Đàm Ca
Mục Lục
Thông tin ebook
Tên truyện : Tuyệt kỳ-Tuyệt phẩm
Tác giả : Đàm Ca
Nguồn : http://vnthuquan.net
Convert : Bùi Xuân Huy (santseiya_TVE)
Ngày hoàn thành : 14/02/2007
Tuyệt kỳ
Dịch giả: Phó Thiên Tùng
Năm thứ ba đời Quang Tự, Tra Minh làm tri huyện tại Mãn thành Bảo Định . Tra Minh người Định Châu vốn xuất thân từ bổ đầu (tương đương với đội trưởng hình sự bây giờ) . Thời làm bổ đầu , ông nổi tiếng là phá án nhanh gọn . Sử dụng một cặp đao tổ truyền múa trước gió mưa khó lọt , nội trăm bước lấy hồn , đòi mạng ngon lành , mười mấy con người cũng khó mà lại gần nổi ông . Những năm ấy , đường phố Mãn thành lòng dân hoảng loạn , đạp tặc rất nhiều , một nhóm thổ phỉ trên núi phía tây thành lại thường vào nội thành quấy nhiễu . Tra Minh đã cầm đầu khoái bổ của nha huyện ác chiến với bọn phỉ núi . Tra Minh tính khí dũng mãnh , xông trước sĩ tốt , xả thân quên chết chốn sinh tử . Phỉ núi cực sợ hãi gọi ông là ” Tra vong mạng ” . Rồi từ đó không còn xuống quấy phá Mãn thành , đường phố dần trở lại yên tĩnh hơn nhiều . Về sau , viên đạo soái phủ Bảo Định là Phú Quế xuống thị sát Mãn thành , hết sức tán thưởng, liền bảo lãnh tiến cử Tra Minh làm huyện lệnh Mãn thành .
Tra Minh tuy đã làm quan huyện lênh, nhưng vẫn đem người tuần tiễn , cảnh giới trên phố . Lâu dần , người ta gọi ông là là ” Huyện lệnh khoái bổ ” . Phủ đại soái cũng nhiều lần hạ biểu chương ban thưởng . Năm đó , đại soái còn làm một tấm biển bài ” Thần đao ” , cử người đưa xuống Mãn thành , dân phố đón rước tưng bừng , trống chiêng náo nhiệt cả phố phường .
Tra Minh là người không rành ngôn từ , không thích giao tiếp , ngày thường rỗi rãi hay lên quán rượu Vọng Sơn Lâu ở phía đông Mã! n thành , kêu một đĩa lạc chao húng lìu , nhậu một cút rượu trắng lâu năm . Khi đã ngà ngà , sức cờ của Tra Minh cực mạnh , trong thành không ai địch nổi . Lâu dần, Tra Minh thành ra buồn chán , thường một mình chốn tửu lầu bày thế cờ ngồi ngây ra nhìn rồi tự phá tự giải một cách rầu rầu .
Hôm đó , Tra Minh bắt được mấy tên cướp giật trên phố , trói rồi giải lên nha huyện , sau khi nhốt vào nhà giam , Tra Minh cảm thấy rỗng bụng tiện chân ghé lại Vọng Sơn Tửu lầu , lên lầu kêu cút rượu cũ , đĩa lạc lủ ,anh hầu bàn sốt sáng bầy bàn cờ ra . Tra Minh cười cười , rồi tự mình xê dịch các quân cờ , bỗng nghe tiếng người cười ha hả :
– Khách có hứng quá nhỉ , có thể vui với thú cờ bạc , sao không kiếm người đối đả vài ván cho đã ?
Tra Minh ngửng nhìn , thấy một người đàn ông cường tráng đứng ngay bên cạnh . Bộ mặt người đàn ông đỏ tía , tuy trên người chỉ là bộ áo vải thô , nhưng lại có thể thấy toát ra một khí phái của nhân vật không tầm thường , mặt mày sáng sủa lấp lánh một vẻ cơ trí từng trải . Chân đi đôi giày đay dính bùn đất , có vẻ như mới vượt một quãng đường dài . Tra Minh hơi mỉm cười , đứng dậy bái kiến :
– Tra mỗ này này sức cờ tầm bậy , nghe khẩu ngữ tiên sinh , hẳn là bậc cao cờ lắm , rất mong được chỉ bảo đôi chút.
Người đàn ông có bộ mặt tía không đáp lời , nhìn kĩ vào ván cờ do Tra Minh bầy, khẽ nhíu lông mày , rồi cười nói
– Tra đại nhân quả nhiên kỳ đạo cao thâm .
Tra Minh cười :
– Tiên sinh quá khen rồi . Xin được nghe lời dậy bảo .
Người đàn ông có b�! � mặt t! ía ấy cười nói :
– Kẻ tâm tính nông nổi , không thắng là bực , không thua thì mừng , không có gì để thắng là cáu , không có gì để bại là sướng , không có gì để được thì bỏ . Kẻ đạo cờ cao thâm , không gì lớn hơn việc phải ngay cái khí , muốn ngay được khí , không gì phải bằng vững cái chí , không mừng vui , cờ thua sẽ không còn bức bối , không có cái mừng , chẳng còn cái bực , không giành giật , thắng bại là vậy , tiến thoái cũng thế gọi là đại nhân trông như là không có sơ hở , hai bên đỏ đen đều có bài bản , tiến thoái đều có cơ sở chặt chẽ , chỉ là trên vùng Sở , Hà , Hán giới mây đen giăng đầy quá , sát khí dồn căng quá , cái hơi cấp tháo sóc nổi quá nặng , cái gọi là trăm kín một kẽ , là hai bên đều sẽ có những điểm sơ hở rồi .
Tra Minh nghe đến ngây ra , vái sâu một lễ :
– Tra Minh hôm nay được gặp đối thủ rồi .
Người đàn ông mặt tía cười nói :
– Kẻ lang thang giang hồ , như chim hạc bóng mây , xin được cho khỏi nói .
Tra Minh không tiện hỏi thêm bèn nói :
– Tra mỗ này muốn trao đổi với tiên sinh một ván cờ được không ?
ông mặt tía ấy cười :
– Tại hạ này cũng đang có ý đó .
Rồi ngồi xuống .
Thế là hai người đã ngồi đối mặt đánh cờ trên tửu lầu . Ván cờ đánh suốt đến lúc trăng lên giữa trời , cả hai không ai bị mất lấy một quân , thủ hòa .
Tra Minh cười rằng :
– Sức cờ tiên sinh quả thật hơn người .
Ông mặt tía cũng cười nói :
– Không giấu gì đại nhân , tại hạ đây học cờ từ nhỏ , chưa từng gặp phải đối thủ , hôm nay được h! ạnh ng�! �� đại nhân, thật đã không uổng cuộc đời này rồi .
Khi Tra Minh tiễn chân ông mặt tía xuống lầu , bên ngoài ánh trăng như nước , tràn lênh láng trên phố xóm , gió đêm man mác thổi , đã là thời khắc thiên hạ ngon giấc rồi .
ông già mặt tía dừng cười chân nói :
– Đại nhân khỏi tiễn nữa , tại hạ xin cáo từ .
Tra Minh vẫn bịn rịn ;
– Không biết bao giờ mới được gặp tiên sinh ?
Ông mặt tía cười nói :
– Tại hạ hành tung bất định , như mấy trồi chim trời , ngày nào đó nếu được dừng chân Mãn thành , nhất thiết sẽ phải tìm đến đại nhân , làm thêm vài ván , xin hãy dừng chân .
Nói rồi khoang tay bái biệt , sải bước đi khỏi .
Nhìn theo bước chân ông ta nhẹ tênh , nhoáng đã không còn tung tích , Tra Minh khẽ rùng mình , dường như là đã ngộ ra được điều gì , ngẩng lên nhìn trời , một vầng trăng tròn tỏa ánh bằng bạc .
Ngày tháng trôi qua như bay , đất Mãn thành dần dà trở lại yên bình , bá tính cười vui kháo nhau :
– Tra đại nhân uy phong lẫm liệt , bọn phỉ núi hẳn đã sợ đến vỡ mật , không còn dám xuống kiếm chuyện nữa rồi .
Tra Minh rảnh việc , vẫn ngày ngày tới Vọng Sơn tửu lầu , uống rượu cả ngày , việc công vụ ở nha môn giao tuốt cho Hồ sư gia điều khiển .
Hôm ấy , Tra Minh vẫn đến tửu lầu , vừa bầy xong quân cờ , chợt nghe dưới lầu có tiếng người cười nói :
– Tra đại nhân đã tới chưa ?
Tra Minh sững lại , rồi vội vã chạy xuống lầu , đúng là ông mặt tía ấy rồi . Tra Minh mừng rõ :
– Tiên sinh quả nhiên đã đến , mau mau lên gác trò chuyện . Tr mỗ ngày ngày nhớ ! mong tiê! n sinh lắm .
Nói rồi mắt sáng lên nhìn miết vào ông ta .
ông mặt tía cười ha hả :
– Tra đại nhân quả là con người trọng tình nghĩa đây .
Nói rồi cầm tay Tra Minh cùng nhau bước lên trên lầu . Hai người vừa uống rượu vừa cao hứng trò chuyện , ông mặt tía cười nói :
– Hôm nay được nhàn rỗi , đến nay xin được chơi một ván với Tra đại nhân đây .
Tra Minh mỉm cười :
– Tốt quá . Tra mỗ mong tiên sinh đến mòn cả mắt rồi đây .
rồi lại bầy bàn cờ .
Hai người đối tọa , vừa uống vừa đánh , cuối ván cờ trời lại đã tối, cảnh đêm đen như nước , lặng lẽ tràn lên bàn cờ, trên bàn đã là tàn cục . Nhà hàng cho thắp đen mang lên . Ông mặt tía thần sắc bất động , nhìn vào thế cờ tàn ngẫm nghĩ miệt mài .
Dưới lầu vọng lên tiếng tuần canh , ngoài cửa sổ tối tăm mịt mùng , chỉ có mấy ngôi sao mờ mờ nhìn đến vụt mắt .
Tra Minh cười nói :
– Việc đánh cờ có ba điều kỵ : lúc khai cuộc khi cờ chưa định , kỵ ở sự tham ; vào đến giữa cuộc , sát khí đang vượng , kỵ ở chữ đấu ; đến lúc cờ tàn , cái thế lớn đã đi rồi , kỵ ở ham được . Nay tiên sinh với ta đã cùng đường , miễn cưỡng cầm cự còn mong giữ được mình , há tất phải mưu đồ gì chứ .
Ông mặt tía sững lại một lát , ha hả cười vang , vung tay đẩy đám quân cờ đổ ra đầy bàn , khoanh tay mà rằng :
– Tra đại nhân quả là bậc thấu hiểu lẽ cờ .
Tra Minh nhìn thẳng vào mặt ông mặt tía rằng :
– Thứ lỗi cho Tra mỗ thẳng lời , vãn cờ vừa nãy thấy tiên sinh sức cờ thiếu căng , trong lúc ứng đối lộ vẻ trì ! trệ . T! ôi e rằng trong người tiên sinh có tật bệnh , mong hãy chữa trị sớm .
Ông mặt tía ngây người ra nghe , rồi buông một tiếng thở dài :
– Không dấu Tra đại nhân , tại hạ quả đã mang tâm bệnh lâu rồi .
Tra Minh cười nói :
– Tâm bệnh đã có tâm dược để chữa chưa ?
Ông mặt tía cúi gầm đầu không nói .
Bỗng Tra Minh đứng bật dậy , hét lớn một tiếng :
– Phương Bá Niên .
ông mặt tía sững sờ , rồi cười ngay :
– Tra Minh , cớ sao ông lại nhận ra được ta ?
Tra Minh lại cười :
– Tôi ngày đêm quần thảo với lũ phỉ cướp , cớ sao không biết rằng giữa lục lâm giang hồ đang nổi lên một nhân vật tên là Phương Bá Niên , cầm kỳ thi họa đều ở tầm kinh người . Tôi chỉ không ghiểu được , cớ sao ông lại chịu ố thân ổ phỉ . Ngẫm ra hẳn phải là có ẩn tình gì chứ .
Mặt Phương Bá Niên tối sầm lại , một tiếng than dài :
– Thôi ,đừng nhắc nữa .
Và mắt ông nhòa ướt .
Tra Minh ngớ người , ngây ra nhìn Phương Bá Niên . Chú hầu bàn bưng trà lên . Tra Minh xua tay chú hầu bàn vội lui xuống .
Hai người nhìn nhau trừng trừng hồi lâu . Đột nhiên Phương Bá Niên ha hả cười vang :
– Ôi Tra đại nhân , nếu hai ta ngày ngày ngồi chốn tửu lầu này uống rượu , đấu cờ với nhau , đó sẽ là cuộc sống khoan khoái đến ngần nào của đời người nhỉ .
Tra Minh cũng cười :
– Bình sinh ta cũng chỉ khoái mỗi cái đạo cờ này , được gặp Phương huynh như cá được nước . Nếu Phương huynh rũ tay chốn lục lâm giang hồ , Tra mỗ cũng xin cởi bỏ bộ quan phục này để làm một bá tính dân thường . Th�! � là hai! ta có thể cũng nhau thỏa chí cuộc đời này . ý Phương huynh sao đây?
Mắt Phương Bá Niên sáng lên cao giọng nói :
– Nếu quả được như vậy , ngày một tháng sau tôi sẽ đến đây đợi tin đại nhân .
Tra Minh cười ha hả :
– Tra mỗ , quyết không nuốt lời . Một tháng sau đã vào trung thu , ông và tôi sẽ tái ngộ bên bàn cờ trên tửu lầu này.
Hai người đạp tay vào nhau ba lần . Phương Bá Niên cười vang :
– Tra huynh, đêm trung thu này , Phương mỗ sẽ đến nơi đây đấu với Tra huynh một ván .
rồi khoanh tay bái biệt xuống khỏi tửu lầu .
Tra Minh bước theo tiễn chân , nhìn bóng Phương Bá Niên mất hút vào đêm tối . Ông không khỏi nhíu mày , tâm sự trùng trùng .
Hai ngày qua đi , Tra Minh làm đơn từ chức đệ trình lên phủ Bảo Định . Tổng đốc Phủ đại soái kinh ngạc liền hỏi thuộc hạ , Tra Minh cớ sao từ chức ?
Có người cười thưa : nghe sư gia huyện Mãn thành là Hồ Tiến nói , ngày ngày Tra đại nhân không mang chính vụ , chỉ mải đánh cờ trên quán rượu , lại còn thông giao với người mặt tía nữa .
Phủ đại soái cười rằng :
– Tra Minh lơ là sự vụ quan huyện , cũng là chuyện thường tình . Hắn là một đấng vũ dũng. Chế ngự nổi nạn phỉ cướp ở Mãn thành , đã là việc rất không dễ dàng . Còn chuyện tẩu hỏa nhập cờ cũng chẳng phương hại gì cả .
Thuộc hạ cười thưa :
– Đại soái chưa biết , có tin mật báo , tên mặt tía kia vốn là đầu lĩnh của bọn thổ phỉ Phương Bá Niên .
Phủ soái kinh ngạc , nổi giận đùng đùng ;
– Hoá ra là vậy , việc Tra Minh từ chức là có can hệ đến bọn phỉ núi rồi . H�! �y hạ l! ệnh cho khoái mã cho truyền Tra Minh lên Bảo Định hỏi chuyện .
Ngay ngày hôm ấy , Tra Minh đã lên Bảo Định . Vào đến phủ thấy Phú đại soái mặt tối sầm ngồi giữa trung đường. Tra Minh rùng mình , vừa định thưa lời , Phú đại soái vỗ mạnh xuống bàn , vụt đứng sững lên .
Đại soái phẫn nộ nói :
– Tra Minh bản phủ này vốn công tâm với ngươi , xét ngươi nhiều năm dẹp phỉ có công , mới bỏ qua nguồn gốc , cất nhắc ngươi lên đứng đầu một huyện , để ngươi ra sức báo đáp triều đình . Nay ngươi sao cả gan tư thông với tên trùm phỉ Phương Bá Niên , trong huyện đã có người kiện cáo ngươi , ngươi có còn gì để nói ?
Tra Minh ngớ ra , cười đắng ngắt :
– Việc đi lại giữa tôi và Phương Bá Niên là thuần tuý thuộc tính khí . Từ khi lai vãng với tại hạ Phương Bá Niên chưa từng đến Mãn thành nhiễu nhương sinh chuyện . Tại hạ cũng chưa từng có chuyện gì ô hợp với ông ta , đâu có ngại gì đến việc công .
Phủ đại soái tức giận răng :
– Chớ có xảo ngôn quỷ biện . Bản phủ biết ngươi nhiều năm tiễu phỉ có công , nay cho ngươi thêm một dịp để lập công chuộc tội . Đêm trung thu này , ngươi phải trói bằng được tên trùm phỉ Phương Bá Niên , bản phủ sẽ miễn cho việc truy cứu tội lớn tư thông phỉ tặc của ngươi .
Tra Minh đờ ra .
Phủ đại soái tiếp :
– Từ giờ , già trẻ toàn gia nhà ngươi sẽ ở lại Bảo Định , lần này nếu ngươi vẫn mềm lòng non tay với tên Phương tặc ấy , bản quan sẽ khép tội thông phỉ , nghiêm trị cả nhà ngươi . Đi đứng ra sao , ngươi nghĩ cho kỹ.
Tra Minh khổ sở thưa :
– Mo! ng đại! soái minh xét , ông Phương Bá Niên ấy là người học rộng biết nhiều , không phải thứ người can tâm làm phỉ tặc đâu .
Sư gia cười khuyên :
– Tra đại nhân , ông nên giữ ghế huyện lệnh này tốt hơn .
Tra Minh cười cay đắng :
– Cả đời này , Tra mỗ chỉ mong tìm gặp được đối thủ, để cầu vươn tới được cảnh giới trong đạo cờ mà thôi .
Phủ đại soái cười ác :
– Ngươi đừng cường biện nữa , chơi cờ với đạo tặc tức là đã tư thông với nó rồi . Khi nào bắt được tên trùm phỉ họ Phương , bản soái tự có cách xử trí . Ngày mai ngươi đưa vợ con lên Bảo Định , cũng gọi là để làm con tin . nếu ngươi cứ mềm lòng non tay với tên đạo tặc họ Phương , thì không trách được bản soái đâu . Đi đi .
Tra Minh còn muốn tranh biện thêm , Phú Quế đã thoái đường . Tra Minh thở dài một tiếng , rồi ra khỏi nha môn .
Cái ngày trung thu ấy , Tra Minh đi đến Vọng Sơn tửu lầu với đầy bầu tâm sự . Chưa ra khỏi cổng huyện đã có tiếng Hồ sư gia gọi Tra Minh dừng lại .
Hồ sư gia đưa ra một cút rượu , cười nói :
– Phủ đại soái lo tên Phương Bá Niên thủ đoạn hung dữ , đã cho chuẩn bị sẵn cút rươu jđộc này dặn đại nhân mang theo, lúc gặp tên Phương Bá Niên ấy , đại nhân dỗ hắn uống vào , là xong béng , khỏi rắc rối lắm chuyện .
Tra Minh cười đắng ngắt :
– Đại soái quả là chu đáo . Rồi nhậ lấy cuút rượu ,sải chân bước đi .
Tới chân Vọng Sơn lầu , bướcchân TraMinh thấy như có chì . ông thở dài một hơi , chân vừa bước lên cầu thang đã nghe trên lầu tiếng người cười mà rằng :
– Tr! a đại ! nhân , Phương mỗ chờ đây đã lâu rồi .
Tra Minh nghe tiếng , như mở cờ trong bụng , chân như mọc cánh phi nhanh lên lầu . Quả nhiên thấy Phương Bá niên đã an tọa ngay ngắn . Một bàn cờ đang bầy sẵn trên bàn .
SAu khi khoanh tay chào nhau , Phương Bá Niên cười nói :
– Xun mời Tra huynh . Bữa nay Phương mỗ xin hầu cờ Tra huynh để phân định trên dưới .
thế là hai người ngồi vào bàn cờ , Tra Minh vừa giơ quân cờ lên , bỗng ngoài lầu cuồng phong nổi lên ầm ầm , rung cả sàn nhà . Tra Minh chợt run tay , quân cờ bị rơi xuống .
Phương Bá Niên cười rằng :
– Quả là trời có gió mưa không lường . Phương mỗ nhìn cảnh này sợ có đièm lành . Nói rồi nhìn xoáy vào Tra Minh .
Tra Minh cũng cười nói:
– Người anh em chớ để phân tâm. Nói xong tiếp tục hạ quân trên bàn cờ .
Ngoài cửa sổ tiếng mưa gió cứ gầm rú , Phương Bá Niên nhìn Tra Minh , thấy ông ta đang thản nhiên dốc toàn tâm vào bàn cờ . Thời gian cứ trôi đi , hai người lại đánh đến nước hòa cờ .
Tra Minh cười ha hả , lấy cút rượu từ trong người ra , cầm nó trên tay rồi nói :
– Phương huynh , nghĩ đời Tra mỗ này thật cô quạnh , đơn côi từ khi gặp Phương huynh , tự cảm thấy như được tắm mình giữa gió xuân . Hôm nay đây …
Nước mắt Phương Bá Niên đã tràn ra :
– Tra huynh , xin đừng giấu tôi nữa , tôi biết cả rồi , ôi , chính Phương mỗ này đã làm liên lụy đến huynh đây .
Cầu thang có tiếng rầm rầm hỗn lạon . Mấy tên cong sai lao lên , Phương Bá Niên đứng dậy nói :
– Xin các vị tạm lui xuống .
Đám người ấykhông chịu lui . Phương Bá Niên g�! ��m lên ! một tiếng , tiện tay túm lấy một vóc quân cờ vung tay ném ra , những quân cờ giống như cơn mưa tên , trên trán mấy tên công sai đã bị thủng một lỗ , tyế là mau phụt ra , vài tên chết ngay tại chỗ , số còn lại gào hét , chạy lăn lộ xuống lầu .
Tra Minh reo tiếng khen :
– Bá Niên huynh quả nhiên thân thủ bất phàm .
Phương Bá Niên cay đắng cười :
– Cảm ơn Tra huynh đã ban lời khen .
Tra Minh thở dài :
– Chuyện đến nước này , cớ sao Phương huynh còn khai sát giới .
Phương Bá Niên cười :
– Tra huynh đừng có dấu tại hạ nữa , huynh đã bị Phú đại soái cách chức hỏi tội , hôm nay để anh đến lấy mạng tôi. Sao huynh không mau ra tay mau mau đi , còn chờ đợi gì nữa ? Chẳng lẽ huynh nỡ bỏ mặc tính mạng già trẻ toàn gia đó sao ? Đồ độc dược trong tay huynh hãy để cho đệ uống .
Tra Minh đờ đẫn nhìn sang Phương Bá Niên , nói trong nước mắt :
– Bá Niên huynh , ta quen nhau bao lâu rồi , cái tâm Tra Minh như thế nào , huynh còn chưa rõ sao ? Làm sao tôi có thể đem tính mạng của bạn để nộp quan phủ lĩnh thưởng cơ chứ ? Vốn tôi định xin từ quan về vườn , để được ngày ngày trau dồi kỳ nghệ của mình với huynh , sống thỏa ý mình với quãng đời còn lại , không ngờ bề trên lại không bỏ qua cho huynh và tôi . Nay việc đã đến thế , Tra mỗ này cũng không thể lo được gì nhiều hơn . Cái chuyện hôm nay , tôi chỉ cần được trao đổi một ván cờ nữa với Bá Niên huynh , trong lòng cũng chẳng còn điều gì phải ân hận nữa rồi .
Nói đoạn ngẩng mặt cười lớn , ừng ực dốc cạn cút rượu .
Phương Bá Niên chìa tay ra cản nhưng không! kịp n�! ��a rồi . Nhìn trừng trừng Tra Minh uống rượu , lòng đầy đau xót , nước mắt chảy ròng , nói run run :
– Tra huynh , hà tất anh phải làm vậy ?
Tra minh ném cút rượu rỗng , nó lăn lông lốc xuống cầu thang . Sắc mặt Tra Minh chợt nhạt , ông cười bi thảm :
– Bá Niên huynh ơi , Tra mỗ này được kết bạn với huynh , cuộc đời này đã không sống uổng rồi .
Nói xong , lông mày nhíu lại , dường như đau đớn cực độ , người đổ gục xuống ,ngã trượt dưới chân bàn . Từ mép, máu tươi ứa ra .
Phương Bá Niên lao bổ vào , giơ tay rờ , thấy hơi thở đã tắt . Phương Bá Niên gầm lớn lên một tiếng :
– Hỡi Tra huynh ơi .
Trên cầu thang lại rậm rịch tiếng chân bước , mấy người đàn ông lực lưỡng mặt che vải đen mang đến ,tên cầm đầu cười ác độc :
– Phương Ba Niên , ngươi dám cấu kết quan phủ , phản bội anh em sơn trại , ngày này sang năm sẽ là ngày giỗ đầu ngươi .
Nói rồi cả bọn xô ập lên .
Phương Bá Niên uất hận nói :
– Chắc là chính bọn bay đã thông báo tin tức với quan phủ , làm hại tính mạng Tra đại nhân rồi .
Tên cầm đầu cười gằn :
– Tất nhiên là ta rồi.Chủ trại có lệnh , phàm những kẻ cấu kết với quan phủ , giết ngay khỏi bàn .
Thế là mặt Phương Bá niên lạnh tanh , khẽ cười gằn :
– Các vị hãy nên quay về thưa với đại vương , nói rằng Phương Bá Niên đã rửa tay lên bờ , từ nay sẽ ẩn tích giang hồ .
Người ấy cũng cười gằn :
– Sợ là không theo ý ngươi được nữa rồi .
Hắn vẫy tay , mấy tên lực lưỡng lao đến , ánh đao lấp loáng .
Phương Bá Niên kh! ẽ thở! dài :
– Ôi hỡi Tra huynh , thế gian mênh mông nhường này mà khong có lấy một mảnh đất sạch cho anh với tôi .
Nước mắt lại trào ra .
Mấy tên sơn tặc hét lên một tiếng , lưỡi đao cùng bổ xuống . Chỉ thấy Phương Bá Niên vọt lên không trung , những lưỡi đao bổ xuống mặt bàn , chiếc bàn bị nát vụn ra . Phương Bá Niên thét lên một tiếng :
– Đừng trách Phương Bá Niên này phải cạn tình tuyệt nghĩa đây .
Một nắm quân cờ ném ra như cơn mưa tên xối xả găm vào thân thể những tên sơn tặc . Bọn chúng nối nhau phát ra những tiếng kêu thảm thiết , đổ ngục cả xuống sàn lầu , chết ngay tại chỗ .
Phương Bá Niên liền cõng Tra Minh lên sải bước xuống lầu đi mất .
Bên ngoài gió dừng mưa tạnh , cơm mưa gió cuồng phong ban nẫy , giống như con ác thú bị trúng thương , đã gầm gừ cao chạy xa bay . Chỉ còn lại trăng sáng , sao thưa . Mấy con chim đêm quằng quặc kêu lên trên không trung , tiếng kêu đầy hoảng hốt .
Tuyệt phẩm
Xung quanh số phận bí ẩn của một bức tranh, truyện ngợi ca vẻ đẹp của những chân giá trị, vốn không phải lúc nào cũng dễ nhận ra và để gìn giữ được, người ta cần rất nhiều lòng tin cũng như bản lĩnh.
Dân Quốc năm thứ nhất (1911), phía nam thành Bảo Định có một cửa hiệu chuyên bồi tranh, chủ hiệu họ Thường, ngoài ba mươi tuổi, người rất nho nhã, người ta gọi ông là Thường tiên sinh.
Thường tiên sinh không thuê người giúp việc, tự mình trang trí tranh, tay nghề cực giỏi, những bức chữ, bức tranh dù nhàu nhĩ đến đâu, hễ qua tay ông đều có thần sắc như mới. Thường tiên sinh là người nơi khác, mấy năm trước đây mới tới Bảo Định mở cửa hiệu này, Tiên sinh không có vợ con, thường một mình tới Vọng Hồ Lâu ở Bảo Định nhâm nhi chén rượu, lâu dần thành người quen biết của ông Ba Lưu.
Ông Ba Lưu là nhà giàu ở Bảo Định, ba đời buôn tơ lụa, lúc nhàn rỗi cũng sưu tầm, buôn bán cổ vật. Ông là khách thường xuyên của Vọng Hồ Lâu vì tửu lầu trà quán này là nơi các nhà buôn giàu có đến giao dịch. Ông không uống rượu, lên lầu chỉ gọi một ấm trà. Khi không gặp được khách, ông Ba cùng tán gẫu với Thường tiên sinh. Thường tiên sinh học rộng lại hay chuyện, hai người dần dần hợp ý nhau, thành quen thân. Ông Ba Lưu cũng thường đến cửa hiệu của Thường tiên sinh mua một ít tranh, chữ về chơi. Ông Ba rất hào phóng, phàm tranh, chữ nào do ông Thường giới thiệu, ông Ba đều mua, không bao giờ mặc cả. Vợ ông là bà Mã thị không yên lòng, giấu chồng sai người nhà mang tranh, chữ lên kinh thành nhờ nhà chuyên môn giám định, hóa ra đều là tranh, chữ thật mà giá cũng phải chăng. Mấy lần đều như thế, bà Mã thôi không nghi ngờ. Về sau ông Ba biết chuyện, cười: “Đúng là kiến thức đàn bà!”.
Một hôm, ông Ba cùng Thường tiên sinh trò chuyện trên Vọng Hồ Lâu, ông Ba hỏi: “Xin mạo muội hỏi câu này, tiên sinh có con mắt tinh tường nhận được hàng giả, hàng xấu, sao không mở hiệu buôn tranh?”.
Thường tiên sinh nhấp một hớp rượu, cười: “Làm việc gì cũng phải tùy tính nết. Tính của ngài thích hợp quy tụ tiền bạc, còn tính tôi là tính phát tán tiền bạc, tranh, chữ quý đến tay tôi, e rằng chẳng mấy chốc không giữ được vì thèm rượu, mang đổi lấy rượu uống mất thôi”.
Nói đoạn, Thường tiên sinh ngó xung quanh, ghé sát tai ông Ba thì thầm: “Tôi hiện có một bức tranh cổ nhưng người bán đòi giá khá cao. Dù vậy tôi vẫn khuyên ngài nên mua lấy, không biết ngài có định mua không?”. Ông Ba cười: “Tiên sinh đã xem tranh giúp tôi thì tôi mua thôi. Nhưng không biết bên bán kêu giá bao nhiêu?”. “Ba ngàn bạc tây” – Thường tiên sinh đáp. “Ba ngàn?” – Ông Ba hít một hơi dài, cảm thấy khó nói. Ông Thường cười: “Tôi đã xem kỹ rồi, bức tranh ấy thực là của báu vô giá, là tranh quý đời nhà Đường. Quả thật người bán cần tiền gấp mới nén đau mà bán đi. Ông Ba chớ để mất cơ hội này”. Ông Ba gật đầu: “Nếu Tiên sinh đã nhận xét như thế thì ngày mai tôi góp nhặt đủ tiền là mua”. Thường tiên sinh lại nói: “Nếu ông Ba mua bức tranh này thì chớ có cho người khác xem. Nếu có người chịu trả giá cao, trả bao nhiêu cũng chớ có bán”.
Trở về nhà, ông Ba nói chuyện với vợ, bảo bà lo cho đủ tiền, bà Mã nghe nói ngẩn người: “Thứ gì mà quý báu thế? Giá sao đắt thế?”. Ông Ba đáp: “Thường tiên sinh đã ưng ý thì không khi nào lầm. Bà đừng có nhiều lời nữa!”.
Ngày hôm sau, Thường tiên sinh đem một cuộn vải đến nhà ông Ba Lưu. Ông Ba bảo người nhà lui hết ra, lại đóng cả cửa ra vào và cửa sổ. Bấy giờ Thường tiên sinh mới mở cuộn vải ra, trong đó lại là cuộn vải khác, cứ như thế đến bốn năm lượt, cuối cùng lấy ra một bức tranh, giấy vẽ tranh đã vàng thẫm nhưng nhờ trang trí lại mà như mới. Ông Ba cúi đầu xem tranh nhưng không nhìn ra gì hết, bèn ngẩng lên cười gượng: “Lưu tôi mắt dở quá, mong Thường tiên sinh chỉ bảo giùm”. Thường tiên sinh mỉm cười, cẩn thận cuộn tranh bọc kỹ mấy lần, nâng bằng hai tay giao cho ông ba rồi trịnh trọng nói: “Ông Ba ạ, hãy giữ gìn cuộn tranh này, tôi không có gì nói thêm nữa. Tranh này đáng giá liên thành, xin hãy hết lòng cất giữ”. Ông Ba cũng trang trọng đỡ lấy tranh: “Lưu tôi nhớ kỹ rồi”.
Nói xong ông gọi vợ vào, trao tờ ngân phiếu mệnh giá ba ngàn bạc tây giao cho ông Thường. Thường tiên sinh cáo từ ra về.
Ngày hôm sau, ông Ba vừa trở dậy thì người nhà vào báo tin: cửa hiệu của Thường tiên sinh bị quan phủ lục soát, đã niêm phong, còn ông Thường cũng không thấy có ở hiệu. Ông Ba sợ tái mặt, một lúc lâu không nói lên lời.
Từ đó, ông Thường mất tích, phố Bảo Định loan tin ông Thường vốn là tên cướp đầu sỏ trên sông biển, dính líu vào một vụ trọng án nên đổi họ thay tên tới Bảo Định ẩn náu. Ông Ba nghe xong cũng không lấy làm quan trọng.
Lại qua đi một thời gian, Mã thị vẫn không sao yên tâm được về cuốn tranh, sai người nhà lên Kinh mời về một nhà chuyên môn về đồ cổ để giám định bức tranh ấy. Sau khi xem xét một hồi lâu cũng chẳng nói gì, chỉ thở dài rồi mới nói: “Bức tranh này không phải đồ giả, chỉ tiếc là đồ bóc, chẳng đáng giá bao nhiêu tiền”.
Ông Ba ngẩn người ra, vội hỏi thế nào là đồ bóc. Nhà chuyên môn nói: “Đồ bóc là một tờ tranh bóc làm hai tờ. Đây không phải là hàng mà người làm đồ giả chung chung nào cũng làm được. Bức này càng ghê gớm ở chỗ bóc một tờ tranh làm hai tờ mà không để lộ dấu vết nào. Tờ này là tờ dưới, không đáng tiền. Nhưng tranh này bóc rất phẳng phiu, không có vết, lại đều đặn, cũng gọi được là tác phẩm hiếm thấy do một cao thủ bồi tranh làm nên”.
Ông Ba càng nghe càng lịm người đi, một lúc lâu mới gật đầu chịu là phải, rồi tiễn chuyên gia đồ cổ ra về. Mã thị xót của lắm bèn mắng: “Họ Thường kia lòng dạ đen tối, làm vợ chồng ta mất toi ba ngàn bạc tây”. Ông Ba sa sầm mặt, bảo vợ: “Không được ăn nói bừa bãi, tôi và ông ấy có phải mới quen biết mấy ngày đâu? Ông ấy là người hào phóng, thẳng thắn, sao có thể lừa vợ chồng mình được? Ngàn lần suy nghĩ cũng có một lần lầm lỡ, hoặc là Thường tiên sinh nhìn lầm. Mà dù Thường tiên sinh có biết nội tình đi nữa thì hẳn cũng có điều khó nói gì đó đấy thôi. Bà đừng trách ông ấy”. Mã thị thôi không dám phàn nàn gì nữa.
Một năm nữa lại qua đi. Người giúp việc ở cửa hàng ông Ba lên Kinh mua hàng, trở về hốt hoảng báo tin cho ông Ba biết chính mắt anh ta trông thấy Thường tiên sinh bị chém đầu với tội danh là đảng cách mệnh. Trước khi bị hành hình, ông Thường vẫn cười ha hả, sắc mặt như lúc bình thường. Nghe tin, ông Ba run rẩy cả người, ngồi ngây ra trên ghế. Nước mắt túa ra, chảy ướt cả vạt áo của ông. Vợ ông nghe tin thì cười nhạt: “Thật là báo ứng nhé! Lần ấy hắn làm nhà mình mất toi cả ba ngàn đồng bạc tây!”. Ông Ba gầm lên một tiếng như hổ dữ làm bà vợ run rẩy cả người, không dám nói thêm, len lén lùi ra ngoài.
Khuya hôm ấy, ông Ba tự giam mình trong phòng, soạn tất cả số tranh, chữ được hơn hai mươi bức mà ông Thường mua hộ đem treo cả lên tường trong phòng rồi đứng ngẩn ra nhìn. Ông nhìn lâu lắm, mắt ứa lệ rồi thở dài. Mãi cho đến lúc trời sáng rõ mới lấy xuống từng bức một, cẩn thận cất đi.
Lại qua đi mấy năm, chiến tranh bùng nổ, lan rộng, việc buôn bán của ông Ba không tiếp tục được nữa. Sau đó bọn quân phiệt gây chiến ở Bảo Định, chỉ một mồi lửa lớn, cửa hiệu của ông Ba biến thành tro. Họa không chỉ có thế, năm sau ông Ba lại bị bọn thổ phỉ bắt cóc, phải chuộc hết bao nhiêu của cải. Thế là cả một cơ nghiệp lớn lụn bại, ông Ba cũng ốm liệt giường từ đó.
Mùa đông năm ấy, có một nhà buôn họ Vương đến Bảo Định tìm mua tranh, chữ cổ và đồ cổ. Bà Mã giấu chồng đem những thứ ông cất giữ bấy lâu nay đem bán. Người làm lén báo cho ông biết, ông Ba giận quá, bảo người làm gọi ngay bà Mã vào cho ông hỏi.
Ông Ba giận đến xám ngoét mặt, quát: “Sao bà lại dám đem bán những thứ ông Thường mua giùm tôi?”. Bà Mã ứa nước mắt nói: “Nhà cửa đã tan nát đến mức này rồi, tôi không đem bán lấy tiền thì lấy gì sống qua ngày đây?”. Ông Ba nhìn vợ rất lâu rồi thở dài, uể oải xua tay: “Bà cũng khổ lắm rồi, thôi tôi không nói nữa”. Ông bảo bà đưa số tiền bán tranh, chữ cho ông rồi run run xuống giường, chống gậy ra đi. Mặc tuyết bay phơ phất, ông đi tìm nhà buôn họ Vương ở nhà trọ.
Nghe xong mục đích ông Ba đến tìm, nhà buôn họ Vương chau mày nói: “Đã mua bán xong xuôi rồi sao ông còn hối?”. Ông Ba lắc đầu than thở: “Thật là xấu hổ quá. Nhưng tiên sinh không biết đó thôi, số tranh, chữ ấy đều do một người bạn mua hộ tôi, đã dặn là không được bán”.
Nói xong, ông Ba kể hết chuyện ông Thường cho nhà buôn kia nghe. Ông Vương nghe xong cũng ngẩn người ra, thất thần gật gật đầu rồi trả lại hết số tranh, chữ cho ông Ba. Ông Ba cảm ơn, trao lại tiền, bảo người làm ôm cuộn tranh, chữ ấy rồi cáo từ. Ông Vương tiễn ra đến cửa nhà trọ, nín không được, dặn thêm một câu: “Ông Lưu ạ, những tranh, chữ này hầu hết là của báu của đất nước, mong ông cất giữ thật cẩn thận cho”. Ông Ba nghe dặn sững người, lát sau quay trở lại hỏi: “Xin đánh bạo hỏi ông, chứ bức tranh đời Đường trong số đó thật giả ra sao? Tiên sinh có con mắt tinh đời, xin chỉ giáo cho đôi lời”.
Nhà buôn họ Vương cười: “Bức tranh ấy quý nhất trong số tranh quý nhưng quả thật là bóc ra rồi bồi mặt trái thành tranh”. “Bồi mặt trái là thế nào?” – Ông Ba hỏi. Ông Vương đáp: ” Bồi mặt trái là bóc tranh vốn có thành tranh ba lớp, sau đó lộn trái lại mà bồi thành tranh. Tôi đoán người bồi tranh sợ bức tranh quý này bị người khác cướp mất nên mới khổ tâm nghĩ ra được cách ấy.
Ông Ba nghe đến mê mẩn, hỏi lại: “Tiên sinh có thể phục nguyên bức tranh sao?”. Nhà buôn lắc đầu thở dài: “Muốn phục nguyên bức tranh e rằng phải có cao thủ hơn đời mới xong. Nhà tôi ba đời làm nghề tìm mua tranh, nhưng cha tôi chỉ mới biết đến người bóc tranh làm hai lớp và đã cho là tuyệt kỹ, ngờ đâu lại còn có người bóc được tranh thành ba lớp. Hôm nay coi như tôi được mở rộng tầm mắt”. Ông Ba gật đầu tán thành, rồi hỏi thêm câu nữa: “Vương tiên sinh làm nghề buôn đồ cổ, không biết những thứ ông cất giữ trong nhà có bán chăng?”. Ông Vương nghiêm mặt nói: “Đâu dám! Tổ tiên đã có lời răn, dù có chết đói cũng không được bán những thứ đã sưu tầm”. Ông Ba mỉm cười, than thở: “Thế thì tốt lắm! – Nói xong bảo người làm trao cuộn tranh, chữ đó cho ông Vương. – Bó tranh này, tôi tặng cho tiên sinh đấy!”. Ông nhà buôn họ Vương ngơ ngác: “Lưu tiên sinh nói như vậy là như thế nào?”. Ông Ba trịnh trọng nói lại lần nữa: “Tôi tặng tiên sinh để ông gìn giữ đấy mà!”.
Nhà buôn họ Vương sững sờ, lắp bắp nói: “Như thế sao được? Không, không… không được đâu!”.
Ông Ba thở dài: “Tôi tự biết không còn ở thế gian bao lâu nữa nên không muốn sưu tầm, cất giữ. Những tranh, chữ này đã là quốc bảo, tôi sợ người nhà không biết quý trọng, tặng cho tiên sinh cất giữ còn hơn. Như thế rút cục tôi cũng đền đáp được tấm lòng của Thường tiên sinh”.
Nói xong chào một tiếng rồi quay người đi luôn.
Ngoài cửa quán, tuyết bay đầy trời. Ông Vương đuổi theo ra khỏi cửa, ngẩn ngơ nhìn theo ông Ba được người làm xốc nách đi trên đường.
Tuyết lặng lẽ rơi. Xung quanh im lặng như tờ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét