Thứ Năm, 29 tháng 8, 2013

NhiThapTuHieu

Nhị Thập Tứ Hiếu

1. Ngu Thuấn

2. Văn Đế

3. Tăng Tử

4. Mẫn Tử Khiêm

5. Tử Lộ

6. Diễm Tử

7. Lão Lai Tử

8. Đổng Vĩnh

9. Quách Cự

10. Khương Thị

11. Thái Thuận

12. Đinh Lan

13. Lục Tích

14. Giang Cách

15. Hoàng Hương

16. Vương Thôi

17. Ngô Mãnh

18. Vương Tường

19. Dương Hương

20. Mạnh Tông

21. Sửu Kim Lâu

22. Dương Thị

23. Châu Thọ Xương

24. Tăng Trực

Kết …

Một danh sĩ thời Nguyễn, Lý Văn Phức (1785-1849) người làng Hồ khẩu, huyện Vĩnh thuận, tỉnh Hà đông, làm quan trải ba triều Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, nhiều lần đi sứ các nước lân cận, đã sáng tác nhiều sách vở bằng Hán văn như: Việt hành ngâm, Việt hành tục ngâm, trong số đó có tập Nhị thập tứ hiếu nói về 24 người con có hiếu ở bên Tàu. Lý Văn Phức là một nhà luân lý muốn đem các điều luân thường đạo lý để khuyên răn người đời. Tác phẩm “Nhị thập tứ hiếu” (416 câu thơ song thất lục bát) đã thành một cuốn gia-huấn ca được phổ cập rộng rãi trong dân chúng

Người tai mắt đứng trong trời đất

Ai là không cha mẹ sinh thành

Gương treo đất nghĩa, trời kinh

Ở sao cho xứng chút tình làm con

Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết

Thì suy ra trăm nết đều nên

Chẳng xem thuở trước Thánh Hiền

Thảo hai mươi bốn, thơm nghìn muôn thu 

1. Ngu Thuấn

Đức đại thánh họ Ngu, vua Thuấn

Buổi tiềm long gặp vận hàn vi

Tuổi xanh khuất bóng từ vi

Cha là Cổ Tẩu người thì ương ương

Mẹ ghẻ tính lại càng khe khắt

Em Tượng thêm rất mực điêu ngoa

Một mình thuận cả, vừa ba

Trên chiều cha mẹ, dưới hoà cùng em

Trăm cay đắng, một niềm ngon ngọt

Dẫu tử sinh không chút biến dời

Xót tình khóc tối, kêu mai

Xui lòng ghen ghét hoá vui dần dần

Trời cao thẳm mấy lần cũng đến

Vật vô tri cũng mến lo người

Mấy phen non lịch pha phôi

Cỏ, chim vì nhặt, ruộng, voi vì cày

Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh

Mệnh trung dung trao chánh nhường ngôi

Cầm thi, xiêm áo thảnh thơi

Một nhà đầm ấm, muôn đời ngợi khen

2. Văn Đế

Kìa Văn Đế vua hiền Hán đại

Vâng ấn phong ngoài cõi phiên vương

Quên mình chức cả, quyền sang

Phụng thờ Bạc Hậu lễ thường chẳng sai

Đến khi nối ngôi trời trị nước

Vẫn lòng này săn sóc như xưa

Mẹ khi ngại gió, kinh mưa

Ba năm hầu hạ, thường như mọi ngày

Mắt chong bóng dám sai giấc ngủ

Áo luôn mình dám sổ đai lưng

Thuốc thang mắt xét, tay nâng

Có tường trong miệng, mới dâng dưới màn

Tiếng nhân hiếu đồn vang thiên hạ

Thói thuận lương hoá cả lê nguyên

Hai mươi năm lẻ kiền khôn

Đã sau Tam Đại, hãy còn Thành, Khang

Ấy hay vị đế vương đời trước

Chữ hiếu dành đá tạc, vàng in

Còn ra sĩ, thứ, đấng hiền

Đếm xem mấy kẻ tiếng truyền đến nay

3. Tăng Tử

Đời Chu mạt có thầy Tăng Tử

Thờ mẹ cha thời giữ chí thành

Bữa thường rượu thịt ngon lành

Cho ai, vâng cứ đinh ninh chẳng rời

Nhà bần bạc thường vui hái củi

Quãng mù xanh thui thủi non sâu

Mẹ ngồi tựa cửa bóng sau

Nhân khi khách đến, trông mau con về

Rồi trong dạ nhân khi cùng túng

Cắn ngón tay cho động lòng con

Trong non bỗng chốc bồn chồn

Quặn đau khúc ruột, bước dồn gót chân

Quỳ dưới gối ghé gần thưa hỏi

Lắng bên tai nghe giải nguồn cơn

Cho hay từ, hiếu tương quan

Non Đồng khi lở, khôn hàn tiếng chuông

4. Mẫn Tử Khiêm

Thầy Mẫn Tử rất đường hiếu nghĩa

Xót nhà huyên quạnh quẽ đã lâu

Thờ cha sớm viếng, khuya hầu

Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng nàn

Trời đương tiết đông hàn lạnh lẽo

Hai em thời kép áo, dày bông

Chẳng thương chút phận long đong

Hoa lau nỡ để lạnh lùng một thân

Khi cha dạo, theo chân xe đẩy

Rét căm căm nên xẩy rời tay

Cha nhìn ngẫm nghĩ mới hay

Nghiến răng rắp cắt đứt dây xướng tuỳ

Gạt nước mắt, chân quỳ, miệng gửi:

Lạy cha, xin xét lại nguồn cơn

Mẹ còn, chịu một thân đơn

Mẹ đi, luông để cơ hàn cả ba

Cha trông xuống cũng sa giọt tủi

Mẹ nghe lời cũng đổi lòng xưa

Cho hay hiếu cảm nên từ

Thấm lâu như đá cũng rừ lọ ai ?

5. Tử Lộ

Thầy Tử Lộ cùng người nước Lỗ

Thờ hai thân từng bữa canh lê

Thường khi đội gạo đi về

Xa xôi trăm dặm, nặng nề hai vai

Đỉnh Hoa biểu từ khơi bóng hạc

Gót Nam Du nhẹ bước tang bồng

Xe trăm cỗ, thóc muôn chung

Ngồi chồng đệm ghép, ăn chồng vạc cao

Thân phú quý ngắm vào thêm tủi

Đức cù lao chạnh tới lòng đau

Nào khi đội gạo, canh rau

Muốn còn như cũ, dễ hầu được ru ?

Lòng thắc mắc nghìn thu vẫn để

Biết bao giờ cam chỉ đền công

Cho hay dạ hiếu khôn cùng

Dẫu Tam Công chẳng đổi lòng thần hôn

6. Diễm Tử

Chu Diễm Tử làm con rất thảo

Chiều hai thân tuổi lão, niên cao

Mắt trần khuất nguyệt, mờ sao

Sữa hươu, người những ước ao từng ngày

Vật khó kiếm khôn thay thường đổi

Phải lo phương tìm tõi cho ra

Hươu khô tìm lấy lột da

Mặc làm sắc áo để hoà lẫn theo

Chốn non thẳm tìm vào bầy lứa

Sẽ dần dà lấy sữa nuôi thân

Bỗng đâu gặp lũ đi săn

Rắp buông cung bắn, khôn phân vật, người

Đem tâm sự tới nơi bày tỏ

Chút hiếu tình nghe rõ không thôi

Cho hay chung một tính trời

Mảnh son cũng động được người vũ phu

7. Lão Lai Tử

Lão Lai Tử đời Chu, cao sĩ

Thờ hai thân chẳng trễ ngọt bùi

Tuổi già đã đúng bảy mươi

Nói năng chẳng chút hở môi rằng già

Khi thong thả, mẹ cha ngồi trước

Ghé gần vào bắt chước trẻ thơ

Thấp cao điệu múa nhởn nhơ

Xênh xoang màu áo, bạc phơ mái đầu

Chốn đường thượng, khi hầu bưng nước

Giả làm điều ngã trước thềm hoa

Khóc lên mấy tiếng oa oa

Tưởng chừng lên bảy, lên ba thuở nào

Trên tuổi tác trông vào vui vẻ

Áng đình vi, gió thuỵ mưa xuân

Cho hay nhân tử sự thân

Trong trăm năm được mấy lần ngày vui

8. Đổng Vĩnh

Đời Hậu Hán có người Đổng Vĩnh

Nhà rất nghèo mà tính rất thành

Thấu chăng, chẳng thấu trời xanh

Phụ tang để đó, nhân tình còn chi

Liều thân thể làm thuê công việc

Miễn cầu cho thể phách được yên

Cực cười thay! nhẽ đồng tiền

Đem thân hiếu tử, băng miền phú gia

Bỗng gặp kẻ đàn bà đâu đó

Xin kết làm phu phụ cùng đi

Lụa, ba trăm tấm dệt thuê

Trả xong nợ ấy mới về cùng nhau

Tới chốn gặp bỗng đâu thoắt biến

Là tiên cô, Trời khiến giúp công

Mới hay Trời vốn ở lòng

Há rằng cao thẳm, nghìn trùng mà xa

9. Quách Cự

Hán Quách Cự cửa nhà sa sút

Thờ mẫu thân chăm chút mọi bề

Con còn ba tuổi biết gì

Bữa ăn từ mẫu thường thì bớt cho

Trông thấy mẹ bữa no, bữa đói

Với hiền thê than nỗi khúc nhôi

Mẹ già đã chẳng hay nuôi

Để con xẻ ngọt, chia bùi sao đảng

Vợ chồng ta còn phen sinh đẻ

Mẹ già rồi, hồ dễ được hai

Nói thôi, giọt vắn, giọt dài

Đào ba thước đất để vùi tình thâm

May đâu thấy hoàng kim một hũ

Chữ Trời cho đề rõ rành rành

Cho hay Trời khéo ngọc thành

Hiếu tâm đâu để đoạn tình cha con

10. Khương Thị

Hán Khương Thị nhà còn lão mẫu,

Vợ họ Bàng vẹn đạo chữ tòng,

Mẹ thường muốn uống nước sông,

Vợ từng đi gánh thay chồng hầu cô

Mẹ thường muốn ăn đồ gỏi ghém

Vợ chồng đều tìm kiếm đủ mùi

Lại mời lân ẩu sang chơi

Để bồi cùng mẹ cho vui bạn già

Bên nhà bỗng chảy ra suối ngọt

Với nước sông in một mùi ngon

Lý Ngư ngày nhảy hai con

Đủ trong cung cấp thần hôn thường lề

Rày thong thả bõ khi lận đận

Cam thoả lòng dâu thuận, con hiền

Cho hay gia đạo khi nên

Đã con hiếu, lại được hiền cả dâu

11. Thái Thuận

Người Thái Thuận ở sau đời Hán

Dạ thờ thân tiết loạn khôn lay

Đương cơn khói lửa mây bay

Liền năm hoang khiếm, ít ngày đủ no

Nơi rừng rậm kiếm đồ nuôi mẹ

Nhặt quả dâu chia để làm hai

Tặc đồ trông thấy nực cười

Hỏi: “Sao bày đặt đôi nơi cho phiển”

Rằng: “Quả ấy sắc đen thì ngọt

“Dâng mẹ già gọi chút tình con

“Còn là sắc đỏ chẳng ngon

“Cái thân cay đắng dám còn sợ chua ?”

Giặc nghe nói khen cho hiếu kính

Bước lưu ly mà gánh cương thường

Truyền quân của tiễn sẵn sàng

Vó trâu một chiếc, gạo lương một bàu

Mừng trong dạ, bước mau lẹ gót

Về tới nhà, miếng sốt dâng qua

Cho hay người cũng người ta

Biết đâu đạo tặc chẳng là lương tẩm

12. Đinh Lan

Hán Đinh Lan thuở còn thơ ấu

Bóng xuân huyên khuất dấu non xanh

Đến nay tuổi đã trưởng thành

Cám công sơn hải, thiệt tình trân cam

Tưởng dung mạo khắc làm mộc tượng

Cứ bữa thường phụng dưỡng như sinh

Khi chăn gối, buổi cơm canh

Mấy mươi năm vẫn lòng thành trước sau

Phải người vợ kính lâu nên trễ

Thử lấy kim châm kẽ ngón tay

Bỗng đâu giọt máu chảy ngay

Ai hay tượng gỗ lâu ngày thiêng sao ?

Khi đến bữa, chồng vào đặt lễ

Mắt tượng rơi hàng lệ chứa chan

Xét xem mới biết nguồn cơn

Nổi bùng lá giận, dứt tan dây tình

Há phải nhẫn, mà đành phụ nghĩa

Hiếu với tình nặng nhẹ phải cân

Cho hay thành hẳn nên thần

Há rằng u hiển, mà phân vong tồn

13. Lục Tích

Hán Lục Tích thuở còn sáu tuổi

Quận Cửu Giang đến với họ Viên

Trẻ thơ, ai chẳng yêu khen

Quýt ngon đặt tiệc tiểu diên đãi cùng

Cất hai quả vào ngay trong áo

Tiệc tan xong, từ cáo lui chân

Trước thềm khúm núm gửi thân

Vô tình quả quýt nảy lăn ra ngoài

Viên trông thấy, cười cười hỏi hỏi

“Sao khách hiền mang thói trẻ thơ ?”

Thưa rằng: “Mẹ vốn tính ưa

“Vật ngon dành lại để dưa mẹ thì”

Viên nghe nói, trọng vì không xiết

Bé con con mà biết hiếu thân

Cho hay phú giữ thiên chân

Sinh ra, ai cũng sẵn phần thiện đoan

14. Giang Cách

Hán Giang Cách cô đơn từ bé

Bước truân chuyên với mẹ đồng cư

Đương cơn loạn lạc bơ vơ

Một mình cõng mẹ vẩn vơ dọc đường

Từng mấy độ chiến trường gặp giặc

Giặc cố tình hiếp bắt đem đi

Khóc rằng: “Thân mẹ lưu ly

“Tuổi già, bóng chếch biết thì cậy ai ?”

Giặc nghe nói thoắt thôi, chẳng nỡ

Rồi dần dà qua ở Hạ Bì

Dấn mình gánh mướn, làm thuê

Miễn nuôi được mẹ, quản gì là thân

Mọi đồ vật sắm dần đủ hết

Áng xuân phong tươi nét từ nhan

Cho hay những lúc gian nan

Thật vàng, dẫu mấy lửa than cũng vàng

15. Hoàng Hương

Đời Đông Hán, Hoàng Hương chín tuổi

Khuất bóng từ dòi dõi nhớ thương

Hạt châu khôn ráo hai hàng

Tiếng đồn vang dậy trong làng đều khen

Thờ nghiêm phụ cần chuyên, khuya sớm

Đạo làm con chẳng dám chút khuây

Trời khi nắng hạ chầy chầy

Quạt trong màn gối, hơi bay mát rầm

Trời đông buổi sương đầm, tuyết thắm

Ấp hơi mình cho ấm chiếu chăn

Vì con, cha được yên thân

Bốn mùa không biết có phần hạ, đông

Tiếng hiếu hạnh cảm lòng quận thú

Biển nên treo chói đỏ vàng son

Cho hay tuổi trẻ mà khôn

Nghìn thu biết đạo làm con mấy người ?

16. Vương Thôi

Ngụu Vương Thôi gặp đời Tây Tấn

Vì thù cha lánh ẩn, cao bay

Bên mồ khóc đã khô cây

Trọn đời ngồi chẳng hướng Tây lúc nào

Khi sấm sét tìm vào mồ mẹ

Lạy khóc rằng: “Con trẻ ở đây”

Bởi vì tính mẹ xưa nay

Vốn từng sợ sấm những ngày gió mưa

Nên coi sóc chẳng từ sớm tối

Thần phách yên, dạ mới được yên

Trong khi đọc sách giảng truyền

Tới câu “sinh ngã” lệ tràn như tuộn

Ngập ngừng kẻ cấp môn cũng cảm

Thơ “Lục Nga” chẳng dám còn ngâm

Cho hay thử lý, thử tâm

Sư, sinh cũng tấm tình thâm, khác gì

17. Ngô Mãnh

Tấn Ngô Mãnh tuổi thì lên tám

Lòng sự thân chẳng dám khi nhàn

Cực về một nỗi bần hàn

Có giường trong đặt, không màn ngoài che

Trời đương buổi đêm hè nóng nảy

Tiếng muỗi kêu vang dậy đương mùa

Xót thay! hai đấng nghiêm, từ

để người chịu muổi, bây giờ biết sao ?

Nghĩ da thịt phương nào thay lấy ?

Quyết nằm trần, muỗi mấy chẳng xua

Rầu lòng cho muỗi được no

để người êm ái giấc hoè cho an

Tuổi tuy bé, nhưng gan chẳng bé

Dạ ái thân đến thế thời thôi

Cho hay phú tính bởi trời,

Những đau trong ruột, dám nài ngoài da

18. Vương Tường

Người Vương Tường cũng là đời Tấn

Tủi huyên đường sớm lẩn bóng xa

Mẹ sau gặp cảnh chua ngoa

Tiếng gièm thêu dệt với cha đủ điều

Lòng cha chẳng còn yêu như trước

Lòng con thường chẳng khác như xưa

Mẹ thương muốn bữa sinh ngư

Giá đông trời lạnh, bây giờ tìm đâu ?

Trên váng đóng, quyết cầu cho thấy

Cởi áo nằm rét mấy cũng vui

Bỗng đâu váng lở làm hai

Lý ngư may được một đôi đem về

Bữa cung cấp một bề kính thuận

Mẹ cha đều đổi giận làm lành

Cho hay hiếu cảm tại mình

Dẫu trăm giận, lúc hạ tình cũng thôi

19. Dương Hương

Tấn Dương Hương mới mười bốn tuổi

Cha bước ra hằng ruổi theo cha

Phải khi thăm lúc đường xa

Chút thân tuổi tác thoắt xa miệng hùm

Đau con mắt, hầm hầm nổi giận

Nắm tay không, vơ vẩn giữa đường

Hai tay chặn dọc, đè ngang

Ra tay chống đối với hổ lang một mình

Hùm mạnh phải nhăn nanh, lánh gót

Hai cha con lại một đoàn về

Cho hay hiếu mạnh hơn uy

Biết cha thôi lại biết chi có mình

20. Mạnh Tông

Ngô Mạnh Tông phụ thân sớm khuất

Thờ mẫu thân lòng thực khăng khăng

Tuổi già trằn trọc, băn khoăn

Khi đau nhớ bát canh măng những thèm

Trời đông tuyết biết tìm đâu được

Chốn trúc lâm phải bước chân đi

Một thân ngồi tựa gốc tre

Ôm cây kêu khóc, nằn nì với cây

Giữa bình địa phút giây bỗng nứt

Mấy giò măng, mặt đất nổi lên

Đem về điều đặt bữa canh

Ăn rồi bệnh mẹ lại lành như xưa

Măng mùa lạnh bây giờ mới thấy

Để về sau nhớ lấy cỏ cây

Cho hay hiếu động cao dày

Tình sâu cũng khiến cỏ cây cũng tình

21. Sửu Kim Lâu

Sửu Kim Lâu có danh Tề quốc

Huyện Bình Lăng nhậm chức thân dân

Tới nha chưa được một tuần

Mồ hôi như dội, tâm thần thường đau

Treo ấn ruổi vó câu buồn bã

Về thăm cha, bệnh đã hai ngày

Nếm dơ vẫn cứ lời thầy

Ngọt ngào đầu lưỡi, chua cay trong lòng

Thấy chữ dạy: “Bệnh trung nghi khổ”

Ước làm sao bệnh đỡ mới cam

Đêm đêm hướng Bắc, triều tam

Xin đem tánh mạng thay làm thân cha

Lòng cầu khẩn thấu toà tinh tú

Chữ bình an vui thú đình vi

Cho hay mảy động huyền vi

Thay mình truyện trước còn ghi kim bằng

22. Dương Thị

Dâu họ Thôi, ai bằng Dương thị

Thương mẹ chồng niên kỷ đã cao

Không răng, ăn dễ được nào

Ngày ngày lau chải, ra vào thăm coi

Lấy sữa ngọt thay mùi cơm cháo

Mấy năm trời chẳng gạo mà no

Vì đâu dốc dạ thờ cô

Da mồi, tóc bạc, bốn mùa như xuân

Ơn lòng ấy khôn phần báo lại

Buổi lâm chung, nhủ với hoàng thiên

Xin cho nguyền được như nguyền

Dâu dâu ngày khác lại hiền như dâu

Ai nghe cũng răn nhau hiếu kính

Cửu Thôi gia hưng thịnh đời đời

Cho hay gia khánh lâu dài

Báu nào còn báu hơn người dâu ngoan

23. Châu Thọ Xương

Châu Thọ Xương làm quan Tống đại

Mẹ sinh ra bảy tuổi lìa lòng

Bởi vì đích mẫu chẳng dung

Đem thân bồ liễu bạn cùng nước non

Muôn nghìn dặm mẹ con xa cách

Năm mươi năm trời đất bơ vơ

Sinh con những tưởng cậy nhờ

Cái thân sung sướng bây giờ mà chi ?

Bỏ quan chức, quyết đi tìm tõi

Nặng lời thề nói với gia nhân

Thân này chẳng gặp từ thân

Thời liều sống thác với thân cho đành

24. Tăng Trực

Triều Nguyên Hữu có thầy Tăng Trực

Là họ Hoàng ngồi chức sử thần

Ơn vua đã nhẹ tấm thân

Phận con, vẫn giữ thờ thân như ngày

Đồ dơ bẩn tự tay lau chuốt

Việc tầm thường chẳng chút đơn sai

Há rằng sai khiến không ai

Đem thân quan trọng thay người gia nô

Chức nhân tử phải cho cần khổ

Có mẹ cha mới có thân ta

Cho hay đạo chẳng ở xa

Hãy làm hiếu tử mới ra trung thần

Kết …

Bấy nhiêu tích cổ nhân về trước

Cách nghìn xưa như tạc một lòng

Kể chi kẻ đạt, người cùng

Lọt lòng ai trốn khỏi vòng di luân ?

Buổi công hạ cảm thân dày đội

Xa hương quan, gần cõi Thánh Hiền

Trông vào những thẹn bóng đè

Muốn lưu gia phạm, nên truyền quốc âm!


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét