PHAN – TRẦN TRUYỆN
VÔ DANH THI
Gõ và kiểm tra chính tả: Thằng Mõ (TVE)
Biên tập và tạo ebook: tducchau (TVE)
http://www.thuvien-ebook.com
MỤC LỤC
01. Mối liên lạc của họ Phan và họ Trần
02. Họ Phan và họ Trần đính-ước gả con cho nhau
03. Họ Phan sinh trai, họ Trần sinh gái
04. Phan-công và Trần-công cùng về hưu-trí
05. Phan-công dặn con trước khi đi thi
06. Phan sinh đi thi đỗ giải nguyên
07. Phan-sinh thi hội hỏng, lập chí đi du học để chờ khoa sau
08. Nỗi buồn của Phan-sinh trong khi du-học
09. Trần Kiều-liên chạy loạn hai mẹ con lạc nhau
10. Kiều-Liên gặp họ Trương đưa đến ở chùa lấy pháp-danh là Diệu-thường
11. Nỗi buồn của Diệu-thường trong khi ở chùa
12. Sư già khuyên giải Diệu-Thường
13. Diệu-Thường yên tâm nương-náu cảnh chùa
14. Phan-sinh đến thăm cô ở Kim-lăng
15. Phan-sinh được sư cô lưu ở chùa đọc sách
16. Phan Sinh gặp Diệu Thường lần đầu
17. Phan Sinh phải lòng Diệu Thường, nhờ vãi Hương Công làm mối
18. Diệu Thường mấy lần đều cự tuyệt vãi Hương Công
19. Thất vọng về tình Phan Sinh ốm tương tư
20. Nể sư già, Diệu Thường đến thăm bệnh Phan Sinh
21. Phan Sinh ốm bệnh cất lẻn đến tạ ơn Diệu Thường
22. Sau khi tỏ tình đôi bên đưa trâm quạt, đối chiếu nhận nhau
23. Phan sinh đi thi đỗ Thám hoa
24. Vinh qui cùng với vu qui một ngày !
25. Phan, Trần hai họ đoàn viên một nhà
01. Mối liên lạc của họ Phan và họ Trần
1.- Trên am thong-thả sách, cầm,
Nhàn nương án ngọc, buồn ngâm quyển vàng.
Thấy trong triều Tống Tĩnh-khang,
Một chàng Hòa-quận, một chàng Đàm-chu,
Bảng vàng, bia đá nghìn thu,
Phan, Trần hai họ,cửa nho dõi truyền.
Kể từ đèn sách thiếu-niên,
Một song tình nặng, một thuyền nghĩa sâu.
Tới tuần hội cả đua nhau,
10.- Bút-nghiên phỉ chí, cung dâu bằng nguyền.
Xem hoa rõ nẻo hồi triên,
Gió đưa hương dạ, sấm rền tiếng xa.
Ơn trên mưa tưới, móc sa,
Cùng làm Phủ-doãn một toà hiển-vinh.
Niềm công chính, dạ trung-trinh,
Nhân-dân sao phúc, triều-đình cột cao.
Ngay tin trời có phụ nào,
Tốt cung quan lộc, vượng hào thê-nhi.
Ứng điềm xà hủy, hùng bi,
20.- Hai nhà chính-thất một kỳ thọ-thai.
Cùng nhau mở tiệc vầy vui,
Huệ lan mừng mặt, trúc mai khoe mình.
Tưng-bừng nhịp sáo, nhịp sênh,
Điệu thông cao thấp, chén quỳnh đầy vơi.
02. Họ Phan và họ Trần đính-ước gả con cho nhau
Trỏ thề trên thẳm dưới khơi,
Cùng nhau chỉ dạ định lời thông gia.
Hai ta đồng học đồng khoa,
Đồng niên đồng cán một nhà đồng thân.
Đổi trao chỉ Tấn tơ Tần,
30.- Họ Phan thì quạt, họ Trần thì trâm.
Mai này dành để giao cầm,
Kẻo quên ước cũ kẻo lầm duyên xưa.
Bỗng may thay sự tình-cờ,
Khéo linh linh miệng, khéo như như lòng.
03. Họ Phan sinh trai, họ Trần sinh gái
Thẳm ngày khuất tháng vừa đông,
Phan phu-nhân mới khai giòng nước hoa.
Vườn xuân phơi-phới mưa sa,
Quế non Yên đã trổ ra một cành.
Sinh ra nam-tử tốt lành,
40.- Hai vai chĩnh-chện, ba đình nở-nang,
Đành thai phỉ chí bồng tang,
Đặt cho Tất-Chánh rõ ràng là tên.
Đông qua xuân thoắt báo tin,
Trần phu-nhân mới hé then động đào.
Một nàng tiên-nữ xinh sao !
M ày nghênh bán nguyệt miệng chào trăm hoa.
Miả chiều cung quế hằng-nga,
Trần-công mới đặt tên là Kiều-Liên.
Lửa hương đành để bén duyên,
50.- Lòng trời chiều cả hai bên ước cầu.
Tin đi mối lại cùng nhau,
Kẻ nâng-niu ngọc, người trau-chuốt ngà.
04. Phan-công và Trần-công cùng về hưu-trí
Lần lần hè lại thu qua,
Hai ông thắm-thoắt tuổi đà cao niên.
Tạ triều một thủ thi tiên,
Đem nhau xe hạc về miền hương quan.
Chia tay nam bắc băng ngàn,
Tới quê nhà đã hầu tàn ba trăng.
Đường đi khuất nẻo khơi chừng,
Tuyết sương mấy dặm, suối rừng bao nhiêu.
Dễ mà tin-tức dập-dìu,
Thì đem lòng thắm phú liều trời xanh.
Hãy nuôi con đến trưởng thành,
Sẵn còn trăm nghĩa, quạt tình chẳng quên.
Tơ hồng, lá thắm là duyên,
Dầu bao giờ gặp cũng nên bấy giờ.
Phan thì về chốn lầu thơ,
Khuyên con dòng-dã sớm trưa sách đèn.
Ôn đặt gối, Đổng vây màn
70.- Sớm nhuần kinh-sử, tối bàn văn-chương.
Trần thì về chốn phòng hương,
Dạy con canh-cửi việc thường nữ-công.
Hoa dưới trướng, gấm trên khung,
Gồm hay thi-lễ, lảu-thông cầm-kỳ.
Những mong khuya sớm kịp thì,
Hai nhà con đã đến kỳ xuân-xanh.
05. Phan-công dặn con trước khi đi thi
Phan-công mới dạy Phan-sinh,
Rằng: “Nhà ta nghiệp học-hành xưa nay.
“Bây giờ cha tuổi-tác này,
80.- “Mong con gặp hội rồng mây kịp người.
“Chớ tham tửu sắc chơi bời,
“Lụy mình vả lại thế cười người chê.
“Rày nghe thi tuyển đến kỳ,
“Bút nghiên dòng-dả vào thi họa là.
“Gặp thì thu nguyệt, xuân hoa,
“Làm sao cho trọn quyết khoa thì làm.
“Bõ công luyện-tập mới cam,
“Đừng nghe anh én, chớ nhàm nước mây,
“Nhân-duyên đã chiếc trâm này,
90.- “Của Trần-công để cho mầy đính hôn.
“Tuy rằng cách trở nước non,
“Hãy còn trăng bạc, hãy còn trời xanh.
“Đừng như Ngô-tướng, Từ-khanh.
“Quên bài thuốc dạy, phụ manh áo nguyền.
“Hãy cho công-nghiệp vẹn tuyền,
“Hóa rồng rồi sẽ rước tiên cũng vừa.”
Nghe lời”phụ-huấn sau xưa,
Phan-sinh từ tạ bấy giờ bước ra.
06. Phan sinh đi thi đỗ giải nguyên
Theo chân, đồng-tử năm ba,
100.- Con long-câu, cái tỳ-bà ruổi mau.
Pha non trúc, trải ngàn dâu,
Vàng hiu-hiu đón, ngọc làu-làu đưa.
Chào én sớm, hỏi nhạn trưa,
Ba tuần trăng đã, thì vừa tới nơi.
Phun châu nhả ngọc đua tài,
Giải-nguyên thoắt đã tên bài bảng ngay.
Đưa tin về đến nhà hay,
Tức thì lại tỏ đường mây tếch chừng.
Bảng xuân nay đã dự mừng,
110.- M uôn hồng nghìn tía tưng bừng đón ai
Qua dậm liễu, khỏi ngàn mai,
Ướm đào, hỏi mận tới vời thần-kinh.
Phồn-hoa thay, thú hữu tình,
Công-hầu xe ngựa, tường khanh lâu-đài.
Mây tuôn, sĩ-tử đòi nơi,
Mới hay thi mạng, học tài khéo xinh !
07. Phan-sinh thi hội hỏng, lập chí đi du học để chờ khoa sau
Lạ thay danh-giá như sinh,
Bảng người thì bốn, tên mình có ba.
Lòng trời còn dấm tài hoa,
120.- Khôi nguyên dành để đến khoa sau này.
Bước ra thẹn mặt châu mày,
Công danh đôi chữ dễ khuây-khỏa lòng !
Đi không lại trở về không,
Thẹn công chúng bạn, sợ cùng mẹ cha.
Chẳng bằng ta lập chí ta,
Ba thu thấm-thoát có là bao lâu.
Làm chi thắc-mắc thêm sầu,
Chim còn đón gió, rồng hầu đợi mưa.
Biết đâu miệng thế khôn lừa,
130.- Vén mây, nhẩy sóng bấy giờ sẽ hay.
Vả nghe Kim-cải độ này,
Trông lên đường cũ bụi bay lối về.
Mấy tài dẹp loạn phù nguy,
Tay mình thì chửa đến khi phất cờ.
Tống thần những mặt ngẩn ngơ,
Xôn-xao tơ trúc, thờ-ơ bác đồng.
Xanh-xanh chẳng giúp anh hùng,
Thì chi lũ kiến đàn ong tơi-bời.
Cho nên lẩn-thẩn quê người,
140.- Tìm nhà thanh-vắng, tiện nơi tập-tành.
Một đèn, một sách, một mình,
Bướm ong khuất nẻo, én anh khuây đường.
08. Nỗi buồn của Phan-sinh trong khi du-học
Ngậm-ngùi trông cảnh gia-hương.,
Đã thiên gợi nhớ, lại chương ngậm sầu.
Hơi gió lọt, bóng trăng thâu,
Đòi khi giở chiếc trâm nhau ra nhìn.
Nước non cách mấy dặm nghìn,
Biết lòng còn nhớ hay quên hỡi lòng ?
Chăn đơn, gối chiếc lạnh-lùng,
150.- Tưởng nhân-duyên ấy như vòng tơ vương.
09. Trần Kiều-liên chạy loạn hai mẹ con lạc nhau
Hay đâu tạo-hóa khôn lường,
Trần-công thoắt đã suối vàng. xa chơi.
Xót nàng mẹ goá con côi,
Phụng thờ hương khói chưa rồi ba năm.
Bỗng đâu binh lửa ầm- ầm,
Gió bay nhà bạc, cát lầm cửa thưa,
Lánh nàn, từng bước ngẩn-ngơ,
Mẹ già đầu bạc, con thơ má đào.
Ngày hỏi khách, tối trông sao,
160.- Dời chân bước thấp bước cao gập-ghềnh.
Thánh-tha bốn giọt lệ tình,
Biết đâu quen thuộc gởi mình được an.
Trải qua một quãng hàn-san,
Chênh-chênh nguyệt đã gác ngàn non mai.
Bỗng nghe trống giục, chiêng hồi,
Đêm khuya rừng rậm, rụng rời biết đâu ?
Pha-phôi dặm cúc, chòm lau,
Kẻ chân bãi nước, người đầu đỉnh non.
Con tìm mẹ, mẹ tìm con,
170.- Cỏ cây man-mác, nước non lạ-lùng !
Xót nàng thơ-yếu trẻ-trung,
Trời xanh nợ phụ má hồng chẳng bênh.
Một mình trong quãng rừng xanh,
Châu-chan má phấn, tằm oanh khúc vàng.
10. Kiều-Liên gặp họ Trương đưa đến ở chùa lấy pháp-danh là Diệu-thường
Tình cờ gặp ả họ Trương,
Ở Kim-lăng đến, hỏi nường thấp cao :
“Con người yểu-điệu thanh tao,
“Dáng sùi-sụt tủi, chìu ngao-ngán sầu !
“Tên gì, quê, họ nơi đâu ?
180.- “Gặp nhau xin ngỏ cho nhau biết cùng.”
Tưởng rằng cùng bạn má hồng,
Đoái thương nên mới gạn-gùng phân minh.
Gạt châu mới kể sự tình,
Nỗi quê cách trở, nỗi mình truân-chiên.
Chẳng cho biết họ tường tên,
Tưởng cơn-cớ ấy, tủi nền-nếp xưa.
Trương ràng: “Thân gái hạt mưa,
“Biết đem mình ấy bây giờ cậy đâu ?
“Gần đây có một cảnh mầu,
190.- “Nữ-trinh, chùa ấy ở đầu Kim-lăng.
“Thênh-thênh cửa bụt đâu bằng,
“Xuất gia tín-nữ, tiểu-tăng cũng đầy.
“Chớ nề dưa muối, am mây,
Hãy nương náu, khỏi nạn này là hơn !”
Giắt tay nàng đến thiền-môn,
Bạch sư mới kể hàn-ôn gót đầu.
Khêu đèn hạnh, thắp hương mầu ,
Chắp tay lạy phật, khấu đầu qui sư.
Sư rằng: “Này đạo Chân-như,
200.- Mênh-mông cửa bụt bi-từ hẹp ai .
“Đã rằng thụ giáo thiền-trai,
“Chớ nề dưa muối, chớ nài nem chanh.
“Tam-qui, ngũ-giới chứng minh,
“Xem câu nhân-quả, niệm kinh Di-đà,
“Sớm cúng quả, tối dâng hoa,
“Duyên xưa nỡ phụ, để già độ cho.”
“Trên tứ bảo, dưới tam đồ.”
“Lòng tin hai chữ nam-mô báo đền.”
Diệu-thường mới đặt là tên,
210.- Hay cho đưa xuống phòng thiền nghỉ-ngơi.
Nàng vâng thụ giáo như-lai,
Nhỏ to mới gi�! � ơn người họ Trương.
11. Nỗi buồn của Diệu-thường trong khi ở chùa
Thoắt thôi về chốn tĩnh-đường,
Buồn trông phong-cảnh tha-hương ngập-ngừng.
Kìa thì bụt, nọ thì tăng,
Chẳng hay từ-mẫu lạc chừng nơi nao ?
Than rằng: “Đội đức cù lao,
“Bể sâu mấy mấy trượng ? Trời cao mấy trùng ?
“Nếu sinh là kiếp đàn ông,
220.- “Thời tìm nước thẳm, non bồng quản chi ?
“Bởi sinh là phận nữ-nhi,
“Nghĩ thì càng tủi, nhớ thì luống thương.
“Từ-ô chim-chóc vật thường,
Còn mong kiếm chốn tìm đường trả ơn.
“Mưa sầu gió thảm từng cơn,
“Để ai chịu phận thờn-bơn một bề !
“Biết ai giãi tấm lòng quê ?
“Có chăng đợi đức từ-bi chuyển vần.”
Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần,
230.- Chạnh lòng xảy nhớ Châu, Trần nghĩa xưa.
Giãi-dầu kể mấy nắng mưa,
Thề phai, nguyền nhạt, bây giờ biết đâu ?
Quạt này ai để cho nhau,
Phong phong, mở mở giãi sầu làm khuây.
Chốn Lam-kiều cách nước mây,
Bùi-Hàng kia dễ biết đây nẻo nào ?
Non Thiên-thai mấy trượng cao,
Lưu-Lang chưa dễ tìm vào tới nơi.
Đã đành góc bể bên trời,
240.- Lân-la ngày bạc quá vời xuân-xanh.
Một mình những tủi duyên mình,
Nén hương biếng thắp, quyển kinh ngại nhìn.
12. Sư già khuyên giải Diệu-Thường
Phải khi sư-phụ bước lên,
Dè chừng mới hỏi rằng “duyên-cớ nào ?
“Ra chiều ủ liễu phai đào,
“Hạt châu lai-láng, quyển bào chưa phai.
“Hay là nhớ chốn Chương-đài,
“Xạ lan mùi cũ, hán hài thói xưa.
“Hay là nhớ nỗi mây mưa,
250.- “Ước ao nghĩa phượng, đợi chờ bạn loan ?
“Hay là tiếc thuở hồng-nhan,
“Sợ phai thức phấn, e tàn nhị hoa ?
“Hay là khổ-hạnh tương cà,
“Hư thân mâm ngọc đũa ngà bấy nay ?”
Diệu-Thường ren-rén thưa bày :
“Nỗi tôi, tôi bạch, lạy thầy, thầy thương.
“Loạn-ly từ cách gia-hương,
“Trông ơn thầy đã rộng đường bao-dong.
“Tưởng câu sắc sắc không không,
260.- “Dám đâu còn bận chút lòng gió trăng !
“Chỉn e từ-mẫu lạc chừng,
“Một mình chẳng biết suối rừng là đâu.
“Mẹ già bóng ngả cành dâu,
“Phòng khi sốt mặt, váng đầu cậy ai.
“Đã lo cầu khẩn bụt trời,
“Nào khoa cứu khổ, nào bài độ sinh.
“Càng trông càng vắng phong thanh,
“Lẽ nào hai chữ ân tình chẳng thương.”
Thầy rằng: “Bĩ thái khôn lường,
270.- “Trăng thường tròn khuyết, nước thường đầy vơi!
“Nhịn sầu mà gượng làm tươi,
“Kẻo khi nguyệt mỉa, hoa cười chẳng hay.
“Hãy tu vẹn quả phúc này,
“Đừng long tiết ngọc, chớ lay cơ huyền.
“Kià Điạ tạng, nọ Mục-Liên,
“Độ thân dẫu xuống cửu-tuyền cũng an.
“Lọ là người ở trần-gian,
“Đừng lo -lắng! nữa, chớ phàn nàn chi.
“Ở đây nhờ đức Từ-bi,
280.- Mẹ con ắt cũng có khi lại gần.”
13. Diệu-Thường yên tâm nương-náu cảnh chùa
Nàng nghe thầy dạy ân-cần,
Tát vơi bể Sở, khơi dần sông Nghiêu.
Muối dưa đắp-đổi ít nhiều,
Sớm khua mõ cá, tối khiêu chuông kình,
Vầng trăng bạc, ngọn đèn xanh,
Dâng hương ngũ-vị, tụng kinh tam-thừa
Nhân hẩy gió, đức nhuần mưa,
Vượn dâng quả cúng, chim đưa hoa mừng.
Đàn thông, phách suối vang lừng,
290.- Cá khe lắng kệ, chim rừng nghe kinh.
Mây phủ tán, liễu che mành,
Nước non Thiên-trúc, cung đình Bồng-lai.
Hoa thơm cỏ lạ đòi nơi,
Đã hay rằng cảnh có người mới yêu !
Vãng lai quan-khách dập-dìu,
Kẻ lên lễ phật, người vào bạch sư.
Nơi viết kệ, chốn đề thơ,
Mắt trần càng nhộn, lòng từ càng thanh.
Rửa không thế-tục thường tình,
300.- Một bình-tĩnh-thủy, một cành dương-chi.
Nhữ mong nương náu qua thì,
Biết đâu cơ-tạo, chắc gì nhân-duyên.
14. Phan-sinh đến thăm cô ở Kim-lăng
Ai ngờ một tấm tự-nhiên,
Có khi cũng động đến trên chuyển vần.
Hai phương chỉ Tấn, tơ Tần,
Bỗng đâu như giắt dần-dần lại cho.
Phan-sinh từ ở Thành-đô,
Lần lần nắng hạ, mưa thu từng ngày.
Nhớ song thân, ngậm-ngùi thay,
310.- Nhớ hương-thôn, cách nước mây mấy từng.
Nhớ xưa còn nhỏ nghe rằng :
Có cô tu ở Kim-lăng cũng gần.
Tức thì trỏ nẻo dời chân,
Thênh-thênh bãi bạc, lần lần dậm xanh.
Mới hay sơn thủy hữu tình,
Cỏ hoa đón khách, én anh đưa người.
Cửa chùa phơi-phới gần nơi,
Nhác trông cảnh bụt bầu trời lạ sao !
Chập-chồng quán thấp, lầu cao,
320.-Hương nghi-ngút tỏa, hoa ngào-ngạt bay.
Chuông rền, mõ ruổi, khánh lay,
Thông già điểm trống, trúc gầy khua sênh.
Thầy đương kinh-giáo tập-tành,
Diệu-Thường đứng tựa bên mành câu-lơn.
Nhác trông ra mái tam-quan,
Thấy chàng niên-thiếu lạc ngàn ngẩn-ngơ.
Lạ con mắt, hãy còn ngờ,
Thác mành-mành, hỏi: “Khách thơ quê nào ?
“Vả con người cửa mận đào,
330.- “Việc gì mà khéo tìm vào non sâu ?”
Sinh nghe khúm núm dưới lầu,
Gửi rằng: “Con cháu sang hầu sư cô.
“Trình tên tuổi, bạch duyên-do,
“Giở nông-nỗi trước, kể trò-chuyện sau.”
Sư nghe lặng ngắm giờ lâu,
Quyển vàng sẽ gác, hạt châu sụt-sùi.
Dạy rằng: “Hãy bước vào ngồi,
“Thế mà cô nghĩ là ai, vô tình !
“Mới thăm hỏi sự nhà mình,
340.- Anh thong-thả, chị bình-ninh, cô mừng.
“Khen ai tỏ nẻo đưa chừng,
“Cho con! lặn suối, băng rừng tới đây !
“Đây tuy thú mọn cỏ cây,
“Thanh nhàn cứ ở lâu ngày cũng quen.
“Gần cô cho tiện sách đèn,
“Lọ là khuất-nhiễu chốn phiền-hoa chi !
“Cũng đừng áy-náy lòng quê,
“Bao giờ áo gấm mặc về mới cam !
“Ngựa hồng, đai bạc, áo lam,
350.- “Trời cho, vả có chí làm thì nên !
“Phải khi hương lửa bén duyên,
“Bõ công tuổi-tác, rạng nền tổ-tông.”
15. Phan-sinh được sư cô lưu ở chùa đọc sách
Dạy thôi mới dặn Hương-Công,
Đưa chàng về mái tây phòng nghỉ chân.
Trải xem thú lạ chiều xuân,
Hoa kề cửa động, đá ngăn vách chiền.
Người thành-thị, kẻ lâm-tuyền,
Đòi phen thấy cảnh, đòi phen chạnh niềm.
Tưởng người nương cánh hé rèm,
360.- Gọi Hương-Công mới dò xem sự lòng :
“Ấy ai tầm thước trẻ-trung,
“Chực hầu sư-phụ đứng trong giảng-đường.
Bấy giờ e-lệ chưa tường,
“Lâu lâu lại thấy thoáng gương ả hằng ?”
Thấy lời, Hương mới thưa rằng:
“Người đâu chẳng biết, lạc chừng tới đây.
“Vả khi lỡ bước đường mây,
“Nàng Trương đưa lại chốn này qui-y.
“Khách đà về đạo từ-bi,
370.- “Nhìn làm chi ? hỏi làm chi ? hỡi chàng !
“Già nua thưa-thốt sỗ-sàng,
“Thôi thôi xin xuống tĩnh-đường hầu cô.”
Nghe lời sinh mới thẹn-thò,
Gượng thưa rằng: “Hãy xét cho, chớ cười.
“Lạ lùng nên mới hỏi chơi,
“Há rằng đã tận tình ai ru mà !”
Vãi Hương từ trở lại nhà,
Một mình chàng chốn lầu hoa, lại càng.
Thôi thắc-thỏm, lại mơ-màng,
380.- Đèn xanh một ngọn, quyển vàng ba con,
Biết ai mà được nỉ-non,
Tối than trăng chị, ngày đon gió dì.
Niềm riêng khôn chút tả đề,
Hoàng-oanh hót nhớ, tử-qui kêu sầu.
Bồi-hồi tháng trọn, ngày thâu,
Trong lòng đã vậy, trên đầu chưa hay.
16. Phan Sinh gặp Diệu Thường lần đầu
Bỗng may may khéo là may,
Nhác trông ra mái lầu tây thấy nàng.
Thẩn-thơ trước dãy hành-lang,
390.- Vin cành biếc, hái hoa vàng làm thinh.
Xa xa phảng-phất dạng hình,
Đức Quan-Âm đã giáng-sinh bao giờ !
Vội-vàng làm cách bơ-lơ,
Đến gần ướm hỏi khách thơ một lời :
“Kể từ đến cảnh bồng-lai,
“May thay đã trộm thấy người tiên-cung.
“Mới hay hai chữ sắc, không,
“Chẳng tơ mà dễ rối lòng trần-duyên.
“Ba sinh ước vẹn mười nguyền,
400.- “Chiêm-bao luẩn-quẩn ở bên giảng đình.
“Sư còn lân-mẫn chúng-sinh,
“Xin thương đến tấm lòng thành với nao !”
Bỗng nghe tiếng lạ-lùng sao,
Trái tai khôn biết lẽ nào dám thưa.
Nghĩ mình ở đám muối dưa,
Há nên tìm tiếng đong-đưa cùng người.
Làm thinh thà chịu kém lời,
Thềm hoa lẩn bóng, phòng trai trở giày,
Vội vàng khép bức rèm mây,
410.- Ngoài hiên còn chút hương bay với chàng.
17. Phan Sinh phải lòng Diệu Thường, nhờ vãi Hương Công làm mối
Một mình lui tới bẽ-bàng,
Khôn về năn-nỉ, dễ đường nhắn-nhe !
Đeo sầu chàng trở ra về,
Xem chiều thèn-thẹn, e-e nực cười.
Trách người một, trách ta mười !
Bởi ta sàm-sỡ nên người dẩy-dun.
Còn trời, còn nước, còn non,
Còn trăng, còn gió hãy còn đó đây.
Trăng trăng, gió gió, mây mây,
420.- Biết là giở nỗi nước này cùng ai !
Chờ khi vắng-vẻ hiên mai
Tìm Hương mà lại giãi-bày cùng Hương:
“Rằng đây là khách tầm-thường,
“Đem thân đài-các mà nương cửa chiền.
“Một là an phận chờ duyên ?
“Hai là thong-thả sách đèn cũng vui.
“Cho nên dưa muối phải mùi,
“Những say mùi đạo mà nguôi nỗi nhà.
“Sớm trưa ai kẻ biết ra,
430.- “Đã quen làm nũng với già bấy lâu.
“Nghĩa sâu đành trả ơn sâu,
“Bây giờ phải gỡ mối sầu cho xong.
“Kià ngọc-nữ, nọ kim-đồng,
“Phật-bà chẳng xét thấu lòng ấy chăng ?
“Cửa Từ phương-tiện đâu bằng,
“Kim-thằng xin đổi xích thằng này cho.
“Ở đây về cảnh nhà chùa,
“Lẽ đâu có dám chuyện-trò trăng hoa.
“Nhưng vì duyên-kiếp thế mà,
440.- “Đẫu làm sao cũng cậy già giúp nao!”
Lặng nghe lời nói thấp cao,
Gửi rằng: “Già biết làm sao sự này !
“Nương mình cửa bụt bấy chầy,
“Non ngăn thói tục, gió bay niềm trần.
“Hương đèn khuya sớm độ thân,
“Biết đâu quán Sở, lầu Tần viển-vông.
“Nghe lời cũng trộm xét lòng,
“Tu-hành chẳng lẽ lộn vòng gió t! răng.
“Vả nàng cùng bạn thiền-tăng,
450.- “Ra vào sượng mặt, nói năng ngại điều.
“Một niềm vàng đá nâng-niu,
“Bây giờ sao nỡ giật-gìu mưa mây.
“Huống chi những tiếng thày-lay,
“Tuổi này đã trót mũ này che tai.
“Đa-mang chẳng dám chịu lời,
“Mặc người Tần Tấn, mặc ngưòi Trần Châu.”
Chàng nghe ngẫm nghĩ giờ lâu,
Tưởng lời Hương nói ra màu đẩy-đưa.
Hai hàng lã-chã nhường mưa:
460.- “Biết đem lòng ấy bây giờ cậy ai.
“Vì duyên nên phải vật nài,
“Có thương thì xét mà cười thì oan.
“Ba trăng nấn-náthiền-quan,
“Nghĩ quen thuộc ấy mà van-vỉ cùng.
“Nào ngờ ngại tiếng, quản công,
“Nào lòng quảng-đại, nào lòng từ-bi.
“Chẳng yêu, chẳng xót, chẳng vì,
“Lại còn bịn rịn làm chi cảnh này ?
“Bụt trời xin chứng lòng ngay,
470.- “Duyên kia dù rủi dù may tại già.”
Nghe lời năn-nỉ thiết-tha,
Ngọt-ngào đầu lưỡi, mặn-mà lỗ tai :
“Vâng ra thì tiếng để đời,
“Chẳng vâng thì bỏ lòng người biết bao !
“Tận-từ dám tiếc công nào,
“Còn e lòng khách động đào khứng chăng!
“Bây giờ làm khách thiền-tăng,
“Say-sưa mùi đạo, dửng dưng bụi hồng.
“Lệ chi hoa chẳng chiều ong,
480.- “Uổng công tuổi-tác, thẹn lòng văn-nhân.”
Chàng rằng: “Già hãy ân-cần,
“Đàn này tai ấy dần-dần cũng êm.
“Ai hay rằng chẳngcải-kim,
“Đã nơi gian-gíu nên tìm tới đây.
“Hãy về gìn-giặt cho hay,
“Dẫu làm sao quả phúc này cũn! g nên.! 8221;
Nghe chàng gắn-bó cần-quyền,
Vâng lời Hương mới về bêntĩnh-đường,
Canh khuya nguyệt gác cành sương,
490.- Nằn-nì thử ướm xem nường ra sao.
Rằng đây cảnh quạnh, non cao,
“Xưa nay biết mận quen đào là ai.
“Phải khi qua chốnthư trai,
“Thấy chàng khắc khoải một lời mà thương.
“Lân-la bỗng giở sự nường,
“Mấy lời thì bấy nhiêu hàng hạt châu.
“Xin người, đã bạch gót đầu,
“Rừng thiền xin chớ những màu én anh.
“Càng van càng một đinh-ninh,
500.- “Rằng duyên, rằng nợ, rằng tình, một hai.
“Nể lời ta chót chịu lời,
“Chiều ai hay chẳng chiều ai, mặc nàng.”
18. Diệu Thường mấy lần đều cự tuyệt vãi Hương Công
Lời đâu thêm động lòng vàng,
Trách ai sao khéo đặt đàng cho nên :
“Gập-ghềnh lỡ bước thuyền-quyên,
“Đem thân bồ-liễu nương miền tùng-lâm.
“Đã mừng khuất nẻo tiếng tăm,
“Bướm ong đâu lại ầm-ầm bên tai.
“Già vâng, tiểu gửi lại người,
510.- “Chốn này chẳng khá dạy lời ong ve,
“Kiếp tu đã nguyện bồ-đề,
“Lòng son bảy mối, tóc thề mười phương.
“Một đèn một sách, một hương,
“Dám còn để mối tơ vương bên lòng .
“Vả người là đấng thư-trung
“Tấc mây đâu nỡ để lồng gương thu.
“Bao-dung xin hãy xét cho,
“Từ rày những tiếng nhỏ to gác ngoài.”
Xem nàng vàng đá chẳng dời,
520.- Vội-vàng lại đến thư-trai trình chàng :
“Đá vàng uyển-chuyển trăm đường,
“Khăng khăng khóa ngọc, then vàng chẳng long.
“Ai ngờ con trẻ lạ lùng !
“Kiên gan có lẽ ép lòng làm sao.
Chàng rằng: “Nghe rõ tiêu-hao,
“Như nung dạ sắt, như bào lòng son.
“Đem mình làm khách thiền-môn,
“Gió lay trướng ngọc, tuyết mòn án nghiên.
“Vẻ chi hai chữ tình duyên,
530.- “Nhẹ danh tài-tử, nặng nguyền giai-nhân.
“Đem mình van thiết mấy lần,
“Mười phần mà chẳng một phần ủ-ê.
“Ai hay phép Phật cả nề,
“Ở thì cũng thẹn, về thì chẳng xong.
“Âu là già hãy giúp công,
“Lại lần này nữa xem lòng ra sao ?
“Dặn rằng đã quyết chí cao,
“Nợ lòng để đến kiếp nào trả cho ?
“Chẳng t! hì ra trước cửa chùa,
540.- “Mà nghe khách niệm nam-mô một lời.
“Đoạn rồi nam bắc đôi nơi,
“Nỗi niềm phó mặc bụt trời chứng minh.”
Nghe lời chàng, đã biết tình,
Trở về Hương mới đinh-ninh gót đầu.
Rằng: “Xin nửa khắc đến hầu,
“Đợi nàng một tiếng giã nhau mà về.”
Thấy người đeo-đẳng mọi bề,
Ngập ngừng trước mặt, liễu e cúi mày.
Van rằng: “Đừng nỗi bèo mây,
550.- “Phận này ngỡ được chốn này là yên,
“Ai ngờ quả kiếp xui nên,
“Một thân thiếu nữ truân-chuyên mấy lần.
“Đã nhờ tình thực ân-cần,
“Chẳng thương mà dạy nợ-nần trăng hoa.
“Phỏng khi sư-phụ biết ra,
“Người là thân-thích, ta là ngược xuôi,
“Gió bay lời thế xa-xôi,
“Thì ta hồ dễ đứng ngồi dược đây !
“Âu là chịu bạc cùng thầy,
560.- “Liệu đường mà giã cảnh này cho xong.
“Phận bèo bao quản long-đong,
“Thà rằng lánh trước hơn rằng lụy sau.”
Thấy chiều lan thảm, huệ sầu,
Xót nàng, Hương mới ra màu van-khuyên:
“Lạy nao, xin chớ vội phiền,
“Trót đà lỡ miệng, rày xin kín lòng.
“Miễn nàng tuyết sạch giá trong,
“Vàng không thẹn lửa, sen không nhuốm bùn.
“Quả tu ve-vuốt cho tròn,
570.- “Bỗng mà ruồng-rẫy nuóc non sao đành !
“Ba trăng tiếng kệ câu kinh,
“Bạch-viên sao nỡ phụ tình Huyền-Trang.”
Nàng nghe Hương nói nể-nang,
Kấp sầu lại mở quyển vàng làm khuây.
Xăm-xăm Hương một lòng ngay,
Lại sang đến chốn mọi ngày đinh ninh.
Rằ! ng: ̶! 0;Chàng cửa tướng nhà khanh,
“Lứa đôi há hiếm cầm lành đưa duyên.
“Khuyên người đèn sách bút nghiên,
580.- “Sự nàng xin chớ cần-quyền nữa chi.
“Nếu nàng phải bước ra đi,
“Nữa oan lòng khách tội thì tại ai ?”
Bỗng không thấy thốt hãi người,
Van rằng: “Chẳng dám ép-nài nữa đâu !
“Xin đừng để tiếng cho nhau,
“Chẳng thì non thẳm, vực sâu cũng tìm.
“Cậy già về giữ cho im,
“Dám còn nhắn cá gửi chim nữa nào !
19. Thất vọng về tình Phan Sinh ốm tương tư
Chàng từ thưa-thớt âm-hao,
590.- Tới lui ngần ngại, ra vào dở-dang.
Gió từ hây-hẩy đưa hương,
Lạnh lùng áng tuyết đoạn trường đòi nau !
Trăng thiền vằng-vặc in lầu,
Lâm-râm đèn hạnh gượng sầu thiu-thiu.
Tiếng chuông, tiếng cảnh, tiếng tin,
Sách nhìn biếng đọc, cầm treo biếng đàn.
Bấy nay nương-náu thiền-quan,
Muối dưa nhạt nhẽo, sương hàn pha-phôi.
Lại thêm sầu não đứng ngồi,
600.- Đá kia cũng đổ bồ-hôi lọ người !
Bệnh tương-tư cũng nực cười,
Dễ phương ngũ-tích, dễ bài bát-trân.
Bùa nào giảm, thuốc nào dằn,
Dược-sư ngán nỗi, Lão quân khôn điều.
Có chăng liên-nhục, liên-kiều.
Dùng thang đồng-nữ mới tiêu bệng chàng.
Lòng cô còn rộn trăm đường,
Mười phương đã khắp, nén hương đã tàn (?).
Bói thì ra quẻ Phong-san,
610.- Động hào thiếu-nữ ai bàn cho ra.
Có chăng ta biết sự ta,
Diệu-Thường là một, vãi già là hai.
20. Nể sư già, Diệu Thường đến thăm bệnh Phan Sinh
Vì sư vả cũng nể người,
Nàng theo Hương đến phòng trai thăm chàng.
Nghiêng mình hé bức rèm sương,
Chiều thanh khép nép, tiếng vàng khoan-thai :
“Trộm nghe sương tuyết hơi hơi,
“Thuốc xơi giảm mấy, cơm xơi thế nào ?
“Lạy trời cho mát-mẻ nao,
620.- “Kẻo sư tuổi-tác ra vào băn-khoăn.”
Bên tai nghe tiếng nàng gần.
Mười phần phiền-não, chín phần đổ sông.
Vội-vàng tay gạt đôi giòng,
Bạch rằng: “Đã đội ơn lòng đến đây.
“Bệnh sao cơn tỉnh cơn say,
“Mới rồi thì thế lúc này thì không.
“Như lúc này thế đã xong,
“Rồi ra nào biết được thong-thả này !
“Vì ai trời nhẽ có hay,
630.- “Độ-trì cho họa là may chút nào.”
Hạt châu thánh-thót quyển bào,
Xem hoa dường võ, xem đào dường phai.
Chiều lòng nàng phải lựa lời,
Rằng: “Người thành-kính thì trời chứng-tri,
“Hãy xin hỉ-xả từ-bi,
“Cơn này đừng thắc-mắc chi thêm càng.”
Sinh đương nấu sắt nung vàng,
Bỗng nghe như nước cành dương tưới nhuần.
Thảnh-thơi thư-sảng tinh-thần,
640.- Thiều-quang đem lại, phong-trần giũ bay.
Vừa mong giở nỗi niềm tây,
Ngoài hiên nghe xịch tiếng giày xa xa.
Giã sinh nàng trở gót hoa,
Khơi mành-mành thấy sư già xuống thăm.
Thấy chàng tựa án nâng cầm,
Nhẹ-nhàng sư mới bình tâm trở về.
21. Phan Sinh ốm bệnh cất lẻn đến tạ ơn Diệu Thường
Đêm thanh nguyệt gác rèm the,
Xa trông bóng đã đèn khuya cách lầu.
Sầu vừa ngớt, ngớt lại sầu,
650.- Sông Ngân thử bắc lấy cầu Ô xem.
Sao tàn, sương dịu, tuyết êm,
Góc tường ẩn bóng bên thềm lân-la.
Thừa khi gió quạt cánh gà,
Lay mành mượn tiếng nàng ba lọt vào:
“Thương với nao ! nể với nao !
“Làm sao trong ấy ? làm sao ngoài này ?
“Một lời công đức nặng thay,
“Nên bây gìờ phải đến đây tạ lòng.
“Đã rằng hỉ-xả bao-dong,
660.- “Gió sương nỡ để lạnh lùng sao an !”
Nàng đương khêu ngọn đèn tàn,
Véo-von nghe tiếng ngoài hiên rụng-rời.
Thưa rằng: “Rừng mạch vách tai,
“Đêm hôm xin chớ lắm lời làm chi.
“Xưa nay đã giữ một bề,
“Thương thì cũng đội, trách thì cũng vâng.
“Rút dây chẳng nệ động rừng,
“Làm chi để tiếng lố-lăng thế cười.
“Thôi thôi tôi cũng lạy người,
670.- “Mới thong-thả, hãy về ngơi, kẻo mà!”
Chàng rằng: “Ta những giận ta,
“Bước ra gặp vía Hằng-nga bẽ-bàng.
“Bấy nay vâng phép Tạng-vương,
“Dám còn đeo thói Thọ-dương chốn này.
“Vì ơn nên phải đến đây,
“Chẳng thương để tiếng nước mây oan người,
“Hẹp gì một cánh cửa ngoài,
“Chẳng cho vào bạch Như-lai một điều.
“Kiếp này phụ, kiếp sau yêu,
680.- “Lại như ả Bích, quyết liều cho xong.
Sởn gai, lời thốt lạ-lùng,
Nếu thi gan với anh-hùng thì thua.
Ai cười, trời Phật xét cho,
Cho vào mà k�! �� duyên-do mới tường!
Cửa mây vừa hé then sương,
Dưới đèn lóng-lánh mặt gương quảng hàn.
Lan mừng huệ, huệ mừng lan,
Ngọc quan khấp-khởi, từ-nhan ngập-ngừng.
Nỉ-non chàng mới hỏi rằng :
690.- “Bấy lâu mượn gió Các-Đằng truyền hơi.
“Dương-đài đã trộm Chương-đài,
“Căn-nguyên phải gạn một lời làm sao.
“Tên gì, quê, họ, nơi nao ?
“Vì đâu xui khiến cho vào đến đây ?
“Nguồn cơn xin dạy cho hay,
“Nhật tiền quán nước, làng mây thế nào ?”
Nàng nghe lời nói bẽ chiều (?),
Giở sao xiết nỗi, nói sao nên lời.
Gửi rằng: “Phận cánh hoa rơi,
700.- “Bây giờ còn dám giấu người sao nên !”
Nằn-nì mới ngỏ sự duyên,
Dẫu lòng vàng đá, cũng nghìn xót-xa :
“Đàm-Châu, quê thiếp còn xa,
“Họ Trần, tên đặt vốn là Kiều-Liên.
“Bào-thai đã hẹn nhân-duyên,
“Quạt ngà, trâm ngọc kết nguyền họ Phan.
“Rồi ra cách trở quan-san,
“Chẳng may bóng hạc khơi ngàn non Hoa.
“Cô-đơn con trẻ, mẹ già,
710.- “Phấn trôi cuốn má, sương pha bạc đầu.
“Cửa nhà binh lửa đâu đâu,
“Tuyết sương quảy một gánh sầu ra đi.
“Đoạn-trường thay lúc phân-kỳ,
“Mẹ thì bãi bắc, con thì non tây.
“Khóc than cũng thấu cao dày,
“Xui nàng Trương lại giắt tay cửa thiền.
“Oan chi chút phận thuyền-quyên,
“Chữ tình cám cảnh, chữ duyên bẽ-bàng.
“Rừng thiền ơn đã rộng thương,
720.- “Khẩn-cầu vả sẵn đèn hương cửa người.
“Họa chi giun-giủi ơn trời,
“Đền c! ông sinh! nặng, giải lời nguyền sâu.
“Thân này mà dở-dang nhau,
“Thì xin tu lấy thân sau để dành.
“Hoa trôi nước chảy lênh-đênh,
“Mặt nào còn giở tâm-tình cùng ai !
“Dù chàng ép trúc nài mai,
“Tìm nơi giếng cạn thấy người hồng nhan.
“Để ai ngọc nát, hoa tàn,
730.- “Giải oan chàng phải lập đàn cho nhau !”
22. Sau khi tỏ tình đôi bên đưa trâm quạt, đối chiếu nhận nhau
Sinh nghe ngẩn mặt giờ lâu,
Ngẫm rằng: “Con tạo cơ mầu khéo thay !
“Bấy lâu mơ tưởng đêm ngày,
“Ai ngờ Phan đó, Trần đây mà lầm.
“Tri-âm chưa tỏ tri-âm,
“Thì xin bên quạt bên trâm sáng vào !”
Vội vàng mở tráp tay trao,
Nhìn xem nào có chút nào là sai.
Cành trâm thích, quạt chữ bài,
740.- Rành-rành tên họ hai người song-song.
Mừng nhau lần kể sự lòng,
Gian-nan ngày trước, lạnh lùng bấy nay.
Biên lời đó, chép lời đây,
Bứt hoa dẫu vạn, tờ mây dẫu nghìn.
Xe vàng lẩn, áo hồng-xen (?),
Hết phen sầu-não, tới phen vui-mừng.
Rỉ tai chàng mới dặn rằng :
“Ở đây nương-náu hãy đừng hở-hang.
“Công-danh chờ thuở xuân sang,
750.- “Thế nào rồi sẽ phượng hoàng rủ nhau.”
Dặn-dò chưa dứt cạn sâu,
Trên am một tiếng chày đâu hãi người.
Vội-vàng sinh trở gót hài,
Ngoài hiên oanh đã nhộn cười cùng oanh.
Non đông lò lửa hé mành,
Tiếng cầm bên ấy, tiếng kinh bên này.
Sự tình một đó một đây,
Dẫu bà nghìn mắt, dẫu thầy tám tai.
Thông thông, trúc trúc, mai mai,
760.- Ngày, người đất bụt; đêm người động tiên.
Đầu gành còn điểm mõ quyên,
Vo-ve đàn dế bỗng chen gió vàng.
Khúc cầm thông mới dạo sương,
Chào oanh, sớm đã vội-vàng tin mai.
Lân-la tháng bụt ngày trời,
Hạ qua, thu tới, đông rồi lại xuân.
Vũ-môn mừng đã đến tuần,
Phượng loan rày gặp phong-vân phải tầm.
23. Phan sinh đi thi đỗ Thám hoa
Giục đồng quảy tráp, ôm cầm,
770.- Lên chùa bạch đã, xuống thềm bảo qua.
Nàng rằng: “Chàng học quyết khoa,
“Bõ ngày áo gấm xem hoasẽ về.
“Ở đây nương-náu bồ-đề,
“Chăm-chăm một tấm lòng quì hướng dương.
“Ngùi ngùi dậm liễu, ngàn sương,
“Tiễn đưa hai chữ bình-khương với lòng.”
Thoắt thôi ngang dọc tây đông,
Ngựa theo đường cũ ruổi-dong tếch chừng.
Thông reo, vượn hót, chim mừng,
780.- Hương chùa đưa gió, huê rừng phun sương.
Tuần dư vừa tới cửa trường,
Danh tài mây hợp, hiền lương sao bày
Cùng vào vâng mệnh năm mây,
Côn bằng phỉ sức, rồng mây phải thì.
Thám-hoa vào lạy đan-trì,
Cẩm-bào phô cật, hoa chi giắt đầu.
Tiếng thơm lừng-lẫy đâu đâu,
Kẻ siêng ong bướm, người mau cá nhàn.
Ngán thay hỡi bạn hồng-nhan,
790.- Làm chi rác lỗ tai quan khéo là !
Một thư nhắn gửi về nhà,
Một thư đưa đến cửa già báo tin.
Từ ngày chàng ruổi dặm nghìn,
Tấm lòng dựa cánh cửa chiền đăm đăm.
Bên tai thoạt mảng hảo âm,
Hoa mơi (?) điểm tuyết, trăng rằm vén mây.
Cô nghe tin cháu mừng thay,
Đành thay tông-tổ đức dày nhi tôn.
Thám-hoa ngày ở từ môn,
800.- Trai thành nên đức Thế-tôn độ người.
Mới hay bĩ cực thái lai,
Còn trong trần-lụy biết ai vương-hầu.
Chẳng yêu nhau, chớ dể nhau,
Những loài yến-tước biết đâu chí hồng.
Đương mừng náo-nức tưmg bừng,
Đình phô (?) nghe đã ruổi-dong gần miền.
Xe xe, ngựa ngựa lần chen,
Hoa quen mừng rước, c! him quen đón chào.
Chênh-vênh ngoài chốn non cao,
810.- Áo hồng, đai bạc, bước vào cửa không.
Chuông kêu lẫn tiếng thiều rung,
Cờ xen bảo-cái, tán lồng tràng-phan.
Hương đèn tạ phật vừa an,
Mới đem trâm, quạt đến bàn cùng sư.
Sư rằng phận đẹp duyên ưa,
“Mừng cho đôi lứa đã vừa đồng cân.
“Song đây là cảnh chân-chân,
“Tăng già chịu việc hôn-nhân trở lời.
“Gần đây đã có một người,
820.- “Đưa nường đến chốn phật-đài ngày xưa.
“Cậy người biện lễ ông Tơ,
“Xin hầu sang đó mà đưa nàng về.
24. Vinh qui cùng với vu qui một ngày !
Mừng hầu phỉ chí nam nhi,
Vinh-qui cùng với vu-qui một ngày.
Bén rồng, ôm phượng ra tay,
Mặc cô kinh-kệ ở đây khấn-cầu.
Tạ từ cùng bước xuống lầu,
Thám-hoa thì trước, mà sau Diệu-Thường.
Áo hồng đã ruổi xe vàng,
830.- Trên lầu còn thoáng mùi hương lạ đời.
Chàng liền thay chuỗi hạt trai,
Đã phô thức phấn, lại gài then mây.
Lên chùa lạy bụt, lạy thầy,
Giã Hương-Công, đội ơn thầy chẳng quê.
Giã non, giã nước, giã chiền,
Giã mai, giã trúc, giã miền cỏ hoa !
Cảnh này trong chốn đường hoa
Vào chơi thết-đãi, bước ra phụng-chiều.
Thoắt thôi xe ngựa dập-dìu,
840.- Sang Kim-lăng, cứ như điều nhà sư.
Tiệc thời mười lạng vàng đưa,
Nước non kể mấy tóc tơ thẹn-thùng !
Thế này của chửa xứng công,
Nặng ơn Phiếu-mẫu, nhẹ lòng Vương-Tôn.
Rạng ngày lại ruổi nước non,
Giải rong cờ bướm, dậm dồn vó câu.
25. Phan, Trần hai họ đoàn viên một nhà
Vui lòng nhẹ bước nên mau,
Ba trăng đã đến Hòa-châu cảnh nhà.
Thung-huyên đôi khóm già già,
850.- Trên đầu vẻ bạc, ngoài da thức mồi.
Rỡ phô tiệc nhộn đầy vơi,
Dưới hiên lần chuốc thọ bôi đôi tuần
Môn-đình xuân lại thêm xuân,
Thi thư rạng nước, đai cân nối nhà.
Thám-hoa quì lạy thềm hoa,
Niềm xưa, nỗi trước lân-la bày tường:
“Con từ du-học bốn phương,
“Thần-hôn đành lỗi đạo-thường làm con.
“Phúc thừa muôn đội tùng môn,
860.- “Bảng vàng may trộm chữ son tên đề.
“Nhân-duyên vâng lĩnh quạt thề,
“Nhờ tay nguyệt-lão khéo xe lạ-lùng.
“Ngửa trông trời bể bao-dung,
“Thứ cho dưới gối tấm lòng tiểu-nhi.”
Rằng: “Từ con cách đình vi,
“Ngán lòng nương cửa mọi bề nhớ trông.
“Nhờ hồng-phúc, đội âm-công,
“Gặp khi kim-bảng, động-phòng cả hai.
“Rồi đem nhau đến thọ-đài,
870.- Lạy bà Trần-thị kẻo người nhớ mong.
“Người từ lỡ bước long-đong,
“Trời xui nghìn dặm để lòng tới đây.
“Nặng bên tình nghĩa xưa nay,
“Rước về phụng-dưỡng đêm ngày thay con.
“Chữ duyên rày đã vuông tròn,
“Đem tin mừng lại kẻo buồn bấy lâu.”
Tạ ân nàng lại khấu đầu,
Cùng chàng vâng mệnh sang hầu từ-thân.
Bước vào vừa đến giữa sân,
880.- Song-song cùng đặt bức khăn lạy chào.
Sụt-sùi kể-lể thấp cao,
Nỗi con, nỗi mẹ, tiêu-hao tỏ tường :
“Mừng con và đội ơn chàng,
“Thân già được th! ấy giàu-sang ai ngờ ?”
Lạy thôi, nàng giở sau xưa:
“May nhờ một sớm móc mưa tưới nhuần.
“Xiết bao giở nỗi gian-truân,
“Một nhà sum-họp Tấn, Tần từ đây.
“Duyên hương-lửa, hội rồng-mây,
890.- Bõ công ly-biệt, bõ ngày tân-toan”
Thoắt thôi từ tạ dưới màn,
Về lầu mở tiệc đoàn-viên chúc mừng.
Chơi-vơi hoa-chúc tưng-bừng,
Véo-von đàn hát, vang lừng phách sênh.
Cung nam, cung bắc, cung huỳnh,
Đọ như tiếng kệ, tiếng kinh chẳng nhường.
Có khi cợt phấn, diễu hương,
Sau dường Bồ-tát, trước dường tiên-nga.
Có khi ướm nguyệt, chào hoa,
900.- Lầu son phảng-phất cửa già gió trăng.
Huệ lan đương rộn tiệc mừng,
Tin hay đã thấy tưng-bừng sứ hoa.
Việc quan hẳn khác việc nhà,
Lạy nghiêm-từ dã, lạy bà từ-thân.
Cùng nàng xe ngựa dời chân,
Nước-non lặn-lội ba tuần tới nơi.
Bệ rồng gang tấc mặt trời,
Tâu lời trung-nghĩa, dâng bài tu-nhương.
Phải duyên ngư-thủy nhất đường,
910.- Ấn son kén mặt, gươm vàng trao tay.
Mệnh trời vâng chiếu năm mây,
Ra tài Khấu, Đặng, thử tay Tiêu, Tào.
Đông-nam chỉ ngọn cờ mao,
Non xanh sấm dậy, sóng đào gió rơi.
Cáo, kình im-lặng tăm-hơi,
Doành ngâm rửa mác, non đoài treo cung.
Khải-ca lừng-lẫy phu công,
Đã ngoài nanh vuốt, lại trong cột-rường.
Giơ hốt ngọc, giắt ấn vàng,
920.- Cõi bờ mở rộng, mối giềng xây nên.
Đồng-hưu rờ-rỡ thẻ khuyên,
Công ghi gác phượng, danh truyền đài lân.
Nhà chung-đỉnh, cửa đai-cân,
Vinh-phong sắc Quận phu-nhân cho nàng.
Móc mưa nhuần gội ân sang,
N�! ��n nhân! , cây đức rạng hàng quế-lan.
Trăm năm duyên sánh phượng loan,
Tao-khang hai chữ, Trần, Phan dõi truyền,
Tốt tươi hai khóm thung-huyên,
930.- Thêm mừng nước trị nhà yên đời đời.
26. Tổng kết
Lạ thay cùng đạt cơ trời,
Chớ khoe quyền thế, chớ cười hàn-vi.
May ra ai cũng một thì,
Hơn nhau hai chữ nhân-nghì là hơn.
Người quân-tử, khách hồng-nhan,
Kiền-khôn còn rộng tạo-đoan còn dài.
Nôm-na chép truyện mà chơi,
Xét cơn bĩ, thái, dám lời khen chê.
Thực-thà dám sánh tân kỳ,
940.- Gọi là lảm-nhảm để ghi sau này.
– HẾT –
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét