Hòa Thượng THÍCH THIỆN HOA
PHẬT HỌC PHỔ THÔNG
Nguồn: Ban HOẰNG PHÁP
GHPG VIỆT NAM, THÀNH HỘI PGTP HỒ CHÍ MINH
Thực hiện ebook: Tducchau (TVE)
Ngày hoàn thành: 08/05/2009
(Ngày 14 tháng Tư năm Kỷ Sửu Phật lịch 2553)
QUYỂN MỘT
KHÓA THỨ V
Lịch sử truyền bá Phật giáo, 10 Tôn phái
và vũ trụ, nhơn sanh
MỤC LỤC
B. CHÁNH ĐỀ: PHẬT GIÁO Ở ẤN ĐỘ
I. SỰ KHAI NGUỒN CỦA ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA
1 Tình trạng xã hội đen tối và tư tưởng phức tạp ở Ấn Ðộ khi Đức Phật xuất thế
2 Ðức Phật Thích Ca,vị Giáo chủ của Ðạo Từ-bi và Trí huệ
d) Thành đạo và thuyết pháp độ sinh
II. LỊCH SỬ TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
1 Bốn thời kỳ kiết tập kinh điển
2 Nam phương và Bắc phương Phật Giáo
3 Sự phát triển của Ðại thừa và Tiểu thừa
4 Sự suy tàn của Phật giáo tại Ấn Ðộ
LỜI NÓI ĐẦU
Trong Phật học Phổ thông từ khóa I đến khóa IV, chúng tôi đã trình bày xong Ngũ thừa Phật giáo. Những bài viết ra đều chỉ đề cập đến những vấn đề rất cần thiết mà mọi Phật tử cần biết trong bước đầu mới nhập đạo. Với bốn khóa ấy, nếu ai chịu khó đọc kỹ cũng đã tự xây dựng được cho mình một căn bản giáo lý khá vững chắc rồi.
Từ khóa V này trở đi, bài học sẽ đi sâu dần vào giáo lý. Như trong khóa này, năm bài đầu sẽ dành riêng cho lịch sử Phật giáo, bắt đầu từ Ấn Độ đến cuộc phát triển sang Trung Hoa, rồi đến sự du nhập vào Việt Nam. Bài thứ Sáu, Bảy và Tám nói về mười Tôn phái Phật giáo ở Trung Hoa, cuối cùng, bài Chín và Mười, chúng tôi trình bày về quan niệm Phật giáo đối với hai vấn đề trọng đại của Triết học ngày nay: VŨ TRỤ QUAN và NHÂN SINH QUAN.
Xuyên qua lịch sử truyền giáo của Phật Giáo qua các thời đại và các Quốc độ, quý Phật tử cần chú ý hai đặc tính thù thắng của Đạo Phật: đặc tính phổ biến và đặc tính tùy duyên. Có phổ biến mới tùy duyên và cũng do tùy duyên càng phổ biến hơn; và tuy tùy duyên và phổ biến mà sắc thái vẫn là sắc thái riêng của Phật giáo. Biển hòa với trăm sông vì biển rộng lớn, và tuy hòa với nước của trăm sông, biển vẫn cứ là biển để trở lại cung cấp nước cho trăm sông. Chính do hai đặc tính rộng lớn này mà mỗi khi du nhập vào Quốc độ nào là thích nghi ngay được với cá tính rất sai biệt của từng dân tộc, chứ chưa hề ép buộc một dân tộc nào xây lưng sấp mặt lại với tập tục và lễ nghi cổ truyền để đồng hóa theo mình.
Riêng với nước Việt nam ta, tinh thần Phật giáo và tâm hồn dân tộc đã hòa hợp với nhau một cách kỳ diệu trong một nguồn cảm nghĩ chung từ trên hai ngàn năm nay, khắn khít nhau, gắn bó nhau như hình với bóng, như keo với sơn. Nguồn cảm nghĩ chung ấy đã, đang và sẽ còn dạt dào mãi trong dòng máu Việt, còn bàng bạc mãi trên luống đất Việt qua các biến cố thăng trầm của lịch sử Việt. Dù được thừa nhận là Quốc giáo hay không, lúc nào cũng như lúc nào, tinh thần phổ biến và tùy duyên của Phật giáo không vì sự thiên vị của thời đại hay những hình thức giả tạo bề ngoài mà ngưng thấm nhuần đời sống nội tâm của quảng đại quần chúng Việt, để cùng với quảng đại quần chúng ấy chung chia những nỗi vui buồn vinh nhục. Càng gặp bước khó khăn chung, nó lại càng tủy duyên phổ biến vào lòng đất Việt hơn, để hòa hợp với lòng dân Việt đang khao khát. Nghiễm nhiên, địa vị của Phật giáo Việt Nam là địa vị một Quốc giáo "bất thành văn", một Đạo của dân tộc vậy.
Với vấn đề Vũ trụ quan, Nhân sinh quan, chúng ta lại bước qua một địa hạt khác, địa hạt thuần lý. Đó là một vấn đề gai góc, không những đòi hỏi một kiến thức uyên thâm, một trí lượng vô tận mà còn đòi hỏi những phương tiện ngôn ngữ diễn đạt không hạn cuộc. Vì vấn đề này, các Triết gia xưa nay đã làm chảy nhiều mực, phí nhiều giấy, tốn nhiều hơi sức, nhưng cuối cùng vẫn chưa đi đến đâu. Vì sao? Vì vũ trụ vốn vô biên không ngằn mé; đem một trí lượng hữu hạn, có ngằn mé để ức đạt thì làm sao ức đạt tới được! Đó là chưa nói đến phương tiện ngôn ngữ không thể ra ngoài giới hạn nhỏ hẹp của nó. Chính vì lý do sau mà ngay trong Phật giáo, cách lập ngôn để kiến giải Vũ trụ, Nhân sinh cũng có nhiều điểm dị đồng. Tuy các Tổ đều đồng ý nhau trên các yếu điểm đại cương chung về Vũ trụ quan, Nhân sinh quan, song Tiểu thừa giáo, Đại thừ thủy giáo, Đại thừa chung giáo, Đại thừa đốn giáo, Đại thừa viên giáo, mỗi mỗi đều diễn đạt sai khác nhau. Sư sai khác đó, phải chăng vì cái lý viên dung của chúng sanh vô biên, của vũ trụ vô cùng?
Nay trình bày lại vấn đề này, chúng tôi chọn lấy những phần tổng quát, tham vọng rất nhỏ hẹp của chúng tôi là giúp quý Phật tử có một khái niệm tối thiểu, dùng làm kim chỉ nam, dùng làm đuốc soi đường cho vấn đề mà thôi. Ngọn đuốc do chúng tôi cung ứng ở đây, ánh sáng tuy le lói, song nó là ngọn đuốc đúng đắn, chắc chắn sẽ rọi đường cho quý vị trong công việc suy tầm nghiên cứu ngày mai, khi bước vào rừng giáo lý của các Tôn phái.
Từ khóa VI trở lên, chúng tôi sẽ đi sâu vào Kinh Luận. Theo chương trình Phổ thông này, chúng tôi không chú trọng theo thứ tự như "Tứ thời phán giáo" của ngài Thiên Thai hay "Ngũ thời phán giáo" của ngài Hiền Thủ, mà chỉ chú trọng vào sự nhu cầu cần thiết của quý Phật tử trong thực tế. vấn đề nào nên biết trước, chúng tôi giải thích trước, vấn đề nào nên giải thích sau, chúng tôi để lại sau. Nếu cần phải nói đến một loại thứ tự trong chương trình học này thì đây là một loại thứ tự riêng, nhắm một mục đích rất thực tiễn là giúp quý Phật tử đạt được càng nhiều lợi ích càng hay trong việc học hỏi. Vì vậy mà chúng tôi chỉ tùy thời, tùy cơ cung ứng cho quý Phật tử một cây thang giáo lý thật sát với hoàn cảnh.
Đó là một việc làm, đòi hỏi nhiều sáng kiến, nhiều công sức, nhiều thời gian mà một số ít người không làm nổi. Vì vậy, chúng tôi tha thiết yêu cầu quý Thầy và quý Phật tử xa gần chung công góp sức giúp đỡ chúng tôi về mọi phương tiện tinh thần cũng như vật chất, để chúng tôi hoàn thành sứ mạng" "Tác Như Lai sứ, hành Như Lai sự".
Rất mong
Ban Hoằng Pháp
BÀI THỨ NHẤT
LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
DÀN BÀI
A. MỞ ĐỀ
Muốn hiểu rõ và truyền bá giáo lý Phật đà một cách có hiệu quả, chúng ta cần học lịch sử Phật giáo.
B. CHÁNH ĐỀ
I. Sự khai nguồn của Giáo chủ Thích Ca
1 Tình trạng xã hội đen tối và tư tưởng phức tạp ở Ấn Độ khi Đức Phật ra đời.
2 Đức Phật Thích Ca, vị Giáo chủ của Đạo Từ bi và Trí tuệ.
a) Niên lịch giáng sinh.
b) Quốc độ và dòng học.
c) Hình tướng và tư chất.
d) Xuất gia.
e) Thành đạo và thuyết pháp độ sinh.
g) Phật nhập Niết-bàn.
II. Lịch sử truyền bá Phật giáo tại Ấn Độ
1 Bốn kỳ kết tập kinh điển.
2 Nam phương và Bắc phương Phật giáo.
3 Sự phát triển của Tiểu thừa và Đại thừa Phật giáo.
4 Sự suy tàn của Phật giáo tại Ấn Độ.
C. KẾT LUẬN
Nguồn ánh sáng phát huy từ Ấn Độ đã được lan tràn trên các nẻo đường thế giới.
LỊCH SỬ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
A. MỞ ĐỀ
Khao khát cái tuyệt đối, khinh thường cái cái tương đối; mong cầu cái vĩnh viễn trường tồn, ruồng bỏ cái biến chuyển vô thường, người Viêt Nam nói riêng và người Á Châu nói chung đã được huân tập mấy ngàn năm trong một thái độ tư tưởng như trên, nên đã xem thường lịch sử, là một môn học theo sát sự biến chuyển vô thường của sự thế, mà mục đích là mong ghi chép một cách trung thành những gì đã mất hút trong bóng tối của thời gian.
Quan niệm khinh thường lịch sử ấy đã đem lại cho chúng ta nhiều điều tai hại không nhỏ. Chúng ta đã bỏ mất bao nhiêu bài học quý giá mà ông cha chúng ta đã mua với một giá rất đắt; chúng ta đã mất rất nhiều liên lạc với quá khứ, tắc mất đường thông cảm với người xưa, và đang lạc loài trong hiện tại vì không biết nên bỏ con đường nào và nên theo con đường nào. Người ta thường nói rất đúng: Một dân tộc không quá khứ, thì cũng khó mà có tương lai.
Riêng trong phạm vi Phật giáo chúng ta, tìm về cho đúng nguồn gốc, thử vạch lại con đường đi truyền giáo của ông cha, xây dựng lại mô hình của một thời đại huy hoàng của Phật giáo, đó là những công việc vô cùng khó khăn, nhọc mệt.
Nhưng mặc dù mệt nhọc, khó khăn, không lẽ thấy vết xe đổ của người xưa mà nay chúng ta không tránh, cứ nhắm mắt đi càn? Người xưa đã xem thường lịch sử, ngày nay trái lại, chúng ta phải dành cho nó một địa vị quan trọng. Có thấy rõ được nguồn gốc, sự phát triển, những thời đại thịnh suy của một tôn giáo, chúng ta mới hiểu rõ được giá trị chân thật của tôn-giáo ấy. Nhất là nếu chúng ta là những người có nhiêm vụ truyền bá giáo lý của Phật-đà, thì hơn ai cả, chúng ta phải học lịch sử Ðạo Phật để tìm hiểu lẽ thịnh suy, nguyên nhân những thành bại của công cuộc hoằng dương chánh pháp trên khắp năm châu, hầu bắt chước những điều hay có lợi cho Ðạo, bỏ những điều dở, có hại cho Ðạo, để Phật Pháp được hoằng truyền mãi mãi với thời gian.
Vậy trước tiên, chúng ta hãy trở về nguồn, tuần tự đi theo bước chân trên đường truyền giáo, từ khi Ðức Giáo chủ Thích Ca mới xuất thế ở Ấn Ðộ, dần dần qua Trung Hoa, rồi đến Việt Nam, để cuối cùng có một ý niệm tổng quát về hiện tình Phật giáo ở nước nhà và trên thế giới phức tạp ngày nay.
B. CHÁNH ĐỀ: PHẬT GIÁO Ở ẤN ĐỘ
I. SỰ KHAI NGUỒN CỦA ĐỨC GIÁO CHỦ THÍCH CA
1 Tình trạng xã hội đen tối và tư tưởng phức tạp ở Ấn Ðộ khi Đức Phật xuất thế. Xét về sự bất công trong xã hội trên 2500 năm trước đây, thì xã hội Ấn Ðộ có lẽ là một trong những xã hội có một chế độ xã hội và chính trị bất công nhất. Dân chúng Ấn Ðộ thời bấy giờ bị phân chia rất nhiều giai cấp khác nhau, tựu trung có thể liệt vào những giai-cấp chính sau đây:
a) Bà-la-môn (Brhmanes) gồm những Giáo sĩ, những người giữ quyền thống trị tinh thần, phụ trách về lễ nghi, cúng bái. Họ tự nhận mình là hạng cao thượng, sinh từ lỗ miệng Phạm Thiên (Brahma), thay Phạm Thiên cầm cương lãnh đạo tinh thần dân tộc, nên có quyền ưu tiên được tôn kính, và an hưởng cuộc đời sung sướng nhất.
b) Sát-đế-lỵ (Kastryas) là hàng Vua Chúa quý phái, tự cho mình sinh từ cánh tay Phạm Thiên, thay mặt cho Phạm Thiên nắm giữ quyền hành thống trị dân chúng.
c) Vệ-xá (Vaisyas) là những hàng thương gia chủ điền, tin mình sinh ra từ bắp về Phạm Thiên, có nhiệm vụ đảm đương về kinh tế trong nước, mua bán, trồng trọt, thu huê lợi cho quốc-gia.
d) Thủ-đà-la ( Souđras) là hàng hạ tiện, nô lệ tin mình sinh từ gót chân Phạm Thiên, nên thủ phận làm khổ sai suốt đời cho các giai cấp trên.
Ngoài bốn giai cấp trên, còn có một hạng người hà tiện nhất là giống Ba-ri-a (Pariahs) giống dân tộc mọi rợ, bị coi như sống ngoài lề xã hội loài người, bị các giai cấp trên đối xử như thú vật, vô cùng khổ nhục, tối tăm.
Năm giai cấp này mặc y phục màu sắc khác nhau. Mỗi giai cấp sống theo luật lệ hệ thống cha truyền con nối, không được thay đổi nghề nghiệp hay cưới hỏi lẫn nhau, và không được di chuyển chổ ở khác. Theo luật Bà-la-môn, chỉ ba giai cấp trên có quyền đọc kinh, học đạo, còn hai giai cấp dưới thì đời đời chỉ làm nô lệ cho ba giai cấp trên mà thôi.
Hạng Bà-la-môn hưởng sung sướng nhàn hạ bao nhiêu, thì đám người hạ tiện ở dưới lại khổ sở, nhục nhã bấy nhiêu. Sự bất công xã hội thật không thể nào diễn tả nổi. Giữa người với người, thật không có một nhịp cầu thông cảm nào, nguồn yêu thương tắc nghẹn, giai cấp này đối với giai cấp khác là địch thủ mà càng bóc lột được bao nhiêu lại càng tốt bấy nhiêu.
Về phương diện tôn giáo, triết học, tư tưởng thì xã hội Ấn Ðộ thời bấy giờ cũng diễn ra một cảnh tượng vô cùng hỗn tạp. Về tín ngưỡng người thờ thần lửa kẻ thờ thần núi, thần sông, kẻ thờ thần gió, thần chớp, thần mặt trời. Về triết học, kẻ cho rằng Phạm Thiên là căn bản của vũ trụ, vạn hữu, kẻ cho rằng đất là căn bản, kẻ cho rằng nước là căn bản, kẻ cho rằng gió là căn bản… có phái đi xa hơn, từ cụ thể đến trìu tượng, lập ra những thuyết: Thời gian luận, Không gian luận, Phương hướng luận, chủ trương Nhất nguyên, Nhị nguyên, Đa nguyên… Gồm một trăm phái khác nhau, luôn luôn đả kích chống báng nhau.
Tóm lại, xã hội Ấn Ðộ lúc bấy giờ là một xã hội về vật chất thì đang rên siết dưới ách bất công, áp bức, về tinh thần thì đang quay cuồng, điên đảo trong những luồng tư tưởng lý thuyết rối ren, tà vạy. Xã hội ấy đang khao khát tình thương và bình đẳng, đang mong chờ được chói rạng dưới ánh sáng của trí huệ.
Trong hoàn cảnh ấy, Ðức Phật Thích Ca đã xuất hiện đúng lúc để cứu vớt cõi đời sầu khổ.
2 Ðức Phật Thích Ca,vị Giáo chủ của Ðạo Từ-bi và Trí huệ:
a) Niên lịch giáng sinh. Như chúng ta đã nói ở phần mở đề, người Phật tử chúng ta không cho vấn đề lịch sử là quan trọng; lại thêm trải qua một thời gian lâu dài từ khi Ðức Phật xuất hiện đến nay, tài liệu bị thất lạc nhiều, nên có nhiều thuyết khác nhau về niên lịch giáng sinh của Ðức Phật.
Tuy thế, ngày nay để được thống nhất toàn vẹn về niên lịch Phật giáo, Đại hội lần thứ II của Tổng hội Phật giáo thế giới họp tại Ðông Kinh năm 1952, đã thỏa thuận rằng ngày trăng tròn tháng hai của xứ Ấn Ðộ (tức ngày rằm tháng tư âm lịch) năm 624 trước Jésus Christ ra đời là ngày Ðản sanh của Ðức Phật Thích Ca. Như vậy, tính đến năm nay (2009) thì Ðức Phật giáng sinh đã được 2633 năm (2009 + 624). Nhưng nếu chúng ta thấy ghi Phật lịch 2553 (tính đến năm Tây lịch là 2009) là vì Tổng hội Phật giáo Quốc tế lấy năm nhập Niết-bàn của Ðức Phật làm năm đầu kỷ nguyên, chứ không phải lấy năm sinh (2633 – 80 năm đời Ðức Phật = 2553).
b) Quốc độ và dòng họ. Thời bấy giờ xứ Ấn Ðộ gồm nhiều tiểu quốc, khi hòa khi chiến với nhau như đời Chiến quốc bên Trung Quốc. Tuy thế, đại cuộc vẫn thu về nước Ma Kiệt Đà (Magatha) như nhà Chu ở Trung Quốc đối với các nước chư hầu vậy. Nước này lớn nhất ở phía nam sông Hằng-hà (Gange) làm trung tâm cho toàn xứ Ấn Ðộ. Ở phía Bắc xứ Ấn Ðộ, gần dưới chân dãy núi Hy-mã-lạp-sơn (bây giờ là nước Népal) có một Quốc độ tên là Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu). Vua trị vì nước này là Tịnh Phạn Vương (Sudhodana) thuộc giai cấp Sát-đế-lỵ (Kastrya) dòng Kiền-tất-la (Gotama) là một đại quý tộc ở Ấn Ðộ. Bà Hoàng hậu, vợ của vua Tịnh Phạn là Ma Da (Maha-maya) đến bốn mươi lăm tuổi mới có thai.
Theo tục lệ Ấn Ðộ, gần ngày sinh, Hoàng hậu trở về nhà cha mẹ là vua A Nậu Thích Ca (Anucakya) ở nước Câu-ly (Koli). Một buổi bình minh, Hoàng hậu ra dạo chơi trong vườn hoa Lâm Tỳ Ni (Lumbini) và sinh hạ Thái Tử ở đấy. Thái Tử được đặt tên là Tất Ðạt Ða (Siddharta) và theo tục lệ Ấn Ðộ lấy họ mẹ là Thích Ca (Cakya). Sau khi đản sanh Thái Tử Tất Ðạt Ða được bảy ngày, Hoàng hậu Ma Da tạ thế. Em gái của Hoàng hậu là Ma Ha Ba Xà Ba Ðề (Maha-Prajapati) thay chị nuôi dưỡng Thái Tử Tất Ðạt Ða cho đến lớn.
Thái-tử Tất Ðạt Ða, sau này tức là Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni, vị Giáo chủ Từ-bi và Trí-huệ của Ðạo Phật.
c) Hình tướng và tư chất. Hình tướng của Thái Tử có những nét đặc biệt hơn người thường: Ngài có ba mươi hai tướng quý và tám mươi vẻ đẹp. Cho nên khi xem tướng Ngài, Ðạo sĩ A Tư Ðà (Asita) đã tiên đoán sau này Ngài sẽ thành Phật, làm chủ cả tam thế, dắt đường chỉ nẻo cho chúng sinh thoát khỏi bể khổ luân hồi.
Thuở thơ ấu, tư chất thông minh và tánh tình đức độ của Ngài đã biểu lộ một cách rỏ rệt. Những Ðạo sĩ thông thái, những võ sĩ tài danh đều được vua Tịnh Phạn mời đến dạy cho Thái Tử; và chẳng bao lâu Thái Tử đã trở thành một vị văn võ toàn tài, không ai sánh kịp.
Cùng một nhịp với tài năng, đức độ của Ngài cũng được phát triển một cách vô cùng nhanh chóng và sâu rộng. Tình thương của Ngài lan tràn, bao phủ tất cả mọi vật mọi người.
Và cũng do tư chất thông minh nhìn thấy rõ được tánh cách giả dối, vô thường của sự thế, và lòng thương vô hạn, không thể ngồi yên để nhìn thấy sự rên siết, khổ đau của cõi đời, nên tâm hồn của Ngài không bao giờ được yên ổn. Ngày đêm, Ngài luôn luôn nghĩ đến phương pháp cứu khổ cho chúng sinh.
Để làm khuây -khỏa lòng con, vua Tịnh Phạn truyền dựng lên một cung điện nguy nga, bày đủ trò đàn ca múa hát bao vây lấy Thái Tử, và còn cưới cho Ngài một người vợ tuyệt thế giai nhân là nàng Da Du Ðà La (Yosodhara) nhưng Thái Tử vẫn không khuây nổi buồn mênh mông của cõi thế.
d) Xuất gia. Năm Ngài mười chín tuổi (có chỗ nói 29 tuổi) sau khi đã để lại cho Tịnh-Phạn vương một người cháu nội là La Hầu La (Lahula).Thái Tử quyết định rời bỏ Hoàng gia, từ bỏ cuộc đời vinh hoa phú quy, trốn ra khỏi hoàng thành, cắt tóc vào rừng sâu mong được yên tĩnh để tìm nghĩ phương pháp cứu độ chúng sinh thoát khỏi vòng khổ ải và đưa họ lên bờ giác ngộ vĩnh viễn yên vui. Ban đầu Ngài phải đi tìm học hỏi với những Đạo sĩ danh tiếng nhất Ấn Ðộ thời bấy giờ, nhưng rồi Ngài nhận thấy chân lý và lối tu hành của họ cũng không có gì là siêu thoát. Từ đó, Ngài đi vào ẩn trong dãy núi Tuyết Sơn, phải tự mình tu luyện để tìm ra cái đạo giải thoát như ý Ngài mong muốn. Trong sáu năm trời tu khổ hạnh, Ngài cũng chưa thu thập được kết quả gì khả quan. Bấy giờ, Ngài mới đi đến núi Tượng-đầu (Gajasirsa) bên bờ sông Ni-liên-thuyền. Sau khi tắm rửa xong, Ngài thọ bát cháo sữa (đề-hồ) của mấy nàng mục nữ cúng. Rồi Ngài đi đến dưới gốc cây Tất-bát-la (Pippala, sau này người đời gọi là cây Bồ-đề nghĩa là cây Giác ngộ, để kỷ niệm sự giác ngộ của Ðức Phật dưới gốc cây ấy). Ngài ngồi thiền định ở đó và thề rằng:
“Nếu Ta ngồi đây mà không chứng được đạo quả, thì dù thịt nát xương tan,ta quyết không bao giờ đứng dậy”.
d) Thành đạo và thuyết pháp độ sinh. Ngài ngồi thiền định dưới gốc cây Tất-bát-la, cho đến ngày thứ bốn mươi chín, lúc sao mai vừa mọc, thì Ngài hốt nhiên đại ngộ, thấy rõ được chân lý của vũ trụ và nguồn gốc sinh tử của chúng sinh. Ngài đã thành Phật với danh hiệu là Phật Thích Ca-Mâu Ni (Cakya Muni).
Sau khi thành đạo trong khoảng thời gian bốn mươi chín năm (có chỗ chép là bốn mươi lăm năm) Đức Phật chu du khắp cả các lưu vực sông Hằng, đem đạo vô thượng của Ngài giáo hóa chúng sinh, không phân biệt già trẻ, nam nữ, giàu nghèo, sang hèn, màu da, chủng tộc, trí thức hay ngu si.
Nhờ lòng từ bi không bờ mé, đức hy sinh rộng lớn vô biên, Ngài đã giảng nói pháp trên năm trăm hội, hóa độ vô số quần sinh, thoát vòng mê mờ khổ não. Và do đó, đạo Phật được thành lập trên cõi đời.
e) Phật nhập Niết-bàn. Vào năm 554 năm Trước tây-lịch (tính đến năm 2009 tức là: 2009 + 554 = 2633 năm) Ðức Phật bây giờ đã 80 tuổi. Nhận thấy chí nguyện của mình đã thực hiện, nhiệm vụ độ sinh của mình đã đầy đủ, một hôm, Đức Phật cho hội đệ tử của Ngài lại, ban những lời di chúc cặn kẽ, rồi từ giã cõi đời một cách bình thản, giản dị móc ở giữa hai cây bông vải (Cala) ngoài châu thành Câu-thi-la (Kusivagarâ).
Như thế ấy, một cuộc đời vô cùng vĩ đại đã xuất hiện và biến ẩn như một luồng ánh sáng mầu nhiệm khi đã đánh dấu ba giai đoạn lớn một cách vô cùng giản dị và đầy ý nghĩa:
Ra đời bên cạnh một gốc cây.
Thành đạo bên một gốc cây.
Và lìa đời ở giữa hai cành cây !
II. LỊCH SỬ TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ
1 Bốn thời kỳ kiết tập kinh điển. Sau khi Đức Phật nhật Niết-bàn, các vị đệ tử của Đức Phật đã tiếp tục thay phiên nhau nêu cao ngọn đuốc giác ngộ để dắt dẫn quần sinh và tiếp nối sự nghiệp "truyền đăng" cho đến ngày nay.
Trước tiên chúng ta hãy nói đến bốn thời kỳ kết tập kinh điển tại Ấn Độ.
a) Thời kỳ kết tập thứ nhứt. Bốn tháng sau khi Ðức Phật nhập Niết-bàn, Ngài Ma Ha Ca Diếp (Maha Kasypa) thay Phật thống suất tăng chúng, đã triệu tập một hội nghị gồm khoảng 500 đại đệ-tử của Phật, ở thành Vương-xá (Rajagrika) để giảng tụng lại những giáo lý mà Ðức Phật đã dạy. Trong hội nghị đầu tiên này, Ngài Ma Ha Ca Diếp được suy tôn ngồi ghế chủ tọa; Ngài A Nan, là vị đệ tử thường theo Phật nghe nhiều và nhớ lâu, được cử ra tụng lại những lời dạy của Phật; còn Ngài Ưu Ba Ly (Upali) là vị đệ tử thông suốt và nghiêm trì giới luật nhất, được cử ra trùng tụng giới luật. Hội nghị này đã kết thúc sau bảy tháng làm việc và 500 vị đại đệ tử đều công nhận đó là những lời chân thật của Phật.
Ðại hội này được mệnh danh là “Kỳ kết tập thứ nhất”.
b) Kỳ kết-tập thứ hai. Khoảng một trăm năm sau khi Phật nhập diệt , vì có sự bất đồng ý kiến về giới điều, nên Tăng chúng chia làm hai nhóm, họp riêng ở hai thành Vaisaly và Vàjji.
Nhóm Tăng sĩ họp ở thành Vaixaly do sự triệu tập của Ngài Trưởng lão Yasa thọ 165 tuổi, gồm có 12.000 Tăng sĩ, nhưng trong số ấy chỉ có 700 vị lão thành mới có quyền biểu quyết. Hội nghị này họp dưới quyền chủ tọa của Ngài Revala và đồng thanh biểu quyết: “Không nên sửa đổi cho sai những điều luật của Phật đã truyền dạy, mặc dù Ðức Thế Tôn đã có di huấn rằng nếu chư Tăng đồng ý cùng nhau là thấy điều luật nào của Như Lai đã chế định là ít quan trọng và không thể thụ trì được nữa, thì được phép sữa chữa”.
Trong khi ấy thì nhóm Tăng sĩ ở thành Vajji họp dưới quyền chủ tọa của Đại đức Vajjiputra lại chấp thuận. Trong kỳ kết tập thứ hai này chỉ đặt trọng tâm trong việc giải quyết về giới luật mà thôi. Tuy thế, Tăng đồ cũng chia thành hai phái rõ rệt. Phái do Ngài Yasa triệu tập và giữ đúng giới luật của Phật, thì gọi là phái Nguyên thủy (Théravadins) hay Thượng Tọa bộ.
Phái do Ngài Vajjiputra sửa đổi mười điều luật của Phật thì gọi là phái Tiến thủ, hay là Ðại Chúng bộ (Mahasanghikas).
Từ đấy, Phật Giáo chia ra hai phái rõ rệt và là cội rễ cho hai mươi tôn phái sau này.
c) Kỳ kết-tập thứ ba. Hơn hai thế kỷ sau ngày Phật nhập-diệt (274 năm trước Tây lịch), Hoàng đế A Dục lại triệu tập một ngàn vị Ðại Trưởng lão uyên thâm để kết tập Kinh điển tại thành Pataliputra (tức là Bihar và Patra ngày nay) duới quyền chủ tọa của Ngài Mục Kiền Liên Tu Ðế( Mogaliputta Tissa). Sau chín tháng làm việc, hội nghị đã hoàn thành công tác kết tập Kinh điển, ngoài ra lại còn chỉnh đốn Tăng giới, bài trừ những hạng Tu sĩ phạm trai, phá giới, vô kỷ luật.
d) Kỳ kết-tập thứ tư. Vào khoảng 600 năm sau khi Phật nhập diệt, nghĩa là vào thế kỷ thứ nhất Tây lịch,Vua Ca Ni Sắc Ca (Kaniska) một vị Ðại đế Ấn Ðộ, có tâm hộ pháp chẳng thua gì Vua A Dục, đã triệu tập 500 vị Bồ-tát, 500 vị Tỳ-kheo cùng 500 người tại gia Cư sĩ, tại thành Ca Thập Di La để kết tập Kinh điển dưới quyền chủ tọa của hai Ngài Hiếp Tôn Giả và Thế Hữu.
Kỳ kết tập này gọi là kỳ kết tập lần thứ tư.
Trong bốn kỳ kết tập này thì hai kỳ đầu chưa cần đến sự biên chép, nghĩa là chỉ đọc tụng lại, xem lời lẽ nào là của Phật đã nói ra, hay xét những ý nghĩa nào là đúng với chánh pháp.
Ðến thời kỳ thứ ba và thứ tư mới dùng đến văn tự để biên chép thành sách vở. Trong sự biên chép này, chư Tăng chia làm hai phái: Phái Nam thì ghi bằng văn Pali, còn phái Bắc thì ghi bằng văn Phạn.
2 Nam phương và Bắc phương Phật Giáo. Như trên đã nói, vì Kinh điển được ghi chép bằng hai thứ văn: Pali và Phạn, nên những xứ nói tiếng Pali thì Kinh điển bằng Pali văn được truyền bá, còn những xứ dân chúng nói tiếng Phạn thì Kinh điển bằng Phạn văn được truyền tụng. Nếu lấy Trung Ấn Ðộ là cứ điểm, thì những xứ phía Nam Ấn Ðộ và lan ra đến những xứ Tích Lan, Miến Điện, Thái Lan, Ai Lao, Cao Miên… đều theo Kinh điển Pali, nên cũng gọi là Nam phương Phật Giáo.
Còn những xứ thuộc Trung Ấn Ðộ, Bắc Ấn Ðộ và lan ra đến Népal, Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Cao Ly, Nhật Bổn… thì lại căn cứ theo Kinh điển chữ Phạn, và được gọi là Bắc phương Phật Giáo.
Nam phương hay Bắc phương Phật giáo đều thờ chung một đấng Giáo chủ là Ðức Phật Thích Ca và đều tuân theo những yếu điểm mà Phật đã dạy. Tuy thế, tùy theo căn cơ, tâm lý và ảnh hưởng văn hóa cùng đời sống của dân chúng có khác nhau giữa Nam và Bắc phương mà phương pháp tu hành và sự phát huy giáo lý có điểm dị và đồng. Bắc phương phần nhiều đi về lối tung hoành, phát triển phóng túng không câu nệ về hình thức. Nam phương thì lại có tánh cách thủ cựu, trung thành với Phật giáo Nguyên thủy, tôn trọng hình thức. Do đó mà có hai phái: Tiểu thừa Phật giáo ở Nam-phương và Ðại thừa Phật giáo ở Bắc phương.
3 Sự phát triển của Ðại thừa và Tiểu thừa. Ở đây vì chúng ta còn đang ở trong phần lịch sử truyền bá Phật giáo, nên chưa vội đề cập đến sự sai khác giữa giáo lý Ðại thừa và Tiểu thừa. Chúng ta hãy khu biệt vấn đề và nói đến sự phát triển của hai phái ấy ở Ấn Ðộ như thế nào mà thôi.
a) Sự phát triển của các bộ phái Tiểu thừa. Như chúng ta đã biết, nguyên nhân Tiểu thừa chia ra làm hai bộ phái, vì trong kỳ kết tập lần thứ hai, về vấn đề giới luật có chổ bất đồng, Tăng chúng mới chia ra làm hai phái: Một phái gồm các vị Trưởng lão gọi là Thượng Tọa bộ; và một phái gồm phần nhiều các vị Tăng sĩ trẻ tuổi, nhưng rất đông đảo, gọi là Ðại Chúng bộ.
Trong khoảng thời-gian 100 năm sau kỳ kết-tập lần thứ hai ấy, Ðại Chúng bộ lần lượt chia ra tám bộ phái như sau:
Lần thứ nhất chia làm ba bộ:
Nhất thuyết bộ.
Thuyết xuất thế bộ.
Kê dẫn bộ.
Lần thứ hai chia ra làm một bộ nữa là: Ða văn bộ.
Lần thứ ba chia ra một bộ nữa là: Thuyết giả bộ.
Lần thứ tư lại chia ra làm ba bộ nữa là:
Chế đa bộ.
Tây sơ bộ.
Bắc sơn bộ.
Như thế là từ một bộ phái chính là Ðại Chúng bộ mà lần lượt chia làm tám chi bộ (cộng là 9 bộ).
Trong lúc ấy thì bên Thượng Tọa bộ ban đầu sống một cách yên ổn trong núi Ca-Thấp-di-la, nhưng theo với thời gian, cũng phân phái dần, và cuối cùng gồm những bộ như sau:
Thuyết nhứt thế hữu bộ.
Ðộc tử bộ.
Pháp thượng bộ.
Hiền vị bộ.
Chánh thượng bộ.
Mật lâm sơn bộ.
Hóa địa bộ.
Pháp tạng bộ.
Âm quang bộ.
Kinh lượng bộ.
Tóm lại, bên phía Thượng Tọa bộ, từ căn bản (Thượng Tọa bộ) đến chi nhánh, gồm cả thảy 11 bộ.
Nếu tổng cộng cả Thượng Tọa bộ lẫn Ðại Chúng bộ, thì Tiểu-thừa gồm cả thảy là hai mươi bộ.
b) Sự phát triển của phái Ðại thừa. Mặc dù trong giáo lý của Ðức Phật có gồm cả ý nghĩa Tiểu thừa lẫn Ðại thừa, nhưng trong bốn, năm thế kỷ đầu của Phật lịch, vì căn cơ của Tăng sĩ và Tín đồ Ấn Ðộ thích hợp với Tiểu thừa hơn, nên giáo phái Tiểu thừa được phát triển mạnh. Nhưng từ thế kỷ thứ nhất Tây lịch, hay thứ sáu Phật lịch, giáo lý Ðại thừa bắt đầu phát triển mạnh ở phía Bắc Ấn Ðộ và dần dần lan rộng ở Bắc phương.
Công đầu tiên, nhờ đó Ðại thừa Phật giáo được phát triển mạnh là của Ngài Mã Minh.
Ngài Mã Minh, người ở Bắc Ấn Ðộ, sanh vào thế kỷ thứ nhất Tây lịch, lúc đầu theo ngoại đạo, có tài biện bác, sau vì biện luận thua Ngài Hiếp Tôn Giả, nên mới quy y theo Phật giáo. Chính Ngài là tác giả bộ luận Ðại Thừa Khởi Tín, Ðại Thừa Trang Nghiêm Kinh luận, và nhờ sự hộ pháp đắc lực của Vua Ca Ni Sắc Ca,Ngài đã phục hưng và truyền bá môt cách mạnh mẽ giáo lý Ðại thừa.
Một trăm năm sau, nối tiếp sự nghiệp của Ngài Mã Minh, có Ngài Long Thọ ở nước Tỳ Đạt La (Nam Ấn Ðộ) có thiên tư rất tốt, lúc còn nhỏ đã thông hiểu những kinh giáo của Bà-la-môn, Phệ-đà…, tinh-thông cả Thiên văn, địa lý, y học, số học. Ban đầu Ngài tu theo Tiểu thừa, sau Ngài nghiên cứu giáo lý Ðại thừa và làm ra những bộ luận Trung quán, Thập nhị môn, Trí-độ… để phá trừ tà chấp, chỉ rõ chánh lý Ðại thừa, và đi chu du các nước để hàng phục ngoại đạo. Ðại thừa nhờ đó ngày một thêm tỏ rạng.
Nối nghiệp Ngài Long Thọ có hai vị đệ tử là Ngài Long Trí và Ðề Bà là những người có công lớn trong việc phát dương Ðại thừa.
Sau khi Phật nhập Niết-bàn hơn 900 năm, nghĩa là khoảng thế kỷ thứ tư Tây lịch, có hai anh em Ngài Vô Trước và Thế Thân, sanh ở Bắc Ấn Ðộ, trước theo Bà-la-môn giáo, sau quy y theo Phật.
Ngài Vô Trước là anh, giác ngộ giáo lý Ðại thừa trước, còn Ngài Thế Thân ban đầu tu học giáo lý Tiểu thừa, sau nhờ anh là Ngài Vô Trước hướng dẫn sang Ðại thừa. Từ đó hai anh em tích cực phát dương giáo nghĩa Ðại thừa Duy thức và làm ra các bộ: Hiển Dương Thánh Giáo luận, Nhiếp Ðại thừa luận… cả hai Ngài đều chủ trương về Duy thức, biện rõ cái lý: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. Do đó, học thuyết của hai Ngài gọi là Pháp tướng Duy thức học, và hai Ngài được xem như là khai tổ của Pháp tướng Duy thức học.
Ảnh hưởng của hai Ngài nối tiếp lan rộng sang đến thế kỷ thứ 10 Tây lịch và làm cho Ðại thừa Phật giáo ở Ấn Ðộ được phát triển một cách rực rỡ, và làm lu mờ giáo lý Tiểu thừa.
4 Sự suy tàn của Phật giáo tại Ấn Ðộ. Vào khoảng hai ngàn năm sau khi Phật nhập diệt, Đạo Phật ở Ấn Ðộ lu mờ dần và hầu như không còn vang bóng gì nữa. Nguyên nhân của sự suy tàn ấy có thể quy vào ba lý do sau đây:
a) Ðạo Bà-la-môn, trước thời kì Ðức Phật xuất hiện là một Tôn giáo độc tôn ở Ấn Ðộ. Nhưng từ khi Đạo Phật ra đời và càng ngày càng được phát triển mạnh vì tinh-thần từ bi bình đẳng và ánh sáng rực rỡ của trí huệ. Ðạo Bà-la-môn mất dần thanh thế và lui mãi vào trong bóng tối. Nhưng những vị lãnh đạo tôn giáo ấy không ngã lòng, một mặt họ lo tu chỉnh giáo lý của họ, một mặt họ thanh lọc hàng ngũ và dựa vào thế lực của chính quyền, dần dần họ chiếm lại địa vị cũ và hết sức bài xích Phật giáo.
b) Hồi giáo là một tôn giáo nguyên ở Thổ Nhĩ Kỳ (Turquie) khi đã xâm nhập Ấn Ðộ bằng quân sự, đã dùng những thủ đoạn khốc liệt để hủy diệt Chánh pháp, tàn hại Phật giáo bằng cách đập tháp, phá chùa, đốt Kinh điển, giết hại Phật tử. Do đó, Đạo Phật hầu như không còn chỗ đứng ở Ấn Ðộ nữa.
c) Lý do thứ ba là lý do nội lai. Nếu chỉ vì hai lý do ngoại lai nói trên, thì Đạo Phật ở Ấn Ðộ không dễ gì bị tiêu diệt một cách nhanh chóng như thế. Sự suy sụp Phật giáo ở Ấn Ðộ còn là sự suy đồi của Tăng giới, Phật tử thiếu tu thiếu học, thiếu tinh thần tiến thủ của giới lãnh đạo Phật giáo Ấn Ðộ lúc bấy giờ nữa.
Nếu sự phá phách ở bên ngoài không có sự gián tiếp tiếp tay phá hoại ở bên trong, thì Phật giáo ở Ấn Ðộ không diễn ra cái cảnh suy tàn hoang vắng như chúng ta đã thấy trong năm thế kỷ trước đây.
C. KẾT LUẬN
Ðức Phật đã dạy: có sanh thì có diệt, có thành thì có hoại. Vậy sau mười lăm thế kỷ hưng thịnh, Phật giáo ở Ấn Ðộ dần dần suy đồi cũng là một sự thường. Luật Vô thường chi phối tất cả những sự việc của đời này.
Và cũng do cái luật biến dịch, chỗ này khuyết thì chỗ kia bồi, làn sóng lặn ở chỗ này để hưng ở chỗ khác. Ðạo Phật đã chuyển đi từ trung tâm điểm là Ấn Ðộ để lan ra, hưng thịnh ở những nước khác, trước tiên là chung quanh Ấn Ðộ, rồi sang Trung Hoa và dần dần ra khắp thế giới.
BAN HOẰNG PHÁP
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét