THÔNG TIN EBOOK
Tên truyện: Hai Nén Hương Thề
Chuyện Không Kể Lúc Nửa Đêm
Tác giả: Người Khăn Trắng
Thể loại: Kinh dị – Ma quái
Nhà xuất bản: Thanh Niên
Năm xuất bản: 2007
Số trang: 144
Kích thước: 13,5 x 20,5 cm
Trọng lượng: 160 gr
Số quyển / 1 bộ: 1
Hình thức bìa: Bìa mềm
Giá bìa: 17.500 VNĐ
———————————-
Nguồn: http://vnthuquan.net
Đánh máy: Soccon
Chuyển sang ebook (TVE): santseiya
Ngày hoàn thành: 27/03/2010
Nơi hoàn thành: Việt Trì – Phú Thọ
MỤC LỤC
Khi nhìn thấy người phụ nữ ấy bước từ dưới ghe lên, tự dưng Út Hương phát rùng mình. Cô cũng chẳng biết tại sao, chỉ biết rằng qua bộ mặt của con người ấy có cái gì đó làm cho cô bất an.
Người duy nhất mà Út có thể chia sẻ được nỗi lòng lúc ấy chỉ có chị mình, Ba Xuân.
– Chị Ba có thấy mụ ta đeo trên cổ vật gì không?
Xuân ít tinh tế hơn em gái, nên khi Hương nhắc, cô mới nhìn lại người đàn bà đi cạnh ba mình, rồi nhún vai bảo:
– Có gì đâu.
Út Hương lườm chị một cái:
– Bà này cái gì cũng ba phải…
Hai chị em họ đang nói tới đó thì ba họ lên tới. Ông cười rất tươi để lấy lòng hai con:
– Người này là…
Không ngờ Út Hương đã chặn lời:
– Là bà la sát!
Người đàn bà không ngờ bị giội ngay nước lạnh, mắt bà ta long lên, quay sang nhìn ông Thái như mắng vốn. Tuy nhiên, người đàn ông này chỉ trợn mắt với con gái, nhưng khi nói thì lại yếu xìu:
– Con nhỏ Hương này… ăn nói vậy hả? Đây là dì Tâm của các con. Dì Tâm sẽ…
Trong lúc Xuân im lặng thì Út Hương lại lồng lên:
– Không có dì nào trong nhà này hết! Nếu muốn thì ba dẫn bà ta đi đi!
Nói xong, Hương quay quả bỏ đi. Nhưng bước được mấy bước vẫn không thấy chị đi theo, cô quay lại la lên:
– Bộ chị muốn quỳ xuống ra mắt bà la sát đó hay sao mà còn ở đó!
Lúc này Xuân mới nhẹ bước đi theo em. Ở phía sau họ, nghe giọng người đàn bà gọi là dì Tâm đó chì chiết ba mình:
– Ông dạy con như vậy hả? Thảo nào…
Không nghe ba nói gì, có lẽ ông đang cố gắng chịu đựng… thì trong lòng Út Hương lại bừng bừng nổi giận.
Cô gay gắt với chị:
– Coi có chịu nổi không chớ! Ba đang sợ bà ta kìa, chị thấy không?
Xuân vốn hiền lành, an phận như xưa nay:
– Có gì đâu, em cứ…
Hương quá bực mình với chị:
– Coi bộ chị sẵn sàng đón chờ cho bà ấy leo lên đầu lên cổ rồi đó! Em chán chị quá đi…
Cô dùng dằng bỏ đi một mình về phòng ngủ. Trong khi Xuân lại một lần nữa chỉ biết thở dài…
Chuyện ba họ sẽ đón người đàn bà này chị em Xuân đã biết cách đó một tuần. Khi ấy, trước khi đưa ghe đi, ông Thái đã nói với các con:
– Nói gì thì nói, ba cũng phải đi bước nữa. Dì Tâm là người đàn bà giỏi giang, sẽ giúp ba lo việc buôn bán và còn lo cho các con khôn lớn nữa. Ba sẽ đi rước bà ấy về ngay.
Kể từ khi mẹ qua đời cách nay hai năm. Có lẽ đây là lần đầu tiên chị em Xuân và Hương đối diện với chuyện gọi là mẹ ghẻ con chồng. Tuy nhiên lúc ấy họ chỉ mới nghe và hình dung thôi, chớ đâu phải như lúc này…
– Xuân!
Tiếng ông Thái gọi, Xuân dừng lại chờ. Ông Thái bước tới bên con, nhỏ nhẹ:
– Con là chị, vậy phải giải thích cho Út Hương nghe. Nó không được làm như vậy…
Xuân chán nản:
– Ba nói với nó chớ con nói sao được.
Cô cũng bỏ về phòng riêng. Bên ngoài, giờ đến lượt hai ông bà. Ông Thái nhẹ giọng:
– Bà đừng để ý, con Út nhà này tính tình như vậy đó, nhưng mà hiền lành, dễ thương.
Bà Tâm chanh chua:
– Hiền lành mà giống như quỷ cái, kiểu đó chắc là giống… gái mẹ nó.
Lời bà ta vừa dứt, tức thời từ trong phòng của Út Hương một vật bay ra, suýt nữa đã trúng vào vai mụ, nó rơi xuống nền gạch vỡ toang ra. Đó là chiếc lọ hoa.
Mụ Tâm hét toáng lên:
– Trời ơi, nó giết người!
Ông Thái biết không ổn nên thật nhanh chân kéo bà ta chạy ngay về phòng mình. Trong khi mụ Tâm vẫn tru tréo:
– Con ông là quỷ chớ đâu phải người! Thôi, ông để tôi đi, tôi về nhà tôi sống, chớ ở đây sao được mà ở!
Tuy miệng nói vậy, nhưng mụ ta vẫn theo vào phòng. Và chỉ một lúc sau đã nghe mụ ta cười nói huyên thuyên như chẳng có gì xảy ra. Rối đến một lúc mụ ta hạ thấp giọng như chỉ muốn cho riêng ông Thái nghe:
– Ông phải hứa chắc đó nghe, chỉ cho chúng nó ở tối đa một năm mà thôi. Sau đó phải tìm người mà gả nó đi cho rảnh nợ. Phải như vậy thì tui mới tiếp tục ở lại đây…
Không ngờ ông Thái lại hứa:
– Ờ, thì để rồi tính… chúng là con gái không sớm thì muộn cũng phải lấy chồng thôi.
Bà ta gắt lên:
– Ngay tức thời, chớ không phải muộn! Nếu ông không hứa thì tôi xuống ghe về nhà ngay bây giờ.
Lại một lần nữa ông Thái xuống giọng:
– Để từ từ đã. Bà để tôi sắp xếp rồi mọi việc sẽ đâu vào đó…
Mụ Tâm dường như vẫn chưa hài lòng, nên giọng chì chiết của mụ vẫn vọng ra từ trong phòng. Mọi diễn biến đó hầu như không lọt ra khỏi tai Út Hương. Cô gái lúc về phòng đã không yên tâm, nên đã lẻn ra đứng bên ngoài phòng ba để nghe ngóng… và nhờ thế mà cô đã nghe hết hầu hết những trao đổi giữa ba và mụ ấy.
Quá thất vọng, Út Hương trở về phòng mình nằm ôm mặt khóc nức nở. Một bàn tay đặt lên vai cô, Hương mở mắt ra thấy Xuân cũng đang khóc. Giọng Xuân nghẹn lại:
– Chị thấy hết rồi. Thôi, để rồi tính…
* * *
Nói mãi mà Xuân cũng không chịu đi, viện lý do không khỏe, cuối cùng Út Hương đành phải đi một mình. Cũng may nắng chiều đã dịu, nên không còn sợ nắng, mà đường qua các bụi tre, khóm gai thì Hương đã quá quen thuộc, cô đâu ngại gì việc đi vào giờ nhá nhem như vầy.
Khu nghĩa địa Gò Sao đối với mọi người thì đầy những chuyện ghê rợn, hoang đường, đến nỗi dù cho con trai đàn ông gan góc mà tới đây cũng phát rùng mình. Duy chỉ có Út Hương thì chưa bao giờ ngán ngại. Đơn giản là bởi kể từ hai năm qua, kể từ khi mẹ chết, thì hầu như ngày nào cô cũng một mình ra nghĩa trang này, ngồi trước mộ mẹ hằng giờ liền, bất chấp sáng, tối, nắng, mưa. Có lẽ nhờ vậy mà quen, không còn cảm giác sợ sệt nữa…
Ngôi mộ xây của mẹ do chính một tay Út Hương chăm sóc, trang hoàng. Từ cái mộ, bia, đến những cây hoa trồng bên mộ đều một tay Hương vun trồng và tưới nước thường xuyên, nên bốn mùa trên ngôi mộ đều có hoa nở.
Còn hỏi tại sao cả nhà chỉ có mình Hương là gắn bó và thương yêu mẹ đến như vậy, trong khi Xuân cũng thương mẹ nhưng so với Hương thì kém xa, có lẽ đúng như câu nói của Xuân: "Con Út Hương thương má nhất trên đời này có lẽ do trong suốt thời gian dài, từ khi lọt lòng nó đã chứng kiến nỗi buồn triền miên của má khi bà ngày đêm phải chịu đựng cảnh ba bỏ nhà đi theo người đàn bà khác. Trong những lúc ốm đau liệt giường, cũng chỉ có Út Hương quấn quýt bên cạnh, nên mẹ dành hết tình yêu thương cho cô con gát Út. Đến giờ phút lâm chung, mẹ cũng cố ôm Út Hương vào lòng mà thều thào rằng mẹ sẽ không bao giờ bỏ con…"
Bởi tình cảm ấy, cho nên hơn một năm sau khi mẹ chết, Út Hương chỉ khóc và hầu như bỏ cả ăn uống. Nếu không nhờ một lần cả hai chị em Xuân, Hương đều có chung một giấc mơ. Trong giấc mơ đó mẹ các cô đã hiện về, đôi mắt bà sưng húp vì khóc. Mà lạ thay, những giọt lệ của bà lại toàn là máu! Út Hương hoảng quá đã gào lên gọi mẹ thì bà chỉ nói một câu trước khi biến mất: "Nếu con Hương mà như vầy thì má sẽ đi luôn, má sẽ thành oan hồn về chốn địa ngục chớ không ở bên các con được! Hãy cố mà mạnh khỏe lên, đời các con sẽ lắm khổ đau, chông gai đang ở trước mặt. Cứ nhịn đói thì làm được gì khi người ta cướp đoạt hết mọi thứ của các con?".
Giấc mơ đã có tác động tích cực đến sự hồi sinh sau đó của hai chị em Hương. Đặc biệt là Út Hương. Từ hôm đó cô trở lại tự tin hơn để một mình quán xuyến hết của cải, tài sản của ba mẹ. Ông Thái thì thường xuyên vắng nhà do bận bịu với người đàn bà khác ở Bạc Liêu, hầu như bỏ mặc cho chị em Hương chống chèo với cái xưởng đóng ghe đồ sộ. Lúc đầu tưởng đâu cái cơ ngơi ấy sắp tan tác bởi cái đầu tàu không còn. Tuy nhiên, có lẽ do sự phù hộ của mẹ, nên Xuân và Hương lần lần đã vượt qua được bao khó khăn, trắc trở. Ngày nay cái trại đóng ghe Thái Bình vẫn còn vững vàng đó với sự điều hành chắc tay của hai cô con gái tuổi đời chỉ mười tám, hai mươi! Đặc biệt là Út Hương, tuy mới mười chín tuổi, nhưng trong quan hệ làm ăn đã là trụ cột, bởi như có người nói cô đã thừa hưởng được hai tính nết vừa của ba vừa của mẹ. Trong đó tính cách cương quyết, thông minh, cộng với sự nhân từ độ lượng đã làm cho Hương được mọi khách hàng nể nang, mến phục.
Vậy mà…
– Má ơi!…
Quỳ trước mộ mẹ, Út Hương vừa khóc vừa kể lể:
– Nguy cho nhà mình rồi má ơi! Sáng nay ba đã dẫn mụ la sát ấy về nhà rồi! Mụ ta đúng như má nói hồi trước, là một con quỷ cái thì đúng hơn. Vừa về đến nhà thì mụ đã vươn nanh vuốt của mình ra rồi. Con tức lắm, muốn tống cổ mụ ta đi, nhưng ba thì về hùa với mụ ấy, ba còn có ý tống khứ tụi con đi khỏi nhà. Má biểu tụi con phải làm sao?
Như lệ thường, Út Hương bật quẹt đốt ba cây nhang để cắm trước mộ. Hôm nay cũng vậy, cô đốt cẩn thận nhang, nhưng chẳng hiểu sao vừa mới cắm xuống thì cả ba cây nhang đều tắt một lượt!
Thử đi thử lại lần thứ năm thì vẫn thế. Lúc này Hương linh tính có sự linh ứng của mẹ, cô thành tâm khấn:
– Sao má giận con? Sao má không về cho con yên lòng. Con xin má, nếu còn thương tụi con thì má hãy về đây ngay lúc này. Mấy cây nhang cháy là con hiểu má có mặt ở đây!
Hương chưa kịp bật quẹt lần nữa thì cả ba cây nhang đều cháy cùng lúc.
– Má!
Út Hương không nghĩ đến điều linh ứng lạ thường này, nên cô nói lắp bắp:
– Má… má về rồi… má về với con rồi…
Rồi mọi nỗi niềm chất chứa trong lòng bấy lâu nay, Hương có dịp tuôn ra như sợ không nói thì không kịp:
– Con mụ ấy nó tới rồi, nó hung dữ như chằn tinh gấu ngựa, nó sẽ giết bọn con má ơi! Cả ba nữa, ổng sợ mụ ta như sợ hùm beo! Má nói cho con biết đi, con phải làm sao bây giờ?
Ngừng lại để lấy hơi, Út Hương lại tiếp:
– Con muốn làm cho mụ ấy phải rời khỏi nhà mình ngay, nhưng ba thì coi bộ muốn mụ ta thay thế vai trò của má, phải làm sao? Hay là con tìm cậu Hai, nhờ cậu ra tay cho mụ ta sợ, được không má?
Nén nhang đang cháy bình thường, bỗng cháy bùng lên như ngọn đèn! Út Hương mừng rỡ:
– Có phải má biểu con làm vậy không?
Ngọn lửa ở đầu nhang phụt tắt. Và cả đốm lửa đang cháy cũng tắt luôn. Hoang mang, Hương run giọng:
– Sao vậy má?
– Đúng là má không thương mình…
– Ai vậy?
Đúng lúc đó, tiếng của ai vang lên phía sau làm cho Hương giật mình, quay lại và suýt kêu lên khi thấy một người đứng khuất hơn nửa thân người sau bụi chuối.
– Ai?
Hương vừa hỏi lại thì có tiếng reo lên:
– Hương hả con?
Thì ra người vừa đứng đó là ba Thái. Hương thở phào:
– Sao ba ra đây?
– Ba ra thăm mộ má con…
Bây giờ Hương mới hoàn hồn, cô xẵng giọng:
– Ba mà còn nhớ tới má sao? Ba về đi, má sẽ không chấp nhận sự có mặt của ba đâu. Má vừa mới về đây…
Câu nói lơ lửng của Hương làm cho ông Thái giật mình:
– Con nói… ai về?
– Má! Má vừa linh ứng về theo lời cầu khấn của con!
Ông Thái bước lại gần hơn và kêu lên:
– Coi kìa, tránh ra!
Út Hương thấy nóng ở chân, cô nhìn xuống đầu mộ thì hoảng hốt khi nơi đó đang cháy bùng lên dữ dội.
– Má! Có phải má đã…
Cô bước lùi ra, vừa lúc đó ông Thái lấy một tàu chuối tươi của ai đốn còn vất ở đó, đập mạnh vào đám lửa. Lửa chẳng những không tắt, mà trái lại càng lúc càng bùng lên dữ dội hơn.
Đây là khu nghĩa địa nên việc lửa cháy cũng không nguy hiểm gì, tuy nhiên khi lửa trùm lên ngôi mộ của mẹ thì Út Hương hoảng hốt la lớn:
– Cứu! Ai cứu má tôi với!
Ông Thái lúc đầu không có dấu hiệu lo lắng, nhưng khi nghe con gái la lên thì ông cũng bắt hoảng. Vừa bước lui, ông vừa quan sát xung quanh để tìm cách chữa cháy. Chợt nhìn thấy có ao nước gần đó, ông chạy ngay đi tìm vật múc nước. Tìm một lúc chẳng thấy gì, ông cởi phăng chiếc áo đang mặc ra, nhúng nước và mang ngay tới định chụp lên mộ.
Nhưng… thật lạ, lúc ông trở lại thì chẳng nhìn thấy đóm lửa nào, mà ngôi mộ thì vẫn còn nguyên vẹn, chẳng có một dấu hiệu nào của lửa vừa cháy. Còn Út Hương thì cũng chẳng còn ở đó.
– Hương đâu rồi?
Ông kêu lên mấy tiếng vẫn chẳng nghe Hương đáp. Nhìn lại ngôi mộ, chợt ông Thái phát hiện có một vật bằng kim loại nằm ngay chỗ cắm nhang. Vật đó vừa đập vào mắt, ông đã kêu lên:
– Chiếc lắc bạc!
Nhặt nó lên, nhìn vào mặt plaque (lắc), ông Thái tái mặt:
– Mình đã… liệm theo lúc chôn bà ấy mà?
Đúng là vật này chính tay ông Thái đã đeo vào tay cho vợ lúc liệm xác bà vào quan tài và đem chôn. Vậy tại sao giờ đây nó lại…
Ông thật sự bị dao động, tay ông cầm chiếc lắc mà run run, suýt làm cho nó rơi xuống đất. Trên mặt lắc còn hiện rõ dòng chữ: "Đời đời bên nhau".
Dòng chữ đó do chính tay ông khắc, vốn thuở thiếu thời đã từng học nghề thợ bạc, đã tự tay khắc vào. Hôm sau khi khắc xong, Thái đã hẹn người con gái mà ông đang yêu say đắm ra nghĩa địa, nơi có hai ngôi mộ song thân của cô ấy và cả hai đã quỳ xuống trước mộ với lời khấn đúng với câu mà Thái đã khắc vào tấm lắc: Chúng con nguyện sẽ đời đời sống bên nhau…
Nén hương thề hôm đó dường như cháy rất lâu, như muốn nói với họ rằng tình yêu của họ sẽ bền lâu mãi mãi… Vậy mà hôm nay…
Ông Thái cầm chặt vật kỷ niệm trong tay, vừa quay bước đi, chợt ông dừng ngay lại, đăm chiêu nhìn về hướng nhà mình… Cuối cùng chẳng hiểu sao, ông lặng lẽ quay lại trước đầu mộ, rồi dùng hòn đá nhỏ đào đất kế chỗ cắm nhang và đặt chiếc lắc vào đó, lấp đất lại. Bầu trời xung quanh lúc ấy đã tối đen. Khu nghĩa địa chìm vào u tịch cố hữu. Ông Thái chợt rùng mình, nên vội bước nhanh như chạy trốn…
* * *
Người đàn bà trẻ, da dẻ xanh xao, cùng với quần áo rách rưới tả tơi, càng làm cho chị ta càng trông bệ rạc, nhất là dáng đứng gần như không vững, đã làm cho mụ Tâm cũng phải động lòng. Mụ chau mày, hỏi:
– Chị nói từ đâu tới?
– Dạ, em từ Cà Mau.
– Vậy chồng con ra sao mà ra nông nỗi này?
Chị ta bật khóc sụt sùi:
– Dạ… xin bà đừng hỏi.
Mụ xẵng giọng:
– Muốn được tôi mướn thì phải nói rõ được thân thế mình, chớ úp mở như vầy thì chắc là không được.
Chị nọ hoảng hốt:
– Xin bà chủ tha cho, đừng đuổi con đi, tội nghiệp con… Thôi được rồi, con xin nói thật… chồng con chẳng may qua đời vì cơn bạo bệnh, còn con nhỏ cũng vì đói và bệnh ngặt mà lần lượt chết hết. Còn bây giờ thân cô thế cô, không nơi nương tựa.
– Năm nay chị bao nhiêu tuổi?
– Dạ, ba hai.
– Tuổi này thì cỡ tuổi em tôi. Đừng xưng là con cháu nghe tổn thọ lắm. Thôi được rồi, tôi nhận chị ở lại đây làm. Nhưng với một điều kiện…
Chị ta mừng rơn:
– Dạ, xin cảm ơn bà. Miễn là được làm việc, có cơm ăn là được rồi, bất cứ điều kiện gì con cũng chịu hết…
Mụ Tâm hạ thấp giọng:
– Chẳng có gì khó khăn cả. Yêu cầu là từ nay trong nhà này chị chỉ làm theo đúng mệnh lệnh của tôi mà thôi. Tôi bảo làm gì thì phải làm theo đúng như thế, không được hỏi, cũng không được làm theo bất cứ ai khác.
– Dạ…
– Chị có hứa như vậy không?
– Dạ… được.
Mụ Tâm lại nói cụ thể hơn:
– Trong nhà này ngoài hai vợ chồng tôi còn có hai đứa con gái con dòng trước. Tụi nó không ưa tôi, nhưng tôi thì thương tụi nó, cứ muốn lo mọi thứ tốt đẹp cho tụi nó vậy mà tụi nó vẫn gieo tiếng ác cho tôi.
Bà ngừng nói, lắng nghe động tĩnh rồi mới tiếp:
– Nhiệm vụ chính yếu của chị là lo săn sóc giúp một người bệnh. Nói rõ hơn, người bệnh này do mắc phải chứng nan y, phải sống tách biệt với mọi người ở một nơi riêng, vì vậy mỗi ngày chị đưa cơm nước, thuốc thang tới cho nó. Chỉ có vậy thôi. Chị làm được chớ?
– Dạ, đâu có gì khó, con… à em làm ngay!
– Được rồi, tôi cho chị căn nhà nhỏ bên kho lúa, cứ ở luôn đó. Còn đây nữa, tôi cho mấy bộ quần áo để mặc cho sạch sẽ với người ta. Còn công việc thì chưa bắt đầu lúc này. Đợi khi nào thì tôi sẽ báo và chỉ cho cách làm.
– Dạ, em cảm ơn.
– À, chị thứ mấy, tên gì?
– Dạ, em thứ Tư, gọi là Tư Thắm.
– Thôi, được rồi.
Đợi cho Tư Thắm đi ra rồi mụ Tâm mới quay vào trong buồng ngủ gọi khẽ:
– Ra đi ông thầy!
Một người đàn ông tuổi năm mươi, ăn mặc giống như một thương nhân người Hoa, từ trong bước ra vừa lên tiếng:
– Ở trong nãy giờ ngộ run quá "chời"! Lỡ thằng chồng nị nó dìa bất tử là ngộ chết liền!
Mụ Tâm nhún vai:
– Coi vậy mà nhát gan! Thằng chả đi qua Phụng Hiệp sáng mai mới về. Còn hai con quỷ con thì đi đám hỏi nhà bạn nó cũng chiều tối mới về tới, sợ gì!
– Nị nhốt ngộ trong phòng riêng lỡ ai thấy thì tiêu đời ngộ. Bây giờ nói đi, ngộ phải làm gì?
Mụ ta giọng cợt nhã:
– Làm gì mà như đỉa chạm vôi vậy. Từ từ người ta nói…
Mụ thuận tay bẹo vào má lão thầy Tàu, vừa nũng nịu:
– Thấy mà ghét! Làm xong vụ này người ta sẽ thưởng cho xứng đáng…
Lúc này, lão Tàu cũng không còn giữ ý tứ như lúc nãy, lão ta cũng nựng lại hai bên má mụ Tâm, rồi cất giọng tình tứ:
– Hồi nãy nằm trên cái gối thơm lừng nước hoa, đúng là của nị rồi, nức mũi luôn!
– Có muốn đêm nào cũng nằm như vậy không?
– Đồ quỷ, sao lại không muốn!
– Vậy thì nghe đây. Nói cho tui nghe coi, phải làm thế nào để một người bình thường phát lên điên?
– Ai vậy?
Mụ Tâm quắc mắt:
– Lại hỏi lôi thôi? Bây giờ có muốn sở hữu "người ta" đây không?
Lão Tàu cười hềnh hệch:
– Muốn… muốn chớ sao không. Ngon quá mà!
– Vậy có làm được không?
– Nhưng… mà ai vậy?
– Chưa cần biết là ai.
– Ngộ muốn biết coi người ấy trẻ hay già? Trẻ thì làm khác, già thì làm khác. Trai hay gái cũng khác nhau nữa.
– Bao lâu thì có kết quả?
Lão thầy Tàu nhẫm tính:
– Làm nhanh thì cũng được nhưng sợ có người nghi. Tốt nhất là chầm chậm. Trước tiên làm cho nó bệnh nặng sau đó cứ cho thuốc uống từng chút một, bệnh thông thường sẽ trở thành nan y.
Mụ Tâm reo lên:
– Hay quá! Được lắm, bắt tay ngay đi!
– Nhưng… trước khi làm chuyện đó, phần của ngộ cũng phải làm nữa chớ…
Lão ta kéo mụ vào lòng. Vừa lúc ấy, chợt có tiếng ai đó lên tiếng:
– Thưa bà chủ…
Sự xuất hiện đột ngột của Tư Thắm làm cho cả hai giật mình, mụ Tâm kịp đẩy lão Tàu ra, hơi lúng túng:
– Sao… sao lại lên đây…
– Dạ, em không có chìa khóa mở cửa nên…
– Được rồi, chị xuống dưới đi và chờ tôi.
Mụ tỏ vẻ khó chịu khi đứng lên, nhưng cũng kịp dặn lại lão Tàu:
– Ở đó chờ tui.
Vừa đi mụ vừa gắt lên với Thắm:
– Từ nay khi chưa có lệnh tui thì chưa được lên nghe!
– Dạ…
Mụ mở cửa nhà kho và dặn kỹ:
– Buổi tối chị chỉ được ngủ ở đây, không được đi ra ngoài. Ai trong nhà có hỏi thì nói là bà con với tôi, nghe chưa.
– Dạ…
– Mà nè…
Trước khi trở lên nhà, mụ còn nói thêm:
– Trong nhà này không ai tốt cả, cho nên tốt nhất chị gặp ai cũng giả như câm điếc, để tránh phải đôi co với họ. Chị giả làm người câm, điếc được không?
Suy nghĩ rất nhanh, Tư Thắm gật đầu:
– Dạ được.
– Tốt lắm. Nếu chị làm tốt mọi điều tôi dặn thì mỗi tháng ngoài tiền lương ra tôi còn cho thêm.
– Dạ.
– Đã dặn rồi, chỉ gật hay lắc thôi!
Tư Thắm thực hành rất đạt yêu cầu, khiến mụ Tâm yên tâm. Mụ cũng không quên răn đe thêm:
– Chuyện gì chị thấy lúc nãy hãy quên ngay, coi như không thấy, nghe chưa!
Lại một cái gật đầu.
– Được lắm.
* * *
Út Hương đang tiếp khách hàng thì bỗng kêu đau bụng. Cô cố gắng không để lộ ra, nhưng cơn đau mỗi lúc một nhiều hơn, đến nỗi toàn thân cô xuất mồ hôi, đôi chân gần như không còn đứng vững nữa. Xuân vừa về tới đã hoảng hốt kêu to:
– Ba ơi! Con Út…
Ông Thái đang ở trong phòng riêng, vội mở cửa chạy ra và vừa kịp lúc đỡ đứa con gái út đang té nằm sóng soài dưới sàn nhà.
– Em bị sao vậy Xuân?
– Dạ, con vừa về tới đã thấy vậy, chẳng biết sao…
Một người khách thuật lại:
– Cô Út đang nói chuyện với chúng tôi về việc đặt đóng ghe thì cô kêu khát nước và đi vào trong nhà uống. Lúc trở ra, mới nói chuyện được mấy câu thì cô ấy kêu đau bụng và nhanh chóng bị ngất. Hình như là bị nặng lắm.
Việc cấp cứu cho Út Hương gặp khó, bởi sau đó Xuân nói riêng với ba:
– Không chừng nó bị… bệnh con gái.
Xuân không muốn ba mình ở đó nên cố tình nói như vậy. Đến khi ông Thái ra ngoài rồi cô mới kề sát tai em hỏi khẽ:
– Em bị sao vậy?
Chẳng hiểu Hương nói gì, chỉ thấy sau đó Xuân hết sức lo lắng, cô tức tốc đưa em xuống xuồng, đưa ngay ra bệnh viện.
Cho tới chiều tối hôm đó Xuân mới trở về nhà một mình. Ông Thái lo lắng hỏi thì Xuân chỉ đáp gọn:
– Nó còn nằm trong bệnh viện.
Chỉ nói vậy rồi cô bỏ vô phòng riêng, chẳng nói gì thêm với ai.
Tới gần nửa đêm đó ông Thái tới gõ cửa phòng con, nhưng gõ mãi chẳng nghe ai lên tiếng, khiến ông lo lắng, thử xoay nắm chốt cửa thì phòng không khóa. Bên trong tối đen và im ắng. Khi bật được đèn lên thì ông Thái hốt hoảng khi thấy Xuân nằm vắt nửa người trên giường, nửa ở dưới.
– Xuân!
Ông bước tới và càng hoảng hốt hơn khi phát hiện con gái gần như chỉ còn thở thoi thóp, ở miệng trào ra bọt trắng.
– Trời ơi! Sao vậy con?
Ông bế xốc con lên thì đã nghe giọng mụ Tâm phía sau lưng:
– Có gì đâu mà phải hoảng như vậy, để tôi coi.
Bà vào xem xét qua loa, rồi bảo:
– Nó ăn uống bậy bạ gì đó bị trúng thực, nhẹ thôi.
Bà lấy trong túi ra một gói thuốc nhỏ và nói đầy tự tin:
– Bệnh này tui bị hoài nên có sẵn thuốc đây.
Rồi bà chủ động pha thuốc, đưa tận miệng cho Xuân:
– Uống đi!
Nhưng bất ngờ Xuân đưa tay gạt phăng một cái, chén thuốc văng tung tóe khắp nơi. Mụ Tâm được nước tru tréo lên:
– Ông thấy chưa, tôi tốt bụng cho nó uống thuốc mà nó làm như vậy đó!
Ông Thái cũng bất bình:
– Sao con hỗn hào vậy Xuân!
Xuân trong cơn vật vã, vẫn cố nói được tiếng mất tiếng được:
– Bà ấy… giết người… thì có…
Rồi sau đó cô mê man sâu…
Mụ Tâm bực tức bỏ đi, để mặc cho ông Thái lo sốt vó. Ông chưa biết phải làm sao chợt Tư Thắm xuất hiện đột ngột.
Vừa nhìn thấy người phụ nữ lạ này chẳng hiểu sao ông Thái sửng sốt, đôi mắt mở tròn mà chẳng thốt lên lời và như một thân cây bị đốn, ngã xuống đất. Bóng đèn dầu được đốt lên lúc nãy, bỗng tắt phụt, trả lại bóng tối lúc đầu Một tiếng kêu rất khẽ, chẳng biết là của ai.
Có một bóng người hình như bê trên tay một vật gì đó khá nặng, rời khỏi phòng
* * *
Mụ Tâm bực bội ra mặt khi thấy ông Thái nằm im trên giường, giọng mụ cay độc:
– Nhìn cái mặt hãm tài của ông đúng là làm ăn không được. Bây giờ chịu uống thuốc rồi dậy mà lo làm ăn hay vẫn còn muốn nằm đây báo cô?
Mặc cho mụ ta đay nghiến, ông Thái chỉ nằm thiêm thiếp, chốc chốc ông lại kêu lên một tiếng rồi chới với như muốn ôm ai đó trong không khí.
Việc này đã lặp đi lặp lại mấy giờ rồi, làm cho mụ Tâm mất kiên nhẫn, mụ lắc đầu và bỏ ra ngoài và đi thẳng xuống bến sông. Nơi đó có một chiếc ghe mui kín đậu neo đã từ mấy ngày nay. Mụ gọi to:
– Ông lên đây đi, tới chuyện rồi đó.
Người ló mặt ra khỏi mui ghe chính là lão thầy Tàu A Sầu. Vừa thấy mụ, lão hỏi ngay:
– Thằng chả có ở nhà không?
Mụ gắt lên:
– Bảo lên đây lẹ đi, còn hỏi lôi thôi.
Lão thầy Tàu vừa lên đến bờ mụ đã nói ngay mà không cần giữ ý tứ:
– Thằng già đang bệnh kỳ lắm, nhân dịp này ông hốt cho chả một thang để theo ông bà luôn đi!
Lão A Sầu dè dặt:
– Chả bị bệnh gì, nói nghe coi?
– Bệnh tà hay sao đó!
– Cái gì? Thiệt hôn?
Mụ Tâm bực bội:
– Ở đây mà hỏi lôi thôi, vô nhà coi thì biết!
Lão A Sầu vẫn ngán ngại, nên phải đợi mụ Tâm giục đến lần thứ ba mới chậm bước theo vào nhà.
Đưa tay bắt mạch mà lão Sầu cứ lấm lét nhìn ông Thái. Khi khám xong lão ta cũng chỉ dám nói rất khẽ với mụ Tâm:
– Ông ta đâu có bệnh gì
Mụ ta kêu lên:
– Tôi biết ngay mà, chả bị bệnh tà!
Sau khi hỏi kỹ và khám lại một lần nữa, cuối cùng lão Sầu cũng nói:
– Cũng dám bị tà ma nhập lắm. Mà vụ này thì ngộ không trị được.
Mụ Tâm nhéo cho lão một cái đau điếng, đồng thời kề tai lão rít lên:
– Ngu quá, ai biểu nị trị bệnh? Cứ hốt một thang thuốc gì đó cho chả đi, lẹ lên!
– Nhưng mà…
Sợ lão nói thêm lôi thôi, mụ kéo lão ra ngoài, vừa tiết lộ thêm:
– Đây là dịp may trời cho chúng ta rồi! Lão già tự nhiên lăn đùng ra mê man, còn hai đứa kia cũng chẳng hiểu sao cũng ngã bệnh trước sau và bỗng dưng biến đi đâu mất từ hôm qua đến giờ.
Lão A Sầu ngạc nhiên:
– Thuốc tôi đưa bà đã cho tụi nó uống chưa?
Mụ lắc đầu:
– Lạ là ở chỗ đó. Tôi chỉ cho tụi nó uống có một lần thuốc nhưng cả hai đứa đều ngã bệnh nặng. Hơi lạ… Nhưng mà không sao, trời đã giúp ta. Sẵn dịp ta dứt dây luôn thằng già, vậy là xong, cái cơ ngơi này coi như nằm trong tay ta rồi!
Lão A Sầu có vẻ đăm chiêu, nhưng hình như không muốn mụ đàn bà độc ác phật ý, nên chỉ lẳng lặng đứng nghe, thỉnh thoảng gật đầu lấy lệ.
Đợi cho mụ ta nói huyên thuyên, đủ thứ chuyện, lão Sầu một mình trở xuống ghe. Vốn ở một mình trên chiếc ghe đủ tiện nghi do chính tay mụ Tâm mua sắp và xếp đặt, nên khi vừa mở cửa mui ra, nhìn thấy một người phụ nữ ngồi sẵn trong ghe, mặt nhìn ra sau lái, thì lão cứ ngỡ là mụ ấy:
– Ủa, sao nị xuống đây nhanh vậy?
Lão tưởng đó là mụ Tâm, nhưng khi người ấy quay lại thì lão điếng hồn, hoảng hốt:
– Bà… bà là…
Trước mặt lão ta lúc ấy là một người đàn bà mà gương mặt xanh tái, đầu tóc rối bời, chẳng khác một thây ma từ dưới mồ vừa mới hiện về!
– Cứu… cứu
Lão định kêu cứu nhưng tiếng chưa phát ra thành câu đã phải tắt ngang, bởi con người như quỷ ma đó đang từ từ nhích lại gần hơn. Chiếc ghe lắc mạnh như có ai làm cho nó chao đảo.
– Đừng
Lão tưởng chừng như bị ai bóp cổ, làm cho khó thở và hai chân như bị đóng chặt xuống mặt sàn ghe.
Cho đến khi người ấy lết đến sát bên và đưa tay chụp vào vai lão thì A Sầu mới như cái xác không hồn, ngồi trơ ra đó mà hồn phách bay đi lúc nào rồi…
Trong mơ hồ lão nghe vẳng lại câu nói như từ cõi âm ty:
– Làm ác thì gặp ác! Gieo gió thì gặt bão! Hãy dừng tay lại trước khi quá muộn!
Đúng là những lời đó nhắm vào lão ta, bởi dưới ghe này ngoài lão và người phụ nữ quái dị kia thì chẳng có ai khác.
Tiếng nói lại cất lên:
– Hãy chuộc lỗi bằng hành động nhân từ, đó mới là cái tâm của một thầy thuốc! Hãy nhớ lấy, ông còn ba đứa con hãy còn nhỏ, chúng nó sẽ lãnh hậu quả của cha… nhớ lấy
Lời nói nhỏ dần, xa dần… cùng lúc với việc người phụ nữ di chuyển về phía sau ghe và sau đó mất hút.
Mãi đến buổi chiều, khi mụ Tâm đứng trên bờ gọi giật ngược:
– Ông thầy, ông đâu rồi?
Thì dưới ghe lão A Sầu mới giật mình bật dậy và vẫn kinh hoàng:
– Bớ! Bớ người ta…
Lão ta chợt nhìn lên bờ và nhận ra người đang gọi chính là cái xác đội mồ! Lão thét lên:
– Đừng hại tôi! Tôi nghe lời… tôi nghe lời mà…
Lão vừa gào vừa chấp tay lạy tế. Mụ Tâm cũng phát hoảng:
– Ông làm sao vậy? Ông A Sầu?
– Tha cho tôi đi! Tôi lạy bà, tôi sẽ không làm ác nữa! Tôi lạy…
Lão ta không dám nhìn mặt mụ Tâm, bởi lúc ấy mụ ta là hiện thân của hồn ma đội mồ!
Mụ Tâm quýnh lên, giục mọi người nhảy xuống ghe cùng khống chế lão thầy Tàu. Khi có người chạm vào thân thể thì bỗng dưng lão A Sầu lại mềm nhũn ra như một xác chết.
– Sao kỳ vậy?
Mụ Tâm chỉ biết đứng nhìn, chớ còn biết làm gì hơn, bởi người cứu chữa, trị bệnh ở đây là lão Sầu, mà giờ đây lão như thế này
Cũng may, một lát sau mấy người xuống ghe giúp lão, đã bước lên và nói:
– Lão ấy không sao đâu, có lẽ do gặp ác mộng…
Mụ Tâm không tin, lẩm bẩm:
– Chưa ngủ sao lại gặp ác mộng được…
Tuy nhiên, biết chẳng làm gì khác hơn, nên mụ đành để mặc lão ở đó
Vừa nửa đêm hôm đó có người trông thấy lão thầy Tàu một mình chèo ghe lui khỏi bến…
Lão đi đâu thì chỉ có lão mới biết…
* * *
Câu nói của chị Tư Thắm làm cho mụ Tâm giật mình:
– Chị nói sao? Tụi nó đều ở trong nhà kho?
Tư Thắm hạ thấp giọng:
– Dạ đúng. Chính tôi đã đem con Út Hương từ bệnh viện về và đã cõng con Xuân vô đó. Tôi làm theo đúng ý bà muốn mà…
Quá bất ngờ trước kết quả ngoài ý muốn, nên mụ ta ôm chầm lấy người giúp việc:
– Thật không ngờ chị sáng ý như vậy! Mà nè, tụi nó bệnh ra sao?
– Bà khỏi phải lo. Hình như là ý trời hay sao đó, nên cả hai con nhỏ đều đau đúng một bệnh: Khi đau bụng dữ dội, lúc lại nhức đầu như búa bổ! Có phải bà đã cho tụi nó uống thứ gì đó phải không?
Mụ lắc đầu:
– Chưa.
– Vậy gói thuốc bao trong giấy hồng đơn là thuốc gì?
Mụ Tâm giật mình:
– Thuốc
thuốc đó… chị thấy ở đâu?
Tư Thắm thản nhiên nói:
– Tôi dọn dẹp phòng bà thấy nó để ở kệ tủ, tôi thấy ghi chữ bên ngoài là trị bệnh đau bụng, nên
bữa hai con nhỏ bị đau
tôi đã
– Chị cho chúng nó uống?
Tư Thắm gật đầu:
– Dạ đúng. Chắc là thuốc của ông thầy Tàu hốt?
Lúc này mụ Tâm không còn giấu nữa:
– Đúng là thuốc của lão thầy Tàu làm. Lão ta là một thầy thuốc đại tài, chuyên phá thai và… đầu độc người! Tôi nhờ lão ta làm loại thuốc đó, nhưng chưa có ý hại liền tụi nó một lần, mà chỉ nhằm cho nó uống một ngày một ít, để chúng không được khỏe mạnh, và nhờ vậy mà không chống đối, hỗn hào với tôi. Và để…
Mụ ta không tiện nói ra hết, nhưng không ngờ Tư Thắm lại tiếp ngay:
– Đến lúc nào đó sẽ loại trừ hẳn cả hai. Như vậy bà sẽ là người chiếm trọn cơ ngơi này!
Giật mình bởi câu nói thấu ruột gan của Tư Thắm, mụ Tâm lúng túng thấy rõ.
– Chuyện… chuyện đó… chuyện đó…
Tư Thắm trấn an:
– Bà đừng ngại. Tôi cũng không thích làm con mà ngang ngược, ngỗ nghịch như hai con nhỏ đó. Do vậy tôi tình nguyện giúp bà làm việc này.
Mụ Tâm không tin vào thính giác của mình:
– Chị nói thiệt?
– Thì bằng cớ là tôi đã tự động cho tụi nó uống thang thuốc có độc dược và cách ly chúng một cách gọn ghẽ, chẳng một ai hay biết…
Nếu có thể mụ Tâm đã sụp xuống lạy người phụ nữ mà mụ cho là quá tốt bụng này. Mụ xuống giọng:
– Tôi kết cỏ ngậm vành đội ơn chị lắm! Chị là cứu tinh của tôi. Để rồi khi xong công việc tôi dành cho một phần gia tài này chia cho chị. Tôi hứa danh dự đó!
Tư Thắm vẫn bình tĩnh:
– Tôi thích ai là giúp thôi, không hề nghĩ tới lợi lộc riêng. Thôi được rồi, từ nay cứ như ý của bà, hãy để hai con nhỏ đó tôi lo cho. Mỗi ngày tôi sẽ cho chúng ăn cầm chừng để duy trì sự sống, bên cạnh đó mấy thứ thuốc còn lại bà đưa hết cho tôi, từ từ tôi sẽ cho chúng uống, để đến một ngày chúng phát điên, phát khùng thật sự, giống như những người bị tâm thần. Như vậy sẽ chẳng một ai nghi ngờ. Trong lúc đó với tư cách là kế mẫu, bà vẫn được tiếng là không bỏ rơi con chồng trong lúc hoạn nạn, mà lại còn danh chính ngôn thuận trực tiếp tiếp quản sản nghiệp này. Bà còn điều gì dặn nữa không, tôi sẽ sẵn sàng làm?
Mụ Tâm nhất thời quá sung sướng, nên cứ nắm tay "ân nhân" lắc lắc nhiều lần và lặp đi lặp lại:
– Chị là chị em ruột của tôi. Chị sẽ cùng tôi hưởng mọi thứ mà tôi có được!
Trong cơn hứng khởi tột cùng đó, mụ nói thêm:
– Từ giờ chị coi như là em ruột của tôi, thay mặt tôi đứng cai quản xưởng đóng ghe này. Chị biết làm sổ sách, thu chi tiền bạc gì thì làm giúp luôn, chỉ báo cáo lại cho mình tôi biết thôi khỏi cần…
Một lần nữa Tư Thắm hiểu ý mụ ta:
– Ông chủ bệnh như vậy khó lòng tỉnh táo trong một sớm một chiều, nên ngoài bà ra thì có ai xen vô mọi việc trong nhà này. Được rồi, nếu bà tin tưởng thì tôi giúp bà…
Nhưng sau đó thì chị ta lại hạ thấp giọng có vẻ nghiêm trọng:
– Tôi thấy bệnh ông chủ không bình thường chút nào. Tôi không hiểu sao cứ chút chút ông lại kêu la, sợ hãi điều gì đó, như là đang bị ai đe dọa vậy? Bà có biết mỗi lần hốt hoảng ông chủ hay kêu lên Bảy Thoa là ai vậy?
Mụ Tâm có vẻ mất bình tĩnh:
– Bảy Thoa
là vợ trước của ông ta.
– Bà ấy đâu rồi?
– Chết rồi!
Tư Thắm có vẻ quan tâm:
– Chết rồi sao ổng kêu tên hoài vậy? Không lẽ…
Chị ta ngừng lại, đưa mắt nhìn sang mụ chủ, rồi mới tiếp:
– Không lẽ… ổng sợ hồn ma?
Bị chạm vào điểm yếu của mình, mụ Tâm lắp bắp:
– Ma… có ma không vậy?
– Tôi chỉ nghĩ và nói vậy chớ làm sao biết có hay không. Mà bà chủ có biết mặt bà vợ trước của ông chủ không?
– Có một lần. Hồi đó khi ông Thái mê tôi, theo ở với tôi ở Cần Thơ thì có một lần bà ta tới đánh ghen. Đây nè, cái thẹo này là tang chứng mụ ta để lại trên người tôi cho đến bây giờ tôi vẫn còn hận!
Vừa nói mụ ta vừa vạch áo bày ra một vết thẹo dài ở bả vai.
– Bà ta chém bà?
Mụ Tâm gằn từng tiếng:
– Bị bất ngờ nên tôi mới để mụ ta lấy thẹo, chớ bình thường thì dễ gì. Mà cũng không phải mụ ta toại ý hoàn toàn đâu, lần đó tôi cũng trả miếng đích đáng, bằng cách đạp vào bụng dưới mụ ta, cho đến khi xuất huyết sản hậu mới thôi…
Những lời kể sau của mụ đầy vẻ hả hê, đắc thắng. Chợt Tư Thắm thêm vào:
– Chắc do những cú đánh đạp đó nên bà ấy về và bị bệnh hậu luôn. Do bà ấy mới sinh con Út được mấy tháng phải không?
– Ờ đúng rồi. Nhưng mà… sao chị biết?
Tư Thắm lấp liếm:
– Dạ… tôi đoán vậy thôi…
– Chị đoán đúng. Bị trận đó về là mụ ta nằm bệnh kéo dài, cho đến lúc chết luôn!
Tư Thắm chép miệng:
– Như vậy so với vết thương trên vai của bà, người kia bị nặng hơn. Đem cả mạng sống đánh đổi cơ mà
– Ờ
Mụ Tâm chừng như muốn nói gì thêm, nhưng nghĩ sao lại thôi. Mụ liếc nhanh sang Tư Thắm rồi im lặng.
* * *
Ông Thái tỉnh lại, lơ mơ nhận ra có một người đứng ngay trước mặt mình. Ông cố ngồi dậy, nhưng có lẽ do đã nằm im suốt mấy ngày liền, nên sau mấy lần ráng sức, ông đều thất bại.
– Bà
bà…
Ông gọi người đứng trước mặt, đồng thời đưa tay như cầu cứu. Tuy nhiên người kia vẫn đứng yên, mặt quay đi nơi khác:
– Đỡ
đỡ tôi
dậy
Cố lắm ông Thái mới nói được mấy tiếng. Nhưng mặc cho ông ta nói, người trước mặt ông vẫn đứng im, như chẳng hề nghe thấy.
Đã cố gắng quá sức, nên ông Thái ngã sang bên, hơi thở đứt đoạn. Ông dường như tuyệt vọng với mong muốn thoát ra cơn mê kéo dài…
Chợt, từ phía người phụ nữ phát ra như mệnh lệnh:
– Theo tôi!
Lúc này chẳng hiểu do sức lực siêu nhiên nào thúc đẩy, ông Thái vụt đứng dậy và bước theo người đàn bà. Họ đi khá nhanh về phía khu vực nhà kho.
Tới nơi, vẫn không quay lại, người phụ nữ lên tiếng:
– Vô trong đi!
Ông Thái như người vô thức, bước qua cánh cửa hé mở. Bên trong tối đen, nhưng là nhà kho do chính ông xây nên ông ta bước đi mà không cần dò dẫm. Cho đến khi chân ông chạm một vật gì đó, suýt ngã.
– Ai vậy?
Nghe giọng nói quen quen, ông Thái tỉnh lại ngay, kêu lên:
– Út Hương!
Có hai người hỏi cùng một lúc:
– Ba hả?
– Xuân hả?
Có tiếng lộc cộc bên ngoài, cửa đã bị khóa. Ông Thái hơi hoảng:
– Sao họ nhốt ba con mình ở đây?
– Tụi con không biết…
Thì ra cả ba cha con đều bị nhốt chung một phòng. Ông Thái lo lắng:
– Mà kho này bỏ hoang đã lâu, vừa hẹp lại thiếu tiện nghi, vậy tụi con làm sao sống?
Giọng Út Hương:
– Thật sự là ba không biết tụi con bị nhốt ở đây sao?
Giọng ông Thái gay gắt:
– Bộ con nghĩ ba làm chuyện này hả?
Xuân chen vô:
– Còn nghi ngờ gì nữa, chính con mụ độc ác đó làm chứ ai! Mà cả ba nữa, coi chừng có ngày…
Ông Thái hơi hoảng:
– Tụi con bị làm sao vậy? Hổm nay thấy hai đứa đi vắng, ba hỏi thì bà ấy nói tụi con đi về bên ngoại, ba đang tính bữa nào qua bển thăm…
Xuân từ tốn hơn, cô thuật lại chuyện và kết luận:
– Tụi con trước sau bị nhốt vào đây từ hơn nửa tháng nay, tuy ngày nào cũng có người đưa cơm cho ăn, còn xách nước cho tắm rửa, nhưng tuyệt đối không thấy được bên ngoài. Con Hương lớn giọng nên cứ kêu la hoài để mong có người đến cứu. Nhưng rát cả giọng mà chẳng có ai cả
Ông Thái thở dài:
– Nhà kho này trước ba làm để chứa dầu nên cách xa nhà trên 200 thước, mà quanh đây cả nửa cây số lại không có nhà ai, nên hai đứa cứ la tới tối cũng chẳng có ai nghe.
– Bây giờ làm sao ba?
– Để ba tìm cách… Nhưng mà nè, con nói mỗi bữa có người mang cơm tới, mà đó là ai vậy?
Tiếng của Hương:
– Có lần con nhìn qua khe cửa chắc đó là một người phụ nữ. Bà ta rất lạ, hồi nào giờ chưa từng ở nhà mình.
Ông Thái lẩm bẩm:
– Con Tư Thắm, em họ của bả…
Út Hương chua chát:
– Ba thấy chưa, con mụ đó đã lộ rõ ý đồ chiếm đoạt cái nghiệp sản này mà! Mụ ta hại hai chúng con, rồi sẽ tới lượt ba, và cuối cùng sẽ chỉ còn là thân nhân, họ hàng của mụ ở cái nhà này thôi.
Giọng ông Thái chùn xuống:
– Bây giờ ba đã thấy. Nhưng dẫu sao thì
Lời ông chưa dứt thì chợt ông nghe tiếng động bên ngoài và qua khe cửa hở, tầm mắt ông nhìn được một khuôn mặt. Mà hình ảnh ấy vừa hiện ra đã làm cho ông trợn mắt, lắp bắp:
– Má… má tụi con… má Thoa…
Hương và Xuân cùng bật dậy cùng một lúc, họ chạy tuôn ra cửa, nhìn qua khe, nhưng thất vọng…
– Có ai đâu ba?
Ông Thái quả quyết:
– Đây là lần thứ hai ba thấy má tụi con. Bữa trước cũng chính vì nhìn thấy bả nên ba mới bị mê sảng mấy ngày liền. Đúng là má các con đang về. Đúng rồi…
Giọng ông càng lúc càng run, sự sợ hãi làm cho ông đứng không vững, phải dựa lưng vào vách và ngồi xuống. Xuân trấn an:
– Nếu má có hiện về thì cũng đâu có sao. Má con thương tụi con nên mới vậy…
Út Hương ăn nói bổ bã nên không kịp giữ lời:
– Chắc lúc trước ba có làm gì quấy nên mới sợ má báo thù chớ gì!
– Hương! Không được…
Xuân vừa la em, vừa bước tới cạnh bên ba an ủi:
– Hổm nay tụi con cũng thường xuyên chiêm bao thấy má. Má hiền lúc sống, lúc chết lẽ nào má hại ai sao ba? Nhất là với ba, nếu giờ đây ba không còn gì với mụ Tâm thì má đâu xử tệ
Út Hương vẫn còn ấm ức, nhưng cô cũng đổi giọng:
– Hôm ngoài nghĩa địa như ba thấy rồi đó, hồn má con linh thiêng lắm, má đã hiện về báo ứng cho con. Và bữa con bị nạn do uống thuốc của mụ đó thì chắc chắn là có sự giúp đỡ của má nên vào lúc nửa đêm con mới tự động chạy ra khỏi bệnh viện và biết đường xuống chiếc xuồng đợi sẵn ở bến và về được nhà một cách an toàn. Người chèo thuyền bữa đó không cho con thấy mặt, nhưng sau này con nghĩ đó chính là má. Bà không nói lời nào, nhưng lúc đưa con vào nhà kho này bà đã ra dấu biểu là không để cho ai thấy, rồi bỏ đi
Ông Thái bỗng ngã ra sân, làm cho Xuân hoảng hốt:
– Ba! Ba bị sao rồi, Út Hương!
Hai chị em cuống cuồng. Xuân còn biết đưa tay lên sờ mũi ba, cô mừng rỡ:
– Ba còn thở.
* * *
Mụ Tâm khá lo lắng nói với Tư Thắm:
– Không biết lão nhà tôi đi đâu, chị đoán ra không?
Tư Thắm khẽ lắc đầu:
– Lúc tôi đem cơm vô đây thì đã không còn thấy ông chủ ở đây. Hỏi mấy người ngoài trại đóng ghe, họ bảo cũng không biết.
Mụ Tâm hoảng hốt la lớn:
– Sao lại hỏi? Tôi đã bảo chị là phải giả câm giả điếc cơ mà?
Tư Thắm hạ thấp giọng:
– Bà chủ tin đi, tui là nhà quê, nhưng tôi cũng đâu có khờ dữ vậy. Tôi chỉ hỏi bằng cách ra dấu thôi.
– Ờ…
Mụ trầm ngâm một lúc:
– Ông ta đang bị bệnh tà ma có thể đi được sao? Hay là, có khi nào
Tư Thắm hỏi dò:
– Bà chủ muốn nói là gì?
– Tui nghi ông này bị ma ám. Mà hồn ma ở đây có thể lại là
mụ vợ trước của ông ta.
– Bà vợ trước? Tức là bà Bảy Thoa? Nhưng sao bà chủ lại nghĩ vậy?
Giọng mụ Tâm có vẻ mất tự nhiên:
– Chuyện này tui cũng không muốn giấu… Hồi trước chính ông ấy nói với tui là không muốn để bà ấy sống, nên lúc bà ta bị bệnh ông ấy để mặc cho đến chết…
Tư Thắm xúc động:
– Sao ông chủ lại làm như vậy? Còn bà, phải chăng lúc ấy bà cũng đồng tình?
Mụ Tâm nhìn nhanh vào mắt chị người làm, tự dưng bà rùng mình. Có lẽ câu hỏi đã chạm đúng tâm can của mụ
– Bà chủ, bà có sao không? Sao sắc mặt bà xanh tái vậy? Chắc là bệnh rồi, để em
Đưa tay ra hiệu là không việc gì, nhưng khi vừa quay đi định bước thì mụ ta lảo đảo. Tư Thắm kêu lên:
– Bà chủ, bà nằm nghỉ đây đã.
Mặc cho lời can ngăn, mụ Tâm vẫn lảo đảo bước đi. Chẳng biết vô tình hay cố ý, mụ hướng về khu đất trống đầy cỏ dại, khu nghĩa địa.
Tư Thắm chỉ đứng nhìn theo mà không có phản ứng gì
Khoảng hai mươi phút sau mụ Tâm đã bước thẳng vô khu nghĩa địa. Mồ mả dày đặc, phần nhiều là mộ cũ, đắp đất, thỉnh thoảng mới có vài cái xây gạch, có mộ bia. Chưa từng đặt chân đến đây lần nào, cũng chưa từng biết mộ mả của Bảy Thoa, nhưng chẳng hiểu sao mụ Tâm lại hướng rất đúng ngôi mộ có mộ bia đề chữ: "Ngô Kim Thoa". Mụ dừng lại và…
Trước mặt mụ là bộ quần áo của ai đó vất vung vãi trên đầu mộ. Cúi xuống nhìn, mụ kêu lên khẽ:
– Quần áo của ông Thái! Chẳng hiểu sao nguyên bộ quần áo của ông ta lại nằm ở đây? Phải chăng…?
Một lần nữa mụ Tâm lại cảm thấy lạnh sống lưng và mồ hôi chẳng hiểu sao lại chảy ướt đẫm cả người. Rồi cơn lạnh đột ngột làm cho mụ ta ngã quỵ ngay trước đầu mộ. Tư thế quỵ xuống vô tình lại giống như quỳ gối!
Có một nén nhang ai đã cắm sẵn nhưng chưa đốt, chợt nó bùng cháy lên như có ai vừa châm lửa vào! Mụ Tâm không còn bình tĩnh nữa, định lùi lại, nhưng lần này mọi sức lực của mụ đã tiêu tan hết. Kể cả muốn kêu lên lúc này mụ cũng không làm được.
Khói nhang phả lên mặt, mụ hít cả khói vào, mùi thơm của nhang như có mê dược, làm cho thần trí của mụ Tâm càng lâng lâng, mơ hồ
Trong ảo giác đó chợt mụ nghe có tiếng ai giục:
– Nhang cháy lên rồi, thề đi! Hãy thề là lo cho con tao đàng hoàng. Nếu làm trái lời thì sẽ tán mạng ngay tại chốn này!
Mụ Tâm còn đang lưỡng lự thì ai đó lại giục lần nữa:
– Thề nhanh lên hay là muốn xuống mồ?
Hình như có ai đó vô hình đang đưa tay kéo mụ ta xuống mộ. Trong cơn sợ hãi tột cùng, mụ Tâm nói không trọn lời:
– Tôi… Tôi làm… Tôi hứa… Tôi sẽ…
– Thề đi!
– Chị Kim Thoa hãy tha mạng cho em! Trước đây do ngu ngốc, ích kỷ nên em xúc phạm đến chị, gây ra cái chết của chị, nay em hối lỗi, em nguyện sẽ thay chị lo cho mấy đứa con, lo cho anh Thái
Mụ còn muốn nói nữa, nhưng chợt nén nhang trong tay vụt bắn ra xa như những cây pháo thăng thiên! Lửa ở đầu nhang lóe sáng như pháo bông và bay xa đến hơn trăm thước, rớt xuống bờ sông cách nghĩa địa khá xa. Ở đó có một chiếc ghe mui ống đang đậu, bỗng lửa từ cây nhang rơi xuống bắt vào lá che mui, làm thành một đám cháy dữ dội!
Mụ Tâm đờ đẫn nhìn theo, cho đến khi mụ tưởng chừng như mình hoa mắt, bỗng từ trên chiếc ghe đang cháy bóng của ông thầy Tàu A Sầu đang hoảng loạn nhảy từ trên ghe xuống sông!
– Sao lão ta lại ở đây?
Nửa muốn chạy xuống chỗ đó để cứu lão A Sầu, nhưng phần do sợ, nên mụ Tâm đành đứng đó nhìn cảnh
thuyền cháy dữ dội, rồi cuối cùng chìm lỉm xuống sông…
* * *
Ngày hôm sau, người ta vớt được xác lão thầy thuốc A Sầu. Người vớt xác lại chính là Tư Thắm. Chị ta đặt xác lên bờ rồi chạy đi tìm riêng mụ Tâm thông báo:
– Lão thầy Tàu chết rồi, bà chủ biết chưa?
Mụ Tâm đang còn mê ngủ, nghe báo thì chẳng tỏ vẻ ngạc nhiên, chỉ nói rất từ tốn:
– Tôi không quen biết ông thầy nào hết. Mau xô xác lão ta xuống sông đi. Tôi mệt
Mụ lại quay mặt vào vách muốn ngủ tiếp. Thấy vậy Tư Thắm không nói gì thêm, lặng lẽ quay ra hướng bờ sông. Lát sau nhiều người qua lại trên đoạn sông đó bắt gặp một xác người nổi lên trong tư thế đứng thẳng dưới nước, nửa thân người nhô lên trên mặt nước như cố vẫy tay cầu cứu!
Vài người biết mặt xác chết khi đi ngang đã lên tiếng:
– Đây là ông thầy thuốc, chẳng hiểu sao lại chết lạ vậy?
Trong lúc đó ở trại ghe Thái Bình bỗng nhốn nháo không khí của một ngày đại tiệc.
Những thầy thợ của xưởng ghe bàn tán nhau:
– Có lẽ đây là tiệc mừng chủ nhân mới của xưởng!
– Ai vậy?
– Thì bà chủ Tâm chứ ai vô đây!
– Ông Thái còn đó, hai cô Xuân và Hương cũng còn đây, làm sao có chuyện đổi chủ đột ngột như thế?
– Như vậy bữa nay là tiệc gì?
Nhiều lời bàn tán, kể cả đoán già đoán non, nhưng chung quy vẫn không ai biết chắc là tiệc gì. Người chủ trì đại tiệc đúng là mụ Tâm.
Kể từ hôm trở về từ nghĩa địa, bỗng bà ta thay đổi hẳn tính tình. Ăn nói nhẹ nhàng hơn, biết điều hơn và đặc biệt là đối đãi hết sức dịu dàng với ông Thái và hai cô con gái. Buổi chiều khi được Tư Thắm thả ba cha con từ nhà kho, chính Út Hương đã không tin, cô đã quát lên:
– Con mụ độc ác này giờ còn muốn giở trò gì nữa đây?
Mụ Tâm không chút bực bội trái lại còn rất dịu dàng khi nói với ông Thái:
– Tôi xin lỗi ông và hai con, bấy lâu nay tôi có lỗi, tôi đã đối xử không phải, thậm chí còn có ý đồ xấu nữa. Nay trước mặt ông và hai con, tôi dập đầu tạ lỗi. Tôi hứa từ nay không xía vào chuyện nhà, ông và con Xuân, Hương muốn biểu gì tôi nghe hết. Nếu không cho ở thì tôi dọn về bên nhà
Mụ ta nói xong thì quỳ ngay trước mặt ba cha con làm cho họ ngạc nhiên quá đỗi. Xuân vốn chơn chất, cô lên tiếng ngay:
– Dì làm gì quá đáng vậy. Đứng dậy đi, đừng để tụi con tổn thọ.
Nhưng Út Hương thì vẫn chưa tin, cô châm chọc:
– Chắc là bả đang nằm mơ đó. Hay là uống lộn thuốc của ông thầy Tàu rồi!
Ông Thái nhẹ nhàng chen vô:
– Đừng vậy con. Bả đã biết lỗi thì thôi, chẳng truy cứu làm gì… Bây giờ ý các con sao, để bả ở lại hay…
Út Hương nói ngay:
– Không ai có quyền ở trong này hết ngoài chúng tôi!
Giọng mụ Tâm vẫn từ tốn:
– Tôi cũng không dám đòi hỏi gì. Tôi sẽ đi khỏi ngay. Nhưng trước khi đi tôi xin một ơn huệ cuối cùng
– Dì muốn làm gì?
– Tôi xin ông và hai con cho tôi làm mâm cơm cúng chị lớn.
Ông Thái ngạc nhiên:
– Bà nói cúng ai?
– Dạ, chị Kim Thoa.
Không tin vào tai mình, ông Thái hỏi lại:
– Bà nói
đúng như vậy?
Mụ ta rất chân thật:
– Tôi nói ra bằng cả tấm lòng. Chỉ vì tối qua tôi nằm mơ thấy chị ấy về nói mình bị lạnh và đói. Tôi có hứa với chị…
Xuân quá tò mò hỏi dồn:
– Dì nói má con về gặp dì?
Mụ Tâm giấu không kể chuyện ngoài nghĩa địa, chỉ nói thêm:
– Đây là tấm lòng của tôi, tôi nghĩ chắc ông cũng không hẹp hòi, bởi ngay chiều nay là tui về bên nhà rồi.
Út Hương đã bắt đầu chú ý đến thái độ có vẻ thành khẩn của mụ, cô chợt nhớ lại chuyện hôm ở nghĩa địa nên thầm nghĩ: "Đúng là má hiển linh rồi, có thể là má đã làm cho mụ ta hối cải
". Tuy nghĩ vậy, nhưng trong nhất thời Hương cũng chưa thể làm lành với mụ đàn bà mà từ bao giờ cô đã có nhiều ác cảm. Hương bỏ đi về phòng riêng.
Bữa tiệc lớn được tổ chức. Khách mời được biết đây là lễ cúng vong cho Bảy Thoa, vợ chủ trại ghe Thái Bình.
Bàn lễ được đặt ngay trước sân rộng. Ra dự chỉ có ông Thái và Xuân, còn Út Hương thì kêu mệt không ra. Chỉ có Xuân là biết em mình không ra lễ nhưng vẫn đốt nhang ngồi cầu khấn mẹ trong phòng.
Chẳng hiểu ai dạy cho, mụ Tâm bày lễ vật và nghi thức thật chu đáo và đúng bài bản. Khi khách khứa đông đủ, mụ ăn mặc nguyên bộ đồ trắng, tóc xõa dài, ngồi giữa sân, khấn to:
– Hôm nay trước vong linh người đã khuất chị Ngô Kim Thoa, tôi là tội đồ Lê Thị Tâm, xin dập đầu tạ tội những gì đã gây ra cho chị từ lâu nay. Tôi xin trả lại chị số tư trang, tài sản mà lâu nay bằng thủ đoạn hồ ly, tôi moi được từ ông Thái. Đây là hiện vật, hiện kim.
Mụ ta đặt ngay trước mặt một túi vải khá lớn mà ai cũng hiểu trong đó là tiền và vàng.
Xuân quay sang cha, hỏi khẽ:
– Của cải gì nhiều vậy ba?
Ông Thái ngập ngừng:
– Đó là
cái mà…
Chợt có giọng ai đó nói từ phía sau:
– Đó là của cải của một người đàn ông phản bội vợ mình đem đi cho người khác. Cũng may là nó còn trở về
Quay lại nhìn thấy một người phụ nữ che kín mặt bằng chiếc khăn trùm đầu màu trắng, ông Thái ngạc nhiên định hỏi thì Xuân đã hỏi trước:
– Bà là ai, mà hình như những lần trước bà đã mang cơm cho chúng tôi ăn?
Lúc ấy Út Hương cũng vừa chạy ra, cô kêu lên:
– Đúng rồi! Bà này vừa vô trong phòng em đưa cho cái này.
Hương đưa cho cha mình bó nhang và bảo:
– Bà này biểu ba phải đốt nhang lên khấn và thề thì ba mới thoát khỏi vòng cương tỏa của mụ Tâm. Ba làm đi!
Ông Thái hỏi:
– Bà là ai?
Người phụ nữ từ từ mở vuông khăn ra, để lộ khuôn mặt quen thuộc. Vừa trông thấy ông Thái đã kêu lên:
– Tư Thắm!
Hương và Xuân cũng nói lớn:
– Bà này là dòng họ, thân nhân của mụ Tâm mà!
Người phụ nữ nghiêm giọng:
– Nếu không có tôi thì cái nhà này tan hoang rồi, cả ba mạng người này cũng không còn!
Quay sang Xuân và Hương, bà hỏi:
– Cơm ăn nước uống mỗi ngày đúng ra là có thuốc độc trong đó. Nếu tôi không hoán đổi thì mồ của hai con đã xanh cỏ rồi.
Nghe nhắc đến đó chợt mụ Tâm giật mình:
– Tư Thắm! Thì ra chị đã
Bước tới dìu Xuân và Hương lại gần Tư Thắm đưa tay vuốt lên tóc cả hai, giọng xúc động:
– Tội nghiệp các con tôi!
Giọng bà khác hẳn giọng của Tư Thắm hàng ngày làm cho ông Thái kinh ngạc:
– Bà là
– Đến vợ mình mà cũng không nhận ra nữa sao. Thảo nào, lâu nay mồ mả tôi không được nén nhang cũng phải thôi!
– Bà là má sắp nhỏ phải không?
Út Hương mừng khôn xiết:
– Má, đúng là má đây mà! Má ơi! Con Út Hương, con nhớ má lắm, hãy ở lại với con!
Hương vừa kêu vừa lao về phía Tư Thắm và ôm chặt lấy. Điều sai lầm lớn của cô gái nông nỗi này là ở chỗ đó. Khi cô vừa chạm tay vào người thì tức thời Tư Thắm nằm ngã ra bất động.
Bất kể, Út Hương vẫn lao theo, ôm lấy Tư Thắm và gào lên:
– Con đây má ơi! Con Út Hương đây!
Mặc cho Hương kêu gào, Tư Thắm vẫn nằm bất động. Lúc ấy bỗng có người từ đám đông reo lên:
– Trời ơi! Thắm, con tôi!
Đó là đôi vợ chồng người buôn dừa, vừa cặp bến họ lao về phía Tư Thắm đang nằm, xô Út Hương và ôm lấy người mà họ gọi là con:
– Đây là con gái tôi, nó có bệnh tâm thần nên cứ bỏ nhà đi lang thang. Tôi đã đi tìm con suốt mấy tháng nay tưởng là tuyệt vọng rồi, may là mới đây nghe có người đã gặp nó ở trại đóng ghe này, nên kịp tới đây. Ai đã làm gì con tôi thế này?
Họ lay gọi mãi và cuối cùng Tư Thắm mở mắt ra, vừa thấy hai người trước mặt đã òa lên khóc và ôm chầm lấy họ.
Mọi việc diễn ra quá nhanh, khiến cho từ ông Thái cho đến hai con gái đều ngơ ngác chưa hiểu gì? Cũng may vừa lúc đó có một vị bô lão có vẻ rành chuyện, bước ra nói:
– Đây là trường hợp âm hồn hồi dương hợp xác trần, đã từng xảy ra trước đây. Cô vợ Ba Thái đây không thể hiện hình người, nên đã mượn xác cô Thắm này nhập vào về ở gần con cái. Nếu lúc nãy Út Hương không vì quá mừng mà chạm vào người thì người này vẫn còn nguyên xác trần hồn ma!
Nhiều người chưa tin lắm, xúm lại hỏi, lúc ấy Tư Thắm không hề nhớ gì chuyện mình làm bấy lâu nay. Ông Thái hỏi thêm:
– Bà… có thật bà không còn ở đây hay không?
Cha mẹ Tư Thắm kéo con đi vừa nói với lại:
– Đừng làm cho con tôi nó sợ, nó có bệnh mà!
Họ đã xuống ghe, đi một lúc lâu, thì mọi người mới hoàn hồn. Ông Thái nhìn quanh không thấy mụ Tâm đâu thì ngạc nhiên hỏi:
– Bà ấy đâu rồi?
Một người thợ đóng ghe nói:
– Lúc lộn xộn hồi nãy, tôi thấy bà ấy xuống ghe chèo đi, chỉ có một mình.
* * *
Buổi tối, khi đã bình tâm trở lại, ba cha con ngồi mở cái bọc vải mà mụ Tâm để lại. Út Hương nói trước tiên:
– Con không nghĩ bà ta thật tâm hối lỗi đâu, có lẽ quá sợ vong hồn của má, nên mới như vậy. Trong bao này dám chỉ là ba thứ quần áo linh tinh, chớ làm gì có tiền bạc, tư trang
Vừa nói cô vừa đích thân mở ra, rồi cả ba cha con đều kêu lên:
– Tiền nhiều lắm nè!
Một số tiền khá lớn, kèm theo là một số nữ trang. Cầm lên một chiếc xuyên vàng, ông Thái quá ngạc nhiên:
– Vật này ba nhớ lúc má tụi con chết, ba đã đem theo trong quan tài, sao giờ lại đây?
Xuân cũng cầm lên một quyển sách, cô ngạc nhiên không kém:
– Đây là quyển kinh Phật, lúc chôn má, con nhớ là ba nói lúc còn sống má thường đọc quyển sách này, nên đã đem theo cho má, con nhớ rõ là nó ở trong quan tài mà?
Đến vật thứ ba do Út Hương lấy ra thì ông Thái đã thật sự hoảng hốt:
– Đây là chiếc khăn choàng bằng lụa mà đi đâu má cũng đội. Lúc má chết, chính ba đã choàng cho má mày, rõ ràng là vậy không thể là sai! Ai đã đào mộ má các con lên?
Hương chợt kêu lên:
– Ai viết gì trên khăn choàng nè ba?
Trải chiếc khăn lên bàn, ông Thái chỉ thấy những chữ Hoa ngoằn ngèo và bên dưới có vẻ một hình nhân bị một mũi dao xuyên qua người.
Đến lúc này thì ông Thái chợt hiểu:
– Thật khốn nạn, thằng A Sầu!
Trong lúc Xuân và Hương còn ngơ ngác không hiểu thì ông Thái chậm rãi kể:
– Lúc theo ở bên nhà bà Tâm, có hôm ba nghe thằng thầy Tàu A Sầu nói với bà ấy về chuyện trù ếm ai đó bằng cách lấy vật dụng cá nhân của người đó. Lúc ấy ba đâu có để ý nghi ngờ gì. Hôm nay, thấy cái khăn và những vật này, ba mới hiểu, chính mụ ác tâm đó đã cố tình trù ếm, triệt hạ cho bằng được dù là hồn phách của má tụi con, hòng về sống yên ổn ở đây. Chính thằng A Sầu đã lén tới đây, ra nghĩa địa đào mộ và ăn cắp những vật này lên.
Út Hương run sợ:
– Liệu má con có bị sao không ba?
Ông trầm ngâm một lúc rồi đáp:
– Ba nghĩ những việc làm xấu xa của họ đã không có tác dụng. Bởi thế nên hồn phách má con mới còn yên lành và còn về nhập xác cô Tư Thắm gì đó để giúp chúng ta trừ khử con mụ ấy đi. Và còn ông thầy Tàu nữa
Xuân chen vô:
– Con nghe người ta nói đã thấy xác ông ta chết trôi sông!
Ông Thái gật đầu:
– Ba đã đoán thế nào rồi cũng có kết cuộc đó. Má con thật linh hiển, chính bả đã ra tay
Nói đến đây chợt ông ôm mặt khóc rấm rức, rồi bất thần lao đầu vào cạnh tủ thờ thật nhanh! Cũng may do Hương ngồi tận đó, cô đã lao theo làm đổi hướng ngã của cha. Ông Thái kêu lên một tiếng đau đớn rồi nằm bất động.
Xuân hoảng hốt:
– Trời ơi, ba!
Út Hương cũng ôm chặt cha mình gào lên:
– Sao ba làm vậy? Tụi con thương ba mà…
Một dòng máu tuôn ra từ trán, nhưng ông Thái còn cử động. Xuân kêu lên cầu cứu:
– Bớ! Ai cứu ba tui với!
Mấy người thợ đóng ghe đã kịp thời cùng tiếp tay đưa nạn nhân xuống xuồng đi cấp cứu.
* * *
Ông Thái may mắn thoát chết. Ông chỉ bị vết thương hơi sâu nơi trán, nhưng không nguy hiểm đến tính mạng.
Hai cô con gái tận tình lo cho cha mình suốt hai ngày ở bệnh viện. Rồi họ an ủi và đưa cha về nhà. Nhìn thấy tấm lòng của con. Ông Thái phần nào đỡ day dứt. Ông nói một câu rất thật lòng:
– Ba hiểu rằng, nếu lúc này ba ra đi, bỏ lại hai con thì tội của ba càng nặng hơn.
Họ về nhà và chính hai cô con gái làm một bữa cơm cúng mẹ, vừa là bữa cơm đoàn tụ, để đánh dấu một đoạn mới của cuộc đời bắt đầu…
Lúc vui ông Thái bảo Xuân:
– Con đem cái túi đồ có những vật của má ra đây.
Lúc chở cha đi cấp cứu chính Xuân đã cất nó vào tủ khóa lại cẩn thận, nên cô đi lấy ngay ra.
Nhưng vừa mở ra, ông Thái đã ngạc nhiên khi nhận thấy có những mảnh vụn nát của vật gì đó… Kiểm lại ông ngạc nhiên bảo:
– Cái khăn choàng và cuốn kinh Phật đã mục nát, vỡ ra từng miếng hết rồi!
Quả là như vậy. Ngoài hai vật đó ra thì tất cả đều còn nguyên, kể cả những xấp tiền giấy còn khá nhiều.
Một lần nữa ông Thái nhận xét:
– Vong hồn má các con hiển linh, chính bả đã tiêu hủy mấy vật đó. Cái khăn choàng có chữ bùa thì hủy đi vì vô hiệu, còn bộ kinh Phật thì chính má con đã làm tan ra tro bụi để mang theo.
Út Hương đếm số tiền mặt và nữ trang còn lại, cô nói:
– Các vật này tuy là của mụ ta nhưng do bòn rút của ba mà có, vậy nó đúng nghĩa là của nhà mình. Bà ấy bị vong hồn má khiến, nên tự nguyện đem trả lại chớ chẳng tốt lành gì.
Cô đưa hết cho ba:
– Ba cất nó và làm vốn làm ăn.
Ông Thái cầm tay hai con:
– Từ nay ba giao cái xưởng ghe và toàn bộ cơ ngơi nghiệp này cho hai đứa. Ba sẽ ra ngoài miếng đất nghĩa địa, cất một cái am để vừa ở vừa tiện bề nhang khói cho má các con. Hãy để cho ba chuộc lại phần nào lỗi lầm.
Hai cô con gái cố khuyên giải ba, nhưng ông Thái vẫn nhất quyết làm như vậy.
Hơn tuần sau thì cái am đã cất xong. Ông Thái dọn ra ở đó và từ hôm ấy đã tự nguyện xuống tóc, khoác quần áo nâu sống như một tu sĩ.
Có một điều hết sức lạ đã xảy ra! Sáng sớm một ngày có mưa lâm râm. Khi ông Thái vừa mở cửa am ra, thì vô cùng ngạc nhiên khi phát hiện có một người nằm chết ngay ở đầu mộ của vợ mình. Nhìn kỹ ông lại càng kinh hoàng hơn, bởi người chết chính là mụ Tâm!
Và ông còn kinh sợ hơn khi liền theo đó bỗng có một ngọn lửa cháy bừng lên ở đầu mộ. Cái xác mụ Tâm chỉ trong phút chốc như một cái mồi lửa, cháy phát ra lửa xanh lạ thường!
Và chỉ nửa giờ sau thì chỗ ấy chỉ còn là một đống tro màu trắng
Trước khi ra khỏi nhà trọ, Lê Thanh còn nghe lão già cụt chân nhắc lại:
– Cậu hãy nhìn cái chân chỉ còn một cọng như cái chân tôi đây để mà tính con đường tương lai của mình. Nên nhớ nằm lòng đều này: "Không ai được cái gì vô điều kiện từ mẹ rừng cả. Mà vàng, trầm đều là sản phẩm của rừng không thể tự tiện lấy đi mà được yên lành hoàn toàn đâu
".
Đi đã xa trên con đường rừng rồi mà Thanh vẫn còn nghe vang vọng trong đầu câu nói ấy. Anh còn nhớ như in chuyện về cái chân bị mất của lão già. Chính một lần đi lấy trầm hương ở cánh rừng này lão đã bị hổ vồ và may mắn thoát được sau khi mất một chân trong miệng hổ đói, nhờ đã nhanh trí dùng con dao trên tay mình chặt đứt cẳng chân con hổ đang ngoạm.
Đâu phải ai tìm được trầm đều phải hy sinh thân thể. Đã có khối người làm giàu nhờ tìm được kỳ nam, trầm hương. Họ có sao đâu ngoài sự giàu sang và đổi đời?
Vả lại, với Thanh chuyện tìm trầm để làm giàu không phải là mục đích chính. Mà mục đích quan trọng hơn của anh là thực hiện lời nguyền của người cha quá cố. Trước khi nhắm mắt, ông đã gọi Lê Thanh đến bên và dặn chỉ một mình anh nghe thôi: "Con phải nhớ, cả đời ba đã tiêu tốn bao công sức chỉ cho mỗi mục đích là tìm cho ra một miếng trầm mà như lời ông nội con miêu tả lại, ông nội con đã để vuột mất nó chỉ trong nháy mắt chỉ vì một mỹ nhân xuất hiện bất ngờ khi ông con vừa tìm thấy trầm! Chính ba cũng vậy, sau hơn ba tháng canh chừng gian khổ, ba sắp lấy được nó thì cũng bỗng bị hoa mắt ngã té từ trên cây xuống gộp đá sâu, may mà không chết, chỉ bị hôn mê và sau đó bị bại liệt luôn, không còn khả năng trở lại rừng nữa… Nhưng ba quyết phải thành công. Đời ba làm chưa được thì tới phiên con. Con phải hứa với ba, phải tiếp tục con đường của ba, nếu không thì ba sẽ mãi mãi làm oan hồn, không thể siêu thoát…".
Lê Thanh lao vào cái nghiệp đi tìm trầm không phải vì để làm giàu, mà vì chính lời ước nguyện của cha. Vả lại, chẳng biết phải do ám ảnh lời ước nguyện hay nguyên do nào khác, mà những lúc gần đây Thanh lại nghe niềm đam mê đi tìm trầm trong người cháy bỏng lên hơn bao giờ hết. Anh đã thề với lòng rằng phải tìm cho bằng được trầm hương mà không phải đánh đổi bất cứ thứ gì!
Soát lại túi thức ăn mang theo, Thanh khá yên tâm, bởi với lượng thức ăn này một mình anh thừa khả năng sống hơn một tuần giữa rừng. Cũng giống như lần trước, Lê Thanh không cần sự trợ giúp của ai, sẽ một mình lặng lẽ tìm kiếm và nhận mọi nguy hiểm chỉ với đôi tay và ý chí của mình. Anh nhớ lời cha anh đã nói lúc ông còn làm nghề đi rừng: "Tìm trầm hương là thử thách cái cơ duyên của mỗi người. Vậy đi tìm trầm thì tốt nhất là đi một mình. Có duyên thì vận may sẽ tới…".
Đã sống qua một tuần trong chốn thâm u này mà cơ may chưa tới, nên hôm nay bắt đầu tuần thứ hai Thanh có vẻ tự tinh hơn, anh vừa tìm chỗ mắc võng nghỉ chân vừa lâm râm khấn vái vong hồn cha: "Con sẽ thực hiện được ước nguyện của cha, cha yên tâm đi. Trước sau gì con cũng thành công!".
Những lời khấn vái như thế này đồng thời là những lời tự động viên của Thanh. Anh luôn muốn làm như vậy mỗi khi mệt mỏi, chán nản…
– Chào người anh em trẻ!
Câu chào của ai đó làm cho Lê Thanh giật mình quay lại. Một lão già người thượng quẩy chiếc gùi trên lưng, đang đi từ một con đường nhỏ băng ra. Họ chẳng quen nhau, nhưng thường người đi hay chào hỏi nhau nếu bất chợt gặp nhau giữa rừng.
– Dạ, chào già… ông cũng đi săn?
Ông lão cười nhe ra hai cái răng còn lại chổng trơ trên hàng nướu thâm xì:
– Anh trẻ đi săn gì? Có giống già đi tìm con tra trả hay không?
(Thanh đã có nghe về con chim gọi là tra trả này, nó là loài chim chuyên bám theo các loại thú dữ như cọp, beo để kêu lên mỗi khi loài ác thú xuất hiện. Người đi rừng thường bảo loài chim đó giống như loài chim báo bão ngoài biển khơi. Nó là loài cứu tinh của con người!)
Anh hỏi thăm:
– Rừng này có ông hổ nào có loài chim đó?
Lão già vẻ sợ hãi:
– Đây là hang ổ của chúng, sao lại không có! Mà sao anh trẻ đi một mình và không mang theo cái cây bùm bùm?
Biết ông già hỏi đến súng, Thanh cười đáp:
– Cháu không đi tìm ông hổ thì đem súng theo làm gì già ơi! Hổ sẽ không hại người khi người không tìm đến chúng phải không?
Lão già thượng rùn vai:
– Người ta nói vậy, chớ ở đây người đi rẫy, lên nương bị "ông" hạ hoài. Phải nói là không có ý săn hổ, nhưng có tiền kiếp thâm thù với hổ, thì cũng bị "ông" sát khi gặp mặt.
– Vậy già đi tìm chim tra trả để làm gì?
– À, già tìm cho Thần Hương. Thần ra lệnh đi tìm, bảo chim mau về đây, mang ông hổ cùng về, để giúp thần đuổi bọn xấu đi!
Lê Thanh ngạc nhiên:
– Thần Hương là ai? Có phải là Thần Trầm hay không?
Nghe Thanh nói, già thượng hoảng hốt:
– Đừng nói tên đó ra!
– Tên nào?
Lão hạ thấp giọng như sợ có người nghe:
– Ở đây không ai gọi là trầm hương cả, mà phải gọi là Thần Hương!
Lê Thanh càng tò mò thêm:
– Sao lại có Thần Hương?
Thấy anh chàng quá lờ mờ, già thượng phải nói rõ hơn:
– Lâu nay nhiều người đổ xô về đi tìm trầm, họ tận dụng chặt phá không chừa cây già đến cây con. Chỉ có những loài trầm hóa kiếp rồi mới thoát nạn, nhưng các vị ấy đã nổi giận!
Chạm vào đúng mục đích của mình, Thanh hỏi tới:
– Sao lại gọi là trầm đã hóa kiếp?
– Thì
trầm đã hiển linh, đã không còn là trầm mà bất cứ ai cũng có thể nhìn thấy.
– Thì ra là thế!
Lê Thanh nhớ lại những chi tiết về cái chết của ông nội, rồi tai nạn của cha, anh liên tưởng đến điều mà già thượng vừa kể. Anh hỏi lại:
– Trầm đó có lấy được không?
– Trầm nào?
– Trầm hiển linh ấy!
Lão già nhẹ lắc đầu:
– Đừng hòng.
Ông ta đáp xong đưa mắt nhìn Lê Thanh ra vẻ ái ngại. Rồi lặng lẽ bỏ đi mà chẳng nói thêm một lời nào…
Anh chàng định gọi lại, nhưng nghĩ sao lại thôi. Đợi lão kia đi xa rồi Thanh mới rẽ về một hướng khác, nơi mà hôm trước anh đã từng đi qua, mà cũng là địa điểm mà theo lời chỉ dẫn của cha, ông đã từng ở đó lâu ngày và đã tìm được dấu vết của trầm hương.
Đến xế chiều hôm đó, chợt có một cơn mưa lớn. Lê Thanh đã thủ sẵn mọi thứ, nên chỉ trong vòng 5 phút anh đã mắc được chiếc võng treo lơ lửng giữa hai nhánh cây và có cả tấm bạt che mưa.
Mưa ở rừng có khi kéo dài cả ngày, nhưng cũng có những cơn mưa chỉ ồ lên một chút rồi ngừng, như cơn mưa hôm nay. Mưa tạnh, nhìn đồng hồ thì đã quá giờ, nên Lê Thanh quyết định ngủ lại, sáng mai sẽ đi tiếp. Theo anh nhẩm tính thì đã sắp đến địa điểm có ghi dấu của cha và ông nội, Thanh yên tâm chờ đêm xuống…
* * *
Giật mình tỉnh giấc bởi mùi hương nức mũi, Lê Thanh nhìn xung quanh một lượt, nhận ra mình vẫn nằm yên trên võng treo giữa hai thân cây. Ánh trăng trên đỉnh đầu sáng trong tỏa khắp khu rừng, mà bằng mắt thường cũng nhìn thấy vạn vật như đang lay động theo từng cơn gió. Đêm rừng đẹp lạ thường!
Và còn đẹp hơn khi Thanh chợt nhìn xuống gốc cây và bắt gặp một người con gái đang đứng co ro, mái tóc xõa tung bay theo gió…
– Cô là
?
Thanh hỏi rất khẽ, nhưng cô gái đứng dưới vẫn nghe, cô không nhìn lên, thốt lời:
– Thật vô tình, mình nằm ngủ ấm áp như thế, để người khác lạnh cóng cả người
Trước hoàn cảnh bất ngờ, Lê Thanh lúng túng:
– Cô là
là ai vậy? Tại sao nửa đêm lại ở đây? Cô là
– Hỏi gì mà lắm thế? Không kịp để cho người ta trả lời!
– Nhưng… cô là…
– Là người thiếu lịch sự, ngồi trên cao nói chuyện với một người đang sắp chết vì lạnh dưới này, coi được lắm sao!
Bây giờ Lê Thanh mới nhớ ra, anh chuẩn bị bước xuống thì đã nghe nàng ta cười khúc khích:
– Thôi, để người ta lên!
Nói xong, cô này thoăn thoắt leo lên, còn giỏi hơn là Thanh lúc leo lên ban chiều.
– Cô biết leo cây?
– Nếu không tập leo thì đã bị hổ ăn thịt từ đầu hôm rồi. Vừa rồi… chỉ vì ngại nên… người ta mới còn đứng đây, chớ còn mùi hổ đang rất gần đây.
Vừa lúc ấy Thanh nghe tiếng chim tra trả kêu lên liên hồi. Dấu hiệu có hổ đến gần!
Không còn kịp suy nghĩ, Thanh đưa tay kéo cô nàng lạ mặt lên ngay cùng chung võng với mình. Cũng may dây võng khá chắc nên hai người ngồi vẫn an toàn. Tuy vậy Thanh vẫn nói:
– Hay để tôi qua cành cây ngồi, cô nằm nghỉ…
Cô gái liếc nhìn rất sắc:
– Lịch sự có thừa, đúng là người thành phố!
Bây giờ Thanh mới kịp nhìn kỹ cô gái, bất chợt anh giật mình, bởi sắc đẹp lạ thường của cô nàng!
– Cô là…
– Lại hỏi nữa! Hay là không muốn cho người ta chung võng?
– À không, tôi chỉ…
Có thể thông cảm cho sự lúng túng của anh chàng, nên nàng ta nói, giọng khác hẳn nãy giờ:
– Em theo đoàn đi săn hổ, bị hổ rượt nên lạc đường.
– À, thì ra…
– Còn anh, sao lại chọn rừng già đầy hiểm nguy này nằm ngủ, hay là muốn làm bạn với thú dữ?
– Cô hiểu như thế cũng không sai.
Bây giờ đã xác định hương thơm lừng nãy giờ là do từ thân thể cô gái phát ra, Thanh đột ngột đưa mũi dí sát vào mái tóc nàng ta và hỏi:
– Có phải cô ướp hương trầm?
Cô gái nhìn sâu vào mắt Thanh:
– Anh không thích?
Lê Thanh hít một hơi dài:
– Chỉ vì mùi hương này mà tôi nguyện gắn cuộc đời mình với chốn này.
Nàng chau mày:
– Anh đi tìm trầm?
Thanh không giấu:
– Tôi không chuyên nghiệp, nhưng vẫn là người tìm trầm hương. Mà như vậy thì có gì không nên chăng?
Nàng nhẹ lắc đầu:
– Đâu có sao. Miễn là…
Nàng có vẻ như muốn tránh không muốn nói chuyện đó, nên lảng sang chuyện khác:
– Anh có biết là vùng này có hổ?
– Có. Tôi có nghe ông già thượng nói lúc chiều. Cô cũng biết?
– Không, em bị lạc đường… cũng may có anh. Anh là…?
Lê Thanh chợt nhớ ra:
– Nãy giờ quên không giới thiệu, tôi là Lê Thanh. Còn cô?
– Lệ Hương.
Lúc ấy chợt có một tiếng gầm thật lớn. Có lẽ lũ hổ đang đến gần.
Lệ Hương vội ôm chặt lấy Thanh, người run run lên nhè nhẹ. Mặc dù cũng sợ, nhưng có hơi ấm của cô nàng, đồng thời hương thơm lạ thường cứ phả vào mũi, đã làm cho anh như ngất ngây, quên cả loài mãnh thú đang rình rập dưới kia.
Một con hổ thật to đi thẳng về chỗ hai người. Cách khoảng hơn chục bước chân, bỗng nó dừng lại, nghểnh cổ lên nhìn và rõ ràng hai cánh mũi nó phập phồng như ngửi hương thơm kỳ lạ đó vào buồng phổi. Vài mươi giây trôi qua, rồi bỗng dưng con hổ quỳ phục xuống như một người đang quỳ gối! Mắt nó hướng chỗ hai người như chờ đợi…
Lê Thanh muốn tiếp tục theo dõi động tĩnh của con hổ, nhưng vòng tay của cô nàng ghì chặt cổ anh xuống. Giọng cô thật khẽ:
– Em sợ… hãy ôm chặt vào… nữa… vào nữa…
Trời đất như quay cuồng, đảo lộn… Lê Thanh dần dần có cảm giác như toàn thân mình nóng ran lên, đôi mắt muốn mở ra mà sao không tài nào mở được.
Chừng như có bàn tay ai đó lùa vào ngực anh và vuốt nhẹ xuống. Cái vuốt tay đến đâu người anh run lên đến đó…
– Nè, cái anh trẻ ơi! Làm gì mà giờ này còn nằm trên võng vậy?
Lão già thượng gọi ba bốn lần vẫn chẳng thấy động đậy, nên lầu bầu:
– Mặt trời đã đứng bóng rồi, sao vẫn còn ngủ…
Linh tính như báo điều chẳng lành, lão đặt gùi xuống rồi leo lên cây. Phát hiện Lê Thanh đang nằm bất động hai mắt nhắm nghiền, lão kêu lên:
– Anh trẻ sao vậy?
Vẫn không có phản ứng, lão đưa tay sờ lên trán rồi lên mũi và hoảng hốt:
– Không xong rồi! Trúng gió rừng rồi!
Khó khăn lắm lão mới mở được võng đưa Thanh xuống. Anh chàng đã ngất lịm từ lúc nào rồi, người lạnh như băng. Có điều lạ là dù không biết gì, nhưng hai bàn tay anh chàng vẫn ôm ghì lấy khúc gỗ được đẽo gọt giống như một hình nhân, một mỹ nữ! Lạ hơn nữa, hương thơm phát ra từ khúc gỗ đẽo làm cho lão thượng phải ngẩn ngơ. Lão lẩm bẩm:
– Trầm hương! Thần hương!
Lão chợt nhìn ra sau, thấy con hổ vẫn quỳ ở đó, thì thật nhanh, lão chấp tay lại, đọc lầm thầm gì đó trong miệng.
Con hổ hiền khô, nó từ từ đứng lên rồi đi biến vào rừng cây.
Cất tiếng hú mấy hồi dài… lát sau người làng của lão thượng tới bốn, năm người nữa. Lão bảo họ khiêng Thanh về bản. Để mọi người không nhìn thấy, lão khéo léo lấy áo choàng của Thanh quấn chặt anh lại, nhét pho tượng vào trong đó.
Lão tỏ ra vô cùng cung kính khúc gỗ trầm. Gần như không dám chạm mạnh vào.
Về đến bản, nhờ có thuốc gia truyền, đồng thời chừng như đoán được căn bệnh của Thanh, nên đến tối hôm đó thì Thanh tỉnh lại.
Vừa tỉnh, anh đã bật dậy hỏi ngay:
– Nàng đâu?
Lão già thượng ngạc nhiên:
– Nàng nào?
Chợt nhận ra trong tay mình có pho tượng gỗ trầm, đến phiên Thanh ngơ ngác:
– Cái này… ở đâu vậy?
– Thì của cậu. Lúc tôi leo lên võng thì thấy cậu bị ngất mà trong tay vẫn còn ôm chặt lấy pho tượng này. Chẳng của cậu thì của ai?
Lê Thanh nhớ lại chuyện hôm qua. Anh lẩm bẩm:
– Thì ra…
– Cậu nói gì?
– À, không. Cháu chỉ…
Thanh săm soi pho tượng thật kỹ, hương thơm từ đó phát ra nức mũi, chẳng khác mùi hương của cô gái lạ đêm qua.
– Hay là
?
Anh quay sang lão thượng, hỏi:
– Có một đoàn đi săn ở gần đây phải không?
Lão già lắc đầu:
– Đây là vùng cấm săn bắn, mà cũng đã lâu chẳng hề nghe thấy cuộc đi săn nào.
Thanh muốn kể lại chuyện cô gái, nhưng lưỡng lự một lúc rồi thôi. Anh chỉ nói:
– Cháu muốn nghỉ nhờ ở đây đến sáng mai.
Lão già thượng thật lòng:
– Anh trẻ muốn ở bao lâu cũng được. Bởi vì già này có hứa với Thần Hương hễ ai là bạn thì sẽ bảo vệ tới cùng.
– Nhưng cháu đâu phải là bạn?
Chỉ pho tượng gỗ, lão nói:
– Pho tượng này theo lão biết thì đã ở trong hang gió từ mấy chục năm rồi, không một ai lấy được. Theo truyền thuyết thì tượng này do một người đi tìm trầm, khi bị kẹt dưới hang không lên được, đã bỏ ra mấy tháng trời mới tạc xong pho tượng này bằng chính khúc gỗ trầm do mình tìm được. Tạc xong tượng thì ông ta chết. Hiện nay xương cốt trong Hang Gió. Hang quá hiểm trở, không một ai xuống đó được. Vậy anh trẻ có được pho tượng này chắc là
có điều gì đó thiêng lắm
Thanh nhớ lại có lần cha mình đã muốn kể rõ về cái chết của ông nội đi lấy được trầm thì bị rơi xuống vực. Rồi thôi, không kể nữa
có thể xác chết trong hang Gió đúng là ông nội của anh? Ông đã chết thảm và đầy bí ẩn như thế, chớ không như lời kể của cha. Giờ đây kết nối câu chuyện của ông già thượng, Thanh bắt đầu hiểu ra
Nhưng tại sao anh có được pho tượng này, nếu không do cô gái lạ hồi đêm? Thanh khẩn thiết van nài lão già:
– Cháu có liên quan đến người bỏ xác trong hang Gió mà lão vừa nhắc tới đó. Cháu muốn biết có phải lúc sáng lão nói về cây trầm hương hiển linh có liên quan đến tượng này?
Có lẽ muốn giấu, nhưng thấy thái độ thành khẩn của Thanh, nhất là khi nghe anh nói mình là cháu của bộ hài cốt trong hang, lão trầm ngâm một lúc rồi nhẹ giọng kể:
– Chuyện này già đã thề dưới hang Gió là không nói cho ai biết. Nhưng đến nay có lẽ già cũng phải phá lệ thôi. Hồi đó, có lẽ cũng ngót 20 năm rồi, già mạo hiểm đuổi theo một con chồn bị thương chạy vào hang Gió và bị lọt xuống hang, ở đó già tình cờ gặp một bộ xương tay còn ôm pho tượng trầm tỏa hương này. Trên vách hang có mấy hàng chữ viết bằng máu đã sẫm màu, ghi lại ý nguyện của người đó trước khi chết…
Không đợi lão kể hết, Thanh chen ngang:
– Viết gì vậy?
Lão kể tiếp:
– Người ấy dặn con cháu không nên tìm lấy trầm hương nơi này nữa, bởi đây là trầm thiêng. Bởi nó quá thiêng nên ai tìm thấy nó đều chịu nhiều bất trắc. Cũng như người đó, tiết lộ rằng trong lúc đốn trầm đã vô tình gây thương tích và để lại máu thấm vào thân trầm hương. Mà dân rừng ở đây ai cũng đều biết, một khi máu người thắm vào trầm thì khúc trầm đó sẽ… thành tinh!
Lão kể tới đây thì lạc hẳn giọng, liếc nhìn pho tượng gỗ trầm, lộ vẻ sợ sệt
Lê Thanh xiết chặt pho tượng vào lòng, anh quay qua chỗ khác, nói chỉ mình nghe:
– Đúng cô nàng ấy là…
Lão già thượng hỏi:
– Cậu nói gì?
– Dạ… không có gì.
* * *
Lê Thanh về thành phố mang theo cả pho tượng trầm hương. Về nhà, anh lục tìm trong tủ sách cha để lại, thật bất ngờ, anh bắt gặp một quyển sổ tay mà trong đó có những dòng mà do chính tay cha anh ghi lại:
"Tôi hai lần trở lại chỗ Hang Gió, cố tìm cách thâm nhập vào hang để đưa xác cha về, nhưng lần nào cũng thất bại. Tôi đã giấu không kể hết sự thật về cái chết của ông nội thằng Lê Thanh cho nó nghe, chỉ sợ nó sau này lặp lại điều mà ông nội nó phạm phải. Kể cả tôi, suốt gần mười năm tìm trầm chưa bao giờ tôi dám nghĩ chuyện trở lại Hang Gió lần nữa, mặc dù cho đến hôm nay hài cốt cha tôi vẫn chưa đem về được…".
Thế là rõ, những gì ở Hang Gió có liên hệ trực tiếp tới nhà anh. Đặc biệt là pho tượng gỗ trầm này
Kể từ hôm trở về nhà Thanh đặt pho tượng lên trên đầu tủ ngay trong phòng mình. Nhưng ngay đêm đầu tiên, giữa giấc ngủ, anh phải giật mình bật dậy nhiều lần, bởi cứ khi nào nhắm mắt là y như rằng có một thứ ánh sáng xanh kỳ lạ phát ra từ pho tượng!
Cứ ngỡ là do mình đi xa mới về còn mệt nên bị tình trạng như vậy. Nhưng đến đêm thứ hai, thứ ba vẫn xảy những chuyện giống như thế. Điều này đã làm cho Thanh bắt đầu lo ngại.
Tới ngày thứ năm Thanh chuyển bức tượng ra phòng khách, nơi có tủ thờ ông nội và cha. Tượng được để trang trọng trong một hộp kính, đặt trên một tủ thờ riêng.
Đêm đó quả nhiên những cơn ác mộng không xảy ra nữa. Lê Thanh ngủ yên tới sáng.
Nhưng có một điều lạ thường đã xảy ra vào sáng sớm hôm đó! Vừa bước ra phòng khách, Thanh đã sững sờ trước một bộ hài cốt đặt ngay dưới chân bàn thờ.
Trong nhà chỉ một mình Lê Thanh sống, lúc ngủ cửa nẻo đều đóng kín, khóa chặt. Như vậy nhất khoát không phải do ai mang bộ xương vào nhà…
Lúc xem kỹ lại bộ hài cốt, Thanh phát hiện ở xương cổ còn có một thẻ bài bằng kim loại, trên đó ghi rõ danh tính là Lê Văn Hạo. Đó chính là ông nội của Lê Thanh!
* * *
Lê Thanh sống yên ổn với bức tượng gỗ trong nhà. Còn hài cốt ông nội thì anh mai táng ngay vườn sau nhà.
Cuối năm đó Thanh có ý định lấy vợ. Cô gái anh dự tính lấy tuy không phải do mối tình lãng mạn, nồng thắm… Tuy nhiên, do có người mai mối, đồng thời Thanh cũng muốn có người tiếp tay lo chuyện nhà nên Thanh đồng ý, chuẩn bị chọn ngày làm lễ hỏi.
Nhưng thật lạ lùng, nửa đêm hôm đó bỗng nhiên những bát nhang đặt trên bàn thờ bốc cháy dữ dội. Khi Thanh phát hiện chạy ra thì lạ hơn nữa, cái hộp kính bao pho tượng trầm bỗng nổ to và vỡ ra từng mảnh. Thứ ánh sáng xanh hôm trước lóe lên rất lâu!
Như được báo trước một điều gì đó, tự nhiên Thanh đổi ý, hủy lễ hỏi sáng ngày mai. Dù bị khá nhiều rắc rối ngay sau đó, nhưng Thanh cam chịu, không hối tiếc điều gì
Và cũng lạ lùng hơn, kể từ hôm ấy, nếu Lê Thanh đóng cửa ở trong nhà thì không có việc gì, trái lại nếu anh ra đường và có quan hệ với ai là nữ giới, thì y như rằng bàn thờ tổ tiên nhà anh bốc cháy! Mỗi lần như vậy thì pho tượng cũng phát ra lửa xanh kỳ lạ, rồi tự nhiên mùi hương nức mũi cũng biến mất. Hiểu điều đó, nên kể từ đó Thanh chỉ đóng cửa và luôn nhang khói đều đặn cho cả pho tượng trầm hương.
Về sau, người ta đồn rằng cậu Lê Thanh có quan hệ với hồn ma hay một người con gái nào đó trong nhà mình. Cô ta chỉ xuất hiện vào ban đêm và mỗi khi xuất hiện thì mùi hương lạ thường lan tỏa khắp xóm.
Hư thực ra sao, chỉ có Lê Thanh mới biết…
Chỉ có điều là hàng chục năm sau vẫn chẳng thấy anh chàng lấy vợ. Vậy mà ngôi nhà anh ta ở lúc nào cũng như tràn đầy hạnh phúc
Tiếng khóc than kể lể của vợ càng làm cho Ba Hoành bực bội thêm.
Gần một giờ đồng hồ, Ba Hoành ngồi lặng im trên ghế ngồi hút thuốc liên tục, cố làm át đi cái mùi dầu gió xanh sực nức căn phòng, cái mùi làm ông muốn ói. Ông không thèm trả lời tiếng nào.
– Bây giờ ông thấy tôi đau ốm rồi ông muốn bỏ luôn phải không? Tôi biết mà, ông đâu cần tôi nữa. Tôi mà chết sớm giờ nào ông mừng giờ nấy, cho khỏi vướng bận. Mặc tình cho ông đi nhậu nhẹt. Rồi hết con này đến con kia
Ông muốn phá cho nát cái nhà này ông mới vừa ý mà.
Không thể chịu đựng được nữa, Ba Hoành chầm chậm quay qua nhìn thẳng vào mặt vợ:
– Tôi hỏi bà, bà có để yên cho tôi nghỉ ngơi chút nào không? Từ lúc đi làm về tới giờ bà luôn miệng bao lâu rồi bà biết không? Vậy mà biểu người ta đừng chán. Vợ con gì… Cái này là cái nhà hay địa ngục?
Như được châm thêm dầu, cái dai dẳng của bà vợ lại tiếp tục cất cao lên:
– Tui biết ông chán cái nhà này lắm rồi. Địa ngục mà. Tui biết ông muốn đi lại chỗ con đó thôi. Ông có giỏi thì đi đi
Bà vợ lại tiếp tục khóc lóc, tru tréo, than van:
– Chẳng thà ông nói một tiếng đi, ông nói ông không cần tui nữa đi, rồi tui để ông đi luôn với con ngựa cái đó. Tui bịnh hoạn như vầy mà ông không thèm chăm sóc, lại đi lo lắng cho con đó. Đây nè, tui chuẩn bị thuốc ngủ rồi nè, chút nữa tui uống tui chết cho ông vừa lòng…
"Lại bổn cũ" – Ba Hoành nghĩ thầm. Từ lúc bệnh đến nay bà vợ cứ làm ông khổ sở suốt ngày đêm. Hết khóc lóc rồi lại ghen tuông, hết ghen tuông rồi lại đòi chết, đến nỗi ông không muốn về nhà. Mà càng không về thì mỗi lần về còn khó chịu hơn gấp bội.
– Trời ơi là trời! Sao cái số tui khổ vầy nè. Chồng ơi là chồng…
Bà vợ khóc rống lên. Sức chịu đựng có hạn, Ba Hoành đứng dậy:
– Tui nói thiệt với bà tui bỏ đi bây giờ đó. Bà có im không?
– Tui không im, ông làm gì tui? Ông có ngon ông đi. Ông đi thử coi. Ông đi là tui chết liền đó. Ông đừng có ác đức quá vậy. Cái con ngựa cái đó nó cho ông ăn bùa mê thuốc lú gì mà ông ngu dữ vậy. Già hai thứ tóc rồi mà còn mê gái
Ba Hoành bực bội mở cửa phòng. Bà vợ chửi với theo:
– Thứ đàn ông ngu. Thứ đàn ông không biết điều. Tui mà chết tui cũng báo ông suốt đời…
"Rầm". Tiếng cánh cửa dập mạnh.
Bà vợ cảm thấy đau khổ cùng cực. Bà cũng biết tánh lăng nhăng của ông từ trước đến nay. Bà cũng đã nhiều lần ghen tuông đủ kiểu. Rồi đâu lại vào đó. Hết con này, lại đến con khác. Nhưng lần này ông có vẻ mê say con nhỏ này lắm. Đầu tiên nó gặp ông với tư cách là đối tác làm ăn. Vậy mà
Bây giờ lại là lúc bà bệnh hoạn, không đi ra ngoài được. Tức quá, bà cảm thấy khó thở.
Bà nghe tiếng chân chồng trong phòng khách. Có tiếng chuông điện thoại di động reo vang.
– Ok. Ok. Tới liền.
Rồi tiếng mở cửa, tiếng mở cổng, tiếng xe ra khỏi nhà…
* * *
Ba Hoành thức dậy nhìn đồng hồ. Còn sớm. Ông nhìn qua người đàn bà ngủ say nằm kế bên. Đàn bà đẹp lúc ngủ càng đẹp hơn. Ông công nhận trên đời này có những người đàn bà vừa đẹp lại vừa khéo léo lạ lùng. Họ có khả năng dễ dàng làm hài lòng đàn ông trong giao tiếp, quan hệ và cả trên giường. Bà Loan là một trong những người như vậy mà trời đã trao cho ông. Từ lúc có bà Loan đến nay ông nâng niu, chăm sóc, cưng chiều. Bù lại, Loan cũng đã giúp ông thành công trong nhiều phi vụ khó khăn và thỏa mãn "chất đàn ông" của ông. Vì vậy mà họ lại càng gắn bó nhau hơn, trước con mắt ghen tỵ của nhiều người khác, đa số là bạn bè làm ăn của ông.
Có tiếng chuông điện thoại.
Người nhà báo ở nhà có việc quan trọng mời ông về gấp. Ba Hoành cười mỉm. Lại là chiêu cũ. Đây không biết là lần thứ bao nhiêu bà đã ngất xỉu, điện thoại gọi ông về. Rồi đâu cũng vào đó, lại tiếp tục chuỗi dài khóc than, kể lể. Ba Hoành cảm thấy quá ngán ngẩm.
Ba Hoành cúi xuống hôn làm bà Loan chợt tỉnh:
– Anh đi sớm vậy.
– Ừ. Có một số công việc. Anh đi nghe. Có gì phôn cho anh.
Bà Loan cười, nhắm mắt định ngủ tiếp nhưng không ngủ được nữa. Bà bước khỏi giường đi vào phòng vệ sinh.
Đây là ngôi biệt thự nhỏ xinh xắn mà Ba Hoành mua để làm tổ uyên ương cho hai người. Ngôi nhà nằm trong một con đường nhỏ và vắng lặng nên hết sức yên tĩnh. Lúc nào cần hẹn hò là họ đến với nhau tại đây. Nhớ tới Ba Hoành, bà Loan chợt mỉm cười. Đó là người đàn ông thành đạt với cái lối làm ăn nửa như chân chất nhà quê, nửa như gian xảo thành thị. Chính vì vậy mà khối người vừa muốn làm ăn với anh lại vừa e ngại, sợ hãi.
Nhưng với bà Loan thì Ba Hoành hiện ra với tư cách là một người đàn ông có nhiều ưu điểm dành cho đàn bà. Thứ nhất là có nhiều tiền. Điều quan trọng này giúp cho cuộc tình không bị những khó khăn đời thường chi phối. Thứ hai là không lệ thuộc gia đình. Bà Loan biết Ba Hoành sống rất gia trưởng trong gia đình với người vợ vừa già vừa nhà quê, lại bệnh hoạn. Bất cứ khi nào Hoành cũng có thể ra khỏi nhà hú hí. Thứ ba là sung sức. Người đàn ông ở tuổi này mà tràn đầy sức lực như Ba Hoành không phải là nhiều. Ba Hoành hùng hục đưa bà lên mây. Bà nhiệt liệt hưởng ứng và đáp trả. Trong chuyện này thì chưa biết ai thua ai. Bà Loan cười thích thú.
Bỗng cửa phòng vệ sinh xịt mở. Bà Loan quay lại nhìn, không có ai. Một làn gió lạnh buốt thổi vào. Bà Loan rùng mình cảm thấy nổi gai khắp người.
Sao cửa phòng lại mở? Ngôi nhà này không bao giờ có người nào khác ngoài hai người. Chắc là tại gió đây. Bà Loan bước ra đóng cửa lại. Nhưng khi cửa sập lại thì bà Loan cảm thấy hình như có ai đang đi tới đi lui trong phòng khách. Không lẽ Ba Hoành trở lại. Không đời nào mà ông lại để yên cho bà khi bắt gặp bà đang trong nhà tắm. Bà Loan mỉm cười. Đàn ông gì mà hễ nhìn thấy là ào ào nhào tới cho bằng được, làm người ta thích muốn chết.
Nhưng không phải ông thì là ai? Ăn trộm? Không lẽ lúc đi ông Ba Hoành lại quên đóng cổng?
Bà nhìn quanh trong phòng tắm, không có gì có thể tạm làm vũ khí được. À đây! Bên ngoài cửa có dựng cây chổi bông cỏ. Bà Loan cầm chổi đi rón rén. Phòng ngủ không có gì. Chắc chắn là ở phòng khách. Bà nhẹ nhàng mở cửa phòng ngủ ra nhìn phòng khách. Không thấy gì. Bà bước hẳn ra. Cũng không thấy gì.
Chắc tại mình mệt quá đây mà. Cũng tại ông Ba Hoành. Không biết hồi tối này nhậu ở đâu cho dữ rồi về quần người ta tới gần sáng. Mệt muốn chết. Bà quay vào phòng ngủ thay quần áo để đi về.
"Rầm".
Cửa nhà tắm sập mạnh. Tim bà Loan đập thình thịch. Bà thấy sợ, vội vã bước ra ngoài.
"Rầm".
Khi bà Loan chuẩn bị khóa cửa ngoài thì phòng ngủ lại bật ra rồi đóng vào thật mạnh. Qua cửa kính bà Loan thấy hình như có một bóng người bay loáng thoáng trong nhà. Ma? Bà luống cuống khóa cửa. Hình như có tiếng gì trong nhà. Tiếng cười. Không, tiếng khóc. Không, tiếng rên. Nghe không rõ nhưng có một thứ tiếng gì đó nghe âm u lắm.
Bà Loan hối hả chạy ra, lập cập khóa cổng, ra đường đón taxi…
* * *
Ông Ba Hoành ngồi im lìm trong nhà tang lễ. Chiếc áo tang trắng bay phần phật theo chiều quay của cái quạt máy gắn trên tường.
Bây giờ là buổi trưa nên chẳng có khách viếng, hơn nữa đa số đã đến chia buồn từ hôm qua. Dòng họ bà con của ông bà không ai thân thích ở thành phố này nên cũng chẳng có người ở đây. Chỉ có ông và vài ba người làm của gia đình đang ngồi tụm ở góc kia.
Như vậy bà đã ra đi thật rồi. Khi ông về đến nhà thì mọi chuyện gần như đã kết thúc. Bà tự tử bằng thuốc ngủ, cái chai còn để trên bàn đầu giường. Ông trả lời như cái máy những câu hỏi của Cảnh sát với ánh mắt ngơ ngác vô hồn:
– Trước đây bà có ý định tự tử không?
– Có. Nhất là khoảng thời gian sau này, lúc bà bệnh nặng và không thể chữa khỏi.
– Theo ông thì vì sao bà tự tử?
– Bà thường nói bà không muốn sống mà bệnh hoạn hành hạ. Bà muốn yên thân.
– Thuốc ngủ ở đâu bà có nhiều vậy?
– Tôi không biết. Bác sĩ khám bệnh cho toa, người làm đi mua thuốc. Có lẽ bà để dành nhiều lần.
Sau một buổi kiểm tra thì mọi người cũng xác nhận là bà Ba Hoành chết vì tự tử bằng thuốc ngủ do ám ảnh bệnh hoạn, không liên quan đến ai.
Bây giờ ngồi đây ông cũng thấy thương bà, dù gì cũng mấy mươi năm sướng khổ có nhau. Năm đó, hai vợ chồng trẻ rời bỏ quê hương với cuộc sống nghèo nàn để tìm tương lai nơi đô thị. Không vốn, không nghề hai vợ chồng xin được làm thuê cho một vựa bán sỉ trái cây. Chồng nai lưng vác từ sáng đến tối. Vợ quần quật hết chuyện nhà lại chuyện ngoài vựa. Cả ngày hai vợ chồng không rảnh để thấy mặt người khác nữa chứ đừng nói nhìn mặt nhau. Cuối tháng, vợ vuốt thẳng mấy trăm ngàn lương của hai vợ chồng để vào chiếc hộp thiếc nhỏ.
Đến khi chiếc hộp thiếc nằng nặng thì vợ phải vào bệnh viện. Số tiền dành dụm bay đi. Lại bắt đầu lại từ đầu.
Bất ngờ vợ chồng ông chủ được con bảo lãnh sang Mỹ. Thương hai vợ chồng người làm thuê thật thà, chịu khó, ông chủ cho cái sạp và một số vốn còn trong hàng họ. Thế là hai vợ chồng trở thành chủ sạp. Từ đó đi lên dần dần.
Rồi một ông bạn rủ bỏ vốn làm nghề xây dựng đến nay.
Tội nghiệp cho bà. Dù đã giàu lên nhưng bản tánh keo kiệt của cái thuở hàn vi vẫn bám sát với bà. Bà không dám sắm sửa, không dám ăn ngon, không dám mặc đẹp. Bà luôn sợ lỡ một ngày nào đó mà nghèo thì không thể nào sống nổi. Mỗi khi ông đi ăn nhậu thì bà lại cằn nhằn, sợ hao sợ tốn. Rồi bà lại sanh chứng ghen tuông.
Từ đó vợ chồng ít khi có dịp nói chuyện với nhau cho êm ấm. Mở miệng ra là gây là cãi. Đã vậy hai ông bà lại chẳng có đứa con nào nên cuộc sống càng thêm hiu quạnh, bực bội. Hình như càng có tiền thì ông bà càng cãi cọ nhiều hơn. Vậy là ông bỏ ra bên ngoài tìm vui. Bà héo hon sinh bệnh.
Chuyện xảy ra hôm nay cũng là một hậu quả tất nhiên, nếu chịu nhìn cũng có thể thấy trước.
Chị người làm bưng lại cho ông ly cà phê đá. Ông gật đầu hớp từng ngụm.
Cũng tội cho bà. Ba Hoành không nhớ nổi là hai vợ chồng ngủ với nhau lần cuối khi nào, hình như lâu lắm rồi thì phải. Lỗi cũng tại ông, vui vẻ bên ngoài quên hẳn vợ nhà. Nhưng nói đi thì nói lại, làm sao khác hơn được khi mỗi lần thấy mặt là bà lại cằn nhằn, khóc lóc, kể lể, ghen tuông.
Thôi bà cũng đừng trách tôi. Cũng tại bà một phần. Phải chi bà dịu dàng, âu yếm với tôi thì đâu đến nỗi này.
Ông nhìn lên di ảnh bà. Trong khói nhang nghi ngút, ảnh như lung linh. Ông thấy mắt bà trong ảnh như đổi khác, như ánh mắt cuối cùng mà bà dành cho ông.
Ông sợ sệt nhìn quanh.
Hôm qua Ba Hoành đã thấy được ánh mắt cuối cùng của vợ khi người đàn ông đến nói với ông:
– Ông đến nhìn mặt bà lần cuối để chúng tôi đóng nắp quan tài.
Ông đến gần, chần chừ không muốn mở tấm vải trắng che mặt bà. Lúc nãy ông đã nhìn kỹ bà rồi, đôi mắt nhắm nghiền, mặt ốm xanh mệt mỏi. Nhìn khuôn mặt đó ai cũng có thể biết lâu rồi bà không hề có được niềm vui. Thôi thì nghĩa tử là nghĩa tận, ông kéo nhẹ tấm vải… Ông giật mình. Đôi mắt bà mở to trừng trừng nhìn ông, dù rằng đó là đôi mắt chết. Ba Hoành giật mình bước lùi về sau một bước. Lấy hết can đảm, ông vuốt mặt bà lần nữa, nhưng đôi mất vẫn trừng trừng. Hình như đôi mắt chết không phải nhìn ông mà là theo ông, rồi mùi dầu gió xanh xông lên, sực nức.
Ba Hoành đắp lại tấm vải che mặt thật nhanh.
* * *
Ba Hoành ngồi im lìm hút thuốc ở phòng ngủ, lắng nghe tiếng nước chảy trong nhà tắm. Bà Loan đang ở trong đó. Bình thường thì Ba Hoành đã vào theo, nhưng hôm nay sao Ba Hoành thấy có cái gì là lạ.
Cả một tuần không gặp nhau vậy mà khi Ba Hoành điện thoại thì bà Loan còn có ý muốn từ chối. Ba Hoành phải nói mấy lần mới đồng ý. Vậy là ý gì đây. Từ trước đến nay chưa bao giờ Ba Hoành phải nói đến lần thứ hai. Thậm chí chừng ba ngày không gặp là bà Loan đã cuống quýt, hối thúc.
Đã vậy khi đến đây thay vì nhào tới chẳng khác con hổ cái như lệ thường, bà Loan rón rén, e dè, dáo dác nhìn ngó chung quanh. Cái kiểu nửa hư nửa thực của bà Loan làm Ba Hoành mất hứng, thậm chí còn thấy hơi quạu và bực mình.
Bà Loan từ trong nhà tắm đi ra, cũng với cặp mắt dáo dác và bước chân rón rén. Ba Hoành giật cái khăn choàng văng ra. Ông chúi mũi vào thân thể bà Loan. Mùi đàn bà mới tắm xông lên, Ba Hoành thấy hứng khởi trở lại. Ông đè bà xuống giường, leo lên nằm trên thân thể trắng bóc đó.
Bỗng Ba Hoành nghe thoang thoảng mùi dầu gió xanh.
Mùi dầu càng nặng dần. Ba Hoành mở mắt nhìn thẳng vào mặt bà Loan. Ba Hoành thấy đôi mắt bà Loan mở trừng trừng, khuôn mặt tái nhợt. Không, không phải bà Loan mà là đôi mắt trợn trừng của vợ ông khi chết. Khuôn mặt cũng là khuôn mặt xanh xao mệt mỏi.
Đúng lúc đó bà Loan nhìn thấy bóng người đàn bà đứng ở đầu giường. Bóng người đàn bà đang trợn trừng, nhe răng, chồm lại muốn nắm lấy bà. Bà Loan hét lên.
Cả hai người đẩy nhau ra trong tinh thần hoảng loạn khủng khiếp. Không ai nói với ai câu gì rất lâu. Cả hai mặc quần áo vào và lặng lẽ đưa nhau về.
Lần gặp nhau sau đó ở một khách sạn cũng diễn ra y như vậy. Ba Hoành nghe mùi dầu gió xanh, nhìn thấy đôi mắt và khuôn mặt vợ. Bà Loan nhìn thấy một bóng người ở đầu giường, trợn trừng và nhe răng.
Đó là lần gặp cuối của hai người. Họ chia tay nhau.
* * *
Sau đó ít lâu, người ta thấy Ba Hoành cặp kè với bà Út Thảo. Thật ra chuyện này không có gì mới, chẳng qua là nối lại tình xưa. Đã có một thời Ba Hoành và Út Thảo ăn ở với nhau.
Người đàn bà ly dị chồng từ khá lâu này có một tài sản kha khá đủ để hưởng thụ. Bà không cần tiền, nhưng có cũng tốt thôi. Cái bà cần là một người đàn ông có thể lấp đầy khoảng trống tâm hồn và thể xác bà. Lúc đó Út Thảo đã chọn Ba Hoành. Quan hệ càng lâu bà thấy mình càng chọn đúng. Hình như Ba Hoành được sinh ra để chiều chuộng bà.
Do sống một mình nên nhà bà chính là nơi hò hẹn của hai người.
Nhưng một hôm đội quân đánh ghen của vợ Ba Hoành đổ bộ đến và bắt gặp tại trận. Lúc đó vợ Ba Hoành còn khỏe lắm vì vậy mà Út Thảo phải dính một cái thẹo dài bên trên mày phải.
Sợ quá, Út Thảo chia tay với Ba Hoành và tốn khá nhiều tiền để làm thẩm mỹ xóa cái thẹo tình ái kia.
Nhưng bây giờ thì có thể yên chí rồi. Vợ Ba Hoành chết thì ai còn có quyền ghen tuông nữa chứ.
Trong một quán cà phê sang trọng, yên tĩnh, Ba Hoành mân mê bàn tay mềm mại của Út Thảo:
– Chừng nào anh tới nhà em được?
Út Thảo liếc mắt đong đưa:
– Tới làm cái gì?
– Tới để làm tiếp cái chuyện cũ đó. Á, tới để… làm đêm tái hôn.
– Thôi đi ông, tôi sợ mang thẹo lắm rồi.
Ba Hoành choàng tay qua vai Út Thảo:
– Bây giờ thì khỏe rồi. Còn có ai nữa đâu.
– Thiệt không còn có ai nữa phải không? Vậy thì được. Chiều mai anh qua, em đợi.
Sáng hôm sau, khi còn nằm trên giường, Út Thảo lên kế hoạch. Phải kêu tụi nó dọn dẹp cái phòng lại. Phải xịt một chút dầu thơm cho quyến rũ. Hôm nay phải sắm một bộ áo ngủ mới thật hấp dẫn. Một chai rượu nữa chứ.
Út Thảo sung sướng và khoan khoái bước xuống giường vào nhà tắm.
"Xoảng".
Có tiếng vật gì rơi chỗ bàn trang điểm. Út Thảo nghe hình như có ai đi lại trong phòng. Chắc là tụi nhỏ nghe rớt đồ vào dọn dẹp. Út Thảo nói vọng ra:
– Dọn kỹ một chút nghen.
Không có tiếng trả lời.
Một chút sau Út Thảo bước ra. Chai dầu vỡ vẫn còn nằm dưới chân bàn, dầu chảy lênh láng. Út Thảo thay quần áo xong gọi lớn:
– Thanh à! Thanh.
Cô gái người làm tên Thanh chạy vào:
– Dạ cô gọi con.
– Ừ, hồi nãy vô đây sao không dọn luôn.
– Con không có vô.
– Vậy thì ai? Thôi dọn đi, kỹ nghen. Cô đi công chuyện.
Chiều hôm đó, khi nghe tiếng còi xe, biết là Ba Hoành tới, Út Thảo yểu điệu đứng dậy đích thân ra mở cửa. Cái cửa hôm nay sao kỳ vậy, mở đi mở lại mấy lần mới chịu ra, làm như có ai kéo nó lại.
Ba Hoành bước vào với bó hoa thật lớn trên tay và nụ cười thật tươi trên miệng. Còn Út Thảo thì làm Ba Hoành chóng mặt trong bộ áo ngủ màu hồng nhạt mỏng tang. Họ sà vào nhau, quấn quýt, nũng nịu cho thỏa lòng thèm khát.
"Rầm".
Cửa phòng ngủ tự nhiên bật tung rồi lại dập vào một cái thật mạnh. Hai người quay lại nhìn rồi lại tiếp tục quấn người vào nhau và chầm chầm dìu nhau vào chiếc giường trải màu hồng gợi cảm.
Ba Hoành cởi nhanh bộ quần áo của mình rồi chầm chậm đẩy bộ áo ngủ tuột khỏi thân thể trắng trẻo của Út Thảo.
Ông đè bà xuống giường, leo lên nằm trên thân thể trắng bóc đó.
Bỗng Ba Hoành nghe thoang thoảng mùi dầu gió xanh. Mùi dầu càng nặng dần. Ba Hoành nhìn vào mặt Út Thảo. Ba Hoành thấy đôi mắt Út Thảo mở trừng trừng, khuôn mặt tái nhợt. Không, không phải mắt Út Thảo mà là đôi mắt trợn trừng của vợ ông khi chết. Khuôn mặt cũng là khuôn mặt xanh xao mệt mỏi.
Đúng lúc đó Út Thảo nhìn thấy bóng một người đàn bà đứng ở đầu giường. Út Thảo nhận ra đó là vợ Ba Hoành. Bóng người đàn bà đang trợn trừng và nhe răng rồi đưa cánh tay dài ngoẵng nắm lấy Út Thảo. Út Thảo hét lên.
* * *
Sau đó Ba Hoành còn quan hệ với vài người khác. Đàn ông chết vợ, có tài sản, đứng tuổi trở thành món hàng hiếm đối với các bà lỡ thì. Họ giang rộng đôi tay và hăng hái lao vào.
Nhưng tất cả đều có kết cục giống nhau: Chia tay trong hãi hùng với một bóng ma lung linh trong trí nhớ.
Ba Hoành không khi nào ái ân với một người đàn bà nào khác được nữa. Thậm chí cả đến những cô gái điếm qua đêm.
Tất cả chỉ là mùi dầu gió xanh, đôi mắt trợn trừng, khuôn mặt xanh xao của bà vợ đã chết.
Khoảng thời gian sau người ta thấy ông Ba Hoành như một người mộng du, đi lang thang và không hề để ý gì đến chuyện làm ăn nữa. Ba Hoành suy sụp hoàn toàn.
Rồi người ta không thấy Ba Hoành đâu nữa. Có người nói ông về quê, có người bảo ông đã sang nước khác làm ăn. Cũng có người nói ông đã chết…
* * *
Ba Hoành đã xuất hiện trở lại đầy phong thái, tự tin. Bạn bè hỏi ông đi đâu, ông chỉ cười bí mật.
Một buổi chiều, ông đi đến nghĩa trang. Với bó hoa lớn trong tay ông đến thẳng mộ bà vợ. Nhẹ nhàng đặt hoa xuống, ông thì thầm với vợ:
– Tôi có lỗi gì thì bà cũng hãy tha thứ cho tôi. Tôi xin lỗi bà, dù gì cũng là vợ chồng bao nhiêu năm. Sao bà ác với tôi quá vậy? Thật tình thì tôi không muốn làm phiền bà, nhưng bà lại gây khó cho tôi nên tôi đành phải
Ba Hoành đốt mấy nén nhang:
– Thôi thì mấy cây nhang này là lời tạ tội của tôi và tôi xin lỗi bà, mong bà hiểu cho tôi…
Ba Hoành vén tay áo nhìn đồng hồ. Mới sáu giờ bốn mươi. Còn hai mươi phút nữa mới đến giờ Tuất, giờ thầy đã dặn. Ông yên lặng chờ đợi.
Bỗng Ba Hoành có cảm tưởng như có ai đang nhìn mình, ông quay lại. Một người đàn bà mặc đồ đen, dáng quý phái cúi chào:
– Xin lỗi ông, tôi làm phiền ông. Tôi đi viếng mộ người bạn nhưng quên mang theo hộp quẹt. Ông có thể vui lòng cho tôi mượn.
Ba Hoành đứng dậy, móc túi:
– Dạ đây, bà…
– Em là Lan.
– Vâng, Lan.
Ông bước lại gần, một mùi thơm quyến rũ thoảng đưa. Ba Hoành thấy máu bốc lên hừng hực khi bà Lan nhìn ông bằng đôi mắt biêng biếc, lung linh.
– Xin lỗi, ông sắp về chưa. Nếu ông không ngại có thể cho tôi quá giang. Khu này khó đón xe.
Ba Hoành hăng hái:
– Được thôi. Tôi cũng sắp về. Bà…
– Anh gọi em là Lan cho thân mật.
– Vậy Lan đợi tôi một chút. Xong ngay mà.
Ba Hoành thò tay vào túi quần. Đúng lúc tay vừa chạm miếng bùa thì Lan vấp một cục đất ngã chúi. Ba Hoành chạy tới đỡ. Cả một thân hình mềm mại nằm gọn trong tay, Ba Hoành tranh thủ ôm siết nồng nàn. Cái thèm khát bấy lâu nay dâng tràn. Hình như Lan cũng nhiệt tình hưởng ứng.
Ba Hoành ngồi xuống với Lan trong tay. Ông kêu nhỏ:
– Lan, anh…
Ba Hoành chúi đầu vào ngực người đàn bà trong tay.
– Em là Lan đây.
Ba Hoành hôn tới tấp vào khuôn mặt xinh xắn đáng yêu vô cùng.
Bỗng ông nghe mùi dầu gió xanh, rồi đôi mắt trợn trừng, khuôn mặt xanh xao tiều tụy của bà vợ. Lúc đó bà Lan cũng choàng tay qua cổ ông, thì thầm:
– Đúng rồi. Em là Lan đây. Lan của anh đây…
Hai tay người đàn bà xiết chặt dần, chặt dần. Ba Hoành chợt hiểu ra khi gần như không còn thở được nữa. Bà vợ Ba Hoành tên Lan, Nguyễn Thị Lan. Ba Hoành còn nhớ tới lá bùa trong túi mà ông cất công đi thỉnh trên núi về. Đã tới giờ Tuất
Đi xem hết một vòng khu đất quanh nhà, Phước có vẻ hài lòng. Tuy nhiên khi đứng lại trước ba ngôi mộ cũ anh hơi ngần ngại:
– Những ngôi mộ này là của ai?
Người chủ khu đất cười bảo:
– Đây là những ngôi cổ mộ, nghe nói là của ông tằng ông tổ gì đó của tôi. Lúc ông nội tôi còn sống còn rất mơ hồ về gốc tích của chúng…
Phước nói thẳng:
– Nói chung là tôi đồng ý mua khu đất và ngôi nhà này với giá cả đó. Nhưng cũng chỉ bởi những ngôi mộ này…
Người chủ nhà mau miệng:
– Tôi đã nói rồi, nếu xong giá, anh tiến hành làm thủ tục là tôi sẽ cho cải táng ngay. Mộ cổ mà, có gì đâu mà ngại.
– Tôi không ngại chuyện mồ mả trong đất nhà, tuy nhiên đáng lẽ ra ông nên cho cải táng trước khi bán, thì người mua chúng tôi dễ tính hơn.
Người chủ quả quyết:
– Tôi hứa chỉ trong vòng ba ngày thì mọi việc sẽ xong xuôi. Anh cứ yên tâm.
Việc xem đất coi như xong. Người chủ dẫn Phước vào ngôi nhà cổ. Ông ta giới thiệu:
– Nhà này có lẽ đã có tuổi ngót trăm năm, nhưng do làm bằng gỗ quý, nên anh xem nè, chưa có dấu mối mọt nào hết. Nói thiệt, nếu không cần tiền thì tôi không bao giờ bán một của quý như vầy.
Phước phải công nhận là khá hài lòng với ngôi nhà. Đã từ lâu anh vẫn ao ước có được một ngôi nhà cổ như thế này, để đưa bộ sưu tập cổ vật mà phải mất gần hai chục năm tìm kiếm anh mới có được, về trưng bày. Nhiều bạn bè cho rằng Phước gàn khi chỉ chú tâm tìm nhà cũ, nhưng anh thì lại vô cùng thích thú. Bởi vậy khi nghe giới thiệu ngôi nhà này, Phước đã tới ngay và chấp nhận liền giá cả do chủ nhà đưa ra.
Trước khi ra về Phước còn nhắc lại:
– Về việc mấy ngôi mộ mong ông giải quyết cho xong trước khi tôi trở lại vào ngày thứ bảy này.
Phước cho tờ giấy đặt cọc mua nhà vào túi, với tâm trạng phấn khởi anh ra xe định về ngay để báo tin mừng cho bà xã ở nhà. Nhưng khi tra chìa khóa công-tắc vào Phước rất đỗi ngạc nhiên vì chiếc chìa khóa vừa vặn ngang đã bị gãy đôi!
– Kỳ vậy?
Phước cố cách nào cũng chẳng làm sao khắc phục được, nên cuối cùng đành phải nói với chủ nhà:
– Phiền ông cho gởi lại chiếc xe, chiều tôi cho người đến mang về.
Anh lững thững ra ngoài đón xích lô về nhà. Vừa leo lên xe Phước đã nghe người đạp xe nói ngay:
– Ông mua ngôi nhà đó hả? Bộ ông chưa biết gì về nó hả?
Phước ngạc nhiên:
– Biết về chuyện gì bác?
– Chuyện…
Lời nói của ông lão đạp xe vừa nói tới đó thì bỗng phía trước có một chiếc xe đi cùng chiều thắng gấp, nên chiếc xích lô chở Phước suýt nữa đã đâm sầm vào, nếu không dừng lại kịp. Phước quay lại định trách ông lão không cẩn thận, nhưng anh ngơ ngác khi không còn thấy ông ta đâu. Chiếc xích lô đậu giữa đường mà không có người lái, khiến mấy xe đi sau nhấn còi inh ỏi, làm cho Phước phải bước xuống xe và khó khăn lắm mới đẩy được nó vào lề.
Đứng đợi có hơn mười phút vẫn chẳng thấy ông lão đâu Phước quá sốt ruột nên cuối cùng phải gọi xe khác đi. Về tới nhà rồi mà Phước vẫn còn áy náy chuyện vừa rồi, nên anh kể cho vợ nghe. Lệ Hoa vừa nghe Phước nói đã vụt nói ngay:
– Có phải ông già đội chiếc nón lá buông không, ông ta…
Phước bảo:
– Đúng rồi, sao em biết ông ta?
Hoa đưa ra một mảnh giấy bạc gói thuốc lá, trên đó có ghi vội mấy chữ. Cô nói:
– Ông ta bảo đưa cái này cho anh.
Phước cầm lấy đọc và hết sức ngạc nhiên khi nó đề cập đến chuyện ngôi nhà cổ: Đừng mua ngôi nhà đó!
Lệ Hoa hỏi:
– Nhà nào vậy?
Phước ngại vợ bàn tới lui lôi thôi, nên nói tránh đi:
– Mấy ngôi nhà anh đi coi sáng nay ấy mà…
Giấu tờ giấy vào túi quần, Phước đổi ý không kể cho vợ nghe chuyện thuận mua ngôi nhà cổ. Mãi khi vào phòng riêng rồi anh mới suy nghĩ và tự hỏi: Ông già này là ai mà hành tung kỳ lạ như vậy? Và tại sao ông ta khuyên mình không nên mua ngôi nhà?
Suy nghĩ mãi vẫn không có câu trả lời, Phước chán nản để nguyên quần áo, nằm lên giường, tính lát sau sẽ đi tắm. Nhưng có lẽ do mệt nên anh ngủ thiếp đi…
Khi tỉnh dậy anh vô cùng ngạc nhiên khi nghe vợ báo:
– Có người chạy xe anh về để dưới sân.
Phước chạy ngay xuống kiểm tra lại và hết sức ngạc nhiên, bởi khóa công-tắc vẫn bình thường, không có một dấu hiệu nào của một sự cạy ra hay sửa chữa gì…
– Ai đưa xe về vậy?
Hoa lắc đầu:
– Em cũng không biết. Lúc ở trong bếp bước ra em đã thấy chiếc xe nằm ở sân rồi!
Dẫu ít khi chấp nhận những điều phi thực tế, nhưng trước những sự việc này Phước cũng phải suy nghĩ nhiều. Anh dặn vợ:
– Em đừng mở cửa cho bất cứ người lạ nào vào nhà, kể cả khi họ nói là tìm anh…
Lệ Hoa ngạc nhiên hỏi lại:
– Có chuyện gì vậy anh?
Phước trấn an vợ:
– Anh chỉ nói thế, chẳng có chuyện gì đâu. Thôi, dọn cơm cho anh ăn, đói bụng lắm rồi.
Phước đi tắm. Khi thay đồ ra anh chợt nhớ mảnh giấy lúc nãy nên móc ra xem lại. Và lần này những chữ trên tờ giấy bạc đã thay đổi hẳn nội dung: Chiếc xe cũng đã đem về rồi, như vậy anh nên dứt khoát với ngôi nhà ấy!
Phước cảm giác lạnh ở lưng và anh đứng thừ người ra… Bỗng nghe vợ anh kêu:
– Sao anh nổ máy xe rồi để đó?
Phước lại chạy ra sân và anh thật sự sợ hãi, bởi chiếc xe từ lúc được trả về anh chưa hề mở máy và anh còn nhớ rõ lúc mình xem ổ khóa công tắc thì không có chìa cắm trong đó!
– Chuyện này
Phước chưa nói hết câu thì bỗng tiếng còi xe vang lên chói cả tai. Lệ Hoa trong nhà chạy ra kêu lên:
– Anh ấn còi xe chi vậy, con nó còn ngủ mà!
Phước ngơ ngác:
– Anh đâu có…
Tìm mãi mới thấy chìa khóa công-tắc nằm ở băng ghế ngồi, Phước phải vất vả lắm mới làm cho tiếng còi im bặt. Anh nói để vợ khỏi phải lo:
– Chắc tại xe bị chạm điện hay sao đó…
Phước lấy chìa khóa công-tắc bỏ túi sau khi đã tắt máy xe, đóng và khóa cửa xe cẩn thận. Lên lầu nằm rồi mà Phước vẫn chưa hết suy nghĩ về những hiện tượng vừa rồi, anh tự hỏi: Tại sao có những chuyện kỳ cục như vậy? Không lẽ…
Phước không dám nghĩ tới điều mà trong đầu vừa chợt lóe lên. Ma? Gạt ngay ý nghĩ đó, đồng thời Phước đi trở xuống sân, anh quyết định trở lại ngôi nhà cổ.
Người chủ nhà vừa thấy Phước đã kêu lên:
– Nãy giờ tôi đang cho người đi tìm cậu đây! Chiếc xe của cậu…
Khi nhìn thấy xe Phước đang lái, ông ta ngơ ngác:
– Tôi cứ tưởng là xe bị mất! Cậu đã trở lại lấy xe sao không báo tôi biết?
Phước nhìn sững ông ta:
– Tôi đang muốn tới để hỏi ông, sao ông cho người mang xe tới mà không báo tôi tiếng nào vậy?
Cả hai đều nhìn nhau, sững sờ. Một lúc Phước mới hỏi:
– Nhà ông có người nào lớn tuổi, đạp xe xích lô?
Ông chủ nhà lắc đầu:
– Như cậu thấy đó, tôi chỉ ở một mình. Các con tôi đều đi du học xa cả, đâu có ai nữa
Phước lẩm bẩm:
– Chẳng lẽ…
Anh nhìn thẳng vào mắt ông chủ:
– Bác hãy nói thiệt cho cháu biết, nhà này từ nào tới giờ đã có xảy ra những chuyện như
có ma không?
Trợn tròn mắt nhìn người khách trẻ, ông ta kinh ngạc thật sự: Cậu hỏi thế có ý gì? Phước định chưa nói ra, nhưng thấy thái độ thật thà của ông, anh nói ngay:
– Có người ngăn cản tôi mua ngôi nhà của bác, bằng đủ cách…
Phước kể sơ lược chuyện vừa xảy ra. Nghe xong ông chủ nhà không cần suy nghĩ, đã nói:
– Nghe cậu kể mà tôi như đang mơ! Tôi đã ở ngôi nhà này từ hồi mới sanh ra. Khi lớn lên, có đôi lần tôi định đổi chỗ ở, nhưng rồi cũng không thể rời xa nơi đây. Tôi chưa từng gặp chuyện gì bất bình thường, chớ đừng nói là ma.
Phước móc túi lấy ra tờ giấy bạc, đưa và nói:
– Bác cứ đọc nội dung viết trong đó rồi cháu kể tiếp.
Ông chủ nhà cầm tờ giấy lật qua, lật lại mấy lượt, rồi ngạc nhiên hỏi:
– Có thấy gì đâu?
Phước lấy lại tờ giấy, anh vô cùng ngạc nhiên khi đó là tờ giấy không có chữ nào! Anh nghĩ mình có thể lầm với tờ giấy bạc khác nên lại tìm lần nữa. Cuối cùng đành phải lắc đầu than:
– Chắc là cháu điên vì chuyện này mất!
Phước quay ra xe mà lòng nặng trĩu những thắc mắc. Lái xe đi một đoạn rồi mà cứ nghĩ mình còn trong ngôi nhà cổ, anh nói một mình:
– Chắc là có gì đó…
Bỗng có ai đó lên tiếng từ phía băng sau:
– Chắc chắn là như thế, còn gì nữa mà nghi ngờ!
Phước nhìn vào kiếng chiếu hậu, không thấy ai, anh vội tấp xe vô lề và quay hẳn lại. Băng ghế trống không!
Lúc này Phước mất bình tĩnh thật sự, anh nhắm mắt lại và khấn:
– Xin lỗi, nếu tôi có làm điều gì thất thố với vong linh ai đó thì hãy lượng thứ cho, tôi không cố ý.
Ngồi yên một lúc rồi Phước mới dám lái xe ra giữa đường và cẩn thận đi thẳng về nhà…
Không có điều gì bất thường xảy ra, nhưng Phước vẫn cứ ngay ngáy lo… Đến khi vào tới sân rồi mà Phước vẫn còn chưa an tâm, anh nhẹ nhàng bước xuống xe và cẩn thận khóa cửa và rón rén bước vô nhà.
Vừa bước vô phòng khách, Phước nhìn thấy một người khách ngồi đợi sẵn ở ghế. Đó là ông lão đạp xe xích lô! Phước ngã ra sau, nằm bất động…
* * *
Lúc tỉnh lại Phước lại càng ngạc nhiên hơn khi nghe vợ kể lại:
– Em cũng không biết ông ấy vào nhà mình bằng cách nào. Khi từ trên lầu bước xuống em đã thấy ông ấy ngồi ở phòng khách. Ông ta bảo là có chuyện cần kíp lắm, muốn gặp riêng anh, nên buộc lòng em phải cho ông ta ngồi đó đợi anh về.
Phước không biết lúc mình bị ngất thì đã xảy ra chuyện gì, anh hỏi thì Lệ Hoa kể:
– Em cũng không biết. Em từ nhà sau ra thì thấy anh nằm đó.
– Vậy ông ta đâu?
– Em cũng không biết. Có lẽ lúc anh ngất ông ta đã bỏ đi. Nhưng mà có chuyện gì vậy? Ông lão đó là ai?
Vẫn muốn giấu vợ, nên Phước phải nói:
– Ông ta giúp anh chuyện ở ngôi nhà dự tính mua. Có lẽ thấy anh như vậy nên ông ngại, lẳng lặng bỏ đi đó thôi.
Phước cố nhớ xem lúc mình bị ngất, ông già xích lô ấy đã làm gì? Nhưng trước sau gì anh cũng không nhớ nổi. Hình như có một áng mây mờ đang che phủ đầu óc anh
Đúng ra sau khi gặp những điều bất thường đó. Phước đã bỏ ý định mua ngôi nhà cổ. Nhưng lần gặp ông Thành, chủ nhà để bàn chuyện lấy lại tiền đặt cọc, Phước đã bị ông ta thuyết phục:
– Cậu không mua cũng chẳng sao, tôi sẵn sàng trả ngay tiền cọc lại cho cậu. Tuy nhiên, xin báo để cậu rõ, hiện đang có một cô gái rất trẻ chờ, nếu cậu bỏ cuộc là cô ta mua ngay. Hôm nay cô ấy cũng xin hẹn tới, nhưng tôi ngại đụng cậu nên từ chối…
Phước không quan tâm lắm đến chuyện đó, nếu ông chủ nhà không đưa ra tấm danh thiếp, mà vừa nhìn thấy Phước đã kêu lên:
– Cô ta muốn mua ngôi nhà này?
Ông Thành gật đầu:
– Chẳng những muốn mà còn rất muốn nữa là khác!
– Đây, cô ấy còn cho tôi xem cả mô hình mà cô ấy sẽ biến ngôi nhà này sau khi mua, thành một nơi triển lãm đồ lớn nhất Đông Nam Á!
Ông ta lấy ra đưa cho Phước xem một bản vẽ khá chi tiết, một bản phác thảo toàn bộ diện tích khu nhà. Điều này khiến cho Phước nóng máu, anh hỏi kỹ lại:
– Cô ấy tới đây với ai?
Ông Thành nói thật:
– Cô ấy đi với một người mà theo giới thiệu thì chính là ý trung nhân của cô ta. Họ đúng là một cặp đôi lý tưởng. Họ quá đẹp đôi, mà đến tôi già rồi cũng phát ghen khi nhìn thấy họ! Cô ấy còn đoan chắc là sau này sẽ biến khu nhà này thành một nơi chốn khiến mọi người phải mơ ước! Và cô ta còn nói rằng, cô phải thực hiện ý tưởng này để chứng minh cho một người con trai nào đó thấy việc xa cô ta là một việc làm ngu ngốc của anh chàng!
Phước đã nổi nóng:
– Cô ta nói như vậy hả! Cô… cô ta…
Ông Thành chủ nhà cũng phải ngạc nhiên:
– Ủa, sao cậu lại có vẻ giận? Cô gái ấy và cậu…
Phước nói ngay:
– Thôi được rồi, tôi không lấy tiền cọc lại. Tôi sẽ chồng tiền đủ vào thứ bảy này khi ông cải táng xong ba ngôi mộ.
Ông chủ nhà chỉ ra ngoài vườn và nói:
– Việc cải táng đã hoàn tất vào chiều hôm qua rồi. Bây giờ cậu có thể đi tham quan một vòng.
Phước nói nhanh:
– Không cần nữa. Ông chuẩn bị thu dọn mọi thứ đi, thứ bảy này tôi tiếp nhận nhà và tiến hành sửa chữa ngay.
Ông Thành dẫn Phước vào một gian phòng mà lần trước do cửa bị khóa nên anh chưa kịp xem, ông ta chỉ mấy thứ bàn ghế cũ và nói:
– Riêng gian này xin cho tôi gởi lại mấy thứ hư cũ này ít hôm, sau đó tôi sẽ kêu mấy người làm công, cho họ chở đi.
Nhìn kỹ mấy chiếc bàn, ghế cũ và vài thứ linh tinh, chợt Phước đề nghị:
– Nếu bác không dùng nữa thì để lại cho cháu. Nói thật, cháu đang có ý định tìm các thứ nội thất càng cũ càng tốt, kể cả những vật hết xài được, để đưa vào cuộc triển lãm cổ vật sắp tới.
Lúc đó ông chủ nhà mới hiểu ra:
– À, thì ra cậu và cô gái tên Hồng Loan kia đều có ý tưởng trùng nhau. Thảo nào…
Ông thuận ngay đề nghị của Phước:
– Cậu được toại nguyện.
Ngay sáng hôm đó, sau khi về nhà tính toán lại, Phước đã mang tiền trở lại ngay. Anh làm cho ông Thành ngạc nhiên:
– Cậu gấp vậy sao?
Phước bảo:
– Tôi hay đổi ý sau khi tính toán này nọ, bởi vậy tôi muốn chồng tiền ngay hôm nay chớ không đợi thứ bảy nữa.
Thủ tục mua bán được thực hiện nhanh chóng. Khi giao chìa khóa cho Phước, ông chủ nhà còn nói:
– Chắc chắn cậu sẽ phải tiếp cô Hồng Loan gì đó, bởi cô ấy sẽ trở lại.
Phước dứt khoát nói:
– Tôi sẽ treo tấm bảng ngay trước cửa với mấy chữ: NHÀ ĐÃ BÁN (miễn tiếp khách).
Ngay chiều hôm đó ông chủ nhà dọn hết một ít đồ đạc còn lại ra khỏi nhà, giao hẳn ngôi nhà cổ đồ sộ cho Phước. Anh chàng hài lòng nên quên hẳn những chuyện kỳ lạ bữa trước. Điều làm Phước ưng ý nhất là chặn được ý định của Hồng Loan! Anh nói một mình mà như muốn lọt đến tai cô ta: "Để xem ai làm được điều ấy hơn ai".
Cái tên Hồng Loan hầu như bấy lâu nay Phước đã quyết định không nhớ đến nữa. Vậy mà nay bắt buộc anh phải nhắc và phải gấp rút mua ngôi nhà này vì cô ta!
Ba năm trước, Phước từng không một bước rời xa người con gái ấy. Cho đến khi Hồng Loan cặp tay đi với người đàn ông khác và đá đít chàng, thì Phước lập tức đi cưới vợ ngay và thề là sẽ không bao giờ để cho cô ta ngoi lên được, nhất là trong lãnh vực sưu tầm và buôn cổ vật.
Lời thề đó Phước nghĩ là mình sẽ làm được bởi anh có tiềm lực tài chánh, lại có nhiều lợi thế trên thương trường…
Vậy mà nay cô ta lại xuất hiện. Lại còn muốn mua ngôi nhà mà phải tốn bao công sức Phước mới tìm ra, để thực hiện ý tưởng cạnh tranh với ý tưởng của anh nữa.
– Không đời nào!
Phước quyết tâm đến nỗi ngay đêm đó anh báo tin về cho vợ biết sẽ ở lại ngôi nhà mới mua, để giữ nhà. Vợ Phước không tán thành ý đó và nói ngay:
– Nhà cũ kỹ đó anh ngủ lại sao được!
Lệ Hoa sai chú Sáu làm vườn tới cùng ở với Phước. Tuy không thích, nhưng để yên lòng vợ Phước phải chấp nhận, nhưng bảo:
– Chú Sáu ngủ ở ngoài, để cháu trong phòng này. Tối nay cháu còn có vài việc để làm với mấy món đồ cổ này.
Anh chọn gian phòng có chứa nhiều bàn, ghế cũ, khiến chú Sáu phải lo ngại:
– Căn phòng ẩm thấp và tối tăm thế này cậu không nên ở trong đó
Phước vẫn cương quyết:
– Chú cứ mặc cháu.
Đêm đó Phước chong đèn thức rất khuya. Anh thích thú khi nhận ra trong số những bàn ghế cũ có vài món anh đang cần tìm. Đặc biệt là chiếc rương gỗ khá to, làm bằng thứ cây quý, rất nặng. Chính Phước đang có ý định đặt thợ mộc làm một chiếc rương như vậy để trưng bày, nay gặp đúng thứ cần, anh cứ ngắm nhìn và trầm trồ mãi. Rương bị khóa bằng thứ ống khóa rất xưa và đã rỉ sét, hầu như khó mà mở được.
Vậy mà mày mò mãi, đến nửa khuya thì Phước đã mở được chiếc rương ra. Vật đầu tiên mà anh nhìn thấy là một chiếc vương miện nạm ngọc rất tinh xảo. Tuy đã qua thời gian khá lâu, nhưng nhìn chung chiếc vương miện vẫn còn sáng chói rực rỡ. Phước ngắm nghía vừa xuýt xoa:
– Tuyệt vời! Chưa từng thấy!
Bên dưới chiếc vương miện còn có nhiều tư trang nữa, tất cả đều của nữ giới. Qua kiểu dáng, Phước đoán những vật này đã có từ rất lâu đời, có thể là hàng thế kỷ. Anh đặt tất cả nằm bên trong rương, chỉ giữ mỗi chiếc vương miện và gần như suốt đêm đó Phước không ngủ.
Suy nghĩ miên man, bỗng lúc gần sáng Phước chợt nhớ ra, anh kêu lên khẽ:
– Có thể lắm!
Anh liên tưởng đến ba ngôi mộ cổ ngoài vườn. Phải chăng những vật này có liên quan tới ba ngôi mộ kia?
Tiếc rằng ông chủ nhà đã dọn đi, nếu không thì hỏi ông ta, hy vọng sẽ hiểu được phần nào…
Dòng suy nghĩ của Phước chỉ dừng lại khi anh quá mỏi mòn, đã ngủ say lúc đồng hồ điểm năm tiếng.
Gà gáy sáng đang rộ lên ở khu vườn bên cạnh, cũng là lúc Phước chìm sâu vào giấc mơ lạ thường…
* * *
Một cô gái trong trang phục cổ, xiêm y đẹp lạ thường, đang ngả vào vòng tay một nam nhân cũng trang phục lộng lẫy, uy dũng, họ đang làm cuộc chia tay đầy bịn rịn ở một khu vườn đầy kỳ hoa dị thảo. Nàng khóc nức nở, giọng khi được khi mất:
– Em sẽ đợi… đợi đến khi nào không còn
hơi thở… Hãy tin em…
Chàng trai xiết chặt người yêu trong vòng tay rắn chắc, vừa an ủi:
– Đợi không lâu đâu. Xong việc anh sẽ trở về ngay và ngày ấy cũng là ngày trọng đại của chúng ta. Anh sẽ cưới em ngay lúc về, Trúc Đào của anh!
– Chàng hứa là phải nhớ đó! Em sẽ…
Chàng đưa tay bịt miệng nàng, không cho nói. Họ dìu nhau ra tới bờ tường cao thì chàng trai đẩy nàng ra, như sợ chia tay không được. Vừa chạy, chàng vừa nói vọng lại:
– Anh sẽ trở về ngay!
Chàng ta chạy nhanh ra cổng ngoài và nhảy phóc lên chiếc xe song mã đang đợi sẵn. Trong xe có một nữ nhân cũng rất đẹp, chừng như đợi đã lâu, có vẻ sốt ruột và cau có:
– Bắt thiếp đợi hơn nửa canh giờ rồi! Giã từ mẹ chàng sao mà lâu vậy?
Chàng trai đáp không được tự nhiên:
– Bị… tại… u già không cho đi…
– Lần sau không được vậy nữa đó! Thiếp mà chờ lâu, thiếp xông vô nhà thì chàng đừng trách!
Nàng quấn lấy chàng mà không sợ người đánh xe nhìn thấy. Anh ta hỏi:
– Thưa tiểu thư, mình đi đâu?
Nàng đáp vọng ra:
– Tới tửu lầu Vạn Xuân!
– Kìa, Kiều Loan, chúng ta có việc ở nhà ngay tối nay mà!
Giọng nàng đanh đá:
– Không có chuyện gì gấp hơn chuyện… hơi hám của chàng cả. Hãy nghe thiếp đêm nay!
* * *
Vẫn cảnh hoa viên cũ, nhưng lúc này chỉ có một mình Trúc Đào. Cầm trên tay tờ thiếp hồng vừa được gởi tới, nàng xem xong rụng rời chân tay, để rơi nó xuống cỏ, kêu lên thảng thốt:
– Tại sao xảy ra chuyện này!
Trong thiếp báo tin hôn lễ của Thiện Sĩ và Kiều Loan!
Lời hẹn ước lúc chia tay cách đây chưa đầy một năm mà giờ đây là một hung tin báo về! Trúc Đào không tin vào mắt mình, nên lại nhặt tấm thiếp lên, rồi một lần nữa đau đớn ôm lấy ngực, đổ xuống thảm cỏ. Trong nhà không có ai, nên Trúc Đào gục ở đó khá lâu mà chẳng thấy người nào ra đỡ lên. Đến khi bình tâm lại, chính nàng gượng đứng lên và lần từng bước về phía cuối vườn. Khi đứng trước một miệng giếng sâu thì nàng dừng lại. Cái giếng đào đã từ lâu, chỉ dùng để tưới vườn, nhưng gần đây người chăm sóc vườn nghỉ việc, chưa có người thay, nên lâu lâu mới có người ra đây…
– Trên cõi đời này thiếp chỉ còn mình chàng, nay chàng lại bỏ thiếp mà theo người khác, thì hỏi thiếp còn có ý nghĩa gì nữa? Vĩnh biệt chàng và chàng hãy nhớ, thiếp yêu chàng nhiều bao nhiêu thì giờ đây thiếp hận chàng bấy nhiêu! Thiếp hận chàng, hận lũ đàn ông bạc tình bạc nghĩa như chàng! Thiếp thề, thiếp sẽ trả thù!
Trúc Đào nhắm nghiền mắt lại, nhoài người khỏi miệng giếng, chỉ trong nháy mắt chẳng còn thấy bóng dáng nàng đâu!
* * *
Trưa ngày hôm sau, lúc mặt trời đứng bóng thì Phước mới dậy. Nhìn đồng hồ tay, anh giật mình đứng lên, trên người anh rơi ra một vật, mà khi nhìn nó anh mới nhớ tới giấc mơ vừa trải qua. Chiếc vương miện nằm lăn lốc trên nền gạch cũ.
– Trúc Đào!
Vô tình Phước gọi tên người con gái trong mơ, không ngờ tiếng gọi khẽ đó được đáp trả bằng một tiếng thét kinh hoàng ở nhà ngoài! Hoảng hốt, Phước chạy ra thì thấy chú Sáu vừa choàng dậy vừa hoảng loạn:
– Cậu ơi, cứu tui với! Cứu!
Phước biết ông ta vừa trải qua cơn ác mộng gì đó, nên chụp lấy vai nói lớn:
– Tôi đây mà. Phước đây!
Lúc ấy chú Sáu mới bình tĩnh lại, nhưng vẫn ngơ ngác, lắp bắp nói:
– Cô… cô ta… cô ta bóp cổ… bóp cổ và đuổi…
Phước phải gắt lên:
– Có chuyện gì chú bình tĩnh nói nghe coi!
Bấy giờ chú Sáu mới nín và nhìn Phước hồi lâu. Phước phải lặp lại:
– Chú mơ thấy ác mộng phải không?
Biết chắc là mình đang ở thực tại, lúc này chú Sáu mới kể lại:
– Tui đang ngủ thì thấy có một cô gái ăn mặc giống như mấy tiểu thơ trong phim Hồng Kông. Cô ta lấy nguyên tảng đá lớn đè lên người tôi rồi vừa quát tháo inh ỏi, đuổi tui phải đi khỏi nơi đây liền! Cô ấy còn nói đây là nhà của cô ta, không ai được vào ở. Nếu không nghe lời thì
Ông ta nói tới đó thì bỗng nhiên vùng thoát chạy ra ngoài. Phước gọi theo:
– Chú Sáu! Chú Sáu!
Nhưng ông ta không màng, cứ cắm đầu chạy.
Lúc này Phước mới tự nhủ: Không lẽ cũng là chuyện nàng Trúc Đào?
Phước đưa mắt nhìn quanh chỗ nằm của chú Sáu và phát hiện ra đầy những nước, có lẽ do ông quá sợ đã
tè ra! Tuy nhiên khi nhìn kỹ lại anh lại thấy có một bộ quần áo sũng nước đang nằm ở góc nhà.
– Bộ đồ này!
Đó chính là bộ trang phục mà nàng Trúc Đào trong giấc mơ đã mặc! Loại quần áo này ngày nay chỉ còn thấy trong phim ảnh hay ở các viện bảo tàng. Vậy mà…
Cầm bộ đồ lên, Phước không thể nào lầm được, anh đã thấy nó rất rõ trong giấc mơ vừa rồi và nàng Trúc Đào đã mặc nó trong lúc nhảy xuống giếng.
– Đúng rồi, quần áo của nàng ta!
Đem bộ quần áo đó vào phòng, đặt nó cạnh chiếc vương miện cổ, hai vật hòa hợp với nhau một cách lạ lùng, chứng tỏ chúng cùng một người chủ. Lúc này Phước mới nghiệm ra, anh lẩm bẩm:
– Nàng Trúc Đào ấy đã sắm sẵn những vật này, chờ khi chàng Thiện Sĩ trở về để làm đám cưới! Đúng rồi!
Lục tìm thêm nữa trong rương, Phước còn thấy có cả một đôi hài nhung, một bộ áo gối thêu rồng phượng rất đẹp, tuy màu chỉ, vải có phai theo thời gian, nhưng đường nét và họa tiết vẫn còn hiện rõ sự tinh xảo, khéo tay.
Đã xác định được nguồn gốc, Phước rất trân trọng những vật trước mắt, anh đem phơi bộ quần áo, còn chiếc vương miện thì đặt trở lại trong rương một cách cẩn thận.
Xong đâu đó Phước mới cảm thấy người mỏi nhừ, có lẽ do suốt đêm qua ngủ không đủ giấc, anh định ra ngoài kiếm cái gì ăn rồi sẽ về nhà ngủ một giấc để lấy lại sức.
Tuy nhiên, lúc bước ra phòng khách, Phước giật mình khi thấy có một người ngồi sẵn ở ghế trường kỷ. Người ấy nổi bật lên bởi bộ quần áo mặc trên người! Bộ trang phục của một quan nhân hay phú hộ thời xưa!
– Ông là
Người khách quay lại trực diện với Phước, vừa cất tiếng hỏi:
– Không nhận ra tôi sao, cậu Phước?
Phước nhìn sững và ngập ngừng hỏi:
– Ông đây là… là bác đạp…
Người khách tiếp lời:
– Là người đạp xe xích lô đây mà!
Thì ra là ông ta! Nhớ lại hai lần trước Phước lùi một bước, như cảnh giác. Ông lão vội lên tiếng:
– Tôi có làm gì đâu mà cậu sợ. Nếu muốn làm gì thì hai lần trước cậu đâu còn sống đến hôm nay! Tôi chỉ…
Ông ta đưa tay chỉ một vòng khắp nhà, giọng từ tốn:
– Ngôi nhà này vốn là của tôi, cậu có tin không?
Phước bây giờ mới nhìn kỹ bộ quần áo ông ta mặc trên người, anh hơi lúng túng:
– Ông là…
– Tôi là chủ ngôi nhà này. Xưa kia tôi làm quan ở Trấn này. Người ta gọi tôi là Tri phủ Nguyên. Ngôi nhà này tôi xây lên được ba năm thì xảy ra chuyện. Năm ấy tự dưng con gái tôi rơi xuống giếng mà chết, rồi ngay sau đó tai họa lớn khác lại ập vào nhà tôi, khi quân lính thị vệ của quan Phò Tổng Trấn Thành kéo tới bao vây, lục soát nhà và tuyên bố tịch thu tài sản, lột áo mão của tôi, đuổi về làm thứ dân! Lúc ấy tôi không hiểu là chuyện gì, nhưng sau đó tôi đã rõ. Do con gái tôi là Trúc Đào yêu cùng một người đàn ông với con gái Phó Tổng Trấn, nên cha con tôi bị hại là để họ chiếm độc quyền. Con gái tôi chết oan ức, nhưng cũng may cho nó, bởi nếu không chết trước thì ngày ấy nó thế nào cũng bị bắt giam và chịu cực hình, để rồi thế nào cũng chết rục xương trong ngục tối!
Ông kể mà sự xúc động làm cho đôi lần ông phải dừng lại, đè nén. Mãi sau đó ông mới nhìn thẳng vào Phước và nói tiếp:
– Cậu đã hiểu ra chuyện rồi, thì tôi xin nói thẳng, tôi không muốn cậu chen vào cuộc sống vốn yên tĩnh từ ngót trăm năm nay rồi.
Phước hỏi lại:
– Như vậy bác đã… đã là…
– Là người đã chết, nói theo thông thường thì tôi là hồn ma! Cậu không tin sao?
Phước ấp úng:
– Không… không… cháu tin. Nhưng mà…
– Người chủ nhà vừa bán cho cậu là cháu bốn đời của tôi. Vừa rồi nó làm một việc mà tôi đau lòng lắm. Nó cải táng, đưa chúng tôi đi khỏi mảnh đất mà trăm năm trước chúng tôi thề nếu sống thì sống nơi đây, còn chết cũng nằm đây vĩnh viễn! Do vậy tôi xin cậu hãy trả lại nơi chúng tôi không thể xa.
Phước phản đối ngay mà quên rằng trước mặt mình là một hồn ma:
– Đâu được! Tôi đã mua xong rồi, giấy tờ tiền bạc cũng dứt điểm rồi, làm sao có thể thay đổi. Vả lại mồ mả cũng đã cải táng rồi…
Ông lão chỉ tay ra sau vườn:
– Cũng may là nhờ cậu mở chiếc rương ra nên con gái tôi đã sớm trở về ngôi mộ cũ. Còn hai vợ chồng tôi thì bữa nay bàn với cậu, xin cậu hãy thương tình. Chúng tôi sẽ tìm cách bù cho cậu ngôi nhà khác, cũng gần giống như vầy. Nếu cậu chịu thì ngay chiều nay
Thấy Phước còn chưa hẳn tin, ông đứng lên ra dấu cho anh:
– Cậu theo tôi ra ngoài vườn sẽ rõ.
Ở góc vườn, nơi ba cái huyệt vừa cải táng bữa trước, nay đã có một ngôi mộ trở lại như cũ! Ông lão chỉ và nói:
– Trúc Đào đã nhờ cậu mà được nằm yên chỗ cũ. Nó nhớ ơn cậu, chớ nếu không thì ngay tối qua cậu đã bị nó rước đi rồi, lúc cậu lấy chiếc vương miện của nó ra. Nhất là khi cậu đem phơi bộ đồ ướt sũng nước của nó, hành động ấy khiến nó không xem cậu là kẻ thù, nó tha cho cậu đó.
Phước đứng tần ngần một lúc, anh rất khó xử trong vụ này, bởi ngoài việc thích ngôi nhà, anh lại sợ nếu mình bỏ, thì có thể Hồng Loan sẽ phỗng tay trên, mua lấy?
Chừng như đoán biết suy nghĩ của Phước, ông già nói ngay:
– Cậu còn bị tôi đuổi ra khỏi đây nữa. Yên chí đi, không người nào vào ở được nhà này cả.
Ông nói xong, quay bước đi lẩn vào mấy bụi cây phía hông vườn. Khi Phước đuổi theo thì không còn tìm thấy nữa. Muốn cất tiếng gọi, nhưng anh chợt nhớ ông ta là một… hồn ma, nên lặng lẽ trở vô nhà.
Bước vô phòng chứa đồ cũ, một lần nữa Phước kinh ngạc, bởi bộ quần áo ướt anh phơi lúc nãy đã biến mất! Cả chiếc vương miện nằm trong rương cũng bị lôi ra, để trên đầu tủ, như một vật trưng bày!
Không nghĩ ngợi gì nữa, Phước chấp tay lại, khấn rất thành tâm:
– Con xin lỗi nương nương. Chẳng qua vì chưa biết nên xúc phạm người, từ bây giờ xin trả lại cho người mọi thứ. Con xin
Bỗng nhiên một cái tát nẩy lửa giáng vào một bên má của Phước khi anh chưa dứt lời. Nhìn lại không thấy ai trong phòng, Phước vội lên tiếng:
– Con xin lỗi, nếu có điều chi thất thố thì xin…
Phước lại bị một cái tát nữa, đau điếng! Anh vừa định mở miệng nói nữa thì chợt hiểu, vội đổi cách xưng hô:
– Xin lỗi cô nương, tôi…
Lần này quả nhiên Phước không bị đánh. Anh biết mình gọi cô ấy là nương nương đã chạm tự ái, bởi cho đến lúc chết cô nàng vẫn còn là gái đồng trinh. Mà từ nương nương là để gọi những người đã có chồng.
Phước nhẹ bước ra, khép cửa phòng lại. Anh tự nhủ, nếu có mất tiền mua nhà cũng đành cam chịu, chắc chắn là anh sẽ không trở lại đòi…
* * *
Chiều hôm đó, trong lúc đang ngồi nhà nghe vợ cằn nhằn về chuyện tự dưng bỏ số tiền lớn vào ngôi nhà, rồi bị mất, thì có người gọi cổng, Phước bước ra cùng với vợ, gặp một người khách lạ, anh ta đưa cho Phước chùm chìa khóa và một tờ giấy vừa nói:
– Ngôi nhà này từ bây giờ là của anh. Tôi đã làm thủ tục sang tên sở hữu, giờ anh chỉ việc đi nộp thuế trước bạ nữa là xong. Xin cám ơn anh đã mua ngôi nhà.
Ông ta bỏ đi ngay. Phước phải gọi giật lại:
– Ai mua nhà của ông?
– Một ông phú hộ ở Phú Thọ, ông ta nói mua tặng cho một người cháu. Thôi chào ông.
Phước ngẩn ngơ một lúc rồi mới nhìn vào tờ giấy chủ quyền nhà. Tên Phước là chủ sở hữu.
Lệ Hoa chưa hiểu nên hỏi dồn:
– Nhà gì vậy anh? Ai mà cho anh nhà vậy?
– Chính ông ấy đã đền bù cho mình. Thật không thể ngờ. – Phước lẩm bẩm.
Sáu tháng sau…
Tình cờ Phước gặp lại người chủ nhà lúc đầu đã bán nhà cho mình. Ông ta rất vui báo tin cho Phước:
– Chính nhờ cậu mà dòng họ tôi đã được đoàn viên.
– Bác nói gì cháu chưa hiểu? Vừa rồi suýt nữa cháu đã đắc tội với các bậc tiền bối ở đó! – Phước hỏi lại.
Ông Thành kể chuyện:
– Cả trăm năm nay ông bà cố tổ của tôi chịu mối oan ức mà không thể tự giải cứu được. Cố tổ tôi bị phó Tổng trấn Huỳnh Công Lý thời Tả quân Lê văn Duyệt bức tử bằng độc dược, bị yểm bùa sau khi chôn, còn con gái ngài thì do tự vẫn chết dưới giếng sâu, bị các oan hồn uổng tử chốn đó vây lấy, nên không thể đi đầu thai được. Vừa rồi nhờ bán nhà cho cậu, tôi đã cải táng những ngôi mộ đi và vô tình giỡ bỏ được bùa yểm, nên ba vong hồn cố tổ tôi mới thoát ra được. Bây giờ họ đều có mặt trong ngôi nhà cổ ấy…
Phước ngạc nhiên:
– Họ là người chết, sao ở lại ngôi nhà ấy?
Ông Thành giải thích:
– Họ không hiện diện như chúng ta, nhưng vong hồn họ thì vẫn còn đó. Tôi không ở trong ngôi nhà ấy, nhưng ngày ngày vẫn tới lui nhang khói. Tiểu thư Trúc Đào đêm đêm thường hiện về và có nhắc tới ơn cứu mạng của cậu. Nếu tiện thì hôm nào đó cậu cũng nên tới đốt cho tiểu thư một nén nhang.
– Dạ. – Phước đáp không suy nghĩ.
Nhưng sau đó anh lại rùng mình!
Ngôi nhà cổ từ ấy có rất nhiều chuyện lạ, nhưng chỉ mình Phước biết. Mà chàng thì đã thề với lòng là sẽ không kể cho một ai khác nghe…
Có lẽ trên đời có mấy ai đáng thương hơn Út Nhì.
Là một chàng trai quê quanh năm suốt tháng với ruộng đồng, nhà lại nghèo nên bạn bè trang lứa đều đã được gia đình cưới vợ gả chồng, chỉ có Út Nhì vẫn cu ky với cái cày con trâu. Suốt ngày thui thủi lưng trâu, hoặc cùng trâu kéo cày, kéo bừa Út Nhì buồn bã, cô độc lắm. Những khi buồn quá mức thì Út Nhì bèn "thả" sáu câu vọng cổ để vừa tự trình diễn vừa tự thưởng thức một mình và tự giải sầu.
Lần đó có một gánh hát phương xa về vùng Vàm Lá. Có thể nói tin đó đến với cư dân quanh vùng như một niềm vui không gì tả nổi. Người lớn, thanh niên, trẻ nhỏ, ai cũng náo nức chờ đợi để có những đêm hội được xem đờn ca xướng hát.
Út Nhì cũng nằm trong số đó. Để chuẩn bị cho những đêm được bước vào nhà lồng chợ đứng hạng "cá kèo", Út Nhì phải quần quật mấy ngày trước đó… tát đìa trộm lấy cá bán, kiếm chút tiền rủng rỉnh cho những đêm vui.
Hồi đó Vàm Lá là vùng đất rộng người thưa, tiếng trống mời khán giả phải mất mấy phút mới bay đến tận những thôn xóm ở cách chợ xa xa, giữa những con rạch, cánh đồng.
* * *
Ngay buổi chiều đầu tiên khi những tiếng trống ngoài chợ Vàm nổi lên thúc giục thì Út Nhì đã lo dắt trâu vô chuồng, bỏ rơm cỏ dư dả cho nó nằm nhơi suốt đêm, rồi đi tắm rửa thay bộ đồ mới duy nhứt, nhét vào túi mấy đồng bạc tiền tát đìa trộm và lặng lẽ rời khỏi nhà.
Leo lên chiếc xuồng câu đậu trong cái xẻo nhỏ um tùm cây bần, cây ô rô, Út Nhì khoan khoái, bổ mạnh mái dầm ra hướng chợ Vàm. Trên đường đi Út Nhì gặp lố nhố những chiếc xuồng ba lá của đám người già trẻ cùng trên đường đi xem hát như anh ta. Ai cũng hối hả muốn đến chợ sớm trước vài giờ để ăn tô bánh canh, cháo gà hoặc uống vài ve rượu với đĩa lòng lợn mà ngày thường đâu dễ gì có. Nhứt là mấy cậu thanh niên háo hức muốn ra chợ Vàm sớm để còn có dịp đi ve vãn các nàng thôn nữ chắc chắn cũng có mặt ở đây để xem cải lương.
Út Nhì chèo ra đến chợ Vàm thì mặt trời đã khuất bên cánh đồng. Trời sụp tối. Chợ Vàm Lá rực sáng đèn. Đèn dầu chen lẫn với đèn măng sông, ánh sáng lấp lánh như sao sa. Sau khi buộc ghe vào bến, Út Nhì đi vòng ra sau chợ định ngắm nhìn các nghệ sĩ đào kép, nhưng gánh hát che bít bùng nên chẳng thấy gì. Út Nhì vòng ra trước chợ, tấp vào một sạp bán cháo gà dằn bụng một tô. Cả năm trời đội nắng dằm mưa Út Nhì mới có được một buổi thong dong ngồi húp tô cháo ngọt lịm. Ăn hết một tô, Út lại gọi thêm tô nữa kèm với một đĩa gỏi gà. Lần này tát trộm cái đìa nhỏ xíu của ông Bảy Trọn mà được mấy chục ký cá, bán được mấy chục bạc. Vậy thì chơi cho đáng. Thong thả húp cháo, nhẩn nha nhai miếng gỏi gà ngọt lịm, Út Nhì vừa ăn vừa nhìn nam thanh nữ tú dập dìu lượn qua lượn lại.
Đang nghe tiếng kèn sáo bên trong nhà lồng chợ nổi lên rộn rã, đang quét mắt khắp sân chợ, Út Nhì chợt giật mình vì một cô gái mặt hoa da phấn từ trong phía sau chợ bước ra ngồi xuống đối diện. Cô gái kêu một tô cháo và hối chị bán cháo:
– Chị cho em xin tô cháo lẹ lên, em sắp tới giờ diễn rồi.
Nếu đêm nay không đi xem hát thì có lẽ suốt đời Út Nhì ắt hẳn chẳng đời nào có dịp gặp được một người thiếu nữ đẹp như thế này. Trái tim chàng thanh niên đồng ruộng rộn lên những nhịp đập rộn ràng khó tả. Anh chàng lắp bắp làm quen:
– Chị ơi, có phải chị là nghệ sĩ không?
Nghe chàng trai tóc đỏ như râu bắp dáng vẻ quê mùa mà ăn nói lễ phép, cô gái cười gật đầu:
– Ừa, đúng vậy, chị tên Mỹ Phụng, đêm nay chị sẽ đóng vai Nghi Xuân trong vở Phạm Công Cúc Hoa.
Lần đầu tiên được nói chuyện với một nghệ sĩ lại là một nữ nghệ sĩ đẹp như tiên nga lòng Út Nhì thật bồi hồi vui sướng.
Cô gái ăn cháo xong chào Út rồi biến vào hậu trường. Út Nhì cũng đứng lên mua vé vào xem. Không mua vé hạng "cá kèo" mà Út mua vé ngồi để có dịp áp gần sân khấu, để tiện ngắm nàng Mỹ Phụng. Đến cảnh Nghi Xuân Tấn Lực được mẹ Cúc Hoa hiện hồn về chăm sóc cho hai đứa con thơ bị bà mẹ ghẻ Tào Thị ác nghiệt đánh đập bắt đi ăn mày, ngồi ở dưới Út Nhì khóc như mưa.
Dường như tuy đang diễn nhưng Mỹ Phụng có liếc xuống khán giả và nhìn thấy chàng trai nhà quê đang khóc. Có lẽ cô gái cũng nao lòng và cảm động trước những giọt nước mắt của chàng nam nhi.
Qua đêm sau nữa, cũng ở sạp cháo gà Út Nhì lại gặp Mỹ Phụng, cô ả cười nói:
– Hôm qua chị thấy em khóc phải không? Đàn ông con trai mà cũng dễ rơi nước mắt vậy sao?
Út Nhì đỏ rần mặt mũi:
– Ừ, tại hôm qua chị diễn hay quá cứ y như thật. Thương chị và má Cúc Hoa nên em khóc…
Mỹ Phụng dặn bà bán cháo:
– Hai tô cháo này để em trả tiền.
Rồi quay qua Út Nhì cô nàng thân mật:
– Bữa nay chị bao em. Lát nữa có vào xem không?
– Có chớ, đêm nào em cũng chèo ghe ra đây xem hát mà.
Ăn xong, trả tiền cháo, Mỹ Phụng nheo mắt cười với Út Nhì rồi chạy nhanh vào hậu trường.
Vãn hát, xuồng ghe lịt kịt ra về. Út Nhì bần thần không muốn rời khỏi nơi này. Út Nhì thấy thèm nhớ cô đào Mỹ Phụng, trong lòng lưu luyến làm sao. Ước gì được nhìn Mỹ Phụng một lần nữa rồi về ngủ cho ngon. Một tay cầm dầm, một tay nắm giữ nhánh bần cho ghe đừng trôi, Út Nhì nhìn về phía gánh hát.
Có lẽ ước muốn của Út Nhì quá chân thật nên động lòng trời hay chỉ là một sự vô tình, một bóng trắng đi xăm xăm về phía chiếc xuồng Út Nhì đang đậu.
– Mỹ Phụng.
Út Nhì há hốc miệng, kêu nhỏ. Làm như đã biết trước Út Nhì ở đây, Mỹ Phụng cười:
– Chưa về hả? Tính đợi chị sao?
Út Nhì say sưa ngắm Mỹ Phụng. Làn da cô đào hát hơi xanh xao, có lẽ đã bôi hết son phấn. Bù lại, bóng dáng nàng tha thướt dịu dàng đến lạ lùng. Nàng bước đi uyển chuyển như khói, như mây.
Không nghe Út Nhì trả lời, Mỹ Phụng hỏi tiếp:
– Nhà em ở tận đâu vậy?
Út Nhì chỉ theo hướng dọc dòng sông:
– Từ bến sông này chèo ngược vô phía trong độ nửa giờ thì đến xóm em. Xóm em nhỏ lắm, chỉ lèo tèo độ chục nóc gia thôi.
Mũi xuồng tấp sát vào bờ, không đợi mời, Mỹ Phụng nhanh nhẹn bước xuống, đến ngồi kế bên Út Nhì.
– Vậy đêm nào em cũng chèo ghe ra đây xem hát một mình?
– Dạ, đêm nào cũng vậy. Em muốn được xem chị hát lắm – Giọng Út Nhì chợt buồn – Không hiểu chừng gánh hát của chị dọn đi em sẽ làm gì trong những chiều tối như thế này. Chắc em sẽ buồn lắm.
Nghe chàng trai thổ lộ tâm tình, Mỹ Phụng có vẻ chạnh lòng lắm, nàng vỗ nhẹ vai chàng trai:
– Đời của bọn chị là cuộc đời rày đây mai đó, chủ yếu sống về đêm, lúc thuận duyên thì đến, hết duyên thì đi, hơi sức đâu nhớ nhung những kiếp người nổi trôi như bọn chị!
Út Nhì mủi lòng:
– Biết vậy nhưng em mến chị quá, hình ảnh của chị, tiếng hát của chị cứ ám ảnh em suốt trong những giấc mơ.
Mắt cô gái long lanh, dường như nàng xúc động dữ lắm trước tấm chân tình của chàng trai trẻ nông thôn chân chất. Nàng ướm lời:
– Ở làng quê gái mười sáu đã lấy chồng, trai mười tám đã có vợ, vậy em đã có vợ chưa?
Út Nhì đỏ mặt lúc lắc cái đầu bù xù tóc:
– Trời ơi gia đình em nghèo lắm chị, nên đâu có cô nào dám thương em.
Cô gái nắm nhẹ bàn tay Út Nhì:
– Thôi thì để chị làm mai cho em một người vậy. Mà biết em có chịu người ta không đây?
– Người ấy là ai vậy chị Phụng?
Phụng bóp nhẹ tay Út:
– Bí mật, khuya mai vãn hát em xuống xuồng chờ chị nhé.
Như có một luồng điện từ bàn tay của người con gái, truyền sang Út khiến người cậu ta lâng lâng khó tả. Đây là lần đầu tiên trong đời chàng trai hiền từ đồng ruộng biết thế nào là sự mềm mại của một bàn tay con gái
* * *
Con trăng mười tám lên muộn. Ánh trăng rải rộng một màu vàng tươi tắn xuống dòng nước lặng lờ…
Chưa kịp vãn hát Út Nhì đã đi xuống bến sông leo lên chiếc xuồng nhỏ của mình hồi hộp ngồi chờ. Chàng trai còn cẩn thận đậu khuất vào một tán bần to để không ai nhìn thấy được.
Đang mơ mộng bỗng nghe mũi thuyền lắc nhẹ, Út Nhì giật mình quay lại đã thấy Mỹ Phụng ngồi ở đó hồi nào và mỉm cười:
– Ngồi mơ cô nào mà người ta đến đây cả buổi vẫn không hay? Thôi, xô thuyền ra đi kẻo người ta thấy bây giờ.
Như cái máy, Út Nhì đẩy mái dầm bơi xuồng ra khỏi bến rồi thả thuyền trôi theo con nước. Mỹ Phụng đi lần xuống ngồi giữa lòng thuyền để tóc buông xõa bay theo chiều gió. Út nghe từ mái tóc người con gái tỏa ra mùi hương hoa lài thoang thoảng, ngất ngây. Nàng ngồi đó nhìn trăng, hát nho nhỏ.
Khi thuyền đã đi vào một vùng sông tối do những đám bần, dừa nước mọc hoang, cô nàng kêu Út dừng thuyền bên một nhánh bần nhỏ.
– Chỗ này thật trữ tình, sao ta không cột thuyền ở đây để nói chuyện.
Út Nhì neo thuyền lại. Con trăng mười tám nằm trên ngọn bần nhỏ. Dòng sông vắng lặng như thể nó đang say ngủ giữa canh khuya trăng sáng. Mỹ Phụng đưa tay vẫy:
– Lại đây, chị nói chuyện này.
Út cột thuyền vào nhánh bần rồi lại ngồi xuống cạnh Mỹ Phụng.
– Đâu, chị nói giới thiệu cho em người nào đâu, sao chẳng thấy?
Mỹ Phụng cười nho nhỏ trêu:
– Con mắt em đâu mà chẳng thấy người đó?
Út ngây thơ nhìn quanh:
– Ngoài chị và em ra thì có ai đâu?
Mỹ Phụng kéo sát Út vào mình rồi nói nhỏ vào tai cậu ta:
– Người ấy là chị đây nè, em chịu không?
Hỏi xong cô nàng không để Út trả lời đã ôm sát hôn Út đắm đuối:
– Từ hôm gặp em, chị đã thấy có tình cảm với chàng trai này rồi. Và chị nghĩ em cũng đã yêu chị, đúng không? Chị biết chúng ta có duyên phận với nhau mà!
Mùi con gái thơm tho lạ lùng, hơi thở nàng ấm áp là những thứ mà chưa bao giờ Út được cảm nhận. Út Nhì như say, như điên dại ôm chầm lấy Mỹ Phụng. Hai người quấn nhau như hai con rắn mặc cho chiếc thuyền chòng chành làm vỡ những mảnh trăng vàng.
Đêm ấy cả hai ân ái với nhau đến gần sáng. Khi con trăng sắp chìm dưới dòng sông thì nàng mới giục:
– Thôi, đêm nay chị đã làm vợ của em rồi, bây giờ phải đưa trả chị về bến chợ Vàm, tối nay mình sẽ lại gặp nhau.
Út còn quyến luyến:
– Nhưng trời chưa sáng hẳn, chúng ta nấn ná lại đôi giờ nữa được mà.
Nàng lắc đầu và hôn nhẹ má Út:
– Không được, chị phải về ngay đây, đừng cãi chị giận sẽ từ biệt luôn bây giờ. Đừng trẻ con nữa ông chồng bé bỏng của chị.
* * *
Suốt mấy đêm liền khuya nào Út Nhì cũng chèo xuồng ra chợ Vàm đón Mỹ Phụng và đưa nhau ra khúc sông vắng để tâm tình ân ái.
Rồi một đêm Mỹ Phụng nói thì thầm bên tai Út:
– Bao ngày qua em đã cho chị biết thế nào là thứ hạnh phúc xác thịt gái trai. Nhưng em với chị tuy có duyên mà không nợ nên đêm mai ta gặp nhau sẽ là đêm cuối cùng.
Út muốn khóc:
– Hay là chị cho Út theo chị. Út nghèo tài sản chỉ có chiếc xuồng này thôi. Út sẽ bỏ xuồng, bỏ bến sông, bỏ làng sẵn sàng theo chị đến bất cứ nơi nào.
Mỹ Phụng vuốt ve mái tóc rối bù của Út:
– Không được đâu, đời sống của chị và em khác nhau xa lắm, đôi bề cách trở, không thể nào ở vĩnh viễn bên nhau mãi được. Chúng mình chỉ có bấy nhiêu thôi. Đừng buồn chồng ơi.
Đêm sau trời đã nhá nhem tối bỗng có một cơn mưa nhỏ rơi xuống. Khung cảnh làng quê càng trở nên mịt mờ vắng lặng.
Bữa nay chắc nước ngược hay sao mà xuồng chèo lâu quá vẫn chưa chịu đến cửa Vàm. Khi đến được chỗ gánh hát thì tuồng đang diễn. Út cột thuyền nhảy lên bờ đi thẳng vào cửa chợ. Lố nhố người xem hát, Út Nhì há hốc say sưa ngắm Mỹ Phụng trong vai Chiêu Quân.
Út Nhì thấy Mỹ Phụng mê mải hát dường như chẳng hề để ý gì đến cậu ta. Gần vãn đêm hát, Út Nhì đi ra, xuống xuồng ngồi chờ trong lòng cảm thấy buồn vô hạn. Lát sau Mỹ Phụng xuất hiện. Không chờ cho xuồng đi xa, nàng lao tới ôm chầm lấy Út Nhì rủ rê cậu ta vào thú vui xác thịt như những đêm trước.
Xong việc nàng khóc với Út:
– Ân tình với em đêm nay nữa là xong, về sau em nên đi lấy vợ và xin đừng mơ tưởng.
– Không, Út sẽ theo chị, Út không lấy vợ đâu, chị đã là vợ của Út rồi.
Nàng ủ dột:
– Biết là khó rời nhau, song duyên số đã vậy biết nói sao bây giờ. Thôi em hãy nằm trong lòng chị, để chị hát ru cho mà ngủ.
Rồi nàng Mỹ Phụng nỉ non hát. Tiếng hát của nàng ngọt ngào dìu dặt khi xa khi gần làm đôi mắt Út Nhì ríu lại và ngủ thiếp đi trong vòng tay mân mê êm ái của người con gái…
Đến sáng hôm sau khi những tia nắng ban mai đầu tiên chiếu vào mặt Út Nhì làm cậu ta giật mình tỉnh giấc. Ngó quanh không thấy Mỹ Phụng đâu, còn chiếc xuồng của cậu ta thì đậu trên một bãi cạn chung quanh đầy mồ mả cái cao cái thấp lúp xúp lô nhô… Hốt hoảng, Út Nhì ì ạch đẩy xuồng xuống mép nước chèo riết về cửa Vàm. Gánh hát đã dọn đi trong đêm…
* * *
Ông cụ Út Nhì nay đã ngoài chín mươi, đang sống ở một trung tâm nuôi dưỡng người già. Ông cụ kể chuyện về "mối tình xưa" xa lắc nào đó chẳng rõ là thật hay hư. Đó là mối tình với một cô đào hát mơ hồ như truyện liêu trai ma quái. Buổi chiều buồn. Trên ghế đá ngoài sân trung tâm, ông ngồi một mình với cái bóng hiu hắt. Đôi mắt hấp háy, mọng đỏ, ông nói:
– Từ đó tới giờ tôi không có vợ con, tôi sống thủy chung với một bóng hình trong quá khứ. Nàng là người hay ma, tôi không xác định được, nhưng tôi yêu nàng, tôi mong là có cơ hội được gặp lại nàng, Mỹ Phụng của riêng tôi…
Thằng Nhỏ dưới quê lên thi Đại học. Chỗ ở tạm vài ngày của nó là xưởng sản xuất của chú nó. Chú nó là thợ chính của xưởng, đêm ngủ lại tại xưởng… làm bảo vệ luôn. Chủ là người bà con nên có phần ưu đãi chú nó.
Dĩ nhiên chuyện nó ngủ lại với chú nó cũng chẳng ai làm khó gì. Vài ngày thôi mà. Vả lại đây là xưởng làm tay chân giả chớ có sản xuất hàng hóa gì mắc mỏ đâu mà sợ mất cắp. Ai lại đi ăn cắp thứ "hàng hóa" đặc biệt này?
– Tối mình ngủ dưới này. Trải chiếu, giăng mùng là chui vô ngủ. – Chú nó dặn.
– Thời tiết nóng nực. Chú có xài quạt không? – Thằng Nhỏ thấy căn phòng ngột ngạt nên hỏi.
– Có chớ! Quạt trần kia kìa. Nè… mày ngủ đi nghen. Chú đi… nhậu một tí rồi về.
Rồi chú nó lại dặn dò một lần nữa hết sức nghiêm túc:
– Ngủ thì cứ ngủ. Trên gác mèo chuột có chạy lục cục gì thì thây kệ nghen.
– Bộ trên đó có nhiều mèo chuột hả chú?
– Tao dặn thì nghe. Đừng cãi! Giăng mùng đi rồi ngủ…
Chú nó đi nhậu. Mở quạt trần cho thằng cháu xong, ông chú bước ra ngoài tiện tay khép cửa lại. Ông chú không dặn dò gì thêm nên thằng nhỏ cũng ừ hử cho qua. Chuyện mèo chuột rượt đuổi nhau trên gác thây kệ. Miễn là nó đừng mò xuống đây thôi. Ái cha! Đi tắm cái chớ.
Tắm xong, nằm đọc sách một lát. Thằng Nhỏ buồn ngủ liền. Dân quê mà! Tám giờ tối là tắt đèn đi ngủ rồi. Mai thi thì thi, bài vở nó đã ôn nhuyễn rồi. Chẳng cần dò lại.
Quạt trần xoay tỏa làn gió nhè nhẹ xuống mùng. Thằng Nhỏ nhắm mắt lại một chút là ngủ khò. Giấc ngủ của thằng con trai mười tám tuổi đến rất lẹ, nó ngủ thật sâu và ngáy ồ ồ như người ta cưa cây…
Nửa đêm rồi mà ông chú chưa về.
Thằng Nhỏ thức giấc đi tiểu thấy trống trải quá. Ông chú chắc đi hẹn hò với bà nào chứ đi nhậu gì mà giờ này chưa về. Thằng Nhỏ lẩm bẩm.
– Làm như ổng nhậu cứng lắm vậy!
Nó ra sau nhà, đúng như ông chú nó nói. Trên gác có tiếng động nghe kỳ cục lắm chứ không phải mèo chuột đuổi nhau đâu, nó đứng ngay chân cầu thang lắng nghe…
– Cạch… cạch… cạch…!
Lát sau lại vẫn thứ âm thanh kỳ cục đó nhưng âm thanh đều nhau:
– Cạch… cạch… cạch!
Thằng nhỏ lấy làm lạ. Nó tò mò muốn biết mèo hay chuột… hay có tên trộm nào mò vô trên gác. Nó đứng dưới chân cầu thang một hồi rồi quyết định trở lại mùng chui vô. Chú nó đã dặn rồi, nó không dám cãi. Nhưng thật sự nó rất khó ngủ lại.
– Cạch… cạch… cạch!
Tiếng động nghe như một chuỗi âm thanh cách khoảng nhau hình thành điệu nhạc mà nó nghe rất quen. Ở dưới quê nó có sinh hoạt Đoàn, chơi văn nghệ ở Nhà văn hóa huyện nên cũng biết kha khá về âm nhạc. À… điệu valse. Một lát sau tiếng động đó lại giống như điệu tango dồn dập…
– Cái quái quỷ gì đây… chứ mèo chuột gì mà văn nghệ vậy?
Thằng nhỏ quyết định "khám phá" bí mật trên căn gác nhỏ tối tăm. Nó vén mùng chui ra, bước nhè nhẹ đến chân cầu thang.
Rồi thì… Nó bước rất nhẹ lên từng bậc thang. Một tay cầm cái quẹt gas để bất ngờ sẽ bật lên coi cái gì…
Tiếng cành cạch vẫn tiếp tục. Nó bước từng bước lên nhẹ nhàng êm ru… Nhỏ thò đầu nhìn vô. Căn gác chất đầy hàng hóa đặc biệt. Từng đống chân giả, từng đống tay giả xếp sát vách. Và ngay giữa căn sàn gác nó nhìn thấy hai cặp chân giả đang di chuyển sát nhau, quấn quít, nhịp nhàng theo điệu valse và tiếng khua cành cạch… vì vậy mà phát ra…
Nó không tin vào mắt mình nên bật quẹt ga.
Dĩ nhiên nó thấy rõ những gì trước mắt. Không chỉ hai cặp chân đang nhảy nhót mà phía trên còn có hai cặp tay giả đang choàng qua nhau uốn éo, trữ tình…
Thằng Nhỏ thất kinh hồn vía, kêu ú ớ rồi thụt lùi vội vã. Nó trật chân té ngửa xuống đất may mà không sao. Tỉnh hồn, nó bước lẹ lại công tắc bật đèn lên. Đèn vừa sáng thì nó nhìn thấy hai cặp chân đang di chuyển chầm chậm xuống cầu thang căn gác nhỏ.
Thằng Nhỏ chỉ đủ thời gian hét một tiếng "M… a
" rồi tung cửa chạy. Lúc đó hai cặp chân giả mới lăn long lóc xuống cầu thang. Sáng hôm sau, chú nó mới về. Lượm hai cặp chân đem lên gác đặt vào chỗ cũ xong, chú nó mới rầy:
– Tao đã dặn rồi mà mày mò lên gác làm gì? Làm người ta… mất hứng!
Lúc thằng Nhỏ thi xong, chú nó đưa ra bến xe về quê, nó mới dám hỏi:
– Trên gác chú ở có
ma đó!
– Ừ! Thì ma… – Chú nó đáp tỉnh queo.
– Ma có nhát chú không?
Chú nó không trả lời mà nói:
– Lúc trước thì có. Sau này… quen! Hồi đào móng xây cái xưởng này người ta phát hiện hai cái mộ có lẽ từ thời Tây lận. Bốc mộ lên thì có hai bộ xương người. Có lẽ họ là một cặp tình nhân yêu nhau tha thiết. Lúc xưởng hoạt động sản xuất chân tay giả thì hai người "sống với nhau" trên gác. Nhờ có chân tay giả mà họ khiêu vũ với nhau tình tứ đó. Thôi! Về dưới đừng nói cho ai biết nghen, chuyện tình cảm của người ta… đừng bàn tán gì hết!
HẾT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét