Người tù trong phòng giam sơn trắng
Merle L. Pribbenow (Nhân viên CIA đã về hưu. )
Đặng Mi Lộc dịch (5.1.2006)
Cuộc chiến chống khủng bố thực là đáng nản và khó xử. Đây là thứ chiến tranh đối đầu với những mục tiêu thường xuyên thay đổi và phương thức lại không chắc chắn, một cuộc chiến không quy ước trong mọi nghĩa của nó. Cái khó nhất đối với sự hiểu biết của một người Mĩ trung bình là sự rắc rối trong việc thu thập thông tin từ những phần tử khủng bố bị bắt giữ tại căn cứ không quân Bagram ở Afghanistan, Vịnh Guantanamo, Cuba, và những nơi khác trên thế giới. Mới đây một bạn học cũ biết tôi là cựu nhân viên CIA, có bày tỏ với tôi về chuyện anh rất sốt ruột với tiến độ của cuộc chiến chống khủng bố. Anh nói rằng, anh tin là mối đe doạ khủng bố đối với nước Mĩ lớn đến mức, phải dùng bất kì phương pháp gì, kể cả tra tấn, miễn là lấy được thông tin, và rằng anh không thể hiểu sao các đồng sự của tôi không thể trấn áp thẳng tay bọn tù binh. Đây không phải là lần đầu tiên chúng ta đương đầu với một cuộc chiến chống khủng bố, và những nỗ lực thẩm vấn các nghi phạm tại Hoa Kì, Afghanistan và Vịnh Guantanamo dựa trên những kinh nghiệm thu thập được từ những thập kỉ trước đây. Bài viết này mong được ghi lại một bài học như thế trong thời kì Việt
Nguyễn Tài
Hơn ba mươi năm trước, quân lực miền
Frank Snepp, nhân viên CIA đã tiến hành phần thẩm vấn cuối cùng, dành hẳn một chương của cuốn hồi kí nổi tiếng về những năm cuối của toán CIA tại Sài Gòn thẩm vấn người mà ông gọi là "người tù trong hầm bạch tuyết" [1] này. Snepp tưởng rằng quân miền
Snepp đã lầm. Người tù kia thoát chết. Mấy năm trước ông ta đã xuất bản một tập hồi kí mỏng nhan đề là Đối mặt với CIA Mỹ [2] . Quyển sách đã đặc tả chuyện ông ta chống trả như thế nào với những cuộc thẩm vấn căng thẳng của một số nhân viên CIA cừ khôi, và những nhân viên thẩm vấn miền
Một thanh niên yêu nước
Nguyễn Tài (ảnh của tác giả) |
Giống như Osama bin Laden, Nguyễn Tài là một người có học, thông minh hoạt bát, con nhà dòng dõi. Cha ông, Nguyễn Công Hoan, là một nhà văn nổi tiếng. Bác ông, Lê Văn Lương, là một Uỷ viên Trung ương Đảng, và là nhân vật số hai của Bộ Công an (cơ quan an ninh và phản gián, tổ chức theo kiểu KGB của Liên Xô).
Tài tham gia "cách mạng" từ năm 1944, lúc mới 18 tuổi. Đến năm 1947, ở tuổi 21, là Trưởng Công an thành phố Hà Nội, trong vùng Pháp kiểm soát [3] . Suốt thời chiến tranh chống Pháp, Tài hoạt động trong lòng Hà Nội, chỉ huy các hoạt động tình báo chống lại ý đồ xâm nhập và tiêu diệt kháng chiến. Cuộc chiến đấu bí mật như thế là cuộc vật lộn khó khăn, bẩn thỉu, không kiêng dè các thủ đoạn ám sát và khủng bố.
Tài rất hăng say trong công tác. Theo một cuốn sử về các cuộc chiến dịch của công an, vào năm 1947, ngay khi vừa nắm chức chỉ huy công an thành phố, Tài lập ra những đội ám sát, gọi là Đội Thanh Việt, để diệt Pháp, trừ Việt gian. Cuốn sử về Hà Nội dành hết trang này sang trang khác kể lại những cuộc săn lùng ám sát do những đội này lãnh trách nhiệm [4] . Tháng Chín 1951, trong một chiến dịch phối hợp giữa lực lượng Bộ Công an và đội công an thành phố của Tài, một người phụ nữ giả vờ là vợ của một viên chỉ huy toán bảo an thân Pháp đã đánh đắm một tàu hải quân Pháp bằng một khối chất nổ nặng 30 cân đặt trong va li mà cô đem lên tàu. Người phụ nữ đó ôm chiếc va li đến khi nó nổ tung, có lẽ đây là trường hợp đánh bom cảm tử đầu tiên trong lịch sử.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, rồi phe cộng sản kiểm soát miền Bắc, Nguyễn Tài thăng cấp rất nhanh trong hàng ngũ Bộ Công an. Một phần cũng là nhờ thành tích ông ta tiếp tay trong đợt đấu tố cha mình về tội chống chế độ. [5] Năm 1961, Tài được bổ nhậm Giám đốc cơ quan phản gián do Bộ Công an mới lập ra, gọi tắt là KG2 [Cục bảo vệ Chính Trị 2] [6] . Trong cương vị này, ông điều khiển các hoạt động gián điệp hai mang chống miền Nam và lực lượng Mĩ, trong đó phải kể thành tích tóm gọn các gián điệp và các toán phá hoại miền Bắc được thả dù hay đổ bộ bằng thuyền vào những năm đầu thập niên 1960 [7] . Tài cũng đảm nhận công tác đàn áp không nương tay những người bất đồng chính kiến trong nội bộ và tiến hành thẩm tra sơ bộ dẫn đến vụ "Hoàng Minh Chính" nổi tiếng, thực chất là một vụ thanh trừng các phần tử "xét lại" ở tầng lớp cán bộ cấp cao trong Đảng. Chiến dịch này nhằm triệt hạ thành phần thân Nga và thân Võ Nguyên Giáp, trong số đó có những Uỷ viên Trung ương Đảng và thành phần nội các và một số tướng lãnh lúc bấy giờ chống đối đường lối của Bí thư thứ nhất Lê Duẩn [8] .
Vào
Năm 1964, Tài từ giã vợ và ba con nhỏ để xuôi
Tài tiến hành sứ mạng này rất năng nổ, gây ra hàng loạt vụ đánh bom và ám sát nhân viên cảnh sát và an ninh miền Nam cũng như giới lãnh đạo miền Nam. Theo thông cáo báo chí của công an Việt Nam năm 2002 thì "Dưới sự chỉ huy của ông Tài, lực lượng công an đã đưa được nhiều điệp viên và vũ khí vào thành phố, và đã tạo nhiều đợt tiến công làm kinh hoàng kẻ địch. Trong số này đáng chú ý là vụ ám sát viên thiếu tướng trực thuộc văn phòng Tổng thống Sài Gòn và vụ đánh bom bãi đậu xe Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia." [11] Tài chỉ huy nhiều vụ khủng bố khác, bao gồm những vụ đánh bom nhắm vào các nhân viên cảnh sát và những nơi nhân viên cảnh sát và tình báo thường lui tới; vụ ám sát một chức sắc cao cấp của Quốc hội miền Nam; vụ mưu sát ông Trần Văn Hương, về sau là một tổng thống miền Nam; những vụ ám sát sĩ quan cảnh sát và những phần tử Việt cộng phản bội hàng ngũ. [12]
Bị bắt
Năm 1969, Tài phải chuyển hoạt động về vùng đồng bằng Cửu Long cho an toàn hơn, do hạ tầng cơ sở tại Sài Gòn bị Mĩ và miền
Sau cuộc thẩm vấn và tra tấn sơ bộ của nhân viên an ninh miền
Những cố gắng của Tài phần nào đạt mục đích là có được thêm thời gian cho đồng đội và giao liên trốn thoát về chỗ ẩn mới và cũng là đánh lạc hướng đối phương. Nhưng việc ông khai là một một sĩ quan tình báo quân đội khiến cấp trên rất chú ý. Thay vào chỗ những nhân viên thẩm vấn cấp dưới (và chỉ được huấn luyện nghiệp vụ ít ỏi) ở vùng đồng bằng Cửu Long, Tài được đưa về Sài Gòn để giao cho những chuyên viên thẩm vấn ở Trung tâm Thẩm vấn Quốc gia trực thuộc cơ quan Tình báo Trung ương miền Nam. [14]
Kế hoạch phản cung
Ai làm nghề thẩm vấn chuyên nghiệp cũng đều biết rõ một điều là phải có hiểu biết về đối tượng thì cuộc thẩm vấn mới đạt yêu cầu. Các thẩm vấn viên ở Trung tâm Thẩm vấn Quốc gia gặp phải cái khó là khi Tài mới về đó, họ chẳng biết ông ta là ai. Tài giấu thật kĩ căn cước thật, khai tên tuổi hành trạng và công tác hoàn toàn giả mạo. Ông làm bộ khai báo thật thà, nhưng chỉ là cho biết những thông tin ai cũng biết rồi hoặc là không ai kiểm chứng được. Để cho thấy là mình chẳng biết gì về cơ quan và sự liên hệ ở địa phương, ông khai rằng ông vừa mới ở Bắc thâm nhập bằng thuyền (dạo tháng 11/1970 có chuyện một chiếc thuyền mới vào đến cửa sông ở vùng đồng bằng Cửu Long thì bị quân miền
Tin tức về việc huấn luyện tình báo quân đội và những huấn luyện viên ở ngoài Bắc đều là những chi tiết mà ông biết là đã được những đồng sự bị bắt trước đây đã bảo nhau. Như vậy có vẻ là Tài đã cung cấp nhiều thông tin "nhạy cảm" mà đối phương có thể kiểm chứng được, làm tăng độ tin cậy cho lời khai, nhưng kì thật những thông tin đó chẳng hé thêm điều gì phương hại đến chính nghĩa của ông. Việc lúc đầu ông "giấu" thông tin này và chỉ "thú" ra khi bị nhân viên miền Nam đánh đau quá, theo ông, chỉ làm tăng thêm độ xác tín của lời khai mà thôi. Tài bảo là những thẩm vấn viên CIA đầu tiên, một người đứng tuổi tên là "Fair" (sic) và một người còn trẻ tên là "John" đều tin lời ông.
Người ta bắt đầu nghi ngờ lời khai của Tài. Tài cho rằng sở dĩ những lời khai của mình bị đặt vấn đề là vì có một số thuộc cấp trong cơ quan công an Sài Gòn nóng lòng truy tìm dấu tích thủ trưởng, bèn bắn tiếng cho cán bộ nằm vùng trong thành đi săn tin về một người có bí danh như thế (hẳn nhiên là không phải tên thật), với ngày giờ và địa điểm bị bắt. Khi tình báo miền Nam bắt được cán bộ nằm vùng này thì cơ quan an ninh trung ương miền Nam thắc mắc là tại sao công an lại bỏ công dò tìm tung tích một tù nhân tự khai là một tình báo quân đội, là người trực thuộc một cơ quan khác hẳn. Có thể Tài tin thật đó là nguyên do lời cung của ông bị đổ. Nhưng thật tình có lẽ ông không ngờ là ông không che mắt được tình báo Mĩ như ông tưởng. Theo lời cựu nhân viên CIA Peter Kapusta, là người đã kể cho soạn giả Joseph J. Trento (1990) rằng ông có can dự vào việc chấp cung Tài. "John" bén nhạy nhận ra kẽ hở của lời Tài khai và tiến hành thẩm tra ngay. [15] Tài thừa nhận là sau khi trắc nghiệm nhịp tim đập, Tài đã thách thức "John" khi "John" muốn thẩm tra chi tiết về tiểu sử của Tài [16] . Bất kể là sự hoài nghi nhen nhúm từ đâu, Tài được chuyển giao lại cho tình báo miền
Lấy cung
Lần này tình báo miền
Khi đưa cho Tài xem tấm ảnh chụp gồm nhiều cán bộ công an cộng sản nay đang bị giam giữ hay ra đầu thú, tình báo miền Nam mau chóng lần ra được lí lịch thật của người trưởng công an Sài Gòn Gia Định. Kế đó họ cho những tên chỉ điểm, những thuộc viên từng biết ông ra nhận diện vị thủ trưởng. Một tên chỉ điểm là một phụ nữ mà, theo lời Tài kể, đã cài bom tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát Quốc gia theo lệnh của Tài [17] . Tài vẫn giữ nguyên lời khai và (dựa vào thành tích quá khứ) có thái độ hăm dọa những kẻ tố giác ông, khiến một kẻ trong đám đó đã phải tự vẫn sau đó ít lâu [18] .
Tình báo miền
Không được nghỉ ngơi
Chắc Tài cũng biết rằng thú nhận rồi cũng chưa phải là xong chuyện. Sau một thời gian giải lao ngắn ngủi coi như một món quà thưởng, thẩm vấn viên miền
Khó đoán biết đâu là động cơ đã thúc đẩy ông, nhưng mấu chốt ở đây chính là "danh dự gia đình". Là người có học trong một gia đình trí thức chứ không phải thành phần giai cấp "công-nông", chắc là lòng trung kiên của tài đối với Đảng đã bị thử thách nhiều lần. Tài không hề nói ra, mà người ngoài cũng chẳng hề biết rõ, khi bố ông bị kiểm điểm và bị Đảng thất sủng không lâu sau khi kiểm soát miền Bắc sau 1954. Trong thời gian này ông cần phải chứng tỏ lòng trung thành. Nếu đúng như lời Snepp viết cũng như những thẩm vấn viên tin như thế, rằng Tài đã tiếp tay tố giác cha mình trong giai đoạn này, thì hồi kí của ông cho biết rằng sau đó cha con ông đã làm lành trở lại, không còn chuyện đau nhức trong gia đình nữa. Tất nhiên tâm lí con người thật phức tạp, nhưng đối với người ngoài thì việc Tài phản bội cha đẻ có thể là một điểm yếu mà xem ra lại biến thành một điểm mạnh của Tài.
Xin ai đó đừng vội lên án những thẩm vấn viên miền
Hầm sơn trắng
Chỉ có thể phỏng đoán, chuyện gì sẽ xảy ra nếu cứ tiếp tục tra tấn. Mùa Thu 1971, cấp trên của Tài ra tay cứu mạng. Ngày 9 tháng 10, phía cộng sản thả một tù binh Mĩ tên là John Sexton, anh ta cầm về bức thư của Trần Bạch Đằng, Bí thư Thành uỷ Sài GònGia Định. Trong thư, ông đề nghị trao đổi Tài và một tù binh khác nữa tên Lê Văn Hoài để đổi lấy Douglas Ramsey, một nhân viên ngoại giao Mĩ nói sõi tiếng Việt đã bị bắt giữ từ năm 1966, mà phe cộng sản tin chắc là tình báo Mĩ. [24] Lập tức Tài thôi bị tra tấn và chấp cung. Mặc dù các cuộc thương lượng trao đổi bị bế tắc ngay sau đó, Tài bỗng nhiên trở thành một thứ của quý, đúng như cấp trên của ông dự liệu, và chẳng ai muốn làm xây sứt nó. [25] Giờ đây Tài là một quân cờ chính trị ở cấp cao.
Đầu năm 1972, Tài được thông báo là sẽ đổi đến nơi mới và sẽ do người Mĩ thẩm vấn. Người ta bịt mắt dẫn ông ra xe đi đến một địa điểm không rõ, đưa ông vào một căn hầm kín mít sơn trắng xoá được thắp sáng suốt ngày đêm, và có đặt máy lạnh công suất cao. (Như bao nhiêu người Việt khác, Tài rất kị máy lạnh, cho rằng gió lạnh thì độc). Tài bị biệt giam trong hầm này suốt ba năm trời, cốt để làm ông hoang mang và mất phương hướng. [26]
Việc thẩm vấn lại bắt đầu. Lần này thẩm vấn viên là một người Mĩ đứng tuổi mà Tài gọi là "Paul". Paul chính là Peter Kapusta, một nhân viên CIA thâm niên, là chuyên viên phản gián công tác tại Vụ Xô Viết – Đông Âu, và là người thân cận với trùm phản gián CIA là James Jesus Angleton. [27] Chính Tài cũng thừa nhận là Kapusta và những thẩm vấn viên Mĩ khác ("Fair", "John", và Frank Snepp) không hề ngược đãi ông, mặc dầu ông luôn nghi ngờ là người Mỹ muốn gài ông vào chuyện gì có thể khiến cấp trên ông ở trong rừng nghi rằng ông đã thoả hiệp với "địch". Kapusta và các thẩm vấn viên người Mĩ khác cố lấy lòng Tài qua việc cho thuốc uống, tăng phần ăn, quần áo mới (phần lớn Tài đã từ chối hoặc huỷ hoại chúng vì sợ làm thế thì sẽ mất phẩm chất "đạo đức cách mạng"). Họ cũng quan tâm đến những yếu đuối của con người – sợ lạnh, cần có bầu có bạn, tình cảm gia đình. [28]
Trong hồi kí, Tài cho biết rằng ông quyết định đổi chiến thuật ngay khi biết là được giao lại cho người Mĩ. Thay vào những câu đáp gọn lỏn "Không" hoặc "Tôi không biết" như khi trả lời thẩm vấn viên miền Nam, bây giờ thì ông dứt khoát: "Tôi sẽ trả lời câu hỏi và sẽ gắng kéo dài việc thẩm tra để chờ ngày dứt chiến tranh. Tôi sẽ trả lời nhưng không tự nguyện làm điều gì. Tôi có thể trả lời sai hoàn toàn, nhưng tôi cứ nhất quyết bảo là đúng." [29] Nói khác đi, Tài chịu nói, đây là điều ông không tin ở lòng mình lắm khi còn bị người miền Nam tra tấn, vì sợ rằng trong lúc suy kiệt ông có thể lỡ miệng vô tình khai ra những chuyện cơ mật. Ông định chơi trò câu thời gian ở trong tay người Mĩ càng lâu càng tốt để khỏi rơi lại vào tay người miền
Tôi luôn kiên quyết phản đối ý đồ của các cơ quan tuyên truyền của ta bàn thảo về những vấn đề bí mật trên các phương tiện truyền thông đại chúng Giờ đây, chương trình phát thanh "Vì an ninh tổ quốc" đã công khai nói về việc [Bộ] "kiểm điểm các đặc vụ công an", tôi buộc phải hé cho chúng (nhân viên Mĩ) chút tin tức nào đó. [30]
Peter Kapusta làm việc với Tài trong mấy tháng trời và nghĩ là có chút tiến bộ. Sau đó ông được chuyển công tác.
Tài vốn đa nghi, nghĩ rằng ngày nào còn có người Việt can dự trực tiếp vào việc thẩm vấn thì ông còn có cơ may là sẽ có lời bay tới các "đồng chí" ở ngoài kia. Nếu chỉ toàn người Mĩ thì cấp trên của ông sẽ chẳng biết đâu mà lần ra tung tích hoặc tìm cách thẩm tra việc ông khai khẩu cung trong này. Tài thường băn khoăn làm sao giữ được hồ sơ sạch sẽ để cấp trên có thể xác minh là ông không hề giúp đối phương trong khi thẩm vấn. Ông nghĩ là chuyện này rất hệ trọng đối với tương lai bản thân và gia đình ông. Là một sĩ quan an ninh chuyên nghiệp, Tài thừa biết lối trừng phạt của Đảng Cộng sản là đến cả đời con cháu. Thế là ông giả vờ không hiểu người thông dịch viên người Mĩ nói gì cả, để đòi cho được thông dịch viên người Việt, dù ông phải nhận là người thông dịch viên Mĩ nói tiếng Việt khá tốt. [31]
Kế hoạch tiến triển khá trôi chảy. Tuy vậy, cũng lúc đó người viết bài này can dự vào vụ này. Như Tài đã định trước, Snepp ngày càng khó chịu và nóng lòng, trách cứ người thông dịch viên người Mĩ vì tiến độ quá chậm chạp. Sau một buổi lấy cung, Snepp lại gặp tôi (chúng tôi quen nhau từ chuyến đi đầu tiên tới Việt Nam), nói với tôi là ông rất phiền lòng về "thành tích" của thông dịch viên (cũng là bạn đồng nghiệp khá thân với tôi), và hỏi xem tôi có rảnh thì làm việc với ông trong lần chấp cung tới. Tiếc là lần đó tôi không rảnh nên Snepp đành phải đưa thông dịch viên người Việt vào thay. Lúc đó tôi cứ thắc mắc tại sao có chuyện như Snepp nói hôm đó. Ba mươi năm sau, đọc hồi kí của Tài tôi hiểu vì sao.
Hệ quả của Hiệp định Paris
Ngày 27 tháng Giêng 1973, Hiệp định Hoà bình
Cuộc thẩm vấn của người Mĩ chấm dứt cùng thời điểm kí Hiệp định
Theo hồi kí thì Tài vẫn vững lập trường và sống sót nhờ luôn tự nhủ lòng gắn bó với nước, với Đảng, với lí tưởng, và không nguôi nghĩ đến gia đình. Ông tuân thủ nghiêm ngặt nghi thức hàng ngày đứng nghiêm chào ngôi sao, biểu hiệu cho lá cờ miền Bắc (cờ đỏ sao vàng ở giữa) mà ông khắc lên tường, và hát thầm quốc ca miền Bắc, quốc ca của Mặt trận Dân tộc Giải phóng, và Quốc tế ca bài hát của phong trào cộng sản quốc tế. [33] Ông làm thơ và đặt ca khúc trong đầu, luôn nhẩm lại để khỏi quên. Một số là những bài viết theo bổn phận để ca ngợi Đảng, phần lớn còn lại nói về tình thương dành cho các con và gia đình. [34]
Trước khi bộ đội cộng sản tiến vào Sài Gòn ngày 30 tháng Tư 1975, một viên chức cao cấp miền Nam đã ra lệnh xử tử Tài, không cho các đồng chí thắng trận vào giải thoát cho ông. Một biện pháp như thế chẳng có gì là khó hiểu, như Snepp có ghi chú, "vì Tài là một kẻ khủng bố được huấn luyện hẳn hoi, khó có thể xem là một kẻ thắng trận mã thượng." [35]
Nhưng lệnh ra quá trễ. Tất cả các viên chức cao cấp ở cơ quan tình báo trung ương mải lo tháo chạy, cấp thừa hành được tín nhiệm giao công tác canh phòng Tài thì không thể có cơ may trốn thoát, nhưng họ nghĩ để người tù này sống có lẽ lợi hơn. Họ sợ bị trả thù nếu những kẻ thắng trận biết là họ đã giết ông ta, và biết đâu họ còn được thưởng nữa. [36] Tài sống sót và trở về đoàn tụ với gia đình vào mùa thu năm 1975. Tài leo lên các chức vụ quan trọng, trong đó có một khoá đắc cử đại biểu Quốc hội. Tháng Sáu 2002, tại một buổi lễ long trọng tại thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn cũ), Nguyễn Tài được chính thức tặng danh hiệu cao quý nhất "Anh hùng Quân đội Nhân dân".
Ngẫm lại
Có thể rút được bài học nào về hiệu quả và tính thích đáng của những kĩ thuật thẩm vấn mà viên chức miền
Điều này dẫn tôi trở về với câu hỏi của người bạn học cũ. Tôi trả lời anh bạn điều mà tôi hằng tin tưởng là người Mĩ chớ để phương tiện phản lại mục đích của mình. Tôi không phải là nhà luân lí. Chiến tranh là một việc đáng tởm, và người ta không thể vào chiến cuộc mà tránh khỏi bẩn tay. Tôi cũng không tin là chúng ta phải tuân thủ những những tiêu chuẩn do ACLU (Hiệp hội Tự do Dân sự Hoa Kì) và AI (tổ chức Ân xá Quốc tế) quy định. Chẳng có gì sai khi dùng những đòn tâm lí, doạ nạt, đèn chói, và còng tay, và không cho tù nhân ăn uống mỗi lần vào thẩm vấn. Tuy vậy, có những giới hạn, mà nếu bước qua những giới hạn đó thì người Mĩ chúng ta không còn là chúng ta nữa. Hoa Kì trên hết là một lí tưởng và là nơi mà kiểu tra tấn dùng ở Việt
[1]Frank Snepp, Decent Interval (Khoảng cách vừa phải),
[2]Nguyễn Tài, Đối mặt với CIA Mỹ (Hà Nội: nxb. Hội Nhà văn, 1999)
[3]Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh, nhật báo, 13 June 2002, có thể vào trang báo điện tử ngày 15/6/2002: http:// www.cahcm.vnnews.com/1051/10510010.html. Lưu ý: Từ những năm 1960 trở đi đến giữa những năm 1990, Bộ Công an được gọi là Bộ Nội vụ, mặc dầu mọi người vẫn quen gọi là ngành công an, và các viên chức trong ngành thì vẫn gọi là "cán bộ công an". Để cho giản tiện, tôi dùng chung một thuật ngữ Bộ Công an.
[4]Nguyễn Thế Bảo, Công an thủ đô: Những chặng đường lịch sử (1945-1954), Hà Nội: Nxb. Công an Nhân dân, 1990, tr. 124-25, 132-33.
[5]Snepp, tr. 35.
[6]Trung tá Hoàng Mạc và Thiếu tá Nguyễn Hùng Linh, Lực lượng chống phản động: Lịch sử biên niên (1954-1975). Lưu hành nội bộ, Hà Nội: Nxb. Công an Nhân dân, 1997, tr. 183.
[7]Nguyễn Tài, tr. 157; Phùng Thiện Tâm, bt., Kỷ niệm sâu sắc trong đời công an, Hà Nội: Nxb. Công an Nhân dân, 1995, tr. 71. Về chi tiết các nỗ lực lùng bắt các gián điệp/toán biệt kích để chuyển hoá họ quay lại chống Mỹ và miền Nam, xin xem: Sedgewick Tourison, Secret War, Secret Army: Washington’s Tragic Spy Operation in North Vietnam (Chiến tranh bí mật, quân đội bí mật: Cuộc hành quân gián điệp bi thảm tại miền Bắc Việt Nam), Annapolis, MD: Naval Institute Press, 1995, và Kenneth Conboy & Dale Andrade, Spies and Commandos: How America Lost the Secret War in North Vietnam (Gián điệp và biệt kích: Tại sao Hoa Kỳ thất bại trong cuộc chiến bí mật tại Bắc Việt), Lawrence, KS: University of Kansas Press, 2000.
[8]Vụ án Hoàng Minh Chính hiện vẫn đương còn là một chương đen tối của Đảng Cộng sản Việt Nam, được nhắc đến trong: Viện Khoa học Công an, Công an nhân dân, Tập II (Dự thảo) - lưu hành nội bộ, Tp. Hồ Chí Minh: Bộ Nội vụ, 1978), tr. 206; và Nguyễn Tài, tr. 166-67. Có thể tìm đọc một bản ghi chép đầy đủ hơn về vụ án này trong: Bùi Tín, Their True Face: The Political Memoirs of Bui Tin (Mặt thật: Hồi ký chính trị),
[9]Công an Thành phố Hồ Chí Minh, nhật báo, 13 tháng Sáu 2002.
[10]Hoàng & Nguyễn, tr. 229.
[11]Công an Thành phố Hồ Chí Minh, nhật báo, 13 tháng Sáu 2002. Lưu ý: Theo báo New York Times, 1 tháng Hai 1969, tướng bị đánh bom, Thiếu tướng Nguyễn Văn Kiệm, thuộc võ phòng Tổng thống Thiệu, bị thương nhưng không chết.
[12]Hoàng & Nguyễn, tr. 234-37; Hồ Sơn Đại & Trần Phấn Chấn, Lịch sử Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định kháng chiến (1945-1975), Tp. Hồ Chí Minh: Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, tr. 575-76.
[13]Nguyễn Tài, tr. 27, 32.
[14]Sđd., tr. 40-41.
[15]Joseph J. Trento, The Secret History of the CIA (Lịch sử bí mật của CIA),
[16]Nguyễn Tài, tr. 71-73.
[17]Một tờ trình sau thời chiến cho biết là người phụ nữ này là con gái một viên chức cảnh sát miền
[18]Nguyễn Tài, tr. 100-02; Snepp, tr. 31.
[19]Nguyễn Tài, tr. 95.
[20]Sđd, tr. 114.
[21]Sđd, tr. 118-48. Tài kể lại là khi được giải cứu năm 1975, ông báo cáo cho cấp trên, trên đã phê bình Tài là đã toan tự tử, xem như một dấu hiệu của sự yếu đuối. (tr.145)
[22]Sđd, tr. 88.
[23]Hồ Sơn Đài & Trần Phấn Chấn, tr. 575-77.
[24]Nguyễn Tài, tr. 145; Snepp, tr. 32-33; New York Times, 9, 10, 12 October 1971.
[25]Tài kể lại rằng sau khi chiến tranh chấm dứt, Bộ trưởng Nội vụ Bắc Việt nói với ông rằng lãnh đạo nhận thấy khả năng trao đổi tù binh trước khi kí kết Hiệp định Paris rất là mỏng, nhưng mục tiêu trước mắt lúc ấy là "tạo cơ hội để Mỹ Nguỵ giết tôi đi” (Nguyễn Tài, tr. 145).
[26]Chỉ đến khi được thả ra dạo tháng Tư 1975, Tài mới biết là mình đã trở lại Trung tâm Thẩm vấn Quốc gia ở Sài Gòn, đúng nơi mà nhân viên Mĩ "Fair" và "John" đã thẩm vấn ông một năm trước đó, Nguyễn Tài, tr. 149-51; Snepp, tr. 31, 35.
[27]William Corson, Susan Trento, & Joseph J. Trento, Widows (Goá phụ),
[28]Nguyễn Tài, tr. 155-56, 182; Snepp, tr. 35-36.
[29]Nguyễn Tài, tr. 161-62.
[30]Sđd, tr. 175.
[31]Sđd tr. 203-04.
[32]Sđd, tr. 214-17; Snepp, tr. 36-37.
[33]Nguyễn Tài, tr. 70-71, 82.
[34]Sđd., tr. 24, 71, 186, 210-11.
[35]Snepp, tr. 37.
[36]Nguyễn Tài, tr. 243-44.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét