Nhị Thập Tứ Hiếu
Một danh sĩ thời Nguyễn, Lý Văn Phức (1785-1849) người làng Hồ khẩu, huyện Vĩnh thuận, tỉnh Hà đông, làm quan trải ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, nhiều lần đi sứ các nước lân cận, đã sáng tác nhiều sách vở bằng Hán văn như: Việt hành ngâm, Việt hành tục ngâm, trong số đó có tập Nhị thập tứ hiếu nói về 24 người con có hiếu ở bên Tàu. Lý Văn Phức là một nhà luân lý muốn đem các điều luân thường đạo lý để khuyên răn người đời. Tác phẩm “Nhị thập tứ hiếu” (416 câu thơ song thất lục bát) đã thành một cuốn gia-huấn ca được phổ cập rộng rãi trong dân chúng
Người tai mắt đứng trong trời đất
Ai là không cha mẹ sinh thành
Gương treo đất nghĩa, trời kinh
Ở sao cho xứng chút tình làm con
Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết
Thì suy ra trăm nết đều nên
Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền
Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu
1. Ngu Thuấn
Đức đại thánh họ Ngu, vua Thuấn
Buổi tiềm long gặp vận hàn vi
Tuổi xanh khuất bóng từ vi
Cha là Cổ Tẩu người thì ương ương
Mẹ ghẻ tính lại càng khe khắt
Em Tượng thêm rất mực điêu ngoa
Một mình thuận cả, vừa ba
Trên chiều cha mẹ, dưới hoà cùng em
Trăm cay đắng, một niềm ngon ngọt
Dẫu tử sinh không chút biến dời
Xót tình khóc tối, kêu mai
Xui lòng ghen ghét hoá vui dần dần
Trời cao thẳm mấy lần cũng đến
Vật vô tri cũng mến lo người
Mấy phen non lịch pha phôi
Cỏ, chim vì nhặt, ruộng, voi vì cày
Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh
Mệnh trung dung trao chánh nhường ngôi
Cầm thi, xiêm áo thảnh thơi
Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen
2. Văn Đế
Kìa Văn Đế vua hiền Hán đại
Vâng ấn phong ngoài cõi phiên vương
Quên mình chức cả, quyền sang
Phụng thờ Bạc Hậu lễ thường chẳng sai
Đến khi nối ngôi trời trị nước
Vẫn lòng này săn sóc như xưa
Mẹ khi ngại gió, kinh mưa
Ba năm hầu hạ, thường như mọi ngày
Mắt chong bóng dám sai giấc ngủ
Áo luôn mình dám sổ đai lưng
Thuốc thang mắt xét, tay nâng
Có tường trong miệng, mới dâng dưới màn
Tiếng nhân hiếu đồn vang thiên hạ
Thói thuận lương hoá cả lê nguyên
Hai mươi năm lẻ kiền khôn
Đã sau Tam Đại, hãy còn Thành, Khang
Ấy hay vị đế vương đời trước
Chữ hiếu dành đá tạc, vàng in
Còn ra sĩ, thứ, đấng hiền
Đếm xem mấy kẻ tiếng truyền đến nay
3. Tăng Tử
Đời
Thờ mẹ cha thời giữ chí thành
Bữa thường rượu thịt ngon lành
Cho ai, vâng cứ đinh ninh chẳng rời
Nhà bần bạc thường vui hái củi
Quãng mù xanh thui thủi non sâu
Mẹ ngồi tựa cửa bóng sau
Nhân khi khách đến, trông mau con về
Rồi trong dạ nhân khi cùng túng
Cắn ngón tay cho động lòng con
Trong non bỗng chốc bồn chồn
Quặn đau khúc ruột, bước dồn gót chân
Quỳ dưới gối ghé gần thưa hỏi
Lắng bên tai nghe giải nguồn cơn
Cho hay từ, hiếu tương quan
Non Đồng khi lở, khôn hàn tiếng chuông
4. Mẫn Tử Khiêm
Thầy Mẫn Tử rất đường hiếu nghĩa
Xót nhà huyên quạnh quẽ đã lâu
Thờ cha sớm viếng, khuya hầu
Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng nàn
Trời đương tiết đông hàn lạnh lẽo
Hai em thời kép áo, dày bông
Chẳng thương chút phận long đong
Hoa lau nỡ để lạnh lùng một thân
Khi cha dạo, theo chân xe đẩy
Rét căm căm nên xẩy rời tay
Cha nhìn ngẫm nghĩ mới hay
Nghiến răng rắp cắt đứt dây xướng tuỳ
Gạt nước mắt, chân quỳ, miệng gửi:
Lạy cha, xin xét lại nguồn cơn
Mẹ còn, chịu một thân đơn
Mẹ đi, luông để cơ hàn cả ba
Cha trông xuống cũng sa giọt tủi
Mẹ nghe lời cũng đổi lòng xưa
Cho hay hiếu cảm nên từ
Thấm lâu như đá cũng rừ lọ ai ?
5. Tử Lộ
Thầy Tử Lộ cùng người nước Lỗ
Thờ hai thân từng bữa canh lê
Thường khi đội gạo đi về
Xa xôi trăm dặm, nặng nề hai vai
Đỉnh Hoa biểu từ khơi bóng hạc
Gót Nam Du nhẹ bước tang bồng
Xe trăm cỗ, thóc muôn chung
Ngồi chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao
Thân phú quý ngắm vào thêm tủi
Đức cù lao chạnh tới lòng đau
Nào khi đội gạo, canh rau
Muốn còn như cũ, dễ hầu được ru ?
Lòng thắc mắc nghìn thu vẫn để
Biết bao giờ cam chỉ đền công
Cho hay dạ hiếu khôn cùng
Dẫu Tam Công chẳng đổi lòng thần hôn
6. Diễm Tử
Chu Diễm Tử làm con rất thảo
Chiều hai thân tuổi lão, niên cao
Mắt trần khuất nguyệt, mờ sao
Sữa hươu, người những ước ao từng ngày
Vật khó kiếm khôn thay thường đổi
Phải lo phương tìm tõi cho ra
Hươu khô tìm lấy lột da
Mặc làm sắc áo để hoà lẫn theo
Chốn non thẳm tìm vào bầy lứa
Sẽ dần dà lấy sữa nuôi thân
Bỗng đâu gặp lũ đi săn
Rắp buông cung bắn, khôn phân vật, người
Đem tâm sự tới nơi bày tỏ
Chút hiếu tình nghe rõ không thôi
Cho hay chung một tính trời
Mảnh son cũng động được người vũ phu
7. Lão Lai Tử
Lão Lai Tử đời
Thờ hai thân chẳng trễ ngọt bùi
Tuổi già đã đúng bảy mươi
Nói năng chẳng chút hở môi rằng già
Khi thong thả, mẹ cha ngồi trước
Ghé gần vào bắt chước trẻ thơ
Thấp cao điệu múa nhởn nhơ
Xênh xoang màu áo, bạc phơ mái đầu
Chốn đường thượng, khi hầu bưng nước
Giả làm điều ngã trước thềm hoa
Khóc lên mấy tiếng oa oa
Tưởng chừng lên bảy, lên ba thuở nào
Trên tuổi tác trông vào vui vẻ
Áng đình vi, gió thuỵ mưa xuân
Cho hay nhân tử sự thân
Trong trăm năm được mấy lần ngày vui
8. Đổng Vĩnh
Đời Hậu Hán có người Đổng Vĩnh
Nhà rất nghèo mà tính rất thành
Thấu chăng, chẳng thấu trời xanh
Phụ tang để đó, nhân tình còn chi
Liều thân thể làm thuê công việc
Miễn cầu cho thể phách được yên
Cực cười thay! nhẽ đồng tiền
Đem thân hiếu tử, băng miền phú gia
Bỗng gặp kẻ đàn bà đâu đó
Xin kết làm phu phụ cùng đi
Lụa, ba trăm tấm dệt thuê
Trả xong nợ ấy mới về cùng nhau
Tới chốn gặp bỗng đâu thoắt biến
Là tiên cô, Trời khiến giúp công
Mới hay Trời vốn ở lòng
Há rằng cao thẳm, nghìn trùng mà xa
9. Quách Cự
Hán Quách Cự cửa nhà sa sút
Thờ mẫu thân chăm chút mọi bề
Con còn ba tuổi biết gì
Bữa ăn từ mẫu thường thì bớt cho
Trông thấy mẹ bữa no, bữa đói
Với hiền thê than nỗi khúc nhôi
Mẹ già đã chẳng hay nuôi
Để con xẻ ngọt, chia bùi sao đảng
Vợ chồng ta còn phen sinh đẻ
Mẹ già rồi, hồ dễ được hai
Nói thôi, giọt vắn, giọt dài
Đào ba thước đất để vùi tình thâm
May đâu thấy hoàng kim một hũ
Chữ Trời cho đề rõ rành rành
Cho hay Trời khéo ngọc thành
Hiếu tâm đâu để đoạn tình cha con
10. Khương Thị
Hán Khương Thị nhà còn lão mẫu,
Vợ họ Bàng vẹn đạo chữ tòng,
Mẹ thường muốn uống nước sông,
Vợ từng đi gánh thay chồng hầu cô
Mẹ thường muốn ăn đồ gỏi ghém
Vợ chồng đều tìm kiếm đủ mùi
Lại mời lân ẩu sang chơi
Để bồi cùng mẹ cho vui bạn già
Bên nhà bỗng chảy ra suối ngọt
Với nước sông in một mùi ngon
Lý Ngư ngày nhảy hai con
Đủ trong cung cấp thần hôn thường lề
Rày thong thả bõ khi lận đận
Cho hay gia đạo khi nên
Đã con hiếu, lại được hiền cả dâu
11. Thái Thuận
Người Thái Thuận ở sau đời Hán
Dạ thờ thân tiết loạn khôn lay
Đương cơn khói lửa mây bay
Liền năm hoang khiếm, ít ngày đủ no
Nơi rừng rậm kiếm đồ nuôi mẹ
Nhặt quả dâu chia để làm hai
Tặc đồ trông thấy nực cười
Hỏi: “Sao bày đặt đôi nơi cho phiển”
Rằng: “Quả ấy sắc đen thì ngọt
“Dâng mẹ già gọi chút tình con
“Còn là sắc đỏ chẳng ngon
“Cái thân cay đắng dám còn sợ chua ?”
Giặc nghe nói khen cho hiếu kính
Bước lưu ly mà gánh cương thường
Truyền quân của tiễn sẵn sàng
Vó trâu một chiếc, gạo lương một bàu
Mừng trong dạ, bước mau lẹ gót
Về tới nhà, miếng sốt dâng qua
Cho hay người cũng người ta
Biết đâu đạo tặc chẳng là lương tẩm
12. Đinh Lan
Hán Đinh Lan thuở còn thơ ấu
Bóng xuân huyên khuất dấu non xanh
Đến nay tuổi đã trưởng thành
Cám công sơn hải, thiệt tình trân cam
Tưởng dung mạo khắc làm mộc tượng
Cứ bữa thường phụng dưỡng như sinh
Khi chăn gối, buổi cơm canh
Mấy mươi năm vẫn lòng thành trước sau
Phải người vợ kính lâu nên trễ
Thử lấy kim châm kẽ ngón tay
Bỗng đâu giọt máu chảy ngay
Ai hay tượng gỗ lâu ngày thiêng sao ?
Khi đến bữa, chồng vào đặt lễ
Mắt tượng rơi hàng lệ chứa chan
Xét xem mới biết nguồn cơn
Nổi bùng lá giận, dứt tan dây tình
Há phải nhẫn, mà đành phụ nghĩa
Hiếu với tình nặng nhẹ phải cân
Cho hay thành hẳn nên thần
Há rằng u hiển, mà phân vong tồn
13. Lục Tích
Hán Lục Tích thuở còn sáu tuổi
Quận Cửu Giang đến với họ Viên
Trẻ thơ, ai chẳng yêu khen
Quýt ngon đặt tiệc tiểu diên đãi cùng
Cất hai quả vào ngay trong áo
Tiệc tan xong, từ cáo lui chân
Trước thềm khúm núm gửi thân
Vô tình quả quýt nảy lăn ra ngoài
Viên trông thấy, cười cười hỏi hỏi
“Sao khách hiền mang thói trẻ thơ ?”
Thưa rằng: “Mẹ vốn tính ưa
“Vật ngon dành lại để dưa mẹ thì”
Viên nghe nói, trọng vì không xiết
Bé con con mà biết hiếu thân
Cho hay phú giữ thiên chân
Sinh ra, ai cũng sẵn phần thiện đoan
14. Giang Cách
Hán Giang Cách cô đơn từ bé
Bước truân chuyên với mẹ đồng cư
Đương cơn loạn lạc bơ vơ
Một mình cõng mẹ vẩn vơ dọc đường
Từng mấy độ chiến trường gặp giặc
Giặc cố tình hiếp bắt đem đi
Khóc rằng: “Thân mẹ lưu ly
“Tuổi già, bóng chếch biết thì cậy ai ?”
Giặc nghe nói thoắt thôi, chẳng nỡ
Rồi dần dà qua ở Hạ Bì
Dấn mình gánh mướn, làm thuê
Miễn nuôi được mẹ, quản gì là thân
Mọi đồ vật sắm dần đủ hết
Áng xuân phong tươi nét từ nhan
Cho hay những lúc gian nan
Thật vàng, dẫu mấy lửa than cũng vàng
15. Hoàng Hương
Đời Đông Hán, Hoàng Hương chín tuổi
Khuất bóng từ dòi dõi nhớ thương
Hạt châu khôn ráo hai hàng
Tiếng đồn vang dậy trong làng đều khen
Thờ nghiêm phụ cần chuyên, khuya sớm
Đạo làm con chẳng dám chút khuây
Trời khi nắng hạ chầy chầy
Quạt trong màn gối, hơi bay mát rầm
Trời đông buổi sương đầm, tuyết thắm
Ấp hơi mình cho ấm chiếu chăn
Vì con, cha được yên thân
Bốn mùa không biết có phần hạ, đông
Tiếng hiếu hạnh cảm lòng quận thú
Biển nên treo chói đỏ vàng son
Cho hay tuổi trẻ mà khôn
Nghìn thu biết đạo làm con mấy người ?
16. Vương Thôi
Ngụu Vương Thôi gặp đời Tây Tấn
Vì thù cha lánh ẩn, cao bay
Bên mồ khóc đã khô cây
Trọn đời ngồi chẳng hướng Tây lúc nào
Khi sấm sét tìm vào mồ mẹ
Lạy khóc rằng: “Con trẻ ở đây”
Bởi vì tính mẹ xưa nay
Vốn từng sợ sấm những ngày gió mưa
Nên coi sóc chẳng từ sớm tối
Thần phách yên, dạ mới được yên
Trong khi đọc sách giảng truyền
Tới câu “sinh ngã” lệ tràn như tuộn
Ngập ngừng kẻ cấp môn cũng cảm
Thơ “Lục Nga” chẳng dám còn ngâm
Cho hay thử lý, thử tâm
Sư, sinh cũng tấm tình thâm, khác gì
17. Ngô Mãnh
Tấn Ngô Mãnh tuổi thì lên tám
Lòng sự thân chẳng dám khi nhàn
Cực về một nỗi bần hàn
Có giường trong đặt, không màn ngoài che
Trời đương buổi đêm hè nóng nảy
Tiếng muỗi kêu vang dậy đương mùa
Xót thay! hai đấng nghiêm, từ
để người chịu muổi, bây giờ biết sao ?
Nghĩ da thịt phương nào thay lấy ?
Quyết nằm trần, muỗi mấy chẳng xua
Rầu lòng cho muỗi được no
để người êm ái giấc hoè cho an
Tuổi tuy bé, nhưng gan chẳng bé
Dạ ái thân đến thế thời thôi
Cho hay phú tính bởi trời,
Những đau trong ruột, dám nài ngoài da
18. Vương Tường
Người Vương Tường cũng là đời Tấn
Tủi huyên đường sớm lẩn bóng xa
Mẹ sau gặp cảnh chua ngoa
Tiếng gièm thêu dệt với cha đủ điều
Lòng cha chẳng còn yêu như trước
Lòng con thường chẳng khác như xưa
Mẹ thương muốn bữa sinh ngư
Giá đông trời lạnh, bây giờ tìm đâu ?
Trên váng đóng, quyết cầu cho thấy
Cởi áo nằm rét mấy cũng vui
Bỗng đâu váng lở làm hai
Lý ngư may được một đôi đem về
Bữa cung cấp một bề kính thuận
Mẹ cha đều đổi giận làm lành
Cho hay hiếu cảm tại mình
Dẫu trăm giận, lúc hạ tình cũng thôi
19. Dương Hương
Tấn Dương Hương mới mười bốn tuổi
Cha bước ra hằng ruổi theo cha
Phải khi thăm lúc đường xa
Chút thân tuổi tác thoắt xa miệng hùm
Đau con mắt, hầm hầm nổi giận
Nắm tay không, vơ vẩn giữa đường
Hai tay chặn dọc, đè ngang
Ra tay chống đối với hổ lang một mình
Hùm mạnh phải nhăn nanh, lánh gót
Hai cha con lại một đoàn về
Cho hay hiếu mạnh hơn uy
Biết cha thôi lại biết chi có mình
20. Mạnh Tông
Ngô Mạnh Tông phụ thân sớm khuất
Thờ mẫu thân lòng thực khăng khăng
Tuổi già trằn trọc, băn khoăn
Khi đau nhớ bát canh măng những thèm
Trời đông tuyết biết tìm đâu được
Chốn trúc lâm phải bước chân đi
Một thân ngồi tựa gốc tre
Ôm cây kêu khóc, nằn nì với cây
Giữa bình địa phút giây bỗng nứt
Mấy giò măng, mặt đất nổi lên
Đem về điều đặt bữa canh
Ăn rồi bệnh mẹ lại lành như xưa
Măng mùa lạnh bây giờ mới thấy
Để về sau nhớ lấy cỏ cây
Cho hay hiếu động cao dày
Tình sâu cũng khiến cỏ cây cũng tình
21. Sửu Kim Lâu
Sửu Kim Lâu có danh Tề quốc
Huyện Bình Lăng nhậm chức thân dân
Tới nha chưa được một tuần
Mồ hôi như dội, tâm thần thường đau
Treo ấn ruổi vó câu buồn bã
Về thăm cha, bệnh đã hai ngày
Nếm dơ vẫn cứ lời thầy
Ngọt ngào đầu lưỡi, chua cay trong lòng
Thấy chữ dạy: “Bệnh trung nghi khổ”
Ước làm sao bệnh đỡ mới cam
Đêm đêm hướng Bắc, triều tam
Xin đem tánh mạng thay làm thân cha
Lòng cầu khẩn thấu toà tinh tú
Chữ bình an vui thú đình vi
Cho hay mảy động huyền vi
Thay mình truyện trước còn ghi kim bằng
22. Dương Thị
Dâu họ Thôi, ai bằng Dương thị
Thương mẹ chồng niên kỷ đã cao
Không răng, ăn dễ được nào
Ngày ngày lau chải, ra vào thăm coi
Lấy sữa ngọt thay mùi cơm cháo
Mấy năm trời chẳng gạo mà no
Vì đâu dốc dạ thờ cô
Da mồi, tóc bạc, bốn mùa như xuân
Ơn lòng ấy khôn phần báo lại
Buổi lâm chung, nhủ với hoàng thiên
Xin cho nguyền được như nguyền
Dâu dâu ngày khác lại hiền như dâu
Ai nghe cũng răn nhau hiếu kính
Cửu Thôi gia hưng thịnh đời đời
Cho hay gia khánh lâu dài
Báu nào còn báu hơn người dâu ngoan
23. Châu Thọ Xương
Châu Thọ Xương làm quan Tống đại
Mẹ sinh ra bảy tuổi lìa lòng
Bởi vì đích mẫu chẳng dung
Đem thân bồ liễu bạn cùng nước non
Muôn nghìn dặm mẹ con xa cách
Năm mươi năm trời đất bơ vơ
Sinh con những tưởng cậy nhờ
Cái thân sung sướng bây giờ mà chi ?
Bỏ quan chức, quyết đi tìm tõi
Nặng lời thề nói với gia nhân
Thân này chẳng gặp từ thân
Thời liều sống thác với thân cho đành
24. Tăng Trực
Triều Nguyên Hữu có thầy Tăng Trực
Là họ Hoàng ngồi chức sử thần
Ơn vua đã nhẹ tấm thân
Phận con, vẫn giữ thờ thân như ngày
Đồ dơ bẩn tự tay lau chuốt
Việc tầm thường chẳng chút đơn sai
Há rằng sai khiến không ai
Đem thân quan trọng thay người gia nô
Chức nhân tử phải cho cần khổ
Có mẹ cha mới có thân ta
Cho hay đạo chẳng ở xa
Hãy làm hiếu tử mới ra trung thần
Kết …
Bấy nhiêu tích cổ nhân về trước
Cách nghìn xưa như tạc một lòng
Kể chi kẻ đạt, người cùng
Lọt lòng ai trốn khỏi vòng di luân ?
Buổi công hạ cảm thân dày đội
Xa hương quan, gần cõi Thánh Hiền
Trông vào những thẹn bóng đè
Muốn lưu gia phạm, nên truyền quốc âm!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét