Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Hop tuyen LSVH.html


Hợp tuyển Box LS-VH

Kỷ niệm Ðại Hội TTVNONLINE lần thứ I Tháng 8 / 2002


T ổng biên tập:

NguCong

Phó t ổng biên tập:

Yasunari


Biên t ập viên:

Annonymous, Codet, Desert Roses,Ghen, Mystery_aries


K ỹ thuật:

mystery_aries


Trình bày bìa:

Egoist, daysleeper Phần thứ nhất

Giới thiệu Box LS – VH Lời nói đầu

M ở cuốn sách này, bạn sẽ có cảm tưởng như bước vào một căn phòng kính dưới đáy biển. Chính ởđây bạn sẽ phần nào thấy được một thế giới khác với những sắc màu riêng biệt – thế giới của kiến thức lịch sử và văn hoá.

L ịch sử – văn hoá, đối với tôi, Yasunari, và nhiều bạn khác, thật là một thế giới rộng lớn và đầy bí ẩn. Trước đây, khi lần đầu tiên tiếp xúc với những môn học này, trí óc non nớt của tôi cứ quan niệm một cách hình ảnh rằng Lịch sử là một anh chàng râu quai nón lầm lì còn Văn hoá là một anh chàng già dặn, khô khan và gầy khẳng khiu – Nhưng theo tháng năm, hình ảnh ấy ngày càng thay đổi. Khuôn mặt của Lịch sử trở nên dễ mến hơn còn Văn hoá thì hay cười duyên. Thậm chí bây giờ tôi lại nghĩ Văn hoá là một cô gái. Dần dần, Lịch sử – Văn hoá có nhiều khuôn mặt hơn, nhiều tính cách hơn. Ðó là khuôn mặt của những nhân vật có thật nổi tiếng trong lịch sử ; là chân dung các nghệ sĩ và những tác phẩm của họ; là hình ảnh các cụ già, các em nhỏ, các chàng trai, cô gái trong ngày hội làng – Hẳn các bạn cũng như tôi cảm nhận được sự tồn tại của họ khi đọc từng cuốn sách, khi chạm tay vào những bức tường rêu phong cổ kính hay đơn giản chỉ là khi mở cuốn gia phả. Lịch sử – Văn hoá thật giống một bức tranh hoành tráng mà lại sâu sắc !

Ðây ch ỉ là những cảm nhận chủ quan của tôi, một thành viên của box LS – VH. Mỗi người trong số chúng tôi đều sẽ có những cảm nhận khác biệt, tuy nhiên, qua cuốn sách nhỏ này, chúng tôi hy vọng sẽ được chia sẻ với các bạn niềm say mê đối với Lịch sử và Văn hoá.

Vì v ậy, được sựđồng ý của các tác giả cùng sựủng hộ của các thành viên trong và ngoài box, Ban Biên tập chúng tôi đã gắng sức tuyển chọn những bài viết hay, hấp dẫn được nhiều người đọc của box LS
– VH trong hai tháng đầu thành lập và có cả những bài viết trước ngày lập box đưa vào Hợp tuyển với mong muốn làm các thành viên TTVNONLINE xích lại gần nhau !!! Thân ái Yasunari (đại diện BBT)

AI? AI? VÀ AI?

Box l ịch sử Văn hoá là một trong những box mới toanh của ttvnonline.com. Box mới chỉđược thành lập cách đây hơn 2 tháng do ý tưởng của Yasunari.Thực ra nhu cầu hiểu biết về lịch sử của giới trẻ Việt Nam là rất lớn, nhưng vấn đềđặt ra là hiện có một sân chơi nào mang tính học thuật nghiêm túc, lại vừa trang nhã, vừa gần gụi để có khả năng khơi gợi sự ham muốn hiểu biết đó không? Sự nỗ lực không ngừng của Yasunari cùng với trên 50 thành viên ủng hộđã tạo nên một kết quả tuyệt vời: box Lịch sử Văn hoá ra đời. Bây giờ ta thử lướt qua một số thành viên trong box. Trước hết là 4 Mod: Cuoihaymeu (Kiến thức ca, một con người bí ẩn, chưa bao giờ offline, sao vậy bác Cười hay mếu?); VNHL (điềm đạm, tự tin, offline đủ nhưng thời gian chỉ vừa hết cốc nước), cdtphuc (1 mod ở thành phố Hồ Chí Minh giấu mình trong một kho tài liệu mà ối người mong muốn- có vẻ hơi nóng nhưng rất bản lĩnh); yasunari (thành viên "hùng hục" của Box) và mới đây thêm một Mod mới toanh (vì chưa được ăn mừng chính thức) hơn nữa lại có duyên ngầm (theo ý kiến của codet)……..NguCong. Bây giờ chúng ta hãy dùng "kính lúp" để tìm hiểu thêm !!!!!!!!

1. Yasunari: Là sáng lập viên và moderator của Box. Đây là một tấm lòng từ thiện của box. Anh chàng rất nhạy cảm, các bài viết của hắn do vậy thường rất mềm mại. Nhưng đừng tưởng hẳn bẽn lẽn và uỷ mị, khi cần, hắn vẫn có thểđanh đá như… bà bán cá. Là một người nhiệt tình, thẳng thắn và không vụ lợi, hắn xứng đáng là thủ lĩnh của box lịch sử văn hoá.

2. VNHL: Moderator. Chuyên gia chăn dắt. Rất phong độ và chững chạc. Nếu chỉ nhìn bề ngoài thì khó mà đánh giá độ tuổi của anh. Với những hiểu biết sâu sắc trong nhiều lĩnh vực như lịch sử văn hoá, kinh tế chính trị… cùng với phong cách nói chuyện từ tốn, bình dị, anh đã gây được nhiều thiện cảm đối với các thành viên (nhất là các em _ Nguy hiểm !!!)

3. Cdtphuc: Moderator. Nhà ngoại giao của box Lịch sử văn hoá. Mặc dù ở thành phố Hồ Chí Minh xa xôi nhưng Cdtphuc rất nhiệt tình tham gia mọi hoạt động của box. Nghiêm túc, quyết liệt, bản lĩnh trong công việc, anh xứng đáng được coi như một Bao Công của box Lịch Sử Văn Hoá.

4. Cuoihaymeu: Moderator. Tổng biên tập báo Địa Phủ Cười. Là một người có vốn kiến thức uyên thâm, sâu sắc và rộng rãi bậc nhất của box. Anh cũng là người có uy tín cao trong cộng đồng TTVNonline. Các bài viết của anh chứa đựng những thông tin chính xác và sựđánh giá sắc sảo, cùng với lối diễn đạt hài hước, anh được các thành viên rất thán phục. PS: Theo thông tin chúng tôi mới nhận được vào lúc 0 giờ 30 phút đêm nay, một nhóm thành viên nữ của TTVNonline, đứng đầu là tiểu thư SongMinh, bông hoa héo một thời của box lịch sử văn hoá, đã đệđơn lên ban quản trị diễn đàn xin thành lập cuoihaymeu crazy fan club. Chúng tôi sẽ nhanh chóng thu thập thông tin về sự kiện này và có lẽ sẽ tiếp tục cập nhật tới các bạn trong.. hợp tuyển lần sau.

5. Lehongphu: Anh cả của box Lịch Sử Văn Hoá, đồng thời là Mạnh Thường Quân của box. Với vốn kiến thức dày và sâu của một con người từng trải, các bài viết của anh thường rất chất lượng và trí tuệ, nhưng, không vì thế mà mất đi tính trẻ trung, tươi… mát. Có lẽ bởi vì tâm hồn anh trẻ hơn rất nhiều so với tuổi đời.

6. Desert Rose: Em út của box Lịch Sử Văn Hoá. Cô nàng nhiều lần gây ngạc nhiên cho các thành viên lớn hơn mình gần chục tuổi bởi những bài viết chứng tỏ một vốn kiến thức rất rộng và sâu so với tuổi đời và kỹ năng tổng hợp thành thạo của mình. Cô nàng xứng đáng là một đại diện tiểu biểu cho một lực lượng trẻ sẽ gáng vác trọng trách phát triển và gìn giữ box Lịch Sử Văn Hoá sau này, khi các thành viên cốt cán hiện nay đã… lấy vợ. 7. Mystery_aries: Bộ trưởng bộ tài chính. Thành viên rất nhiệt tình, vui vẻ và thân thiện của box. Là người đóng góp rất nhiều công sức (có lẽ là nhất) cho việc xuất bản hợp tuyển. Chị là người rất đáng tin tưởng để trao trọng trách giữ “tay hòm chìa khóa” của box.

8. NguCong: Tổng biên tập hợp tuyển. Đẹp “rai”, hơi già dặn so với tuổi đời. Là sinh viên thuộc khối chuyên ngành kỹ thuật… chân tay, cụ thể là xây cầu, xây cống, nhưng hắn cũng rất quan tâm tới các vấn đề về lịch sử văn hoá. Y là một trong số rất ít sinh viên hiện nay có một kiến thức toàn diện.

9. Annonymous: Hoa khôi của box. Người tình trong mơ của VNHL. Nguyên nhân trực tiếp gây ra những cuộc bút chiến kịch liệt trên box Lịch Sử Văn Hoá mà mục đích duy nhất của các địch thủ là chiếm được trái tim trong trắng của nàng. Nàng xinh !!! Điều này hiển nhiên ! Nhưng khác với đa phần các hoa khôi Việt Nam, nàng cũng rất uyên bác. Giống như NguCong, nàng là sinh viên trường kỹ thuật, và cũng là thanh niên thế kỉ 21 (đúng nghĩa). Nàng thực sự là làn gió tươi trẻ và mát mẻ (tất nhiên rồi) mà ông trời đã ưu ái dành riêng cho box lịch sử văn hoá.

10. Ghen: Một chàng Ghen có ghen điên cuồng không? Tiếp xúc với Ghen thì cái title đó chẳng đúng tẹo
nào. Ðây là một biên tập viên hăng hái hết mình vì công việc chung!
Và ai nữa? Một nhà biên kịch từng trải hơi hào phóng – đó là La Trung. Tiếc thay box LS-VH không có
mỹ nhân đểđóng Dương Vân Nga nên ta đành ngậm ngùi giã từ… vở kịch!

Còn nh ững ai nữa? Ðó là Hector, Yahaha22, yuyu, codet, là……..(Tự thêm vào nhé!………..) và rất nhiều thành viên khác. Nhìn chung sự nhiệt tình là điều không thể thiếu được ở các mod nói riêng, ở toàn bộ thành viên và những người yêu thích lịch sử nói chung. Trong những ngày cuối tháng 7 năm 2002, lượng người tham gia truy cập vào box LS-VH ngày càng tăng (càng về khuya theo giờ Việt Nam càng đông người online!). Các chủđề mới không quá nhiều nhưng có thể nói là đạt chất lượng (Tất nhiên là trong khuôn khổ!). Ða số các cuộc tranh luận đều tuân theo tiêu chí nôi quy của box và của TTVN. Các mod cũng hoạt động hết công suất kịp thời đưa box LS – Vh đi đúng hướng. Ðặc biệt là sự ra đời hợp tuyển đầu tiên – đánh dấu một bước trưởng thành của box.

Trên đây là nhận xét sơ lược một số gương mặt của box. Hy vọng mọi người sẽ hiểu nhau hơn và hãy

c ố gắng vì một box LS – VH đúng nghĩa! Hà nội, mùa thu, 11.8.2002 PhantinCodet, NguCong & Ghen thực hiện.

Phần thứ hai Tìm hiểu Lịch sử

Trong cu ộc sống, chúng ta luôn quan tâm đến nguồn gốc của mình. Chúng ta thường tự hỏi: Ta là ai? Ta từđâu đến? Tổ tiên chúng ta đã làm gì để tồn tại?…..vân vân và vân vân…. Những câu hỏi đó luôn làm bận tâm nhiều thế hệ, thậm chí cả giới mê Internet, đặc biệt là các thành viên mạng TTVNONLINE. Cũng vì thế, có biết bao người, sau cả cuộc đời bôn ba nơi hải ngoại, lại muốn tìm về cội nguồn dù cội nguồn thì khác xa nơi họ sống. Lại có những người phải xa quê hương vì nhiều lý do cũng đau đáu nhớ về Tổ Quốc. Có những thanh niên còn rất trẻ, tay múa trên keyboard chơi games và lang thang Internet nhưng thực sự ham hiểu biết và tràn đầy nhiệt huyết với Lịch sử…Tất cả họđã tìm thấy ở TTVNONLINE và đặc biệt là box LS-VH, một địa chỉđáng tin cậy để cùng tìm về nguồn cội bởi một lẽđơn giản – chỉ khi nhìn lại quá khứ, chúng ta mới có thể tìm được hướng đi đến tương lai.


Những mốc lịch sử quan trọng nhất của Hà Nội

Username:

Koibeto81


Câu “Hà Nội ngàn năm văn vật” chắc ai cũng biết và cũng có thể nói ra được, vậy mà chẳng mấy ai
nhớ nổi những thời khắc quan trọng nhất mà Hà Nội đã trải qua.

Cái tên Hà N ội thực ra xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1931 nhân một cuộc cải cách hành chính lớn thời Minh Mạng. Lúc đó nhà Nguyễn gọi là tỉnh Hà Nội, Hà Nội của nhà mình được gọi là thành phố khi Pháp thành lập “thành phố Hà Nội” vào năm 1886 sau khi chiếm được tỉnh Hà Nội vào năm 1883. Còn bà con mình thì vẫn cứ gọi là Hà Nội cho ngắn gọn. Nhưng theo tớ nếu tính lịch sử Hà Nội từ năm nào thì nên tính từ khi Hà Nội bắt đầu đóng vai trò quan trọng nổi bật trong đời sống kinh tế, văn hoá, chính trị của nước mình, do đó tớ thấy bắt đầu từ năm 1010 là được, giống bác cuoihaymeu.

Đúng là kể từ thời điểm đó Thăng Long – Hà Nội luôn là nơi xảy ra những sự kiện quan trọng đối với
mệnh hệ của dân tộc mình.

Vua Lý Thái T ổ khi dời đô vềĐại La, rồi như chúng ta vẫn biết là dựa vào truyền thuyết “rồng bay lên” mà sinh ra cái tên Thăng Long. Chuyện có thể không thật nhưng các cụ nghĩ ra chuyện đó chắc không phải đề loè ai cả mà có lẽ chỉ là một niềm tin, một dựđoán, một mong muốn rằng từđây Thăng Long rồi Hà Nội sau này, đi vào lịch sử như là trái tim của dân tộc Việt.

Tớ xin được nhắc lại một số mốc quan trọng trong lịch sử 1000 năm Thăng Long – Hà Nội.

Trong 3 l ần kháng chiến chống Nguyên Mông, Thăng Long đã 3 lần thành “vườn không nhà trống” làm cho quân giặc lâm vào cái cảnh “lui thì không xong mà đánh thì chẳng biết đánh nhau với ai” rồi cuối cùng cũng bịđánh cho chạy mất dép. Đến thời Lê Lợi, Nguyễn Trãi đánh giặc Minh. Thăng Long trở thành chiến trường cuối cùng khi quân giặc, khiếp sợ trước sức mạnh của nghĩa quân Lam Sơn, đã phải thềở cổng thành phía Nam (không biết là cửa ô nào trong năm cửa ô), xin đầu hàng. Trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, Thăng Long lại trở thành nơi chứng kiến thiên tài quân sự của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, bằng một cuộc cuộc hành quân thần tốc (tớ không rõ nó diễn ra trong bao lâu mà chỉ biết điểm đến là Thăng Long và vào ngày mồng 5 Tết) đã đánh tan 20 vạn quân xâm lược Mãn Thanh. Dưới triều Nguyễn (kể từ Nguyễn Ánh) tuy không còn là thủđô nữa nhưng Thăng Long – Hà Nội vẫn là một trung tâm văn hóa, kinh tế, chính trị quan trọng của thời đó. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp rồi Mỹ, Thăng Long – Hà Nội vẫn xứng đáng là trái tim của cả nước. Nổi bật là trong Cách mạng tháng Tám, Hà Nội là một trong những địa phương nổi dậy giành chính quyền sớm nhất trong cả nước, và đến ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình lịch sử, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa…, rồi đến ngày 19/12/1946, Hà Nội lại là nơi mởđầu cho cuộc kháng chiến 9 năm của cả dân tộc. Đến thời chống Mỹ thì Hà Nội cùng với các tỉnh miền Bắc trở thành hậu phương lớn của miền Nam ruột thịt.! Rồi trong 12 ngày đêm ác liệt năm 1972 nhân dân Hà Nội đã làm lên một Điện Biên Phủ trên không, buộc Mỹ phải ký hiệp ước Paris chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Ha… Hà Nội nhà mình cũng anh hùng ra phết đấy chứ nhỉ.

Tản mạn về kiến trúc lăng tẩm Huế


Username:

NguCong

Ng ười du khách đã từng một lần đến với Huế, nơi dòng sông Hương lững lờ chảy, tất không tránh khỏi ngỡ ngàng. Là một trung tâm du lịch lớn nhất cả nước, thế nhưng, khác với các thành phố phát triển anh em, ở Huế, ta bắt gặp một nhịp sống nhẹ nhàng, thanh thản. Con người Huế ung dung, tự tại. Cảnh sắc Huế dịu dàng, thơ mộng. Kiến trúc Huếđộc đáo và tinh tế. Ba yếu tốđó hoà quyện với nhau, nâng đỡ nhau và nuôi dưỡng lẫn nhau tạo nên một miền đất cốđô xinh xắn. Huếđẹp và ngây thơ như một cô gái đương thì.

Nói đến Huế là nói đến cả chiều dài của một nền phong kiến Việt Nam. Huế là mảnh đất cuối cùng lưu lại được những đường nét kiến trúc độc đáo, đặc trưng cho một nền quân chủđã tồn tại trên đất nước ta suốt hơn một nghìn năm lịch sử. Thế nên, nghiên cứu lịch sử kiến trúc Việt Nam mà không tìm đến với Huế là một thiếu sót lớn. Và sẽ lại càng thiếu sót hơn nếu nghiên cứu kiến trúc Huế mà không cảm được con người Huế, thiên nhiên Huế.

Trong bài vi ết nho nhỏ này, tôi không hề có ý định trình bày tất cảđặc điểm kiến trúc Huế. Việc đó vượt xa khả năng của một bài báo. Chỉ xin mời bạn cùng tôi tìm đến và cảm nhận một loại hình kiến trúc rất đặc trưng cho Huế. Đó là kiến trúc lăng tẩm. Theo quan điểm của triết học phương Đông, vua là biểu trưng của mặt trời cao cả, là đấng chí tôn của muôn vật. Hình ảnh mặt trời lặn biểu thị khái niệm vua băng hà. Thế nên, các vua triều Nguyễn trước khi mất đều chọn cho mình mảnh đất an nghỉ tại vùng đồi núi tĩnh mịch nằm khá biệt lập ở phía Tây và Tây Nam kinh thành. Trải qua 13 đời vua, nhưng do điều kiện lịch sử có nhiều biến động của đất nước ta dưới thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, tại Huế hiện nay chỉ có 7 khu lăng tẩm. Đó là các lăng Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, TựĐức, Dục Đức, Đồng Khánh và Khải Định. Xây dựng lăng tẩm cho nhà vua, các nhà kiến trúc thời Nguyễn phải triệt để tuân thủ yếu tố phong thuỷ. Âm phần nhà vua, hậu vận của hoàng tộc tốt hay xấu đều phụ thuộc vào sự lựa chọn đất để xây lăng, sự định đặt phương hướng và ngày khởi công xây dựng. Lăng tẩm nào cũng phải theo đúng các nguyên tắc phong thuỷ phương Đông như sơn triều, thuỷ tụ, tiền án, hậu chẩm, tả long hữu hổ, huyền thuỷ minh đường… và “huyền cung”, nơi trung tâm điểm của kiến trúc, phải toạ lạc đúng long mạch. Để tìm được một mảnh đất hội đủ những yếu tố như vậy, các nhà địa lý giỏi nhất thời bấy giờđã phải bỏ công sức hàng tháng, thậm chí cả năm trời đi khắp vùng đồi núi phía Tây kinh thành. Thế nê! n, đến thăm lăng tẩm vua chúa triều Nguyễn, ta không thể chỉ quan tâm đến những công trình kiến trúc ngay trước mặt mà phải phóng tầm mắt ra rất xa. Có như vậy, ta mới thấy hết được thực thểđịa lý thiên nhiên gắn liền với nó, mới thưởng thức được sự hoà quyện tuyệt vời giữa yếu tố tự nhiên và yếu tố con người. Ít ai ngờ rằng, tổng diện tích lăng Gia Long lên tới 2875 ha, có đến 42 ngọn núi chầu vào trung tâm điểm là mộđịa. Vùng lăng Triêu Trị rộng tới 475 ha, phía trước, bên phải có đồi Vọng Cảnh, bên trái của núi Ngọc Trản đứng thành thế “tả long hữu hổ”, ngọn núi Chằm đứng làm tiền án cách xa tới 8m. Còn trước mặt lăng Khải Định là dòng khe Châu Ê chảy khuất khúc từ trái sang phải rồi rẽ lại theo thế “chi huyền thuỷ”. Ởđây, mọi chi tiết của thiên nhiên đều đã được các nhà kiến trúc thời Nguyễn khai thác một cách triệt để, tận dụng và chỉnh trang lại để phục vụ cho ý tưởng của mình, tạo ra bối cảnh cho kiến trúc lăng. Sự hoà hợp ởđây đã đặt tới mức tuyệt diệu. Có thể nói là kiệt tác nhân tạo nằm trong lòng kiệt tác thiên nhiên vậy. Bảy lăng tẩm, mỗi lăng một tên gọi, và mỗi lăng lại cho ta một kiến trúc độc đáo, khác biệt. Tại lăng Minh Mạng, các công trình kiên trúc được bố trí đối xứng từng cặp qua một trục chính đi xuyên qua tâm lăng, thưa ở phần đầu và dày dần lên ở phần cuối trục. Cách bố trí này tạo nên một bố cục chặt chẽ, thống nhất. Xen kẽ giữa các các công trình kiến trúc là hai hồ lớn được uốn nắn, điều chỉnh, tạo cho lăng sự cân đối về âm dương. Sụ kết hợp hà! i hoà c�! ��a kiến trúc lăng đem đến cho du khách một cảm giác thành kính, nghiêm cẩn nhưng vẫn rất bình ổn trong tâm hồn. Trái ngược lại với phong cách kiến trúc chặt chẽ của lăng Minh Mạng là phong cách kiến trúc hết sức phóng khoáng của lăng TựĐức. Tại đây, mô hình đối xứng trong nghệ thuật kiên trúc cổđiển phương Đông bị phá vỡ. Mỗi công trình đều mang một đường nét khác nhau về nghệ thuật tạo hình, không hề trùng lặp, hết sức sinh động nhưng vẫn đảm bảo được tính nhất quán, gần gũi của một thực thể thống nhất. Các nhà kiến trúc thời TựĐức đã khéo léo lợi dụng nguồn nước tự nhiên của một con suối nhỏđể nới rộng, đào sâu và uốn nắn các thếđất, tạo nên hồ Lưu Khiêm và đắp thành đảo Tịnh Khiêm thơ mộng, tạo ra những con đường uốn lượn mềm mại như dải lụa phất phơ trước gió. Tại đây, ta nhận thấy một sự hoà quyện tuyệt vời giữa kiến trúc nhân tao và kiến trúc thiên nhiên.”Lăng TựĐức trở thành một bài thơ tuyệt tác, một bức tranh sơn thuỷ hữu tình, gợi cho du khác một hồn êm thơ mộng”(Phan Thuân An). Nội thất lăng tẩm vua chúa triều Nguyễn thực sự là những viện bảo tàng vô giá. Nơi đây lưu giữ những kiệt tác của dân tộc về hội hoạ, về trang trí, về gốm, sứ… phản ánh bàn tay tài hoa và bộ óc nghệ thuật tinh tế của các nghệ nhân nước ta qua hai thế kỉ. Đỉnh cao của sự xa hoa và hoành tránh trong trang trí nội thất lăng tẩm phải kểđến lăng Khải Định, vị vua được biết đến do tính cách thích trưng diện, do tác phẩm “Con rồng tre” nhiều hơn là do tài năng cai trịđất nước. Theo một số tư liệu còn! lưu gi�! ��được đến nay thì để có tiền xây lăng cho mình, nhà vua đã quyết định tăng thuế trên toàn quốc lên thêm 30%. Một con số cho thấy tính xa hoa đến kì lạ của con người đứng đầu đất nước này. Trên các bức tường trong cung Thiên Định, công trình kiến trúc chủ yếu của lăng, các nghệ nhân đầu thế kỉ hai mươi đã dùng hàng vạn mẩu sành, sứ, thuỷ tinh đủ màu sặc sỡđểđắp nổi thành hàng ngàn hình ảnh, hoạ tiết sống đông, vui mắt, và hết sức tinh xảo. Đặc biệt trên nóc trần của cung Thiên Định, còn lưu lại bức hoạ long vân độc đáo với diện tích hàng chục mét vuông, do cụ Phan Văn Tánh, một nghệ nhân nổi tiếng trong ” Nê ngoã tượng cuộc” ở Huế thời đó tạo thành bằng cả… chân và tay.

Bức hoạ Long Vân – Cung Thiên Ðịnh – Huế
Bức hoạ dùng màu xanh sẫm vẽ lên nền chất liệu ximăng trông như làm từ cẩm thạch, đến nay
vẫn được coi là bức hoạ hoành tráng có giá trị mĩ thuật cao nhất của nền hội hoạ nước nhà.

Xu ất phát từ quan điểm “sống gửi thác về” của con người thời bấy giờ, mà theo đó, cuộc sống dù có dài đến trăm năm thì cũng sẽ qua đi như một giấc mộng, chết không phải là hết, mà chết tức là bước vào một cuộc sống vĩnh hằng. Quan điểm này ta có thể tìm thấy ở hai câu thơ trong bài “Ngẫm sựđời” của TựĐức, vị vua thứ tư và cũng đồng thời là vị vua thi sĩ bậc nhất trong các vua triều Nguyễn.

Sựđời ngẫm nghĩ, nghĩ mà ghê
Sống gửi rồi ra thác lại về

Th ế nên, các ông vua triều Nguyễn đều có ý định xây lăng cho mình ngay từ lúc còn sống. Nhà vua chính là người phê duyệt việc chọn đất, tự lựa chọn kiến trúc và cũng là người trực tiếp đôn đốc việc thi công lăng tẩm cho mình. Điều đó lý giải tại sao, sau này, khi nhìn vào toàn bộ quy hoạch, kiến trúc và nội thất của lăng, ta như thấy thấp thoáng tính cảch, phẩm chất của từng ông vua trong đó. Lăng Gia Long hoành tráng, uy nghiêm mà thanh thản như cuộc đời một võ tướng đã công thành, danh toại. Lăng Minh Mạng chặt chẽ, hệ thống và đường bệ. Lăng TựĐức phóng khoáng, hữu tình phản ánh tâm hồn lãng mạn của một ông vua thi sĩ. Lăng Khải Định xa hoa tráng lệ mà thô cứng… Cũng chính xuất phát từ quan niệm về sự sống, cái chết rất phóng khoáng, nhẹ nhàng ấy mà đến với lăng tẩm của các vua chúa triều Nguyễn, ta không hề nhận thấy cảm giác ảm đạm, tang tóc. Trái lại, du khách nhưđặt chân đến chốn bồng lai tiên cảnh, để hồn khơi lên những cảm xúc lâng lâng, nhẹ nhõm. Làm cho cái tang tóc biết cười, e rằng chỉđây mới có…


Sự phân tranh Trịnh – Nguyễn

Username:

Trinity

Đây là những nguyên nhân sâu xa và quá trình phân tranh Trịnh – Nguyễn, một giai đoạn lịch sử thể

hi ện rõ tính phong kiến trong các triều đại Việt Nam. Duy về cái sự Trịnh – Nguyễn thì tôi xin phép bàn thêm và mở rộng ngọn nguồn nó ra một tí. Chắc các bạn vẫn còn nhớ chuyện triều Lê Sơ sau thời vua Lê Thánh Tông thì dần dà suy yếu dẫn

đế n nội loạn, đến Lê Cung Hoàng (Lê Xuân) thì mất nuớc vào tay Mạc Ðăng Dung. Dung là nguời khôn ngoan, mưu luợc, giữ tới chức Thái phó, từng buớc đoạt quyền bính để thoán ngôi. Năm 1527, sau khi bức tử Lê Cung Hoàng khi ấy mới 21 tuổi, Dung lập ra triều Mạc. Triều Mạc thực ra cũng chẳng đến nỗi nào. Tương đối thịnh trị! Mạc Ðăng Dung theo lối nhà Trần, sớm thoái vịđể nhuờng ngôi cho con là Mạc Ðăng Doanh, còn mình làm Thái thuợng hoàng nhưng vẫn quán xuyến những công việc trọng đại của quốc gia. Cứ 3 năm mở một kỳ thi hội và thi đình. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm -Trạng Trình của chúng ta đã đỗ Trạng Nguyên và rất đuợc vị nể duới triều Mạc. Ân tình ấy, Bạch Vân cư sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm sau này có lẽđã báo đáp bằng cách mách nuớc cho Mạc Hậu Hợp "Cao Bằng tuy tiểu, khả dung sổ thế" (Cao Bằng nhỏ nhưng cũng nương thân được vài đời). Ðến thời Mạc Ðăng Doanh, ở khu vực rừng núi hiểm trở Thanh Hóa giáp biên giới Việt Lào, một lực luợng mới đang ầm thầm nổi lên mà sau này sẽ kết liễu họ Mạc. Nguyễn Kim, cựu thần trung thành của nhà Lê, tích cực mộ quân, quy tụ anh hào các nơi dể khởi phục tiên triều. Ðến năm 1533 thì Kim lập Lê Duy Ninh, hạt giống còn rơi rớt của nhà Lê lên ngôi, Ninh lấy hiệu Lê Trang Tông, mởđầu thời kỳ Lê Trung Hưng (các bạn còn nhớ chuyện Chúa Chổm không?) Nguyễn Kim có nguời con rể tên là Trịnh Kiểm và con trai tên là Nguyễn Hoàng. Lực luợng nhà Lê Trung Hung ngày càng lớn mạnh. Năm 1543 Nguyễn Kim chiếm Tây Ðô (Thanh Hóa), cho đóng đô ởđấy, hình thành nên cục diện Nam-Bắc triều. Cung mở khoa thi đàng hoàng như ai, năm 1554! khoa thi đầu tiên tuyển mộđuợc khá nhiều nhân tài phò tá. Nhiều văn nhân võ tướng trong thiên hạ bỏ Mạc mà phù Lê. Năm 1545, Nguyễn Kim không may bị hàng tuớng của nhà Mạc đánh thuốc độc chết, con rể Trịnh Kiểm lên nắm quyền, bắt đầu thời kỳ "vua Lê-chúa Trịnh". Năm 1577 Mạc Kính Ðiển đem quân tiễu phạt, không ngờ thua to phải nhảy xuống sông mới thoát. Trịnh Kiểm lại khôn khéo cho quân băng rừng vuợt núi, vòng ra sau lưng Kinh thành mà đánh vào hậu phương nhà Mạc như Tuyên Quang, Sơn Tây,…, tạo thành thế gọng kìm. Mạc ngày càng lụn bại, thêm nỗi đến đời vua Mạc Hậu Hợp thì ông này sa vào gái gú, ruợu chè suốt ngày nên lòng nguời chán nản. Ðến 1592, thuỷ quân Lê Trung Hung đánh tổng lực vào Hải Dương, áp sát Kinh thành, truy đuổi bắt giết gần hết tôn thất nhà Mạc. Những nguời sống sót chạy lên Cao Bằng. Nhà Mạc-Cao Bằng còn kéo đuợc thêm 5 đời nữa, đến 1677 (đời vua Mạc Kính Vu) mới chịu dứt bóng. Tuởng từ nay sẽ chỉ còn một nhà Lê, song đất nuớc ta vẫn chua hết cảnh phân tranh… Sau khi lên nắm quyền, Trịnh Kiểm bắt đầu ngấm ngầm hãm hại con cháu Nguyễn Kim đểđộc tôn quyền lực. Nguyễn Ương, con truởng Nguyễn Kim là nạn nhân đầu tiên. Truớc tình cảnh ấy, để tìm cách thoát thân, năm 1558, Nguyễn Hoàng mới vận động chị mình là Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm cho Hoàng vào trấn thủ vùng Thuận Hóa, khi ấy còn là miền viễn biên hoang dã, rừng rú. Kiểm vờ nghe vợ nhưng ý thực là nghi Nguyễn Hoàng sẽ gục truớc vô vàn gian khổ, giặc giã trong ấy. Lệnh ban ra, cơ hội sống sót đã mở rộng truớc mắt, dù đang giữa ngày đông tháng giá, Nguyễn Hoàng tức kh! ắc lên! thuyền vuợt biển vào Nam. Cùng đi là khá nhiều thân thích, họ mạc (chủ yếu có gốc ở huyện Tống Sơn, Thanh Hóa) cùng rất nhiều quân thần trung thành với triều Lê, ước lên đến nghìn người. Ðến Quảng Trị, Nguyễn Hoàng cho đóng thuyền vào cảng Cửa Việt, lập dinh thựở Ái Tử thuộc huyện Ðang Xương, Quảng Trị. Tiếc là không có cái đài kỷ niệm nào ở nơi này, bởi Ái Tửđã ghi dấu một cột mốc rất lớn trong hành trình Nam tiến của dân tộc Việt. Thế kỷ XVII đáng phải đuợc coi là một trong những thế kỷđặc sắc nhất trong lịch sử dân tộc. Ðặc sắc, bởi cha ông chúng ta – những nguời có khi suốt đời không ra khỏi luỹ tre làng, lên đến huyện có khi đã coi là sự kiện lớn trong đời, đứng truớc biển nhưng chua bao giờ có nổi đội thuyền vuợt biển xa… – mà nay lại ở trong vai trò của những nhà thám hiểm (bất đắc dĩ), đi vào một vùng đất lạđầy bất trắc và hiểm nguy. Có ba vấn đề sống chết đối với Nguyễn Hoàng lúc này là khẩn trương xây dựng lực luợng quân sự, thu hút thêm càng nhiều càng tốt dân định cư và mở rộng lãnh thổ. Có thể nói ông cũng như một vài đời chúa Nguyễn về sau đã giải quyết cả ba vấn đề này một cách xuất sắc. Không có quân đội vững mạnh thì Nguyễn Hoàng không thể đối phó với Trịnh Kiểm cũng như những sắc dân Chămpa địa phương đang tức giận vì bị mất đất. Về mặt số luợng quân, rõ là Ðàng Trong không thể ganh đua với Ðàng Ngoài có dân số vuợt trội. Vậy là chỉ còn một con đường xây dựng lực lượng tinh nhuệ, thiện chiến và phải chuyên nghiệp, tận dụng những khí tài quân sự hiện đại và hữu ! hiệu nh! ất để gia tăng thương vong cho phía đối phương. Cho nên không có gì lạ khi các chúa Nguyễn rất chú trọng vào pháo binh và tượng cơ. Tôi đọc được một số tài liệu cho biết khoảng giữa thế kỷ XVII, chúa Nguyễn đã có trong tay hơn 200 trọng pháo, chủ yếu là nhờ các thương gia và giáo sĩ Tây phương mua về từ Macao. Nửa sau thế kỷ XVIII, số trọng pháo đã lên tới 1200 khẩu, áp đảo hỏa lực của Ðàng Ngoài. Lính Ðàng Trong cũng nổi tiếng là những tay súng thiện xạ, bách phát bách trúng. Tượng cơ thì vô tư bởi voi ở Ðàng Trong rất sẵn. Báo cáo của một thương gia Hà Lan nói là năm 1642, đội tượng cơ của chúa Nguyễn đã có khoảng 600 thớt voi. Pháo binh và voi rất phát huy tác dụng khi giao chiến trên địa hình tương đối bằng phẳng. Với hai bửu bối này, lực luợng quân sự Ðàng Trong đã đẩy lùi những đợt tấn công của quân Trịnh có quân số gấp đôi, thậm chí gấp bốn. Nói thêm với các bạn một chút về chếđộ binh dịch của Ðàng Trong. Tất cả thanh niên trai tráng từ 16 tuổi trở lên đã có nghĩa vụ tòng quân, đến 60 tuổi mới được về nhà (chẳng biết còn sống đuợc mà về không?). Khác với chúa Trịnh gọi dân là "bách tính" (trăm họ), chúa Nguyễn gọi dân là "quân dân". Bởi quân với dân thì cũng gần như là một. Tuy vậy, đểđảm bảo dân số vẫn sinh sôi đều đặn, chúa cho phép binh lính mang vợ vào ở cùng doanh trại… Có thể các bạn sẽ thắc mắc rằng các chúa Nguyễn lấy đâu ra tiền để trong một thời gian ngắn xây dựng một lực luợng quân sự tinh nhuệ như thế? Phi thương bất phú. Chủ yếu là nhờ thương nghiệp cả thôi. Nhờ mở rộng cửa buôn bán với nuớc n! goài, qu! an hệ tốt với thương nhân và giáo sĩ Tây phương, Nhật Bản, Trung Hoa…, chưa kể Ðàng Trong khi ấy lại đóng cả vai trò điểm trung chuyển hàng hóa trong khu vực, nên những khoản thuế vào túi chúa Nguyễn thật nhiều không tả xiết (chuyện này trong chủ đề "Ðã có truyền thống trọng tín nghĩa?" bác cuoihaymeu và tôi cũng có đề cập đến).

Thu hút dân đến định cư cũng nằm trong chiến luợc tạo nguồn nuôi và bổ sung quân đội, đồng thời tạo sức ép lấn thêm đất của Chămpa và các tộc nguời thiểu số khác. Chúa Nguyễn có những chính sách rất cởi mở dành cho dân tứ xứ, trong dó có một bộ phận lớn Hoa kiều "phục Minh phản Thanh" (như Mạc Cửu) đến khai hoang. Dân khai hoang được sở hữu đất của họ. Không phải đóng thuế trong ba năm đầu tiên, thậm chí một số vùng được miễn thuế hoàn toàn. Ngoài ra, nạn đói và giặc giã khủng khiếp ở Ðàng Ngoài thời Nam-Bắc triều cung góp phần thúc đẩy một bộ phận lớn nông dân (đặc biệt ở hai tỉnh Thanh, Nghệ) rời bỏ quê hương chạy vào Ðàng Trong. Ðàng Trong khi ấy có sức quyến rũ như một miền đất hứa, nơi nguời nông dân không phải è cổ gánh sưu cao thuế nặng (nhất là thời kỳđầu), nơi họđuợc tự do khai khẩn và canh tác trên những thửa ruộng thẳng cánh cò bay… Về chính sách mở rộng lãnh thổ, phải nói chúa Nguyễn đã gặp đuợc cả thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Thiên thời vì khi ấy Chămpa đã rệu rã lắm, hơn nữa Chămpa không phải là một khối thống nhất mà là liên minh của nhiều bộ tộc, dễ bị "chia dể trị". Nguời Chămpa còn chủđộng dời thủ phủ của họ lùi dần về phía Nam, ảnh huởng và quyền lực của chính quyền trung ương lên vùng giáp ranh vì thế mà cũng nhạt đi. Ðịa lợi vì địa hình suốt một dải miền Trung không nối liền mà bị cắt khúc bởi các con sông đâm ra biển, thuận cho chiến thuật "cắt từng miếng bánh". Nhân hòa vì bản tính mềm mỏng, khôn khéo và dễ thích ứng của dân Việt ta. Cho nên suốt mấy thế kỷ "mở r�! �ng cương vực", không xảy ra đánh nhau lớn giữa dân bản địa và dân di cư, kể cũng là một điều thần kỳ. Nếu tôi nhớ không nhầm thì cách đây chưa lâu, cô bé Roses xinh đẹp của chúng ta có thắc mắc tại sao chuyện Nam tiến và các chúa Nguyễn ít được nhắc đến và đề cao trong chính sử. Roses đã thắc mắc đúng. Nguyên nhân thì các bác đã nêu ra nhiều, nhưng tôi cũng mạn phép đưa ra thêm một lý giải nữa. Trong tâm thức của nguời Việt (đặc biệt là nguời Bắc), có hai diều thiêng liêng và rất nhạy cảm. Thứ nhất là truyền thống chống ngoại xâm và đi kèm với nó đôi khi là tình cảm thù ghét ngoại bang. Thứ nữa là ý thức coi trọng sựđoàn kết và thống nhất, mà cụ thể với nguời nông dân là đoàn kết và thống nhất trong họ mạc và làng xóm. Thế mà hành trình Nam tiến đã phá vỡ mối liên kết cộng đồng trong làng xóm và tai hại thay, gắn liền với cục diện phân chia đất nuớc. Nguyễn Ánh, hậu duệ các chúa Nguyễn, thì liên kết với ngoại bang để giành lại quyền lực, liên kết hết với quân Xiêm lại đến quân Pháp.

Phạm vào hai điều thiêng ấy nên không tránh khỏi khuynh hướng coi nhẹ lịch sử Ðàng Trong trong
chính sử…
Xin được tạm dừng ở dây. Lần sau tôi sẽ xin tiếp tục hầu chuyện các bác về sự hòa nhập văn hóa của

ngu ời Việt ta ở Ðàng Trong. ________________________________________________ Hai nhân vật quan trọng nhất của nhà Nguyễn, chúa Nguyễn Hoàng và Hoàng đế Nguyễn Ánh:
– Nguyễn Hoàng là con thứ của Nguyễn Kim (người có công đánh Mạc phục hưng nhà Lê, chính thức mở ra đời Lê Trung Hưng. Nguyễn Kim sau được con cháu truy tôn là Triệu Tổ Tĩnh Hoàng đế). Nguyễn Hoàng sinh năm 1525 (tháng 8 năm Ất Dậu). Vào trấn thủ Thuận Hoá năm 1558 (tháng 10, Mậu Ngọ), 12 năm sau (1570) chính thức cai quản toàn

bộ vùng phía Nam (trước đó ngoài Nguyễn Hoàng trấn thủ Thuận Hoá còn có trấn thủ Quảng Nam
Nguyễn Bá Quýnh).

N ăm 1593 (Quý Tỵ) được phong làm Thái Uý, Đoan Quốc Công. Trong thời gian ở ngôi, Nguyễn Hoàng chỉ một lần đánh lớn với Chiêm Thành (lúc này đã tan rã thành các tiểu quốc), trận đánh xảy ra vào năm 1611 (Tân Hợi), biên cương được mở rộng đến Phú Yên ngày nay.

Ông ở ngôi chúa 55 năm, được dân sùng bái gọi là chúa Tiên. Mất tháng 6 năm Quý Sửu (1613) thọ
88 tuổi. Sau được con cháu truy tôn làm Thái tổ Gia Dụ Hoàng đế.

Tr ừ hai cha con Nguyễn Kim, Nguyễn Hoàng, còn lại tất cả các vua chúa Nguyễn đều mang đệm là Phúc.

Có hai điều thú vị liên quan đến Nguyễn Hoàng mà nay trở thành 1 nét văn hoá phổ biến của người miền Nam. Thứ nhất là chữ Hoàng phải kiêng đi mà gọi chệch thành Huỳnh trong mọi trường hợp giao tiếp, dù văn bản hay ngôn bản. Thứ hai là vì Nguyễn Hoàng là con thứ nên người miền trong gọi con cả của mình là Hai (anh Hai) chứ ko gọi là nhất hay một, con thứ gọi là anh Ba,… Hiện nay Nguyễn Hoàng chưa được coi là danh nhân thì phải. Ở Huế nay có một bến xe nhỏ nằm ngay dưới chân Kinh thành Huế mang tên Nguyễn Hoàng. Tôi ko rõ liệu có đại lộ hay một công viên, quảng trường nào trên đất nước Việt Nam này mang tên ông chưa, nhưng ai mà chẳng biết một câu nói nổi tiếng của nhà thơ người Đa-ghet-xtan A-bu-la-tip: “Nếu ta bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào ta bằng đại bác“. Các bác nhỉ.

– Nguyễn Ánh (Nguyễn Thế Tổ) họ tên đầy đủ là Nguyễn Phúc Chủng, tự là Phúc Ánh, sinh ngày 15
1-Nhâm Ngọ (1762).

Ông là con th ứ 3 của Nguyễn Phúc Luân (tức Nguyễn Phúc Kỳ), cháu của chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Nguyễn Phúc Luân bị Trương Phúc Loan hại chết vào năm 1765, 4 anh em của Nguyễn Ánh cũng mất sớm, cả nhà chỉ còn duy nhất Nguyễn Ánh. Năm 1774, quân Trịnh đánh chiếm Phú Xuân, Nguyễn Ánh theo chú ruột là chúa Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Gia Định. Năm 1777, Nguyễn Phúc Thuần bị Tây Sơn đánh đuổi ở Gia Định, trên đường rút lui bị Tây Sơn giết.

Năm 1780, Nguyễn Ánh chính thức lên ngôi vương (chứ ko lên ngôi chúa), quy tụ lực lượng chống
Tây Sơn.
Nguyễn Ánh lần lượt đánh bại các lực lượng Tây Sơn, năm 1802 (ngày 2-5, Nhâm Tuất) Nguyễn

Ánh lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu là Gia Long. Ông ở ngôi 17 năm, mất ngày 19-5-Kỷ Mão (1819) thọ 57 tuổi. Nguyễn Ánh rất được dân miền Trong sùng bái, cũng như triệu tổ Tĩnh Hoàng đế Nguyễn Hoàng

v ậy. Chính vì được nhân dân che chở nên Nguyễn Ánh nhiều lần thoát khỏi tay Tây Sơn chỉ trong gang tấc. Và cũng rất nhiều lần Nguyễn Ánh bị Nguyễn Huệđánh cho tơi bời đến nỗi chỉ còn một mình một ngựa chạy tháo thân, nhưng ngay sau khi Nguyễn Huệ rút về thì chẳng bao lâu Nguyễn Ánh lại mộđủ lực lượng tiếp tục chiến đấu chống Tây Sơn. Cho nên nhiều người đã nói Trời giúp Nguyễn Ánh làm vua. Vở tuồng cổ nổi tiếng Gia Long phục nghiệp cũng có đoạn nói về Nguyễn Ánh bị Tây Sơn đuổi gấp đến nỗi cưỡi ngựa lao cả xuống sông bỏ chạy, lao ra đến giữa dòng thì bỗng có cá thần xuất hiện đưa sang sông giúp. So với nhà Trịnh thì nhà Nguyễn sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt hơn. Cuộc đấu tranh sinh tồn đã khiến các đời chúa Nguyễn ra sức chăn dân mở nước thay vì ăn chơi hưởng lạc, cho nên những thế kỷ chúa Nguyễn trị vì ởđàng Trong là một giai đoạn khá thịnh trị. Ngoài việc mở rộng lãnh thổ, các chúa Nguyễn đã có công thúc đẩy sự phát triển của thương nghiệp, tức là mở cánh cửa cho một phương thức sản xuất mới mẻ và tiến bộ vào VN.

4 đời vua đầu (1802-1884), triều Nguyễn là một vương triều hùng mạnh vào hàng bậc nhất trong lịch
sử phong kiến, sau đó là một giai đoạn gần 200 năm làm bù nhìn yếu ớt.

Nói chung d ưới triều Nguyễn lần đầu tiên cả nước thống nhất dưới một chính quyền, bao trùm cả lãnh thổ 2 đàng. Quốc hiệu Việt Nam cũng chính thức được dùng vào thời này. 1802 Nguyễn Ánh đặt tên nước là Nam Việt, 1804, nhà Thanh đổi lại thành Việt Nam và tên này chính thức dùng từđó. Đến Minh Mạng lại đổi thành Đại Nam, nhưng cuối cùng thì 2 từ Việt Nam vẫn thông dụng hơn cả. (Đấy là nói về sử dụng quốc hiệu chính thức thôi, còn tên VN có từ bao giờ thì cho đến nay còn chưa tranh cãi xong thì phải). Lãnh thổ, năm 1848 TựĐức trả lại Chân Lạp 5 châu mà năm 1757 vua Chân Lạp là Nặc Tôn đã cắt tặng cho Mạc Thiên Tứ (Tướng của chúa Nguyễn đã giúp Nặc Tôn lên ngôi), phần đất này nằm ở cực nam Campuchia, giáp mấy tỉnh miền Tây Nam Bộ. Bản đồ nước ta ngày nay định hình từ năm 1848.


Tản mạn về quá trình mở mang bờ cõi đất nước Việt Nam qua các thời kỳ

Username:

ctdphuc

Tranh giành quy ền lực luôn đi đôi với xâm chiếm và cát cứđất đai, đó là đặc điểm chung của thời kỳ phong kiến ở bất cứ nước nào. Để có được một cơđồ như ngày hôm nay, cha ông ta đã trải qua biết bao gian nan đi chinh phục các miền đất. Quá trình đó diễn ra như thế nào? Mời các bạn theo dõi.

T ừ thuở mang gươm đi mở cõi Ngàn năm thương nhớđất Thăng Long A. Vài lời nhận xét: Tử thuở xưa, các dân tộc Việt chưa có một vùng lãnh thổ xác định, đất nước tồn tại chủ yếu dưới

hình th ức các bộ lạc. Tiếp sau đó lại rơi vào cảnh bị các triều đại Trung Quốc nhòm ngó, thôn tính, xen lẫn với các cuộc đấu tranh, khởi nghĩa. Đất nước vì thế cứ hết bị sáp nhập lại tách ra… nên chưa thể gọi là có một vùng lãnh thổ xác định rõ ràng. Vậy ta sẽ lấy mốc là thời kỳđất nước đã bước vào thời đại tự chủ, tức là từ nhà Ngô (938) để xem xét quá trình “mang gươm đi mở cõi” của cha ông ta ngày xưa. Thực ra cũng chưa có một tài liệu lịch sử nào xác định rõ ràng cương giới của Việt Nam trong và sau thời kỳ Bắc thuộc (những năm đầu) (hoặc có mà tôi ko biết!). Tuy nhiên, dựa vào một số mốc ta có thể tạm suy đoán như sau (hì hì, “suy luận” và “đánh giá” cũng là một trong những cách học sử, phải không các bác nhể?): Trong Việt Nam sử lược (Trần Trọng Kim) có nói rằng năm Kỷ Mão (678) Đường Cao Tông bên Trung Quốc đã “quy hoạch” lại Việt Nam thành 12 châu, 59 huyện. Trong đó có các châu Giao Châu (Hà Nội, Nam Định), Lục Châu (Quảng Yên, Lạng Sơn), Ái Châu (Thanh Hoá), Hoan Châu (Nghệ An),…. Như vậy, có thể nói rằng trong những năm (cuối) của thời kỳ Bắc thuộc đến các triều đại sau của Việt Nam, biên cương lãnh thổ nước ta đã được định hình một cách tương đối, kéo dài từ vùng rừng núi phía Bắc (Lạng Sơn) đến Bắc Trung Bộ (Nghệ An). Đất nước từ thời còn manh mún, rời rạc cho đến lúc ấy đã có sự phát triển đáng kể. Tuy nhiên, sự mở rộng lãnh thổ trong thời kỳđó còn mang tính tự phát (di dân..) hoặc do ý muốn của các quan Tàu muốn sáp nhập các vùng lại để cai trị cho “g�! ��n” hơn. Ý thức mở mang bờ cõi (một cách chủđộng) trong thời kỳ này hầu như chưa xuất hiện. Phải bắt đầu bước vào thời đại tự chủ sau hơn một ngàn năm đằng đẵng đau khổ dưới ách ngoại xâm, công cuộc mở mang bờ cõi mới đuợc chú ý thực sự. Cha ông ta đã có ý thức tự lực tự cường rất cao. Một mặt lo quan sát, đề phòng Bắc phương, mặt khác không ngừng ra sức mở mang bờ cõi đểđất nước ngày một giàu mạnh, ít lệ thuộc vào ông hàng xóm khổng lồ kia. Cũng xin nói rằng quá trình mở rộng bờ cõi của đất nước trong tất cả các thời kỳđều chỉ gói gọn trong hai chữ: Nam tiến. Có thể các bạn sẽ thắc mắc hỏi rằng tại sao chúng ta không phát triển một cách “đồng đều” cho đất nước nó vuông vuông một tí, khôn phải “dẹt ” như hình dáng ngày nay. Xin thưa rằng không phải cha ông ta không muốn nhưng do hoàn cảnh “khách quan” mà điều đó không thể thực hiện được. Phía Đông ta giáp biển, dĩ nhiên là không thể “mở” gì được cả. Phía Bắc thì lại “đụng” anh Trung Quốc, lo thủ chưa xong làm gì mà dám lấn tới! (Coi trong Lịch sử Việt Nam chỉ có vua Quang Trung Nguyễn Huệ là dám có tư tưởng Bắc tiến táo bạo, nhưng hỡi ôi, trời chẳng chiều người). Phía Tây thì gặp phải địa hình rừng núi, thung lũng,… đầy hiểm trở, cũng không thể “xơ múi” gì nhiều. Vậy thì chỉ còn lại phía Nam: đất đai bằng phẳng, nhân tình ôn hoà, lại toàn là các nước nhược tiểu (dĩ nhiên là so với Việt Nam) nên cha ông ta cứ thế mà thẳng tiến. Và quá trình Nam tiến liên tục được tiếp nối cho đến khi gặp phải mũi Cà ! Mau thì ! (đành) dừng lại. Nhân đây cũng xin nói thêm về vấn đề “chính nghĩa” của quá trình mở cõi. Một số sử gia có khuynh hướng cho rằng việc mở mang bờ cõi của VN ta là điều “tất yếu” phải xảy ra, bởi lẽ dân số ngày một nhiều mà đất đai thì có hạn. Nhưng nếu “ní nuận” theo kiểu đó thì té ra anh Trung Quốc cũng có lý lẽđể thôn tính nước ta, và thậm chí ngay cả Chiêm Thành cũng có thể làm điều đó nhưng không có đủ thực lực (và thực tế là họđã “thử” nhưng không được). Theo tôi thì việc xâm chiếm, thôn tính lẫn nhau là lẽđương nhiên, nhất là trong thời kỳ loạn lạc bấy giờ. Trong LS thế giới đã có biết bao những cuộc sát nhập, phân khai giữa các vùng lãnh thổ, có những cuộc thành công cho đến tận bây giờ, nhưng cũng có những cuộc thôn tính bất thành. Lý lẽởđây là mạnh được yếu thua. Dân tộc nào còn giữđược bản sắc văn hoá thì còn có thể khôi phục, còn không sẽ bịđồng hoá và trở thành một bộ phận của nước đi thôn tính. Bởi thế, theo quan điểm của tôi, chúng ta nên cho điều đó là tự nhiên, không cần biện hộ một cách khiên cưỡng làm gì. Sau đây xin đi vào một số mốc cụ thể của quá trình mởđất của cha ông ta từ thuở xưa cho đến những năm sau này của thời kỳ cận đại (Chẹp, đã định nói phần này “ngăn ngắn” một tí mà té ra lại thành dài thế này, thôi thì các bác chịu khó đọc vậy).

Một số mốc cụ thể trong quá trình Nam tiến, mở rộng bờ cõi của đất nước:

Nh ưđã nói ở trên, khi đất nước bắt đầu bước vào độc lập thì ý chí và hoạt động mở mang lãnh thổđã được “liên tục phát triển”. Lãnh thổđược mở rộng dần theo kiểu “tằm ăn dâu”, tuy nhiên vẫn có một số mốc cụ thểđể ta xác định các bước của quá trình Nam tiến (sẽđược đề cập sau). Nói ngắn gọn thì quá trình mở nước của cha ông ta chỉ gồm 2 bước:

1. Xâm chiếm và “nuốt dần” nước Chiêm Thành cho đến khi nước này mất hẳn.
2. Xâm chiếm và chiếm của Chân Lạp (Campuchia) một vùng đất rất “đáng kể”, trong đó có
đồng bằng Sông Cửu Long (vựa lúa lớn nhất nước của VN ngày nay).

Tuy nhiên, các b ước trên được tiến hành dần dần, mỗi triều đại góp một chút công, để cuối cùng, đến triều Nguyễn, khi dấu chân của người Việt Nam đã đặt lên mảnh đất địa đầu Cà Mau thì nhiệm vụ cao cả đã được xem như hoàn thành. (Ngoài ra ta cũng đã xâm nhập một tí (gọi nôm na là “chấm mút”) lãnh thổ của anh bạn láng giềng “dễ thương” là nước Ai Lao (Lào) nhưng nói chung là không đáng kể.)

B. Giai đoạn đánh chiếm Chiêm Thành:
Dưới thời nhà Đinh:

Nh ư trên đã nói khi nước ta bước vào thời kỳ tự chủ, bắt đầu từ nhà Ngô thì lãnh thổđã kéo dài từ miền Lạng Sơn phía Bắc đến Nghệ An phía Nam, giáp ranh với Chiêm Thành. Sau đó đất nước không may rơi vào thời kỳ loạn lạc 12 sứ quân, lãnh thổ lại bị chia năm xẻ bảy. Đến năm 968 Đinh Bộ Lĩnh thống nhất đất nước, lãnh thổ bao gồm cả miền Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ cho đến Hoành Sơn.

Giai đoạn này, đất nước ta mới thống nhất, quan hệ với Chiêm Thành nói chung là “êm đẹp”.
Dưới thời nhà Tiền Lê:

N ăm 981, dưới thời Lê Hoàn, nước ta lần đầu tiên đem quân đi chinh phạt Chiêm Thành, chiếm được Địa Lý Châu (gồm Quảng Ninh, Quảng Bình). Chiêm Thành đã phải dời kinh đô (Yudrapura) từ miền Trà Kiệu vào thành Phật Thệ (Vijaya, tức Bình Định ngày nay). Sự kiện này đánh dấu một bước ngoặt: Chiêm Thành từ trước vẫn là một nước lớn (đối với Việt Nam) nhưng từ sau sự kiện này đã trở thành một “tiểu quốc”, chịu thần phục Đại Việt, và có thể nói là đã tạo “tiền đề” cho các cuộc Nam tiến của các triều đại sau này.

Dưới thời nhà (Hậu) Lý:
Sau khi chiếm được Địa Lý Châu, Lê Đại Hành đã trả lại cho Chiêm Thành, nhưng công cuộc Nam
tiến thì vẫn được nhà Lý tiếp nối mạnh mẽ.
Năm 1044, vua Lý Thái Tông đem quân đánh Chiêm Thành, giết được vua Chiêm là SạĐẩu, chiếm
được kinh đô, bắt cả vợ cả và vợ lẽ của SạĐẩu (!!!) nhưng sau đó lại rút về.

N ăm 1068, vua Lý Thánh Tông thân chinh đem quân chinh phạt Chiêm Thành. Nhưng khác với các lần chinh phạt trước (quân ta chỉ lo đánh thắng Chiêm Thành rồi “trưng dụng” của cải, bắt vua Chiêm phải cống nộp chứ không có ý muốn lấy đất), lần này, dưới sự chỉ huy của Lý Thường Kiệt, quân ta không chỉ chiến thắng vẻ vang mà còn bắt Chiêm Thành phải nộp cống, không chỉ của cải mà còn là ba châu: Địa Lý (nay thuộc Quảng Bình), Ma Linh (Quảng Trị) và Bố Chính (Quảng Bình). (Lý Thường Kiệt là người có cái nhìn chiến lược. Ông đã nhận thấy sự chật hẹp của đồng bằng Bắc Bộ và nhận định rằng muốn phát triển đất nước hùng mạnh, bắt buộc phải mở rộng bờ cõi về phương Nam. Ông là người có công lớn trong việc thu phục lãnh thổ của Chiêm Thành). Năm 1103, nhân vụ Lý Giác làm phản chạy sang Chiêm Thành, xúi giục vua Chiêm tiến quân đòi lại 3 châu, Chiêm Thành bèn rục rịch kéo quân nhưng đã bị Lý Thường Kiệt đánh cho một trận đại bại, không còn dám “đòi” lại nữa. (Nhân đây cũng xin nói thêm rằng nước ta từ thời ấy, sau nhiều sự kiện “oanh liệt” với Chiêm Thành, đã trở thành một “tiểu đế quốc” ở phương Nam. Các nước Chiêm Thành, Chân Lạp, Ai Lao,… đều “xưng thần” và hàng năm triều cống rất chu đáo! Tất nhiên, tiểu quốc mà lơ là thì đại quốc phải đem quân sang hỏi tội thôi. (Kể cũng oai ra phết!).

Dưới thời nhà Trần:

Th ời nhà Trần có thểđược xem là giai đoạn thịnh nhất trong lịch sử nước ta thời phong kiến (giống như nhà Đường được xem là thời kỳ rực rỡ nhất của chếđộ phong kiến ở Trung Quốc). Tuy nhiên, đáng tiếc là trong thời kỳ này nước ta phải nhiều phen anh dũng chống ngoại xâm (Mông Cổ) nên công cuộc Nam tiến không “phát huy” được nhiều. Năm 1306 vua Trần Anh Tông thực hiện một cuộc “đổi giai nhân lấy đất” không tiền khoáng hậu, tạo nên một trong những giai thoại “hấp dẫn” nhất của lịch sử Việt nam. Nhà Trần gả Huyền Trân công chúa cho vua Chiêm Thành là Chế Mân đểđổi lấy 2 châu: châu (???) và châu Lý. Đến năm 1037 Việt Nam chính thức tiếp quản 2 châu này: đưa dân vào, thiết lập chính quyền và đổi lại tên thành Thuận Châu và Hoá Châu. Sau đó nhà Trần trở nên suy yếu dần, các vua đời sau chỉ lo ăn chơi hưởng lạc. Trong các năm 1353 và 1367 dưới thời Trần Dụ Tông nước ta đã hai phen đem quân chinh phạt Chiêm Thành nhưng đều thu lấy thất bại nặng nề, làm ảnh hưởng đến uy tín với các nước lân bang. Lại “không may” cho ta là lúc này Chiêm Thành có một vị vua rất giỏi là Chế Bồng Nga. Nhân lúc nhà Trần ngày càng suy vi, Chế Bồng Nga không những đã đem quân đòi lại các châu bị mất ở các thời vua trước mà còn nhiều lần đem quân đến tận Thăng Long, tàn phá kinh thành, làm vua tôi nhà Trần phải trốn chạy rất vất vả, quả là một hình ảnh không đẹp chút nào.

Dưới thời nhà Hồ:

Tuy H ồ Quý Ly tại vị không được lâu và nói chung trong thời nhà Hồ, nội tình trong nước còn nhiều rối ren, nhưng Hồ Quý Ly cũng đã kịp ghi cho mình một số chiến công trong việc chinh phục lãnh thổ của Chiêm Thành. Năm 1402 tướng nhà Hồ là Đỗ Mãn cử binh sang đánh Chiêm Thành. Vua Chiêm là Ba Địch Lại phải dâng đất Chiêm Động (nay thuộc tỉnh Quảng Nam) đểđược yên. Tuy nhiên, nhà Hồ còn “vòi” thêm cảđất Cổ Luỹ (Quảng Ngãi) nữa rồi di dân vào, đặt nền hành chính của nước ta ở các nơi mới thu phục.

Sau đó nhà Hồ bị sụp đổ. Đất nước lại rơi vào tay Bắc phương. Công cuộc Nam chinh xem như bị
đình lại.

D ưới thời nhà Hậu Lê: Dưới thời nhà Hậu Lê, nước ta đã tiến một bước khá dài trong công cuộc Nam tiến. Sau những năm đầu lo ổn định tình hình chính trị, kinh tế (và cả lo diệt trừ công thần, bè phái, đấu đá

lẫn nhau nữa!), đến thời Lê Thánh Tông, nước ta đã có những cuộc chinh phạt Chiêm Thành mới.

N ăm 1470, nhân chuyện Chiêm Thành “khiêu khích” trước, vua Lê Thành Tông thân chinh đem 26 vạn quân đi đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm đại bại. Quân ta đánh rốc vào tận kinh đô Đồ Bàn, giết được vua Chiêm. Nhằm làm cho Chiêm Thành yếu đi, Lê Thành Tông thực hiện chính sách “chia để trị” (xem ra không chỉ người Pháp mà cả người Việt ta cũng rành món này!), chia nước Chiêm Thành 3 phần: Chiêm Thành, Hoá Anh và Nam Phan, giao cho các cựu thần của nước Chiêm cũ cai trị. Đồng thời vua “thu hồi” lại các đất Đồ Bàn, Đại Chiêm và Cổ Luỹ, lập ra đạo Quảng Nam để “nhập” vào nước ta. Trận đánh này làm nước Nam lừng danh, khôi phục lại uy tín cũ, các nước lân bang lại tới tấp sang chầu và xưng thần! Sau chiến công oanh liệt này, Chiêm Thành đã đi vào chỗ suy vi, không còn cơ hội cường thịnh trở lại. Vì vậy, các triều đại sau, tuy không thật mạnh nhưng công cuộc chinh phạt Chiêm Thành vẫn được tiến hành từng bước vững chắc, và cho đến các đời sau này, Chiêm Thành cứ mất dần mất dần cho đến khi bị tiêu diệt hẳn vào đời chúa Nguyễn.

Thời kỳ loạn lạc:

Nhà Lê, sau các tri ều vua đầu anh minh, đã trở nên suy vi với các vị vua kém tài kém đức, dẫn đến việc Mạc Đăng Dung cướp ngôi, đẩy đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng triền miên, sự nghiệp Nam tiến một lần nữa lại bịđình lại.

Dưới thời chúa Nguyễn:

Sau khi s ự nghiệp “Diệt Mạc phù Lê” thành công thì hai họ Trịnh Nguyễn lại quay sang đấu đá lẫn nhau. Trịnh ở phía Bắc, Nguyễn ở phía Nam. Để khuếch trương lực lượng nhằm “chiến đấu lâu dài” với họ Trịnh hùng mạnh ở Bắc Hà, chúa Nguyễn đã tiến hành “mở rộng” lãnh thổ về phương Nam.

Năm 1611, Nguyễn Hoàng đem quân vào đánh Chiêm Thành, chiếm đất lập ra phủ Phú Yên, gồm hai

huy ện Đồng Xuân và Tuyên Hoà. Năm 1617, chúa Nguyễn chiếm thêm đất Chiêm Thành, lập ra dinh Trấn Biên. Năm 1653, Chiêm Vương là Bà Thấm “không biết điều”, đem quân quấy nhiễu phủ Phú Yên, bị quân

Nguyễn đánh bại. Nhà Nguyễn, nhân cơ hội đó tiếp tục lấy thêm đất của Chiêm Thành, lập ra phủ Diên
Khánh (nay thuộc tỉnh Khánh Hoà).

N ăm 1693, Chiêm vương Bà Tranh bỏ tiến cống. Nhà Nguyễn không bỏ lỡ cơ hội này. Chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai tổng binh Nguyễn Phúc Kính đem quân “hỏi tội”, bắt được vua Chiêm. Đất đai của Chiêm chiếm được bịđổi thành phủ Thuận Thành, sau đổi lại thành phủ Bình Thuận, lại lấy đất Phan Lý (Phan Tri), Phan Lang (Phan Rang) làm huyện Yên Phúc và huyện Hoà Đa. Từđó Chiêm Thành xem như mất hẳn. Như vậy trong khoảng chưa đến một thế kỷ mà nhà Nguyễn đã thôn tính được hoàn toàn Chiêm Thành, điều mà những triều đại trước tốn bao công sức mà không gặt hái được nhiều thành công. Điều này có nguyên do rất lớn từ bản thân Chiêm Thành. Thực ra quân lực chúa Nguyễn không phải là quá mạnh, nhưng kể từ sau thất bại trước vua Lê Thánh Tông nhà Lê, rồi bị chia thành 3, Chiêm Thành đã ngày càng suy yếu, không thể gượng dậy được và chỉ còn chờ ngày diệt vong.

C. Giai đoạn đánh chiếm Chân Lạp:

Các cu ộc xâm chiếm đất Chân Lạp (Campuchia) để mở mang bờ cõi về phương Nam của người Việt diễn ra có phần êm thắm hơn. Nguyên do dải đất miền Trung của cúa chúa Nguyễn vốn không được màu mỡ. Đất đai cằn cỗi, làm ăn khó khăn, lại thêm hoạ chiến tranh Trịnh-Nguyễn nên người dân dần dần di cư vào Nam, lúc ấy còn thuộc Chân Lạp, rất nhiều.

Cả miền Đông Nam Bộ và đồng bằng Sông Cửu Long bấy giờ thời ấy còn khá hoang vu, đất rộng
người thưa. Đất đai lại trù phú, màu mỡ, thành ra người Việt di cư vào đó ngày càng đông.

Trong nh ững năm 1658 đến 1674, Chân Lạp có nạn tranh giành quyền lực, có phe lại “mời” chúa Nguyễn vô “giải quyết dùm”. Nhà Nguyễn được thể cứ kéo binh vào “bình định”, mỗi năm lại mở rộng thêm tầm ảnh hưởng của mình ởđấy.

N ăm 1679, có quan nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Hoàng Tiến vì bất mãn nhà Thanh nên theo về. Chúa Nguyễn nhân cơ hội đó muốn khai khẩn thêm đất ở Chân Lạp, bèn cho họ vào ởđất Đông Phố, đất Lộc (nay thuộc Gia Định, Đồng Nai), Mỹ Tho,… Năm 1698, chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn Hữu Kính làm kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông phố ra làm dinh, huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phước Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Nhà Nguyễn bắt đầu củng cốđịa vị và quyền lực của mình ở rẻo đất phía Nam màu mỡ này.

Thời bấy giờ có người Trung Quốc là Mạc Cửu, nhân vì hoạ nhà Thanh, lưu lạc sang đất Chân Lạp.

Ông chiêu m ộ lưu dân, lập nên 7 xã gọi là Hà Tiên. Năm 1708, Mạc Cửu xin thuộc về nhà Nguyễn. Lãnh thổ nước ta lại được mở rộng thêm một phần. Trong khoảng thời gian đó nước Chân Lạp xảy ra biến luôn, các vua tranh giành quyền lực rồi lại

chạy sang nhờ chúa Nguyễn hay Mạc Thiên Tứở Hà Tiên. Sau mỗi lần bình ổn ta lại được vua Chân Lạp
“tạơn”, mỗi lần vài huyện… Cuối cùng đất đai 6 tỉnh Nam Kỳđều thuộc về ta.
Đến sau khi Nguyễn Ánh diệt được nhà Tây Sơn thì ta còn có nhiều dịp “can thiệp vào nội bộ” của

Chân L ạp, nhưng tiếc là các quan ta hành xử không khéo nên không “mở” thêm được bờ cõi mấy. Đến đây, công cuộc “mang gươm” đi mở cõi của cha ông ta có thể xem nhưđã hoàn thành. Nhìn chung cuộc Nam tiến chiếm đất của Chân Lạp được diễn ra tương đối thuận lợi. Bởi lẽ Chân

L ạp thời ấy đã suy vi, các triều vua lo tranh giành quyền lực, không ngó ngàng gì đến lãnh thổđất nước. Các vua được nước ta đưa về nắm chính quyền thì lại sung sướng, sẵn sàng “tặng” đất để tỏ lòng biết ơn. Có thể nói ta đã có những cơ hội “trời cho” hết sức quý giá để mở rộng được lãnh thổ về phương Nam. Trong đó đáng kể nhất là miền Đông Nam Bộ (nay là đầu tàu của nền công nghiệp Việt Nam) và ĐBSCL (mà theo một số chuyên gia, nếu quy hoạch khéo có thể trở thành vựa lúa của cả khu vực Đông Nam Á.

D. Đôi điều nhìn lại:
Đến đây xin mời các bác chúng ta cùng nhìn lại quá trình Nam tiến từ thuở xưa cho đến thời Cận đại
một lần nữa.

Lãnh th ổ nước ta từ thuở Bắc thuộc chỉ là một dải đất chật hẹp ởđồng bằng Bắc Bộ, cho đến thời kỳ Cận đại, vươn dài đến tận mũi đất Cà Mau, đã trải qua một quá trình phát triển rất dài và nhiều biến động. Cuộc Nam tiến vĩđại đó đã chứng tỏ một tinh thần anh dũng, quật cường và ý chí vươn lên của dân tộc ta. Ta hãy nhớ lại. Từ thời nước ta vẫn còn là những miền đất manh mún, chia cắt và bịđè nặng dưới ách ngoại xâm thì Chiêm Thành đã là một nước lớn ở phía Nam. Ấy thế mà theo thời gian Việt Nam ta đã lớn mạnh dần và ngày càng cường thịnh còn Chiêm Thành ngày càng lụn bại, và cuối cùng bị Việt Nam thôn tính. Như vậy, chúng ta có quyền tự hào về sức sống mãnh liệt của dân tộc, về các võ công oai hùng của cha ông thuở trước. Có thể có người còn thương xót luyến tiếc cho Chiêm Thành một thuở oanh liệt với lầu son gác tía, với đền đài lộng lẫy của một nền văn hoá rực rỡ. Có thể có người đứng nhìn những tháp Chàm đổ nát trơ gan cùng tuế nguyệt mà cảm khái, không khỏi cảm thấy cha ông ta ngày xưa đã có phần “quá đáng” (?!). Một trong những người tỏ lòng luyến tiếc với quá khứ “tiêu biểu” nhất có lẽ là nhà thơ Chế Lan Viên. Trong tập thơĐiêu tàn nổi tiếng với sắc màu đầy vẻ huyền bí, hưảo của mình, ông đã bộc lộ một tâm trạng nhớ thương, đồng cảm với nỗi đau mất nước của một trong những dân tộc đã có thời mạnh mẽ, lẫy lừng vào bậc nhất Đông Nam Á như dân tộc Chămpa. Vâng, tất cả những điều đó dường như rất đáng để chúng ta mủi lòng. Nhưng…, hãy thử nhìn nhận v�! ��n đề dưới một khía cạnh khác xem sao. Thực ra, việc Chiêm Thành bị tiêu diệt không hẳn chỉ do “dã tâm” của dân tộc Việt. Bản thân họđã phải trả giá cho những sai lầm của chính họ. Ngay từ thời nước ta còn đang trong vòng nô lệ của giặc Hán, Chiêm Thành đã không ít lần “thừa nước đục thả câu”, sang quấy nhiễu, cướp bóc nước ta, thậm chí đã có lần táo gan “đề nghị” phía Trung Quốc cho nước ta trở thành một vùng nội thuộc của Chiêm Thành để…dễ “quản lý”! Cho đến khi nước ta giành được độc lập thì Chiêm Thành vẫn không để yên, thường sang quấy nhiễu biên giới ta luôn. Hầu hết những cuộc chinh phạt Chiêm Thành của các triều đại Việt Nam đều bắt nguồn từ những vụ xâm phạm, cướp bóc biên giới của phía Chiêm Thành. Có một điều rất lạ là đã bao lần quân Chiêm bị quân ta đánh cho đại bại, nhiều lần bịđánh đến tận kinh đô, không ít lần vua bị giết, bị bắt sống. Ấy thế nhưng họ vẫn không “tỉnh ngộ”, vẫn không chịu “thần phục” đểđến nỗi rước lấy cái hoạ mất nước (thậm chí đến thời chúa Nguyễn, lãnh thổ chỉ còn một tẹo, vậy mà vua Chiêm vẫn còn đem quân quấy nhiễu Phú Yên (!), để rước lấy nhục vào thân và phải dâng gần hết đất, dẫn đến việc kết thúc sự tồn tại của nhà nước Chiêm Thành). Sử xưa có chép, người Chiêm Thành vốn tính tình hung dữ, ngang tàng… phải chăng đó là nguyên do cho sự tàn lụi của họ?! Về Chân Lạp, dù có cùng kết cục với Chiêm Thành nhưng thực ra “ân oán” với nước Đại Việt có thể nói là chưa nhiều. Tuy nhiên, do thời t! hế mà ! miền đồng bằng trù phú phía Nam đã trở thành một phần của lãnh thổ Việt Nam. Phải chăng, đó là một hình thức đền bù của trời đất, muốn dành cho cho Việt Nam mảnh đất giàu có này để thay thế cho miền Lưỡng Quảng rộng lớn đã bị mất về tay Trung Quốc (?). Dẫu sao đi nữa thì lãnh thổ của Việt Nam, cùng với các nước xung quanh, ngày nay cũng đã định hình (và được quốc tế thừa nhận!), và trong tương lai cũng khó có thể biến cải gì lớn. Nhắc lại chuyện xưa chỉ nhưđể hồi tưởng lại một thời quá khứ hào hùng của dân tộc, cái thuở ngàn năm “đem gươm đi mở cõi” ấy.



Vịnh bức dưđồ rách

Tản Đà

N ọ bức dưđồ thửđứng coi Sông sông núi núi khéo bia cười Biết bao lúc mới công vờn vẽ, Sao đến bây giờ rách tả tơi? Ấy trước cha ông mua để lại Mà sau con cháu lấy làm chơi! Thôi thôi có trách chi đàn trẻ, Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi.


Hồ Quý Ly và nhà nước Đại Ngu

Username: Trinity

H ồ Quý Ly, đánh giá con người này như thế nào, đó có phải là một người sinh nhầm thời? Điều đó đã gây ra bao cuộc tranh cãi đến tận ngày nay. Dưới đây là quan điểm của Trinity về những cải cách của họ Hồ.

Thanh Th ửđiện tiền thiên thụ quế Quảng Hàn cung lý nhất chi mai Đôi câu đối tuyệt hay này, tương truyền là cuộc xướng tác bất ngờ giữa vua Trần Minh Tông và

chàng trai tr ẻ Hồ Quý Ly, năm ấy còn là một chức quan nhỏ vô danh. Cành mai trong cung Quảng Hàn để đem đối lại ngàn cây quế, với Quý Ly không phải ai khác ngoài ái nữ của vua, công chúa Huy Ninh. Mối tình vô vọng, vì luật nội hôn Trần triều cấm ngặt con gái tôn thất thành thân với ngoại tộc. Sao đổi ngôi, đò sang sông, sựđời biến thái không ngừng, hoa muộn cuối cùng cũng kết nhụy khi mái đầu sắp bạc.

Đườ ng sự nghiệp của họ Hồ không quá gian truân nhưđường tình duyên, nhưng cả hai đều có kết cục buồn. Cành mai nhỏ sớm tàn để lại cho Quý Ly đứa con trai Hồ Hán Thương. Những biện pháp cải cách đảo lộn nhân tâm góp phần đưa Quý Ly lên ngôi cao nhưng chúng cũng góp phần làm ông mất nước. Ông kết thúc cuộc đời trong vai trò một người lính thú già miền viễn biên Trung Quốc, song có sách chép: “Ông và Hồ Hán Thương bị Minh Thành Tổ ra lệnh hành hình ngay trong tháng 10 năm 1407“. Đoạn kết như thế có khi lại hay hơn. Có nhiều nhân vật lịch sử không dễ dàng bình công tội, họ như những khối đa giác góc cạnh mà sự đánh giá còn tùy thuộc vào phía nhìn của người đời. Hậu thế sẽ còn dai dẳng tranh luận về Hồ Quý Ly: đại gian thần hại nước hay bậc thức giả thời loạn không chịu câu thúc trong vòng ngu trung để giúp đời, thực tâm chấn hưng xã tắc hay không từ thủđoạn nào để ngoi lên đỉnh quyền lực… Điều tai hại là những cải cách của họ Hồ có thểđược đời sau diễn giải và hiểu theo nhiều nghĩa. Không sai, nếu bảo chúng thực chất có lợi cho một đất nước đang kiệt quệ cả vật chất lẫn niềm tin. Nhưng không phải không có lý nếu nói đó là phương thức để thâu tóm quyền lực cá nhân và triệt hạđối thủ. Những biện pháp được tính toán khôn khéo để một mũi tên đi trúng nhiều đích. Lấy ví dụ về chính sách hạn điền (ban hành năm 1397) và liền sau đó là giải phóng gia nô. Một mặt, nó là cú đánh chí mạng vào thế lực và ảnh hưởng lâu đời của quý tộc họ Trần – lực lượng có quyền lợi gắn bó trực tiếp với sự tồn! vong của vương triều. Ruộng đất bao la của tôn thất nay được khoanh lại ở con số 10 mẫu tối đa, trừĐại vương và Trưởng Công chúa. Ruộng thừa biến thành ruộng công. Số gia nô nhiều không đếm xuể trước kia giờ phải giới hạn tùy theo phẩm trật. Việc này càng có ý nghĩa trong hoàn cảnh một phần đáng kể sức mạnh quân sự quý tộc họ Trần là các đội gia binh tuyển từ gia nô trong nhà. Mặt khác, số ruộng công chẩn cấp cho dân nghèo có giá trị như một phương thuốc hạ hỏa đúng lúc, khi cùng đinh lang thang, nạn dân lưu tán và nô lệ bỏ trốn tụ tập làm loạn trong xã hội đã vượt quá mức báo động. Cuộc khởi nghĩa của nhà sư Phạm Sư Ôn là sự bùng phát mạnh mẽ nhất. Trước khi bị dập tắt năm 1390, đạo quân ô hợp của vị "yêu tăng" Sư Ôn từng chiếm cứ Thăng Long tới 3 ngày. Chính sách tiền giấy cũng có thể coi là một ví dụ minh họa cho tính hai mặt của cải cách. Khi cuộc chiến dai dẳng với Chiêm Thành kết thúc bằng cái chết bất ngờ của Chiêm vương Chế Bồng Nga năm 1390, nước Đại Việt đã loạng choạng như người lâm bạo bệnh. Hùng khí quân dân từ thuởđánh Nguyên đã suy sụp từ sau trận thua Chiêm đau đớn tại thành Đồ Bàn (1377), ngốn phần lớn 12 vạn binh tướng, vua Duệ Tôn tử trận. Mất mùa, nội loạn, giặc Chiêm liên tục cướp phá, sự phình to và kê biên nhập nhằng của ruộng đất tôn thất khiến kho đụn nhà nước chóng cạn kiệt. Sự ra đời của thuế thân thời kỳ này (đánh thuế 3 quan tiền mỗi suất đinh bất kể sống chết) là một sự bất đắc dĩ tuyệt vọng. Ban hành và cưỡng bức dùng tiền giấy trong những năm phục hồi sau chiến tranh, vì t! hế có ! thể xem là một giải pháp mang tính tình thế ngắn hạn hơn là một cải cách có ý nghĩa lâu dài của Hồ Quý Ly. Cùng một lúc, nó giải quyết nạn khan hiếm tiền tệ và đồng thời thu hút tài nguyên về quốc khố (thông qua việc cưỡng bức đổi tiền: một quan tiền đồng ăn một quan hai tiền giấy). Trớ trêu là do biện pháp thi hành cứng nhắc của chính quyền, chất lượng giấy của tiền, sự mai một niềm tin vào triều đình, nạn làm tiền giả hoành hành và tập quán tiêu tiền đồng bao đời của dân đã chất thêm vào "tội trạng" của Quý Ly nhiều lời ta oán. Một giải pháp thông minh nhưng không hợp thời. Bi kịch của Hồ Quý Ly là dạng bi kịch của nhà kỹ trị. Ông quá chú tâm mục đích mà thiếu đi sự ôn nhu rất cần thiết trong thực hiện. Trước một đất nước tan hoang như con bệnh nặng, ông mạnh tay dùng phương thuốc đắng. Bạo y trị bạo bệnh! Nhưng kỷ cương khắc nghiệt của Nho giáo đâu dễ ngày một ngày hai đem áp dụng với đám dân đã quen với sự khoan thai của nhà Phật. Những lợi ích cải cách, nếu có, không át nổi nhân tâm xao động vì Quý Ly bức hại vua tôi nhà Trần. Lòng người chưa nguôi lưu luyến những võ công hiển hách của vương triều này. Bài học dân vận xương máu từ các triều đại trước đã không được Quý Ly vận dụng triệt để. Chỉ tiếc một điều là thời gian! Năm xưa Trần ThủĐộ dấy nghiệp nhà Trần, đánh Đoàn Thương, Nguyễn Nộn, chôn sống một mẻ 370 tôn thất nhà Lý, giết vua Huệ Tông,… bắt họ Lý trong nước đổi hết ra họ Nguyễn để lòng dân tuyệt đường thương nhớ vua cũ, so về mức độ tàn ác và gây thất nhân tâm thì chưa chắc Quý Ly đã! sánh b�! ��ng. Nhưng Trần triều có tới hơn 30 năm để củng cố sức mạnh và thu phục lòng dân – một thứ vốn dĩ rất tương đối – trước khi Mông Cổ kéo sang. Hồ Quý Ly sau khi chính thức dứt nghiệp nhà Trần suy vi thì chỉ còn 7 năm trước khi chống Minh, một khoảng thời gian đủ dài để xây thành trì mộ quân lương nhưng quá ngắn ngủi đểđoàn kết nhân tâm. Rốt cục, vận đúng vào câu nói của Tả Tướng quốc Hồ Nguyên Trừng: "Tôi không sợđánh, chỉ sợ lòng dân không theo!".
– Như nhiều anh hùng nước Nam khác, Quý Ly có họ xa bên phương Bắc. Ông tổ của Quý Ly là Hồ Hưng Dật, người tỉnh Chiết Giang, sang đất Việt làm Thái thú Diễn Châu thời Trung Quốc có loạn Ngũ Quý (Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu) đầu thế kỷ thứ X. Họ Hồ bám rễ sinh sôi ở đất Diễn Châu (nay là Nghệ An) đến đời cháu thứ 12 của Hưng Dật là Hồ Liêm thì dời ra Thanh Hóa. Liêm làm con nuôi của quan tuyên úy Lê Huấn nên cải họ Lê. Quý Ly là cháu 4 đời của Lê Huấn, là con quan Kinh lược sứ Lê Quốc Kỳ, sau này lên ngôi mới lấy lại họ cũ.
– Quốc hiệu Đại Ngu gây nhiều thắc mắc và dịứng cũng liên quan đến gốc gác của họ Hồ. Tương truyền, Ngu Yên có con là Vĩ Mãn được Chu Vũ Vương nhà Chu phong ởđất Trần, thường gọi là Hồ Công. Sau Mãn lấy luôn làm họ, đổi thành Hồ Công Mãn. Quý Ly cho mình thuộc dòng dõi Hồ Công Mãn, nên đặt quốc hiệu Đại Ngu, hàm ý mình là con cháu dòng Ngu Thuấn.


Làng hay phố?


Username:

cuoihaymeu

Quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng ở Hà Nội đã xóa dần những ngôi làng, vốn là bản sắc văn
hóa dân tộc. Tuy nhiên, đây đó trong Hà Nội hiện nay vẫn còn sự hiện hữu của những giá trị văn hóa đó.

Cho đến tận thế kỷ XXI này một trong những nét đặc thù của Hà Nội là vẫn đang trong quá trình chuyển hoá từ làng sang phố. Hà Nội ngày nay có sự tồn tại của các làng ngay trong thành phố – làng nội thành, theo các nhà nghiên cứu văn hoá điều này là rất hiếm trên thế giới. Chẳng hạn như các làng Hào Nam – phường Ô Chợ Dừa, quận Đống Đa, (nằm theo phố Hào Nam dọc theo cạnh phải mương Hào Nam, đối diện Nhạc viện Hà Nội, một đầu là đường La Thành, đầu kia nối vào ngõ 325 Cát Linh đâm thẳng ra khách sạn Horizon, xưa thuộc trại Thịnh Hào, tổng Hạ, huyện Vĩnh Thuận cũ), làng Thịnh Quang – phường Thịnh Quang, Đống Đa (nằm ở khu vực tam giác Tây Sơn, Thái Thịnh và đường Láng. Xưa thuộc tổng Hạ, huyện Vĩnh Thuận cũ), làng Nam Đồng – quận Đống Đa (gồm phố Nguyễn Lương Bằng, ngõ Xã Đàn, một đoạn La Thành, phố HồĐắc Di), làng hoa Ngọc Hà (từ vườn Bách Thảo cắt ngang ngã tưđầu phốĐội Cấn, đến phố Sơn Tây, quận Ba Đình),…

Hiện nay các làng đã được hành chính hoá thành các tổ dân phố và phường thành thị và nhiều làng đã
được nhà tầng, mái bằng hoá tương đối, nhưng dẫu sao đi vào khu ấy vẫn có một “cảm giác làng” khá rõ.

V ới tốc độ mở rộng thành phố về phía Nam và Tây Nam như hiện nay nhiều làng ngoại thành cũng đang vặn mình trong dòng chảy đô thị hoá. Các vùng vốn là làng nguyên chất nay đã phần nhiều lai phố như Ngũ Xã, Láng, Cót, Phú Thượng,… Danh sách “làng trong phố” rồi sẽ tiếp tục dài ra. Bên cạnh sự phát triển thấy rõ của kinh tế – xã hội cũng đã thấp thoáng thấy nỗi lo về một bản sắc văn hoá làng đang ngày một hư hao. Những giá trị này dẫu khó mà đánh đổi được với sự ngày một văn minh, hiện đại hơn của thủđô, nhưng cũng không thể quên rằng chúng đã và vẫn đang góp phần quan trọng trong việc hình thành một bản sắc văn hoá Thăng Long – Hà Nội.


Nhỏ nhoi cái húng, cái hành


Username:

cuoihaymeu

Ph ải chăng sựđô thị hóa và những giá trị văn hóa truyền thống không thể dung hòa lẫn nhau? Đâu là câu trả lời cho câu hỏi này? Cá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây sẽ mãi mãi chỉ còn xuất hiện trong những câu ca dao, liệu húng Láng cũng sẽ phải chịu chung số phận? Đất này vốn trồng rau, giờ nhà cửa cao quá nên nó thành chỗ chứa nước thải, đành xin phường làm cái sân chơi cho trẻ. Dự án chợ cấp II Láng Hạ, đường C2 Thái Hà và chợ mới cấp III Láng Thượng bắt đầu thực thi, húng Láng, hành Láng cũng theo luôn vào cổ tích – Thành phố quyết định rồi, chưa thấy cái gì dính đến rau được nhắc tới cả. Đó là một vài câu nói chúng tôi ghi lại từ Láng, vùng đất của thứ rau gia vị húng Láng và hành Láng đệ nhất Kinh kỳ thuở trước. Qua Láng bây giờ, cả ba HTX nông nghiệp chỉ còn khoảng 5ha đất (trước là hơn 30ha) gọi là để làm nông nghiệp, phần lớn là ao hồ dùng để thả muống, liệu ai còn nhớ về sản vật đã từng được tiến vua ấy không?

Ng ười làng Láng vốn tự hào thế này: Ởđâu thơm húng thơm hành Có về làng Láng cho anh theo cùng Theo ai vai gánh vai gồng Rau xanh níu gót bóng lồng sông Tô… Húng Láng, hành Láng, cốm Vòng, gạo tám Mễ Trì,… vốn là những sản vật của riêng kinh thành

Th ăng Long. Vậy mà lúc nãy, đi qua cái hẻo đất teo teo trồng rau cạnh đường Láng, ông bạn phàn nàn: Đất ngay trung tâm, sao không xây lên mà kinh doanh nốt?. Chợt chạnh lòng. Người ta hầu như không biết nơi ấy là một trong những chỗ hiếm hoi còn sót lại của thứ sản vật càng ngày càng xa xăm: húng Láng và hành Láng.

Tìm cái tinh của đất:

Láng là tên Nôm c ủa xã Yên Lãng, làng cổ ven thành Thăng Long, một trong 61 phường của Thăng Long thời Trần. Theo Việt điện u linh, thời vua Lý Thánh Tông (1054-1072), ở hương Yên Lãng có người con gái tên là Tăng Thị Loan lấy đạo sỹ Từ Vinh, sinh ra TừĐạo Hạnh. Thôn Thượng nay còn di tích chùa Nền (vốn là nền nhà ông bà Vinh ngày trước). Như vậy, ít nhất làng Láng cũng có người ở cách đây hàng chục thế kỷ. Xã Yên Lãng có ba thôn là Láng Thượng, Láng Trung và Láng Hạ, giờ là ba phường cùng tên chạy theo chiều dài hơn 3 km trên dải đất bờ Bắc sông Tô Lịch. Đây là vùng đất duy nhất trồng được thứ rau húng (tên gốc là rau thơm Láng) và hành hoa thơm ngon không đâu bằng. Bà Nguyễn Thị Tâm, 65 tuổi, tóc vấn tròn, miệng tươi trầu tự hào nói với VASC Orient: "Thơm Láng bao giờ lá, cọng cũng gầy hơn những loại thơm vùng khác, cọng tía sẫm, lá ít răng cưa và mỏng, thả ra tay còn nguyên mùi thơm dịu, rất đậm đà, không gắt quá mà cũng không vương mùi bạc hà. Chẳng riêng những người làm rau, những ai sành ăn đi đâu cũng nhận ra thơm Láng…“. Dù có mua cùng rau giống ở chợ Bưởi, chợ Mơ… Nhưng chỉ khi trồng ở Láng, rau thơm mới có những đặc tính quý hiếm trên. Làng Đăm (Tây Tựu) và một số nơi ở Thanh Trì đều trồng nhiều húng nhưng không đâu được thơm ngon như húng Láng. Không biết bao người đã về làng, mang giống đi với tâm nguyện nhân rộng, giữ gìn giống rau quý, nhưng cây đều biến giống, giảm chất lượng dù có được chăm sóc cẩn thận bao nhiêu. Ngay như Yên Hoà, cách Láng có vài chục bước chân qua sông Tô Lịch mà cũng chẳng trộm được thứ húng này! . Chưa kịp qua sông, húng đã mất vị rồi. Tất nhiên, có được thứ rau ngon bởi một phần nhờ công người chăm bón. Các rẻo đất trồng rau thấm hết cái vất vả, công phu của người làng Láng. Vì thu nhập? Cũng chỉ một phần. Bởi nguồn thu 200.000300.000 đồng từ cây rau thấp hơn nhiều so với nghề tay trái của những dân cư khu vực đô thị hoá tự lúc nào này. Nhưng họ vẫn yêu cây rau, vẫn trồng rau như muốn giữ gìn một cái gì xưa cũ. Bởi từ sâu trong tâm khảm họ, cây húng đã thành hồn vía của quê hương. Nói đến húng Láng mà không nói đến hành là một thiếu sót lớn. Trăm thứ canh không có hành không ngon, ai đã từng ăn phở mà không có hành mới thấy nó vô vị biết chừng nào. Thứ hành Láng nhỏ cọng, nhỏ củ, ngắn rễ, có mùi thơm đăc trưng này đã góp phần tạo nên hồn của vị phở Hà Nội. Chả trách các hàng phở nổi tiếng ở hàng Bông, Khâm Thiên, Bà Kiệu xưa kia đều lặn lội về tận Láng lấy hành. Hành và húng đều không ưa trồng chung với bất cứ giống rau nào khác, cứ phải một mình một luống. Chẳng ai dám bỏ quên chúng đến 3-4 ngày. Cỏ dại mà tốt lên, chúng đã giận dỗi mà bớt đậm đà rồi. Húng Láng không trồng bằng hạt như các nơi khác. Vụ thu đông thì giâm bằng ngọn bánh tẻ, hè thu thì giữ lại rễ từ vụ trước, đểẩm cho mọc mầm trắng rồi đem rải xuống rãnh, gơđất lên, ngọn sẽ tự bung ra. Lạ cái giống này chỉưa ăn bã khô dầu, rơm mục, trấu, bùn ao, phân chuồng và đặc biệt là nước giải pha loãng, nhưng phải bón trước khi hái một thời gian đủđể không mất vệ sinh. Rau ngon cũng vì không có những phụ gia công nghiệp thời kinh tế thị trường. V! à ngư�! �i làng Láng cũng không vì năng suất mà bón bừa cho rau quý. Húng mà "ăn" thuốc, phân hoá học sẽ bạch tạng mà chết hay xanh um lên, nhạt thếch… coi như hỏng. Ngày nào cũng phải tưới nhẹ một lượt trước khi mặt trời mọc và một lượt trước khi mặt trời lặn. Nhổ cỏ, làm đất, cấu ngọn có cỡ tuỳ theo mùa … Rồi lại cấu dài, cấu ngắn… Ai bảo đó không phải là thứ công nghệ trồng rau – thứ công nghệđược tạo ra bởi những con người còn mang nguyên dáng dấp nông thôn giữa lòng Hà Nội? Ngoài cái tâm của người trồng húng, cái chất đất Láng, căn nguyên của sựđộc đáo trong húng Láng còn được lý giải bằng cơ sở khoa học. Năm 1978, Bộ môn Rau quả của Đại học Nông nghiệp I đã có một đề tài nghiên cứu về cây húng Láng. Kết quả chỉ ra rằng yếu tố thổ nhưỡng và vùng tiểu khí hậu khác biệt là nguyên nhân tạo cho cây húng ởđây có địa vịđộc tôn. Cụ Lộc (70 tuổi), cụ Phát (70 tuổi), cụ Cẩn (85 tuổi) đều đồng tình rằng, ông bà chúng họ ngày trước cũng đã dặn lại, đất Làng chỉđể trồng cây hành, cây húng. Bà Lược, Chủ nhiệm Hợp tác xã Láng Trung nói: “Đó là cái tinh của đất, vốn quý cha ông để lại cho Làng, vậy mà bây giờ…“. Bà bỏ lửng câu nói, thở dài.

Đâu rồi "Rau xanh níu gót bóng lồng sông Tô"?

V ừa đóng cửa HTX để về thì bị chúng tôi đến quấy, ông Phó Chủ nhiệm HTX Láng Hạ kêu ồi ồi: "Hỏi làm gì? Còn đất đâu mà hỏi.". Nói vậy nhưng ông vui ra mặt, sốt sắng mở cửa mời khách vào. Chưa kịp ngồi, ông đã hào hứng: "Mấy cái khoanh đất trồng rau mà các cô trông thấy cạnh đường Láng rồi sẽ thành chợ cấp II Láng Hạ. Dự án đã đi vào thực hiện rồi đấy. HTX chúng tôi mất đi hơn 7.000m2 trồng rau. Chợ mọc lên, khu A một bên, khu B một bên, đúng vừa. Cái tên cũng sẽđược thay cho hợp thời – Chẳng lẽ chợ không còn cách nào tránh rau?" – Thành phốđã quyết định rồi, chưa thấy cái gì liên quan đến rau được nhắc tới cả, chúng tôi cũng đã đề cập mãi. Tốt nghiệp ĐH Nông nghiệp I, về HTX từ năm 21 tuổi, nay đã 44 năm, ông Vượng đành ngậm ngùi nhìn cây rau mình gắn bó cảđời mai một. Không riêng phường Láng Hạ, hai phường còn lại cũng nằm trong tình cảnh tương tự. Khi thành phố quy hoạch, đất trồng rau thành đất làm nhà, làm đường gần hết. Chỗđất còn lại cũng đang bị tấn công từng ngày. Ông Châu, chủ nhiệm HTX Láng Thượng, quần xắn tận đầu gối đang chỉđạo mấy tài xế xe ben đổđất trước cửa HTX hổn hển nói: "Đất này vốn trồng rau, giờ nhà cửa cao quá nên nó thành chỗ chứa nước thải, đành phải xin phường làm cái sân chơi cho trẻ“. Đất trồng rau bây giờ chỉ còn là những miếng nhỏ, bị xé lẻ, bằm nát bởi nhà cao tầng ngang dọc. Cả ba HTX nông nghiệp còn hơn 5ha đất gọi là để làm nông nghiệp. Năm 1973, HTX Láng Hạ còn hơn 2ha, đến nay chỉ còn chưa đầy 1ha. Láng Trung trước có 27ha nay còn h�! �n…1ha (phần lớn là ao hồ dùng để thả muống). Đến Láng bây giờ khó mà bói ra kẻ trồng rau. Họ thích làm nghề khác hơn. Mà vẫn thích làm rau cũng khó vì cả ba HTX đều ngừng nhận xã viên từ năm 1991. Bây giờ, bên những luống rau chỉ còn lại mấy ông mấy bà ngoại tứ, ngũ tuần. Phải chăng chính yếu tố này cũng thúc giục sản vật nổi tiếng một thời của kẻ Láng nhanh trôi vào quá khứ hơn? Chỉ cần 1-2 trận mưa thôi, hầu hết các vườn đều úng ngập. Khi thiên hạđua nhau lên tầng, thứ rau thanh khiết kia phải tập bơi. Dự án chợ cấp II Láng Hạ, đường mới C2 Thái Hà và chợ mới cấp III Láng Thượng bát đầu thực thi, húng Láng, hành Láng cũng theo luôn vào cổ tích. Liệu ai còn nhớ về cái sản vật đã từng được tiến vua ấy không?

Nỗi niềm người kẻ Láng:

C ả buổi sáng, bà Đức mới bó được 40 cặp húng, tính ra chưa được 5.000 đồng cho rổ rau đầy ắp. Bà cụ ngậm ngùi: "Húng nào mà chả giá ấy, chỉ những người sành ăn mới chọn húng Láng, còn thì nháo nhào cả. Chúng tôi còn khốn đốn vì cái đận Truyền hình về quay ruộng rau rồi đưa lên phê phán đây không phải là rau sạch. Hôm sau, chẳng ai đến lấy hàng…” Nhưng những người trồng rau kẻ Láng lại thua người mua một cách thảm hại bởi có trồng cầu kỳ như thế chứ có hơn thế nữa cũng chỉđổ buôn được 50 đồng/mớ. Nhưng lạ cái là đi hàng rau thơm nào, người bán cũng khăng khăng đấy là húng Láng. Chẳng lẽ người Láng trồng rau du kích trong nhà? Nhưng vượt lên thói thường, người kẻ Láng ai cũng mong có được một diện tích đất dù nhỏđể làm nơi cho rau Láng, đặc biệt là húng, hành tồn tại với đời. Cái gì đã mất thì không bao giờ lấy lại được, chi bằng chúng ta hãy giữ nó khi còn chưa muộn. Chẳng có bảo tàng nào giữđược giống rau ấy bằng một bảo tàng sống. Chẳng lẽ chúng ta không xót xa khi nhìn húng Láng, hành Láng sắp làm bạn đồng hành cùng cá rô đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây trong quá vãng hay sao?


Châu Âu thời Trung cổ


Username:

Mystery_aries

(tổng hợp từ các ý kiến của Paladin, VHNL, Yasunari, Hector, NguCong,…)

Trong su ốt một nghìn năm thời Trung cổ, toàn bộ châu Âu như bị bao trùm bởi một bóng đen kìm hãm sự phát triển về nhiều mặt. Bài viết này sẽ giúp bạn nhìn rõ vào bóng đen đó, nó ẩn chứa một thời kỳ đầy biến động mang đậm màu sắc phong kiến. Giai đoạn này được các nhà sử học quốc tế cho là bắt đầu từ khoảng năm 350 cho tới năm 1453. Tuy không có cột mốc thời gian xác định nhưng người ta cho rằng thời kỳ này bắt đầu từ sự sụp đổ của Rome (thủđô của đế quốc Tây La Mã) và kết thúc khi Constantinople (thủđô đế quốc Tây La Mã – nay là Istambul, Thổ Nhĩ Kỳ) sụp đổ. Có một sự trùng hợp là thời Trung Cổ bắt đầu và kết thúc đều từ những cuộc tấn công từ bên ngoài. Khởi đầu là người Visigoth, người Anglo-Saxon,… và kết thúc là người Ottoma. Sau cuộc tấn công năm 1453, Constantinople thất thủ, các học giả Hy Lạp từ Byzantium chạy nạn sang Tây Âu đã mang theo các tác phẩm nghệ thuật và triết học cổđại Hy Lạp khiến Châu Âu kinh ngạc, làm dấy lên cuộc tìm kiếm các giá trị cũ rực rỡ và khao khát sáng tạo những giá trị mới ở tầng lớp trí thức, nghệ sĩ Châu Âu. Trước cuộc hồi sinh ngoạn mục đó là thời kỳ dài hơn nghin năm đen tối. Triết học chỉ vẻn vẹn có giáo lý Thần học của các tu sĩ mang nặng tính giáo điều và khắc kỷ. Nghệ thuật chỉ hoàn toàn phục vụ Nhà thờ mà thôi. Về Văn học, chỉ có những trường ca kể lại cuộc chiến đấu chống lại quỷ cám dỗ hoặc chiến đấu vì nhà vua, tiêu biểu nhất là trường ca Roland, một hiệp sĩ của Hoang đế Charlemagne. Về Thi ca, chỉ có Kinh thơ (thơ tụng kinh) trang nghiêm tuyệt đối. Về Kiến! trúc, chỉ có kiến trúc tôn giáo phát triển, mới đầu là phong cách Roman nặng nề biểu hiện uy quyền to lớn của Chúa, sau đó là phong cách Gothique nhẹ nhàng hơn, với xu thế vươn lên cao hướng tới Thiên đường. Hội hoạ phụ thuộc kiến trúc vì chỉđược sử dụng với mục đích trang trí nhà thờ và minh hoạ các tích trong Thánh Kinh. Âm nhạc cũng rất đơn giản chỉ có Thánh ca. Ðiêu khắc kém nhất, chỉ có các tượng rước được sử dụng trong các ngày lễ. Thời Trung Cổ là thời chiến tranh cát cứ. Các vua chúa Châu Âu phải tìm cách tập trung quyền lực vào tay mình trong khi đó thế lực của Giáo hoàng gần như bao trùm tất cả. Giáo hoang cai quản hoàn toàn miền Nam Italy (cả về thế tục lẫn tinh thần). Bên ngoài lãnh địa của mình, Giáo hoàng vẫn có thể với tay đến khắp Châu Âu, nắm quyền lực tinh thần, là người cai quản phần hồn của dân chúng Châu Âu trong khi các vua chúa là người nắm quyền lực thế tục. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau về thời kỳ này. Phần lớn chúng ta coi thời Trung Cổ là khoảng thời gian tăm tối nhất của Châu Âu với sự biến mất của triết học để nhường chỗ cho sự bành trướng của đạo Thiên chúa. Trong thời Trung Cổ, nền văn hoá – văn minh phương Tây chưa có được những thành tựu to lớn và rực rỡ như Trung Hoa và các nước Hồi giáo. Nhiều giá trị văn hoá thời Hy Lạp
– La Mã còn sót lại chính là nhờ sự bảo tồn của người Arập. Nhưng cũng có người cho rằng đây là thời kỳ định hình cả vềđịa lý và văn hoá của Châu Âu. Ảnh hưởng tích cực nhất của thời kỳ này đối với văn hoá Châu Âu có lẽ là sự phát triển tinh th�! ��n dân ! chủ (do chưa hình thành khái niệm Tổ quốc một cách rõ rệt) cùng với sự phổ cập các giá trị tinh thần của Thiên chúa giáo. Nhưng ảnh hưởng tiêu cực của thời kỳ này hẳn phải lớn hơn nhiều so với những ảnh hưởng tích cực đến nỗi các triết gia và các nhà sử học đã gọi thời kỳ này là “đêm trường Trung cổ”.

Sự sụp đổ của Ðế quốc Tây La Mã – The Fall of Rome:

Ð ế chế La Mã có lãnh thổ rất rộng lớn kéo dài từ Châu Âu và Ðịa Trung Hải (Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Ðào Nha, England (không có Ireland và Scotland),…) sang Bắc Phi (Maroc, Tunisie, Algerie, Ai Cập,…) tới tận Vùng Cận Ðông (Tiểu Á, Palestine, bán đảo A Rập,…). Biên giới phía Bắc là sông Rhine và sông Danube, giáp với các bộ tộc có nguồn gốc từ bán đảo Scandinavia, thường được gọi là các bộ tộc German. Ðế quốc La Mã hưng thịnh trong gần 1000 năm, đem lại sự ổn định, thịnh vượng và trật tự cho thế giới phương Tây. Những con đường nhằm đưa quân từ Rome đến các vùng lãnh thổở biên giới La Mã đồng thời cũng được dùng để thông thương giữa các vùng thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, chính vì quá rộng lớn, nên đến năm 284, hoàng đế Diocletian quyết định tách La Mã làm 2 phần Ðông và Tây, mỗi phương có một vị hoàng đế (Augustus) và một vị phụ tá (Ceasar). Hệ thống này gọi là Tứđầu chế (tetrachy). Vào năm 323, sau một cuộc nội chiến, Constantine trở thành hoàng đế và xây dựng thủđô của Ðông La Mã tại Bizantium, sau đó đổi tên thành Constantinople. Hai đế chế dần dần tách riêng và độc lập với nhau, mặc dù trên danh nghĩa vẫn nằm trong cùng một La Mã. Người Latin sống ở Tây La Mã, còn người Hy Lạp chiếm sốđông ở Ðông La Mã. Ðến đầu thế kỷ V, tại Tây La Mã, người German vượt sông Tibet, người Vandanle chiếm Nam Italy và Bắc Phi, người Ostrogoth, người Visigoth chiếm cứ một phần Italy và phía nam xứ Gaule dến tận sông Loire, Burgonde chiếm cứ lưu vực sông Rihne, người Frank chiếm cứ toàn nước Bỉ. Ðất đai của Tây La Mã vụn ra thành từng mảnh. Năm 4! 51, đạo quân phối hợp giữa La Mã, Goths và Pháp đánh bại quân Hung Nô ở Chalaons, Pháp. Năm 453, Attila, thủ lãnh vĩđại của người Hun (có nguồn gốc Mông Cổ) qua đời làm đế quốc Hung Nô tan rã nhưng quá trình tiến về phía Tây của họđem theo những đám dân bán khai như Lombards, Vandals và nhiều dân tộc khác tản mát khắp Tây Âu. Ðến năm 476, Romolus Augustus, hoàng đế cuối cùng của Tây La Mã, bị hạ bệ và ngai vàng của ông ta bị Odoacer chiếm đoạt. Ðó là giai đoạn cáo chung của Ðế quốc Tây La Mã.

Thời kỳ chuyển tiếp:

Sau khi Tây La Mã s ụp đổ, vùng tây châu Âu tách ra làm nhiều vương quốc nhỏ. Vào cuối thế kỷ V đầu thế kỷ VI, Clovis, một ông vua của nhóm người Frank từ Bỉ xua quân qua đánh chiếm xứ Gaule, thống nhất một vùng rộng lớn từ dãy Pyrenees đến sông Weser bao gồm cả xứ Thuringen kể cả vương quốc Burgonde. Chính từđây bắt nguồn cho sự thống trị của tôn giáo trong thời kỳ Trung Cổ. Clovis thành công được dễ dàng là nhờ có sự hỗ trợ của Thiên chúa giáo. Năm 768, Charlemagne, cháu của Charles Martel, trở thành vua của người Pháp. Trong khi mở rộng đế quốc của mình, ông đồng thời cũng mở rộng Kitô giáo. Sau cái chết của Charlemagne vào năm 814, Tây Châu Âu mất đi sự thống nhất. Nhiều quốc gia nhỏ nổi lên do các lãnh chúa có quân đội riêng cai quản. Do bị chia rẽ về mặt chính trị, châu Âu trở thành miếng mồi ngon cho những kẻ xâm lăng tàn bạo. Những cuộc tấn công liên tục của người Vickings đi mãi tới vùng sâu trong đất liền. Người Magyars từ Hungary và Rumania cướp phá Ðức, bắc Italy và Pháp. Năm 955, Otto, vua nước Ðức đánh tan người Magyars trong trận Lechfield gần Augsburg. Còn ở Anh, người Vickings bị những thủ lãnh kiên cường đánh bại để củng cố các vương quốc Scotland, Wales và Anh. Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIII, thương mại gia tăng ở châu Âu, một phần do những cuộc Thập tự chinh đã huy động toàn bộ các tầng lớp xã hội trong xã hội Kitô giáo châu Âu chống lại Hồi giáo. Rất nhiều Kitô hữu thực hiện những cuộc hành trình dài tới những địa danh có chứa các di tích thánh của Ðức chúa Jesus Kitô hay các vị thánh đầu tiên. Họ hy vọng nhận được sự tha thứ cho c�! �c tội lỗi và được khỏi các thứ bệnh. Sau khi người Thổ Seljuk chiếm Palestine vào cuối thế kỷ XI, họ bắt đầu tấn công những người Kitô hữu đi hành hương tới các thánh địa. Ðiều này làm cho các Giáo hội thiên chúa cả Ðông lẫn Tây bực tức. Hoàng đế Byzantine kêu gọi sự hậu thuẫn để chống lại sự áp bức của người Thổ. Năm 1095, Giáo chủ kêu gọi một cuộc Thập tự chinh hay cuộc thánh chiến chống người Hồi giáo. Hàng ngàn người dân bình thường hưởng ứng lời kêu gọi. Một thầy giảng lang thang, Peter thầy tu (Peter the Hermit), dẫn dắt một đoàn Thập tự chinh gồm toàn dân quân đã bị người Seljuk ở Tiểu Á tàn sát. Một số người cho rằng Thập tự chinh không có nguyên nhân tôn giáo mà chỉ là vì lợi nhuận và quyền lực. Quyền lực của Giáo hoàng sẽ tăng lên khi thế giới Thiên chúa mở rộng về phía Ðông. Các quốc gia khi ấy vẫn còn nhiều lãnh chúa, chưa có sự thống nhất. Việc tập hợp các lãnh chúa dưới ngọn cờ chung Thánh chiến sẽ có lợi cho uy thế của nhà vua. Các lãnh chúa thì muốn mở rộng thêm lãnh địa của mình. Nhưng sau nhiều nỗ lực và bao nhiêu thập niên xung đột, năm 1192, Richard I nước Anh buộc phải ký Hoà ước với Saladin – thủ lãnh Hồi giáo nổi tiếng không chỉ nhờ tài năng quân sự và lòng quả cảm mà còn ở sự khoan dung với kẻ thù và các tôn giáo khác – qua đó người Kitô giáo kiểm soát những thành phố gần biển và khách hành hương có thểđến các thánh địa một cách an toàn. Phần lớn vùng đất Palestine vẫn nằm trong tay người Hồi giáo. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên lấy cách suy luận của thời nay để đánh giá, nhận xét chuyện th�! ��i xưa.! Thập tự chinh kéo dài gần 300 năm, hàng trăm ngàn người đã chết nhưng không phải tất cả vì lợi nhuận. Khi Giáo hoàng Urban II kêu gọi Thập tự chinh, rất nhiều người hầu như không biết gì về Jerusalem, tất cả những gì họ biết vềđất thánh chỉ qua Kinh giảng mà thôi. Nhưng họ sẵn sàng bán nhà cửa, tài sản, bỏ lại gia đình đểđi chinh chiến hàng nghìn dặm với tinh thần Tử vì đạo. Hẳn nhiên người thời đó tin đạo và coi sự hiện diện của Chúa là hiển nhiên. Còn những người tham gia Thập tự chinh vì lợi nhuận chỉ có thể là số ít mà thôi. Từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XV, Thành Cát Tư Hãn và gia tộc chế ngự Châu Âu và châu Á, mở ra những con đường buôn bán từ Á sang Âu. Niềm hăng say về những cuộc Thập tự chinh phai nhạt dần khi người châu Âu bị người Thổ Ottoma đánh đuổi khỏi vùng Tây Á lần cuối cùng. Trong thời kỳ này, người Thổ Ottoma nổi lên như một thế lực lớn, đe dọa đế quốc Byzantine. Vào năm 1348, dịch hạch (Thần chết Ðen) tàn sát gần 1/3 dân số châu Âu. Cuộc sống khó khăn suy sụp dẫn đến những cuộc nổi dậy của nông dân Anh và Pháp. Năm 1422, sau khi Henry V qua đời, sự cai trị của người Anh trên nước Pháp suy yếu trầm trọng. Những chiến công vĩđại của Jeanne d’Arc (1412-1431) và trên hết là cái chết đầy dũng khí của bà trong tay quân Anh đã nung nấu tinh thần yêu nước của người Pháp. Năm 1453, nước Pháp tách khỏi Anh quốc. Cùng năm đó, đế chế Byzantine sụp đổ, đánh dấu sự kết thúc thời kỳ Trung Cổ và thời kỳ Phục Hưng bắt đầu.

Sự sụp đổ của đế quốc Byzantine – The Fall of Constantinople:

Ð ế quốc Ðông La Mã – Byzantine tồn tại được lâu hơn đế quốc Tây La Mã rất nhiều, đến tận thế kỷ XV, vì nhiều lý do. Mặc dù cũng được gọi là đế quốc La Mã nhưng Byzantine được thành lập khi Tây La Mã bước vào thời kỳ suy tàn. Vừa kế thừa được những giá trị tốt đẹp của Rome, Byzantine còn kết hợp được những giá trị tốt đẹp của Hy Lạp và đạo Hồi, kết hợp giữa châu Âu và châu Á. Kỷ cương và những hoàng đế tốt, cùng vị trí địa lí thuận lợi (nằm giữa các eo biển miền Bosporus và biển Bắc Hải cùng các tuyến phòng thủ dày đặc) đã biến Constantinople trở thành gần như bất khả xâm phạm, giúp Byzantine tồn tại được khoảng 1000 năm. Tuy nhiên, cũng giống như bất kỳ bất kỳ quốc gia phong kiến nào, đế chế Byzantine phải trải qua quy luật hình thành, phát triển, suy tàn và diệt vong. Hoàng đế vĩ đại nhất của Byzantine là Justinian (527-565). Ông không những mở rộng lãnh thổ Byzantine rộng tới tầm cỡđế chế La Mã thời Cổđại mà còn có nhiều cải cách tốt về quản lý và tài chính. Bộ luật nổi tiếng Corpus iuris Civilis do ông ban hành sau này còn được dùng làm cơ sở luật pháp cho các nước châu Âu. Về mặt kiến trúc, nổi tiếng trong thời kỳ này có nhà thờ Saint Sophie nổi tiếng nằm tại Constantinople (Istambul, Thổ Nhĩ Kỳ), một kiệt tác hoà trộn giữa phong cách Thiên chúa giáo và Ả Rập. Tuy nhiên, sau khi Justinian chết, các hậu duệ của ông cũng mắc phải căn bệnh ham chơi, xa xỉ, giống như mọi vương triều trước và sau này khiến Tây La Mã cũng suy sụp dần. Năm 1450, đế quốc này chỉ còn lại Constantinople và các vùng đất nhỏ bé phía Tây mà thôi. Có tài! liệu cho rằng Byzantine bắt đầu suy sụp không gượng dậy nổi kể từ khi bán đảo Tiểu Á mất vào tay quân Thổ. Sức mạnh quân sự của Byzantine nằm ở lực lượng kỵ binh nổi tiếng cataphract nhưng họđã mất đồng cỏ và nơi sản sinh các kỵ sĩ. Byzantine tồn tại được lâu là nhờ sự giúp đỡ của Genoire và Venise và địa hình chiến lược của Constantinople. Nhưng khi quân Thổ vây thành và cắt đứt đường tiếp lương thực băng đường biển thì không còn gì có thể cứu vãn Byzantine được nữa. Ngoài ra, một số ý kiến cho rằng Byzantine suy tàn vì hai nguyên nhân chính. Thứ nhất, đó là sự cô lập của châu Âu đối với Byzantine. Ðiều này có thể bắt nguồn từ việc phân chia Ðông – Tây La Mã. Byzantine dựa trên cơ sở văn hoá Hy Lạp, nói tiếng Hy Lạp còn Rome thì nói tiêng Latin. Mặc dù Constantine I có công rất lớn trong việc giúp Thiên chúa giáo trở thành quốc đạo ở cả hai đế chế, nhờđó Thiên chúa giáo mới thống trị Châu Âu như ngày nay nhưng kể từ thế kỷ V, đạo Thiên chúa ở Rome và Constantinople là hai dòng khác nhau và luôn mâu thuẫn với nhau. Về tôn giáo, trên danh nghĩa, Giáo hội tách riêng và các vua chúa châu Âu đều chịu ảnh hưởng của Giáo hoàng. Chẳng hạn Giáo hoàng có quyền phong tước Hoàng đế Thánh La Mã cho một vài hoàng đế ví dụ như Charlemagne. Trong khi đó, ở Byzantine thì hoàng đế vừa là người có quyền lực tối cao của đất nước vừa là người đứng đầu về tôn giáo. Dòng Thiên chúa giáo ở Byzantine được gọi là Monophysite. Sau này, Justinian trong nỗ lực hoà hợp với dòng Thiên chúa giáo ở Rome đã phạm phải một sai lầm rất lớn là giết hại rất nhiều người theo! “d! ị giáo” Monophysite ở Syria và Ai cập, vô tình tạo điều kiện thuận lợi cho Hồi giáo phát triển rồi sau này tiêu diệt Byzantine. Nguyên nhân thứ hai là do sự phát triển của đạo Hồi, sau đó là người Thổ (Ottoma) đã khiến Byzantine nằm vào vị trí bất lợi, không đủ sức chống đỡ nên lãnh thổ bị co hẹp dần. Ðến năm 1071, người Thổ giành thắng lợi quyết định ở Manzikert và sau đó chiếm được Tiểu Á. Tới năm 1261, sau các đợt Thập tự chinh, đế chế Byzantine bị thu hẹp chỉ còn lại Hy Lạp. Đầu thế kỷ XV thì gần như không còn gì ngoài Constantinople và các vùng đất nhỏ bé ở phía Tây Nam. Năm 1451, tân quốc vương Ottoma, Mohammed II, lên nắm quyền bính. Là một nhà chiến lược và chỉ huy quân sựđại tài, ông muốn biến Constantinople thành thủ phủ của đế quốc ngày một mở mang của mình. Năm 1453, Mohammed II đã sử dụng một khẩu đội hoả lực bao vây Constantinople, cắt đứt đường tiếp tế lương thực và thuỷ quân từ phía các đồng minh Tây Âu. Ngày 29/5/1453, quân Thổ tràn vào Constantinople. Constantine XI, vị hoàng đế cuối cùng, đã anh dũng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Ðế quốc do Auguste ngày xưa sáng lập đã sụp đổ hoàn toàn, đánh dấu chấm hết cho thời kỳ Trung cổ và là cột mốc cho một giai đoạn mới: thời kỳ Phục hưng. Thời kỳ Trung cổ là một giai đoạn lịch sửđầy biến động của Châu Âu với sự hình thành, lớn mạnh, sụp đổ và chia cắt của những đế quốc hùng mạnh dẫn tới sự hồi sinh và hình thành những quốc gia phong kiến mới. Cùng với sự xung đột thế lực của Thiên chúa giáo và Hồi giáo, diện mạo của Châu Âu đã hình thành rõ nét. Các hình thá! i xã h�! �i, kinh tế và nghệ thuật của thời kỳ này chính là nền móng cơ bản cho các thời kỳ sau này. Lịch sử Châu Âu thời Trung cổ là một quá trình chấp nhận và thay đổi không ngừng.

Công thức vàng của sự thịnh vượng


Username:

Annonymous

(Tổng hợp từ yuyu, Yasunari) Bài toán phát triển và thịnh vượng luôn được đặt ra với bất cứ nước nào và trong thời đại nào. Sự

giàu m ạnh của một quốc gia phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Đứng trước thời đại mới, giới trẻ chúng ta cần hiểu và vận dụng những yếu tốđó như thế nào? Bài viết dưới đây sẽ cho bạn một cái nhìn về ảnh hưởng của từng yếu tố khác nhau. Giàu hay không có lẽ một phần là do chính sách của chính quốc với nước di cư, thuộc địa. Chính sách thuộc địa của Anh là đào tạo người để làm công cho mình, dùng nhân công rẻđể mở rộng sản xuất. Bởi vậy các nước thuộc địa của Anh nhưẤn, Mã Lai, Hồng Kông, Singapo,… nhà nước Anh khuyến khích giáo dục, dân chúng đều nói được tiếng Anh, Anh cũng mở nhiều nhà máy để sản xuất tại thuộc địa. Trong khi ấy chính sách của Pháp là đi vơ vét tài nguyên. Với chính sách như vậy thì dân càng ngu càng tốt. Cho nên trừ vài nước châu Phi mỗi bộ lạc một thứ tiếng nên phải dùng tiếng Pháp để làm tiếng chung, còn lại thì các thuộc địa khác của Pháp, đại bộ phận dân chúng không biết tiếng Pháp. Khác với Anh, Pháp chỉ xây dựng vài nhà máy để phục vụ các ông chủ thực dân tại thuộc địa thôi chứ không phải với mục tiêu sản xuất. Vì vậy, ở các thuộc địa của Pháp, dân trí thường thấp, phần lớn là nông dân, ít nhà máy có tầm cỡ lớn. Phải chăng đó chính là nguyên nhân dẫn đến sự chênh lệch giữa thuộc địa của Anh và Pháp. Một lý do quan trọng là tôn giáo. Người Anh di cư chủ yếu theo đạo Tin lành. Đạo Tin lành khuyến khích tinh thần kinh doanh, ý thức tiết kiệm, làm giàu, và không quy định những lễ nghi phiền phức với con chiên và giáo sĩ (ví dụ mục sư có thể lấy vợ) phù hợp cho sự phát tr! iển của CNTB. Người Tây Ban Nha đa phần là các tín đồ Thiên chúa giáo cuồng nhiệt, nếu không muốn nói là cuồng tín (Nhớ lại các toà án dị giáo ở nước Tây Ban Nha thiên chúa giáo). Chếđộ phong kiến ở Tây Ban Nha cũng có hơi hướng của phương Đông. Hơn nữa vào thời điểm thế kỷ XVII, XVIII, trong khi Anh đã tiến hành thành công công nghiệp hoá và có sự ra đời của tầng lớp trung lưu, tư sản có kiến thức kỹ thuật và tinh thần kinh doanh thì Tây-Bồ vẫn là các quốc gia phong kiến lạc hậu, tầng lớp tư sản trung lưu hầu như không phát triển. Do vậy, nếu như người Anh đến các thuộc địa mang theo công nghệ, kỹ thuật, ý chí làm giàu thì người Tây Ban Nha chủ yếu là vơ vét của cải để mang về chính quốc. Một lý do khác là ở Mỹ, Canada, người da đỏđã hầu như bị diệt chủng vì vậy các nước này sẽ chỉ là một nước Anh khác, với các thể chế (luật lệ, tổ chức chính quyền, quy tắc ứng xử,…) sẵn có từ chính quốc được du nhập có điều kiện hoạt động tốt trong khi ở Trung và Nam Mỹ, tỉ lệ dân cư bản địa cao hơn nhiều trong khi cũng không có được một sự hoà nhập thực sự giữa thực dân và dân bản địa. Do đó, sự phát triển xã hội nói chung cũng khó khăn hơn nhiều.

Đ ó là các lý do lịch sử. Nhưng nói gì thì nói, thì ngày nay các nước nói tiếng Anh cũng có điều kiện phát triển tương đối thuận lợi hơn các nước không nói tiếng Anh. Chẳng hạn, sở dĩẤn Độ nổi bật lên trong ngành công nghiệp phần mềm cũng một phần quan trọng nhờ người Ấn Độ thành thạo tiếng Anh.

Yếu tố xã hội vào thời điểm xâm chiếm cũng là một nguyên nhân. Thực ra nó là một phần của Văn
hoá.

Ph ần nhiều các vùng đất người Anh xâm chiếm còn ở chếđộ cộng sản nguyên thuỷ hoặc vừa thoát khỏi chếđộ chiếm hữu nô lệ. Trong khi Pháp đánh vào những nước đã có một xã hội phong kiến lâu đời hoặc đang manh nha kinh tế tư sản. Vì thế văn hoá, trí tuệđã đạt một mức nào đấy, đã cắm rễ, ngoài cách làm cho nó ngu, cho nó quên mình đi thì không còn cách nào khác. Các dân tộc ở Bắc Mỹ và Nam Thái BÌnh Dương không có cái gì để quên thì cần gì làm cho quên? Cho các dân tộc ấy học hành để thành người Anh thì càng hay. Nếu xếp Văn hoá sau vị trí địa lý và hoàn cảnh lịch sử là nhầm. Hai yếu tố trên chỉ là tạm thời, có tính chất sách lược. Còn cái lâu dài, cái chiến lược, cái quyết định sự phụ thuộc, sự bịđồng hoá, sự mất tự do vĩnh viễn hay tạm thời của thuộc địa vào chính quốc là Văn hoá. Văn hoá là trí tuệ của dân tộc. Dân tộc nào có Văn hoá lâu đời thì mới có cái sức mạnh căn bản để tự do. Có Văn hoá thì mới có nhận thức về mình, về tổ tiên mình. Mà tự do là sự nhận thức được mình và thế giới khách quan. Trung Hoa bị xâu xé, Ấn Độ bịđộ hộ, Việt Nam bị gông cùm gần thế kỷ, nhưng tất yếu là những nước này phải độc lập vì có Văn hoá, có bản sắc riêng không thểđồng hoá được. Còn những dân tộc Bắc Mỹ và Nam Thái Bình Dương kia, họ bị xoá sổ bởi Văn hoá yếu. Như nước Mỹ, các bác thấy thực ra nó không có nền Văn hoá của riêng nó. Nó có lịch sử 200 năm và một nền Văn hoá không có lịch sử. Thử hỏi nền Văn hoá Mỹ có những thời kỳ nào, những di tích hiện vật và phi hiện vât nào? Vì thế mà nói Văn hoá Mỹ! không có lịch sử. Họ có thể có một nền Văn minh rực rỡ nhưng Văn hoá của họ mù mịt.

Một dân tộc không có một nền Văn hoá có bề dầy sẽ rất nguy hiểm.

Dân t ộc chúng ta có mấy nghìn năm lịch sử rồi. Về Văn hoá, chúng ta tự hào mình có một nền Văn hoá đầy bản sắc và sức sống. Nói sức sống vì sau bao nhiêu chiến tranh và bom đạn, chúng ta vẫn giữ được rất nhiều di vật vật thể và phi vật thể. Mấy nước có vài trăm năm văn hoá như Mỹ, Úc,… họ lại có cái hay là sẵn sàng chấp nhận, hoà nhập với các nền văn hoá khác, đó chính là nền tảng vững chắc cho công cuộc toàn cầu hoá hiện nay. Còn mấy nước mà tự nhận có văn hóa lâu đời như Tàu, Việt Nam hay Taliban thì lại sinh ra tính tự kiêu, cực đoan, coi mình là nhất. Thêm nữa, chỉ có mỗi chúng ta là tự cho mình có 4000 năm văn hoá thôi, còn dưới mắt những người nước ngoài mà tôi từng gặp (đủ cả Âu, Á, Phi, Mỹ Latin) thì văn hóa Việt Nam chỉ là một bản sao không hoàn hảo của văn hoá Trung Quốc. Về thời cuộc, người Á Đông thường nhìn theo thuyết Thiên, Địa, Nhân là 3 yếu tố chi phối sự hưng vong của một quốc gia. Thiên ởđây có lẽ ta hiểu như là Thời Cơ, Thời Điểm, Thời Đại, Qui Luật Xã Hội v.v… Địa thì là các yếu tố về Vị trí địa lý, Lịch Sử, Văn Hoá, nói chung là tất cả những gì thuộc về vật chất và tinh thần của một dân tộc. Nhân thì dĩ nhiên là yếu tố con người, nói đúng hơn là Trí Tuệ, nghị lực của con người,… Những nước giàu (như nhóm G7) chẳng hạn đều là những nước da trắng (kể cả Nhật Bản) hoặc ít ra là không phải da sậm. Vậy thì dù muốn hay không ta cũng phải công nhận một yếu tố mà lập luận phát xít, phân biệt chủng tộc nêu ra: dó là giống dân da trắng thông minh hơn!!! Nói ra điều này thật rất đau lòng v�! � phạm huý, nhưng khó có thể bác bỏđược.

Tất cả những phát minh khoa học, những sáng kiến,v.v… – Yếu tố quan trọng của sự giàu mạnh… đều
thuộc về nhũng người có mầu da sáng hơn.

Sau n ữa là môi trường địa lý và hoàn cảnh lịch sử. Những người châu Âu khi sang Mỹ thời thế kỷ XVI, XVII, găp một môi trường địa lý rất thuận lợi, một lục địa rộng mênh mông, giàu tài nguyên khoáng sản, lại gặp thời đại lịch sử hết sức thuận lợi là thời kỳ mới phát triển của phương thức sản xuất TBCN, mới bắt đầu cơ giới hoá và công nghiệp hoá nên có điều kiện phát triển rất nhanh vượt cả những người tổ tiên họở châu Âu – dù những người châu Âu cũng đã rất văn minh và phát triển hơn so với thế giới. Vậy là yếu tố Con Người, yếu tố Thời Đại và yếu tốĐịa Lý rất quan trọng.

Còn Văn Hoá thì sao?

Trong m ột môi trường Văn Hoá đa dạng, “Hợp chủng” như Mỹ, đã đành là những nguời có nguồn gốc Anglo-saxon vẫn là những người giàu có nhất, và có nhiều thành tựu nhất, nhưng tất cả các giống dân khác, bất kể mầu da văn hoá, cũng đều khá hơn so với chính đồng chủng, dồng văn của họở cố quốc. Vậy là yếu tố Văn Hoá không quan trọng. Môi trường sống mới là quan trọng. Picaso, Vangogh, Chagal khi ở Tây Ban Nha, Hà Lan hay Nga đều không nổi tiếng, nhưng đến khi lập nghiệp ở Pháp thì họđều trở thành các bậc Maître thế giới cũng là một chứng minh cho sự quan trọng của môi trường sống quan trọng thế nào. Một người hay một dân tộc, cho dù có đổi tôn giáo cũng không thẻ giàu lên được, trái lại dù giữ nguyên văn hoá và tôn giáo của tổ tiên, nhưng di cư khỏi mảnh đất quê hương cằn cỗi như những người nông dân Bắc Bộ khi vào Nam Bộ lập nghiệp lại trở nên giàu có hơn. Vậy là lại một chứng minh về tầm quan trọng của môi trường địa lý. Tóm lại theo tớ, chìa khoá của sự giàu có, trước hết nằm trong bộ óc của con người. Yếu tố Nhân. Người nào hay dân tộc thông minh, năng động, sáng tạo, cần cù, dũng cảm hơn thì người đó hay dân tộc đó giàu mạnh hơn và ngược lại.

Sau đó là Thời Thế hay Thiên Thời. Dù một dân tộc thông minh, sáng tạo, có nghị lực mà chưa gặp
hoặc không gặp thời cũng khoá phát triển lên được. Châu Âu thời Trung Cổ là một ví dụđiển hình.

Sau đó là yếu tốĐịa Lợi. Người châu Âu sang lập nghiệp tại châu Mỹ như Rồng xuống Biển, như Cọp vào Rừng, họ có đất “dụng võ” để thể hiện sự thông minh, nhiều sáng kiến, tinh thần khoa học thực dụng của họ, nên họ phát triển rất nhanh. Giá thử vùng đất ấy cho mấy ông da đen đến lập nghiệp thì dến bây giờ chắc vẫn còn là nơi khỉ ho cò gáy chứ làm gì có các super town và một xã hội siêu phát triển như hiện nay. Những người Hoa hay những người Ấn, khi sang Mỹ, họ vẫn giữ nguyên tôn giáo, văn hoá của họ, nhưng tại sao họ lại trở nên giàu có hơn tại chính quốc? Nói tóm lại yếu tố Văn Hoá có tác dụng bảo tồn chứ không có tác dụng phát triển. Không có một nến văn hoá nào là mang những yếu tố kìm hãm hay thúc đẩy sự phát triển. Tất cả là tuỳ thuộc vào Con Người, Thời Thế và Môi Trường Sống.

Không nên hiểu nhầm nghĩa Văn hoá với Văn minh rồi. Hai khái niệm này hay nhập nhằng nên
thường mọi người hay nhầm. Định nghĩa Văn minh là thế này: Văn minh là một lát cắt của Văn hoá.

Nh ư nước Mỹ, các sản phẩm điện ảnh của họ chẳng hạn, là các sản phẩm Văn hoá, đúng thế, nhưng cả cái lát cắt Văn hoá hiện đại của Mỹ gồm cả nghệ thuật và tập quán v.v… chỉ là những phần của một nền Văn minh. Chứ nước Mỹ không có Văn hoá của mình. Không có Văn hoá nên họ mới rất dễ dàng bịđồng hoá. Nói hoà nhập chính là một dạng của sựđồng hoá. Cái gì cũng có hai mặt của nó. Nền Văn hoá lâu đời không dễ dàng bịđồng hoá nhưng cũng rất khó chấp nhận cái hay của một nền Văn hoá khác mình. Các dân tộc không có bản sắc dễ dàng chấp nhận nhũng gì không phải là họ, bởi vì bản sắc của họ yếu, họ không là gì cả, không là mình, nhưng cũng sẵn sàng là tất cả những gì có ích cho cuộc sống của họ.

Mà có nên gọi họ là dân tộc không? Dân Úc không phải là dân tộc. Dân Mỹ không phải là dân tộc.
Họ là những quốc gia, thậm chí cường quốc, nhưng dân tộc thì không.

Nói v ề thế hệ trẻ con: chúng không bảo thủ như mình nên dễ dàng chấp nhận cái mới hơn, vì thế dễ tạp ra cái mới hơn. Nói ở cấp độ vĩ mô thì các quốc gia như Úc,… cũng giống như thế. Cái giống giữa họ và lũ trẻ kia là: nền tảng Văn hoá yếu. Nó có hai hệ quả: rất dễđánh mất mình nhưng cũng rất dễ tạo ra cái mới.

Nhưng trong những quan điểm trên cũng tồn tịa những mâu thuẫn. Đầu tiên nói rằng Trí tuệ và nghị
lực của con nguời mới là quan trọng, và người da trắng thông minh hơn vàng.

Sau đó lại nói môi trường mới là quan trọng. Nếu lấy dẫn chứng nguời Mỹ và người Anh, các hoạ sĩ, làm ta nhớđến câu chuyện quýt trồng ở nước Tề khác với quýt trồng ở nước Sở. Chẳng lẽ con nguời cũng như những quả quýt kia, thực ra trí tuệ không hơn kém nhau mà chỉ phụ thuộc vào địa lý. Như thế là mâu thuẫn với luận điểm trên rồi. Nếu hỏi: “Thế sao vào thời ấy những dân tộc Á Phi lại yếu đuối đến độđể bị xâm lược đô hộ, chẳng phải vì ngu dốt hơn ư?”. Câu trả lời là không. Chẳng hạn ở Châu Á: Trung Hoa và Việt Nam dính phải chếđộ phong kiến. Về mặt xã hội và kinh tế, việc bế quan toả cảng dẫn đến bóp nghẹt sự phát triển kinh tế – như các bác biết, ngoại thương vô cùng quan trọng với một nền kinh tế và trao đổi hàng hoá là thiết yếu cho sự phát triển Kinh tế, Nho giáo làm cho ý thức cá nhân chùn đụt. Về mặt khoa học, khoa học kỹ thuật không phát triển vì nguyên nhân sâu xa là ý thức hướng về xã hội và tự nhiên của người phương Đông, người phương Đông chủ trương hoà hợp với tự nhiên chứ không cải tạo, thống trị tự nhiên. Nguyên nhân của hành động bế quan toả cảng: Các Hoàng Đế muốn quyền lực của mình là tuyệt đối
– đây là yếu tố khách quan. Ý thức cá nhân kém vì Nho giáo chủ trương con người hoà vào cái Ta chung, phục vụ nhà vua. Con người vì thế trở nên thụđộng, chỉ nghe lệnh trên mà không vận dụng sự sáng tạo của mình. Nguyên nhân của khoa học kém phát triển là ý thức dung hoà với tự nhiên. Nguyên nhân của ý thức này là ảnh hưởng Nho giáo, Lão giáo. Lấy ví dụ như hai đứa bé con th�! �ng minh như nhau sinh ra trong hai gia đình có sự giáo dục khác nhau: một gia đình dạy con: “ham học là tốt”, gia đình kia thì bảo: “học làm cái gì, lo mà tập cơ bắp làm ruộng, rồi tao lấy cho con vợ béo tốt”. Thế thì lớn lên, hai đứa bé ấy sẽ thế nào dù thông minh như nhau? Đành rằng môi trường là quan trọng, nhưng chính cái ý thức thấm sâu trong chúng đã làm nên số phận chúng. Về việc người Anh dùng cái đầu mình để làm giàu. Đồng ý, nhưng bảo là họ chỉ “thêm thắt vào sự giàu có của họ” thì có lẽ là không phải. Thêm thắt? Nghĩa là dù thiếu nguồn lợi từ thuộc địa thì họ cũng chẳng hề hấn gì vì nguồn thu từ bóc lột thuộc địa không mấy đáng kể so với tổng thu nhập của họ? Nếu đúng thế thì việc quái gì Pháp phải giãy nảy lên khi mất cái vùng Đông Dương nhỏ bằng lỗ mũi? Việc quái gì Anh phải ra sức giữ những thuộc địa của mình? Và nữa, việc quái gì mà vào những thế kĨIVI, XVII, Anh và Pháp tranh nhau kịch liệt mảnh đất Bắc Mỹ? Nếu không phải, mà ý nói rằng từ “thêm thắt” này có nghĩa là sự giàu có vốn là cái gốc của họ, từđó họ phát triển bằng cách chiếm thuộc địa và nhân sự giàu có ấy lên nhiều lần, nghĩa là nguồn thu từ thuộc địa lớn hơn tổng thu nhập Mẫu quốc làm ra, thì tớ lại có thể nhấn mạnh lại: Sự giàu có hiện nay của họ phần lớn là nhờ bóc lột.

Phần thứ ba: Vui ! Vui ! Vui !!! bị lỗi (toàn thơ Tú Xương, Tản Ðà, và Nguyễn Khuyến) nên mình đành
cắt bớt . Mong các bạn thông cảm !


Phần thứ tư Góc nhìn văn hóa

Khi trong ta nảy sinh những mối hoài nghi, khi thấy cuộc sống không còn ý nghĩa, ta sẽ cần đến sách và những
loại hình văn hoá đủ mạnh để nâng mình lên cao, mở rộng chân trời, mang lại ý nghĩa cho cuộc sống…
(C.Danuksky )


Qua thời gian

Quang


—– Lịch nghĩa là trải qua,là rõ ràng.Sử là ghi chép. Nhưng Lịch sử không chỉđơn thuần là thu thập thông

tin v ề quá khứ, mà còn là những tư tưởng mong muốn phát hiện trên con đường của những sự kiện, hiểu được nó.Vậy đấy là cái mà hậu thế nhận được trong lĩnh vực hiểu biết đời sống con người trước đó đã trải qua. Văn hoá là danh từ cửa miệng, sâu vào tâm trí con người, cho dù là một bác nông dân,một anh thợ nề hay một học giả trí thức. Đơn giản, văn hoá là môi trường sống của con người về mặt tinh thần và vật chất trải qua thời gian. Bỏ qua khái niệm và những sự lý giải cặn kẽ, tôi thích nhìn vào những gì còn lại, những gì đã mất qua thời gian. Nói cho cùng, năm tháng là thước đo giá trị của Lịch sử và Văn hoá. Đi xa tìm học, đọc Lịch sử Tây Tàu đủ cả, sâu trong lòng vẫn thấy điều thiết thực là hơn, chẳng đâu xa, lịch sử văn hoá xã hội nước ta cũng tốt đẹp. Hôm nay ngó cái TV xem chương trình Phố Hà Nội. Người Việt vốn có câu “sâu rễ,bền gốc”. Thoắt giật mình. những khu phố mới, những toà chung cư cao tầng đang thi nhau đua chen mà chưa kịp biết tường tận thế nào có nơi mang danh: Khu phố cổ

Khu Ph ố cổ sót lại trên Hà thành hiện thấy chỉ có từ thế kỷ 19, nhưng theo sử sách đích thịđây là nhân lõi của kinh đô Thăng Long từ khi mới thành lập, tức là có đến ngàn năm tuổi. Có thể coi không gian khu phố cổ là một hình tam giác cân có đỉnh là phố Hàng Than,cạnh phía đông là đê sông Hồng,cạnh phí tây là các phố Hàng Cót,Hàng Điếu,Hàng Da,đáy là trục Hàng Bông,Hàng Gai,Cầu Gỗ. Phố chi chít dọc ngang như bàn cờ,hầu hết mang tên mặt hàng sản xuất hoặc kinh doanh. Nhà thì cùng một loại kiến trúc,san sát hai bên đường theo kiểu nhà ống.Có dịp hãy quan sát kĩ lưỡng những căn nhà dài như cái ống, hẹp và sâu, có khi thông liền ra một mặt phố khác.Gian ngoài là gian dùng để buôn bán hoặc làm hàng Đi vào trong là một khoảng sân lộ thiên để hứng nắng, gió. Đi tiếp là vào gian nhà dùng đểăn,ở. Nhà nào cũng bình dị, nhỏ bé, vừa làm nơi sản xuất, vừa làm chỗ ra vào sinh hoạt. Hầu hết đều rất thấp, chẳng mấy khi có không gian để trổ cửa sổ. Nếu có cũng rất nhỏ. Đứng ở giữa một phố cổ nhộn nhịp sầm uất bán mua, ngắm nhìn những căn nhà liền mái,liền tường, gồng mình chống đối lại với dấu ấn thời gian để nâng đỡ, nương tựa vào nhau, dễ thấy khu phố cổ như một cơ thể gắn bó khăng khít. Thi thoảng bắt gặp những mái đình chùa cong cong, một chút không gian cây xanh mềm mại còn sót lại. Giữa cái không gian đô thị vật chất kia, hương vị cổ muôn năm cũ nay thấp thoáng, ẩn chìm như muốn giữ cho muôn đời tâm linh của người Hà nội xưa.

N ối với Hồ gươm là Hàng Đào ngược xuống. Được biết dân Hải Hưng (Đan Loan) xưa đến đây nhuộm vải rồi dần dà thành phố bán tơ lụa, gấm, vóc. Bây giờ bộ mặt khu phố thay đổi nhiều, những cửa hiệu đồng hồ sang trọng, bóng nhoáng. Dân nơi đây nam thanh nữ tú xa hoa vào loại bậc nhất. Chẳng trách từ xưa phố có tiếng là hào hoa nhất đô thành. Đi tiếp lên trên là Hàng Đường. Nay, so với Hàng Đào, phố này còn giữđược phần nhiều bóng dáng xa xưa. Vẫn những cửa hàng buôn bán tạp hoá đủ loại, những chị bán hàng xồ xuề phe phẩy cái quạt nan. Giữa phố có mái chùa Cầu Đông còn giữđược bức tượng “Bụt cười”. Góc phố có hàng bánh dày, bánh giò, chả cốm, giò lụa, nem chua đủ loại. Người già con trẻ vui vẻ kề cà cầm tay miếng bánh, miếng nem ngồi ăn bên vỉa hè như một thú vui dân dã cố hữu. Quán này có loại bánh dày Tàu rất lạ. Bánh to bằng lòng bàn tay, lớp bột mịn màng trắng dẻo bao lấy nhân vừng đen. Cắn một miếng, vừa mới nhận ra vẻ tinh khiết của thứ bột nếp nguyên chất, khô nhưng mịn màng không dai thì vị ngọt bùi của cùi dừa xen lẫn mùi thơm đặc trưng của vừng đen kịp trào ra đúng lúc. Ai thích ăn đồ khô ắt hẳn không nên bỏ qua loại bánh này. Có lẽ, trong những phố cổ Hà thành, tôi thích thú nhất với phố Hàng Đường. Mỗi giờ, mỗi ngày đi qua đây tôi đều cảm nhận được những gì của xa xưa không giống trước. Hôm nay phát hiện ra hàng bún bánh đa cua vỉa hè, cũ mà mới. Ngày mai Tết đến, chen chân trước chợ Cầu Đông ngắm nhìn những đào, những thược dược, những Violet, mới mà không cũ. Hôm nào tháng giêng ngày rộng dà! i, loăng quăng đem tiền mừng tuổi ra cuối phố mua vài gói ô mai, vài cái nơ kẹp tóc nhét vào cặp làm quà, đến lớp mừng tuổi cho lũ bạn. Đồ quen thuộc nhưng vun đắp thêm một tình cảm mới mẻ vững bền…Đó là sự hoà đồng tự nhiên, là một sự giao hoà từ qua khứđến hiện tại trong mỗi góc tâm linh nhỏ bé của con người. Lại phải kểđến phố Hàng Mã…Những ngày còn thơ dại, tôi hay theo mẹ lên nhà bà chơi. Bà tôi làm đèn giấy trung thu cổ truyền có tiếng vào bậc nhất Hà thành. Lúc đó Hàng Mã chỉ bày bán đồ chơi làm từ giấy, không có đồ dùng pin và bằng nhựa hiện đại như bây giờ. Dịp trung thu, đi dọc phố chỉ thấy hai màu xanh và đỏ. Tôi cũng hay bám áo bà đi xích lô từ Hàng Chuối vòng ra Hàng Mã giao hàng, mỗi bận bán cả trăm cái đèn lồng. Để chuẩn bị cho một đợt giao hàng vào trung thu như thế, bà tôi mất nửa năm để quét phẩm, in hoa, gấp, chun và hồ từng chiếc đèn. Không biết bây giờ thế nàonhưng những năm 90, người buôn bán trên Hàng Mã, tay lúc nào cũng đỏ lự, tim tím vì dính phải phẩm màu chưa khô. Bán những thứđồ này, ngoài trung thu ra thì quanh năm trầm lặng. Người ta buôn bán hương, giấy, tiền vàng âm phủ, có lẽ vì thế nên ít mau mồm mau miệng. Phố Hàng Mã ngày nay vắng bóng những đèn lồng, những ông tiến sĩ bằng giấy mộc. Thay vào đó là vô vàn màu sắc rực rỡ của đủ loại đồ chơi vui mắt, vui tai. Đời sống, nhà cửa đầy đủ, văn hoá nhiều mặt đến chỗ suy đồi, nhưng thú vui sắm đồ trung thu cho trẻ nhỏ, cho cả lũ thanh niên vẫn ngày một góp phần khiến một nét văn hoá tươi tắn và nhộn nhịp hẳn lên. Khi con sông Tô còn chen ch! ân chả! y trong khu phố cổ, người ta nói, có thể mua cá tươi ở phố Chả Cá. Lại có người kể xưa kia phố này mang tên Hàng Sơn, chỉ bán sơn. Mãi đến cuối thế kỉ 19, có gia đình họ Đoàn ở số nhà 14 nghĩ ra cách nướng cá làm chả, ăn kèm với bún và một số gia vị. Nhiều người thích thú đâm thành tên phố. Trước cửa hiệu, chủ nhà bày tượng Lã Vọng, một tay cầm cần câu, một tay xách xâu cá. Cái tên chả cá Lã Vọng cũng từđấy ra. Cho đến nay khách nước ngoài vẫn tìm đến phốđể yêu cầu thưởng thức món chảđặc sắc này. Khách tới, ngồi vào bàn ăn, theo đúng cung cách thì nhà hàng đem đến một cái lò đất con hừng hực than hồng, trên đặt chiếc chảo nhỏ mỡ nổ lách tách vui tai. Xung quanh là vài ba đĩa ra ăn kèm. Nhất thiết không thể thiếu thì là và hành hoa. Một bát nước chấm pha chanh, ớt tỏi hoặc mắm tôm tuỳ sở thích, một cuộn bánh đa gỏi, một đĩa bún đơm tơi bông lên. Tất nhiên chú ý nhất là đĩa cá chủđạo. Ngon nhất là làm bằng thịt cá lăng, nếu không may thì dùng cá quả, cá chuối hay cá trắm đen thay thế. Cá được lạng ra thành từng miếng không dày cũng không mỏng, bản to vừa, ướp tiêu hành ớt, sả gia vị vừa ngon, miếng cá bóng màu vàng ngậy của nước nghệ, xếp thành đĩa. Mùa đông, bên ngoài gió rét, mưa phùn lạnh cóng, bên trong chụm đầu quây quanh lò than hồng, đợi chảo mỡ nóng, thả ít hành hoa vào lèo xèo rồi nhúng từng miếng cá cho săn đều hai mặt, gắp ra ngay đặt vào miếng bánh đa cuộn thành gỏi có kèm bún và các loại gia giảm. Cầm cái gỏi cuốn chấm đẫm nước mắm tôm hoặc mắm tỏi, nhỏ thêm vài giọt cà cuống thì thật tuyệt. Ngó xung quanh, k! hông gia! n mờ mờ, khói thơm lan toả, thật quyến rũđậm đà.!

Bu ổi chiều tối mùa đông, bước ra từ hàng Chả Cá, đi một đoạn, gặp ngay mùi thuốc Bắc đang được sao tẩm trên phố Lãn Ông. Đi một đoạn lại thoáng nghe tiếng gò bạc, gò đồng ở phía sau, phố Lò rèn, nay là Hàng Dừa. Loăng quăng một vòng, thấm mệt, quay lại đầu Hàng Gai ngắm những cửa hiệu tranh thêu,lụa Hà Đông trang trọng. Xưa kia nơi đây nổi tiếng bởi con người lịch thiệp và tao nhã vì lòng yêu mến và trân trọng nghệ thuật. Ngay đầu phố, men theo lối vào tối và hẹp là hàng Cafe Phố Cổ, đã bao lâu vẫn giữ được một khoản không gian nguyên sắc nguyên tình. Khách ngồi giữa sân giời, gọi ly càphê trứng, (bác Sốt nhỉ hihihìhì), ngắm buồng chuối cảnh trước mặt đang độ trổ hoa đỏ rực, tựa lưng vào bức tường ẩm mùi rêu phong, nhâm nhi cái vị ngọt mềm và tan nhanh của kem trứng, đứng dậy bước chân vào trong nhà sờ tận tay mân mê những món đồ cũđầy bí hiểm. Chủ nhà hẳn là người lịch thiệp và nhã nhặn khi để khách mặc sức tỏ ý trân trọng kỉ vật, như nếp xưa, như người Hàng Gai của những căn nhà theo lối sắp xếp cũ, đàm đạo thơ văn giữa sân cảnh và giếng trời…Bước chân ra, gặp ngay cái ồn ào của đô thị khi thành phố lên đèn…

Bấy nhiêu chưa đủ, nhưng đọng lại trong tâm trí những dư âm của một Hà thành cổ xưa đang bền bỉ, bền
bỉ thở cùng nhịp thở thời đại.

Ấn tượng Hà Nội chuyển mùa

Meomeo


—– Hà Nội chuyển mùa? Sáng nay bỗng nhiên thấy thời tiết thay đổi hẳn. Tiết trời se se, dịu dịu. Bỗng

nhiên có h ứng xách xe đi làm sớm. Qua hồ Thuyền Quang…giật mình sững sờ. Ánh nắng chiếu qua tán lá cây hất xuống mặt hồ làm gương mặt ấy lung linh nhưđược dát bằng vàng. Ánh nắng nhảy nhót, lấp lánh nhưđang đùa cùng mặt hồ lung linh lăn tăn sóng. Có loại cây gì quanh hồ mà có màu xanh kỳ lạđến như vậy nhỉ? Ngày bình thường cho dù có ngồi ở quán cafe sát bên hồ mình cũng đâu có nhận thấy. Hì có lẽ lúc ấy vị ngọt ngào của ly kem luôn làm mình chẳng thèm chú ý gì đến xung quanh nữa. Mình cứ quen nghĩ rằng mùa xuân lúc nào cũng chỉ thấy mưa phùn, thấy cây cối xanh mướt những chồi non, nhưng không hẳn như vậy. Không thèm đến cơ quan sớm nữa, chạy xe một vòng quanh hồ tận hưởng cái vị ngòn ngọt, là lạ của buổi sớm mùa xuân vương vất đầy trong gió. Thiên hạ chắc có kẻ nói mình điên vì mùa xuân làm gì có mùi – hì, cảm nhận thôi mà ! Ngày thường, sáng chạy xe đến cơ quan, tối đi học về, mệt lử, chẳng thèm biết rằng trên đời này còn đường Nguyễn Du thơm mùi hoa sữa chạy ven hồ Thuyền Quang nữa. Đôi khi cái dòng chảy hối hả của cuộc sống cứ cuốn mình đi mãi và rồi chẳng có thời gian mà thưởng thức nữa ! Bất chợt cảm thấy mình nhỏ bé và cô đơn trong cuộc sống hối hả xung quanh…


Tâm sự về Hà Nội

Koibeto81

—–

Sông Hồng mang đặc tính của từng mùa: khi trong khi đục. Có người bảo sông Hồng mùa nào cũng đục. Nếu nói như ai đó thì quả người ấy chưa biết sông Hồng, mới biết qua cái tên của nó mà thôi. Sông Hồng, vào khoảng cuối đông và tầm giêng hai, nước cũng khá trong. Nước Sông Hồng không giống bất kì nước của con Sông nào. Khi đỏ lựng như pha son về mùa lũ, khi phớt hồng như hoa đào về mùa thu, lại có lúc mang màu vàng nhạt như ánh hoàng hôn, rồi màu gạch của Lũ sông Đà, sông Lô, sông Chảy trộn vào. Mùa xuân, nước trong, phảng phất chút sắc hồng nhẹ như má người con gái, thoáng ửng hồng khi tiết trời se lạnh. Đôi bàn tay chụm vào nhau, vục lấy một vốc nước, không làm vậy mà chỉđứng từ xa, hay chỉ nhìn dòng nước không thôi…khó có thể thấy cái màu đặc biệt của Sông Hồng. Sông Hồng cũng “đỏng đảnh” lắm, lúc thì dữ dội, hung hãn những thàng lũ về, khi thì lơ thơ, uể oải…lững thững dạo ngang qua Hà thành. Từ ngàn xưa, sông Hồng cứ thế, lẳng lặng ngắm nhìn Hà Nội, gắn bó với Hà Nội…bởi vậy mới nói, Hà Nội Sông Hồng – Sông Hồng Hà Nội. Sông Hồng vẫn chảy, người Hà Nội vẫn sống…trong cuộc sống xô bồấy, không biết có mấy người Hà Nội từng có đôi lần, trong tĩnh lặng, ngắm nhìn dòng sông, hay thong thả dạo bước trên cầu Long Biên để mặc cho gió sông Hồng vuốt ve, âu yếm…để ngắm nhìn dòng nước lầm lỳ nhưng dữ dội…Có người nói rằng, cách nghĩ, cách thưởng ngoạn tao nhã không mất tiền mua nhứng cái thú của cuộc đời, đó là sự giàu có của tâm hồn người Tràng An… Bậc thánh thơ họ Cao, trong m�! �t buổi chiều tà ngắm nhìn dòng sông có thốt lên rằng: ” Bức thành xây trên bụng rồng trời hùng tráng. Dòng sông cuộn theo nước đỏ, thành làn sóng hoa đào…”. Thế mới biết, người ta đã và còn sẽ yêu Hà Nội không chỉ vì Hà Nội có Hồ Tây, Hồ Gươm…mà còn bởi vì Hà Nội có Sông Hồng. Luđê-mít, nhà thơ Hy Lạp, cách đây mấy thập kỷ, khi ông đến Hà Nội, lúc trở vềđã gửi lại mấy dòng cho Hà Nội, cho sông Hồng: ” Tôi quên sao nước sông Hồng. Thêu sóng đỏ trên áo dài Hà Nội…” Một nhà thơ Việt Nam khác, nhà thơ Quang Dũng, vẫn thường có những đêm trăng cùng nhóm bạn thơđi bộ qua cầu Long Biên, về nhà một người bạn bên bờ Bắc…đểđược soi mình trên dòng Sông Hồng, đểđược ngắm Hà Nội. Nhà thơ có nói: “Không phải ngẫu nhiên mà vua Lý Thái Tổ dời đô vềđây. Con mắt nhà vua…Phải nhìn từ bờ Bắc này mới thấy hết được: Đêm Trăng – Sông Hồng – Hà Nội. Trời ! Tuyệt quá ! Đúng là rồng đang bay lên !…”. Mấy người bạn cứ ngồi lặng trong đêm nhìn về Hà Nội không biết chán. Suốt từ phía dưới cảng Vĩnh Tuy, phà Đen ngược lên Yên Phụ, cầu Thăng Long. Ánh điện lung linh, những ngọn đèn cao áp như những vì sao xanh, những ánh đèn màu toả ra từ những khung cửa sổ của một vài toà nhà cao, thấp nhấp nhô…tất cả cứ nối tiếp nhau, nhấp nhổm uốn khúc như con rồng đang ưốn khúc, chuẩn bị tung mình bay lên… Những vì sao, ánh trăng đượm buồn và ánh đèn thành phố, chen nhau, quấn quýt lấy nhau, phả xuống dòng mặt sông, in mình trên dòng nước…bập bềnh, nhún nhảy. Thỉnh thoảng! trên m�! ��t sông lại xuất hiện một vài cánh buồn lặng lẽ xuyên vào màn đêm. Những vì sao, những ngọn đèn và cả chị Hằng ý tứ rẽ ra cho thuyền đi, rồi lại nhảy múa đùa vui sau bánh lái, dưới mái chèo…Mấy con thuyền nhà chài, ngọn đèn dầu le lói run rẩy trong khoang, lặng im, góp vào bức tranh Đêm-Sông Hống-Trăng sao- Hà Nội…một nét chấm im lìm, đậm mà chắc nịch. Hà Nội – Sông Hồng đang hân hoan chào đón thế kỉ 21, chào đón ngày sinh nhật thứ 1000. Rồi đây, Hà Nội sẽ thay đổi nhiều hơn, sẽồn ào hơn…nhưng có lẽ vẫn sẽ còn những kẻ phải thổn thức, phải ngỡ ngàng với bức tranh: Đêm Trăng – Sông Hồng và Hà Nội. Vài dòng Tâm sự về Sông Hồng và Hà Nội nhân đọc bài Sông Hồng Hà Nội của Thanh Hào trên Hà Nội xưa và nay. Ôi…tôi yêu Hà Nội mất rồi !


Thú uống trà của ngưòi Hà Nội.

Ghen


—–

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.” Chẳng hiểu tự bao giờ,cái tên Tràng An – vốn là kinh đô xưa của người Trung Quốc – được lấy làm hình tượng của người Hà Nội. Nhưng cái thanh lịch của người Hà Nội thì không ai có thể phủ nhận được.Người Hà Nội thanh lịch, quý phái mà không cầu kỳ, không kiêu căng hợm hĩnh. Đấy là nét rất riêng của Hà Nội để đến hôm nay 2 tiếng thân thương Hà Nội ấy đã chuyển hoá thành tính từ. Trong nét văn hoá của người Hà Nội, ta cần phải kểđến văn hoá ẩm thực. Hôm nay tôi muốn nói tới một trong những cái thú trong nét văn hoá ẩm thực của người Hà Nội, ấy là cái thú uống trà. Thú uống trà vốn xuất phát từ trong các nhà chùa, từ những thế kỉ thứ 10 – 11. Sau đó nó trở thành cái thú tao nhã của các nhà Nho thời phong kiến. Nhưng người Hà Nội lại là những người đã có công nâng nó lên thành 1 thứ nghệ thuật – nghệ thuật thưởng trà. Nguyên liệu cũng bao gồm nước sôi và lá chè đã được sao tẩm và sấy khô, nhưng người Hà Nội có cách thưởng trà rất riêng, nó thể hiện cái tinh tế cái khiếu thẩm mĩ rất cao của người Hà Nội. Trời mưa chừng mười phút, bắt đầu đem chậu hoặc xô ra hứng nước ngay giữa trời, để 1 thời gian cho lắng bụi xuống. Lấy nước ấy đun sôi chừng tới khi sủi bọt mắt cua, ấy là nước dùng để pha trà. Chè phải là chè loại ngon được lựa chọn và sao tẩm kĩ lưỡng, ướp với các loại hoa như hoa sen, hoa cúc, hoa nhài… Ấm chén phải sạch sẽ, mà lý tưởng nhất là loại ấm màu gan gà để mộc (không tráng men).Cho chè vào ấm �! �ã tráng qua nước sôi, sau đó đổ nước sôi vào rửa chè, nước ấy đổ bỏ. Rồi rót nước sôi vào. Cần chú ý rót từ từ, đưa miệng phích nước từ trên xuống đến gần miệng ấm. Cần rót cho nước đầy tràn ấm để tráng cho sạch hết bụi còn sót ở miệng ấm trà. Để chừng dăm bảy phút là ta có ấm trà ngon. Nhưng có được một ấm trà ngon mà không biết thưởng thức thì cũng như không, thà ra hàng nước ven đường gọi chén nước cho đỡ mất công. Người Hà Nội trước khi thực sự thưởng trà cần giữ cho tâm thanh tĩnh, vì tâm có tĩnh thì mới thấy hết cái ngon cái đẹp của trà. Trà nóng rót ra chén khói nghi ngút, người Hà Nội không vội cầm lên dốc ngay vào miệng, như vậy là phàm ăn tục uống.Trước hết thưởng thức bằng mắt, người sành trà chỉ nhìn màu trà cũng biết trà ngon hay dở. Cái màu vàng pha một chút sắc xanh, trong như hổ phách, nhìn thấy đã muốn mê. Sau đó hãy để cho thính giác làm việc, không phải chỉđơn thuần là hít vào lấy được mà là thưởng thức cái hương thơm, cái một nắng hai sương của những người trồng chè, cái chất đất vùng trung du hay vùng núi cao nơi trồng những cây chè, và cả mùi hương hoa sen hay cúc…quyện lẫn vào đó, hương thơm ấy sẽ ám ảnh ta suốt cả ngày. Rồi sau đó đưa chén lên miệng nhấp một ngụm nhỏ và để nó nơi đầu lưỡi, để cho nó từ từ thấm vào, để thấy hết cái ngon, cái tinh tuý của trà và của vị hoa pha lẫn vào đó. Cuối cùng, vận dụng hết những cơ quan cảm giác trên cơ thểđể thưởng thức. Ngay việc cầm chén trà ra sao, người Hà Nội cũng có nguyên tắc riêng: ngón trỏ và ngón cái nhẹ nhàng cầm lấy phần tr! ên của! chén, ngón áp út đưa xuống phía dưới đáy chén đểđỡ lấy, còn ngón út hơi cong cong. Nhìn cách cầm chén vậy thôi cũng đủ thấy nét thanh lịch, vẻ quý phái của con người ở nơi ” lắng hồn núi sông ngàn năm “. Ngày nay cái thú uống trà đã dần mai một đi. Thời đại công nghiệp, người ta chỉ mê những Lipton hay Dilma. Có chăng thì chén trà cũng chỉ là cái cớđể ngồi hàn huyên với nhau. Mới đây tôi lại còn thấy có cả quán Trà đạo Việt Nam. Thật không thể hiểu nổi Việt Nam có trà đạo từ bao giờ ! Theo tôi được biết thì Trà đạo là phong cách uống trà gắn liền với tín ngưỡng, nó có như những nghi lễ linh thiêng trước khi uống, trên thế giới hiện nay chỉ có Nhật Bản là nước duy nhất có Trà đạo.

Về phố cổ Hà Nội

Câu hỏi của GodFatherHN và câu trả lời của cuoihaymeu
—– GodFatherHN: Chào các bạn. Tôi là một người đã sống ở Hà Nội hơn 20 năm nay, cũng như nhiều người khác đã từng ở Hà Nội, tôi rất yêu thành phố này. Nhưng tôi thấy hiểu biết của mình về Hà Nội còn quá hời hợt. Lịch sử và văn hoá của thủđô chúng ta đã và đang như thế nào? Tôi muốn nhờ các bạn cho ý kiến. Trước hết là về các khái niệm: Thế nào là phố cổ Hà Nội? Khu phố cổ Hà Nội nằm ởđâu? Có lẽ là khu 36 phố phường (tạm gọi như thế cho dễ hình dung) với những phố như Bát Đàn, Hoè Nhai, Gia Ngư, Hàng Bông, Hàng Đào …Khu phố cổ thì cứ cho là như vậy, còn phố Hàng Cháo (gần sân Hàng Đẫy, bây giờ toàn bán bánh răng và dây điện) liệu có được gọi là phố cổ không? Nó có là một phố trong 36 phố phường ngày xưa không? Không thể nói cứ phố nào có chữ 'Hàng' ởđầu thì thuộc 36 phố phường được, vì tôi thấy có gần 50 phố có chữ 'Hàng' ởđầu, chưa kể một số phốđã mất như Hàng Đẫy, Hàng Sơn… Một trường hợp khác là phố Khâm Thiên: ngày xưa là phốăn chơi của Hà Nội nhưng đã bị bom Mỹ phá hủy hoàn toàn. Tôi muốn hỏi qua hai phố trên liệu có thể gọi một phố là phố cổ dựa vào giá trị lịch sử của phốđó được không? Tôi là dân Bách Khoa nên ngày trước hay đi qua các phốĐại La, Bạch Mai, tôi thấy nhiều nhà vẫn giữ được kiến trúc cổ, rất đẹp. Nếu chỉ chụp ảnh một đoạn phố thì tôi chắc nhiều người sẽ tưởng lầm đó là một phố thuộc khu 36 phố phường. Vậy có thể dựa vào kiến trúc của một phốđể cho đó là phố cổđ! ược không? Giả sử là ta dựa vào kiến trúc để xét một phố là phố cổ. Vậy những phố có nhiều kiến trúc kiểu Pháp như Quang Trung với các biệt thự, Trần Hưng Đạo với các cơ quan nhà nước, Nguyễn Quang Bích… có được coi là phố cổ không, hay phố cổ chỉ áp dụng với những phố có kiến trúc thuần Việt? cuoihaymeu: Bác nào bên Box HN đặt vấn đề hay quá. Cổ là cổ so với cái gì, phải có tiêu chí thì mới xác định được. Nhưng đúng là sẽ có chuyện nếu gọi đa số những nhà trong “khu phố cổ” (khu 36 phố phường) của Hà Nội hiện nay là “cổ” vì chúng kịch kim chỉ có niên đại 40-50 năm trở lại đây mà thôi, ghê lắm thì có được một ít chiếc khoảng từ những năm 30. Còn cái nhà cổ nhất là số 87 Mã Mây, được xây từ cuối thế kỷ 19, tôi không nhớ chính xác là năm 187x hay 188x… Tuy nhiên khi nói đến “khu phố cổ” người ta vẫn xác định là khu vực 36 phố phường này. 1) Cần phải nhớ là kiến trúc dân dụng (tôi mới nói dân dụng, đừng bác nào quy đồng lên thành Kiến Trúc nhá) của người HN ta nói riêng và người VN ta nói chung cho đến gần đây (khoảng nửa TK) vẫn là kiến trúc tre nứa gỗ (chủ yếu là tre). Các bác có thể tham khảo những ảnh tư liệu trên tạp chí Xưa và Nay về Hà Nội, sẽ thấy đại đa số nhà ở của người Hà Nội đầu thế kỷ 20 trong khu vực nay được gọi là khu phố cổ là nhà tranh vách đất, ngay bên cạnh những những khu “phố” công sở to đẹp của Pháp. Thậm chí cảđến năm 1945 Cách Mạng Tháng Tám, trong ảnh tư liệu của các cụ Ng Bá Khoản, Võ An Ninh, Trần Văn Lưu… ta vẫn thấy nhà tranh vách đ�! �t là ch! ủ yếu. Những công trình làm từ tre nứa không thể tồn tại nổi quá nửa thế kỷ, đặc biệt là trong điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều như Việt Nam ta, chưa kể chiến tranh và những ảnh hưởng khác. 2) Bên cạnh phân biệt cổ với phố cũ, theo tôi cần phải chú ý thêm một chi tiết dễ gây nhầm lẫn nữa là phân biệt “phố cổ ” với ” nhà cổ”. Hà Nội có (ít nhất là) một căn nhà cổ mà tôi đã nói ở trên. Nhưng “phố cổ” hay “khu phố cổ” thì tiêu chí để xác đinh nó lại không phải chỉ là có nhà cổ hay không? Phố là gì? Tôi tìm trong từđiển yếu tố Hán Việt (Viện Ngôn ngữ học- NXB KHXH 1991, HN) thấy họ định nghĩa bằng đúng một từ:” Vườn”. Sau này được đọc nhiều tài liệu tìm về nguồn gốc của chữ Phố thấy nó tiến triển dần lên thành cửa hàng, khu, dãy cửa hàng, có cả mấy cái chuyện bán vải (vải âm Hán là “bố”) đọc chệch thành phố… Nhưng tóm lại cái được gọi là Phốđược hiểu một cách thông dụng và phổ biến là một khu vực giao thông có: buôn bán (hoặc phường nghề), có nhà ở, có dân cư sinh sống tại chỗ (3 trong 1 chứ không phải là 1 trong 3 đâu nhá), thậm chí còn yêu cầu có đặc trưng sinh hoạt và nghề nghiệp riêng một cách tương đối (vd như Hàng Bún chuyên bún, Hàng Đồng chuyên đồng, Hàng Bạc…)… Tức là Phố cổ phải được xem xét đến không chỉ mặt kiến trúc có cổ không (và ngay mặt này cũng nên hiểu theo nghĩa là một quần thể KT, trong đó có những quan hệ hũu cơ giữa nhà ở và không gian KT xung quanh) mà còn phải xem xét cảđến những đặc trưng sinh hoạt và dân cư s! inh sốn! g trong đó, (xemnhững cái đó nó có “cổ” không, hì hì), có bảo lưu được những nét lịch sử văn hoá của cả tiến trình phát triển cho đến ngày nay không, tất nhiên là hết sức tương đối và được ưu ái về cả lượng lẫn chất. Có nghĩa là một khu phố cổ thật sự cổ phải giống như một bảo tàng sống (tương đối), vẫn thở những hơi thở của lịch sử (như PGS Dương Trung Quốc liên hệđến sự ngủ quên của Hội An vậy). Còn nếu nó chỉ có kiến trúc cổ, trong khi những đặc trưng văn hoá, sinh hoạt, dân cư bản địa… đã mất đi, chặc, thì kể ra cũng có thể gọi là cổ nếu ta “rộng rãi” trong quan niệm. Nhưng như thế nó chỉ còn như một bảo tàng chết trưng bày hiện vật đơn thuần mà thôi. Đó là lý do vì sao ko ai tranh cãi Hội An có phải là khu phố cổ hay không, còn thủđô yêu dấu của chúng ta thì có đến gần 1000 năm văn hiến mà vẫn chưa tìm thấy một khu dân cư nào đáng gọi là kiến trúc cổ, chứ chưa nói đến một “khu phố cổ” thật là xịn. 3) Nhưng cũng có vẻ vô lý khi một kinh đô hàng nghìn năm lịch sử như kinh thành Thăng Long ta, trải qua bao triều đại phong kiến với những giai đoạn phát triển rực rỡ chẳng lẽ lại không có một khu phố nào đáng gọi là cổư? Những thành quách, phố xá… thời Lý, Trần, Lê… đâu cả rồi? Thật ra là có đấy các bác ạ, nhưng chúng nằm đâu đó trong lòng đất, ngay dưới chân chúng ta thôi, nhưng đố biết ở chỗ nào. Gần đây có mấy vụđào móng thi công các công trình hồi Đại hội Pháp ngữ, Bách hoá Tràng Tiền… giới sử học và khảo cổ học nháo nhào lên vì chỉ trong một khoảnh be bé mấy ng! hìn mét! vuông đã thấy cơ man nào là dấu tích, là hiện vật về những khu dân cư cổ xưa. 4) Bên cạnh khu vực cho đến nay gọi là “khu phố cổ”, người ta quên đi một loại khu phố rất đẹp nữa của HN là “khu phố Tây” (trong ngoặc kép đấy nhá), chính là toàn bộ những công trình kiến trúc do người Pháp xây dựng ởĐông và Nam Hà Nội, quanh hồ Hoàn Kiếm, cầu Tràng Tiền, các dãy công sở, dinh thự nằm trong tam giác Trần Hưng Đạo, Lê Thánh Tông, Tràng Thi – Tràng Tiền và khu vực phụ cận, một phần trong “khu phố cổ”. Khu phố này cũng chỉ còn “Tây” về hình thái kiến trúc thôi. Nhưng bên cạnh cái hồn của phố Hà Nội trong tranh Bùi Xuân Phái, ta vẫn có, còn, cái đẹp, cái cuốn hút, cái Hà Nội của phố Tây. Không thể phủ nhận giá trị văn hoá, thẩm mỹ và lịch sử (vô cùng quan trọng) của phố Tây đối với Hà Nội và người Hà Nội. Chính khu phố Tây cũng đã và đang làm nên bản sắc văn hóa, đặc trưng kiến trúc, cái “Hà Nội”. Thế mà cái gia tài ấy hình như hiện nay đang bị bỏ quên- như “phố cổ” đã bị bỏ quên cách đây vài năm trở về trước vậy. Tốc độ khai thác và phá hoại kiến trúc phố Tây đang ở mức báo động, nhưng hình như tôi chưa thấy có một hội thảo KH nào bàn về giá trị của phố Tây, chưa có một động thái nào của các CQ quản lý, cụ thể là Bộ VHTT, Sở VHTT HN, Chính quyền TP Hà Nội, giới Khoa học… nhằm giữ gìn và bảo vệ nó, để rồi độ 10 năm nữa lại đau đớn, nuối tiếc trước Lịch sử, lại đổ lỗi cho nhau về trách nhiệm Lịch Sử.


Về lịch sử ngôn ngữ Việt Nam và Trung Quốc

annonymous

—–

Trước hết nói về lịch sử ngôn ngữ Trung Quốc và Việt Nam là như thế này: Trước kia, từ nhà Chu về trước (tức là tính trước Tần Thuỷ Hoàng) thì thực ra Tung Quốc cũng chỉ là một vùng rất nhỏ so với Trung Quốc bây giờ, nằm ở hạ lưu sông Hoàng Hà và Trường Giang (Dương Tử). Còn vùng Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây) vẫn chưa được coi là thuộc Trung Quốc. Hơn nữa, khi đó Trung Quốc không chỉ chia năm xẻ bảy, mà bị chia trăm xẻ ngàn. Mỗi ngôn ngữ mỗi nước nhỏ cũng khác nhau rất nhiều. Đến Tần Thuỷ Hoàng, Lý Tưđã làm nhiệm vụ thống nhất chữ viết toàn Trung Quốc. Đó là một công lao rất lớn luôn được nhắc đến khi nói về Tần Thuỷ Hoàng (Tần Thuỷ Hoàng đã nói “xa đồng quỹ, thưđồng văn”). Vào thời kỳđó, nước ta chưa bước vào thời kỳ Bắc thuộc. Theo mình biết thời đó ta đã có chữ viết của riêng mình. Người ta bảo nó chữ như giun theo kiểu Lào và Campuchia (cần nói thêm rằng ngôn ngữ của ta thuộc nhóm Môn-Khmer) bây giờ, nhưng hiện nay không ai biết thứ chữđó nữa. Từđời nhà Tần, Trung Quốc bắt đầu xâm lược ta, nhưng chẳng mấy chốc nhà Tần sụp đổ và nhà Hán thay. Các vua nhà Hán cũng như các đời vua sau này luôn có ý định đồng hoá dân tộc Việt, chữ Hán trở thành thứ chữ bắt buộc trong các kỳ thi (tất nhiên là mình chỉ nói đến những lúc có giặc thôi). Chữ Hán xâm nhập vào ta từđó. Nhưng người Trung Quốc đã không đạt được mục đích. Ban đầu người Việt đã cố dùng chữ Hán để ghi các âm Việt bằng cách dùng những từ phát âm gần đúng trong tiếng Việt, nhưng tất nhiên những chữđó không thểđủđể ghi những ! từ trong tiếng Việt được. Vì vậy, chữ Nôm đã ra đời (có trên dưới 1 vạn chữ, mình sẽ nói cấu tạo chữ Nôm ở dưới). Người ta thấy rằng nhiều chữ Nôm đã xuất hiện ngay từ thế kỷ I nhưng đến thế kỷ VI thì mới phát triển nhất. Tuy nhiên chữ Hán vẫn khá phổ biến trong sáng tác thơ văn của Việt Nam, hầu hết các trước tác đều bằng tiếng Hán. Ngay cả Hịch tướng sĩđời Trần và Bình Ngô đại cáo đời Lê vẫn được viết bằng tiếng Hán. Chỉ đến sau này mới có phong trào khuyến khích dùng chữ Nôm thay chữ Hán (nhất là Hồ Quý Ly, trước đó là Nguyễn Trãi). Một số tác giả thơ Nôm nổi tiếng như Hồ Xuân Hương, bà huyện Thanh Quan, Nguyễn Du và đến Nguyễn Khuyến thì đã khá gần ta rồi. Cần phải nói rằng chúng ta chưa bao giờđược gọi là nói tiếng Hán cả. Tiếng Việt ta đang dùng vẫn được dùng từ thuở sơ khai, tất nhiên có thể có nhiều khác biệt về cách phát âm và ngữ nghĩa của nhiều từ. Chữ quốc ngữ ta đang dùng chỉ là phần sáng tạo về chữ viết của các nhà truyền đạo BồĐào Nha. Chữ Hán: Nói lại rằng chữ Hán là chữ của người Trung Quốc dùng vào thời Hán nhưng đã được đọc trệch theo âm tiếng Việt. Tuy nhiên cách phát âm đó khá gần với cách đọc thật. Đến nay, cách phát âm của người Trung Quốc đã biến đổi rất nhiều. Người ta thấy rằng vào đời nhà Đường (tức là bắt đầu sau nhà Hán khoảng 3 thế kỷ và kết thúc sau 7 thế kỷ) thì cách phát âm vẫn khá giống với cách đọc chữ Hán. Vì thế cho nên người ta nói rằng ở Trung Quốc hiện nay không ai có khả năng làm thơĐường luật nữa do sẽ thất niêm vì lý do phát âm khác nha! u. Chữ ! Trung Quốc hiện nay cũng có rất nhiều chữđược lược bớt các nét cho đơn giản (gọi là lối viết giản thể, hơn một nửa số chữ Trung Quốc đã có cách viết mới, có những chữ có đến 3 cách viết). Nhưng nếu bạn viết chữ theo kiểu cũ thì người Trung Quốc vẫn có thểđọc được. Nhưng mà có một số bạn mới học tiếng TQ khi mình thử viết một số chữ kiểu cũ thì lại không biết. Chữ Nôm: thực chất là cách viết theo hệ thống của chữ Hán, vẫn dùng 214 bộ, 6 nét vốn có của chữ Hán. Có một số cách tạo thành chữ Nôm như sau: + Lấy luôn từ chữ Hán: tức là những chữ có sẵn trong tiếng Hán, mượn cả âm lẫn nghĩa. Hiện nay đây chính là những từ Hán Việt. Cái này khỏi phải lấy ví dụ nữa nhé. + Mượn âm: mượn một chữ có âm giống hoặc gần giống trong chữ Hán và gán cho nó một nghĩa mới của tiếng Việt. Ví dụ: “qua” (tiếng Hán là cái mác đểđánh nhau). Cũng vì lý do này mà một chữ Nôm có thể có cách đọc, mỗi cách đọc lại ứng với một nghĩa khác nhau. Ví dụ: “nhưng”“những” (hai chữ này trong chữ Nôm viết giống nhau và giống chữ “nhưng” trong tiếng Hán). + Mượn nghĩa: mượn một chữ phát âm khác hẳn nhưng lại giống nghĩa trong tiếng Hán. Như vậy, những chữ này trong tiếng Hán đọc một kiểu nhưng chữ Nôm lại đọc một kiểu. Ví dụ: “cụ” trong tiếng Hán đọc là “sợ” trong tiếng Nôm. + Ghép chữ: có thể coi là phổ biến nhất, nó tương tự với kiểu hình thanh trong việc lý giải nguồn gốc một lượng lớn chữ Hán (trong chữ Hán, có nhiều chữ do g! hép từ! 2 chữ lại, một chữ có nghĩa gần giống và một chữ có cách phát âm gần giống, và tạo ra một chữ mới, nên gọi là hình thanh), chỉ khác là mượn một chữ trong tiếng Hán có nghĩa giống hoặc tương tự ghép với một chữ Hán khác có cách phát âm giống hoặc tương tự và tạo nên một chữ Nôm mới. Ví dụ: chữ “má” ghép từ hai chữ trong tiếng Hán là “nhục” (nghĩa là thịt, gần về nghĩa) và chữ “mã” (là con ngựa, gần về phát âm). Ngoài ra cũng có nhiều chữ Nôm có nhiều cách viết khác nhau. Lý do là mỗi vùng có một cách sáng tạo khác nhau. Như vậy bạn cũng thấy rằng thực tế chữ Nôm khá lộn xộn. Những người học chữ Nôm bây giờ nhiều khi nhìn một văn bản (nếu có ít chữ) mà không biết là chữ Nôm hay chữ Hán. Nếu nhận ra là chữ Nôm thì nhiều khi cũng không biết là đọc như thế nào và nghĩa như thế nào.


Hội hoạ Trung Hoa đời Tống

yuyu

—–

Thời Đường, hội hoạđã rất phát triển và đạt được nhiều thành tựu rực rỡ, nhất là về nghệ thuật vẽ nhân vật và chân dung truyền thần – theo đúng nghĩa cao quí của nó chứ không phải hiểu truyền thần như là kiểu vẽ của những người không học vẽ ngày nay. Ngoài Diên Lập Bản (?-673) chuyên vẽ chân dung các Hoàng Đế, Hàn Cán (720 – 780) chuyên vẽ Ngựa và Kỵ Mã, có 2 hoạ sĩ nổi tiếng khác là Ngô Đạo Tử (700 -?) vàTrương Huyên với 2 phong cách vẽ nhân vật trái ngược nhau: Ngô Đạo Tử với nét bút hừng hực, dữ dội, thần sầu quỉ khốc, ào ạt như mưa tuôn gió thổi và vẽ rất nhanh. Bức ” Giang Lăng Tam bách Lý đồ ” ông vẽ trên một bức tường của điện Đại Đồng trong vòng vỏn vẹn có một ngày. Trong khi cùng đề tài ấy ở bức tường bên kia Lý Tư Huấn phải thể hiện mất ba tháng. Về bức “Địa ngục biến tướng đồ", Đoàn Thành Thức bình luận rằng: "…sức bút dữ tợn, biến dạng ghê gớm, nhìn xem bất giác tóc dựng.." và có thơ khen rằng: "Thảm đạm thập đổ nội Ngô sinh tung cuồng tích Phong vân tương bức nhân Quỉ thần như thoát bích" (Ảm đạm suốt 10 bức tường Ngô Sinh điên cuồng phóng bút Gió mây như hãm người Quỉ thần như bay ra khỏi vách) Người đương thời gọi ông là "Thánh Hoạ" và các nhà phê bình sau này cũng đánh giá ông là bậc "maitre" Hội Hoạ lớn nhất của các triều đại. Nhưng rất tiếc, tác phẩm của ông ngày nay hầu như thất lạc hết, chỉ còn những bức sao chép lại của người đời sau nên không được hoàn hảo lắm. Đối lập với Ngô Đạo Tử là một ông "Thánh Hoạ" khác tê! n Trương Huyên (thế kỷ VIII) với bút pháp cực kỳ dịu dàng, trau chuốt, chuyên vẽ các tiểu thư, công tử, ngựa xe, màn trướng,cung điện khuê các v.v… Tuy nhiên cũng như Ngô Đạo Tử, các kiệt tác của Trương Huyên cũng hầu hết thất lạc, chỉ còn các bản tranh sao chép lại của người đời sau, trong đó nổi tiếng nhất là bức "Quắc quốc phu nhân đồ" "Đảo Luyện đồ" do vua Tống Huy Tông Triệu Cát chép lại. Tuy nhiên 2 bức hoạ nổi tiếng nhất đời Tống là bức "Giang Sơn Thiên Lý đồ" (núi sông nghìn dặm) của Vương Hy Mạnh, một hoạ sĩ cung đình dưới triều vua Tống Huy Tông. Vương Hy Mạnh (1096 – 1120) được coi là một thần đồng, cảđời chỉ vẽđược bức tranh lụa lớn nhất trong lịch sử hội hoạ Trung Quốc và chết ngay sau khi vẽ xong tranh lúc mới có 24 tuổi. Bức nổi tiếng thứ hai là "Thanh Minh Thượng Hà đồ" (buổi sáng trên sông) của Trương Trạch Đoan, vẽ tả thực toàn bộ Kinh Đô Khai Phong của Bắc Tống thời Tống Huy Tông, bức này cũng khá lớn vì tuy cao có 25 cm nhưng dài tới 5,5 m. Cả hai bức này hiện đều lưu giữ tại Bảo tàng Cố Cung.


Mỹ thuật đời Lý

Yasunari


—–

Cuối thế kỷ thứ 10, nước ta thoát khỏi ách đô hộ phương Bắc. Trải qua hai triều Đinh, Lê thống nhất nước nhá và chống tái ngoại xâm, đến thời Lý, nghệ thuật phát triển thăng hoa với bản sắc riêng nhằm hoá giải những ảnh hưởng của Văn hoá Trung Hoa. Hai triều Đinh, Lê đã tạo dựng được một nhà nước có chủ quyền. Triều Lý nắm quyền có ý thức phục hưng Văn hoá dân tộc trên tinh thần có sự giao thoa với Văn hoá Chăm – Ấn đã tạo cơ sở cho nghệ thuật tạo hình phát triển. Thêm vào đó, việc Phật giáo trở thành quốc giáo, tăng lữ có vị trí tinh thần trọng yếu đạo Phật được phổ cập đã là nhân tố tác động vào hướng phát triển và phong cách nghệ thuật. Việc nước Đại Việt độc lập, tự chủ, đủ sức mạnh chống ngoại xâm, trải qua nhiều năm thái bình thịnh vượng cũng có tác động không nhỏ. Ý thức dân tộc định hình cho nghệ thuật. Phật giáo ảnh hưởng đến các công trình kiến trúc và đề tài các tác phẩm. Cuộc sống thái bình tự do, yên ấm ảnh hưởng đến con người. Tâm hồn người Việt trở nên thư thái, có thời gian để lãng mạn và chuyên tâm vào nghệ thuật. Nghệ thuật thời Lý thăng hoa. Tất cả là nhờ nền độc lập và sức mạnh của đất nước. Kiến trúc thời Lý phục vụ Phật giáo. Rất nhiều quốc tựđược xây dựng. Phong cách thống soái là hoành tráng, đồ sộ. Chùa Một Cột (chùa Diên Hựu) được xây ở Thăng Long với quy mô lớn hơn ngôi chùa đã có trước đó ở Hoa Lư và với sự cách điệu tuyệt diệu. Chùa Báo Ân và tháp Báo Thiên cao khoảng 70m. Chùa Phật Tích – Bắc Ninh, chùa Long Đọi – Hà Nam, chùa Bà Tấm – Hà Nội,! chùa Quảng Giáo – Quảng Ninh đều là những chùa lớn. Kiến trúc chùa tháp thời Lý đều to lớn, cao. Các chùa thường nằm trên đỉnh núi cao. Cấu trúc và bố cục chùa tháp đơn giản, chỉ gồm một ngôi chùa chính và ngọn tháp lớn có đáy vuông. Điều này phản ánh tư tưởng giản dị, phóng khoáng của nguời thời Lý. Trang trí tháp chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Chăm, với các hình chim thần (Garuđa), nữ thần đầu nguời mình chim, có lẽ do việc bắt những tù binh Chăm sau cuộc nam chinh của Lý Thánh Tông. Vì thếấn tượng của ngôi chùa thời Lý rất độc đáo: vừa tôn nghiêm, hùng vĩ, đường bệ bởi không gian và đường sống kiến trúc, vừa phóng khoáng lãng mạn bởi gần thiên nhiên, vừa sinh động, lý thú với các hình trang trí mang hơi hướng Chăm. Chùa thời Lý đến nay không còn nhiều. Nhưng ngay ở Hà Nội có một tác phẩm tuyệt đẹp là chùa Một Cột. Ngôi chùa chỉ dùng một cột duy nhất làm trụđỡ. Khối nhà đồ sộ phía trên và cây cột đá mảnh khảnh tưởng rất tương phản, nhưng lại kết hợp hài hoà thành một hình ảnh tượng trưng cho bông sen giữa hồ. Nó cho thấy đạo Phật đã phát triển mạnh trong triều đại này và có tác động rõ rệt lên kiến trúc. Có vẻ vô lý khi một nền kiến trúc hoành tráng quy mô lại có một ngôi chùa nhỏ làm đại diện. Người ta thường nghĩ rằng kích thước chùa Một Cột từ thời Lý đến nay không thay đổi. Thực ra nó đã trải qua nhiều lần làm lại, mỗi lần kích thước đều được thu nhỏ. Lần xây dựng đầu, chùa có quy mô rất lớn. Một tài liệu cổ thời Lý miêu tả chùa nằm trên ao Linh Chiểu, có cầu bắc thông qua một gian điện thờ, quanh ao! có hàn! h lang, ngoài dãy hành lang có thêm ao Bích Trì, lại có hai dãy cầu thang bắc qua ao, mỗi đầu cầu có tháp lưu ly. Rõ ràng quanh chùa Một Cột là một khối kiến trúc đồ sộ…Học giả Nguyễn Đỗ Cung đã dẫn một tài liệu mới về kích thước chùa, có đoạn tả cây cột cao tới 40 thước. Điêu khắc thời Lý tinh vi và cân đối, mang cái trung dung tĩnh tại và cái "hư không" của Phật giáo. Vừa mới thoát khỏi nghìn năm nô lệ, được sống trong thái bình thịnh vượng, các nghệ sĩ có thểđắm mình trong tôn giáo và triết học, tỉ mỉ tạc những pho tượng thể hiện cái nhìn thoát tục. Bên cạnh đó, điêu khắc cũng chịu ảnh hưởng Chăm. Những hình trang trí trên mặt đá của tháp Chương Sơn (Hà Nam) có bố cục, dáng điệu và hình thể gần với điêu khắc Chăm, nhưng cách biểu hiện khuôn mặt lại thuần Việt. Những khuôn mặt vũ nữ không tròn bầu, xa xăm và có phần vô cảm như những khuôn mặt Chăm, mà linh động và tươi trẻ. Pho tượng đời Lý nổi tiếng nhất là tượng A di đà ở chùa Phật Tích. Tượng cao 2m77 cả bệ, riêng tượng cao 1m87 (bằng cái Linga của chị Toet), thể hiện Đức Phật đang ngồi thuyết Pháp trên toà sen. Toà sen cao và bệ tượng tạo thành một hình tháp nhiều tầng gây cảm giác nhưđang nâng bổng Đức Phật lên. Dáng ngồi của Phật thanh thoát, thư giãn. Đường cong chạy từ cổ dọc theo sống lưng cộng với khuôn mặt thoát tục gợi đến cái đẹp và sự dịu dàng phi giới tính. Toàn bức tượng cho ấn tượng về sựđốn ngộ cao siêu và tâm hồn tĩnh tại. Cũng rất thoát tục và lãng mạn, con rồng uốn lượn mềm mại và có một cái đầu mơ màng, những khúc uốn nhỏ dần về ph�! �a đuôi! . Rồng thời Lý có bốn chân, loại lớn có vẩy. Nó rất khác con rồng thô to và mạnh thời Trần, cũng rất khác con rồng đường bệ của Trung Hoa. Thật thú vị khi con vật biểu tượng của Hoàng đế mà lại tỏ ra mơ mộng và đáng yêu như thế. Nó chứng tỏ cái chất vị tha Phật giáo và cái lãng mạn, cái Triết lý đã thấm sâu vào thời đại ấy, từ nhà vua đến thứ dân, nhà sư và nghệ sĩ. Một thời đại thật là đẹp ! Mô típ rồng triều Lý đã xuất hiện trên nhiều loại trang trí bố cục hình tròn, hình cánh sen, hình lá đề, hình chữ nhật. Hầu nhưởđâu, không gian nào, những con rồng luôn có tư thế và cấu trúc giống nhau. Nếu nhận xét một cách tương đối kỹ tính như PGS Nguyễn Du Chi, thì có thể chia rồng thời Lý làm hai loại cỏ ngẫng và cổ rụt. Phong cách thời Lý, vềđề tài liên quan đến rồng và bố cục hình trang trí rồng, được các đời sau học theo và giữ gìn. Thời Lý không chỉ thành công trong độc lập tự chủ, chống ngoại xâm về quân sự, chính trị, mà còn rất thành công trong Văn hoá nghệ thuật. Mỹ thuật thời Lý được đặt lên hàng đầu so với các triều đại khác bởi tính độc đáo và tinh tế của nó, bởi cái hiền triết sâu lắng của nó. Có lẽ nguyên nhân sâu xa là ở cuộc sống thanh bình, một thời gian dài không có chiến tranh, đô hộ.

Về Văn hoá Bắc Âu

Câu h ỏi của Evil-Metal và câu trả lời của Aura:
—-

Evil-Metal: Bác nào ở châu Âu hay Bắc Âu có thể cho biết về chúa Odin với? Vahalla ởđâu? Chuyện chúa Odin đi qua chín thế giới? Aura: Bác Evil_Metal nay đã chuyển sở thích từ Transylvania qua Valhalla rùi à? Thế là bác cùng sở thích với tui rùi. Làm quen cái bác nhỉ. Hôm nay tui có test, phải chạy đi liền bi giờ. Nên chỉ trả lời qua loa ngắn gọn thế này thôi, có gì ko phải bác đừng trách. Theo Thần thoại và Truyền thuyết Bắc Âu cổ (Old Norse Mythology and Tales), Odin là Đức Chúa Tối Cao. Người là vị quyền năng nhất, hùng mạnh nhất, và thông tuệ nhất (Hơ, chắc chỉ chịu đứng sau Thánh Mimir – The Wise thui). Người cai quản Thiên Đình (Asgard) và Hạ giới (Midgard). Nơi Asgard, Odin ngồi trầm tư trên ngai vàng của mình, nhìn về Hạ giới, Quá Khứ và Tương lai, chiêm nghiệm về ngày tận thế (Ragnarok). Khi bọn khổng lồ, kẻ thù muôn kiếp của các vị thần và loài người, tấn công vào Asgard, chúng thiêu huỷ cung điện bằng vàng. Ragnarok là ngày tận thế, ngày mà Valhalla (1 hành lang – waiting Hall – trong vô số hành lang của Asgard, Valhalla là nơi những vị anh hùng – Hero – của loài người khi ngã gục giữa sa trường linh hồn họ sẽđược các thánh nữ Valkerie của Odin mang vềđấy, chờ ngày quay lại nhân gian.) bùng cháy trong lửa đỏ và cuối cùng sụp đổ. Có thể nói Thần thoại và Truyền thuyết của những người phương Bắc (Norsemen) rất kì thú và quái dị (the strange world of the Norsemen). Không có dân tộc nào hay nền văn minh nào, như Hy lạp, Lã Mã, Ai Cập có cái nhìn về sự luân hồi, về các vị thần giống như người Bắc Âu cổ. Đơn cử một ví dụ: Ragnarok – Ngày tận th�! ��. Thần thoại Hy Lạp hay La Mã, các vị thần là tối thượng, là vô địch, là bất diệt, bất khả bại. Cái Thiện luôn chiến thắng Cái Ác ; thần thánh luôn thắng Ma Quỷ. Nhưng với khái niệm Ragnarok của mình, người Bắc Âu Cổ lại tin là đi đến cuối cùng, Cái Ác sẽ thắng. Khi Valhalla và Asgard nổi lửa, đó là lúc mà loài người hạ giới và các vị thần trên Thiên Đàng phải đối mặt với sự hủy diệt của mình (the ultimate destruction). Các vị thần, dẫn đầu là Odin kiêu hùng, sẽ sát cánh với những Hero loài người, chiến đấu cho 1 sự thất bại đã định trước. Dù biết thế, nhưng họ vẫn vui vẻ, vẫn ca hát và vui đùa tại Valhalla. Họ sẵn sàng chờđón cái mà số phận định trước. Khái niệm về sự anh hùng của người Bắc Âu Cổ thú vị và độc đáo ở chỗ đó: biết là sẽ thua, sẽ chết nhưng vẫn chiến đấu, ko khuất phục. Thế thôi. Hôm khác có nhiều thời gian, ta bàn kĩ hơn. Xin chào.


Hoa Thủy Tiên Trắng

Oshin (st)

Đấ t hoang em vẫn phiêu bồng Một cành hoa trắng yêu kiều dễ thương Trời xanh cây cỏ tươi cười Hoa kia ấp ủ nỗi phiền muộn xưa Tình yêu cay đắng muôn vàn Bên dòng suối ngọc bàng hoàng lệ rơi

(John Keats)

Tên Hán Vi ệt: Ngọc Châu Kim Đài Tên tiếng Anh: Narcissus, White daffodil Tên tiếng Pháp: Narcisse des poétes Tên Latin: Narcissus poeticus

Ý nghĩa: Yêu chính mình, tính ích kỷ(selfishness, egotism) Biểu tượng: sự sang trọng, kiêu sa Thông điệp: “My fond hopes have been dashed by your behavior”, “Stay as sweet as you are” Thủy Tiên là loại cây có thân hành, nở hoa vào mùa xuân, có những chiếc lá mịn màng mọc thẳng và những đóa hoa sáu cánh trắng như tuyết, nhị hoa như một cái ly màu vàng ở giữa, chung quanh mép viền một vòng đỏ thẫm, hương thơm rất dịu. Cái nhụy hình ly nằm giữa bông hoa được cho là để dùng chứa nước mắt của chàng Narcissus bất hạnh theo truyền thuyết dưới đây. Narcissus là một chàng trai hết sức xinh đẹp, nhưng chẳng yêu ai ngoài bản thân mình. Chàng cho rằng chỉ có mình mới xứng đáng với tình yêu của mình mà thôi. Có lần, đi lạc vào rừng, chàng gặp tiên nữ Echo. (Echo bị nữ thần Hera, vợ của thần Zeus trừng phạt ; nàng phải im lặng và chỉđược lặp lại những lời người khác nói). Echo nấp mình trong rừng sâu, ngắm nhìn và say mê chàng. Narcissus nhìn quanh và cất tiếng hỏi:
-Có ai đấy không?
-Có ai đấy không? – Nàng Echo đáp
-Lại đây – Narcissus gọi to.
-Lại đây – Echo đáp. Nàng Echo bước ra chìa tay cho Narcissus nhưng chàng đã đẩy nàng và phóng ngựa chạy mất. Nàng Echo đau khổ chỉ còn biết âm thầm nhắc lại bất cứ tiếng gọi nào. Một ngày mùa xuân, Narcissus đến bên một dòng suối để uống nước. Chàng sững sờ ngắm nhìn bóng mình dưới lòng suối. Chàng vẫy gọi rồi đưa tay vuốt ve, bóng hình tan vỡ. Chỉ một dòng suối lạnh buốt đáp lại. Gọi mãi, gọi mãi… Cuối cùng, vì quá yêu thương hình ảnh của chính mình phản chiếu trên dòng su�! ��i, Narcissus mỏi mòn dần, gục chết bên đám cỏ xanh. Ở nơi chàng gục xuống, bỗng mọc lên một bông hoa trắng muốt, thoang thoảng hương thơm. Người ta gọi đó là hoa Thủy Tiên. Còn nữ thần Echo vốn yêu say đắm Narcissus nhưng không được đáp lại nên cũng đã héo hon tàn tạ dần cho đến khi chỉ còn âm thanh của nàng vương vấn nhớ nhung trên cõi trần gian
. Phải chăng do sự tích này mà Thủy Tiên được coi như biểu tượng của sự kiêu sa và quá yêu thương bản thân mình. Các cô gái khi được tặng hoa Thủy Tiên hẳn sẽ bối rối: người đã gởi nó chỉ luôn chú ý tới chính anh ta nhiều hơn. Trên đây là quan niệm phương Tây về hoa Thủy Tiên. Phương Đông lại có một truyền thuyết khác, từđó hoa Thủy Tiên cũng mang một ý nghĩa khác. Có một thanh niên là con út trong một gia đình đông con sống ven biển. Sau khi cha mẹ chết, anh ta bị các anh chèn ép chỉđược chia một mảnh đất nhỏ dưới chân đồi cằn cỗi. Trái với các anh, anh này rất chăm chỉ hiền lành, việc ấy động đến trời đất. Anh được một ông tiên từ dưới biển hiện lên cho một nắm hạt, dặn đem trồng trên mảnh đất đó. Sau quả nhiên, cây mọc xanh tươi, cho một thứ hoa thật quý, năm liền năm, hoa cho không dứt. Anh ta trở nên giàu có. Để nhớơn tiên ông, anh đặt tên cho hoa đó là hoa Thủy Tiên. Theo quan niệm phương Đông, đây là loại hoa rất tiên cách, cây đẹp từ rễđến hoa. Thời trước, chỉ có những ngườigiàu sang quyền quý hay quan lại hoặc các bậc khoa mục mới chơi loại hoa này. Thủy Tiên quý là giống hoa trắng đơn, vừa đẹp vừa thơm. Cây hoa Thủy Tiên (ở Việt Nam) có nguồn gốc từ vùng Hoa Nam – Trung Qu! ốc và ! Nhật Bản. Tại Nhật, nó mọc thành thảm lớn ở các vùng đồi thấp đất tốt và ẩm. Người ta cho rằng hoa nởđúng giao thừa là điềm báo một năm thật tốt lành cho chủ nhân. [Từ năm 1920-1946, hằng năm, đền Nghè (còn gọi là miễu Ngàn, ở Hải Phòng, thờ nữ tướng Lê Chân) mở hội thi hoa Thủy Tiên (chỉ dự thi hoa cánh trắng để tỏ lòng tôn kính) để dâng cúng nữ anh hùng vào ngày 8-2 âm lịch, ngày Khánh đản của nữ tướng, và kéo dài trong 3 ngày (Hoa Hữu Hội)].


Ngôn ngữ các loài hoa

Milou


—–

Quân t ử như hoa Sen. Từ bi như Mẫu Đơn. Cao thượng như hoa Mai. Thanh đạm như hoa Huệ Phúc hậu như Phù Dung.

D ịu dàng như Thược Dược. Trang trọng như hoa Hồng. Đài các như Thủy Tiên. Mộc mạc như Mồng Gà. Điềm đạm như hoa Ngâu.

L ịch sự như hoa Lan. Nhẹ nhàng như hoa Lý.

Vui v ẽ như Anh Đào. Mặn mà như hoa Cúc.

Nh ởn nhơ như hoa Mận. Cầu kỳ như Ngọc Lan. Trưởng giả như Ti-Gôn. Phù phiếm như Quỳnh Như. Lẳng lơ như hoa Lài. Loè loẹt như Cúc Tây. Vô tình như hoa Giấy!..

Ý nghĩa của hoa:

Hoa Lay Ơn: Niềm vui, sự hẹn hò. Hoa Mai Đào : Mùa xuân ước mơ, hy vọng. Hoa Huệ : Sự trong sạch, thanh cao. Hoa Lý : Nét thầm kín, thanh tao. Hoa Thược Dược: Sự tươi thắm của tình yêu. Hoa Sen: Lòng từ bi, độ lượng. Hoa Lan: Tình cảm thanh cao. Hoa Đồng Tiền: Tình yêu và tuổi trẻ. Hoa Cúc: Lòng quí mến, hân hoan. Hoa Cúc Thạch Thảo: Nỗi lưu luyến chia tay. Hoa Cẩm Chướng: Lòng thương yêu, quí mến. Hoa Hướng Dương: Niềm tin và hy vọng. Hoa Hồng Trắng: Sự trong sạch và thanh khiết. Hoa Hồng Đỏ: Tình yêu say đắm, nồng nhiệt. Hoa Hồng Vàng: Rực rỡ như tia nắng mặt trời. Hoa Hồng xác pháo: nỗi đau đớn.


Phần thứ năm Diễn đàn

Ðây mới chỉ là hai topic tiêu biểu nhất trong nhiều topic mang tính tranh luận của box LS-VH mà thôi. Hy vọng diễn đàn này sẽ là nơi hội tụđược nhiều ý kiến cũng như mang lại cho các user nhiều cơ hội giao lưu cũng như nâng cao hiểu biết của mình trong lĩnh vực LS-VH.

Nước ta có mấy nghìn năm lịch sử?


Ởđây, bạn có thể tìm thấy những ý kiễn tranh luận của các thành viên trong TTVNonline về một vấn đề lịch sử, văn hoá còn nhiều nghi vấn: lịch sử Việt Nam dài bao lâu, cuối cùng thì nước ta có mấy nghìn năm lịch sử, 4000 năm hay 2700 năm hay…? Trích từ topic “Lịch sử Văn Hoá Việt Nam nè các bác… ” do Lolera gửi lorela Em nghĩ ta phải bắt đầu từ cái cơ bản nhất là lịch sử Việt Nam dài bao nhiêu năm(đã hỏi một lần nhưng chưa ai trả lời). Theo tính toán của em thì không phải 4000 năm mà là khoảng 2600 năm, chính xác hơn là em muốn hỏi về “cận trên” của thời đại Hùng Vương. VuaEch Ếch tớ chỉ biết Việt Nam có mấy nghìn năm lịch sử thôi. Kể ra thì dài 4000 năm hay ngắn hơn cũng khó nói. Nếu nói từ lúc ở trên đầu con rồng bắt đầu có người ở thì chắc là cũng lâu, nhưng nếu tính từ lúc bắt đầu có nhà nước thì chắc cũng độ gần ba nghìn năm thôi. lorela Chán quá, tớđịnh viết một bài rất to có dẫn chứng ngày tháng, sách vở tác giảđầy đủ nhưng bị xoá mất tiêu rồi, tớ lại quên hết năm tháng dẫn chứng chỉ còn nhớ từng này thôi Cho đến nay, hầu hết những công trình nghiên cứu cho rằng mởđầu thời đại các Hùng Vương tương ứng với khoảng năm 2879 trước CN, và các vua Hùng tồn tại kéo dài đến 2621 năm., tức là 18 đời vua Hùng tồn tại hơn 2600 năm, vị chi một đời vua kéo dài đến 130 năm. Chính Ngô Thì Sĩđã không tin một đời người có thể kéo dài như thế. Sách Việt sử lược có một đoạn rất hay: "Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682) ở bộ Gia Minh có người lạ, dùng ảo! thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương". Chỉ dẫn niên đại này của Việt Sử Lược hơn hẳn thông tin niên đại do các nguồn tư liệu khảo cổ học thu được trong nhiều thập kỷ qua. Hơn nữa, cái Logic nội tại của nó cũng không thể hoài nghi được: 18 đời vua Hùng với tổng cộng chừng 450-500 năm là hợp lý, mỗi đời Vua Hùng chỉ khoảng 25 năm là đáng tin cậy. Vậy tớ băn khoăn không biết có phải dân tộc ta có 4000 năm văn hiến không? Và nếu đúng là 4000 năm văn hiến thì sẽ giải thích thế nào với gần 1000 năm dôi ra đây? TruongLaoCaiBang Theo tôi, mọi người quen gọi 18 đời vua là chỉ 18 ông vua.Nhưng nếu quan niệm 18 đời vua này là do 18 triều đại khác nhau hay có thể nói là 18 dòng họ thay nhau trị vì thì như thế không có gì là lạ cả. Điều này có thể xem rõ trong biên niên sử các triều đại TQ và VN qua các thời kì. Chaien1 Vấn đề là tư liệu về các thời kỳấy có đáng được gọi là Tài liệu Sử học theo đúng định nghĩa của môn Khoa học lịch sử hay không? Hay thuộc về phần Dã Sử? Hầu hết các sách sử Việt Nam khi nói đến giai đoạn này đều đưa ra dẫn chứng quyển Đại Việt Sử Ký Toàn Thư- được viết từ quãng TK13, sau Ngô Sĩ Liên thống nhất và bản phổ biến nhất là bản in năm Chính Hòa 18 (1697). Có vấn đề là: quyển sử này cũng chép lại truyền thuyết, hoặc đôi chỗ phóng tác theo một số pho sử cổđại Trung Quốc. bayern_munich Trích Đại Việt Sử Kí Toàn Thư: "Thời Hoàng Đế dựng nước,lấy địa giới Giao Chỉ về phía Tây Nam,xa ngoài đất Bách Việt.Vua Nghiêu sai Hy thịđến ở Nam Giao đểđịnh đất G! iao Chỉ! .TừĐời thành Vương nhà Chu mới gọi là Việt Thường thị,tên Việt có từ thời ấy." Triều đình đầu tiên của VN là Kỉ Hồng Bàng Thị kéo dài từ năm 2878 TCN đến 256 TCN.Vua đầu tiên là Kinh Dương Vương.Theo ĐVSKTT thì Kinh Dương Vương tên huý là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông. Cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh nhân đi tuần phương Nam gặp con gái Vụ tiên sinh ra Kinh Dương Vương.Sau này Đế Minh cho Kinh Dương Vương cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ.Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình quân tên là Thần Long,sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái Đế Lai là Âu Cơ sinh được trăm con trai,là tổ tiên người Bách Việt. Lạc Long Quân phong con trưởng làm Hùng Vương nối ngôi vua Sử cho rằng có 18 đời vua Hùng,nhưng do thời đó văn tự chưa phát triển nên không có nhiều cơ sở thực tế để khẳng định.Lịch sử hơn 2000 năm này chủ yếu do dân gian lưu truyền qua các truyền thuyết như Sơn tinhThuỷ Tinh,chuyện Lang Liêu,ChửĐồng Tử- Tiên Dung,Thánh Gióng…Sau thời Hùng Vương là Âu Lạc.Như vậy cộng lại LSVN từ năm 2878TCN tới nay là năm 2002 tổng cộng 4880 năm.Nói LSVN 4000 năm là đã làm tròn xuống rất nhiều rồi.Đó là còn chưa kể thời kì nước Việt ta chưa có nhà nước thì còn lâu nữa Chaien1 "TừĐời thành Vương nhà Chu mới gọi là Việt Thường thị,tên Việt có từ thời ấy" Có nhiều người nghi ngờ Việt Thường Thị có thể là Chăm-pa. Bản thân bản gốc TQ cũng không nói rõ Việt Thường thịởđâu, chỉ nói đến chuyện có mấy ông sứ giả sang cống Bạch Trĩ và một số sản vật khác, phải qua đến mấy lần phiên dịch. yuyu Việc ta hay quen nói Việt nam có 4000 hay thậm chí 5000 năm lịch sử là do bắt nguồn từđoạn văn sau đây trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư Ngoại Kỷ, quyển I, trang 131: KỶ HỒNG BÀNG THỊ KINH DƯƠNG VƯƠNG Tên huý là Lộc Tục, con cháu họ Thần Nông Nhâm Tuất năm thứ nhất [ 2789 trước Công Nguyên?]. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh [ theo Quảng Châu Ký là 5 ngọn núi ở phía nam TQ là Đại Dũ, Thuỷ An, Lâm Hạ, Quế Dương, Yết Dương ] lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua [ Kinh Dương Vương ]. Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quí, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam gọi là nước Xích Quỉ. Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân …… LẠC LONG QUÂN Tên huý là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương. Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là thuỷ tổ của Bách Việt. Một hôm vua bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thuỷ hoả khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về miền Nam (có bản chép là về Nam Hải), phong con trưởng là Hùng Vương, nối ngôi vua. …… HÙNG VƯƠNG Con Lạc Long Quân (không rõ tên huý), đóng đô ở Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc, tỉnh Phú Thọ) Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồĐộng Đình, nam giáp nước Hồ T! ôn, tứ! c nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam), chia nước làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, VũNinh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, VũĐịnh, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức ; đều là đất thần thuộc Hùng Vương ; còn bộ gọi là Văn Lang là nơi vua đóng độ Đặt tướng văn gọi là Lạc hầu, tướng võ gọi là Lạc tướng (chữLạc tướng sau chép sai là Hùng tướng). Con trai vua gọi là Quan lang, con gái vua gọi là Mị nương. Quan coi việc gọi là Bồ chính, đời đời cha truyền con nối gọi là phụđạo. Vua các đời đều gọi là Hùng Vương. ……. Trở lên là kỷ Hồng Bàng Thị, từ Kinh Dương Vương được phong năm Nhâm Tuất, cùng thời với Đế Nghi, truyền đến cuối thời Hùng Vương, ngang với đời Noãn Vương nhà Chu năm thứ 57 [ 258 TCN] là năm Quí Mão thì hết, tất cả 2622 năm (?) [ 2879 - 258 TCN? ]. Dựa vào đoạn văn trên, tất cả các bộ quốc sử sau này đều coi cái mốc 2879 TCN là năm mởđầu lịch sử Việt Nam, do đó nếu tính đến nay ta đã có 2879 + 2002 = 4881 năm lịch sử? Nhưng vấn đề là những điều Ngô Sĩ Liên viết trên kia về giai đoạn bình minh của lịch sử nước nhà là căn cứ vào đâu? Điều này đã được ông nói rõ trong Quyển thủ – Phàm Lệ về việc biên soạn sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư như sau: Sách này làm ra gốc ở hai bộĐại Việt Sử Ký của Lê văn Hưu và Phan Phu Tiên, tham khảo thêm Bắc sử, dã sử, các bản truyện chí và những việc nghe thấy truyền lại, rồi khảo đính, biên tậ p mà thành … ….Kinh Dương Vương là vua bắt đầu được phong của nước Đại Việt, cùng với Đế Nghi đồng thời, cho nên chép năm đầu ngang vớ! i năm đ! ầu của Đế Nghi Những việc chép trong Ngoại kỷ là gốc ở dã sử, những việc quá quái đản thì bỏđi không chép. Từ Hùng Vương trở về trước, không có niên biểu, thứ tự các đời vua truyền nhau không thể biết được, có thuyết nói là 18 đời, sợ chưa chắc đã đúng Liệu chúng ta có nên tin hết những gì đã được chép trong chính sử như trên không? Và nếu không tin hết thì những đoạn nào đáng ngờ? Nhận xét vềđoạn được chép trong chính sử này, Học giả Trần Trọng Kim (1882 – 1953) viết trong Việt Nam Sử Lược trang 13, như sau: Xét từđời Kinh Dương Vương đến đời Hùng Vương thứ 18, cả thảy 20 ông vua, mà tính từ năm Nhâm Tuất (2879) đến năm Quí Mão (258 TCN) thì vừa được 2622 năm. Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì được non 150 năm ! Dẫu là người đời thường cổ nữa, thì cũng khó lòng mà có nhiều người sống lâu được như vậy. Xem thế thì đủ biết chuyện đời Hồng Bàng không chắc là chuyện xác thực. Mà trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chỉ từĐinh Tiên Hoàng trởđi mới được chép vào Bản Kỷ, nghĩa là Thời Kỳ Gốc, Thời Kỳ Chính Thức, còn trước đó đều thuộc phần Ngoại Kỷ. Bây giờ thử xét Kỷ Hồng Bàng Thị ta thấy rõ có hai đoạn đầu Ngô mình Sở: Đoạn từ Lạc Long Quân trở ngược về quá khứ là ghép từ Bắc Sử của Tầu: Này nhé, cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra:
– con cả là Đế Nghi,
– con thứ hai là Kinh Dương Vương
– con thứ ba là Đế Lai. Hãy xếp riêng Đế Nghi và Đế Lai ra, tại sao con thứ hai của Đế Minh không có chữĐế mà lại có chữ Kinh? Chỗ này Ngô Sĩ Liên viết: ! Xét: ! Đường Kỷ chép: Thời Kinh Dương có người đàn bà chăn dê, tự xưng là con gái út của Động Đình Quân, lấy con thứ của Kinh Xuyên, bị bỏ, viết thư nhờ Liễu Nghị tâu với Động Đình Quân. Thế thì Kinh Xuyên và Động Đình đời đời làm thông gia với nhau đã từ lâu rồi. Rõ ràng Kinh Dương Vương là dòng dõi của vua Kinh Xuyên (Có thể là Kinh Châu, Tây Xuyên sau này?), và vì thông gia với Động Đình Quân nên được Ngô Sĩ Liên "ưu ái" ghép thêm lãnh thổ của nhà vợ thành ra nước Xích Quỉ của vua Kinh Dương mới rộng đến tận hồĐộng Đình? Vua Kinh Dương sinh ra thái tử Sùng Lãm … Thế là hết Bắc sử. Không hiểu sao đến đây Ngô Sĩ Liên (và cả Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên đời Trần vì Ngô Sĩ Liên đã tham khảo từ bộ sử của hai vị này) lại coi thái tử Sùng Lãm con vua Kinh Dương là Lạc Long Quân để rồi ghép với huyền thoại dã sử Việt Nam là Lạc Long Quân lấy Âu Cơ? Nếu đúng Lạc Long Quân là thái tử Sùng Lãm thì chả hoá ra quốc tổ Việt Nam là con một ông vua Trung Quốc sao? Tất nhiên cái tên Lạc Long Quân cũng đã đặc sệt Tầu rồi. Thành thửđến đây ta phải đặt nghi vấn về toàn bộ tiểu sử của vị quốc tổ Việt Nam có tên là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân Việt Nam (nếu có) không thể là thái tử Sùng Lãm con vua Tầu Kinh Dương được, vì đang từ một nhân vật hiện thực có gia phả, tên huý rõ ràng trong sử Tàu, lại thành một nhân vật huyền thoại, hoang đường, có phép thần thông quảng đại, diệt quái trừ yêu trong sử Ta. Rõ ràng ởđây Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, và Ngô Sĩ Liên sau này đã sài lầm khi ghép sử Trung Quốc vào sử nước ta làm nên chuyện đầu Ngô mình Sở, gâ! y ngộ n! hận cho hậu thế. Vì thế ta thấy đến đời con Lạc Long Quân, Việt sử mới thực sự quay về huyền thoại dân tộc: Theo đó, mẹ Âu Cơđẻ một bọc trăm trứng và các con của bà là các vua Hùng đều chỉ là những tên giảđịnh, không có huý, không có niên hiệu rõ ràng, như ông bố ….hờ có gốc Tầu !!?? Cũng có giả thuyết cho là Âu Cơ chỉ là tên phiên âm Hán – Việt của tiếng gọi O Cò, nghĩa là Cô Cò theo cách nói của người Mường – một dân tộc được các nhà sử học và nhân chủng học cho là có nhiều điểm gần nhất với người Việt cổ Tóm lại 4000 hay 5000 năm văn hiến của Việt nam có thể là một nghi vấn vì bắt đầu bởi một sai lầm được chép trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư vốn cũng chép lại những sai lầm trước đó của Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu mà nay đã thất truyền. Một điều cũng cần nhấn mạnh là niên đại 2879 TCN cũng chỉ là một niên đại ước định, hoàn toàn không có gì chính xác, vì ngay trong sử Trung Quốc cũng chỉđến đời Lệ Vương nhà Chu (841 TCN) thì niên đại mới bắt đầu được thiết lập chính xác Lịch sử văn hiến thực sự của Việt nam có lẽ sẽ chỉđược xác định do những thành quả của khoa khảo cổ mà thôi. Và có lẽ cái độ dài khoảng 2700 năm là hợp lý? bayern_munich yuyu viết "Này nhé cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra:
– con cả là Đế Nghi,
– con thứ hai là Kinh Dương Vương
– con thứ ba là Đế Lai. Hãy xếp riêng Đế Nghi và Đế Lai ra, tại sao con thứ hai của Đế Minh không có chữĐế mà lại có chữ Kinh?"
Có thểđây chỉ là danh hiệu thôi.Với lại vốn Đế Minh ! là ngư�! ��i Trung Hoa, khi tuần thú Phương Nam mới gặp con gái của vụ tiên rồi sinh ra Kinh Dương Vương (không phải con chính thống).Có thể phương Nam ở đây là muốn ám chỉ lãnh thổ Việt Nam sau này.Khi Kinh Dương Vương lớn lên được Đế Minh yêu quý mới cho cai quản vùng phương Nam này mà thành thuỷ tổ của người Việt. Nói tổ tiên của người Việt là một người Trung Quốc cũng không chính xác vì dân cưđược quy định theo lãnh thổ. Ngay cả Trung Quốc thời đó cũng còn chưa đầy đủ các bộ tộc như ngày nay.Việc hình thành một dân tộc là do quá trình đồng hoá lâu dài.Có thể Kinh Dương Vương hay Lạc Long Quân là người Trung Hoa, nhưng các bộ lạc họ cai quản để trở thành tộc Việt sau này lại là cư dân sinh sống trên đất Việt.Ngay cả con trưởng Lạc Long Quân là Hùng Vương thứ nhất cũng chỉ là người lãnh đạo, còn những bộ tộc mà Hùng Vương cai quản cũng vậy. Giả thuyết về trăm con trai có thể là thật,nhưng trăm người con ấy không phải là khởi nguồn tổ tiên của người Việt, có lẽ chỉ do suy đoán của người xưa thôi. Tôi luôn tin vào thuyết tiến hoá của Đác-uyn. Vì vậy tôi cho rằng tộc Việt của chúng ta là những nhóm người sống thành bộ lạc,dần dần tụ tập lại mà thành một nước. Còn Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân hay Hùng Vương là người đã tụ tập họ lại thì đúng hơn là sản sinh ra họ. Điều khả nghi lớn nhất là: phương Nam ởđây có phải chính là lãnh thổ Việt Nam sau này hay không? yuyu Chắc chắn là không phải ! Đế Minh lập nghiệp ở vùng giữa châu thổ sông Hoàng hà và Dương Tử (trường Giang), với "trình độ công nghệ" của thời cổđại, Đế Minh khô! ng thể ! nào đi xa đến thế, vả lại địa hình từ phía nam trung Quốc đến phía bắc Việt Nam ngày nay vô cùng hiểm trở. Hàng ngàn năm sau khi Mã Viện đánh sang Giao Chỉ còn phải lập đường sạn đạo thì quân mới sang được, liệu Đế Minh (nếu có thật) có thể xuống tận vùng trung du hay châu thổ bắc bộ Việt nam để…lấy vợ? Tóm lại câu chuyện Thần Nông với Đế Minh chỉ là câu chuyện hoang đường của Tầu, đã được các sử gia tiên khởi của hai triều Trần, Lê ghép vào dã sử Việt Nam vốn theo Mẫu Hệ thời cổđại, chỉ biết có mẹ O Cò, để trở thành một câu chuyện đầu Ngô, mình Sở với ông bố lai Tầu Lạc Long Quân, gây ngộ nhận cho hậu thế nhiều đời…. Hiện nay, với các khám phá mới của khoa khảo cổ học, càng ngày, người ta càng tin người Việt có nguồn gốc bản địa hoặc từĐông Nam Á di cư lên, chứ không phải từ Trung Quốc di cư xuống. NguCong Vấn đềởđây là, chúng ta xác định mốc thời gian nào làm điểm bắt đầu cho lịch sử nước ta? Tính từ lúc dân tộc Việt Nam: chủ thể của văn hoá hình thành trên lãnh thổ nước ta hay tính từ lúc thành lập nhà nước đầu tiên? Nếu xét quá trình hình thành dân tộc Việt Nam thì manh nha của quá trình đó đã xuất hiện từ thời đồđá giữa (khoảng 8.000 năm trước CN), với sự kiện người Mongoloid nguồn gốc từ dãy Himalaya hợp nhất với cư dân Melanesien bản đia, dẫn đến sự hình thành của chủng Indonésien tại khu vực Đông Nam Á cổđại. Vào cuối thời đồđá mới, đầu thời đại đồđồng (khoảng 3000 năm trước CN), chủng người Indonésien bản địa, dưới tác động của sụ tiếp xúc thường xuyên với người ! Mongoloid! phương bắc đã hình thành một chủng mới là chủng Nam-Á. Dần dần, chủng Nam-Á này đã hình thành một loạt dân tộc, đó chính là Bách Việt. Các dân tộc đó là một công đồng dân cư hùng hậu, bao gồm nhiều tộc người Việt nhưĐiền Việt, Dương Việt, Mân Việt, Nam Việt, Lạc Việt… (theo Cơ sở Văn Hoá Việt Nam) Như vậy, có thể thấy rằng dân tộc Việt Nam đã hình thành và xuất hiện trên lãnh thổ hiện nay vào khoảng 5000 năm trước đây (điều này phù hợp với cột mốc lập nước huyền thoại năm 2879 trước CN của các vua Hùng). Họ còn để lại rất nhiều thành tựu văn hoá, tiêu biểu là nghề nông nghiệp lúa nước và nghề luyện kim đồng (văn hóa Đông Sơn). Họ cũng đã đạt đến đỉnh cao của văn hoá là sáng tạo một loại chữ viết riêng biệt, khác hẳn với chữ Hán và chữ Nôm xuất hiện sau, tiếc là hiện này, chúng ta chưa chưa có nhiều tài liệu về các mẫu ký tự cổ này, ngoại trừ một số đoạn văn rời rạc về nó được ghi trong thư tịch cổ Trung Quốc. Theo đó thì chữ nước ta lúc đó "giống đàn nòng nọc đang bơi". Xem vậy thì có thể kết luận rằng, dân tộc Việt Nam đã xuất hiện rất sơm trên lãnh thổ nước ta, và con số hơn 4000 năm cho chiều dài của lịch sử nước ta là hợp lý. Songminh Tôi có ý kiến chút ! Theo giáo sư Trần Quốc Vượng thì danh hiệu Hùng trong Hùng Vương có thể là ký âm Hán Việt của Khun, là tiếng để chỉ những người đứng đầu bộ lạc thời Việt cổ. Hiện nay, một số dân tộc thiểu sốở tây bắc Việt Nam ta vẫn gọi thủ lĩnh của họ là Pò Khun đấy. Vấn đề 4000 năm lịch sử có thể là sai lầm, thế nhưng c! hỉ dự! a vào các thư tịch cổđể chứng minh thì rất khó, có lẽ nên đơi những kêt quả nghiên cứu sâu hơn của các nhà khảo cổ học Việt Nam vậy. Có điều cũng không thể trách những bậc đã đặt nền móng cho sử học Việt Nam vì sai lầm đó, tôi tin là không phải các cụ không trăn trở khi chép như vây, đôi khi sai lầm một chút lại cần thiết. Nước ta khi đó mới thoát khỏi ách thông trị gần 1000 năm của Trung Hoa chưa lâu. Và tất nhiên, các cụ không thể có trong tay những kết quả khảo cổ học như hiện nay được. Độc lập dân tộc không thể chỉ dựa vào súng đạn, nó còn là vấn đề thuộc về tâm linh nữa. Thử hỏi, khi đó các cụ chép là nước ta mới ” ly khai” khỏi nước mẹ Trung Hoa được mấy năm thì hậu quả sẽ ra sao? Cái cần thiết hơn cả là làm sao cho nước ta tạo được một vị thế ngang hàng với Trung Quốc, điều đầu tiên là ít nhất nước ta phải có 1 nguồn gốc rõ ràng, và khá biệt lập so với bọn nó và nhất là nên phát sinh gần như cùng thời điểm với bọn nó thì càng tốt, các bạn ạ. Mấu chốt nằm ởđó. Tôi nhớ có bạn đã từng phê phán Nguyễn Trãi là sai lầm khi viết "Từ Triệu Đinh Lý Trần bao lần gây nên độc lập Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương" Có sai lầm thật, có điều nên chăng phê phán Nguyễn Trãi về việc ghép nước Triệu của Triệu Đà vào dân tộc ta? Ông phải tôn thờ những lẽ phải lớn hơn rất nhiều khi chấp nhận viết một câu khá sai lầm như vậy. Cám ơn các bạn. yuyu Rất tán thành y' kiến của SONGMINH. Chính Ngô Sĩ Liên cũng cũng chép trong Phàm Lệ Về việc soạn sách Đại Việt Sử Ký Toàn ! Thư là ! việc nâng niên đại Kinh Dương Vương lên ngang hàng Đế Nghi được phong vương bên Trung Quốc năm 2789 trước CN là để "nâng cao quốc thống". Đúng là bậc sĩ phu nhiều khi có trách nhiệm phải nâng cao tinh thần dân tộc cho nhân dân mình, nhất là vào thời kỳ quốc gia còn mới mở mang, nên nhiều khi phải nói…phóng đại lên một chút ! Kể ra cũng là một cái đại ngôn….đáng yêu và có lẽ hậu thế về sau thực ra cũng ngờ ngợ, nhưng ai cũng chép miệng cho qua vì sai thế chẳng có hại gì mà còn có lợi. Nhưng ngày nay khi dân trí đã trưởng thành, có lẽ chúng ta cần phải biết sự thực hơn về mình và dù nếu ta biết rằng sự thực nền văn hiến của dân tộc ta không dài đến 4000 năm mà có lẽ chỉ khoảng 2700 năm hay ngắn hơn, thì cũng không vì thế mà lòng tự hào dân tộc của ta giảm sút. Ngược lại có lẽ chính vì thế mà lớp hậu sinh chúng ta cần phải cố gắng hơn đểđưa đất nước muôn vàn yêu quí của tổ tiên để lại tiến bước nhanh hơn trên con đường hiện đại hoá và công nghiệp hoá để xứng đáng với công lao của tiền nhân.

Tại sao thanh niên Việt Nam ít quan tâm đến Lịch sử Văn Hoá nước nhà?

Nơi đây, bạn có thể nghe thanh niên Việt Nam nói lên những suy nghĩ về mối quan tâm của mình với lịch sử văn hoá nước nhà. Những ý kiến đưa ra có thể còn những điểm phiến diện, nhưng chắc chắn đều xuất phát từ một tình yêu thực sự với lịch sử và văn hóa của dân tộc. NguCong Lâu lâu, lại thấy các cụ than phiền rằng cọn cháu bây giờ hoà nhập nhanh, cứ nhất quyết coi Phổ Nghi là vua cuối cùng của Việt Nam, đọc sử thấy Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng thì than rằng thời này đưa thông tin vô trách nhiệm thật, thời đấy mới có Triều Tiên chứđã là gì có Nam Hàn, lại còn viết sai tên nữa chứ… rồi An Dương Vương lãnh đạo nước ta đánh thắng quân xâm lược Tống (?) Nói thật, tuy không phải là nhà đạo đức, cũng chả bao giờ dám mơ tưởng đến sứ mạng ” định hướng” cho thế hệ trẻ (cái đấy chảđến lượt tớ), nhưng thỉnh thoảng nghe những câu như thế tớ cũng cảm thấy hơi cay cay thế nào. Quả thực, thanh niên Việt Nam hiện nay rất ít quan tâm đến Lịch Sử Văn Hoá nước nhà. Tại sao thế nhỉ? Các bác cho ý kiến dùm tớ cái. homoerectus Giải thích rất dễ dàng:
1) Sự dạy dỗ nhàm chán trong nhà trường của môn Lịch Sử (và nói chung là các môn khoa học xã hội.
2) Không có sựđịnh hướng đúng đắn của các phương tiện thông tin đại chúng,thay quảng bá lịch sử, văn hoá nước nhà lại quảng cáo không công cho lịch sử, văn hoá Tàu và Hàn. Cái này biết trách ai đây? giacatgt Vì nền giáo dục việt nam chưa nói cho học sinh biết vì sao chúng ta học lịch sử và tác dụng của việc học lịch s�! �� như thế nào! cứ thế mà suy ra thì thấy nó còn kém thế nào! yuyu Tại mình là chính. Hồi Pháp thuộc nghe nói học sinh không đưọc học quốc sử mà chỉđưọc học sử Pháp thôi. Như thế có dốt sử Việt cũng đành. Còn ngay nay nếu có ai dốt sử Việt thì tại chủ quan là chính. Nhà trường chỉ dạy một phần. Cái gì cũng thế, nếu mình muốn hiểu sâu sác hơn thì phải tự tìm sách mà đọc. Sách vở bây giờ không thiếu. Chỉ có thiếu niềm say mê thôi. Yasunari Thế thì định hướng cho niềm say mê ấy thế nào đây? Chúng ta không có sự dạy dỗ hay từ trường học, không có những cuốn sách Sử hay, không có sự chăm sóc hoàn hảo cho các di tích của ông cha thì không thể hy vọng vào chủ quan của lớp trẻđang bị hấp dẫn bởi vô vàn say mê vào thời mở cửa. Nói về box của chúng ta, chúng ta cũng có phần trách nhiệm dù à nhỏ bé đấy. Hãy làm cho cái box này thú vị hơn lên, hấp dẫn các bạn khác ở TTVN này, như thế là ta đã góp phần vào việc tạo ra hứng thú học Lịch sử – Văn hoá ở các bạn rồi. Có hứng thú cái đã, rồi họ sẽ học về nước nhà mình, so sánh với các nước khác để thấy mình có quyền tự hào. Phải không các bạn? yuyu "Tiên trách kỷ, hậu trách nhân". Nếu nhà trường hay cha mẹ dạy rằng: Các con đừng say mê lịch sử văn hoá, đừng say mê học hành, cứ chơi bời đàn đúm phá gia chi tử cho sướng đi v.v…!!! Thì trong trường hợp ấy chúng ta cũng không nên trách nhà trường, cha mẹ, bởi ta đã lớn rồi, ta có đủ trí khôn để lựa chọn hành vi của minh. Từ 18 tuổi trởđi, ta làm gì là ta phải chịu trách nhiệm về hành vi c�! �a ta. Hu! ống chi không có nền giáo dục nào, dù tồi đến đâu lại có những lời khuyên…phản giáo dục như trên . Vậy thì bạn thích học hay thích chơi thì do bạn quyết định. Bạn am hiểu văn hoá hay mang một cái đầu rỗng tuếch, suốt ngày say xỉn hay nghĩ chuyện tồi bại là do bạn, trừ phi lại đổ lỗi cho….Trời thì thôi hết nói ! Tất nhiên, nhà trường, xã hội, gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến sựđịnh hướng phát triển của một đứa trẻ. Nhưng mình nghĩ yếu tố khách quan không phải là yếu tố quyết định. Quyết định là yếu tố chủ quan. Nhất là đối với những người có bản lĩnh và quyết tâm. Nếu giáo dục mà thay đổi được bản chất con người thì trên thế gian này chẳng còn tội ác, mọi người đều sống thánh thiện, thương yêu nhau, đều chăm chỉ học hành, đọc sách v.v…Bọn Mafia, buôn heroin, đưa giắt gái v.v… sẽ chết đói nhăn răng. Thế giới sẽ là một thiên đường ! Ở nhũng nước văn minh nhất, giáo dục được coi là có chất lượng nhất, tội ác cũng đầy rẫy, nếu không muốn nói là còn nhiều hơn các nước kém văn minh. Từ 2500 năm nay hết Phật lại Chúa Hay Thánh Hiền đều ra sức dạy dỗ con người làm lành lánh dữ, các nhà hiền triết đủ loại, nghĩ ra không biết bao nhiêu mô hình xã hội ” ưu việt “….Nhưng rút cục, loài người ngày càng độc ác hơn. Thậm chí có thể nói Văn Minh tỷ lệ thuận với Tội Ác. Thế giới ngày nay có nhũng bước tiến bộ vượt bậc về khoa học kỹ thuật và của cải vật chất, nhưng loài người sống không hề hạnh phúc hơn so với thời trước. Đau Khổ và Tội Ác luôn luôn đeo đẳng kiếp người từ khi mở mắt! chào đ! ời đến khi nhắm mắt….chào đời vĩnh biệt lần nữa ! Yasunari Hèm, bác YuYu ạ, bác đang nói ở tầm vi mô là cá nhân được thì lại nói sang tầm vĩ mô là nhân loại. Đúng là nhân loại nếu có đổđốn thì chỉ có trách mình, nhưng một con người đổđốn thì nên trách chếđộ giáo dục trước. Chỉ có thể nói câu ” tiên trách kỷ, hậu trách nhân ” khi con người đã hình thành ý thức. Nhưng một đứa bé thì chưa có ý thức. Mà ý thức con người hình thành từ những va chạm với môi trường. Ăng ghen nói: “Bản chất của con người là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội. Cho nên những người đứng đầu, những người có vai trò quan trọng trong hệ thống tri thức và Văn hoá của xã hội là những người chịu trách nhiệm chính trả lời câu hỏi của NguCong. Nhân cách phần đông công dân là phản ảnh trung thực của sức sống của một xã hội. NguCong Chào các bác ! Lại vào tiếp chuyện các bác cái. Cái vấn đề này quả là tác động từ nhiều lý do thật, chủ quan, khách quan… Theo em thì một trong những lý do quan trọng là tiền, các bác ạ. Nói thật, giá của một cuốn sách Lịch Sử- Văn Hoá hơi bị… trên giời một tí. Em là thằng sinh viên nghèo, lại học khối kỹ thuật nữa, em có thích LSVH thật nhưng em chẳng thể kiếm ăn bằng nó được, thế nên, dù có thèm thế nào đi nữa, chả bao giờ em lại nghĩ mình có thể bỏ ra khoảng 300 nghìn để mua một bộĐại Việt Sử Ký toàn thư, hay độ 60 nghìn để mua cuốn Việt Nam sử lược, mà nói thật các tác phẩm sử học nghiêm túc chả bao giờ có cái giá dưới 50 nghìn các bác ạ. Mà 50 nghìn thì đủ cho em dẫn bạn g! ái đi u! ống trá đá 2 tháng ấy chứ. Nói chung, một số bác bảo sách của chúng ta xuất bản để cất vào thư viện là chí phải. Đơn giản vì mức giá như vậy là thách thức quá lớn với phần đông tuổi trẻ chúng ta. yuyu Các bạn có thể vào đây mà lấy 8,9 bộ sử to vật miễn phí: http://www.viethoc.org/content.php?menu=24&page_id=47 Trong đó chẳng những có Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bản Chính Hoà hay Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim mà còn có Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn và nhiều sách sử nối tiếng của Nguyễn Trãi, Lê Quí Đôn, Ngô Thì Sĩ v.v… Vấn đề chỉ là có thời gian và hứng thú không thôi. Ngoài ra để có nhũng kiến thức Văn Hoá, Lịch Sử cơ bản cũng không nhất thiết phải cày hết hàng nghìn trang sách như thế hoặc chi ra hàng bạc triệu, chỉ cần chịu khó dọc vài cuốn sách nhỏ giá rẻ hay vào thư viện của Trường cũng đủ. và có trăm nghìn cách để một người hiếu học trau dồi kiến thức. Thay nền giáo dục ư? Cũng tốt đấy. Nhưng nền giáo dục nào là tốt nhất đây? khi mà bất cứ nề giáo dục nào, bất cứở quốc gia nào, và bất cứ tôn giáo nào cũng đều không giải quyết được tệ nạn xã hội và sự hư hỏng của con người? Tóm lại, chỉ có lý do duy nhất là tại mình. Evil-Metal Nếu đã được giáo dục đầy đủ mà vẫn không nên thân thì là tại mình. Còn nền giáo dục ở Việt Nam như thế nào? Nếu so sánh giáo dục ở Việt Nam với giáo dục nơi tôi đang học thì Việt Nam thua xa. Giáo dục không khi nào là hoàn thiện cả chính vì vậy mà người ta ph�! �i luôn ! cải tiến cho phù hợp. Chính vì vậy mà con người phát triển đến ngày hôm nay. Còn nếu suy nghĩ như thế là cùng, chắc giờ này vẫn cày ruộng, làm đồng. Lý do chính thanh niên Việt Nam không biết nhiều về lịch sử Văn Hoá nước nhà là tại vì không được dạy một cách khoa học. Không thể nói tại họ khi nền giáo dục mà họđược hưởng còn qua nhiều khuyết điểm. summoner131 Các bác nói hay lắm,thật lòng em vô cùng khâm phục các bác. Đúng là việc giảng dạy lịch sử trong trường phổ thông đã làm cho môn lịch sử trở nên nhàm chán, khi còn còn đi chính em cũng thấy ghét cái môn bị gọi một cách đau đớn là học thuộc lòng này, môn lịch sử không tạo được cho học sinh có cái hứng thú tìm hiểu những bí ẩn của quá khứ thì làm sao mà hấp dẫn thanh niên được. Mà cũng buồn là đa số thanh niên sống hời hợt quá, với họ thì các thầy dù có dạy hay thế nào, chương trình có hấp dẫn thế nào thì cũng chẳng cần quan tâm….Đau lắm… Dunscule Bác YuYu ơi, Tại mình là chính thật, cái này em đồng ý với bác. Thế nhưng theo em thì phần đông thanh niên Việt Nam không biết Internet là cái gì bác ạ. Sách, truyền hình bao giờ cũng là tài liệu phổ thông nhất, thế nây muốn khơi dậy lòng ham thích tìm hiểu lịch sử từ thanh niên thì phải đi từ những cái phổ thông nhất ấy. Việc này rõ ràng là nước ta làm rất kém, đấy là chưa kể những sách viết về Lịch Sử của nước ta đã đắt lại còn viết rất khô khan (mặc dù sử nước ta chẳng thiếu những câu chuyện hay). Lấy ví dụ là em, nhà có mấy quyển sử thật nhưng trước khi đi ngủ em lại thích cầm quyển Teppi hơn. minhzha! owei Đúng là có rất nhiều lý do về chuyện trên. Nói “thanh niên Việt Nam không biết nhiều về Lịch Sử Văn Hoá nước nhà” thì cũng không hẳn, sự hoạt động sôi nổi của box Lịch Sử chứng tỏđiều này. Thật ra ai mà chả được đào tạo qua trường lớp, ai mà chưa học qua hết các giai đoạn LS nước nhà. Nhưng phần nhiều là do học vì cô bắt thầy ép, học đểđỡ “xoè” môn sử, học đểđược cộng điểm (nếu nó là môn thi tốt nghiệp),… nên việc tiếp thu sử thụđộng. Điều này giải thích tại sao học sinh, sinh viên đến với nó với thái độ khó chịu đến thế Khâu này phải do Bộ giáo dục và các cơ quan hữu quan xem xét. Phần đông ai cũng biết và thích sử Trung Quốc hơn, nhưng thử hỏi có mấy ai đọc sử Trung Quốc bằng tiếng Tàu hay đều đọc sử Trung Quốc bằng tiếng Việt (như chúng ta bây giờ), vậy các bộ sử Trung Quốc đó do ai dịch, xin thưa là người Việt Nam dịch, chứng tỏ ngoài việc cốt sử hay còn cần có người biết truyền đạt nó. Phải chăng phương pháp tiếp cận với Thanh niên của Lịch Sử nước nhà là chưa tối ưu, việc này chắc phải do các nhà nghiên cứu cho ý kiến. Lịch Sử Trung Quốc đến tay người đọc VN dưới nhiều cuốn sách như: LS TQ 5000 năm, Trung Hoa sử lược… nhưng mức độ chi tiết, cụ thể không thể sánh bằng những bộ sử lớn và dài của nước nhà: Đại Việt Sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục,… nhưng đa số TN lại thích đọc các quyển sử ngắn và vừa, có thể biện hộ vì thích tính súc tích nhưng suy nghĩ kĩ có lẽ là tính “mì ăn liền” đã ngấm vào cả việc tìm hiểu Lịch Sử r�! ��i, đi�! ��u này em đồng ý với bác Yuyu: “Tiên trách kỷ ” nhưng “hậu” thì trách ai? phải chăng là trách “nhân”? hidden-man Mọi người nói rất hay, theo tôi, thanh niên bây giờ ít hiểu sử nước mình một phần là do cách dạy ở trường, lịch sử Việt Nam cũng hay đâu kém Lịch Sử Trung Quốc, vấn đềởđây là cách chuyển tải những kiến thức lịch sửđến cho mọi người thì như thế nào mới đạt hiệu quảđược chứ…. Tuy vậy, phải nói rằng lỗi chủ yếu là tại họ chứ không thể trách ai được. Họ không có thời gian quan tâm đến những quyển sách lịch sử mà họ cho là khô khan, họ muốn tìm thú vui bên nhưng gì thời thượng hấp dẫn hơn……họ giờ chỉ quan tâm xem hoc gì: toán, văn, anh, lý, hoá….ít thời gian họđể dành cho nhưng môn khác ngoài những gì họ phải học để thi… ngoài môn lịch sử ra, ở các trường học sinh còn bỏ quên rất nhiều môn khác nữa cơ…. Hơn nữa tôi nghĩ rằng đểđến gần nhất với môn lịch sử thì phải có sự say mê, tôi nghĩđây là 1 lĩnh vưc hơi khó nên cần phải yêu thích và đam mê mới được Cũng xin nói thêm rằng giá của những cuốn sách sử là quá đắt nên thú thực dù rất ham thích nhưng tôi chưa có quyển nào thực sự nghiêm túc để mà đọc. Thế nên khi vào box này tôi rất thích được đọc nhưng trích đoạn lịch sử mà mọi người hay viết…thật hiếm có cơ hội nào như thế và cảm ơn nhưng người đã viết. key Nói hay quá !!! Có quá nhiều lý do đưa ra nhưng sau đây em xin có một giải pháp cụ thể: thay vì học thuộc lòng một mớ bòng bong chúng ta phải bắt buộc nắm được các sự kiện c! hính và! càng ngày càng tiến đến thi trắc nghiệm. Những bài viết luận sẽ giành cho những người đòi hỏi có sự nghiên cứu chuyên sâu, tỷ mỷ. Đối với kiến thức phổ thông chúng ta không nên đòi hỏi quá cao. Phải biết định hướng đúng đó là điều cần bàn !!! mystery_aries Bản thân tui cũng thấy hơi thờơ một chút về lịch sử nước nhà ! Huống chi là thanh niên thời Internet. Vì sao? Sử ký thì quá khô khan, chỉ là chép chứđâu phải viết. Môn Lịch Sửở trường học lại chỉ là môn học thuộc, chẳng có mấy tư liệu và phương tiện để tìm hiểu. Đã thế sách mới thì đắt, Net thì đâu phải lúc nào cũng vào được. Phim Lịch Sử Việt Nam, nói thật, quá tệ ! Vấn đềđúng là do mình có ý thức học tập hay không thôi ! Hơn nữa các bậc cha mẹ cũng có một phần trách nhiệm trong việc Giáo Dục văn hoá cho con cái đó. bayern_munich Người Việt Nam thuộc sử Trung Quốc hơn sử Việt Nam.Lý do quan trọng là do phim ảnh lịch sử Trung Quốc tràn lan trên ti vi, trong khi phim về Lịch Sử Việt Nam hầu như không có. Nếu có thì dở vô cùng hoặc bịa đặt vô tổ chức. Chính điều đó phần nào gây phản cảm cho người xem.Thật đáng tiếc khi LSVN cũng hay ko kém gì LSTQ.Hơn nữa đây lại là lịch sử dân tộc,càng nghĩ càng thấy tiếc gallivant Tại sao không thấy ai nói đến nguyên nhân trong chính lịch sử văn hoá nhỉ?
– Vâng, ngày nay người ta có thói quen cứ mở miệng ra là lại chép miệng – thanh niên bây giờ chán thật, chẳng biết tí tẹo gì về truyền thống lịch sử vẻ vang của nước ta, chả hiểu gì về bản sắc văn hoá của dân tộc ta
– chẳng bằng mình hồi xưa! . Nhưng ! đã mấy ai tự hỏi, tại sao ta cần tìm hiểu về lịch sử văn hoá? Không biết về lịch sử – văn hoá liệu chúng ta có tồn tại, có phát triển được không? Hì hì, câu trả lời chẳng dễ chút nào, phải không các bác? Tớ thì chẳng lý tưởng cao siêu gì, miễn là tớ cứ có đủ miếng cơm, manh áo, đủđể nuôi vợ nuôi con, thỉnh thoảng làm pha nghỉ mát ởđâu đó xa xa. Thế thì tớ dùng lịch sử văn hoá làm gì hả các bác. Thú thực với các bác, tớ nghĩ nhức cảđầu mà chẳng nhìn thấy được tia sáng ở cuối đường hầm, các bác ạ. Hic, chẳng hiểu có ra ngô ra khoai gì không chứ tớ thấy cứ nửa nạc nửa mỡ, ngẩn ngơ giữa đường thế này thì có ngày va phải ôtô như chơi. Các bác thử tính xem, theo con đường… lý tưởng của thanh niên Việt Nam hiện nay thì, đầu tiên là phấn đấu vào trường mầm non xịn, rồi “thi” vào lớp 1, sau đó lại “cày cuốc” để vào trường chuyên, lớp chọn cấp 2,3 và đại học. Chọn cho mình một chuyên ngành, phấn đấu cật lực, học hành chăm chỉ, sau đó lại học tiếp cao hơn hoặc là đi làm: kỹ sư, bác sĩ hay nhà kinh tế. Vâng, để xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh thì không thể không cố gắng hết mình được, phải không các bác. Đấy, các bác thấy không, tớ chẳng thấy bóng dáng lịch sử rồi văn hoá ởđâu cả. Cứ kiến thức chuyên môn nắm sâu và vững, tác phong làm việc tích cực, hiệu quả thì chả chóng thì chầy mình cũng…vượt lên hoặc ít ra là không tụt lại quá xa so với các nước tư bản ngoài kia. Vâng, vì dân Việt Nam vốn thông minh, cần cù mà. Đấy, các bác xem, tớ chẳng thấy mình cần lịch sử và văn hoá để làm g! ì. Mấy! thứđó với tớ chỉ là trò vui vẻ, lúc nào rảnh rỗi thì tớ mò vào tí chơi.Tớ chẳng thấy cần biết ngày xưa để làm gì, miễn là bây giờ tớ nói tiếng Việt, miệng cười sung sướng, tiền đầy túi, tình đầy tim. Cavalry Tôi cũng chẳng ưa gì mấy cái khẩu hiệu ” hiện đại và đậm đà bản sắc dân tộc” bởi vì thật ra, nếu cứ hô mà không hiểu thì nó cũng chẳng khác gì “đổi mới từ từ những vẫn cố bảo thủ”. Văn hoá lịch sử VN các bạn muốn tìm hiểu hay không thì tuỳ. Nhưng nghiên cứu lịch sử nói chung cho ta những cái lợi sau:
– Thấy được những khả năng mà con người có thểđạt, thông qua những chiến công, những danh nhân..
– Thấy được những quy luật tất yếu. Lịch sử không phải là có những sự kiện gì mà còn là tại sao? Những vấn đề phát sinh từ thời xưa vẫn lặp đi lặp lại ngày nay. Những người hiểu lịch sử thì dễ tin rằng chính nghĩa cuối cùng sẽ thắng hơn là những người khác chỉ thấy tình hình tiêu cực trước mắt, hạn hẹp chung quanh. Mà những người tin rằng điều tốt sẽ thắng thì họ chỉ làm điều tốt thôi.
– Lịch sử cho ta kinh nghiệm sống và tầm nhìn rộng. Một tác giảđã so sánh gữa Churchill Thủ tướng nước Anh (vốn là giáo viên lịch sử) và Hít le là đối với một vấn đề, Hitle chỉ cho rằng chỉ có một cách giải quyết đúng duy nhất trong khi Churchill với nhãn quan rộng hơn thường cho là có nhiều cách giải quyết đúng như nhau. Koibeto81 Bác Gallivant làm tớ ngẩn ngơ mất mấy phút… Nói chung, là người Việt Nam thì cũng nên (không thích dùng từ “phải”) biết tí l�! �ch sử ! Việt Nam… cho có tí vốn dắt lưng đi ra đường cũng khỏi phải thấp thỏm. Giả dụ có bị hỏi Nguyễn Du với Nguyễn Huệ có họ hàng với nhau hay không?…không phải thộn mặt ra rồi…cười trừ…các bác nhỉ Còn giả thử mà bác nào thích Lịch Sử Văn Hoá, cũng hay, thêm được một bác thích thì Lịch Sử nhà tớ là sẽ cứ vẫn còn được cày cuốc cẩn thận. Tất nhiên là sẽ phải có một số người không thích cầm cái cày cái cuốc…thì thôi, không khoái cái cày cái cuốc có lẽ là vì họ có cái khác, mà họ thích hơn thôi. Những người đó, họ không quên là vẫn còn có những cái như cái cày cái cuốc, là tốt rồi. Thế là đủ. Vo Quoc Tuan Tớ xin nói thêm một câu cho vui của vui nhà Khi đến tận cùng của dân tộc, ban mới có thể bước ra thế giới Chẳng nhớ của ai nhưng cũng hay đấy nhỉ, phải không các bác NguCong Theo tớ thì biết một chút về Lịch Sử Văn Hoá để sau nước ta có phát triển thì trở thành Việt Nam phát triển, chứ không đến nỗi trở thành một Hoà Kỳ phẩy hay một Trung Quốc phẩy, có phải thế không hả bác Gallivant? Còn những đồng chí nào chơi cái kiểu nửa nạc nửa mỡ, chuyên ngành kém tắm mà lịch sử thì chưa hiểu hết chữ A như… tớ thì để cho ôtô đâm là phải lắm. Bác Gallivant nhỉ? Ghen Chữ “MỐT”: có 1 chữ “Mốt”.Trong thời đại ngày nay người ta thường chạy theo mốt,ăn mặc theo mốt,chơi theo mốt….theo mốt và học cũng theo mốt. Để ý 1 chút thôi ta sẽ thấy ngày nay các bậc cha mẹ thường bắt trẻ con học đủ thứở các kiểu cung văn hoá,nào vẽ rồi nhạc rồi vi! tính! 230;.thật là khổ thân những cô bé cậu bé mới có 5 hay 6 tuổi mà đã cận lòi vì học và….đọc.Nói tới đọc thì ngày nay các em nhỏ của chúng ta phải đọc toàn những truyện tranh của Nhật hay Trung Quốc…mà ít thấy bậc cha mẹ nào cho con đọc các truyện kể về lịch sử Việt Nam,nên trẻ em VN ngày nay biết rất rõ nhưng Subasa..hay cái gì gì đó mà em không biết mà không biêt đến ông Thánh Gióng là ai.Có lẽ lỗi này 1 phần cũng do các nhà xuất bản đã hkông chú trọng lắm việc xuất bản những cuốn truyện kể lịch sử,trình bày không được bắt mắt cho lắm,không như ngày trước chỉ có các truyện tranh như là Cù Chính Lan hay là Kơ Pa Kơ Lơng…. Còn với các cô cậu học trò lớn hơn thì các bậc cha mẹ thường hướng con cái theo học các ngành đang hái ra tiền như là Công nghệ thông tin hay ngoại ngữ…do đó nảy sinh hiện tượng gà nòi,chỉ cần tập trung vào học các môn cần cho thi đại học như toán,lý,hoá…có học thêm thì học tin,ngoại ngữ chứ không nên đọc mấy cái như kiểu lịch sử,vô bổ!!! Về phía nhà trường.Các thầy cô vô tình đã biến môn lịch sử thành 1 môn học ác mộng đối với học trò bởi kiểu dạy tập chép của các thầy.Và thêm vào đó là các bài kiểm tra xem ai học thuộc lòng giỏi hơn,bởi vậy hầu như rất hiếm khi thấy trong 1 bài kiểm tra hay thi lịch sử có dạng câu hỏi em hãy phân tích hoặc đánh giá…1 sự kiện lịch sử hay vai trò của 1 vĩ nhân nào đó.Còn nhớ khi trước đi học,ngay từ hồi tiểu học chúng tớđã rất hứng thú với môn lịch sử bởi những câu truyện kể lịch sử rất thú vị của thầy cô,ngày nay thì chả thấy đâu cả.Vả lại ! ngay các! tâm lí các thầy cô dạy sử cũng chẳng thấy thú vị gì,nên các vị thường dạy nhoáng ngoàng cho hết tiết.Số lượng các thầy cô còn tâm huyết với môn sử ngày 1 giảm dần,thật đáng buồn!!! Còn về phía xã hội thì sao??? Ngày nay các phương tiện thông tin đại chúng dành rất ít đất cho lịch sử,ví dụ như mấy bác nhà đài có mấy chương trình về lịch sử,văn hoá khá hay thì tống hết vào VTV2 nơi rất ít người để mắt tới,vả lại có để mắt tới cũng khó mà được xem vì các bác ý toàn chiếu vào giờ hiểm,tầm giờ hành chính hoặc khoảng nửa đêm hay sáng cực sớm,cha mẹơi !!! Nhưđánh đố ý !!! Mà các chương trình như vậy thời lượng phát sóng quá ít,chỉ khoảng 30 phút là cùng,làm cho chương trình tủn mủn,người xem mất cả hứng vì phí công ngồi chờ.Còn mấy cái chương trình sặc mùi fashion thì được ưu tiên phát kênh xịn < VTV3 chẳng hạn > và thời lượng phát sóng quá nhiều,1 ngày mà thấy có tới cả chục chương trình ca nhạc các kiểu cộng cả chục film truyện.Ấy là báo hình,còn báo viết cũng chẳng hơn gì.Điểm qua mấy tờ báo giới trẻ hay đọc là HHT,Sinh Viên,Tuổi Trẻ,Thanh Niên thì thấy rặt những phổ biến kiến thức….làm giàu kiểu nêu gương người tốt việc tốt < chỉ là nêu lên thôi,còn chẳng thấy kinh nghiệm gì >,rồi giới thiệu các ông bà SAO to đùng,nên giới trẻ ngày nay nhiều bác thuộc ngày sinh của thần tượng hơn ngày sinh của những người sinh ra mình,hic hic buồn thay !!! Các báo ngày nay còn 1 mảng nữa là các truyện vụ án giật gân mới câu khách được,còn lịch sử thì thi thoảng được chiếm khoảng dăm dòng khiêm tốn ở vị trí thậm khiêm tốn. Tr! ong 1 cá! i trận dồ mà ởđâu cũng thấy chữ “Mốt”,nó bủa vây,bưng bít các cửa vào cho anh chàng lịch sử vốn dĩ yếu ớt như vậy thì việc thanh niên không thích môn này là chuyện dễ hiểu. Bản thân chúng ta là những người có ít nhiều tâm huyết với lịch sử,chúng ta cũng có trách nhiệm giúp cho anh chàng này có chỗđứng trong lòng giới trẻ < tất nhiên trẻ hơn chúng ta >.Ví dụ chúng ta có thể kể những câu truyện lịch sử thú vị cho lũ em hay cháu chúng ta,tin rằng với khả năng diễn đạt lưu loát rõ ràng và trí tưởng tượng phong phú của các thành viên trong box thì câu truyện sẽ thú vị và thu hút được lũ trẻ.Đối với những cô cậu lớn hơn thì ta có thể tạo ra những cuộc tranh luận nhỏ về các sự kiện lịch sử hay nhân vật lịch sử,để tạo hứng thú tìm hiểu cho họ.Tuổi nhỏ thì ta làm việc nhỏ các bác nhé,cùng bắt tay nhé !!! Và hy vọng thế hệ con cháu chúng ta sẽ không có ai bảo Trần Quốc Tuấn bóp nát quả cam như kiểu 1 bạn thi Đường lên đỉnh Olimpia đã từng nhầm.

Thay cho lời kết

Bạn vừa gấp lại cuốn sách với một chuỗi những suy nghĩ và cảm giác. Ấn tượng lớn nhẩt đọng lại trong bạn là gì? Mời bạn đến với box Lịch sử – Văn hoá gặp gỡ chúng tôi. Gặp nhau để hy vọng tất cả cung hoàn thiện hơn: bạn, chúng tôi, và cả Hợp tuyển, nếu như có một Hợp tuyển lần sau… Tạm biệt ! Tớ bỏ luôn cả Mục lục để giảm nhẹ khối lượng file và đỡ phải format lại. Các bạn thông cảm nhé ! Toàn những người chả có kinh nghiệm gì biên tập Htuyển nên nếu có gì thiếu sót mong các bạn lượng thứ. Còn nếu có nhận xét gì thì BBT sẵn sàng hoan nghênh. Các bạn cứ post bài lên VNEQUATION nhé ! Còn đây là bìa Hợp tuyển !


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét