Phan Quỳnh
Non Bộ Trong Lịch Sử Việt Nam
Non bộ Hòn Cau, Tác giả Phan Quỳnh
Vietnam Miniature Landscape Exhibition
At San Diego Model Railroad Museum in Bolboa Park
from May 1 to May 21, 2000
Thông tin ebook
Tên sách : Non Bộ Trong Lịch Sử Việt Nam
Tác giả : Phan Quỳnh
Thể loại : Tùy búy – Biên khảo
———————————-
Nguồn : http://viendu.com
Convert (TVE) : santseiya
Ngày hoàn thành : 01/07/2007
Nơi hoàn thành : Hà Nội
Mục Lục
Mở đầu
Chơi cây cảnh, chơi đá tảng, chơi non bộ, là môn chơi tao nhã, hấp dẫn, từ ngàn xưa của người Việt, kể cả các dân tộc phương đông và ngày nay thú chơi này đã lan rộng sang các nước phương tây.
Non bộ là núi nhân tạo, dùng đá, vữa hồ, đất,…, tạo cảnh thiên nhiên hùng vĩ với hang động, ghềnh thác, núi cao biển rộng của cảnh thật hay cảnh tưởng tượng, được bàn tay nghệ nhân khéo léo bầy xếp, gắn tạc, đục đẽo, để dàn trải trong vườn cảnh, hay trong hồ cá, hoặc ngay trong chậu cạn, đồng thời điểm xuyết, trang trí rêu cỏ, cây cối nhỏ bé có dáng vóc cổ thụ, một số hình tượng (như mục đồng, ngư ông, tiều phu, tiên ông, đạo sĩ,…, chùa tháp, đền miếu, cầu đường, ghe thuyền, thác nước đổ, phun sương, phun khói, cù lao, muông thú bằng sành, bằng đất sét v.v….) hầu diễn tả một sự tích, một câu chuyện làm cho non bộ có nội dung và linh hoạt, gợi hình, gợi cảm cho người thưởng ngoạn.
Có non bộ cao lớn hàng chục, hàng trăm thước tây, ví dụ hòn "Vạn Tuế Sơn" của vua Lý Thái Tông chế tác năm Mậu Thìn 1028, và cũng có non bộ bé nhỏ bằng gang tay hay nhỏ hơn.
Theo Lê Văn Siêu thì: không thể căn cứ vào lớn nhỏ mà luận về sự quí giá của non bộ. Nhiều khi nhỏ mà toàn thể là một cục long não, hoặc là một hình hết sức đẹp bầy trên án thư của nhà ẩn sĩ, để những khi nhà ẩn sĩ mở sách thánh hiền ra đọc và đốt một đỉnh hương trầm cho khói tỏa lên cây lên núi như những làn mây thì dẫu người trần mắt thịt đến đâu cũng phải thấy ngay một vẻ gì là tiên phong đạo cốt.
Người ta lại còn dùng núi đá ấy để làm nghiên mực nữa. Ta hãy tưởng tượng một cái bể nước con con với rêu, cỏ, cây, nhỏ lí tí trên một hòn non nhỏ bằng đá trắng, với những từng đá lăn tăn như dợn sóng, ôm lấy một mảng đá như một cái thung lũng để mài mực, và nhà nho cầm bút chấm vào nghiên mực ấy để viết những vần thơ, thì ta thấy rằng người Việt Nam xưa dẫu chẳng tiên thì cũng đã chẳng còn gì là tục nữa. (1)
I. Nghĩa ngữ
Non bộ là thuật ngữ cổ thuộc gốc Nam Á.
Từ Bộ có nghĩa là dáng vẻ, bắt chước, phỏng theo, nhái theo, kiểu cách, mô phỏng, ra vẻ, v.v…. ví dụ: giả bộ, làm bộ, điệu bộ, bộ dạng…
Từ Non có nghĩa là núi.
Cùng một nghĩa chỉ núi với các từ trong ngữ hệ Malayo-Polynesiene và Mon-Khmer thuộc văn minh Nam Á, chúng ta thấy từ Ph-num của người Miên, từ Phơnơm của người Mạ, từ Bơnơn của người Bà-na dọc Trường sơn, từ B-non của người Ê-đê nam Tây nguyên, từ Gu-nong hay phunông của người Mã-lai,, từ Phu của người Thái, từ B-nam của cổ Phù-nam (2), v.v….
Khi xưa tiếng Hán đang còn đóng khung ở vùng phía bắc sông Hoàng-hà, sông Vị-hà thì nó chưa thể có nhiều những từ nêu lên tên gọi của những sản vật mà chỉ phương nam mới có, do đó có sự vay mượn, ảnh hưởng qua lại. Những danh từ chỉ thực vật như cảm lãm ( trám ), phù lưu ( trầu ) ba la mật ( mít ) v.v…. chắc chắn là những danh từ vay mượn các ngôn ngữ vùng nhiệt đới. Để chỉ sông, phía Bắc, người Hán gọi là Hà, nhưng từ sông Dương Tử trở về Nam lại gọi là Giang. Theo các nhà Địa danh học giang là một từ vay mượn, thanh phù công ( ) đứng cạnh bộ chấm thuỷ ( )trong chữ giang ( ) rất dễ dàng gợi cho chúng ta nghĩ đến Kion ( Miến ), Kon ( Katu ), Karan ( Mơ Nông ), Krong ( Chăm ), Không ( Mường ), Hông ( Khả), Krông ( Bà Na ), Khung ( Thái ), Sôngai ( Mã Lai ), cũng như nghĩ đến Sông trong tiếng Việt (3), ( Việt Miên Lào có chung con sông là Mê-kông ).
Có khi chiều ảnh hưởng chỉ đi theo một đường thẳng đơn giản, từ bên này sang bên kia, nhưng cũng nhiều khi mũi tên có thể đi đường vòng từ A sang B, rồi lại từ B quay trở về A. Ví dụ ở tiếng Nam Á có danh từ chỉ một thứ võ khí ta gọi là Ná (So sánh với Na của Mường, của Chức, nả của La-ha [Mường-la], Hna của Bà Na, của Ê-dê, Mnaá của Sơ Đăng, Sa-Na của Kơ-ho, S-Na của Miên, Snao của Raglai, Na của Mạ, Hnaá của Gia Rai, Sơ-Na của Srê, Sna của Chăm Phan Rang, Phan Rí, Nả của Thái hay Pnả của Mã Lai ), có nhiều cơ sở để có thể khẳng định chính từ tên gọi này được nhập vào vốn từ vựng của người Trung Quốc, sản sinh ra tiếng Hán có cách đọc Hán Việt cổ là Nõ hay Hán Việt hiện nay là Nỗ ( [ ] tổng hợp của thanh phù Nô [ như nô bộc] đứng trên chữ Cung tượng hình [ ]) rồi lại quay trở về Việt Nam được đọc theo Nôm là Nỏ. Nỏ là một phát minh của người phương Nam.
Từ Non bộ hay Bơnơn Bouy là mô phỏng núi, dáng vẻ núi non, nhái theo núi non, hoặc còn gọi là núi giả, sau này được các nho sĩ, sử gia chuyển ngữ sang chữ Hán mà cách đọc Hán Việt là giả sơn. Nhưng thuật ngữ giả sơn lại không được thông dụng ở Trung quốc, kể cả Hoa Nam và Hoa Bắc. Người Trung quốc quen dùng thuật ngữ Bồn tài (p-en tsai – cây trong chậu), Bồn cảnh (p-en ching – cảnh trong chậu), mãi đến cuối thời Nguyên (1271-1368), thời Minh (1369-1643) mới xuất hiện danh từ chữ Hán hoàn chỉnh có cách đọc Hán Việt là Sơn Thủy Bồn Cảnh ( shan shui p-en ching – cảnh sơn thuỷ trong chậu ) (4), để chỉ lối chơi giống hệt như lối chơi non bộ ở Việt Nam.
Người Thái Lan có lối chơi Mai khèn ( cây lùn ) hay Mai dăt ( cây uốn ), người Nhật có lối chơi Bonsai ( bồn tài – cây trong khay, trong chậu ), Bonseki (bồn thạch – đá trong khay, trong chậu ). Theo tác giả Nguyễn Vọng thì: Người Nhật có nghệ thuật đặt đá trên khay để trưng, không có cây cỏ. Giả thử đá ấy có hình dáng một trái núi thu nhỏ ta cũng không nên coi đó là một non bộ (5).
II. Những gợi ý của non bộ
*Non bộ ở Việt Nam có từ bao giờ?
Chưa thấy có tài liệu nào trả lời dứt khoát câu hỏi này, nhưng rõ ràng cây và đá đã có sự liên hệ mật thiết lâu đời và đóng góp tích cực vào sinh hoạt vật chất và tinh thần của tổ tiên người Việt.
Ngay từ thời đại các vua Hùng dựng nước, ngót năm ngàn năm nay, chúng ta đã được biết hình ảnh mơ hồ của một non bộ: có đá, có cây, có mây nước, có đền miếu, v.v… gói trọn trong một tình tiết cảm động. Đó là truyện Trầu cau ( xem Lĩnh Nam Chích Quái), một nguồn cảm hứng dồi dào cho các văn nhân nghệ sĩ sau này của các bộ môn thơ, văn, vũ, nhạc, họa, điêu khắc v.v….
*Những tín ngưỡng tối cổ.
1/.Trở ngược thời gian về hàng chục ngàn năm trước Công nguyên, sau khi dời bỏ đời sống trong hang động và săn bắn hái lượm để xuống định cư tại đồng bằng sông Hồng, sông Mã, chuyển sang đời sống nông nghiệp lúa nước (lạc điền), người Việt cổ vẫn còn bảo lưu được những đồ trang sức, những dụng cụ và công cụ sản xuất xa xưa bằng đá được đẽo mài, khoan, tiện, chế tác rất xinh xắn, đều đặn, khéo léo như vòng tay, khuyên tai, nhạc khí (đàn đá ), rìu đá, cuốc đá, mũi tên đá, v.v…. đồng thời họ còn giữ tục thờ đá, tục thờ cây, tín ngưỡng tối cổ của nhân loại mà nay vẫn còn tàn dư ở các nhóm dân tộc tại bán đảo Đông Dương và trải rộng đến các vùng hải đảo miền đông nam châu Á.
Trước 1945, tại một số làng thôn quê Bắc Việt, chúng ta vẫn còn thấy trước cổng mỗi nhà về phía trái dựng một hòn đá. Theo các cụ già xưa kể lại thì hòn đá này được gọi là con chó đá, đặt trước cổng để xua đuổi tà ma, quỉ mị, bảo vệ gia chủ, cho dù hòn đá không có vóc dáng của một con chó. Vua Lê Thánh Tông có bài thơ tả con chó đá này như một tướng quân chức quyền bao trùm một cõi, lòng son sắt thờ chúa, gìn giữ giang sơn.
Đọc Lĩnh Nam Chích Quái, đọc Việt Điện U Linh Tập, hoặc Quảng Châu kí, Giao Châu Ngoại Vực Kí, cho dù các sử liệu cổ xưa này đã bị các nho sĩ, sử gia xưa nhuận sắc, uốn sửa theo lăng kính Khổng giáo, chúng ta ngày nay vẫn nhìn thấy nhiều khe hở nói về tục thờ đá thờ cây xa xưa ở Việt Nam xuyên qua các từ ngữ như Ông Đống ( pù đống trong tiếng Tày), Thạch Khanh,…, truyện tảng đá có vết chân to lớn của người anh hùng làng Dóng thời Hùng vương ở núi Sóc Sơn, Bắc Ninh, hoặc truyện Mộc tinh, hay truyện Đô Lỗ Thạch thần, vị thần bảo trợ cho Thục An Dương Vương tại thành Cổ Loa, truyện Man Nương với phép linh của phiến đá, nằm trong một gốc cổ thụ, tạc thành bốn tượng Vân, Vũ, Lôi, Điện tại chùa Dâu.
Tương tự ở các nhóm dân tộc Nam Á khác cũng có những nghi thức cầu nguyện hay thờ phụng thần cây thần đá. Ví dụ người Chăm Phan Rang, Phan Rí có tục thờ hòn đá tượng chưng cho Kút, thờ Linga, người Sê-đăng nam Tây nguyên có thần thoại thần đá, thần núi xuyên qua truyện Nữ thần Hoa Lan, người Lào có tục thờ Thitsana Hỉn, người Thái có tục Soat-non conhin, người Tagalog vùng đảo Luzon có tục Bato manalangin ( thờ đá), tục Puno pananampalataya (thờ cây), người Visaya vùng đảo Palawan có tục Batu gui-ampo (thờ đá), người Ilocano vùng đảo Mindanao có tục Mula Icararag (6).
2/.Ngoài tục thờ đá, thờ cây, một gợi ý nữa liên quan đến thú chơi non bộ ở VN là tín ngưỡng về hang động và Thần Tiên Bất Tử.
Trong những năm 1934-1939 trường Viễn Đông Bác Cổ ở Hà Nội đã khai quật một số cổ mộ của cư dân tỉnh Bắc Ninh, Bắc Việt, khoảng các thế kỷ trước và sau Công nguyên. Những mộ táng này được xây bằng gạch, đôi khi bằng đá, gắn nhau bởi một thứ hồ vữa đặc biệt rất dắn chắc để nhái theo hình thể hang động thiên nhiên, có nhiều động, nhiều phòng, mái vòm cong, thông nhau bởi những đường hầm địa đạo. Khảo cổ học đã xếp những mộ táng này vào giai đoạn văn minh Lạch Trường (7). Văn minh Lạch Trường mà mộ táng trải rộng ở các tỉnh Bắc Việt, bắc Trung Việt và lưa thưa ở một vài nơi phía nam Hoa Nam thuộc Trung Quốc, liên quan đến một tín ngưỡng dân gian người Việt thời thượng cổ: tín ngưỡng về Hang Động, còn gọi là Động Trời hay Động Thiên.
Theo tín ngưỡng này thì trong lòng một hòn núi lớn có những hang động rất linh thiêng mà cái vòm tượng trưng vòm trời, lòng đáy phù hợp với đất, cửa vào những hang ấy là biên giới giữa thế giới vật chất và thế giới siêu hình (8).
Từ xưa, sống lâu vẫn là mơ ước của con người, họ than thở về sự ngắn ngủi của đời sống trần gian và người Việt xưa nay thường tin tưởng và khao khát về một đời sống trường cửu nơi thế giới bên kia về sau bên bờ biển xa xăm hay siêu việt trên núi cao vút chín từng mây, hang động được coi rất thiêng liêng và là cung điện của các Thần Tiên bất-tử.
Tín ngưỡng hang động với Thần Tiên bất tử có một dấu ấn đậm nét của triết lý phồn thực, đặc trưng của của các dân tộc ở Nam Á trước khi có ảnh hưởng văn hóa Hán Tạng tràn từ phương Bắc xuống. Do đó không lạ gì hòn non bộ thường được đặt vào những nơi thờ nữ thần ở Việt Nam mà Rolf A. Stein hay nói đến.
Ta thấy có những tục lệ đã nói lên được một ý thức tập thể về hang động hoặc thần thoại về Thần Tiên. Động Thẩm Lệ ở Yên Bái, Bắc Việt, được coi linh thiêng, hàng năm trai gái đến tụ tập hát giao duyên, khai xuân phát động nguồn sinh lực của tạo vật, thần thoại về Việt Tĩnh, thần thoại Giáng Tiên với hang Từ Thức, thần thoại Hồ Công động, Kim Sơn động, Chấn Linh động, Hương Tích động, v.v…., ngoài ra còn cả một nhóm thần thoại dòng Đạo Nội lấy Chử Đồng Tử làm Sáng tổ của đạo Thần Tiên bất-tử (9).
Triết sử gia Hồ Thích nhận xét rằng từ khi Trung Quốc bắt đầu "khai hóa" các dân tộc xung quanh, chủ yếu là các dân tộc phương Nam, thì đồng thời với việc các dân tộc này hấp thụ nền văn hóa phương Bắc, đạo Thần Tiên Bất Tử cùng với các chuyện thần thoại giàu chất trữ tình hấp dẫn của họ cũng được mang vào Trung Nguyên. Trong sách Trung Quốc Triết Học Sử, ông viết:
Các tân dân tộc hấp thụ nền văn hóa Trung-nguyên là điều rõ ràng, thiết-tưởng không cần phải nói thêm. Nhưng cùng một lúc, các chuyện thần thoại giầu tính-chất hấp dẫn của các quốc gia trên được mang vào đất Trung-nguyên.
Chúng ta thử xem các chuyện thần-thoại trong các tác phẩm văn học của Khuất Nguyên (người Sở thuộc Bách Việt), Tống Ngọc, tất cả đều là những mẫu chuyện mà nền văn học phương Bắc không bao giờ có,…Có lẽ thuyết thần-tiên cũng do đấy mang sáp-nhập vào văn-minh Trung-quốc chăng? (10)
Học giả Rolf A. Stein của trường Viễn Đông Bác Cổ đã tổng kết: Từ địa linh và tiên cảnh, thế giới của Thần Tiên bất tử, đến quá trình ma thuật tiền hóa học, và đến sự trầm tư mặc tưởng thần bí, tất cả đều qui về một toàn bộ rất hệ thống mạch lạc những đề tài, hình ảnh, liên tưởng hệt như hệ thống cảnh hòn non bộ.
(From the holy place and paradisiacal site, the land of the Immortals, to alchemical processes and mystical meditation, everything leads to a strongly coherent assemblage of themes, images, associations – a complex identical to that accompanying miniature gardens)(11)
Rolf A. Stein còn cho biết tại các đền miếu chùa chiền và tư gia ở Việt Nam, dù giàu hay nghèo đều chơi non bộ.
(Two preliminary facts about Indochina should be presented right away: nui non bo (miniature rocks covered with dwarf plants and set incotainers of water) are commonly present in both pagodas and private homes, even in those of the poor (not often in Hanoi, but frequently in Hue) ; and the rocks placed in the courts of pagodas, thus forming part of the sacred enclosure, are almost always accompanied by parallel verses in Chinese.)(12)
Một hiện tượng cần được nghiên cứu kỹ hơn để kết luận là trong khi ảnh hưởng văn hóa phương Bắc đã tràn ngập vào đất nước Vạn Xuân và sau này là Đại Cồ Việt, lối chơi non bộ đã rộ phát tại phương Nam nhưng chưa thấy sử sách hay tài liệu nào nói về lối chơi này ở phương Bắc, cho mãi đến thời kỳ các triều đại Nguyên, Minh, Thanh chúng ta mới thấy hiện tượng chơi non bộ Sơn Thủy Bồn Cảnh nở rộ tại Trung quốc.
III. Non bộ trong Việt sử
Một non bộ cổ nhất ở Việt Nam vào thế kỷ thứ X và có lẽ cổ nhất trên thế giới hiện nay vẫn tồn tại và được bảo quản tại Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, Bắc Việt. Sách Địa Dư Các Tỉnh Bắc Kỳ, xuất bản năm 1930, ghi:
Ở huyện Gia Viễn (Ninh Bình) thuộc xã Trường Yên có động Hoa Lư, xưa là kinh đô nhà Đinh và nhà Tiền Lê, hiện nay còn lăng và đền thờ vua Đinh và vua Lê.
Ở bến đò lên, có một con đường hẹp lởm chởm những đá, đi độ nửa giờ thì đến làng An Hạ có đền thờ vua Lê. Mới đến có một cái sập đá rồi qua cửa tam quan thì một bên có một cái giếng, một bên có một cái núi non bộ bằng một tảng đá lớn (13).
Theo truyền thuyết vùng Ninh Bình thì ngay từ hồi vua Lê Đại Hành (980-1005) còn sinh tiền, tại kinh đô Hoa Lư, song song với việc xây dựng các cung điện như Bạch Bảo Thiên Tuế, điện Phong Lưu, điện Vinh Hoa, điện Bồng Lai, điện Cực Lạc, điện Trường Xuân v.v….thì hòn non bộ nói trên được chế tác để chúc thọ nhà vua.
Sử cũ đã ghi: Năm Ất Dậu, hiệu Thiên Phúc thứ 5 (985), mùa thu, tháng bẩy, ngày Đinh Tị là ngày sinh của vua. Vua sai người đóng thuyền ở giữa sông dùng tre làm núi giả ở trên thuyền gọi là Nam Sơn (14).
Từ đấy, năm nào cũng giữ làm lệ thường (15).
Triều đại nhà Lý (1009-1225) là một trong những triều đại mở đầu cho việc xây dựng nền độc lập tự chủ lâu dài của dân tộc, sau hơn nghìn năm sống trong màn đêm thống trị của phương Bắc. Năm 1010, vua Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, tiện nghi và rộng rãi hơn Hoa Lư, để xây dựng nên một trung tâm văn hóa tầm kích lớn cho Đại Việt, có ý muốn sánh ngang hàng với Đại Đường, Đại Tống phương bắc. Phật giáo và Lão giáo đã chiếm những chỗ đứng ưu thế trong đời sống tín ngưỡng dân gian, dần dần trở thành quốc giáo, chính vua Lý Thánh Tông đã lập ra phái Thảo Đường, bước đầu tạo sự phối hợp hài hòa giữa đạo và đời.
Kinh đô Thăng Long được các vua Lý mở mang ngày một lớn rộng. Các cung điện, lầu gác, đình tọa, chùa tháp, v.v…., được dựng lên và tu bổ liên tục, như điện Thiên An, điện Thiên Khánh, điện Trường Xuân, lầu Chính Dương, lầu Long Đồ để vua dạo ngắm hay điện Long Thụy, Long An để vua nghỉ ngơi, chắc hẳn những nơi ấy có vườn cảnh, cây cảnh, non bộ, để vua thưởng ngoạn.
Triều vua Lý Thái Tổ (1010-1028), Việt Sử Lược ghi: Năm Tân Dậu, hiệu Thuận Thiên thứ 12 (1021) Mùa xuân, tháng 2 ngày Mậu Tí lấy ngày sinh của vua làm tiết Thiên Thành, xây Vạn Tuế Nam Sơn ở ngoài cửa Quảng Phúc, làm nhiều hình chim bay, thú chạy, bày la liệt ở trên.(16)
Cùng sự việc này, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư lại ghi: Lấy tre làm một ngọn núi gọi là Vạn Thọ Nam Sơn ở ngoài cửa Quảng Phúc, trên núi làm nhiều hình chim bay, thú chạy, muôn vẻ lạ kỳ. Lại sai người bắt chước tiếng cầm thú làm vui để ban yến cho bày tôi.
Năm Nhâm Tuất (1022), mùa xuân, tháng 2, vua thấy tiết Thiên Thành làm núi giả khó nhọc cho dân, bãi đi, chỉ đặt yến lễ mà thôi (17).
Dưới triều vua Lý Thái Tông (1028-1054), sử cũ cho biết năm Mậu Thìn 1028: Tháng sáu, lấy ngày sinh vua làm tiết Thiên Khánh, xây Vạn Tuế Sơn ở Long Trì, có năm ngọn, ngọn ở giữa dựng bức tranh Trường Thọ Tiên, hai bên tả hữu đều có hạc trắng (18); trên núi làm những hình tiên bay, chim, thú ; lưng chừng núi lại có thần long vây quấn, cắm cờ, treo vàng ngọc, sai bọn phường tuồng (linh nhi) ở trên núi thổi sáo, ca múa làm vui (19).
Năm Kỷ Sửu (1049) Mùa thu, tháng 8, đào ngòi ngự ở phía ngoài Phượng -thành ; lại đào ao Kim-minh vạn-tuế. Khi mới đào, trong ao có tiếng kêu xoang xoảng, đào lên, được một khối vàng nặng 50 lạng, cho nên đặt tên đó. Lại đắp núi đá có ba ngọn ở trên ao, xây cầu Vũ-phượng (20).
Năm Tân Mão, hiệu Sung Hưng Đại Bảo năm thứ 3 (1051), đào ao Thụy Thanh, ao Ứng Minh ở vườn Thắng Cảnh (21).
Triều vua Lý Thánh Tông (1054-1072), sử cũ cũng nói về vườn cảnh và non bộ của nhà vua:
Năm Đinh Dậu (1057) Mùa hạ, tháng 4, ngày Giáp Ngọ rồng vàng từ vườn Quỳnh-lâm hiện ra ở phía trước điện Trường -xuân (22).
Năm Mậu Tuất, hiệu Long-thụy thái-bình năm thứ 5 (1058), xây điện Hồ-thiên bát giác ở ao Kim-minh.
Tháng 3, mở cửa Tường-phù, xây lầu ở trên đó
Tháng 6, xây điện Linh-quang, bên trái dựng điện Kiến-lễ, bên phải dựng điện Sùng-nghi. phía trước điện dựng lầu chuông, một cột, sáu cạnh hình hoa sen ( độc trụ lục giác liên hoa chung lâu ) (23).
Năm Ất Tị (1065), tháng 8, mở vườn Thượng-lâm (24).
Triều vua Lý Nhân Tông (1072-1127), năm Mậu Dần, hiệu Hội-phong năm thứ 7 (1098) mùa thu, tháng 8, lập núi Ngao-sơn trên đất (25). Sự kiện này, Hoàng Xuân Hãn có chi tiết hơn: Vua 35 tuổi, vẫn chưa có hoàng tử. Vua lập đàn, có xây núi Ngao Sơn trên đất cạn; dựng đài cao,, chung quanh treo đèn đủ sắc, đủ kiểu, ở trên có vũ nữ múa, nhạc công cử nhạc. (26)
Tháng 9 (1098), xây điện Xùng-uyên ở ao Phượng-liên, bên trái đặt điện Huy-dương, đình Lai-phượng, bên phải dựng điện Ảnh-thiềm, đình Át-vân, phía trước xây lầu Trường-minh, phía sau bắc cầu Ngoạn-hoa (27).
Tháng 9 Tân Hợi (1131, đời Lý Thần Nông) mở vườn Bảo Hoa (28).
Vua Lý Anh Tông (1138-1175) sai xây dựng nhà cửa lớn, làm điện Thụy Quang, đình Thưởng Hoa, ao Kim Liên, cầu Minh Nguyệt,… (29).
Những công trình tạo tác như vậy vẫn liên tục tới cuối thời Lý chưa ngưng nghỉ. Năm Quí Hợi 1203 vua Lý Cao Tông cho xây thêm nhiều cung điện lầu gác, trong đó có gác Thánh Thọ…. ao Dưỡng Ngư, trên ao xây đình Ngoạn Y. Ba mặt đình có trồng hoa thơm cỏ lạ, nước ao thông với sông, cách chạm trổ, trang sức khéo léo, công trình thổ mộc đẹp đẽ, xưa chưa từng có vậy (30).
Các chùa tháp thời Lý phần lớn do nhà vua, hoàng gia hay các quan lại giới quí tộc bỏ tiền ra xây dựng ở kinh đô Thăng Long, hay ở những nơi có cảnh đẹp núi sông, mà trong khuôn viên chùa chiền hay đền miếu thường có vườn cảnh, cây cảnh, non bộ. Năm 1077 Thái Sư Lý Thường Kiệt giúp nhà sư Đạo Dung trùng tu, sửa chữa chùa Hương Nghiêm (xây dựng đời Hậu Đường năm 923-937) ở Thanh Hóa, bia chùa Hương Nghiêm dựng năm Giáp Thìn 1124 ghi rõ " Sư liền sai thợ sửa chữa. Tô tượng Phật ngồi trên Bàn Đá. Đào hồ, giữa hồ, xây bệ; đặt tượng Phật trên. Chùa cao, cửa rộng, mái ngói. Mé tả có lầu chuông, mé hữu dựng bia đá ghi công. Xung quanh đều xây tường. Vườn giồng hoa cỏ " (31). Thực ra nhiều cảnh chùa thời Lý, nhìn toàn bộ, rõ ràng là những vườn cảnh lớn. Ví dụ vua Lý Nhân Tông cho trùng tu chùa Diên Hựu ( xây dựng năm 1049 ) ở phía tây Thăng Long cạnh núi Nùng sông Nhị, bia tháp Sùng Thiện Diên Linh ghi như sau:
Mở chùa Diên Hựu ở tại vườn Tây. Dấu vết theo qui mô thuở trước, lo toan do ý thánh ngày nay. Đào ao thơm Linh chiểu. Giữa ao trồi lên một cột đá. Trên cột có một đóa hoa sen nghìn cánh xòe ra. Trên hoa dựng ngôi đền đỏ sẫm. Trong đền đặt pho tượng sắc vàng. Ngoài ao có hành lang bao bọc. Ngoài hành lang lại đào ao Bích Trì, bắc cầu cong để đi lại. Ở sân trước cầu, hai bên tả hữu xây bảo tháp Lưu Ly… (32).
Không chỉ riêng kinh đô Thăng Long, các địa phương cũng cố gắng xây dựng lâu đài đền miếu, vườn tược. Bia Sùng Nghiêm Diên Thánh ghi rõ năm 1115, khi Chu Văn Thường đến thay thế lão tướng Lý Thường Kiệt, quản nhiệm quận Cửu Chân (Thanh Hóa): nhà vua xuống chiếu sai ông thống lĩnh dân chúng, sửa sang nhà thự ở quận, xây dựng điện đường cùng lang vũ chung quanh, vủng cố thành quách, chia đặt trạm dịch, khai đào sông ngòi, mở mang vườn tược (33).
Chơi vườn cảnh, cây cảnh, non bộ, không chỉ riêng vua quan giới quí tộc thời Lý, mà còn thấy ở nơi dân dã hay nơi các dân tộc ít người khác tại Việt Nam khoảng các thế kỷ XI, XII và XIII. Sách Lĩnh Nam Dật Sử của Ma Văn Cao viết bằng chữ Mường thời Lý, được danh tướng Trần Nhật Duật chuyển ngữ sang chữ Hán năm Đinh Dậu 1297, rồi Bùi Đàn dịch sang Việt văn, có đoạn nói về non bộ như sau:
Trở lại chuyện Quý Nhi tiến vào trong vườn, thấy một vườn hoa đắp dựa theo núi ; dưới núi có một tòa lầu nho nhỏ, xung quanh trồng toàn cây có hoa, bên tả là một hòn non bộ thiên nhiên, lóng lánh như ngọc. Dưới hòn non bộ, có suối chảy vào thành ao, nước trong suốt như gương. Cạnh hòn non bộ có một lối đi nhỏ quanh co hai bên trồng trúc đào… (34).
Về hình thức, để chế tác non bộ đẹp và gợi cảm cho khách thưởng ngoạn, ngoài những hoàn chỉnh về dáng, về không gian, về ngôi chủ khách, yếu tố thực hư, động tĩnh, về tương quan tỷ lệ, sáng tối, v.v…, phần điểm xuyết trang trí cũng quan trọng, kể cả các máy móc trang bị phụ thuộc như máy bơm nước hay bơm cát trắng giả làm thác đổ, ghềnh suối, máy phun khói giả làm mây, làm sương mờ cho núi v.v…. Nghệ nhân thời Lý đã phát minh được nhiều máy móc tự động trang trí cho hòn non. Đây là một phát kiến mới lạ đầu tiên cho môn chơi non bộ tại Việt Nam, cũng như trên thế giới ngay từ thế kỷ XI, XII. Bia Sùng Thiện Diên Linh ở núi Long Đội ( Duy-tiên, Nam Hà ), dựng năm 1121, do Lý Công Bật soạn, đã mô tả rõ một số những máy móc tự động được thực hiện dưới triều vua Lý Nhân Tông (1072-1127) như máy Kim ngao, máy quay đèn, người nộn chuyển động:
Máy Kim ngao: Ngày Trung thu và ngày Tết, Nhân Tông ngự ở điện Linh Quang trên bờ sông Lô… Ở giữa sông một con rùa vàng nổi, lưng đội ba hòn núi. Rùa lội rù rờ trên mặt nước, lộ vân trên vỏ và rè bốn chân. Chuyển mắt nhìn lên bờ, miệng thì phun nước lên bến. Quay đầu hướng tới ngai vua mà cúi đầu chào…. Các thần tiên xuất hiện, nét mặt nhuần nhị thanh tân,… Chim phượng có sừng họp nhau thành đội ra múa may, phô diễn. Hươu nai họp thành đàn đi lại, nhả nhót…
Đây là máy đèn quay và người nộn đánh chuông. Ấy là lúc vua kén Hoàng Hậu. Nhân Tông đặt hội đèn Quảng Chiếu: dựng đài Quảng Chiếu ngoảnh ra cửa Đoan Môn. Giữa nêu một cái cột, ngoài đặt bẩy từng, rồng cuốn mà đỡ tòa kim liên, rèm lồng mà che đèn sáng rực. Có máy dấu kín dưới đất, làm đài quay như bánh xe. Lại có hai tòa hoa lâu, treo quả chuông đồng, tạc chú tiểu mặc áo cà sa, vặn máy kín thì giơ dùi đánh. Nghe tiếng sáo, liền quay mặt lại. Thấy bóng vua lại biết cúi đầu, tựa hồ như có trí khôn, biết khi động khi tĩnh (35).
Đến thời Trần (1225-1413), đất nước tuy đã trải qua hơn một thế kỷ sạch bóng quân xâm lược, nhưng nền độc lập dân tộc vẫn bị ngoại xâm đe dọa. Do đó, ở thời này tinh thần tự cường tự chủ vẫn là cơ sở thôi thú toàn dân không ngừng vươn lên, xây dựng một đất nước giầu mạnh.
Nho giáo đã có một vị trí vững chắc, làm một chân kiềng cho tam giáo Khổng Lão Thích hòa đồng để tạo một nhân-sinh-quan vững mạnh cho hào khí Đông A, sức bật tất yếu cho ba cuộc chiến thắng Nguyên Mông về quân sự vào những năm 1257, 1285 và 1288, cũng như cho văn hóa dân tộc, ví dụ chú ý đến việc thi cử để đào tạo nhân tài, làm giường cột cho đất nước hoặc việc phổ biến chữ Nôm rộng rãi bên cạnh chữ Hán (36).
Trải qua ba lần xâm lược của giặc Nguyên Mông, kinh đô Thăng Long bị tàn phá nặng nề. Năm 1289, triều đình đã tổ chức xây dựng trùng tu lại các cung điện, lầu gác, vườn tược, bắt quân dân những ai hàng giặc phải chuyên chở gỗ, đá làm cung điện để chuộc tội (37).
Công việc tu sửa liên tục không ngưng nghỉ. Sử cũ ghi năm Quý Mão 1363 vua Trần Dụ Tông đã cho: đào hồ ở vườn ngự trong Hậu cung, trong hồ xếp đá làm núi, bốn mặt khai ngòi, chảy thông nhau, trên mặt hồ trồng cây tùng, cây trúc và các thứ hoa cỏ lạ, lại nuôi chim quý, thú lạ trong ấy. Phía tây hồ trồng hai cây quế, dựng điện Song Quế, lại gọi là điện Lạc Thanh. Hồ ấy gọi là hồ Lạc Thanh. Lại làm riêng hồ con, sai người ở Hải Đông chở nước mặm chứa vào, đem các thứ hải vật như đồi mồi, cá, thuồng luồng… nuôi ở đấy. Lại sai người ở châu Hóa chở cá sấu đến thả, lại có hồ Thanh Ngư thả cá thanh phụ (cá diếc) (38).
Song song với việc tu sửa ở Thăng Long, các vua Trần đã cho xây dưng tại quê hương mình ở Tức Mặc, phủ Thiên Trường, hàng loạt cung điện, lầu gác, nhà cửa, để làm nơi ở cho con cháu họ hàng thân thuộc và ngay cả bản thân mình sau khi nhường ngôi vua, lên chức Thái Thượng Hoàng. Những cung điện này chắc hẳn phải bề thế, đẹp đẽ. có vườn tược, cây cảnh, non bộ, nên trong bài thơ của Trần Nguyên Đán làm họa lại thơ của Thái Thượng Hoàng Nghệ Tông lúc về Tức Mặc, đã ví nó như cung điện ở đất Phong, đất Bái nổi tiếng của nhà Hán bên Trung Quốc (39), hoặc bài thơ tả cung điện lầu gác ở phủ Thiên Trường của vua Trần Thánh Tông:
Cảnh thanh u vật diệc thanh u
Thập nhị tiên châu thứ nhất châu…
[ Cảnh thanh u vật cũng thanh u.
Mười hai cõi tiên âu chốn này là một ]
(Hạnh Thiên Trường Hành Cung)
Đặc điểm của thời Trần là chế độ phong ấp cho thân vương và quan lại đã kích thích phong trào chơi non bộ càng lan rộng hơn từ thế kỷ XIII, XIV, trở về sau.
Ngoài các cung điện của các vua Trần tại Thăng Long và phủ Thiên Trường, vườn tược, cây cảnh, non bộ còn được chế tác xây đắp trong các điền-trang thái-ấp của các hoàng-thân quốc-thích và của giới quý tộc với lầu son gác tía như các công trình xây dựng trang ấp của Chiêu Minh đại vương Thái sư Trần Quang Khải với khu vườn Phúc Hưng nổi tiếng vừa trồng cây cảnh vừa trồng cây thuốc ở thôn Độc Lập, xã Mỹ Thành, huyện Mỹ Lộc (tỉnh Nam Hà ngày nay), của Trần Quang Điền ở Quặc Hương, của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp (nay là Kiếp Bạc thuộc Chí Linh Hải Hưng) với vườn cảnh An Lạc và vườn trồng thuốc nam rộng lớn cả một quả núi đến nay ở đó vẫn mang tên là Dược Sơn, của Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dư ở Vân Đồn hay của Phạm Ngũ Lão ở Phù Ủng, Nguyễn Khoái được phong tước hầu và được phong cấp cả một hương (tương đương quận hay huyện sau này) gọi là Khoái lộ (Khoái châu, Hải-hưng) để làm thang mộc ấp: Phạm Ngô giữ chức Tham tán nhung vụ cũng được cấp 80 mẫu ruộng. (các vương hầu có thể đem hàng trăm, hàng ngàn mẫu ruộng cúng vào nhà chùa v.v….
Trong tập thơ Lạc Đạo của Trần Quang Khải nguyên văn chữ Nho chép trong Lịch triều hiến chương loại chí: Văn tịch chí (q. 42-45) của Phan Huy Chú (1782-1840), có những câu thơ về cây cảnh mai, trúc,…. ở vườn Phúc Hưng như sau:
Phúc Hưng nhất khúc, thuỷ hồi hoàn,
Trunh hữu bình viên sổ mâũ khoan.
Mai ổ tuyết tiêu châu bội lỗi.
Trúc đình vân quyển, bích lang can.
(Phúc Hưng ngòi nước chẩy quanh quanh
Vườn rộng phẳng phiu mấy mẫu lành
Tan tuyết, chòm mai hoa lấp lánh
Cuốn mây, bụi trúc ngọc biếc xanh.)
Ngay cả giới quan lại, nho sĩ đương thời cũng có những tư dinh ở địa phương làm nơi dậy học, dưỡng nhàn, cùng bạn bè lui tới ngâm vịnh. Ví dụ như nhà dậy học và ẩn cư của Chu Văn An ở núi Phượng Hoàng (Chí Linh Hải Hưng ), còn gọi là núi Lan Phụng, ở đấy có điện Tử Cực, điện Lưu Quang, chân núi có suối Miết Trì, lưng núi có chùa Lệ Kỳ, có hang động Huyền Vân, Chu Văn An có bài thơ ngâm vịnh cảnh đẹp ở đây:
Vạn điệp thanh sơn thốc hoạ hình
Tà dương đảo quải bán khê minh
Thúy la kinh lý vô nhân đáo
Sơn hạc đề yên thới nhất thanh
(Muôn lớp núi xanh bình phong vẽ
Bóng chiều chiếu xế sáng nửa khe
Lối xanh rì dây leo không ai đi đến
Hạc núi trong mây thỉnh thoảng môt tiếng kêu)
Am Bích Động của nhà thơ Văn-huệ vương Trần Quang Triều ở chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều Quảng Ninh (40), hoặc Phúc Am của Trương Hán Siêu, ai trông thấy cũng mến chuộng với thắng cảnh sơn thuỷ núi Dục Thuý, v.v…. Trong số này phải kể đến công trình đẹp, có tiếng như động Thanh Hư của Trần Nguyên Đán ở Côn Sơn ( Chí Linh Hải Hưng ).
Sau khi cáo quan về Côn Sơn, Trần Nguyên Đán đã xây dựng nhiều công trình kiến trúc giá trị, có vườn tược, có cây cảnh, có non bộ, đặt tên chung là động Thanh Hư. Ngoài nhà cửa lầu gác, ông còn cho làm chiếc cầu Thấu Ngọc, một công trình đặc sắc đã được sách Đại Thanh Nhất Thống Chí của Trung Quốc liệt vào một trong những kỳ công thời bấy giờ (41). Cảnh đẹp hùng vĩ của Côn Sơn đã được cháu ngoại Trần Nguyên Đán là Nguyễn Trãi cũng về trí-sĩ tại đây viết như sau:
Côn Sơn có suối nước trong,
Ta nghe suối chảy như cung đàn cầm.
Côn Sơn có đá tần-vần,
Mưa tuôn đá sạch ta ngồi ta chơi.
Côn Sơn thông tốt ngất trời,
Ngả-nghiêng dưới bóng ta thời tự-do.
Côn Sơn trúc mọc đầy gò,
Lá xanh bóng rợp tha hồ tiêu dao.
…….
(Nguyễn Trọng Thuật diễn nôm, Nam Phong Tạp Chí, t. XXVI, số 148)
Viết về Trần Nguyên Đán, Rolf A. Stein lại cho chúng ta biết thêm mối liên hệ giữa non bộ và hang động tại VN:
Trần Nguyên Đán về ẩn ở động Thanh Hư. Tên hiệu là Băng Hồ không phải chỉ là một ngụ ý văn chương của một bài thơ danh tiếng. Từ ấy còn gợi nên tất cả giá trị nguyên thủy của nó. Chúng ta biết rằng những bầu Hồ có thể là những thế giới bầu trời hệt như một hang động là những tầng trời, thế giới Thiên đường, Động Thiên. Tên Thanh Hư được đặt cho tên động của ông chính là tên của cái đệ nhất Động Thiên ghi trong sách Vô Thượng Bí Yếu ( của Đạo tạng ). [Băng] Hồ là thế giới thanh khiết, cảnh giới thứ nhất của Thần Tiên bất tử.
(… let us go back to the retreat of Trần Nguyên Đan. His sobriquet Băng-hô is not a simple literary allusion to a famous poem. The _expression keeps its primitive force. We know that the hu vessels could be worlds, just as certain caves are heavens (paradisiacal worlds, tung t ien). The mane Thanh-hư given to the cave on this site is the very name of the first cave-heaven (tung tien) listed in the Wu-shang pi-yao (Tao-tsang). The hu vessel made of jade or ice is thus an immaculate world like the first of the abodes of the Immortals (42).)
Năm 1397, Hồ Quý Ly, người có quyền thế lớn nhất trong triều Trần được phong tước đại vương, cho xây dựng kinh đô mới, gọi là Tây-đô (nhân dân thường gọi thành nhà Hồ). Hoàng Xuân Hãn viết: Làng Đại Lại (Thanh Hóa) là quê của Hồ Quý Ly. Năm 1398, Quý Ly dựng cung Bảo Thanh ở dưới chân núi Đại Lại, để ép vua Trần Thuận Tông ở. Sau khi Quý Ly lên ngôi, thường hay về nghỉ mát ở đó. Dựng cung gọi là Ly Cung. Có bể tắm, xây đá, có chạm trổ rất đẹp. Bể tắm, thì lấy nước suối cho vào. Nay vết tích bể tắm còn (43).
Kinh thành Tây-đô nằm giữa vùng núi sông hiểm trở, nhìn từ cao xuống thấy giống như một hòn non bộ hùng vĩ. Tây-đô ở gần núi đá vôi An-tôn, phía bắc có có núi Voi, phía nam có núi Đốn-sơn, phía đông có núi Hắc-khuyển và sông Bái bao quanh, phía tây có sông Mã bao bọc. Thành xây toàn bằng đá khối chữ nhật rất lớn.
Sách Việt Sử Tiêu Án của Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ (1726-1780) ghi một giai thoại về non bộ và cây tùng cảnh của Hồ Quý Ly.
Hồ Quý Ly muốn nhường ngôi cho con thứ là Hồ Hán Thương (Xương) bèn mượn hòn đá non bộ nhỏ dùng làm nghiên mực của mình để ra câu đối:
"Thử nhất quyền kỳ thạch, hữu thời vi vân vi vũ dĩ nhuận sinh-dân"
( Hòn đá kỳ lạ này có lúc làm mây mưa để ban ơn cho dân, tỏ khí độ một vị vua), bắt các con đối, để xem chí khí thế nào, người con lớn là Hồ Nguyên Trừng biết được ý cha mình, mới đối rằng:
"Giá tam thốn tiểu tùng tha nhật tác đống tác lương kham phò xã-tắc"
(Cây thông nhỏ ba tấc gỗ này một ngày kia sẽ làm dường cột giúp xã-tắc) để tỏ ý mình chỉ đáng làm người giúp việc thôi.(44)
Trong 20 năm bị quân Minh thống trị, nền văn hóa của dân tộc bị huỷ hoại nghiêm trọng. Ngay từ những ngày đầu xâm lược, quân Minh đã có âm mưu đồng hóa dân Việt, tiêu hủy toàn bộ kho tàng văn hóa của dân tộc vốn có từ xưa để lại. Sử cũ còn ghi ngày 21-8-1406 Minh Thành Tổ đã lệnh cho Chu Năng là tướng cầm đầu: lúc vào đến nước ta, quân Minh phải tìm cách đốt hết, phá hết các di sản văn hóa, chỉ trừ bia Trung Quốc. Năm sau, vua Minh lại ra thêm lệnh về việc này để quân lính thi hành triệt để hơn: sách vở, bia ký đều bị tiêu hủy, những công trình nghệ thuật to lớn cũng bị thiêu phá, kể cả tượng Phật cũng bị phá nát. Bia chùa Ngô Xá ghi rõ:
Đến khi giặc Ngô cất binh xâm chiếm bờ cõi nước ta có mang lòng độc ác phá hết các pho tượng Phật (45).
Những vườn cảnh, non bộ đẹp cũng chung số phận như các công trình mỹ thuật khác dưới bàn tay thô bạo của giặc Minh.
Sau khi chiến thắng quân Minh xâm lược, Lê Lợi dựng nên chính quyền Lê sơ theo qui cách của các triều đại trước ở VN. Đến đầu thế kỷ XVI, mọi tổ chức chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, xã hội của nhà nước đều đi đến chỗ hoàn bị và chặt chẽ.
Lê triều dùng phép dựng nước trị dân theo tư tưởng của học thuyết Tống Nho. Điều đó khiến cho văn hóa phương Bắc ảnh hưởng đến các công trình văn hóa nghệ thuật của nước ta không ít. Học thuyết Tống Nho do các nhà nho đời Tống xây dựng trên cơ sở học thuyết của Khổng-tử nhằm phục vụ yêu cầu phát triển mới của chế độ phong kiến Trung-quốc lúc bấy giờ, ra sức biện hộ cho chế độ quân chủ chuyên chế, củng cố sự phân biệt đẳng cấp và các trật tự phong kiến, khác với tư tưởng Nguyên Nho thời Tiên Tần.
Trong suốt một thế kỷ tồn tại (1427-1527), nhà Hậu Lê đã cho tu sửa và xây dựng lại tất cả mọi cơ sở vật chất từ cung điện, lầu gác của nhà vua và hoàng tộc cho đến các dinh thự của quan lại ở trung ương và các địa phương. Tiêu biểu nhất là các công trình tập trung trong hai khu vực lớn: Đông kinh và Lam kinh.
Đông kinh.
Đông kinh là Thăng Long cũ. Thành có hai vòng lớp khép kín. Vòng trong là Hoàng thành, nơi ở và làm việc của vua và triều đình. Vòng ngoài là nơi ở của quan lại, sĩ phu, và các tầng lớp nhân dân. Cả hai vòng đều được tu sửa hay xây dựng thêm nhiều công trình cung điện lầu gác mà các sử gia khen lộng lẫy hơn xưa, nổi danh với vườn Thượng Uyển rộng lớn nuôi cả hươu nai và các muông thú lạ khác.
Lê Quí Đôn, trong Kiến Văn Tiểu Lục, đã miêu tả nghi lễ chúc thọ vua bằng cây cảnh, cây thiên tuế, như sau:
Năm Quang Thuận thứ tám (1467 đời vua Lê Thánh Tông) dùng ngày 16 tháng Giêng làm lễ mừng thọ ở điện Cần Chánh, bèn định thành thể lệ. Từ lúc Trung hưng trở đi, hàng năm đến ngày 27 tháng Giêng cử hành lễ mừng thọ ở điện Vạn Thọ. Trước ngày hành lễ, dựng đình bằng lá ở chợ Huyện, đặt giường ngự. Đến ngày làm lễ, vệ binh cầm cờ quạt, nghi trượng, âm nhạc và khiêng án, viên quan giữ nghi lễ bưng cây thiên tuế từ trong nội điện ra đến đình, đặt trên giường, che quạt vả để hộ vệ. Thày cúng quì ở trước hương án khấn khứa cầu đảo, gieo quẻ xin âm dương, quẻ gieo được tốt thì hoan hô. Quạt mở ra, trăm quan đều mặc triều phục chia ra từng quan đứng ở giữa đường, hướng vào hương án mà lạy, lạy xong trở ra đi trước dẫn đường. Viên quan giữ lễ hạ lại bưng cây thiên tuế đi trước hương án, nghi trượng theo sau, vào đến giữa điện trước giường ngự, đi vòng quanh chín lần. Xong rồi, kính cẩn đặt cây trước xa giá, thị vệ bưng cây yên trí vào trong trướng. Nghi lễ đã cử hành xong, vua ngự ở điện, trăm quan lậy mừng (46).
Lam kinh.
Lam kinh là Lam Sơn ( Thanh Hóa ), quê hương và là nơi xuất phát cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi. Sau khi bị hỏa hoạn, Lam kinh được triều đình nhà Lê tổ chức xây cất lại cung điện, lầu gác, vườn tược, rất lộng lẫy và dần dần trở thành nơi tụ hội tấp nập đông người. Lam kinh không phải là thành phố chính trị mà chỉ là nơi cư ngụ của họ hàng nhà vua và là nơi vua và các quan về tế mộ tổ. Lăng miếu của các vua Lê đều để cả ở nơi đây. Do đó kiến trúc Lam kinh giống như một trung tâm nghỉ mát của vua quan nhà Lê, nên vườn cảnh, cây cảnh, non bộ, chắc hẳn phải được xây dựng, tu sửa, chăm sóc kỹ càng.
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết: (năm Giáp Dần 1434, đời vua Lê Thái Tông) Bấy giờ các đại thần đều sai riêng quân lính làm nhà cửa lớn cho mình. Vua thấy thế, sai (Phan) Thiên Tước đi khắp các nhà đại thần xem xét cho rõ ràng (47).
Nói chung, giống như các triều đại trước ở nước ta, các vua quan giới quí tộc thời Lê sơ cũng rất thích xây dựng vườn cảnh, cây cảnh, non bộ, riêng trong dinh cơ của mình, ngay cả ông vua có cuộc đời làm vua ngắn ngủi, vua Lê Uy Mục, cũng đã xây dựng cung điện, vườn tược riêng để thưởng ngoạn. Trong tờ hịch tố giác tội ác của Lê Uy Mục do Lương Đắc Bằng soạn, có đoạn vạch rõ:… Huống chi lại làm cung thất to, làm vườn hoa rộng. Bắt dân trồng cây theo bánh xe đổ gò Hoa Cương thời Tống (bên Trung Quốc) ; lấp biển làm điện, nối gót hôn mê cung A-phòng nhà Tần. Việc thổ mộc làm lại thôi, thôi lại làm, mệt nhọc dân Hải Dương, Kinh Bắc (48).
– Hết –
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét