 11: Thái Thuận Truyện thứ12:ĐinhLan Truyện thứ 13: Lục Tích Truyện thứ 14: Giang Cách Truyện thứ15:HoàngHương Truyện thứ16:VươngThôi Truyện thứ 17: Ngô Mãnh Truyện thứ18:VươngTường Truyện thứ19:DươngHương Truyện thứ 20: Mạnh Tông Truyện thứ 21: Du Kiềm Lâu Truyện thứ22:Đường Thị vợ họ Thôi Truyện thứ 23: Châu ThọXương Truyện thứ24:HoàngĐìnhKiên Giới thiệu và Kết luận


Tiểusửtácgiả

LýVăn Phứ c tự là Lân Chi, hiệu là KhắcTrai, người làng Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Hà Nội, sinhvào nămẤt Tỵ(1785). Ôngthiđỗ cửnhânvào năm1819, niên hiệu Gia Long thứ 18. Ông trải ba triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Ðức. Trong cuộcđời làm quan, ông bị nhiều lần thăng giáng,vàđược cửđicông cánnhiềunước ở Viễn đông. Vào năm 1849, ông bị bệnh mà mất, nhà vua liền cho truy thụ Lễ Bộ Hữu Thị Lang. Nhị Thập Tứ Hiếu diễn âm (haimươi bốn truyện hiếu diễn ra quốc âm):

Nh ị Thập Tứ Hiếu Người tai mắt đứng trong trời đất, Ai là không cha mẹ sinh thành, Gương treo đấtnghĩa, trời kinh, Ở sao cho xứng chút tình làm con. Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết, Thì suyra trămnết đều nên, Chẳng xem thuởtrước Thánh Hiền, Thảo haimươi bốn, thơmnghìnmuôn thu


Truyệnthứ1: NguThuấn

M ột vịvuatrongNgũĐế thờithượng cổ họ Diêu tên là Thuấn, một trang hiếu tử. Sauđược vua Nghiêu, hiệulàĐào Đường gảhaingười con gái là Nga Hoàng và Nữ Anh, rồi lại truyền ngôi báu cho. Vua Thuấnlênngôi đặt niên hiệu làĐường Ngu. Nguyên cha của Thuấnlàngười hung bạo, không biết phân biệtđượcngười hay kẻ dở,người đương thờiđặt tên là Cổ Tẩu(người mù mắt). Mẹ của Thuấn mất sớm, Cổ Tẩu tục huyền với người đàn bà sau này sinhraTượng. Vì có lời gièm pha củangười kế mẫuvà đứa em ngỗ nghịch cùng cha khác mẹ, Cổ Tẩukhông ưaThuấnvà định bụng giết đi. Biết thế, nhưngThuấn vẫn trọn gìn chữ hiếuđối vớichavàngười dì ghẻ ác nghiệt, hòa thuận vớiđứaemđộc ác, không một lời than oán. Khi cha bắtđicàyởđất LịchSơncốt tìm cách trừđi, vìnơiđâycó tiếng là nhiều thú dữhayănthịtngười. Nhưngtấm lòng hiếu thảo và hòa mục của Thuấn độngđến lòng trời, cả đànvoi ragiúp Thuấn cày đất và muông chim vô sốđáp xuống nhặt cỏ hộ. Thấy không hại được Thuấn, Cổ Tẩuvàngười dì ghẻ sai Thuấn đánhcáở Hồ Lôi Trạch, nơi có nhiều sóng to gió lớn, nhưng khiThuấn đến thì sóng lặng gió yên. Đến khi đượcvua Đường Nghiêu truyền ngôi, suốt 18năm trịvì, Đế Thuấn chỉ ngồi gảy đàn hát khúc Nam Phong mà trị bình thiên hạ, nhànhà đều lạc nghiệp âu ca. Nguyên bản: Đội độicanh điềntượng, Phân Phân vân thảo cầm, PhụNghiêu đăng báo vị, Hiếu cảm động thiên tâm Có nghĩalà: Hàng đànvoivề cày ruộng, Hàng bầy chim đến nhặt cỏ, Giúp vua Nghiêu lên ngôi báu, Hiếu thảo động lòng trời. Diễn quốc âm: Đức Đại Thánh họ Ngu, vua Thuấn, Buổi tiềm! long gặp vận hàn vi, Tuổi xanh khuất bóng từ vi Cha là Cổ Tẩungười thì ương ương, Mẹ ghẻ tính càng khe khắt, EmTượng thêm rất mực điêungoa, Một mình thuận cả vừa ba, Trên chiều cha mẹdưới hòa cùng em. Trăm cay đắng một niềm ngon ngọt, Dẫu tử sinh không chút biến dời, Xót tình khóc tối kêu mai Xui lòng ghen ghét hóa vui dần dần, Trời cao thẳm mấy lần cũng đến Vậtvô tri cũngmến lọngười. Mấy phen non lịch pha phôi, Cỏ chim vì nhặt, ruộng voi vì cày. Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh, Mệnhtrương dungtrao chánhnhường ngôi Cầm thi xiêm áo thảnh thơi, Mộtnhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen.


Truyệnthứ2: VănĐế

Tên th ật là Hằng, conngười vợ thứ của Hán Cao TổLưu Bang, em cùng cha khác mẹ với vua HuệĐế. Vìngười vợ cả của Hán Cao Tổ có tính hay ghen dữ tợn và sợ con củangười vợ thứ sau này giành ngôi, nên không muốn cho Hằng và mẹ là Bạc Hậu ở triều. Theo lờiđề nghị củađình thần, vua Hán Cao Tổ liền phong cho Hằng chức Đại Vươngởđất Đại. Hằng tính tình hiếu thuận được triều thầnnhàHáncũngnhưthầndânđều mến phục. Sau khi anh là vua HuệĐế mất, không con nối nghiệp, các quan liềnrađấtĐạirước Hằng về lên ngôi, tứclàHánVănĐế. Khi làm vua rồi, mẹ là Bạc Hậu lạiđauyếu trong suốtbanămliền, VănĐế, ngoài những buổi chầu, vẫn mặc đại phục của vịVương đếvà đứng hầu mẹ, biếng ăn bỏ ngủ, đêmthức canh chừng bệnh mẹ. Thường ngự y dâng thuốclên, VănĐếđỡ lấy rồi nếmtrước sợ có thuốc độc. Các quan trong triều cũngnhưngoài dân chúng biếtVănĐếlàngười hiếu tửđều bắt chước theo. Nhờđó, ngườitrongnướcđều giữ lòng hiếu thảo hòa mục và thiên hạ thái bình thạnh trị không khác gìở thờiTamĐại thuởtrước. (TamĐại gồmcó cácđời vua nhà Hạ, nhàThương, nhà Chu). Nguyên bản: Nhân hiếu lâm thiên hạ, Nguynguy quân bách Vương, Hán đình sự hiền mẫu, Thang dược tất tiếnthường. Có nghĩalà: Lấy đạo nhân hiếu dạy thiên hạ, Công đức cao hơntrămvua khác, Phụng dưỡng mẹnơi công đìnhnhàHán, Thuốc thang tự tay nếm trước. Diễn quốc âm: KìaVăn Đế vua hiềnHán Đại, Vângấn phongngoài cõi phiênVương, Quên mình chức cả quyền sang, Phụng thờ Bạc Hậu lẽthường chẳng sai, Đến khi nối ngôi trời trịnước, Vẫnlòngnày săn sắcnhưxưa. Mẹ khi ngạig! ió kinhmưa. Banămhầu hạthườngnhưmột ngày. Mắt chong bóng dám sai giấc ngủ. Áo luôn mình dám sổđailưng. Thuốc thang mắt xét tay nâng. Có tường trong miệng mới dâng dưới màn. Tiếng nhân hiếu đồn vang thiên hạ, Thói thuầnlươnghóa cả lê nguyên, Haimươinămlẽ kiền khôn. Đã sauTamĐại, hãy còn Thành, Khang. Ấy hai vịđếVương đờitrước, Chữ hiếu dành đátạc vàng in, Còn ra sĩ thứ, đấng hiền. Đếm xem mấy kẻ tiếng truyền đến nay.


Truyệnthứ3: TăngTử

Tên là Sâm, t ự là TửDư, người ởấp VũThànhthuộcnước Lỗ, sinh vào đời Xuân Thu, là học trò giỏi nhất của Khổng Tử. Tăng Tửđược liệt vào hàng tứ phối, nghĩalàtrong số bốn người, cùngđược phốihưởng với Khổng Tử. Ông thờ cha mẹ rất hiếu thảo, bữaănnàocũngcố gắng tìm đủrượu thịt cho cha mẹ dùng. Khi cha mẹ dùng bữa xong, còn thừamón ănnào, ônghỏi cha mẹcho ai thì ôngvâng màcho người ấy. Một hôm ông vắngnhà để vào rừng kiếm củi,cóngười kháchđếnchơi, mẹ ông muốn cho ông vềngay, nhưngkhông biết phải làm cách nào, liền cắn vào đầungóntayđểđộng lòng con mình. Quả nhiênở trong rừng ông cảm cảm thấy trong lòng quặn đau, vội vã gánh củi về nhà. Nguyên bản: Mẫu chỉtài phương khiết, Nhỉtâm thống bất căm, Phụtân qui vị vãn, Cốt nhục chí tình thâm. Có nghĩalà: Mẹ vừa cắn ngón tay, Con quặn đau trong dạ, Vộivàng đội củi về, Cốt nhục tình linh cảm. Diễn quốc âm: Đời Chu Mạt có thầy Tăng Tử, Thờ mẹ cha thời giữ chí thành, Bữa thường rượu thịt ngon lành, Cho ai, vâng cứđinh ninh chẳng rời, Nhà bần bạc thường vui hái củi, Quảng mù xanh thui thủi non xâu. Mẹ ngồi tựa cửa bóng sau, Nhân khi khách đến trông mau con về. Rối trong dạ nhân khi cùng túng. Cắnngón tay cho động lòng con. Trông non bỗng chốc bồn chồn. Quặn đau khúc ruột bước dồn gót chân. Quỳdưới gối ghé gần thưahỏi. Lắng bên tai nghe giải nguồn cơn. Cho hay từ hiếu, tương quan. Non Đồng khi lỡ, khôn hàn tiếng chuông.


Truyệnthứ4: MẫnTửKhiên

Tên ch ữ là Tồn, học trò Khổng Tử, sinh vàođời Xuân Thu, mẹ ông mất sớm, người cha có vợ khác và sinh hạđượchai con. Người dì ghẻđối với ông vô cùng khắc nghiệt, nhưng ôngvẫn một lòng hiếu thuận. MùaĐônggiá rét, hai conriêngcủa bàthì được mặc áo lót bông, riêng Mẫn Tử Khiên thì mặcáo độn hoa lauởbêntrong. Tuykhôngđủấm, nhưngôngchẳng bao giò hở môi. Một hôm, cha ông dạo chơiôngtheo đẩy xe, vì quá rét, tay cóng lại rời tay xe ra. Cha ông thấy thế biếtlàngười kế mẫu ác nghiệt để cho ông chịu rét lạnh, liền cóý định đuổingười đàn bà cay nghiệt kia đi Ông khóclócvà kêuvanvới chaxin đừng đuổi kế mẫu đi. Vìngười kế mẫu còn chỉ có mình ông chịu rét, nếubàđirồi, cả hai em chịu rét và khổ sở lây. Cha ông nghe theo, và người kế mẫu hiểu biết chuyện hiếu thảo củangười con chồng, từđó bàthayđổicáchcưxử và trở nên bậc hiền mẫu. Nguyên bản: Mẫn thị hữu hiền lang, Hà tằng oánvănnương, Đường tiềnlưumẫu tại, Tam tử miễn phongsương Có nghĩalà: Nhà nọ mẫn có đứa con hiền, Không bao giờ oán trách mẹ kế, Trước mặt cha xin mẹ kếở lại, Để ba con cùng khỏi phải khổ sở Diễn quốc âm: Thầy Mẫn Tử rất đường hiếunghĩa, Xót nhà huyên quạnh quẻđãlâu, Thờ cha sớm viếng khuya hầu. Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng nàn. Trời đươngtiết đônghànlạnh lẻo. Hai em thờikép áo dày bông, Chẳng thươngchút phậnlong đong. Hoa lau nởđể lạnh lùng một thân, Khi cha dạo theo chânxe đẩy. Rét căm cămxe đẩy rời tay, Cha nhìn ngẫmnghĩmới hay. Nghiến răng rắp cắt đứt dâyxướng tùy, Gạtnước mắt chân quỳ miệng gởi. Lạy cha xin xét lại nguồn cơn, Mẹ còn chịu! một thân đơn. Mẹđiluống đểcơhàn cả ba, Cha trông xuống cũng sagiọt tủi. Mẹ nghe lời cũng đổilòngxưa, Cho hay hiếu cảm nên từ. Thấmlâunhư đá cũng rừ lọ ai?


Truyệnthứ5: TrọngDo

Tr ọngDo, người ởấp Biện, thuộcnước Lỗ, sinhvào đời Xuân Thu, học trò Khổng Tử Lộ. Thờ cha mẹ rất có hiếu. Nhànghèo, ôngthường đi đội gạo đườngxahàng trăm dặm về nuôi cha mẹ. Không có tiền mua thức ăn, phải tìm các thứ rau về nấu canh dâng lên cha mẹ dùng tạm. Sau khi cha mẹ mất, ôngsangnước Sở, được vua Sở trọng dụng, phongbantước cao sang, cấp nhiều bổng lộc. Ôngthường than phiền là không còn cha mẹđểđược phụngdưỡngnhưxưa, để ngày ngàyđội gạo, bữa bữa nấu canh rau. Khổng Tửthường khen Tử Lộlàngười hiếuđễ và thận trọng từng hành vi. Nguyên bản: Phụ mễ cung cam chỉ, Ninh Từ bách lý lao, Thânhoàn thân dĩmột, Do niệm cựu cù lao Có nghĩalà: Đội gạo để cung cấp ngọt bùi cho cha me, Không nềđường dàixa trăm dặm. Đến khi sungsướng cha mẹđã khuất. Vẫn hằng nhớ công khó nhọc của cha mẹ. Diễn quốc âm: Thầy Tử Lộcũngngườinước Lỗ, Thờ hai thân từng bữa canh lê. Thường khi đội gạo đivề. Xaxôitrăm dặm nặng nề hai vai, Đỉnh Hoa biểu từkhơi bónghạc. Gót Nam Du nhẹbước tang bồng. Xe trăm cỗ, thóc muôn chung. Ngồi chồng đệmghép, ăn chồng vạc cao, Thân phú quý ngẫm vào thêm tủi. Đức cù lao chạnh tới càng đau. Nào khi đội gạo canh rau, Muốn cònnhư cũ dễ hầu được ru. Lòng thắc mắc nghìn thu vẫn dễ, Biết bao giò cam chỉđền công, Cho hay dạ hiếu khôn cùng. Dẫu Tam công chẳng đổi lòng thần hôn.


Truyệnthứ6: DiễmTử

Di ễm Tửsinh vào đời nhà Chu, thờ cha mẹ hết lòng. Cha mẹgià, đôimắt lòa không trông rõ, thèm muốnđược uống sữahươu. Diễm Tử liền lấydahươu khô làmáo mặc vào giảhươucon vào rừng đến gần cáchươu mẹ có sửa, vắt lấy đemvề dâng cho hai thân. Một hôm, Diễm Tử gặp bọnsăntưởng lầmlàhươu, dùngcungtêntoanbắn Diễm Tử vội vàng bỏ lớp hươuratrìnhbày mọi lẽ, bọn thợsăn thôi không bắn nữa. Nguyên bản: Thânlão tưlộc nhữ, Thân phi lộc bì y, Nhược bất cao thanh ngữ, Sơntrung đới tiền quy.

Có nghĩalà:

Cha m ẹ già thèm uống sửahươu, Mình khoác lên vai lớp áo dahươu, Nếu không kịp kêu la to tiếng, Bị trúng phải tên bắn trong núi. Diễn quốc âm: ChuDiễm Tử làm con rất thảo, Chiều hai thân tuổi lão cao niên, Mắt trần khuất nguyệt mờ sao, sửa hươungười những ước ao từng ngày, Vật khó kiếmthường khônhay thường đôi, Phảilo phươngtìmtỏi cho ra, Hươu khô tìmlấy lột da. Mặc làm sắc áo để hòa lẫn theo. Chốn non thẳm tìm vào bầy lứa, Sẽ dần dà lấy sửa nuôi thân, Bỗng đâugặp lũ đi săn, Rắp buông cung bắn không phân vậtngười. Đemtâm sự tớinơi bàytỏ, Chút hiếu tình nghe rõ cũngthôi, Cho hay cung một tính trời, Mảnhson cũng động đượcngườivũ phu.


Truyệnthứ7: LãoLaiTử

Lão Lai T ử vốnngười ởnước Sở, sinhvào đờiXuânThu, đã70 tuổi mà cha mẹ vẫn còn sống, ông thờ cha mẹ rất có hiếu. Không muốn cha mẹ thấy con già nua mà lo buồn, ôngthường mặc áo sặc sỡ, rồi tay múa miệnghát trước mắt cha mẹ. Lại có khi bưngnước hầu cha mẹ, ông giả vờ trợt té rồi ngồikhócoaoatrước mặt cha mẹnhưtrẻ nít mới lên 5, 3 tuổi vậy. Cha mẹvuicười trước trò ngộnghĩnh của con mình. Nguyên bản: Hý Vũhọc Kiều si Xuân phong động thái y Song thân khai khẩu tiếu, Hỷ sắcmãn đìnhvi. Có nghĩalà: Chơi đùanhư tuồng trẻ con, Gió xuânlay động áo hoa sặc sỡ, Cha mẹ cùng nhau mở miệng cười, Cảnh nhà cửa đầy cả cửa nhà. Diễn quốc âm: Lão Lai Tửđời Chu, cao sĩ, Thờ hai thân chẳng trễ ngọt bùi, Tuổigià đã đúng bảymươi, Nóinăng chẳng chút hở môi rằng già, Khi thong thả mẹ cha ngồitrước, Ghé gần vào bắtchước trẻthơ, Thấp cao điệu múa nhởnnhơ, Xênh xoang màu áo bạc phơmái đầu, Chốn đường thượng khi hầu bưngnước, Giảlàm điềungã trước thềm hoa, Khóc lên mấy tiếng oa oa, Tưởng chừng lên bảy lên ba thuở nào. Trên tuổi tác trông vào vui vẻ, Áng đìnhvigió thụymưaxuân, Cho hay nhân thử sự thân, Trongtrămnăm được mấy lần ngày vui.


Truyệnthứ8: ĐồngVĩnh

Người đờ i nhà Hậu Hán,nhàtuynghèo nhưngVĩnh rất hiếu thảo. Khi cha chết trong nhà không tiềnđể lo việc ma chay cho ấmcúng, Vĩnh liềnđến làng khác vay tiền mộtngười nhà giàu, hứa sẽ dệt trả công 300 tấm lụa để trả vào số tiềnmượn, số tiền công dệt lụa kia trộihơngấp mấy lần tiềnvay. Vayđược tiềnĐồngVĩnhvề lo việc tang ma cho cha xong xuôi, thu xếp việcgiađình địnhđếnnhàngườinhàgiàuđể dệt trả công. DọcđườngĐồngVĩnh gặp người con gái cùng nhau hứa hẹn kết làm chồng vợ,nhưng hẹn dệt xong 300 tấm lụa, rồi sau sẽthànhhôn. Người congáinàygiúp Vĩnh dệt xong 300 tấm lụa rấtnhanh để trả món nợcho người nhà giàu. Khi cả hai cùng trở vềđến ngay chỗ gặp, ngườicon gáilúctrước, nàng ấy biến mất.Đólàvì lòng hiếu thảo của ĐồngVĩnh động lòng Trời sai tiên nữ xuống giúp. Nguyên bản: Táng Phụthải khổng phương, Tiên cô lộthượng phùng, Chức khiêmthường trái chủ, Hiếu cảm động thượng khung. Có nghĩalà: Vay tiền để chôn cất cha già, Giữa đường liền gặp nàng tiên, Dệt lụa trả công chủ nợ, Lòng hiếu cảm động đến Trời. Diễn quốc âm: Đời HậuHán có người ĐôngVĩnh. Nhà rất nghèo mà tính rất thành, Thấu chăng, chẳng thấu trời xanh. Phụtang đểđo, nhân tình còn chi, Liều thân thể làm thuê công việc, Miễn cầu cho thểphách được yên. Cực người thay, nhẽđồng tiền, Đemthânhiếu tử, băngmiền phú gia. Bỗng gặp kẻđàn bà đâu đó. Xin kết làm phu phụcùng đi, Lụa ba trămtấm dệt thuê, Trả xong nợấy mới về cùng nhau. Tới chốn gặp bỗng đâuthoắt biến. Là tiên cô trời khiến giúp công, Mới hay trời vốn ở lòng, Há rằng cao thẳm nghìn trùng mà! xa


Truyệnthứ9: QuáchCự

Ngườiđờ i nhà Hán, thờ mẹ chí hiếu, nhân khi cửanhàsasút,thường bữa ông thấy mẹ không dámănno, cứ bớt phầncơmđểđưacho concủa ông mới vừa lên 3 tuổiăn. Haivợ chồng cùng nhau bàn bạc: Mẹgiàkhôngđủăn, màvợ chồngtacònsinh đẻđược, nếuđể con mình chia sẻ ngọt bùi của mẹ là không phảiđạo. Thế rồi hai vợ chồng địnhđàohốchôn conđi.Khihaivợ chồngđào hố xuống chừngđược phân nửa, thì bỗng tìm thấy một hủ vàng, trên miệngcó đề hàng chữ: Hiếu Tử Quách Cự, Hoàng Kim nhất hủdung dĩ tứ nhữ. Nghĩalà:Người con hiếu là Quách Cự một hủvàngđầyđểcho nhàngươi. Nhờđó màhaivợ chồng khỏi phải chôn convàcó đủtiền phụng dưỡng mẹ già. Nguyên bản: Quách Cự tự cung cấp, Mai nhi nguyệt mẫu tồn. Hoàng kim thiên sở tứ, Quang thái chiếu hàn môn Có nghĩalà: Quách Cự chỉ lo phụng dưỡng mẹ, Đem chôn con để mẹđược sống. Trời cho đào được hủ vàng, Đươngnghèo trở nên giàu có. Diễn quốc âm: Hán Quách Cự cửa nhà sa sút, Thờ mẫu thân chăm chútmọi bề. Con còn ba tuổi biết gì, Bữa ăn từ mẫuthường thì bớt cho. Trông thấy mẹ bữa no, bữa đói. Với hiền thê than nỗi khúc nôi, Mẹgià đã chẳng hay nuôi. Để con xẻ ngọt chia bùisao đang, Vợchồngta còn phen sinh đẻ. Mẹ già rồi hồ dễđược hai, Nói thôi! giọt vắn giọt dài, Đào ba thước đất để vùi tình thâm. May đâuthấy hoàng câm mộthũ, Chữ Trời cho đề rõ rành rành, Cho hay trời khéo ngọc thành. Hiếutâm đâu dễđoạn tình cha con.


Truyệnthứ10: KhươngThị

Ngườiđờ i Hán có vợ là Bàng Thị, cả hai vợ chồngđều hiếu thảo. Mẹ chồng muốn uốngnước sông, hàng ngày Bàng Thịphải đithậtxa, để gánhnước về. Trời rét, mẹ muốn ăngỏi cá tươi, vợ chồng cốtìmcho đủđemvề. Lại sợ mẹở một mình buồn bực, nênthường mời các bà bên cạnh đếnchơi.Về sau, tự nhiên ở bên cạnh nhà có suốinước ngọt chảy ra giống nhưvịnước sông, hàng ngày lại có hai concá chép đủ làm gỏi cho mẹ dùng. Từđó, BàngThị và chồng không phải đi quảynước xa, và kiếm cá nữa. Nguyên bản: Xá trắc cam tuyền xuất, Thấttriêu songlýngư. Tửnăng tri sự mẫu. Phụcánh hiếu ư cô Có nghĩalà: Bên nhà có suốinước ngọt chảy, Mỗi ngày có hai con cá chép. Con trai biết đạo thờ mẹ. Con dâu hiếu đễ với mẹ chồng. Diễn quốc âm: Hán KhươngThị nhà còn lão mẫu, Vợ Họ Bàng vẹn đạo chữ tòng, Mẹthường muốn uốngnước sông. Vợ từng đigánh thay chồng hầu cô, Mẹthường muốnăn đồ gỏi ghém. Vợchồng đều tìm kiếm đủ mùi, Lại mời lânẩusang chơi, Để bồi cùng mẹ cho vui bạn già, Bên nhà bỗng chảy ra suối ngọt. Vớinước sông in một mùi ngon. Lý Ngưngàynhảy hai con, Đủ trong cung cấp thầnhônthường lề. Rày thong thả bỏ khi lận đận. Cam thỏa lòng dâu thuận, con hiền, Cho haygia đạo khi nên. Đã conhiếu, lại được hiền cả dâu.


Truyệnthứ11: TháiThuận

Người đờ i nhà Hán, mồ côi cha từ thuở còn bé, nhà rất nghèo. Thái Thuận hết lòng thờ mẹ. Gặp nămmấtmùađóikémvìloạn lạc, Thái Thuận vào rừng tìm trái dâu vềđểănthaycơm. Được trái nào chín, Thuậnđể qua một bên, trái nào vừađỏđể qua một bên khác. Gặp tướng Xích My đingangqua,trôngthấy hỏi Thuận vì cớ nào lại phải lựadâu đểriêng ranhưvậy. Thuận liền đáp:Tráinào chínngọt dành phần cho mẹtôi, tráinào đỏcòn chua, đó làphần củatôi. Tướng giặc khen Thuậnlàngười con hiếu, liền truyền quân lính cho một thúng gạo và mộtđùithịt trâu đểkhenthưởng. Nguyên bản: Hắc Thầm phụng huyên vi, Đềcơlệ mãn y, Xích My tri hiếu thuận, Đẫu mễ tặng quân quy Có nghĩalà: Quảdâu chín đen để biếu mẹ. Bụng đóinước mắt chảy thấm áo, Giặc Xích My biếtlàngười hiếu. Tặng cho thúng gạo mang về. Diễn quốc âm: Người Thái Thuận ởsauĐời Hán. Dạ thờ thân tiết loạn khôn lay, Đường cơn khóilửa mây bay, Liềnnămhoang khiểm, ítngày đủ no. Nơirừng rậm kiếm đồ nuôi mẹ, Nhặt quảdâu chia để làm hai, Tặc đồ trông thấy nực cười. Hỏi: Sao bày đặthainơi cho phiền?. Rằng Quảấy sắc đenthìngọt, Dâng mẹ già gọi chút tình con. Còn là sắc đỏ chẳng ngon, Cái thân cay đắng dám còn sợ chua, Giặc nghe nói khen cho hiếu kính. Bướclưuly màgánh cươngthường, Truyền quân tiền của sẵnsàng. Vó trâu một chiếc, gạo lươngmột bầu, Mừng trong dạbước mau nhẹ gót, Về tới nhà, miếng sốt dâng qua, Cho hayngườicũngngười ta, Biết đâu đạo tặc chẳnglàlương tâm?


Truyệnthứ12:ĐinhLan

Người đờ i nhà Hán, mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, khi trưởng thành, nhớcôngơn chamẹ, thuê thợ tạctượng cha mẹ bằng gỗđể thờphượng. Ngày dâng hai bữacơm, tốiđến lại lo quạt màn, sửa soạn gốichăn, hầu hạchămnomin nhưhồi cha mẹ còn sống. Phụng thờnhưvậy trong mấy mươinăm. Về sau, vợĐinhLansinhchánnản, lại dùng kim châm vào kẻtaytrượng gỗ xem có gì lạ không. Không ngờnơiấy cứ nhỏ từng giọtmáu tươixuống mãi. Đến bữa, Đinh Lan bưng cơmvào cúng, nhìnthấy tượng gỗrươmnước mắt, kẻ tay lại chảy máu. Ông biết là vợđã châm kimvào tay chamẹ, liền đuổi bỏngười vợ ngay. Nguyên bản: Khắc một vi phụ mẫu, Hình dung tại nhật thần, Kýngôn chư tứ diệt, Các yếu hiếu song thân. Có nghĩalà: Tạc gỗlàm tượng thờ cha mẹ, Thờphượng giốngnhư khi sống, Nhắn bảo các con cháu, Mọingười nên hiếu với cha mẹ Diễn quốc âm: Hán Đinh Lan thuởcòn thơấu, Bóng xuân huyên khuất dấu non xanh. Đến nay tuổi đã trưởng thành, Cám côngsơnhải, thiệt tình trân cam. Tưởng dung mạo khắc làm mộctượng, Cứ bữa thường phụng dưỡngnhư sinh, Khi chăngối, buổi cơm canh, Mấymươinăm, vẫnlòng thànhtrước sau, Phảingười vợ kính lâu nên trễ, Thử lấy kim châm kẻ ngón tay Bỗng đâugiọt máu chảy ngay, Aihaytượng gỗ lâu ngày thiêng sao? Khi đến bữa chồngvào đặt lễ Mắt tượngrơihànglệ chứa chan Xét xem mới biết nguồn cơn, Nỗi bừng lá giận, dứt tan dây tình. Há phải nhẫn, mà đành phụnghĩa, Hiếu với tình nặng nhẹ phải cân, Cho hai thành hẳn lên thần, Há rằng u hiển, mà phân vân, tồn


Truyệnthứ13: LụcTích

NgườiđờiĐôngHán, từ lúc mới lên 6 tuổiđãbiết hiếu thảo. Một hôm Lục Tích theo cha sang quận Cửu Giang viếng Viên Thuật. Họ Viên làm tiệc thếtđãi, Lục Tích thấy trong tiệc có quít ngon, bèn lấy hai trái bỏ vào túi áo dấu. Đến khi chào Viên Thuật ra về, Vô ý để quít lọt ra ngoài. Viên Thuậtnóiđùa:Sao lấy quýt giấunhưthế?. LụcTíchđáp ngay:Mẹtôithích ănquítlắm. Nhân tiện trong tiệc có quít ngon nên tôi giấu vài quảđemvề biếu mẹ tôi. Viên Thuật khen Tích làngười con chí hiếu. Nguyên bản: Hiếu đễ giai thiên tính, Nhân gian lục tuế nhi, Tụ trung hoài lục quất, Dị mậu sự kham kỳ.

Có nghĩalà:

Lòng hi ếu đễ là tính do trời phú, Đứa trẻ lên sáu trên thế gian này, Giấu quít vào trong tay áo, Đem về biếu mẹcũnglà điều lạ. Diễn quốc âm: Hán Lục Tíchthưở còn sáu tuổi, Quận CửuGiang đến với họ Viên, Trẻthơ ai chẳng yêu khen, Quítngon đặt tiệc tiểu diên đãi cùng, Cất hai quả vào trong tay áo, Tiệc tan xong từ cáo lui chân, Trước thềm khúm núp gởi thân, Vô tình quả quít nẩylăn rangoài, Viên trông thấycười cười hỏi hỏi, Sao khách hiền mang thói trẻthơ? Thưa rằng: Mẹ vốn tính ưa, Vật ngon dành lại đểđưamẹ thì. Viên nghe nói trọng vì không xiết, Bé con con mà biết hiếu thân, Cho hay phú giữ thiên chân, Sinhra ai cũngsẵn phần thiện đoan.


Truyệnthứ14: Giang Cách

Sinhvào đờ i nhà Hán, mồ côi cha từ lúc còn bé, Giang Cách chí hiếu. Trong lúc loạn lạc họ Giang cõng mẹ lánh nạn, giữađường gặp giặc toan bắtđi.Ôngkêuvankhóclócthảm thiết và cho biết còn mẹ già phải phụngdưỡng, nay nếu ông bị bắtđithìmẹgiàkhôngngười nuôi nấng. Thấy tình cảnh củaGiang Cách đáng thương,giặc tha cho về. Giang Cách liền cõng mẹ chạy về Hạ Bì, cố hết sứclàmthuêlàmmướn để nuôi mẹqua cơnloạn lạc. Nguyên bản: Phụ mẫu đào nguygian, Trung đồ tặc phạm tần, Ai cầu câu hoạch miễu, Dung lực dĩ cungthân.

Có nghĩalà: Cõng mẹ chạy lánh nạn, Giữa đường gặp giặc bắt luôn, Kêuvan cùng được tha, Cốlàm thuê để nuôi mẹ. Diễn quốc âm: Hán Cách Giang cô đơntừ bé, Bước truân chuyên với mẹđồng cư, Đương cơnloạn lạc bơvơ, Một mình cõng mẹ vẩnvơ dọc đường. Từng mấy độ chiến trường gặp giặc, Giặc cố tình hiếp bắt đen đi, Khóc rằng Thân mẹlưuly, Tuổi gì bóng chếch biết thì cậy ai? Giặc nghe nói thoắt thôi chẳng nỡ, Rồi dần dà quaở Hạ Bì, Dấnmình gánhmướn làm thuê. Miễnnuôi được mẹ quản gì là thân. Ángxuân phong tươinéttừ nhan, Cho hay những lúc gian nan, Thật vàng, dẫu mấy lửathan cũngvàng


Truyệnthứ15: HoàngHương

NgườiđờiĐôngHán, mẹ mất vào lúc mới lên 9 tuổi. HoàngHươnggào thétvàkêukhócthảm thiết,người trong làng cho là con có hiếu. Thờ cha rất mực cung kính, sớm khuya hầu hạ, không dámlãngxao. Mùa đông, HoàngHươngnằm ủvào chăn chiếu của cha đểđược truyền hơinóng cho cha khỏi rét, đến mùa hè quạt màn gối củachađể cho mát mẻ luôn, nhờđó màchađượcăn ngon ngủyên, quanhnămquanhnămvuivẻ không biết có mùađông, mùahè. QuanTháithúở quận ấy nhận thấy họHoànglàngười con hiếu thảo, liền làm sớtâuvuaHán.Hánđế ban cho Hoàng Hươngtấm biểnvàng đề chữlàngười con hiếu đễ. Nguyên bản: Đôngnhật ôn khâm noãn, Viên thiên phiến chẩmlương. Nhi đồng tri tử chức, Thiên cổ nhấtHoàng Hương Có nghĩalà: Mùa đôngthìủ cho ấm chăn, Mùa nực thì quạt cho mát gối. Trẻthơ đã biết đạo làm con, Ngànxưa chỉcó mộtHoàng Hương. Diễn quốc âm: ĐờiĐôngHán HoàngHương chín tuổi, Khuất bóng từ dòi dõi nhớthương. Hạt Châu khôn ráo hai hàng, Tiếng đồn vang dậy tronglàng đều khen. Thờ nghiêm phụ cần chuyên khuya sớm, Đạo làm con chẳng dám chút khuây, Trời khi nắng hạ chầy chầy, Quạt trong màn gốihơi baymát rầm. Trời đông buổi sương đầm tuyết thắm, Ấp hơimình cho ấm chiếu chăn. Vì con cha được yên thân, Bốn mùa không biết có phần Hạ, Đông, Tiếng hiếu hạnh cảm lòng quận thú. Biển nên treo chói đỏ vàng son. Cho hay tuổi trẻ mà khôn, Nghìn thu biết đạo làm con mấyngười?


Truyệnthứ16: VươngThôi

Ngườinướ c Ngụyđời Tam Quốc, cha làm quan nhà Ngụy. Sau nhà Tây Tấn diệtnước Ngụy nhất thống thiên hạ. ChaVươngThôibị nhà Tây Tấn giết hại, ôngquáthươngxót, phủ phục trước mộkhócmãi. Tươngtruyềnnước mắt ông chảy quá nhiều, làm cho cây trắc bên mồ khô héo đượctươilại. Suốt đời Vương Thôi không baogiờ ngồi day mặt vềhướng Tây, (vì Tây Tấn ởphương Tây) để tỏýchí cương quyết không bao giờ làm tôi cho nhà Tây Tấn. Mẹ ông lúc sinh thời hay sợ sấm, cho nên khi mất rồi, hễ khi nào trờimưacó sấm chớp, ông lại ra mồ mà khấn rằng Có con đâyrồi cốtđể cho mẹ khỏi sợ. Biếtônglàngười tài giỏi, nhà Tây Tấn nhiều lần mời ông ra làm quan,nhưng ông cương quyết khước từ, ở nhà mởtrường dạy học. Mỗi khi ông giảng sách cho họctrò đến thiên Lục Nga trong Kinh thi có câu: Phụ Hề sinh ngã ông nhớđến cha rồi tựnhiênnước mắttuônrơi, họctrò đều cảmđộng và bỏ thiên Lục Nga không dám đọc nữa. Nguyên bản: Từ mẫu phạvănlôi. Bănghồn túc dạđài, Áthươngthời nhất chấn. Đáo mộ nhiễu thiên hồi. Có nghĩalà: Mẹ hiền sợ nghe tiếng sấm. Hồn thơm đãnằm dưới suối vàng, Khi nghe thấy tiếng sấm động, Đến mồ mẹđi quanhnghìn lần Diễn quốc âm: Ngụy VươngThôigặp đời Tây Tấn, Vì thù cha lánhẩn cao bay. Bên mồkhóc đã khô cây, Trọn đời ngồi chẳnghướng Tây lúc nào, Khi sấm sét tìm vào mồ mẹ. Lạy khóc rằng Con trẻởđây, Bởi vì tính mẹxưa nay, Vốn từng sợ sấm nhữngngàygió mưa. Nên coi sóc chẳng từ sớm tối, Thần phách yên, dạ mới được yên. Trong khi đọc sách giảng truyền, Tới câu sinh ngã lệtrànnhư tuôn. Ngập ngừng kẻ cấp môn cũng cảm, Thơ! Lục Nga chẳng dám còn ngâm, Cho hay thử lý thử tâm. Sư, sinh cũngthấm tình thâm khác gì.


Truyệnthứ17: Ngô Mãnh

Người đờ i nhà Tấn, lúc mới lên 8 tuổi đã biết thờ mẹ rất có hiếu, nhà nghèo, mùa hè nhiều muỗi, không có tiền mua màn, sợ cha mẹ bị muỗi đốt, Ngô Mãnh cởi trần nằm cho muỗi đốt mà chẳng dámxua đuổi, để cha mẹđược ngủ yên. Nguyên bản: Hạ dạ vô văn trướng, Văn đa bất cảm huy, Tứ cừ bảo cao huyết. Miễn sử nhập thân vi. Có nghĩalà: Đêmmùahè không có màn, Muỗi nhiều không dám xua, Cho muỗi đốt no máu mình. Để khỏi đếnnơi chamẹ nằm Diễn quốc âm: Tấn Ngô Mãnh tuổi thì lên tám. Lòng sự thân chẳng dám khi nhàn, Cực về một nỗi bần hàn. Có giường không đặt, không màn ngoài che. Trời đương buổi đêmhènóngnảy, Tiếng muỗi kêu vang dậy dườngmưa, Xót thayhai đấng nghiêm từ, Đểngười chịu muỗi bây giờbiết sao. Nghĩ dathịt phươngnào thaylấy, Quyết nằm trần muỗi mấy chẳng xua. Rầu lòng cho muỗi được no, Đểngười êm ái giấc hòe cho an. Tuổituy bénhưnggan chẳng bé, Dạáithân đến thế thời thôi. Cho hay phú tính bởi trời, Những đautrong ruột, dám nài ngoài da


Truyệnthứ18: VươngTường

Ngườiđờ i nhà Tấn, mẹ mất sớm. VươngTường ở vớicha, nhưngbị bà mẹ ghẻ rất sâu cay thường kiếm lời nói ra nói vào, khiến cho cha ông ghét bỏ. Nhưng ôngkhông oánghétbàmẹ ghẻmàănở rất có hiếu. Mùa đông,nước đóng lạithành băng, bàmẹ ghẻđòi ăn cátươi, ông cởi trầntrên băng giá để tìm cá. Bỗngnhiên băngnứt đôira, cóhaicon cá chép nhảy lên, ông bắt về làmmón ăn cho kế mẫu. Trước lòng hiếu thảo chân thành của đứa con chồng, bà mẹ ghẻ hồi tâm và cha của VươngTường cũnghết giận, từđó haingười yêu mến đứa connhưvàng. Nguyên bản: Kế mẫu nhân gian hữu, Vương Tường thiên hạ vô, Chí kimhàthượng thủy, Nhất phiến ngọa băngvô, Có nghĩalà: Mẹ kế thếgian thường có. Hiếunhư Vương Tườngngười thiên hạ không ai. Đến bây giờở trên sông, Không một ai nằm trên bănggiá cả. Diễn quốc âm: NgườiVươngTường cũnglà đời Tấn, Tủihuyên đường sớm lẫn bóng xa, Mẹ sau gặp cảnh chua ngoa. Tiếng gièm thêu dệt với cha những điều, Lòng cha chẳng cònyêunhưtrước. Lòng con thường chẳng khácnhưxưa, Mẹthường muốn bữasinh ngư, Giá đôngtrời lạnh bây giờtìm đâu. Trênváng đóng, quyết cầu cho thấy. Cởi áo nằm rét mấy cũngvui, Bỗng đâuvánglở làm hai, Lý Ngưmay được một đôi đemvề. Bữa cung cấp một bề kính thuận, Mẹcha đều đổi giận làm lành, Cho hay hiếu cảm tại mình, Dẫu trămgiận, lúc hảtình cũngthôi.


Truyệnthứ19: DươngHương

DươngHươngsinhvào đờ i nhà Tấn, vừa 14 tuổi đầu đã tỏ ra chí hiếu, cha đi đâu cũngtheo hầu một bên. Mộthôm, haichaconcùngđithămruộngnơixa, gần vùng núi rừng, giữađường gặp một con hổ chực nhảy đến vồcha, DươngHươngcố liều chết, nhảy vào với đôitay không quyết cùng sinh tử với con hổ. Ông đánhrấthăng, cuối cùng hổ hoảng sợ bỏ chạy, cha ông nhờđómà thoát chết. Nguyên bản: Thâmsơn phùng bạch ngạch, Nỗ lực bát tinh phong, Phụtử câu vô dang, Thoát ly hổ khẩu trung Có nghĩalà: Nơirừng xanh gặp con hổ trắng má, Cố sức xua đuổi giống hôi tanh. Cha con đều vô sự cả. Thoát khỏi rơivào miệng cọp Diễn quốc âm: Tấn Dương Hươngmớimười bốn tuổi, Cha bước ra hằngruổi theo cha. Phải khi thămlúa đường xa. Chút thân tuổi tác thoắt sa miệng hùm, Đau conmắt hầm hầm nổi giận. Nắmtay khôngvơvẩn giữa đường, Hai tay chận dọc đèngang, Ra tay chống với hổ lang một mình. Hùm mạnh phảinhănnanhlánhgót, Hai cha con lại một đoàn về, Cho hay hiếu mạnhhơnuy, Biết cha thôi lại biết chi có mình.


Truyệnthứ20: MạnhTông

Ngườ i ởđất Giang Hạ, vềđời Tam Quốc, mồ côi cha, Mạnh Tôngở với mẹ rất có hiếu. Một hôm, bà mẹ của MạnhTôngđauthèmăncanhmăng, nhưngbấy giờlàmùađông, khó tìm ra măng. Ông đivào trong rừng tre, ngồi bên gốc tre mà khóc. Bỗng đâu có mấy mụcmăngtừdưới đất mọc lên, quá mừng rỡ. Mạnh Tông mang về nhà nấu canh cho mẹăn. Ănxong bàmẹ liền hết bịnh.Người ta cho rằng lòng hiếuđộng của Mạnh Tông,động lòng trời, nênmăng mọclênđể cho ông được tròn chữ hiếu. Về sau này có một loạimăngmàuxám được đặt tên là Mạnh Tông, hình dáng trông rất đẹp vàănngon. Nguyên bản: Lệ khấp sóc phong hàn, Tiêu tiêu trúc cổ san, Tu du đông duẩn xuất, Thiên ý báo bình an. Có nghĩalà: Ngồi khóc trong gió bấc lạnh thổi, Lèo tèo chỉcó mấy gốc tre, Phút chốcmăngmùa đôngmọc lên, Ý trời khiến cho mẹđược khỏi bệnh Diễn quốc âm: Ngô Mạnh Tông phụ thân sớm khuất, Thờ mẫu thân lòng thực khăng khăng, Tuổi già trằn trọc băn khoăn. Khi đaunhớbát canhmăngnhững thèm. Trời đông tuyết biết đâutìm được. Chốn trúc lâm phải bướcchân đi Một thân ngồi tựa gốc tre. Ôm cây kêu khóc nằn nì với cây. Giữa bình địa phút giây bỗng nứt, Mấygiò măngmặt đất nổi lên. Đemvềđiều đặt bữa canh, Ăn rồi bệnh mẹ lạilànhnhư xưa. Măngmùalạnh bây giờ mới thấy. Để về sau nhớ lấy cỏ cây. Cho hay hiếu động cao dày. Tình sâu cũng khiến cỏcây cũng tình


Truyệnthứ21: DuKiềmLâu

Cũng chép là Sứa KìmLâungườinướ c Tề, được nổi tiếng là chí hiếu. Khi được bổ nhậm là Thái Thúở quậnBìnhLăng, đến nhậm chứcđượcmười hôm, bỗng Kiềm Lâu thấy tâm thần bàng hoàng, mồ hôi chảynhưtắm, biết là nhà có việc chẳng lành, liền xin từ chức. Vềđến nhà, mới haychađaunặngđãhaingày.Kiềm Lâu lại nghe thầy thuốc nói hễngười bệnh nặng mà phân đắng thì chữa khỏi, bằng trái lại phân ngọt thì khó chữa. Ông liền nếm thử phân của cha thì thấy ngọt, lòng vô cùng lo lắng đứng ngồikhôngyên. Đêmđêmông đốthươngnhắm sao BắcĐẩu mà khấnxinđược chết thay cha. Sau ông nằmmơthấy có mộtngười cầm một thẻ vàng có mấy chữ: Sắc trời cho bình an. Quảnhiênngàyhôm sau cha ông được khỏi bệnh ngay. Nguyên bản: Đáo huyện vị tuần nhật, Xuân đìnhtao tật thâm, Nguyện tươngthân đại tử, Thường phấn khởi ưu tâm Có nghĩa là: Quan nhậm chức chưa quámười ngày. Chaở nhà bịđaunặng, Xin được chết thay cho cha già. Thân rồi sinh lo lắng. Diễn quốc âm: Kiềm Lâu có danh Tề Quốc, Huyện Bình Lăngnhậm chức thân dân. Tới Nha chưa được một lần, Như dội tâm thầnthường đau. Vó câubuồn bã. Thăm cha bệnh đãhaingày, Nếm dơvâng cứ lời thầy, Đầulưỡi chua cay trong lòng, Chữ dạy bệnh trung nghi khổ, Làm sao bệnhđỡ mới cam, Đêm đêmhướng bắc triều tam. Tánh mạng thay làm thân cha. Cầu khẩn thấu tòa tinh tú, Bình anvui thú đình vi, Cho haymáy động huyền vi. Minh truyện trước cònghi kim đằng.


Truyệnthứ22: ĐườngThịvợ họThôi

Đườ ng Thị, vợ nhà họ Thôi, ở với mẹ chồng rất có hiếu. Mẹ chồng quá già rụng cảrăng, không nhai được cơm. HàngngàyĐường thịphải tắm rửa thật sạch sẽ rồi cho mẹ bú. Nhờđó mẹ chồng mấynămliềnkhôngănmàvẫnđược no. Cảmơnnàngdâuhiếuđễ, mẹ chồng không biết lấy gì đền đáp, lúcsắp chết liền khấn nguyện trời phật cho con cháu nhà họThôisau nàyngười nào cũnghiếu thảo nhưĐường Thị vậy. Quả nhiên về sau con cháu dâu nhà họThôingườinào cũng bắtchướcgươngtốt củaĐường Thịănở hiếu thuận với nhà chồng. Họ Thôi nhờđó đượchưng thịnh, Nguyên bản: Hiếu báo Thôi gia phụ, Có thân quánsơ. Ânvô dĩ báo, Truyện đắc thửTôn Như. Có nghĩalà: Vợ họ Thôiở có hiếu với mẹ chồng, Hằng ngày tắm rửa rồi cho mẹ chồng bú. Ơnấy mẹ chồng không biết chi báo đền, Cầu nguyện cho con cháu dâuở có hiếu với Đường Thị Diễn quốc âm: Dâu họ Thôi ai bằng Đường Thị, Thươngmẹ chồng niên kỷđã cao. Không răng ăn dễđược nào. Ngày ngày lau chải ravào thăm coi, Lấy sửa ngọtthaymùi cơm cháo. Mấynăm trời chẳng gạo mà no, Vì dâu dốc dạ thờ cô. Da mồi tóc bạc bốnmùanhưxuân, Ơnlòngấy khôn phần báo lại, Buổi lâm chung nhủ với hoàng thiên. Xin cho nguyền đượcnhư nguyền. Dâu dâu ngày khác lại hiềnnhư dâu, Ainghe cũngrănnhauhiếu kính. CửaThôigiahưng thịnh đời đời. Cho hay gia khánh lâu dài, Báunào còn báuhơnngười dâu ngoan


Truyệnthứ23: ChâuThọXương

Châu Th ọXương, người Tống, là con củangười vợ thứ. Nămôngvừa lên 7 tuổi, người vợ cả đuổi mẹôngđi. Vềsauôngđượclàmquannghĩđến công sinh thành tác tạo của mẹđangsống lưulạc khổ sở, ông cảm thấy chua xót trong lòng. Ông liền xin từ quan chứcđểđitìmmẹđẻ. Trước khi đi, ông thề rằng: Nếu không tìm được mẹ chết cũng đành Tìm kiếm khắpnơi,may đến đất Đồng Châu mẹ con lại được trùng phùng. Tuyxa cáchnhau đếnnămmươinăm, mẫu tửđược đoànviên, ônglấy làm vui mừng. Ông liềnrước mẹ vềở chung và phụng dưỡng tận tình. Nguyên bản: Thất tuế sinh ly mẫu, Sâmthươngngũthập niên, Nhấttriêutương kiến diện, Hỷkhí động hoàng thiên. Có nghĩalà: Lên 7 tuổi phải lìa xa mẹđẻ. Cách biệtnhư sao hômsao mai đã 50 năm. Một sớm được thấy lại mặt nhau. Mừng vui cảm động đến trời. Diễn quốc âm: Chu ThọXươnglàm quanTống đại, Mẹ sinh ra bảy tuổi lìa lòng, Bởivì đíchmẫu chẳng dung. Đemthân bồ liễu, bạn cùngnước non. Muôn nghìn dặm, mẹ con xa khuất. Nămmươinăm trời đất bơvơ, Sinh con nhữngtưởng cậy nhờ. Cáithân sung sướng bây giờ mà chi? Bỏ quanchức, quyết đi tìmtòi, Nặng lời thề nói với gia nhân, Thân này chẳng gặp từ thân, Thời liều sống thác với thân cho đành.


Truyệnthứ24: HoàngĐìnhKiên

NgườiđờinhàĐường, làmquanđế n chức Thái Sử, một chức quan coi về việc chép sử, thờ cha mẹ rất có hiếu. Tuy làm chức quan cao, nhà có nhiềuđầy tớ hầu hạ, nhưngôngtựmìnhsănsóc đến những thứ cần dùng của cha mẹ. Nhữngđồ dùng tiểu tiện của cha mẹ,dùdơbẩn thế nào, ông cũng chính taylau rửa và không bảo đầy tớ làm. Nguyên bản: Quý hiểmvăn thiên hạ, Bình sinh hiếu sự thân, Thân thân địch niệu khí, Bất dụng hoản gia nhân. Có nghĩalà: Sang giàu thiên hạđều nghe tiếng, Thường ngày phụng dưỡng cha mẹ rất hiếu thảo Chính tay lau rửa đồ dùng tiểu tiện của cha mẹ, Không bao giờ sai bảo người nhà làm

Diễn quốc âm:

Tri ều Nguyên Hữu có thầyTăngtrực, Là họ Hoàng ngồi chức sử thần, Ơnvua đãnhẹ tấm thân, Phận con, vẫn giữ thờthânnhưngày. Đồdơ bẩn tự tay lau chuốt, Việc tầmthường chẳng chút đơn sai, Há rằng sai khiến không ai, Đemthân quan trọng thayngười gia nô, Chức nhân tử phải cho cần khổ, Có mẹ cha mới có thân ta, Cho hay đạo chẳngở xa, Hay là hiếu tử mới ra trung thần


GiớithiệuvàKếtluận

Để giới thiệu truyện Nhị Thập Tứ Hiếu trong phầnKhaiMào, LýVănPhứcđãnóiquavề sự hiếu thân là trọngtrongđạo làmngười. Conngười quên công sinh thành của cha mẹ không còn xứng đáng đứng trong trời đất nữa:

Ngườ i tai mắt đứng trong trời đất, Ai là không cha mẹ sinh thành, Gương treo đấtnghĩa trời kinh, Ở sao cho xứng chút tình làm con. Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết Thì suyra trămnết đều nên, Chẳng xem thuởtrước Thánh Hiền, Thảo haimươi bốn, thơmnghìnmuôn thu.

Trong ph ần Kết luận, tác giả tóm tắt lại những ý chính trong bao nhiêu truyện của các bậc hiếu tử, từ nhữngngười đỗđạt ra làm quan cho đến những hạng thứ dân, không ai có thểvượt qua đạo lý cổnhân, vàkhôngaiquênđượcTamcươngvàNgũthường. Cho nên, mọingườiđều phải xem chữ hiếu là trọng:

B ấy nhiêu cổ tích cổ nhân vềtrước. Cáchnghìnxưanhư tạc một lòng, Kể chi kẻđạtngười cùng, Lọt lòng ai trốn khỏi vòng di luân, Buổi công hạ cảm thân dày đội, Xahương quangần cõi Thánh Hiền, Trông vào những thẹn bóng đèn, Muốnlưugia phạm, nên truyền quốc âm


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét