Thông tin ebook
Tên truyện : Hoa Hồng Để Làm Gì?
Tác giả : Hà Đình Nguyên
Thể loại : Văn học trong nước
Nhà xuất bản : Kim Đồng
Tủ sách : Tuổi Mới Lớn
Số quyển / 1 bộ : 1
Hình thức bìa : Bìa mềm
———————————-
Nguồn : http://www.nxbkimdong.com.vn
Chuyển sang ebook (TVE) : santseiya
Ngày hoàn thành : 30/07/2008
Nơi hoàn thành : Hà Nội
Mục Lục
Sự ra đời của một cuốn tiểu thuyết
Vào đời
1.
Tôi ít khi uống rượu, dù thời buổi bây giờ "say xỉn" đã tràn vào tận những ký túc xá sinh viên. Nhưng chiều nay tôi không thể từ chối lời mời của thằng Bình được. Nó mới từ Pháp về.
Bình không phải là "Việt kiều" mà là dân "du học tự túc". Nó thực sự có một mùa hè đúng nghĩa trong khi tụi tôi, những thằng cùng lớp với nó từ hồi học năm thứ nhất đến giờ, sắp sửa ra trường rồi mà vẫn lui cui, tất bật tranh thủ "làm thêm" trong mùa hè. Ai thì không biết chứ tôi thì không dám tiêu hoang một cắc bạc, nói gì "nhậu nhẹt". Hè năm nào cũng thế, tôi ở lì lại ký túc xá để đến cái địa chỉ quen thuộc đăng ký thuê xe xích lô, tranh thủ kiếm tiền để dành chi phí cho năm học tới. Chiều nay, Bình tới rủ tôi và Phước đi nhậu mừng hội ngộ. Nó cũng chưa làm gì ra tiền. Ba thằng không dám vào những nhà hàng sang trọng mà ngồi nhậu bên lề đường với những món rất bình dân.
- Mấy cậu mua đậu phộng nhậu chơi không?
Tôi điếng hồn ngỡ gặp má tôi. Cũng dáng dấp ấy, cũng đôi quang gánh tảo tần Giờ này, chắc má tôi cũng đang lê bước trên những đường phố ở Biên Hòa, cũng cất tiếng rao có khi khản giọng: "Ai chè xôi nước đây ". Tôi mua hai gói đậu phộng, ăn nghe đắng ngắt. Má ơi!
- Mua giùm em cây kẹo kéo đi anh Hai!
Lại một cô gái chỉ nhỏ hơn tôi vài tuổi mời mọc. Ngoài lề đường, một cô gái khác đang đứng dựa vào chiếc xe đạp có gắn hai chiếc loa nhỏ đang phát nhạc, cô ấy chờ "tín hiệu" từ cô bạn đang "tiếp thị". Phước nói:
- Bán cho tụi anh 3 cây.
Tôi cà khịa:
- Độ này tao thấy mày hay mua kẹo kéo lắm đó Phước. Bộ mày thương con nhỏ đó hả? Để lần khác đi, đang nhậu mà ăn kẹo kéo nỗi gì?
Phước đăm mắt nhìn tôi với đôi mắt đỏ quạch rồi bật khóc như con nít:
- Ừ, tao thương mấy con nhỏ đó lắm! Tụi nó là đồng hương với tao, xô dạt từ miền Trung vào. Dù tụi bây không thích ăn kẹo kéo cũng ráng mua cho tụi nó một vài cây, bởi vì nếu không bám vào cái nghề lương thiện này để tồn tại thì tụi nó đã đi làm "nghề khác" từ lâu rồi
Phước gục xuống bàn khóc rưng rức. Cả tôi lẫn Bình đều bàng hoàng.
2.
Hương bảo:
- Chiều nay đón Hương ở thư viện nha, có chuyện muốn nói
Tôi thoái thác:
- Chiều nay anh bận học tin học ở Trung tâm X
Chẳng có Trung tâm X hay Y nào cả, tôi nói dối Hương bởi tôi còn phải đạp xích lô!
Mười giờ đêm, một lão bụng phệ từ nhà hàng đi ra, miệng còn ngậm tăm. Lão đi chân nam đá chân xiêu, ngoắc tôi:
- Xích lô!
Tôi tấp xe vào, chưa kịp dừng, lão đã hô:
- Chạy!
Chạy đi đâu? Tôi toan hỏi thì lão đã ngửa đầu lên thành nệm ngủ khì, cây tăm tiệt trùng còn cắm giữa miệng như muốn chứng tỏ chủ nhân của nó mới từ nhà hàng bước ra. Tôi muốn hất cho lão một cú xuống lề đường nhưng nghĩ cuốc xe cuối đêm có thể "gánh" cho tôi được cả tuần nên nén lại, vỗ vai vị khách quý:
- Chú ơi! Chú về đâu?
Vẫn nhắm mắt, lão mò hết túi trên đến túi dưới, cuối cùng lão đưa cho tôi một tấm cạc-vi-dít:
- Tới địa chỉ nhà riêng.
Quái quỷ thật! Tôi phải dừng xe dưới cột đèn để đọc tấm cạc. Dẫu sao, có cái nơi để mà "trút của nợ" còn hơn là phải chở "nó" đi lông bông suốt đêm.
Đó là một ngôi biệt thự sang trọng. Tôi bấm chuông. Một đứa con gái bước ra mở cổng:
- Ủa, anh Thắng Sao biết nhà Hương ở đây mà đến? Trời ơi! Ba của Hương sao vậy nè, anh Thắng?
Đêm. Tôi đạp xe về, nghe buồn hơn bao giờ
3.
"Má bị đụng xe, anh Hai về gấp!". Bức điện tín chỉ vỏn vẹn có thế mà tôi như ngồi trên lửa. Phước mượn xe Honda của thằng bạn cùng lớp chở tôi về nhà. Đoạn đường chỉ 30 km mà như dài vô tận. Ngồi sau Phước, tôi cứ nghĩ lan man. Không biết con Thư, thằng Thoại có biết chạy quanh hàng xóm mượn tiền để lo cho má không? Má đang nằm bệnh viện nào? Thương tích có trầm trọng lắm không?
Tôi bước không nổi nữa khi thấy một hình nhân phủ vải trắng đặt giữa căn nhà lá trống hoác. Mọi người đang chộn rộn. Tôi không tin, không muốn bước vào nhà. Phước siết mạnh tay tôi: "Bình tĩnh nghe Thắng!". Con Thư bận bộ đồ vải sô trắng, đầu quấn khăn tang chạy ào ra ôm chầm lấy tôi:
- Má bỏ anh em mình rồi, anh Hai ơi!
Tôi khuỵu hẳn. Phước gỡ con Thư ra, dỗ dành:
- Nín đi Thư, để anh Hai còn lo hậu sự cho bác.
Thư gục luôn vào ngực Phước, khóc vùi:
- Có ai bạc phước như tụi em không anh Phước? Mồ côi cả cha lẫn mẹ.
Có ai đó dìu chúng tôi vào nhà. Thằng Thoại đang ngồi dưới chân má, mím chặt môi mà nước mắt ràn rụa. Đôi vai nó rung lên từng hồi
4.
Chôn cất má xong, còn lại nợ và cãi nhau. Ngày má tôi còn sống, anh em tôi đâu phải bận tâm nhiều về cái ăn, cái mặc. Chỉ một đôi quang gánh, má âm thầm bươn chải một mình bao trọn, gọn hơ! Giờ đây, trong ba anh em bắt buộc phải có một người nghỉ học, đi làm để hai người kia được tiếp tục theo học. Là anh cả, đương nhiên tôi phải gánh lấy trách nhiệm này. Con Thư phản ứng quyết liệt khi tôi quyết định không trở lại trường:
- Gắng chút xíu nữa đi anh Hai à, nghỉ học bây giờ đi làm chỉ là lao động phổ thông thôi. Ráng thêm một năm nữa là anh tốt nghiệp rồi. Lúc đó dễ kiếm việc làm thích hợp với chuyên môn của mình, thu nhập cũng khá nữa Anh cứ lên thành phố đi, mọi việc cứ để em lo
Để nó lo làm sao được trong khi tôi là một thanh niên sức dài, vai rộng? Em gái tôi mới 17 tuổi, năm học tới là năm cuối cùng ở bậc trung học. Còn thi tú tài, thi vào đại học nữa Thằng Thoại, 15 tuổi vừa học xong lớp 9 cũng khăng khăng đòi nghỉ học để đi phụ hồ. Ba anh em cãi nhau tan tác, chẳng ai chịu nhường ai.
Phước và Hương vội từ thành phố Hồ Chí Minh về Biên Hòa. Hóa ra nhỏ Thư đã âm thầm báo cho Phước biết tôi có ý định bỏ học, nhỏ nhờ nó về "động viên" tôi. Phước lôi Hương theo vì nó biết lời nói của Hương rất có trọng lượng đối với tôi. Nó đâu biết rằng sau cái đêm chạm mặt giữa gã phu xe và cô tiểu thư đài các, tôi đã phải tránh mặt Hương liên tục dù quay quắt nhớ thương
Hương nhìn tôi bằng ánh mắt đượm buồn pha lẫn hờn trách nhưng giọng nói thì đầy cương quyết:
- Bây giờ không phải là lúc để câu nệ thường tình. Tương lai sự nghiệp là trên hết. Anh không có quyền nghỉ học, cả Thư cũng vậy. Đây là tiền riêng của em, số tiền không lớn nhưng tạm thời vẫn có thể cầm cự được một thời gian, đồng thời chúng mình sẽ cố tìm ra hướng giải quyết tốt nhất.
Anh em tôi lắc đầu quầy quậy. Hương quắc mắt nhìn tôi:
- Anh đừng tưởng từ chối tấm chân tình của bạn bè là khí khái. Đừng vì chút sĩ diện hão mà tự tay bóp chết tương lai của chính mình và giết cả tình bạn nữa!
Như trút bỏ được nỗi lòng, nói xong Hương bật khóc. Phước lay vai tôi:
- Tao nghĩ Hương nói đúng. Đã là bạn bè phải giúp đỡ nhau lúc cần thiết, chia sẻ với nhau những hoạn nạn. Mày đừng để tất cả lâm vào ngỏ cụt.
Lời nói của Hương lẫn Phước đều có lý nhưng không đủ làm mềm lòng tôi bằng những giọt nước mắt. Tôi loay hoay, bối rối đến khổ sở. Nhỏ Thư nhét vào tay tôi chiếc khăn tay, nó thầm thì:
- Lau mắt cho "chỉ" đi, chàng ngốc!
Tôi cầm chiếc khăn lúng túng, vụng về. Hương ngượng ngùng quay mặt Phước nháy mắt với nhỏ Thư, cả hai bỏ ra trước thềm nhà ngồi. Tiếng nhỏ Thư xa xăm:
- Anh Phước à, đôi quang gánh của má em còn xếp xó kia kìa. Học một buổi còn một buổi em sẽ gánh xôi chè đi bán dạo. Mà anh có khinh thường những cô gái bán dạo không anh?
- Thương lắm! Sao dám coi thường. Nhưng mà ai nấu cho em? Lại còn phải gánh gồng nữa, cực lắm! Hay là em bán thuốc lá lẻ đi!
Giọng con Thư nũng nịu:
- Ứ, em muốn giữ lấy cái nghề này để nhớ má.
- Ừ, hãy cố sống với một nghề lương thiện, nhé Thư!
Tôi sực nhớ hôm nào Phước vừa khóc vừa nói về những cô gái bán kẹo kéo: "Nếu không bám lấy cái nghề lương thiện này thì họ đã làm nghề khác từ lâu rồi". Nghe xót xa, thương Thư quá chừng!
Hương dí ngón tay vào trán tôi:
- Còn "ông" nữa, sao ngồi thừ người ra vậy? Lên Sài Gòn tiếp tục đạp xích lô đi chớ!
Một chuyện khó đặt tên
Buổi sáng, ông Nghĩa chạy xe vô rẫy cà phê, nói:
- Hôm nay, ngoài nhà tổ chức đám hỏi cho con Linh. Tụi bay nghỉ làm, vô nhà phụ bác một tay.
Tôi choáng váng, chết lặng cả người, thật lâu mới lắp bắp:
- Thôi, để Hậu vô giúp bác. Cháu bị sốt. Vả lại còn phải coi chòi rẫy, máy bơm, ống tưới nữa…
- Vậy cũng được. Đi Hậu!
Tiếng xe máy chở thằng Hậu xa dần. Tôi nghe tai lùng bùng, đầu nổ đom đóm… Dám "sốt thiệt" lắm à! Tôi cũng biết sẽ có ngày Linh đi lấy chồng, nhưng… sao sớm quá vậy? Dẫu sao Linh cũng chưa qua thời thiếu nữ mà! Tôi cũng biết, mình chỉ là kẻ làm thuê, cuốc mướn cho gia đình của Linh. "Đũa mốc" chớ có bày đặt đòi "chòi mâm son"! Đã tự biết như vậy mà không cách nào xua đuổi được hình bóng của Linh ra khỏi tâm trí mình được
Học chưa xong chương trình lớp 12, tôi đã phải rời ghế nhà trường. Không một mảnh bằng lận lưng. Ở vùng quê nghèo khổ này, thanh niên bỏ học nửa chừng là chuyện thường. Bởi hoàn cảnh không cho phép học tiếp, họ đành chấp nhận trở thành những "lực điền" với công việc ruộng rẫy, đồng áng. Những thanh niên mà nhà không có một tấc đất canh tác như tôi thì chỉ còn cách đi làm thuê theo từng thời vụ, hết chủ này sang chủ khác với đủ loại công việc… Ngày còn đi học, bạn bè vẫn gọi đùa tôi là "nhà văn" bởi thỉnh thoảng, những bài thơ hoặc truyện ngắn của tôi vẫn xuất hiện trên một vài tờ báo, tạp chí. Nghỉ học nhưng cái máu mê sáng tác, viết lách vẫn còn. Tôi bòn nhặt những trang giấy trắng trong vở học cũ để từng đêm, trong căn nhà lá dột nát, bên ngọn đèn hột vịt tù mù, trong tiếng ếch nhái râm ran, tôi cố gắng nặn óc viết một cái gì đó – may ra có thêm khoản nhuận bút, dù không là bao nhưng cũng thêm được sách vở, bút mực cho ba đứa em của tôi. Ngày chủ nhật, tôi thường mượn xe đạp đi 10 km lên phố huyện mới có trạm bưu điện để gởi bài vở. Cả phố huyện chỉ có một sạp sách báo của Linh – nơi tôi bắt buộc phải ghé vào để… theo dõi bài vở. Linh đi học một buổi, còn một buổi ra ki-ốt sách báo. Cô chủ quán sách cũng từng đọc được một vài "tác phẩm" của tôi nên có phần "ưu ái" với một "mối" mua thì ít mà "coi cọp"[1]! thì nhiều. Dần dần, tôi và Linh thân thiết với nhau hơn. Linh cũng rất thích đọc sách báo nên chuyện văn chương vẫn là đề tài tâm đắc và vô tận để chúng tôi trao đổi. Mỗi loại ấn phẩm đến kỳ phát hành, Linh đều chịu khó dò tìm xem có bài của tôi không. Nếu có, cô bé sẽ để dành lại cho tôi một cuốn. Có những lần đạp xe ra phố huyện, tôi chưa kịp thở đã thấy Linh hớn hở giơ cao tờ báo (có đăng bài của tôi) lên khoe. Em mừng như thể chính em là… tác giả. Bởi vậy nên mỗi lần ra bưu điện nhận nhuận bút, tôi không quên mua gói ô mai, bịch sơ-ri để "hối lộ tình cảm" cho "đồng tác giả". Đó là những bài được đăng, còn đa phần là… "lọt sổ". Những lúc đó, Linh lè lưỡi "lêu lêu" Xao xuyến nhất vẫn là mỗi khi tôi cất tiếng gọi "Linh ơi!", nàng "Dạ" một tiếng thật ngọt, thật hiền, làm hồn tôi mềm nhũn. Nghe… thương quá chừng nên dù đường về phải đạp xe 10 km trong nắng bụi, tôi vẫn chạy phom phom, hồn nghe mát rượi…
Thằng Hậu ở cùng xóm với tôi. Nó cũng là dân "thất học, thất nghiệp" như tôi. Một hôm nó bàn với tôi là có một chủ vườn cà phê muốn mướn dài hạn hai người chăm sóc vườn. Thế là chúng tôi khăn gói vô rừng. Làm được một tuần thì con gái ông chủ từ ngoài phố huyện chạy Honda vô tiếp tế lương thực. Tôi chỉ muốn tan thành sương khói, biến khỏi mặt đất này khi bàng hoàng đối diện với Linh trong tư thế người làm mướn với "bộ đồ… bay" rách nát đang khoác trên người. Linh làm như không thấy sự bối rối của tôi, cô bé "Hello!" với nụ cười thật tươi rồi cứ thế mà tíu ta, tíu tít. Tôi gượng gạo ừ hử cho qua chuyện rồi lảng ra góc vườn làm việc như một kẻ mất hồn. Lát sau, tôi giật mình thấy Linh đang đứng lặng nhìn tôi. Hình như cô bé khóc. Tôi bước tới:
- Sao vậy Linh?
Như chỉ chờ có thế, Linh khóc òa:
- Em có lỗi gì mà anh lạnh nhạt với em đến vậy? Anh có còn… thương em không thì bảo?
Tôi chết đứng như Từ Hải. Không ngờ Linh lại bộc lộ tình cảm một cách thẳng thắn đến vậy. Tôi chưa bao giờ dám thốt những lời yêu thương với Linh, nay đột nhiên Linh chủ động nói ra, tôi nghe xốn xang, rúng động cả người. Muốn xiết chặt tay Linh, nói: "Linh ơi, anh yêu em lắm!" nhưng đưa tay ra, chợt thấy tay mình dính đầy đất cát, nhìn xuống bộ đồ rách bươm, lấm lem đang mặc, nước mắt tôi lại muốn trào ra. Có một cái gì uất nghẹn đang chặn ngang cổ. Tôi biết nói gì với Linh bây giờ? Linh đưa tay quệt nước mắt rồi cười bẽn lẽn:
- Cấm anh nghĩ ngợi lung tung đó nghen! Buổi tối nếu có buồn thì… làm thơ, viết truyện đi. Nhớ lấy em làm "nguyên mẫu" đó nha! Tuần sau, em sẽ vào lấy, đem gởi bưu điện.
Sau đó, Linh cất công tìm những cuốn vở cũ, góp nhặt những trang giấy trắng còn sót lại đóng thành tập đưa cho tôi để tôi làm bản thảo. Tôi còn biết làm gì ngoài việc răm rắp tuân lệnh? Từ đó, ngày thì lao động, đêm về, tôi cắm đầu vào những trang viết, mặc cho thằng Hậu cằn nhằn vì… chỉ có muỗi chơi với nó! Tuy thế nó cũng… sướng không kém gì tôi mỗi lần Linh chạy xe hết tốc lực vô, báo: "Đăng rồi!" và chìa tờ báo ra. Phiếu nhuận bút gởi về, tôi ra phố huyện lãnh tiền không quên mua ít "mồi" để đến tối, tôi với thằng Hậu "liên hoan" (dĩ nhiên vẫn phải có quà dành riêng cho Linh). Riết rồi thằng Hậu không còn càm ràm[2] mỗi tối nữa mà nó lẳng lặng xách cây đàn ghi-ta xộc xệch ra ngồi dựa vào một gốc cà phê nào đó, hát: "Tội nghiệp thằng bé nhớ thương mãi quê nhà. Giàn thiên lý đã xa mãi ngàn xa. Đứa bé lỡ yêu… đã lỡ yêu cô em rồi. Tình đã quên mỗi sớm mai lặng trôi…". Nghe buồn gì đâu! Đôi khi nó còn đòi "duyệt" bài trước cả Linh, cũng góp ý này nọ ì xèo nhưng thường là nó buông một câu: "Sao tao thấy mày viết truyện nào cũng có thấp thoáng con Linh ở trỏng? ". Đầu óc "đặc sệt" như nó mà còn nhận ra điều đó, huống chi là Linh?
Quả thật, quãng thời gian "cày thuê… viết mướn" giữa vườn cà phê đó là những ngày tháng đẹp nhất với tôi: ngày lao động quần quật, đêm về thả hồn lên trang giấy với hình ảnh của Linh choán ngập tâm trí. Cuối tuần lại mong ngóng tiếng xe máy chạy vào vườn và Linh hiện ra, rạng rỡ với tờ báo giơ cao: "Đăng rồi, rửa[3] bài đi!".
Thế mà…
*
Đó là một đoạn trích từ truyện ngắn cuối cùng trong tập truyện ngắn của Mạc Quan San mới xuất bản.
Trang gấp tập truyện lại, thẫn thờ. Mới đó mà đã 5 năm rồi sau "đám hỏi của Linh" – cái đám hỏi mà không có đám cưới. 5 năm rồi, Trang chưa một lần trở về phố huyện và luôn tự hỏi: chẳng biết giờ này Vượng ra sao rồi? Nghĩ lại, Trang không hiểu sao hồi ấy mình lại có một cái đám hỏi lạ lùng đến như vậy? Chỉ vì chịu không nổi sức ép của ba mẹ mà Trang đã nhắm mắt "ừ… đại". Mãi đến khi đám hỏi đã xảy ra, Trang mới giật mình, thảng thốt: mình sẽ phải chung sống, má kề tay ấp với một người đàn ông lớn tuổi, hoàn toàn xa lạ ư? Nghĩ đến Vượng, lòng Trang lại nhói lên câu Kiều: Kim lang ơi, hỡi Kim lang! – Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây…
Trang bỏ trốn lên Sài Gòn, ở trong nhà ông bác và xin vào học ở một trung tâm ngoại ngữ. Ba của Trang cũng đã mấy lần lên Sài Gòn thúc ép Trang về nhà để lo chuyện hôn nhân. Trang khóc lóc cương quyết không chịu về. Ông bác cũng lên tiếng bênh vực cô cháu gái nên ba Trang đành để mặc Trang muốn làm gì thì làm… Tốt nghiệp bằng C ngoại ngữ, Trang được tuyển vào làm ở một công ty nước ngoài, mức lương khá cao. Trang sắm được xe máy để đi làm, ngoài khoản chi phí cho áo quần, son phấn mỗi tháng, Trang cũng còn dành dụm được chút đỉnh. Có thể nói là Trang đã thành đạt, duy chỉ có lòng Trang là lạnh băng. Đôi khi, lòng Trang gợn lên chút bâng khuâng, nhớ lại mối tình đầu e ấp rồi tự hỏi: chẳng biết giờ này, Vượng ra sao rồi?
Chiều cuối tuần, trên đường đi làm về, Trang ghé vào hiệu sách (cô vẫn ham đọc sách như ngày xưa). Bỗng, mắt Trang dán chặt vào cái tên Mạc Quan San in ở bìa một tập truyện ngắn. Vượng đấy ư? Trang ôm tập truyện về nhà trọ, hấp tấp đóng cửa phòng rồi nằm lăn ra giường. Để coi Vượng viết cái gì đây! Tập sách có khoảng 20 truyện ngắn, một số truyện Trang đã đọc được từ rất lâu, bởi chính Trang tự tay đem gởi bưu điện; một số truyện khác Vượng mới sáng tác. Trang gai cả người khi đọc truyện ngắn cuối cùng: Một chuyện tình (có thể gọi đó là chuyện tình không nhỉ?) thơ ngây nhưng mà… buồn, giữa một chàng trai làm công với con gái ông chủ rẫy cà phê. Chẳng có điều gì là hư cấu cả, duy có tên cô gái thay vì là Trang thì được đổi thành… Linh.
Ở bìa cuối của tập truyện có ghi số điện thoại của tác giả. Trang bấm máy:
- Alô! Làm ơn cho gặp tác giả Mạc Quan San ạ.
- Dạ vâng, Mạc Quan San đây! Xin lỗi, ai đang ở đầu dây ạ?
- Anh Vượng! Anh không nhận ra giọng nói của ai đây à?
Im lặng… Rồi vỡ òa:
- Trang! Trang phải không? Trời ơi, em đang ở đâu vậy?
Lại im lặng. Trong ống nghe có tiếng khóc nức nở của Trang…
Con khỉ, em và tôi
Em người Hà Nội, tôi dân Đồng Nai nhưng chúng tôi gặp nhau ở một tỉnh khác nhân buổi họp mặt của một nhóm người yêu thích viết lách. Em đến "phó hội" với một bộ dạng khá là ngộ nghĩnh: quần jean, áo pull và… một cái bị lác đeo lặc lè bên hông. Một thứ "phụ tùng" thật tương phản với bộ đồ em đang mặc. Em cởi cái bị lác bỏ vào một góc phòng. Chiếc bị không nằm yên mà cứ động đậy hoài. Tôi ghé tai em hỏi nhỏ:
- Con gì ở trỏng vậy?
- Suỵt! Một chú khỉ nhỏ. Hồi sáng chạy xe từ Sài Gòn lên đây, thấy người ta bán thú bên lề đường, em thích chú khỉ nhóc này quá! Hai trăm ngàn đấy!
Em là một cây bút nữ trẻ của Hà Nội, lần đầu tiên vào Sài Gòn và được các anh chị văn nghệ rủ rê đi họp mặt văn nghệ ở các tỉnh. Tôi thích cái giọng Hà Nội của em: vừa có vẻ kiểu cách lại vừa tự nhiên, nhẹ như gió thoảng…
Chẳng biết trong… men bia mà "đơn vị bạn" chiêu đãi, tôi có… buột miệng "nói nhăng, nói cuội" gì không mà chỉ một hôm sau khi chúng tôi trở lại Sài Gòn, tôi nhận được điện thoại của em: "Anh hứa dẫn em đi uống cà phê Sài Gòn, đã đến lúc anh thực hiện lời hứa rồi đấy!". Lới đề nghị quả là hấp dẫn, làm sao tôi có thể từ chối được, dù… chưa lãnh lương! Tôi hùng hồn đẩy cửa phòng Tài vụ với một tờ giấy khổ A4 ghi hai chữ "Tạm ứng" to đùng! Vậy là đêm đó hai đứa tôi vi vu gần khắp Sài Gòn, từ nhà hàng đến… quán cóc vỉa hè. Đến tận nửa đêm tôi mới trả em về nhà người bà con để sớm mai em lên tàu ra Hà Nội.
11 giờ trưa hôm sau, khi tôi còn nằm ngủ nướng thì chuông điện thoại reo. Em báo là đã lên tàu nhưng không thể đem theo… con khỉ, vì nó được liệt vào dạng động vật hoang dã, không được phép mang lên tàu. Em nhờ tôi đến địa chỉ ở số… đường… nhận nó về nuôi giùm, em sẽ nhận lại sau. Chưa hết, em còn dặn thêm:
- Nè, đừng có mà bán nó cho mấy tiệm thuốc Bắc để họ nấu… cao khỉ đấy nhé! Liệu hồn!
Tôi "OK" mà nghe vã mồ hôi trán. Đúng là… khỉ thật!
Từ trước đến giờ, tôi chưa hề có kinh nghiệm nuôi một cái "giống" gì cả, vậy mà nay lại phải "ăn ngủ không yên" với cái thứ hậu duệ của Tôn Ngộ Không này. Thả rông thì sợ nó đi hoặc bị người ta bắt mất, tôi đành phải nhốt chú trong phòng với một sợi xích dài nối từ cổ chú với… cái chân bàn. Quả là rách việc! Trước đây, tôi muốn đi về giờ nào tùy ý, còn nay xong việc là hộc tốc chạy về nhà để… thấy phòng của mình là một bãi chiến trường: sách vở, gối mền, chai lọ nằm lung tung, ngổn ngang, còn bà Năm bán hàng ở đầu ngõ thì nhìn tôi lom lom:
- Bộ dạo này mày ăn chuối trừ cơm hay sao mà mỗi ngày mua một nải?
Nuôi con khỉ mới được một tuần mà tôi chịu hết xiết. May tôi có đứa em họ mở quán cà phê không tên bên lề đường, tôi bèn "bàn giao" chú khỉ cho nó. Quán cà phê này được che phủ bằng một giàn hoa giấy rậm rạp. Tôi đóng một cái cọc, phía trên gắn một bàn gỗ nhỏ để "nó" ngự lên đó, đầu sợi xích buộc vào gốc bụi hoa giấy. Bán cà phê nên em tôi có thời gian đi ra, đi vô trông chừng con khỉ. Khách khứa ngồi nhìn con khỉ nhảy lên, nhảy xuống cũng vui mắt. Cái quán cà phê không tên từ đó được gọi là… Quán Con Khỉ!
Thỉnh thoảng, tôi lại ghé về Quán Con Khỉ để thăm "bạn cũ". Ngồi nhìn nó vô tư nhảy nhót mà chạnh lòng. Em bây giờ ở Hà Nội chắc hẳn cũng đang… nhảy nhót vô tư, đâu cần biết ở cái xứ phương
Giáng sinh, tôi nhận được bức thiệp do em tự vẽ, nét vẽ nghệch ngoạc như… con nít: cây thông là những hình tam giác chồng lên nhau, lại có 2 người: một trai, một gái đứng bên nhau.
- Nó đi Tam Đảo đã ba ngày rồi cháu ạ. Ừ, nó bỏ quên máy điện thoại ở nhà. Cháu có nhắn gì không để nếu nó có gọi về thì bác sẽ nhắn lại.
- Vâng, nhờ bác nhắn em gọi cho số 0903… Cảm ơn bác!
Tôi cúp máy rồi thẫn thờ. Tam Đảo có… thông không nhỉ? Ba ngày sau thì có hồi âm, màn hình hiển thị số máy của em, nhưng… không phải em, cũng không phải bố em mà là… mẹ em:
- Nó nhắn là đang cần tịnh dưỡng và cậu đừng có mà quấy rầy nó nữa!
Vậy là sao, tôi thật không hiểu nổi?
Tan tành niềm hy vọng được cùng em vi vu trên đồi thông. Nhớ em, tôi chỉ còn biết mò về quán cà phê ngồi ngắm… con khỉ. Dạo này con khỉ đã hơi lớn, không phải lúc nào cũng hiếu động nhảy nhót như trước nữa mà cũng có những khoảng thời gian ngồi trầm tư, mặc tưởng… Chẳng biết trong "bộ óc… khỉ" kia đang nghĩ gì?
Sau đó ít lâu, trong một đêm mưa gió, con khỉ bứt dây xích, một đi không trở lại!
Con khỉ bỏ đi, tôi muốn báo tin cho em nhưng gọi điện thoại di động lại sợ gặp "phụ huynh", đành chọn giải pháp nhắn tin (qua điện thoại di động): "Anh nhớ em, gọi cho anh gấp. Khỉ bỏ đi rồi!". Nhắn tin được 10 phút đã có phản hồi, tiếng của… bố em ở đầu máy bên kia:
- Này, cậu tính thông đồng với con gái tôi để… ăn trộm đấy hả?
- Dạ thưa…
- Chứ còn gì nữa? Muốn ăn trộm cái gì? Nói mau!
Tôi hoảng:
- Dạ… chúng cháu có định trộm cắp gì đâu ạ?
- Cậu vừa nhắn tin xong, để tôi đọc lại xem cậu còn chối được nữa không? ANH-NHỜ-EM-GÓI-CHO-ANH-GẤP-KHI-BỐ-ĐI-RỒI! Bắt quả tang nhé!
Trời đất! Tôi sực nhớ là cái máy điện thoại "lạc son"[4] của mình không thể bỏ dấu trên những âm tiết khi nhắn tin. Tưởng chỉ có mình tôi… thông minh, hóa ra "nhạc gia" còn thông minh đến… khủng hoảng! Tôi rụng rời tay chân đến nỗi không dám "đính chính". Khỉ thật!
Sau những "sự cố" như vậy, nếu là tôi, liệu bạn có còn can đảm để tiếp tục liên lạc ra phía Bắc? Tôi thì… nín khe! Con khỉ cũng phai dần trong ký ức của tôi. Nhưng… hai năm sau, khi Tết con Khỉ đang cận kề thì tôi được thư của em: "Tết này anh nên ra Hà Nội thăm em, rồi chúng mình sẽ đi chơi
Tôi ngồi thừ trước lá thư rồi với tay lấy một tờ giấy trắng khổ A4 ghi hai chữ " Tạm ứng" rõ to! Lão trưởng phòng Tài vụ lắc đầu:
- Phải ghi rõ lý do tạm ứng. Giấy đi đường cũng phải ghi rõ ra Bắc để làm gì?
Cực chẳng đã, tôi phải kéo lão ấy ra ngoài hành lang, móc bức thư "hẹn hò" ấy ra, lấy ngón tay chỉ từng hàng cho lão ấy đọc. Xong, lão ấy cười khẩy:
- Nó… thuốc mày đấy con ạ! Từ đây ra Hà Nội con phải "thủ" dăm triệu đồng dằn túi. Rồi từ Hà Nôi lên
Trời ạ, ai lại tính toán chi li đến vậy, nhưng nghe ra cũng không đến nỗi vô lý!
Bây giờ, mỗi dịp đi tham quan Suối Tiên hoặc Thảo cầm viên, đến mấy chuồng khỉ là tôi lại nhớ đến em, nhớ cái ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau: em, con nhỏ Hà Nội có cái dáng "bụi bụi" đeo cái giỏ lác bên hông. Bên trong cái giỏ ấy chứa một sinh vật tạo thành một cuộc tình… khỉ ơi là khỉ!
"Sư tử" ơi!
Mỗi năm, cơ quan tôi đều nhận một số các sinh viên báo chí vào thực tập nghiệp vụ chuyên môn, và mấy năm rồi, năm nào tôi cũng được phân công kèm cặp một "đệ tử". Những mối quan hệ "sư phụ – đệ tử" theo thời vụ này, nói chung vẫn tốt đẹp, hoàn hảo, chỉ tới năm vừa rồi là hơi bị trục trặc.
"Đệ tử" của tôi lần này là một cô bé trán vồ, mũi hếch nhưng tính tình thì lại "bốn mùa mưa nắng". Lẽ ra tôi cũng gọi cô bé này là "đệ tử" như thường lệ nhưng bỗng nhiên, tôi nhớ ra có một câu thành ngữ sặc mùi "nho chùm": "Hổ phụ sinh hổ tử". Vậy thì "Sư phụ sinh… sư tử" là thậm chí lý! Mà cũng bởi cô bé tôi đang kèm cặp, nhìn kỹ cũng giống sư tử – một con "sư tử" dễ thương hết sức!
Ngày đầu tiên cô bé "bái sư", tôi thử "nắn gân" cô bé:
- Đi theo "sư phụ" là phải biết lê la, biết nhậu đấy nhé!
Cô bé gật đầu:
- Chơi luôn!
Thế là buổi trưa hôm đó, chúng tôi có cuộc
nhậu đầu tiên ở quán Đất Phương
Tiếp theo là những ngày tôi dẫn cô bé đi loanh quanh chỗ này chỗ nọ. Tác nghiệp thì ít mà tác quái hơi bị nhiều. Có những lúc trở ngại công tác nên không gặp nhau được thì cô bé nhắn tin vào cục "a-lô" của tôi: "Sư phụ đang ở đâu? Đệ tử tới liền". Và thế là cặp "sư phụ – sư tử" chúng tôi cứ thế mà "hành hiệp giang hồ". Ơn trời, có một doanh nghiệp ở Đà Lạt mở tuần lễ tiếp thị sản phẩm và chúng tôi – gồm nhiều đồng nghiệp ở các cơ quan khác nhau – được mời đến để "mục sở thị". Em tỏ ra ngần ngại khi tôi rủ em cùng đi Đà Lạt với tôi. Chỉ đến khi anh em trong cơ quan xúm vô "động viên" (và cả trấn an) rằng thì là có cơ hội dại gì không đi, Đà Lạt tuyệt lắm; rằng đi để mở rộng tầm hiểu biết và quan trọng nhất là "sư phụ" của em rất đàng hoàng, có gì phải ngại vân vân và vân vân, em mới gật đầu với một tâm trạng thật háo hức, bởi em chưa đến Đà Lạt lần nào.
Với tôi, Đà Lạt lại khá quen thuộc bởi tôi đã nhiều lần được bạn bè văn nghệ ở Đà Lạt gọi về "họp mặt quậy!". Vì thế, với tôi, đi Đà Lạt có nghĩa là "trở về nhà" và tôi thích thú với ý nghĩ mình sẽ là "hướng dẫn viên du lịch" cho cô bé. Mà tôi trở thành hướng dẫn viên thật, nghĩa là phải giải đáp bao câu hỏi không phải chỉ riêng cho cô bé mà còn cho cả đoàn (gồm khoảng 20 người) ngay trên chuyến xe ca từ Sài Gòn lên Đà Lạt về nào là Đá Ba Chồng ở Định Quán, rừng cây giá tị[5] ở Phương Lâm, nào cây pơmu, hoa dã quỳ Tôi chỉ hơi ú ớ khi bị vặn hỏi: "Hoa anh đào ở đâu?"; "Cây phượng tím chỗ nào?" nhưng đã khéo tìm được câu chống chế:
- Tới nơi rồi biết!
Đoàn chúng tôi được bố trí nghỉ ngơi tại một biệt thự tọa lạc tại khu vực Nhà khách Tỉnh ủy, một địa điểm thật tệ bởi vắng hoe như chùa bà Đanh, thậm chí không có cả bóng dáng của những chiếc Honda ôm vốn nhan nhản khắp đường phố Đà Lạt. Khung cảnh yên tĩnh này chỉ thích hợp cho những đôi uyên ương đi hưởng tuần trăng mật, còn với một nhóm nam nữ hiếu động như chúng tôi thì quả là hơi bị cụt hứng! Tuy nhiên, bởi kinh phí ăn ở do "đơn vị bạn" tài trợ nên hầu như chẳng ai có ý muốn "tách đoàn" để "ra riêng" và cũng bởi chuyến hành trình dài hơn nửa ngày đã gắn kết những con người vốn xa lạ ấy với nhau. "Đệ tử" của tôi rất hỉ hả khi được xếp ở cùng phòng trên lầu với hai "chị" gái lớn hơn cô bé khoảng ba, bốn tuổi. Căn phòng có đến ba ô cửa sổ nhìn ra vườn hoa. Ba ô cửa sổ này được thiết kế so le từ cao xuống thấp theo độ dốc của mái nhà. Tôi bật cười với ý nghĩ chắc là ba ô cửa sổ được làm sẵn để đón ba cô gái! Tôi và anh bạn đồng nghiệp chiếm căn phòng ở tầng trệt sát chân cầu thang, gần với bệ lò sưởi bằng gỗ đúng kiểu châu Âu. Tuy nhiên, do lúc này, thời tiết Đà Lạt chưa đến nỗi phải run lập cập nên chúng tôi mất luôn món "đặc sản" của dân nhậu Sài Gòn: "bò quanh lửa hồng"!
Chương trình tiếp thị của "đơn vị bạn" diễn ra đến ba ngày ở khu vực gần thung lũng Tình Yêu với rất nhiều lễ hội: chợ hoa, rượu nho, ẩm thực, cồng chiêng và rượu cần Đêm đầu tiên ở lễ hội thật lãng mạn. Trời gây gây lạnh, vậy mà vẫn có những cô gái áo dài phong phanh gánh những gánh hoa tươi lượn lờ trong tiếng sáo, tiếng nhạc, có cả những chàng trai áo dài khăn đóng gánh rượu vang đi chào mời! Chúng tôi ngồi uống rượu vang bên những lò thịt nướng than hồng tí tách. "Đệ tử" ngồi cạnh tôi, co ro như một chú mèo ướt. Tôi trách:
- Đã dặn là nhớ mang theo áo lạnh, sao không nghe?
- "Đệ tử" nhớ chứ, nhưng ngặt đi gấp quá, hổng kịp mua!
Và thế là cô bé "trưng dụng" chiếc áo khoác jean của chị bạn cùng phòng để chống lạnh. Một chút rượu nho bên lò than đỏ rực đủ làm đôi má "đệ tử" của tôi ửng hồng. Nhìn cô bé co ro, xuýt xoa vì lạnh, tôi muốn vòng tay qua ôm "đệ tử" vào lòng quá chừng! Nhưng, nói là nói vậy thôi chứ rốt cuộc thì tuyệt nhiên tôi chưa dám "xé rào"
Ngày hôm sau, cả nhóm lại tập trung về khu vực lễ hội. Tôi chỉ tham dự đến quá trưa rồi "trốn", để đi tìm "những người bạn quậy" của mình. Em chạy theo tôi:
- Cho "đệ tử" đi theo với!
- "Sư phụ" đi nhậu, "đệ tử" theo làm gì?.
- Nhậu thì nhậu chớ! "Đệ tử" chán nơi này lắm rồi!
Tuy đang xế trưa nhưng trời Đà Lạt u ám bởi dư âm của cơn mưa lớn trước đó. Từ đường vòng Lâm Viên về khu chợ Hòa Bình xa đến ngút mắt, vậy mà em bắt tôi phải đi bộ, bởi vì "nghe người ta nói lên Đà Lạt thì phải đi bộ mới lãng mạn!". Tôi kêu tắc xi em không cho, ngoắc Honda ôm em cũng chẳng chịu. Ơn trời, khi tôi gần rã giò (và em cũng ngắc ngư) thì có một chiếc xe ngừng lại cho quá giang.
Tới khu chợ Hòa Bình, việc đầu tiên của em là tìm mua áo lạnh. Tôi cũng tham gia vào việc chọn áo, chọn màu áo cho em. Đến lúc sắp sửa trả tiền thì đột nhiên em bảo:
- "Sư phụ" ra ngoài kia đi, để em thử áo!
Trời đất! Áo lạnh mà cũng thử nữa? Nghĩ vậy nhưng tôi vẫn phải bước ra khoảng sân của tiệm thời trang, ngồi bó gối dưới một gốc cây cổ thụ có hai nhánh hình chữ V, khác nào "Chú Cuội ngồi gốc cây đa – Đợi em… thử áo, gọi cha ời ời…".
Tôi đưa em đi bộ loanh quanh lên Nhà thờ Con Gà, Bưu điện rồi vòng xuống hồ Xuân Hương và cuối cùng là địa chỉ của nhóm quậy chúng tôi: quán Nhà Rông ở khu Nhà nghỉ Công đoàn. Đó là một cái quán được thiết kế hoàn toàn bằng gỗ, pha trộn những đường nét nhà rông Tây Nguyên với các căn nhà gỗ vùng tuyết lạnh châu Âu. Đường dẫn vào quán phải đi qua một chiếc cầu treo lót những miếng ván ngang. Dây leo bám chằng chịt hai bên lan can cầu, trông thật ấn tượng. Chủ quán là một người đàn ông trung niên rất "máu" văn nghệ. Chính tại quán này, năm xưa chúng tôi đã tình cờ ngồi quây lại bên nhau hát những ca khúc trữ tình để tưởng niệm tác giả – một người con tài hoa của Đà Lạt vừa yểu mệnh nơi đất khách quê người. Cũng tại quán này cách đây 5 năm, có một cô gái người dân tộc Lạch vẫn thường đến đây hát mỗi đêm trong chương trình văn nghệ phụ diễn. Giờ đây, cô gái của rừng núi Liang Biang ấy đã trở thành một ca sĩ nổi tiếng ở Sài Gòn bởi sau đó không lâu, cô đã đoạt giải nhất Tiếng hát Truyền hình TP. Hồ Chí Minh nhưng với một cái tên mới toanh. Những điều đó dường như chẳng "dính dáng" gì đến tôi, nhưng không hiểu sao tôi vẫn thấy có một chút tiếc nuối, hụt hẫng
Qua "hệ thống truyền tin" của chủ quán, lát sau đã thấy họa sĩ Hoàng Như đi xe ôm đến. Vóc dáng to lớn, dềnh dàng của ông làm rung rinh cả chiếc cầu gỗ quấn dây leo. Ông đứng giữa cầu, dang hai tay cười khà khà:
- Nghe mày lên là tao phóng tới ngay.
Ông họa sĩ này lớn hơn tôi cả chục tuổi nên "đệ tử" của tôi cứ phải kính cẩn một điều "Thưa chú", hai điều "Thưa chú" Hoàng Như cũng có vẻ mến cô bé này nên đã mau chóng dành cho cô một "chế độ chăm sóc đặc biệt". Chúng tôi ngồi uống rượu bên hành lang quán có dãy lan can gỗ trong cái lạnh gây gây của chiều Đà Lạt. "Đệ tử" ngồi một bên hóng chuyện. Đến chập choạng tối thì Hoàng Như đã say mèm, cáo về. Khi chỉ còn lại hai người, cô bé "khoe" với tôi:
- "Sư phụ" nè, "sư phụ" có biết chú họa sĩ khi nãy đã hôn "đệ tử" mấy cái không?
Tôi sững sờ:
- Hôn hồi nào?
Hễ lúc nào "sư phụ" đi toa-lét thì ổng đều thơm "đệ tử" hết!
- Sao em không la lên?
- Việc gì phải la? Chú ấy "ga lăng" hơn "sư phụ" nhiều, mà chú ấy cũng chỉ hôn lên tóc của em thôi!
Ứ ừ Tôi đang tức muốn lộn gan nhưng nghe thế cũng hả dạ đôi chút. Bởi, trong khi tôi cố ghìm lòng để "đắp đập, be bờ" thì ông bạn họa sĩ "ba trợn" của tôi lại vô tư "đem lờ tới đơm". Quả là bất công! Cơn ghen tức làm tôi nổi quạu. Dù đã ngà ngà say, tôi vẫn kêu thêm rượu để uống tiếp, uống vào rồi đọc thơ vung vít:
Một hôm bạc áo hào hoa
Ta về hứng giọt sương sa Lâm Đồng
Hỏi rằng có nhớ ta không?
Chỉ nghe gió cuốn ngọn thông lắc đầu
Một hôm bạc trắng tóc râu
Ngựa già đã mỏi vó câu độc hành
Nằm mơ lại những ngày xanh
Có em vô vọng, có anh vô tình
Di Linh! Di Linh! Di Linh!
Gọi thì cứ gọi, làm thinh vẫn làm
Một hôm con ngựa bất kham
Nghe tình réo gọi phăm phăm cuốn về
Cần chi biển hẹn non thề
Chỉ mơ mình sẽ vụng về… hôn nhau!
"Đệ tử" tròn mắt nhìn tôi, hỏi:
- "Sư phụ" đọc thơ của ai vậy?
- Thơ của "trẫm" chớ của ai? "Trẫm" chỉ mơ mình sẽ vụng về hôn nhau, vậy mà "ái khanh" lại để cho người khác hôn!
"Đệ tử" la lên:
- "Sư phụ" say rồi, đừng đọc thơ nhảm nữa!
Tôi lè nhè:
- Cứ uống rượu, cứ đọc thơ!
Cô bé giằng lấy chai rượu trên tay tôi:
- Đã thế, "đệ tử" cũng uống nữa!
Em "ực" một hơi bốn, năm ly liền tù tì. Cái kiểu uống rượu của cô bé khiến tôi chắp tay vái lia lịa:
- Anh lạy em! Uống kiểu này có mà chết!
Mà "chết" thiệt. Tôi "chết" trước, em "chết" sau. Cả hai rời quán khi trời đã về khuya. Chẳng biết em dìu tôi hay tôi dìu em, chỉ nhớ khi chúng tôi dừng chân trên cầu tàu bờ hồ Xuân Hương, trong men say chếnh choáng, tôi đã hôn em. Say, nhưng cũng còn biết nói:
- "Sư tử" ơi! Anh yêu em.
Em bật cười khanh khách, đưa tay vặn mũi tôi:
- Em không yêu "sư phụ" đâu! Chỉ yêu ông "nhà thơ" vừa rồi!
Tôi chột dạ, hỏi lại cho rõ:
- Yêu "nhà thơ" hay yêu "họa sĩ"?
Em lại vặn mũi tôi lần nữa:
- Đã nói là yêu nhà thơ mà!
Chúng tôi đi tắc xi về nhà nghỉ. Say quá, tôi chui vào phòng riêng ngủ vùi.
Sáng hôm sau, đoàn lại tiếp tục đi tham quan mà không có em. Tôi nghe những người trong đoàn bảo là đêm qua, em phải ngồi trước cửa phòng đến 5 giờ sáng bởi hai cô gái cùng phòng đã khóa cửa đi chơi suốt đêm. Nghe mà thương em quá chừng và tự trách sao mình vô tâm quá đỗi! Sáng hôm đó, tôi ngồi uống cà phê với bạn bè ở cái quán có cây anh đào già nhất Đà Lạt – theo lời một anh bạn. Anh ta còn chỉ cho tôi thấy cây phượng tím ở phía đối diện. Hóa ra chính là cái cây cổ thụ có hai nhánh hình chữ V mà hôm qua tôi đã "ngồi thiền" dưới gốc khi chờ em mua áo lạnh! Hura! Giá như có em ở đây, tôi sẽ khoe những gì mình vừa được biết, nhưng từ đó cho đến lúc kết thúc chuyến tham quan Đà Lạt, hầu như em tránh gặp riêng tôi.
Không chỉ có vậy, về tới Sài Gòn, em lại vội vàng ghi tên tham gia chiến dịch "Mùa hè xanh" của các thanh niên tình nguyện lên tận vùng núi rừng Gia Lai. Hình như sau "sự cố" đó, em "né" tôi càng xa càng tốt. Còn tôi nhớ em đến thẫn thờ, luôn gọi thầm "Sư tử ơi!", rồi làm thơ:
Cho tôi về lại một ngày
Đất trời Đà Lạt đọa đày hồn tôi
Theo em xuống lũng, lên đồi
Men yêu khi sụt, khi trồi lao đao
Mùa không phượng tím, hoa đào
Mùa Đà Lạt gọi chiêm bao trở về
Tôi như lạc giữa u mê
Còn em ngúng nguẩy bên lề cỏ xanh
Tôi loanh quanh, em loanh quanh
Ô hay đã đến lúc "hành" nhau ư?
Bỗng em má chợt đỏ nhừ
Khi tôi ngu dại, lừ đừ… hôn em
Bài thơ được đăng trên một tờ báo dành cho tuổi mới lớn. Khoảng hai tuần sau, tôi nhận được thư em: " Đệ tử tình cờ đọc được bài thơ của sư phụ từ "hàng thăm nuôi"[6] do gia đình gởi lên. Nói thật nhé: thơ của sư phụ… dở ẹc! Sư phụ đừng nuôi ảo tưởng sẽ trở thành "nhà thơ" nữa nhé! Nè, đệ tử cũng có làm thơ nữa đó, sư phụ đọc thử nha:
Hát đi anh
Bài hát "Đi tìm Nữ thần Mặt trời"
Để em nghe
Tim mình bừng lên chút lửa
Giấc mơ chỉ mới tròn một nửa
Thì anh đã đi xa
Những tháng ngày kỷ niệm trôi qua
Chẳng thể nào quay lại
Nhưng tiếng đàn ghi-ta sống mãi
Cùng bài hát "Giấc mơ Cha-ri"[7] dịu dàng
Những tiếng hát cung đàn
Anh thổi vào lòng em nỗi nhớ
Bỗng thấy yêu miền Trung như hơi thở
Vì biết rằng nơi đó đã sinh anh
Cảm ơn trời đất chân thành
Đã cho đôi mình gặp gỡ
Kỷ niệm đêm nào còn rưng rưng nỗi nhớ
Gặp một lần rồi một đời mãi biệt ly…
TB: Bài thơ này đệ tử dành tặng một người… con trai khác (hổng phải sư phụ!)".
Tôi buông rơi lá thư
Chết "sư phụ" rồi, sư tử ơi!
Hoa sao héo? Kẹo sao nhão?
Hoa hồng tượng trưng cho tình yêu, điều đó ai cũng biết. Nhưng có một thằng con trai đã hăm ba tuổi mà không-chịu-biết! Thằng đó là tôi, dù tôi cũng có người yêu đàng hoàng – một người con gái chỉ nghe tên thôi cũng đủ nhói đau: Kim!
Có một buổi tối, tôi và Kim ngồi trong một quán cà phê được liệt vào hạng "quý phái". Ở đó, có những cô gái áo dài thướt tha ôm những lẵng hoa đi đến từng bàn chào mời khách mua. Đối tượng "tiếp thị" đặc biệt mà họ nhắm tới là những cặp tình nhân. Tôi nghĩ, dẫu sao đó cũng là một nét đẹp trong đời sống văn hóa. Nhưng khi một cô đến bàn của chúng tôi thì tôi thẳng thừng từ chối:
- Xin lỗi, tụi này không mấy thích chơi hoa.
Cô gái bán hoa vẫn tích cực tiếp thị:
- Nhưng hôm nay là ngày Valentine, anh cũng nên tặng chị ấy một đóa hồng.
Tôi đành phải nghe theo:
- Bao nhiêu một hoa?
- Dạ thưa, mười lăm ngàn.
Tôi suýt nhảy dựng. Xin thề, một cái bông hồng vô tri vô giác như thế này, con nhỏ cháu họ của tôi làm nghề trồng hoa ở Gò Vấp bán có năm trăm đồng mà hổng ai mua, còn mấy cô này bán gấp 30 lần!
Kim cản:
- Thôi đừng mua nữa anh, đắt quá!
Chà chà! Ai lại thế? Ngày Tình Yêu mà, đắt cũng phải mua tặng người yêu dù rằng cành hồng này cào toạc cái túi áo sinh viên vốn dĩ "viêm màng túi kinh niên" của tôi.
*
Sau đêm đó, Kim tuyên bố không đi dạy kèm nữa mà "chuyển công tác" sang bán hoa.
Nàng lập luận:
- Làm gia sư hao hơi, tốn sức mà lương lậu chẳng bao nhiêu. Đôi khi lại còn phải hạ mình trước gia chủ, thậm chí cả với học trò. Bán hoa khỏe hơn, mỗi ngày chỉ mất ba tiếng từ 6 giờ chiều đến 9 giờ tối. Mỗi đêm chỉ cần bán 30 bông, với tỉ lệ 1 vốn 29 lời (như tôi đã mua) thì thu nhập bằng một tháng lương gia sư, và hàng tháng thu nhập bằng lương của VIP[8]!
*
Dù nghe thấy hai tiếng "bán hoa" rất chướng tai, dễ suy diễn, nhưng tôi phải công nhận Kim khá nhanh nhạy trong thời buổi "kinh tế thị trường" nên đồng ý góp vốn. Là sinh viên trọ học ở thành phố, hơn ai hết, chúng tôi thấm thía bốn chữ: cơm – áo – gạo – tiền. Vậy là đành hy sinh những đêm hẹn hò, tán dóc để quay mòng mòng theo cơn lốc kinh tế thị trường. 4 giờ chiều, tôi đạp xe lên Gò Vấp, vừa thở hổn hển vừa thúc nhỏ cháu họ cắt 30 bông hồng cho thiệt lẹ. Móc ví trả mười lăm ngàn đồng ngay tắp lự, tôi vù chạy về cho kịp giờ Kim đi bán. Kim đẹp, nói năng nhỏ nhẹ nên phần "tiếp thị" khỏi lo. Có điều, nàng toàn mời nhằm những thằng cha còn "điếc" hơn cả tôi: chả biết hoa hồng tượng trưng cho cái gì cả! Thành thử, hằng đêm, Kim vẫn tiu nghỉu ôm về hầu như trọn vẹn số bông, dù đã "đại hạ giá": 8 ngàn một bông; 5 ngàn cũng bán nốt! Vẫn không lỗ, nhưng chỗ bông ế đem liệng thì tiếc, ăn thì (phải chi nó biến thành bánh cũng đỡ nghẹn!). Tôi đem tất cả gởi vào tủ lạnh của một người quen, chiều hôm sau lấy. Ai dè mớ bông héo rũ như phơi nắng ba ngày vì bị "ướp" trong một nhiệt độ không thích hợp. Cứ thế, mỗi chiều Kim thoăn thoắt chân sáo ra đi trong nhịp điệu của ca khúc "Triệu bông hồng đỏ thắm", tối về lại nhăn nhăn, nhó nhó với một lẵng hoa ế
*
Một hôm, tôi đọc được trên báo một mẩu tin khá là hài hước: "DỊCH VỤ THÔI YÊU: Ở nước ngoài, khi một trong hai người đang yêu nhau muốn đơn phương không yêu nữa, chỉ cần gởi tới người yêu (sẽ cũ) của mình một bông hồng héo và một thỏi chocolate nhão, người nhận khắc biết mình đã bị… bồ đá!". Rõ là vớ vẩn! Nhưng tôi đặc biệt chú ý đến chi tiết "bông hồng héo". Thứ này thì tụi tôi đâu có thiếu! Thế thì, tại sao không biến "của nợ" thành "hàng hóa"? Tôi lập tức cho đăng lời rao trên mục quảng cáo của hai tờ báo lớn: "Bạn muốn chia tay với người yêu của mình nhưng ngại phải nói ra? Đã có chúng tôi nói giùm bạn bằng một món quà rất văn hóa được giao tận tay người ấy. Xin liên hệ DỊCH VỤ THÔI YÊU ở số… đường…".
*
Làm chơi mà hóa thiệt, ngay tuần lễ đầu tiên, chúng tôi đã có tấp nập thân chủ gồm đủ thành phần xã hội: nhiều cô gái trẻ muốn "bye" ông bồ già sau khi đã "gỡ" tận tình của nả. Nhiều "bà ngoại" ngót bảy mươi mà còn đòi chia tay chỉ vì "ông ngoại" ngủ ngáy rầm trời. Nhiều cô cậu giận hờn vớ vẩn cũng đặt hàng gởi "quà không vui" đến để "cho nó biết mặt"! Nghĩa là có một ngàn lẻ một lý do để xa nhau. Thậm chí có người còn cẩn thận nhờ gởi quà vô khám Chí Hòa để thông báo cho phạm nhân ở trỏng biết rằng "Tình nghĩa đôi ta chỉ thế thôi!"…
Tôi nhận tất! Kim thì lại có lần động lòng trắc ẩn:
- Em thấy làm cái nghề "chia loan, rẽ thúy" này nó bất nhẫn làm sao ấy! Đi bán hoa là đem hạnh phúc đến cho người nhận, còn đi "tặng quà đau khổ" thì "Như hoa đem tin ngày buồn " – nàng cất lên một câu hát nghẹn ngào.
Là nói thế chứ công việc cứ hút lấy chúng tôi. Cuối ngày, chúng tôi ra chợ "thu gom" hoa hồng ế với cái giá "cho không". Chẳng cần phải "cưng như trứng, hứng như hoa" gì ráo! Càng bầm dập càng tốt. Chocolate thì mua cả hộp về phơi nắng một buổi là chèm bẹp! Gói hoa và kẹo vào giấy kiếng cẩn thận, cột nơ hẳn hoi, đính kèm một mảnh giấy photo: "Kính gởi ông (bà) X DỊCH VỤ THÔI YÊU chúng tôi được sự ủy thác của bà (ông) Y xin gởi đến quý khách món quà này nhằm mục đích thông báo cho quý khách rõ: Từ nay mọi quan hệ tình cảm giữa bà (ông) ấy với quý khách đã chấm dứt. Xin chúc quý khách mau tìm được ý trung nhân mới và hạnh phúc! (Trường hợp quý khách lại muốn chia tay với… "kẻ đến sau", xin vui lòng liên hệ DỊCH VỤ THÔI YÊU số… đường… Rất hân hạnh được phục vụ!". Tìm đúng người, đúng địa chỉ mà khách hàng đã cung cấp, chúng tôi trao "quà" tận tay rồi biến! Chớ dại dột nấn ná ở lại giải thích hoa sao lại héo, kẹo sao lại nhão mà phải chứng kiến những khuôn mặt thể hiện đầy đủ hỉ, nộ, ái, ố Đương nhiên, những thân chủ của tôi đều là những kẻ bội phản trong tình yêu nên mỗi "sô" như vậy, tôi đều "quất" năm chục ngàn, gọn hơ Quay ngoắt 180 độ mà không phải nói một lời, họ khoái, có người còn "boa"[9] thêm
*
Cái "công ty dịch vụ" của chúng tôi ngày một ăn nên làm ra. Chúng tôi mướn hẳn một ki-ốt để làm nơi giao dịch, tậu được chiếc cub 78 để đi "giao quà". Công việc bận túi bụi đến nỗi tôi và Kim chẳng còn giờ phút nào để quan tâm đến nhau, dành riêng cho nhau. Tôi nhớ, một vài lần nàng bị cảm cúm, nhức đầu gì đó. Ba cái bệnh lẻ tẻ này thì nhằm nhò gì. Nghĩ vậy nên tôi vẫn "vô tư" dù những lúc đó ánh mắt Kim nhìn tôi đầy vẻ trách móc. Ôi, "chuyện nhỏ", để rồi hạ hồi phân giải được mà!
Nhưng tôi lầm! Một buổi chiều, vừa đi "thu gom" hoa hồng héo về, thấy cái "văn phòng" DỊCH VỤ THÔI YÊU bỗng dưng vắng hoe. Tôi dáo dác tìm kiếm bóng dáng "bà chủ" và chợt điếng hồn khi bắt gặp một bông hồng héo, một thỏi chocolate nhão bọc trong giấy kiếng, cột nơ cẩn thận kèm theo mảnh giấy photo, chỗ "Kính gởi" đề tên tôi!
*
Tôi ngồi lặng hằng giờ trước "sản phẩm" của chính mình. Chạy đi tìm Kim cũng dễ thôi: tới trường hoặc nhà mấy đứa bạn thân, chắc là Kim đang ở đó. Nhưng để làm gì? Một cú "gậy ông đập lưng ông" trên cả mức chịu đựng! Nhưng, tôi vẫn cố gắng chịu đựng, bởi lần đầu tiên trong đời, một kẻ chuyên đi "giao" nay lại được "nhận".
Thấm thoát, tôi và Kim xa nhau đã mấy năm. Mỗi khi chạnh nhớ đến nàng, tim tôi lại nhói đau. Tôi muốn thưa với các bạn sẽ yêu và đang yêu rằng: Tình yêu là hoa hồng, nhưng hoa héo là vì gặp phải "phân bón" là những thái độ vô tâm, hờ hững. Hãy nuôi dưỡng tình yêu bằng cách lưu tâm đến người yêu của bạn, dù là những chi tiết vụn vặt nhất!
Trường hợp bạn không còn chịu nổi nhân vật này, xin vui lòng liên hệ
Xuân ở Lào
Nếu bạn yêu một cô gái yêu một cách… si dại, nhưng cô ấy lại yêu các" ngôi sao" – yêu một cách… cuồng nhiệt, thì chắc chắn bạn sẽ mắc chứng bệnh "nhồi máu cơ tim" như tôi.
Xuân là tên một cô bé bé như hạt tiêu, chỉ cao khoảng 1,5 m, nặng chừng 35 kilogam, lại mang kiếng cận cỡ 3 đi-ốp. Một ngoại hình "mình… cò, vóc hạc" như thế nhưng đủ làm tôi điêu đứng bởi tôi yêu nàng chết mê chết mệt mà không hiểu vì sao, thế mới khổ! Tôi với nàng thường có những buổi chiều hò hẹn, những buổi sáng "beautiful Sunday" đúng nghĩa, nhưng rồi từ khi Đài Truyền hình chiếu bộ phim Bao Thanh Thiên thì… Từ đó, những buổi chiều, ánh mắt nàng chẳng còn đoái hoài gì đến tôi, lại càng không thể tách rời nàng ra khỏi Triển Chiêu đại hiệp. Tôi đành phải liên tục thiểu não: "Chiều một mình qua phố, âm thầm nhớ nhớ tên em…"[10]
Phim Bao Thanh Thiên chiếu chưa dứt thì xuất hiện Đội tuyển bóng đá nữ. Đội bóng "từ trên trời rơi xuống "này thắng như chẻ tre, ẵm gọn chức vô địch "tiền Sea Games". Nhỏ Xuân bồ tôi, nhảy tưng tưng như… giẫm phải than hồng. Những cái tên: Thúy, Kim Hồng, Mỹ Oanh, Hà… gì gì đó được nàng nhắc luôn miệng như… ôn thi đại học! Rồi nàng bắt tôi chở vô sân bay Tân Sơn Nhất để đón đoàn trở về. Nhìn nàng lao tới, ôm hôn thắm thiết các nữ cầu thủ, tôi lạnh hồn liên tưởng tới chuyện nếu đây là đội tuyển bóng đá nam với các khuôn mặt đẹp trai như Lê Huỳnh Đức, Hồng Sơn… thì tôi mất bồ như chơi! Họ là những cánh chim đại bàng, còn tôi chỉ là chú chim én khốn khổ, tối ngày cứ ngay ngáy một nỗi lo: một ngày đẹp trời nào đó, "nàng Xuân" của tôi hứng chí hát bài "Tạm biệt chim én"[11] rồi phóng theo đại bàng thì tôi chỉ còn biết rên ư ử bài "Ru ta ngậm ngùi"[12] đầy cay đắng!
*
Nỗi lo của tôi là "có cơ sở" vì Sea Games 19 tiến tới một cách ồn ào và thú vị. Tôi dù… ngu cách mấy cũng nhận thức được mình là người Việt
Thời gian ấy, cả tôi và Xuân như… phát rồ, nhưng rồ trong hạnh phúc bởi mấy khi đôi tim chúng tôi hòa chung một nhịp? Những cái tên: Hồng Sơn, Huỳnh Đức, Đỗ Khải, Sĩ Hùng… dù được nàng "hê" với cường độ cả trăm đề-xi-ben vẫn không còn chói tai, ngược lại tôi nghe sao… dễ thương quá chừng(!). Xuân rất thông minh (cận thị mà), nàng chẳng những điểm mặt, thuộc tên tất cả cầu thủ phe ta mà còn nói vanh vách về từng câu thủ địch: vị trí, tên gì, áo số mấy… Những cái tên trúc trắc, khi đọc phải… méo cả miệng vậy mà nàng đọc tuốt tuồn tuột, còn "nhuyễn" hơn cả bình luận viên bóng đá. Này nhé: "Anh ạ, đội Thái chỉ có hai thằng đáng gờm là Na-ti-pông và Ki-a-ti-súc. Khóa được hai thằng này là mình ẵm cái huy chương vàng như chơi!". Đó là… nàng ao ước vậy thôi chứ con đường dẫn vào "kho huy chương" của phe ta ngày càng hẹp dần, cho đến lúc hầu như bị đóng sập cửa, đành trông chờ vào sự quật cường của đội Lào. Nếu Lào hòa với
Tôi nhớ như in đêm 14.7.1997 lịch sử ấy. Hai đứa ngồi bệt trước màn hình, hồi hộp theo dõi trận đấu ngoạn mục giữa phe ta (chứ sao, đội Lào bỗng dưng trở thành phe ta rất… ngọt!) với phe địch. Xuân thủ cái soong nhôm và đập nắp vung liên hồi mỗi khi đội Lào xuống bóng. Tôi cũng khoa tay, múa chân, reo hò nhưng hàng thủ của đội Mã (Malaysia) chơi khá "rắn" nên mấy "ông" Lào không sao "chọc" được vô lưới. Tôi cáu sườn đứng trước màn hình… chỉ đạo, y như mình đang là… huấn luyện viên trên sân cỏ: "Thằng này, lật bóng ra biên… Ê! Câu vào trung lộ…". Xuân nhào tới bịt miệng tôi: "Cấm anh gọi cầu thủ Lào là thằng này, thằng nọ nhé. Phải gọi là… "đồng chí Lào thân mến!". Vâng, các "đồng chí Lào thân mến" chiến đấu lăn xả suốt gần hết trận đấu để rồi…phút 89, điều kỳ diệu xảy ra: "đồng chí" số 13 đã làm vỡ tung cả triệu trái tim (trong đó có hai trái tim nhỏ bé của chúng tôi) khi đưa được bóng vào lưới đội Mã. Tôi nhảy tưng tưng:
- Hoan hô đồng chí số 13! Số 13 tên Kẹo-la-khỏn hả? Ờ, giờ thì kẹo gì cũng… ngọt!
Xuân chạy lên phòng rồi chạy xuống với lá cờ đỏ sao vàng choàng trên vai, hai bên má là hai lá cờ Việt Lào bằng décal trông như một "Hô-li-gân" thứ thiệt.
- Đi anh!
- Đi đâu?
- Xuống đường!
Tôi bủn rủn chân tay nhưng thấy bộ dạng của nàng đang hừng hực khí thế, nếu bất tuân e rằng tôi không còn cửa để… vào chung kết!
Bánh xe của chúng tôi vừa chạm xuống lòng đường đã bị cuốn vào quỹ đạo của con rồng lửa khổng lồ tạo thành bởi cơ man xe gắn máy. Chẳng ai quen ai cũng cứ vẫy tay chào nhau. Lâu lâu lại có tên vung nắm tay lên trời "Hê! hê!", lập tức cả đoàn đáp trả "Hê! Hê ". Con nhỏ "Hô-li-gân" ngồi đằng sau tôi gõ nắp soong liên hồi kỳ trận, chẳng theo một bài bản nào mà sao tôi thấy… "đã" quá trời! Bỗng, tốp đi đầu hoảng loạn rồi tiếng còi hụ của xe cảnh sát với đèn chớp xanh đỏ. Xuân thúc vào hông tôi:
- Cảnh sát! Chạy đi anh!
Tôi rú ga… dzọt, nhưng mà… dzọt sao nổi. Thế là một đêm "nằm ấp"[13] với đầy vết muỗi đốt, sáng hôm sau nộp tiền phạt, lấy xe về với tội danh "đua xe". Oan ơi, ông Địa!
Mùa Sea Games rồi cũng đi qua, mọi ồn ào tưởng như lắng đọng và tôi chắc mẩm đã được thong dong hạnh phúc bên nàng thì bỗng nhiên có một tờ báo nọ mời Đội tuyển Lào sang Việt
- Xuân ơi, má "Kẹo" có mùi gì vậy?
Em đỏ mặt:
- Anh chẳng có tinh thần thượng võ tí nào. Em làm như thế là vì tình hữu nghị… Việt – Lào hai nước chúng ta. Tình sâu như nước Hồng Hà, Cửu Long[14] đó! Này, cầu thủ Bu-lanh Bu-sốc-vanh có mẹ người Việt, cha người Lào đấy!
Tôi rít lên:
- Em ở lại với mấy ông Lào thần tượng của em đi! Tôi về!
Tôi bỏ về giữa chừng mà không có con nhỏ "Hô-li-gân" ngồi phía sau xe.
Từ đó "vùng phủ sóng" của bọn tôi coi như "đứt liên lạc". Không hiểu con nhỏ "Hô-li-gân" là thứ gì mà bắt tôi phải nhớ quay nhớ quắt. Giáng sinh, tôi chạy qua nhà nàng, ông bố cười tủm tỉm:
- Nó đi… Lào rồi!
Tôi bị knoc out thật sự, ốm liệt giường liệt chiếu.
Gần Tết, tôi nhận được một bức điện tín: "Bé Hạt Tiêu đang ở Lào… Cai. Hẹn trong vòng một tuần, nếu anh không ra đón bé về thành phố Hồ Chí Minh thì Bé… xù[15] anh luôn!".
Chúa ơi, tôi nào có biết cái xứ Lào Cai nằm ở đâu trên bản đồ Việt
Nhưng mà chờ nhé, Xuân ơi!
Đò ơi, về đâu?
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò…
(Trần Tế Xương)
Trăng sáng vằng vặc. Trên chiếc cầu bê tông bắc qua cù lao, vài đôi tình nhân đang ngồi bên nhau tình tự. Từ ngày có chiếc cầu, nơi đây trở thành chỗ hẹn hò lý tưởng cho các bạn trẻ mỗi đêm. Tôi đứng vịn thành cầu nhìn xuống dòng sông. Ánh trăng dát vàng óng ánh trên những gợn sóng lăn tăn. Gió lồng lộng. Một con đò xuất hiện phía hạ lưu, khoan thai, chầm chậm trôi theo dòng nước. Đò ơi, về đâu? Phía dưới đó có một bến đò nào không nhỉ? Ngày xưa, nơi đây đã từng có một bến đò. Bến đò ấy gắn chặt với thời thơ ấu của tôi. Bây giờ nó biến mất chẳng còn chút dấu tích nhưng cứ muốn ghé qua.
Tôi đưa mắt lướt nhìn khoảng ven bờ. Chỗ nào là gốc sung, bến nước? Chỗ nào là ngôi nhà cũ của tôi? Chịu! Trong ánh trăng mờ mờ, tôi không thể nào phân biệt được. Lại một con đò băng ra từ dưới gầm cầu, xuôi về phía hạ lưu. Tôi nhớ, nhớ da diết giọng hát của con Hiếu: "… Thuyền ơi, đưa ta đến đâu? Tìm trăng, trăng khuất đã lâu. Sương xuống trên bến cô liêu thêm sầu… Thấp thoáng sương mờ. Ai than ai thở? Đời vui chi trong sương gió…"[16]. Tôi nhớ, nhớ đến xót xa những đêm trăng mông quạnh như thế này, tôi nằm vắt vẻo trên mũi đò, thả hồn theo trăng và theo tiếng sáo của thằng Hòa Đêm nay, cả thằng Hòa lẫn con Hiếu không thể nào ngờ được có một gã đàn ông râu tóc bụi bặm, trở về chốn cũ đứng giữa trời trăng mây nước giữa khoảng không gian bao la nhưng tâm hồn lại bị quây chặt bởi những lớp sóng hoài niệm cứ dồn dập, bủa vây Lát nữa, tôi sẽ lội bộ sang đầu cầu bên kia, sang cù lao. Chỉ vài trăm mét mà như dài hun hút dưới ánh trăng. Ở bên ấy cũng đầy rẫy kỷ niệm của lũ chúng tôi, thuở ấy
Nhà tôi ở bên này sông, gần bến đò. Bên kia là cù lao. Dân cù lao muốn sang thị trấn để làm việc gì (kể cả đi học) đều phải qua đò. Người đưa đò sang sông là thím Tư Nghĩa, má thằng Hòa, bạn học cùng lớp với tôi. Nghe nói nghề đưa đò của thím Tư Nghĩa là nghề gia truyền từ mấy đời nay rồi. Nhà thím ở phía cù lao, sát nhà ông nội tôi nên là chỗ thân tình dù chẳng phải bà con cật ruột. Bến đò là một gốc sung cổ thụ, cành lá sum xuê vươn mình ra mép nước. Đò cặp sát gốc sung, khách chỉ cần đặt chân từ mũi đò sang bộ rễ chằng chịt là bước lên bờ. Thường ngày, thím Tư Nghĩa vẫn ngồi dưới gốc sung đợi khách. Thi thoảng thím tạt vào nhà tôi xin gáo nước mưa. Gặp lúc vắng khách, thím nán lại chuyện vãn với má tôi. Khi dưới bến vọng lên tiếng gọi "Đò ơi" là thím le te cắp chiếc nón lá chạy xuống bến. Cũng có những đêm khuya lơ khuya lắc, đang thiu thiu ngủ, bỗng giật mình nghe tiếng "Đò ơi" vọng từ dưới bến. Lát sau, đã nghe tiếng mái chèo ì oạp khua nước. Tôi đoán những lúc này, chắc là thằng Hòa chèo thay cho má nó.
Những ngày nghỉ học, tôi thường ra bến chơi suốt ngày với thằng Hòa, con Hiếu. "Quá giang" đò sang cù lao thăm ông nội, xong lại năn nỉ thím Tư Nghĩa giao đò cho bọn tôi đưa khách thay thím. Thằng Hòa cùng tuổi với tôi nhưng là "con nhà nòi" nên kinh nghiệm sông nước của nó hơn tôi xa. Tôi chỉ "lòe" được mỗi con Hiếu. Nó cứ quýnh quáng, hốt hoảng mỗi lần tôi rớt tõm xuống sông giả vờ sắp chết đuối. Thằng Hòa thì cười tủm tỉm, còn con Hiếu lại mếu máo cặp đò "cứu hộ". Khi nó sắp vớt được thì tôi lại lặn xuống, chui qua phía bên kia mạn đò rồi trồi lên, cười khì
Mười lăm tuổi, con Hiếu đẹp như trăng rằm. Nó chèo đò giỏi, hát lại rất hay. Ở trường tôi, mỗi dịp tổ chức văn nghệ đều có sự tham gia biểu diễn của nó. Trời ạ, chỉ cần nghe con Hiếu hát Đêm tàn Bến Ngự một lần, chắc chắn ai cũng thấy hồn mềm ra. Tôi đã từng được nghe con Hiếu hát đi hát lại bài này nên hồn cũng chẳng còn độ "mềm" nữa mà "nhũn" ra đến tội nghiệp. Con Hiếu là dân Nam Bộ rặt, nó chưa từng bước chân ra khỏi địa giới huyện nhà, vậy mà nó hát Đêm tàn Bến Ngự bằng một giọng Huế chuẩn không chê vào đâu được. Tôi "nhũn" ra là ở chỗ đó. Tôi cũng biết ôm đàn ghi-ta "uýnh" vớ vẩn, nhưng để tạo được ấn tượng "nghệ sĩ" phải kể đến thằng Hòa, nó vẫn là cây ghi-ta chính của trường tôi. Không chỉ có thế, nhiều đêm tiếng sáo của nó vọng lên từ dưới bến: " Đêm nay thu sang cùng heo may. Đêm nay sương lam mờ chân mây. Thuyền ai lờ lững trôi theo dòng. Như nhớ thương ai chùng tơ lòng…"[17]. Nghe buồn gì đâu! Ba tôi chép miệng: "Thằng Hòa, con Hiếu có cái gien nghệ sĩ của ba nó. Rồi cũng long đong, lận đận mà thôi!". Tôi chưa từng nghe thằng Hòa nói về cha của nó. Chơi với Hòa từ tiểu học cho đến gần hết trung học, tôi chỉ biết có mỗi thím Tư Nghĩa là"người lớn" trong ngôi nhà tuềnh toàng sát nhà ông nội của tôi. Trên khúc sông này, thím Tư Nghĩa "độc quyền" đưa khách. Thím vốn hiền lành, chất phác. ! Ai có tiền thì trả, không thì "quá giang". Bởi vậy có lần dân hai bờ cương quyết không cho một chủ đò khác tính "tranh chấp nghề nghiệp" với thím. Tuy vậy nhà thím cũng chẳng giàu lên được, chỉ đủ để đắp đổi qua ngày và cho thằng Hòa, con Hiếu ăn học. Khi thím bị bệnh đột xuất, một trong hai anh em nó phải nghỉ học để thay mẹ đưa khách. Những lần đó tôi khoái ra mặt vì thế nào cũng được cùng chúng nó "dọc ngang". Lúc nhỏ, thấy tôi và thằng Hòa được "chèo ghe", con Hiếu cứ giậm chân, giậm cẳng, khóc rưng rức đòi đi theo Rách việc! nó là con gái, làm sao lặn xuống nước bắt cá, trèo lên cây bắt tổ chim trong những giờ đợi khách? Trong tất cả các trò chơi tuổi nhỏ, tôi và thằng Hòa là một cặp bài trùng rất chi là tâm đắc nên cho dù con Hiếu có "giậm chân, giậm cẳng" thì cũng chẳng có chỗ cho nó! Lớn lên, mỗi lần nghe thím Tư Nghĩa bệnh, không hiểu sao tôi lại cứ mong thằng Hòa cũng bị nhức đầu, đau bụng chi đó để tôi và con Hiếu có dịp "ngang dọc". Dù chèo đò với con Hiếu, tôi như "ngậm hột thị", suốt buổi chẳng nói được câu nào, nhưng bâng khuâng lắm! Nhất là những khi "giả bộ" tình cờ đưa mắt liếc phải cái lườn trắng ngần, thấp thoáng sau vạt áo bà ba lúc nó rướn người trên cặp mái chèo. Lúc ấy tôi chỉ muốn nhảy ùm xuống sông, lặn một hơi thật dài rồi trồi lên cười khì cho tỉnh táo!
Có một chiều đưa khách xong, Hiếu rủ tôi chèo đò đi hái bông điên điển về đổ bánh xèo. Loài hoa nở giữa trời nước này ở quê tôi nhiều vô kể, hái thoải mái. Điều không thoải mái là chỉ có hai đứa tôi giữa trời nước bao la. Hoa điên điển rụng bám vào tóc Hiếu càng làm tăng thêm vẻ đẹp hoang dại của nó. Lợi dụng lúc gỡ giùm hoa vương trên tóc, tôi đặt vội lên má Hiếu một cái "thơm". Con Hiếu giãy lên như đỉa phải vôi, quờ quạng thế nào mà lại rơi ùm xuống nước, ướt như chuột lột. Bộ bà ba sũng nước dán chặt vào cơ thể đang độ dậy thì làm con Hiếu đỏ rựng cả mặt. Nó bật khóc rấm rức, lại còn bắt tôi ra ngồi đầu mũi đò. "Cấm quay mặt lại!". Nó vừa khóc vừa chèo đò về
Tôi vào đại học. Gia đình tôi cũng chuyển lên thành phố. Năm hết, Tết đến, tôi thường được về thăm nội, thăm lại người con gái đã gây cho tôi những xúc động đầu đời Mỗi lần đặt chân lên bộ rễ chằng chịt của gốc sung nơi bến nước, lòng tôi lại nao nao. Người đưa tôi sang sông bây giờ là cô thôn nữ tên Hiếu. Thím Tư đã già yếu. Thằng Hòa thi rớt đại học, phẫn chí bỏ nhà xuống tận Cà Mau chơi đàn cho một ban nhạc, năm thì mười họa mới về thăm nhà một lần.
Tết. Tôi chỉ nhắm mắt làm cho xong "thủ tục": chúc tuổi ông bà, chú bác rồi vù ra bến phụ đò với Hiếu. Ngày Tết, người qua kẻ lại nhộn nhịp. Chẳng ai đi "quá giang" mà còn lì xì một cách hào phóng. Thật ra, nếu không có tôi, Hiếu vẫn đưa đò hàng ngày đấy thôi nhưng tôi thấy được vẻ rạng rỡ, hưng phấn của Hiếu mỗi khi thấy tôi. Nhất là những ánh mắt trìu mến, nồng nàn mà chưa từng có một người con gái nào nhìn tôi như thế. Tôi "chết đuối" trong đôi mắt hồ thu ấy là cái chắc!
Một hôm, bà nội tôi bất ngờ lên thành phố báo tin ông nội tôi đã yếu, không biết "đi" lúc nào. Ông nhắn ba má tôi phải lo gấp "chuyện hậu sự". Chuyện hậu sự này được bà nội tôi tiết lộ: trước khi nhắm mắt, ông nội tôi muốn được nhìn thấy thằng cháu đích tôn của mình "yên bề gia thất". "Tao đã đặt làm đôi bông tai. Chỉ còn chọn ngày lành tháng tốt rồi sắm thêm mâm cau trầu, cặp rượu và con heo quay nữa là bưng sang nhà Tư Nghĩa hỏi con Hiếu cho nó". Ba tôi như giẫm phải lửa: "Nó mới hăm mốt tuổi. Vợ con gì hở trời?". Tôi vừa thinh thích vừa sờ sợ, chẳng dám ý kiến, ý cò gì. Quả thật, ở tuổi của tôi mà có vợ thì khó mà chấp nhận được, nhưng được ông bà nội "rà trúng đài" ngay chóc, cũng sướng tê đi, nên không khỏi mơ màng cảnh "cô dâu, chú rể" Ba tôi phản ứng quyết liệt. Thậm chí ông còn trưng ra những chuyện xưa cũ: con gái lão chèo đò trốn nhà đi theo anh kép hát. Khi bị ruồng rẫy mới ôm hai đứa con về làng cũ nối nghiệp cha. Với tôi, đó là chuyện đáng thương cảm. Cuộc đời của thím Tư Nghĩa u ám, ảm đạm như thế thì cuộc đời của Hiếu phải hồng tươi lên mới phải. Tôi biết Hiếu sẽ rất đau khổ khi chúng tôi để vuột mất nhau.
Vậy mà "vuột mất nhau" thật. Không hiểu sao thím Tư biết chuyện ba tôi "bươi móc" quá khứ của thím nên cương quyết không gả con gái về làm dâu "cái nhà hợm hĩnh" ấy. Ba tôi phản phé: "Có ai hỏi đâu mà gả?". Chỉ tội cho tôi, tội cho Hiếu và tội cho cả ông nội của tôi nữa. Ông nhắm mắt mà không đạt được sở nguyện. Tôi về cù lao, đầu chịu tang cho ông nội, lòng chịu tang cho mối tình đầu. Trước đó nửa tháng, thím Tư Nghĩa đã kêu một anh lực điền ở xóm ngoài vô cù lao để gả con gái cho, không đòi hỏi gì hết. Rước dâu bằng đò. Đêm tân hôn, cô dâu bỏ trốn. Chẳng biết là về đâu.
Tết năm nay, hơn hai mươi năm sau những sự kiện ấy, tôi lại về cù lao. Chiếc Honda đưa tôi thẳng một mạch từ thị trấn sang cù lao trên một chiếc cầu bê tông mới xây. Buổi chiều đi thắp nhang cho ông nội ở nghĩa trang, tôi cũng có đến thắp nhang trước phần mộ của thím Tư Nghĩa. Cả thím lẫn ba tôi đều đã trở về với cát bụi. Ngôi mộ của thím chẳng ai trông nom nên um tùm cỏ dại và lạnh lẽo hương khói. Ngồi nhổ cỏ cho thím mà lòng tôi cứ gợn lên biết bao câu hỏi xoay quanh số phận hai người con của thím: Chẳng biết bây giờ Hòa và Hiếu trôi dạt về nơi đâu? Tại sao tụi nó không một lần trở về, dẫu sao ở đây cũng còn có phần mộ của thím Tư cơ mà? Trong thâm tâm, tôi vẫn hằng cầu mong cho những người bạn thời thơ ấu của tôi, cho dù số phận có trôi nổi, lênh đênh như một con đò thì cuối cùng cũng tìm được một bến đậu bình an
Gió xuân lồng lộng trong buổi chiều nghĩa trang. Hình như vẳng trong gió có tiếng gọi "Đò ơi " từ bờ sông vọng lại
Mùa ngô cũ
Được mấy ngày nghỉ hiếm hoi, bốn đứa tụi tôi quyết định về nhà Trinh ở Long Khánh chơi. Chả là bốn đứa bốn nơi quy tụ về đây cùng làm chủ căn phòng mang số 307 trong ký túc xá này. Hằng dân miền Tây, Trinh miền Đông, tôi từ Bình Thuận, còn Pha ở tuốt Pleiku. Vậy là nhà của Trinh gần nhất!
Ba má Trinh đón tiếp tụi tôi bằng một bữa cơm thịnh soạn. Ăn chưa kịp tiêu, đã được mời ra đối diện với rổ bắp luộc nghi ngút khói. Bốn đứa thi nhau "thổi". Loáng cái, còn một rổ… cùi! Đứa nào cũng còn thòm thèm. Trinh bảo: "Đi mua về ăn tiếp!". Ba của Trinh cười lớn: "Tụi bây muốn ăn để tao đưa lên rẫy, thả giữa một rừng bắp bạt ngàn. Ăn xong rồi… lạc trong bắp luôn. Hết về Sài Gòn!".
Tụi tôi vỗ tay hoan hô.
Vậy là bốn đứa "ngự" trên "rờ-moọc" gắn sau xe máy cày do ba Trinh lái nhắm hướng núi Chứa Chan trực chỉ. Con đường đất đỏ dẫn vào rẫy gập ghềnh đèo dốc. Bọn tôi bám chặt vào thành xe mà vẫn nghiêng ngả, xô nhau. Trinh hỏi ba: "Ba ơi, anh Long có trong rẫy không ba?". Ông già trả lời: "Có". Trinh nháy mắt với tụi tôi: "Đứa nào thích tao giới thiệu anh Long của tao cho. Đẹp trai lắm à nha!". Cả ba đứa tranh nhau: "Tao… tao…". Tôi nổi nóng: "Ê tụi bây tham vừa thôi chớ. Trong bọn chỉ có tao là mồ côi… bồ. Phải ưu tiên anh Long cho tao!". Chưa biết anh Long mặt mũi ra sao mà tranh nhau ỏm tỏi, không biết con người đầy "diễm phúc" này có… nhảy mũi[18] không?!
Và… đây: gã con trai đen nhẻm đang cởi trần ngồi trong căn chòi lá. Thấy một bầy con gái ập vào, gã hoảng hồn trèo lên thang gác quơ vội chiếc áo đã cũ sờn khoác vào người. Bọn tôi chủ động tấn công: "Chào anh Long!". Gã trố mắt:" Ủa, biết tên… tui rồi hả?". Nhỏ Pha hát liền: "Chưa gặp… Long, em đã nghĩ rằng: Có chàng tráng sĩ đẹp như… Tây. Mắt xanh là bóng dừa hoang dại. Âu yếm nhìn em không nói năng…". Long bối rối thấy rõ, Trinh gỡ giùm: "Anh Long muốn khỏi bị ăn hiếp thì mau đi bẻ bắp luộc đãi tụi em". Chỉ chờ có thế, anh chàng chạy biến…
Vắng "chủ", tụi tôi"quậy" liền. Hằng trèo lên chiếc "gác" làm bằng sạp tre, thò đầu xuống la ơi ới:
- Lên đây, "tình" lắm tụi bây ơi!
Tụi tôi tranh nhau leo lên. Cái sàn tre kêu cót két. Ba của Trinh pha trò:
- Coi chừng tụi bây làm sập chòi của bác.
Trinh nổi hứng:
- Tụi con chiếm cái sạp này. Đêm nay cho anh Long đi ngủ ké chòi người ta. Mai ba lên đón tụi con nghen ba!
- Hổng được đâu, muỗi rừng nó ăn thịt tụi bây à.
Tụi tôi bốc:
- Hổng sao đâu bác, cho tụi con sinh hoạt lửa trại một đêm.
Cuối cùng ông già cũng… thua, sau khi dặn dò đủ thứ…
Ngồi ở trên gác có trổ cửa sổ nhìn ra bốn phía, đồi bắp bạt ngàn. Thấp thoáng dưới đồi dáng đi lom khom của Long đang bẻ bắp. Hằng khum tay làm loa: "Cúc cu!". Long ngừng tay hướng về phía chúng tôi vẫy chào. Chà, quen rồi há! Tôi lục lọi "giang sơn" của Long. Dưới chồng gối mền được xếp ngăn nắp là vài cuốn truyện dịch, dăm tập nhạc và một tập thơ chép tay chữ viết rất bay bướm. Tôi kêu lên:
- Tụi bây coi nè!
Trinh bảo:
- "Tối tác" của ảnh đó!
Pha giựt cuốn vở:
- Tao đọc cho tụi bây nghe nha. Hay "ác ôn côn đồ"! Nghe nè:
Ta về chiêm nghiệm cuộc đời
Rừng xanh núi thẳm đón người ẩn tu
Bao nhiêu lửa hạ, khói thu
Có khi ôm đá mơ ru một người…
Tôi sững sờ. Không ngờ cái anh chàng nông dân lù khù ấy lại mang một hồn thơ nhiều triết lý đến thế. Bọn tôi dù mang tiếng là sinh viên khoa Ngữ văn nhưng chưa chắc đã làm được một câu thơ cho ra hồn. Thật sai lầm khi đánh giá người khác qua hình thức bề ngoài. Anh chàng tên Long đưa chúng tôi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Pha lôi từ lon guigoz đựng… đũa ra một ống sáo trúc. Nhỏ cười như nắc nẻ:
- Anh chàng định thổi… bếp bằng cái ống này nè tụi bây ơi!
Long về chòi với một bao bắp to tướng. Bọn con gái nhào xuống, lăng xăng:
- Để tụi em làm cho.
Nhưng rồi đứa nào cũng vụng về, chẳng biết "xử lý" ra sao với đống bắp to đùng này. Thành thử Long phải "bao sân" từ chặt đầu, chặt đuôi, lột bớt vỏ cho vào… thùng thiếc. Cả đến việc nhóm bếp vì với ba "ông táo" là những cục đá góc cạnh xù xì thì… thú thiệt: hổng quen chút nào! Trong khi chờ đợi bắp luộc chín, chúng tôi ngồi tán gẫu. Câu nói "xí phần" của tôi hồi xế chiều, giờ bị bọn bạn quái quỷ tận dụng khai thác triệt để. Hằng huých vai tôi:
- Hồi nãy mày nói "Để anh Long cho tao", giờ nói gì nói đi!
Cả nhỏ Trinh cũng đế vô:
- Anh Long, nhỏ này đòi làm "chị dâu" của em nè!
Tôi muốn độn thổ, còn Long luống cuống cứ cầm nhành cây cời cời bếp lửa. Với bọn quỷ này nếu không bạo mồm, bạo miệng thì khó mà "trấn áp" nổi. Tôi liều mạng chọc tới luôn:
- Chịu em không, anh Long?
Long vò đầu, bứt tai trông đến tội:
- Chỉ sợ khác… hệ, màn hình không được chất lượng thôi!
Á à, cũng biết đùa đó chớ!
Nồi bắp được "hạ thổ", vớt ra. Khói bốc nghi ngút, mùi thơm bắp tươi nồng nàn. Cả bọn xúm lại… thổi. Trước tiên là thổi cho trái bắp nguội bớt, sau đó là "thổi" tới tới. Những chiếc "kèn Harmonica" lướt giữa những vành môi con gái trông đến… dễ mê! Long chỉ ăn cầm chừng. Nhỏ Trinh tới ống đựng đũa lôi cây sáo của Long ra: "Không thổi bắp thì thổi sáo cho tụi em thưởng thức". Cả bọn nhao nhao:
- Ừ, văn nghệ đi anh Long!
Long gãi đầu:
- Cô nào thổi sáo đi, tôi ngâm thơ cho.
Chẳng có cô nào biết thổi sáo nhưng vẫn buộc Long phải ngâm thơ. Giọng Long đầy diễn cảm trong bài thơ nói về một mùa bắp của thời thơ ấu, bài "Mùa ngô cũ" của Trần Dạ Từ:
… Hạt ngô thơm mùi sữa
Nở đều như răng em
Ta ghé răng cắn vỡ
Ăn mãi không đã thèm
Muốn nương nhờ vai em
Hai bàn tay bão dậy
Vật vã nghìn trăm phen
Vẫn dằn lòng mai vậy
Mai rồi mai, lần nữa
Thoáng chốc mười mấy năm
Bao nhiêu mùa ngô vàng
Bao nhiêu trời mưa gió
Hôm nay qua đồi xưa
Trượt chân bàng hoàng mãi
Ôi tình thơ ngày thơ
Trôi về đâu tuổi dại?…
Bài thơ thật hay. Tôi bắt Long chép lại cho tôi để về thành phố "học thuộc lòng". Long gật đầu:
- Mai sẽ có!
Buổi tối, Long bàn giao cả "giang sơn" cho tụi tôi rồi đi ngủ nhờ ở chòi gần đó. Đêm giữa rừng núi yên ắng và lạnh lẽo quá chừng! Gió đêm như muốn tốc mái lá. Đống lửa đốt giữa chòi bập bùng, tí tách… Có lẽ đêm nay sẽ trở thành đêm nhớ đời của tụi tôi: chăn êm, nệm ấm không chịu lại chui vào "ngồi thiền" giữa chốn thâm sơn cùng cốc này. Gió đêm lạnh run người nhưng chẳng đứa nào chịu đắp cái chăn của Long, sợ… lây hơi. Nhỏ Trinh vớ bở:
- Của anh tao, tao đắp. Đứa nào lạnh biết liền hà!
Bọn tôi chỉ thức giấc khi có tiếng gọi của Long từ dưới "nhà" vọng lên. Trời ơi, quê dễ sợ! Mặt trời đã lên từ hồi nảo hồi nao vậy kìa? Lại còn cả bốn đứa nằm túm tụm, co quắp, cố níu lấy chiếc mền… của Long. Chắc là chịu lạnh không thấu! Nhỏ Hằng quýnh quáng:
- Đánh răng, rửa mặt chỗ mô, Trinh?
Trinh gắt:
- Vớ vẩn, tao cũng như mi biết đâu mà lần.
Long lại phải hướng dẫn chúng tôi ra suối. Nước trong vắt, mát lạnh. Long đi trở vào chòi, hát: "Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước. Em đến tôi một lần, bao lũ chim rừng hợp đàn trên khắp bến xuân…". Ghê nha, ngỡ là củ mỉ cù mì chớ, ai ngờ thuộc cả nhạc Văn Cao. Long tiễn tụi tôi về Sài Gòn bằng một bữa "điểm tâm" bắp luộc và còn tặng thêm một bao bắp trái đem về. Riêng tôi được "ưu ái" một túi xốp, cũng… bắp, nhưng đã được chặt đầu đuôi, lột bớt vỏ cẩn thận. Long dặn:
- Lột hết vỏ, rưới mỡ lên rồi…nướng! Hết ý đó nghen!
Về tới ký túc xá, cái túi xốp của tôi bị chiếu cố đầu tiên vì tụi quỷ ngại động dao thớt. Tôi vùng vằng:
- Để nướng.
- Nướng con khỉ! Than đâu?
Tôi ngớ ra, đành bấm bụng nhìn những trái bắp của tôi "ngự" trong soong đặt lên bếp dầu… Bắp chín, chia đều mỗi đứa được hai trái. Nhỏ Hằng đang lột vỏ bỗng la toáng:
- Ý! Tụi bây, kỳ chưa nè.
Cả bọn trố mắt nhìn trái bắp trong tay Hằng: trong lớp vỏ, quấn quanh trái bắp bốc khói là… một tờ giấy đẫm nước. Gỡ ra, đó là bài thơ "Mùa ngô cũ" có ghi hai chữ "Tặng Ng." (là… tôi đó mà!) nhòe nhoẹt. Nhỏ Pha cười sặc sụa:
- Chưa từng thấy ai có lối tỏ tình độc đáo như anh chàng này.
Tôi tức đến phát khóc:
- Tỏ tình hồi nào? Ảnh dặn là lột vỏ nướng, tụi bây lại đem… luộc bài thơ của tao… Hu… hu…
Nhỏ Hằng dỗ tôi:
- Đừng khóc, bài thơ đôi chỗ còn… đọc được. Nghe nè:
… Ngô chín vàng đêm đêm
Giục lòng ta cháy đỏ
Gió mưa gieo ngoài thềm
Giật mình biết đâu đó
Muốn thốt lời yêu em
Như than hầm trong miệng
Nhai dập nghìn hạt mềm
Vẫn cất không thành tiếng…
Cả bọn lại chọc ghẹo. Tôi ngồi thừ trước mảnh giấy mủn rách, rủa thầm: "Ngốc ơi là ngốc!". Nhỏ Trinh nói thầm vào tai tôi:
- Mai mốt về rẫy em chơi nữa nghen, chị Hai!
Thoại
Thoại về lâu rồi mà tôi cứ ngồi lặng, ngẩn ngơ. Tưởng tượng quãng đường dài hơn 60 km phải đi trong mưa gió thế này, hồn tôi lại se thắt. Thương em vô cùng. Nhớ cái siết tay lúc nãy: "Anh nhớ giữ gìn sức khỏe nghen. Em về. Nhớ viết thư cho em đó!". Tôi gật đầu với Thoại mà thấy mắt mình nhòa đi trong một màu lam sương khói…
Thoại, cái tên nghe hết sức nam tính, nếu như tên đầy đủ của em không là Nguyễn Thị Huyền Thoại. Thế nhưng tôi vẫn thích gọi em gọn lỏn: Thoại. Tôi gặp Thoại lần đầu trong một buổi họp mặt văn nghệ tỉnh X. Vóc dáng nhỏ bé (như… hạt tiêu), tóc demi-garçon, thêm một cặp kính cận cùng với giọng đọc thơ khá tự tin của em làm tôi cứ ngờ ngợ. Quả thật, ngoại hình của Thoại rất giống một cây bút nữ mới nổi gần đây. Ấn tượng ban đầu về Thoại chỉ có thế. Tuy nhiên, khi về thành phố lấy phim đi rửa ảnh (tôi có chụp vài kiểu ảnh lưu niệm), hình ảnh cô gái tóc ngắn có đôi kính trắng lấp lóa lại cứ thấp thoáng trong cả cuộn phim. Thỉnh thoảng giở album ảnh ra, tôi lại thấy Thoại, lại suy nghĩ vẩn vơ rồi cười một mình.
Năm sau, tôi lại có dịp về tỉnh X. họp mặt văn nghệ. Gặp Thoại, lòng tôi ấm lên một nỗi vui như gặp lại người thân. Thoại vẫn… vô tư. Tôi tặng Thoại một tấm ảnh chụp năm trước. Mắt Thoại ánh lên nét ngạc nhiên: "Có vậy nữa hả? Cám ơn anh nhiều nhiều nghen!". Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh chiêu đãi cơm trưa tại nhà hàng Thủy tạ rồi sang Tây hồ. Cuộc vui chưa muốn dứt, cả nhóm kéo nhau về nhà Vũ – cách đó 10 km- chơi tiếp. Chúng tôi đi xe máy. Con đường đất đỏ dẫn vào nhà Vũ rất lầy lội. Thoại đi cùng một cô bạn trên chiếc Dream. Tôi chạy phía sau. Cái gót chân trắng hồng của Thoại cứ đập vào mắt tôi. Bỗng xe của Thoại lọt xuống một rãnh sình, tắt máy. Những bàn chân con gái nõn nà thoắt đã lấm lem, ngập trong vũng sình khiến tôi nhói cả lòng. Xe của tôi cũng lọt vào bãi sình nên chẳng giúp được gì cho họ. Chỉ đến khi đến nhà Vũ, tôi mới xách tới tặng hai cô bé vài… gàu nước để rửa chân. Thoại nhìn tôi cười chúm chím, cặp kính cận lấp lóa trong nắng chiều…
*
Tôi về thành phố chưa được một tuần thì nhận được thư của Thoại. Tôi đọc ngấu, đọc nghiến và không đầy nửa tiếng sau, tôi đã ra bưu điện gởi bức thư hồi âm, bởi một lẽ cô bé có lối viết thư cứ… tưng tửng "chết người", chẳng hạn: "Anh nè, nhà anh có nuôi con gì (chó, mèo) không vậy? (Tôi bật cười, sực nhớ đến bài tập làm văn "nổi tiếng": Nhà em có nuôi một bà ngoại ). Em có nuôi một con chó nhỏ. Nó khôn lắm, 5 giờ sáng mà thấy em còn ngủ là nó nhảy lên giường, chui tọt vào tấm chăn của em đòi… ngủ ké! Em hoảng quá, phải dậy thôi! Đã thế, nó là… chó mà có tính… xài sang, đòi ăn toàn kem Ý không hà, em chịu không thấu…".
Chúa ơi! Bỗng dưng tôi thèm được làm… con chó của Thoại chi lạ, hỏi sao tôi không tức tốc trả lời?
Thế rồi tôi dâm ra ghiền đọc thư Thoại, mà có lẽ Thoại cũng khoái đọc thư tôi. Cứ thế thư đi, thư lại xoèn xoẹt. Rồi cả hai chúng tôi đâm ra tương tư, không phải tương tư nhau mà là tương tư… hai ông bưu tá ở cả hai nơi. Ngày nào cũng vậy, cứ ngóng cổ ra cổng chờ bóng dáng quen thuộc của ông phát thư xuất hiện. Chỉ chờ ổng bấm chuông là ào ra với tất cả sự rộn rã, háo hức, nhưng nếu ông ấy lướt qua luôn thì buồn hiu, buồn hắt. Thoại là giáo sinh của một trường sư phạm, hễ đến dịp nghỉ hè là cùng bạn bè đi chơi đây đó. Đi về lại viết thư kể đủ thứ chuyện cho tôi nghe với những lời lẽ… trớt quớt, nghe muốn… lộn gan: "Tuần rồi, em theo mẹ cùng đoàn người đi hành hương ở Miếu Bà, Châu Đốc. Đi vì ham vui vậy thôi. Em để người lớn vào đền lễ Bà, khói hương ngột ngạt lắm! Em bỏ ra ngoài lang thang và chụp hình chung với… một con bò (Chúa ơi, quá… đã!). Nó cũng "điệu" lắm, cứ nhắm tít mắt lại cười, lại còn ngoe nguẩy cái đuôi quất vào người em làm dơ cả bộ đồ vía. Em ức lắm! Phải chi nó là… người thì em đã đạp cho nó một cái…".
Quả là "văn phong đặc trưng" của Thoại nhưng cũng có vài bức thư Thoại viết rất tình cảm, đọc thật xúc động, chẳng hạn: "Anh biết không, sau gần 30 năm, gia đình em vừa nhận được bộ hài cốt và di vật của chú em hy sinh trong chiến tranh. Chú của em đã được quy tập về nghĩa trang liệt sĩ… Mấy ngày nay cứ âm âm, vang vọng trong em cái giai điệu da diết, day dứt của ca khúc "Màu Hoa Đỏ"(thơ Nguyễn Đức Mậu, nhạc Thuận Yến): Có người lính mùa thu ấy ra đi từ mái tranh nghèo. Có người lính mùa xuân ấy ra đi từ đó không về. Dòng tên anh khắc vào đá núi. Mây ngàn hóa bóng cây che. Chiều biên cương trắng trời sương núi, mẹ già dõi mắt nhìn theo… Việt
Thư của Thoại thỉnh thoảng còn có những đoạn "Tái bút" rất… hồi hộp, hấp dẫn, kiểu như: "Em đã có chương trình lên thành phố thăm anh. Chỉ còn thiếu mỗi… tài xế. Anh đợi nghen!"
Thoại lên thăm tôi thật. Không chỉ một lần mà đến những ba lần, mỗi lần một "tài xế", ai cũng trẻ, khỏe và đẹp trai (hơn tôi!). Tôi hỏi nhỏ:
- "Bồ" hả?
Thoại cười, lắc đầu:
- Em đâu có thay bồ như thay… tài xế kiểu này. Bạn thôi!
Không hiểu sao khi nghe Thoại trả lời như thế, tôi lại thấy vừa vui vừa an lòng. Có lẽ tôi phải gởi cho Thoại một bức thư đầy ắp những lời yêu thương, nồng nàn để đáp lại những gì Thoại đã làm vì tôi.
Bức thư nồng nàn tôi chưa kịp viết thì nhận được thư Thoại: "Anh ơi, em khóc suốt mấy ngày nay. Con chó của em bị xe cán chết rồi! Em đi học, nó chạy theo. Nó… ngu quá, qua đường mà không… giơ chân "xin đường". Thằng cha tài xế cũng ngu quá, mắt nhắm mắt mở hay sao mà không thấy con chó của em…". Con chó của Thoại chạy ra đường bị xe cán là… quá phải. Còn tôi mới đúng là có số… bị xe tông: đang đậu xe máy bên lề đường thì hai gã thanh niên say rượu chạy xe ngược chiều đâm sầm vào. Gãy chân. Đúng là vô duyên!
Nằm hơn một tháng ở bệnh viện rồi về nhà nằm tiếp với cái chân bó bột, tôi giấu không báo tin cho Thoại biết. Bỗng, trong một ngày mưa gió, Thoại xuất hiện ở nhà tôi với lỉnh kỉnh "đồ thăm nuôi" và một gã "tài xế" lạ hoắc:
- Anh chơi xấu nghen! Sao không báo tin cho em hay liền?
Tôi cười gượng gạo:
- Anh không muốn Thoại thấy anh với cái chân bó bột như thế này tí nào!
Thoại ở chơi với tôi hơn nửa ngày rồi từ giã. Thoại về lâu rồi mà tôi cứ ngồi lặng, ngẩn ngơ. Tưởng tượng quãng đường dài hơn 60 km Thoại phải đi trong mưa gió, hồn tôi lại se thắt. Thương em vô cùng, Thoại ơi!
Tạm biệt hoàng lan
Mỗi chiều, tôi vẫn thường ra ngồi dưới bóng mát cây hoàng lan, nơi chia đôi khoảng sân không rào, lòng nôn nao chờ đợi
- Anh Giang! Chiều nay ra sớm thế?
Tôi quay lại, Huyền và Hương đang cầm vợt từ căn nhà bên cạnh đi ra. Hôm nay họ ra sân hơi muộn. Tôi hỏi:
- Hân đi học chưa về à?
Huyền lườm tôi:
- Hóa ra anh chỉ ngồi đợi có mỗi mình Hân thôi đấy?
Tôi cười lả giả:
- Chẳng lẽ hỏi thăm về ai là đợi người đó à? Còn nếu đợi thì anh đợi cả ba cô kia đấy!
Hương lè lưỡi, trợn mắt trêu tôi:
- Eo ơi! Anh Giang tham! Chiều nay Hương đấu với Huyền. Ai thua, mất mười hũ yaourt. Anh theo phe nào?
- Theo Huyền đi anh Giang! – Huyền chen vô – Mười hũ Huyền ăn không hết đâu, chia lại cho anh năm hũ đó!
Tôi dàn hòa:
- Anh không theo phe nào cả mà làm trọng tài. Tất cả là 20 hũ. Bên thua "cúng" 5 hũ, bên thắng "biếu" 5 hũ. Vậy là mỗi em "dứt' 5 hũ, phần anh "đá" 10 hũ. Được chưa?
- Chưa?
Hai cô gái bắt đầu đánh cầu lông. Quả cầu trắng cứ bay qua, bay lại giữa những chuỗi cười trẻ trung, hồn nhiên Họ là những cô gái hàng xóm của tôi: Huyền, Hương và Hân là ba chị em ruột. Đúng hơn, họ có tất cả bốn người. Hạnh, cô chị cả nữa, nhưng Hạnh lấy chồng rồi. Nhắc đến Hạnh, tôi nghe lòng mình xốn xang. Trong bốn chị em, Hạnh là người đã chia sẻ vui buồn với tôi nhiều nhất, ngay từ khi gia đình tôi mới dọn về ở căn nhà này. Chúng tôi có rất nhiều kỷ niệm thơ mộng và cay đắng. Hạnh cũng đã đi vào những giấc mơ thật riêng tư một thời mới lớn của tôi. "Có lẽ" Hạnh cũng yêu tôi. Tôi cảm nhận như thế nhưng vẫn phải ghìm lòng vật vã, ray rứt Lần cuối cùng tôi nhìn thấy Hạnh là đêm trước ngày cưới một tuần. Hạnh qua nhà, trao cho tôi tấm thiệp mời rồi ôm mặt khóc, chạy vụt về Hai nhà có chung một khoảng sân nên nhà tôi, sân tôi cũng được trưng dụng để làm rạp đãi tiệc. Có cực hình nào ác độc và đau đớn hơn khi yêu mà không ngỏ được lòng mình, lại phải chứng kiến tiệc cưới của người ấy ngay trong nhà mình? Tôi không đủ can đảm chịu đựng nên đã âm thầm "tản cư" đến nhà một người bạn sau khi nhờ chuyển đến cô dâu món quà mừng Vậy mà thấm thoát cũng đã gần hai năm rồi. Hai năm, chiều nào tôi cũng ra ngồi dưới gốc cây hoàng lan trước sân, dõi mắt ra cổng, nôn nao chờ đợi Hai năm, chưa một lần bóng dáng Hạnh thấp thoáng về đầu ngõ nhưng lại có bóng dáng của cô em út đi học về, áo dài trắng phất phơ, mái tóc dài óng ả Tất cả đều mang dáng dấp quen thuộc của Hạnh,! quen thuộc đến nao lòng
- Anh Giang! Cho anh nè!
Bao giờ Hân cũng nói câu đó đầu tiên mỗi lần đi học về, ngang qua cây hoàng lan và chìa tay cho tôi. Chẳng có gì đặc biệt cả và chẳng lần nào giống lần nào: một quả xoài ăn dở, chiếc lá me, chùm phượng vĩ hay có khi chỉ là con ốc vít nhặt được ở đâu đó trên đường về. Vậy đó, nhưng quá đủ hạnh phúc cho tôi
Đang theo dõi trận cầu của hai cô chị thì cô út đi học về. Cô bé nắm chặt bàn tay lại dứ dứ trước mặt tôi:
- Anh Giang đoán coi Hân tặng anh cái gì nè?
Huyền dừng vợt:
- Coi chừng nó cho anh một con sâu róm à, anh Giang!
Hương đi tới, nhìn lom lom vào nắm tay của cô em út, dò xét:
- Kẹo chocolate chứ gì?
Hân xòe tay: một chú dế than! Cả bọn cười rộ. Hân nói:
- Đá dế không? Em cũng có một con. Em mua đó, năm trăm đồng một con. Đã chưa?
Tôi bật cười trước cái vẻ lanh chanh, lí lắc của Hân. Cô bé mở cặp lấy ra một vỏ hộp diêm, nhưng mới vừa đẩy nắp hộp thì chú dế ở trong đó búng mình nhảy ra:
- Bắt! Bắt cho em với!
Tôi nhoài người theo con dế trong khi Hương và Hân cũng cuống cuồng va vấp vào tôi. Chiếc xe lăn đổ ào, đầu tôi đập xuống nền xi măng Tiếng Huyền hốt hoảng:
- Anh Giang! Anh Giang
- Tụi bây là con gái, làm gì mà xúm vô khiêng một gã đàn ông như vậy? Vô nhà hết đi, để đó cho tao! Tật nguyền mà không biết lo thân.
Câu nói sau cùng còn đau hơn cú ngã đập đầu gấp bội. Tôi lặng lẽ hất tay ông Hậu rồi trườn về phía chiếc xe
- Ba, tại tụi con mà anh Giang bị té. Ba để tụi con giúp anh ấy
- Tao bảo tụi bây vô nhà!
Hân chạy đến dìu tôi ngồi lên xe, cô nói nhanh:
- Lỗi ở em hết. Anh đừng giận tụi em tội nghiệp
Tôi chưa kịp nói gì thì "Bốp!" – Hân lãnh một cái tát:
- Mày cãi tao hả?
Hương níu lấy tay áo ba, lắc mạnh:
- Ba Ba nhẫn tâm vậy sao ba?
Ông Hậu toan đánh cả Hương. Tôi đanh giọng:
- Đủ rồi, thưa bác. Cháu tự lo cho mình được. Còn Hương và Hân, vào nhà đi mấy em!
Tôi gieo mình lên giường. Bịt tai quằn quại mà vẫn còn nghe phía bên kia bức vách, tiếng ông Hậu rít lên:
- Tao mà không ngăn chặn thì rồi cũng có ngày tụi bây như con Hạnh, khóc lên khóc xuống bảo là tao ép duyên. Tàn phế thì còn làm gì được mà không ngăn cấm cơ chứ?
Tiếng của Huyền thì thào:
- Thôi, con xin ba. Chị Hạnh đã khổ rồi, đến giờ tụi con lại phải chịu khổ với ba nữa. Chưa có gì mà ba đã xúc phạm nặng nề đến lòng tự trọng của người ta rồi.
- Chưa có gì à? Đợi đến "có gì" thì tao tự tử mất.
- Ba kỳ ghê! Không nói chuyện với ba nữa.
Có tiếng khóc tức tưởi của Hân. Tôi như thấy Hạnh đang ôm mặt vừa chạy vừa khóc như đêm nào
Những chiếc cọc sắt đã được đóng xuống giữa sân. Ở đầu góc, cây hoàng lan bị hàng chục cây đinh ghim vào để làm mốc cho những hàng dây kẽm gai giăng lên, chia dọc mảnh sân. Từ thân cây rỉ ứa những dòng nhựa quánh đặc, long lanh như những giọt nước mắt hóa đá. Tim tôi tan nát. Sờ tay lên những vết thương lở lói, nham nhở trên thân cây quen thuộc, tôi thầm thì:
- Tạm biệt hoàng lan. Tạm biệt bóng mát!
Sự ra đời của một cuốn tiểu thuyết
Từ dạo tôi võ vẽ tập làm thơ, viết văn gởi đăng báo, tên của tôi luôn xuất hiện ở mục "Hộp thư" hoặc "Nhắn tin" (có khi kèm cả địa chỉ). Nhờ đó mà tôi nhận được khá nhiều bức thư "từ trên trời rơi xuống" mà tôi vẫn gọi là "thư sao quả tạ"! Đó là những bức thư không-thể-gọi-là -thư dù cũng nằm trong phong bì có dán tem, có đóng dấu bưu điện. Nội dung của bức thư nào cũng mang đầy vẻ hăm dọa, kiểu như: nếu người nhận không sao ra 20 bản, gởi cho 20 người khác thì sẽ từ bị đến bị Nhẹ thì cuộc đời "tuột dốc không phanh", nặng thì "lăn đùng đứt bóng", nghĩa là không vô nhà thương cũng về nghĩa địa!
Những bức thư như thế thường gây cho tôi cảm giác khó chịu. Tôi chẳng yếu bóng vía, cũng chẳng cần phải tốn thời giờ ngồi chép ra ngần ấy bản sao (dạo ấy máy photocopy chưa phổ biến), lại tốn cả tiền tem, phong bì cho những trò mê tín dớ dẩn và vô bổ này. Nhưng rồi có một "bức thư" nội dung cũng na ná như thế đã khiến tôi bật cười hơn là khó chịu. Đó là bức thư kêu gọi góp vốn, có bản danh sách 5 người với đầy đủ địa chỉ. Người nhận được thư phải sao ra 5 bức thư khác kèm theo mỗi thư 1.000 đồng, để gởi cho 5 người sau khi gạch bỏ tên người đầu danh sách, "đôn" những người kế tiếp lên và điền tên mình vào vị trí cuối cùng. Sau một vòng xoay không biết bao nhiêu năm tháng, mỗi người tham dự vòng chơi sẽ nhận được 1.000 đồng x n người (cấp số nhân) = tỉ phú! (dóc tổ!). Thề với các bạn, "vòng chơi" đến lượt tôi là đứt chuỗi bởi dù nó chẳng gây hại gì, năm ngàn đồng (gởi cho 5 người) cũng chẳng đáng là bao, nhưng rõ là vớ vẩn!
*
Tôi chỉ chú ý tên người ở cuối bản danh sách, vì chính "y" chứ không phải ai khác đã gởi cho tôi cái "của nợ" này: một cái tên rất con gái có địa chỉ từ thị xã Phan Thiết. Đáng chú ý hơn nữa là chữ của "nàng" lên thác, xuống ghềnh và sai chính tả choét choe! Kiểu này hẳn "nàng" vẫn còn "Nhi-cô-lai" lắm, chắc vẫn còn theo học bậc tiểu học(?). Điều đó khiến tôi cảm động, tôi bèn viết thư cám ơn "Bé" đã nhè tôi mà "chọn mặt, gởi rầu!". Tôi phịa rằng đã sao y ra những 20 bản, gởi cho 20 người, mỗi người 1.050 đồng. Biết đâu nhờ 50 đồng tôi thêm mà các "cổ đông" sau tôi sẽ góp phần làm tăng nguồn vốn cho cái VOVABANK (Ngân hàng Vớ vẩn) này!
Rồi không dưng, tụi tôi sa vào trò chơi "tìm bạn bốn phương" vì những cánh thư trao đổi mỗi lúc một dày. Tôi tá hỏa khi biết "Bé" đang học lớp 12! (Lạy chúa, tôi cứ tưởng mình đọc nhầm). Nàng bảo, nàng rất ít bạn bè nên khi đọc báo Mũi Né thấy tên và địa chỉ của tác giả bài thơ "Nước mắm nhĩ" đăng ở trang quảng cáo đặc sản địa phương, nàng "chộp" ngay. Ai dè tác giả "Nước mắm nhĩ" viết thư quá hay, chữ lại đẹp! Nàng kể, gia đình nàng làm nghề đi biển, mẹ của nàng là chủ lò nước mắm Hoài Hương, thành thử cả gia đình nàng đều khoái bài thơ của tôi. Nàng hỏi, sao tôi lại đăng bài thơ ấy trên báo Mũi Né, nếu đã "né mũi" sang chỗ khác thì làm sao thưởng thức hương vị nước mắm? Quả là dễ thương! Những bức thư cứ tiếp tục qua lại và tôi chới với nhận ra rằng nếu cuộc sống của tôi mà thiếu nàng thì khác nào như thể bữa cơm thiếu nước mắm!
Rồi nàng vào Sài Gòn, ở trọ nhà bà dì để luyện thi đại học. Hai đứa ở cùng một thành phố nhưng nàng dứt khoát không cho tôi đến địa chỉ nàng trọ, chỉ được liên lạc qua thư từ vì "dì dượng khó lắm!". Khó thì cũng mặc kệ, nàng đã vào đây rồi, tôi dại gì mà chẳng đến nhìn mặt người mình thầm yêu, trộm nhớ. Nhà dì của nàng là quán nước Hạnh Hoa. Tôi khấp khởi mừng vì đã là quán nước thì ai vào chẳng được? Vừa bước vào quán tôi đã bị bốn cô gái "mắt xanh, mỏ đỏ" ào tới túm lấy, ấn xuống ghế. Rồi Bụp! Bụp! Bụp những lon bia Tiger như tự động bật nắp qua một cái lướt tay đầy "ảo thuật" trước cặp mắt thất thần của tôi
- Uống đi anh!
Tôi chưa kịp uống thì họ đã cụng lon, "dzô" một phát rất khí thế rồi tu ừng ực! Đến nước này thì tôi phải xô ghế đứng dậy, xá bốn phía:
- Xin lỗi các cô, tôi đến đây không phải để uống nước!
Bốn cặp mắt xanh lè, trố mắt nhìn tôi:
- Hổng uống nước? Dzô đây chi?
Tôi lả giả:
- Dạ tôi đi tìm người quen.
Những cô gái phá ra cười rũ rượi:
- Tìm người quen hả? Ê Lan, phải người quen của mày không Lan?
Cô gái tên Lan nguýt tôi một cái, bĩu môi:
- Đồ té giếng[19]!
Chợt một cô gái mắt không xanh, mỏ không đỏ" từ bàn thu ngân bước đến:
- Xin lỗi các chị, cho em nói chuyện với người này một chút.
Quay sang tôi, cô cười cười:
- Anh "Nước mắm nhĩ" đây phải không?
Tôi mừng rỡ gật đầu xác nhận. Cô gái bảo:
- Mình ra ngoài kia nói chuyện đi anh.
Rồi cô quay sang các cô gái:
- Chuyện này để em tính nghen!
Tôi chưa kịp phản ứng, cô gái đã kéo tôi ra cửa, cằn nhằn:
- Đã dặn là đừng đến rồi mà. Lì ghê vậy đó!
Rồi nàng bật khóc.
Chúa ơi, con biết làm sao bây giờ?
*
Ở một quán nước không phải là quán Hạnh Hoa – nàng kể: chỗ nàng đang trọ là một quán bia ôm trá hình, những cô gái hồi nãy là tiếp viên chuyên nghiệp, còn nàng chỉ ngồi phụ thu tiền cho dì dượng mỗi khi rảnh rang việc học. Tôi hỏi nàng sao không kiếm nhà khác mà trọ, ở với dì dượng học chữ nghĩa đâu không thấy chỉ e có ngày tốt nghiệp bằng "ôm đại". Nàng đáp rằng nàng cũng đã suy nghĩ lung lắm, ngặt là ba mẹ có gởi gắm cho dì dượng, cũng không nỡ báo cho gia đình nàng biết chuyện "làm ăn" của dì dượng, sợ gia đình thêm lo. Nàng bảo cũng sắp tới mùa tuyển sinh rồi, ráng chịu đựng thêm ít lâu nữa, thi xong là nàng sẽ "Adieu" cái quán "quái chiêu" này.
Tôi bắt nàng ngoéo tay hứa.
Nàng bẽn lẽn thò ngón tay trỏ ra
*
Từ đó, tôi hay đến quán Hạnh Hoa để chở nàng đi lòng vòng, thư giãn sau những giờ phút ôn thi căng thẳng. Mỗi lần đèo được nàng ra khỏi quán, tôi thấy lòng mình nhẹ nhõm, ngược lại khi trả nàng về với cái "ổ bệnh" này lòng tôi lại xót xa như chính mình là tòng phạm
Phải chi tôi cũng có nhà cửa đàng hoàng, tôi sẽ tình nguyện đi ngủ lang, để nhường cho nàng một khoảng không gian trong lành, chuyên chú luyện thi.
Có hôm tôi bảo nàng:
- Em có muốn là muỗng nước mắm chan vô chén cơm của anh không?
Nàng tròn mắt:
- Là sao?
Trời đất! Ngu cùng cực. Tôi phải nói huỵt toẹt:
- Là yêu đó mờ!
Nàng cười chúm chím:
- Chút chút!
Tôi tròn mắt:
- Là sao?
- In ít!
Đến lượt tôi ngu:
- Em nói rõ ra đi!
Nàng rằng:
- Em hãy còn nhỏ, chả dám yêu đương, chỉ tạm thời chấp nhận một cuộc tình nho nhỏ với anh.
Trời ơi, tôi chưa bao giờ nghe nói tình yêu mà cũng có cuộc tình lớn, cuộc tình bé nữa? Bất giác, tôi nhớ đến cuốn tiểu thuyết "Tình nhỏ làm sao quên" của một đàn anh. Tiểu thuyết này đã được quay thành phim. Tôi tự nhủ: ừ, mà tại sao mình không viết cuốn "Tình nhỏ làm sao… to" nhỉ? Cốt truyện sẽ lấy từ "chuyện tình" của hai đứa tôi và biết đâu cũng được dựng thành phim? Tôi nói với nàng ý định này, nàng vỗ tay lẹt đẹt. Hai đứa tôi giao hẹn sẽ không gặp nhau, không thư từ, điện thoại: nàng chuyên tâm ôn thi còn tôi đóng cửa viết truyện.
*
Bản thảo tiểu thuyết "Tình nhỏ làm sao to" của tôi viết được vài trang thì tắc tị. Khó quá! Bao nhiêu ngày tôi đóng cửa, ngồi thừ trước xấp giấy trắng, loay hoay mãi mà chẳng viết thêm được một câu chữ nào Bỗng, một hôm tôi nhận được bức thư với những hàng chữ nhấp nhô quen thuộc. Bức thư được gởi từ Phan Thiết. Nàng bảo tôi tốt nhất đừng viết cuốn "Tình nhỏ làm sao… to" nữa. Nàng chẳng hứng thú gì với nỗ lực để tình thêm to của tôi, bởi vì: " Anh viết thư hay, chữ anh đẹp nhưng anh lại quá xấu trai nên em hoàn toàn không có ý định "cặp bồ" với anh. Em đã trở về Phan Thiết sau khi thi hỏng đại học (cũng… đúng thôi, viết sai chính tả hoài, làm sao đậu nổi!). Dù buồn, nhưng em cũng mừng là đã giữ đúng lời hứa với anh: không bao giờ trở lại cái nơi đáng ghê sợ đó nữa. Chúc anh vui và sẽ tìm được một người con gái đồng cảm để viết một cuốn tiểu thuyết mới. Tạm biệt!".
*
Tôi thẫn thờ bê chiếc gương bự chảng lên soi: quả tôi "xí giai" thật! Nhưng tình tôi đậm đà như nước mắm nhĩ như thế, nỡ nào nàng lại quay lưng. Tôi cay đắng quay sang tập bản thảo Hừ, tôi sẽ viết tiếp cuốn tiểu thuyết này, chỉ cần đổi cái tựa thành "Tình nhỏ làm sao… tiêu!".
Lưu bút
Đang cắm cúi bên bức chân dung bằng màu dầu do khách đặt vẽ, tôi bỗng giật mình bởi một giọng nói lí nhí:
- Chú, cháu nhờ chú chút việc.
Tôi ngẩng lên. Một cô nữ sinh của ngôi trường cấp 3 phía bên kia đường đã đứng bên tôi tự lúc nào. Tôi mỉm cười dò xét:
- Chuyện gì đây, cô bé?
Cô bé luống cuống mở cặp lấy ra một cuốn sổ bìa cứng. Á à! Tôi hiểu rồi. Lưu bút. Không phải tôi có diễm phúc được hiện diện trong cuốn lưu bút xinh xắn này đâu, mà là
- Chú trang trí giùm cháu với. Vẽ đèm đẹp nghen chú!
Vậy là mùa hè đến rồi. Bất giác, tôi đưa mắt nhìn lên hàng phượng trong sân trường bên kia đường: những mảng hoa đỏ chói mắt, đỏ đến nao lòng. Mình tệ thật! Mải mê "cơm, áo, gạo, tiền" đến thế thì thôi
- Chú "ừ" đi chú! – Cô gái nhắc làm tôi bật cười.
- Thì ừ!
Tôi đưa tay nhận cuốn lưu bút mà hồn cứ để ở đâu đâu. Cô bé vẫn còn nấn ná:
- Làm cả "thơ tên" nữa nghen chú!
- Chà, "thơ tên" nữa hả? Mà cô bé tên gì? Lớp mấy?
- Cháu là Ngô Thị Mỹ Khánh, lớp 12 D2. Cám ơn chú trước nghen!
Vậy là ngoài việc trang trí cuốn lưu bút, tôi còn phải nặn óc để nghĩ ra bốn câu thơ sao cho thật hợp với mỹ danh của cô bé. Tôi luôn yêu quý tuổi học trò, bởi đó là khoảng thời gian tôi đã đi qua để giờ này hằng luôn hoài niệm. Tôi yêu tà áo trắng, yêu cánh phượng hồng "Xưởng vẽ" của tôi gần ngôi trường này nên mỗi khi hè về là cái tiệm "NGUYỄN – vẽ bảng hiệu, chân dung, áo dài" – lại có việc làm thêm ngoài giờ với hàng chục cuốn lưu bút "từ trên trời rơi xuống". Dù bận bịu nhưng tôi không thể không nhận, vì ai nỡ từ chối đem lại niềm vui – dù là bé nhỏ – cho tuổi học trò. Tôi vẽ theo ngẫu hứng, chẳng theo một khuôn mẫu nào nhất định: một khuôn mặt cô gái với đôi mắt đen láy, dòng tóc chảy phất phơ đang ngậm ngang miệng một cánh phượng hồng hay hai thiếu nữ đang cúi nhặt những đốm phượng hồng trên thảm cỏ xanh v.v Tôi kẻ khung, nắn nót đề tên chủ nhân, lớp, trường và dòng chữ "HẠ 200 ". Trang sau, nơi dành cho chủ nhân viết "Lời ngỏ…" thì tôi đóng khung với dòng chữ "… Vào kỷ niệm", nghe rất chi thương nhớ! Còn "thơ tên" thì tùy theo tên chủ nhân của cuốn lưu bút mà nặn óc làm những câu thơ sao cho mỗi chữ đầu thơ trùng với họ, chữ lót và tên của người ta. Tỉ như cuốn lưu bút của Mai Thị Thu Liễu thì:
Mai đây từ giã mái trường
Thị thành ai biết, phố phường ai hay
Thu về trong gió heo may
Liễu buồn phơi dáng tóc bay ngang trời.
Đại khái là vậy. Những bài "thơ tên" kiểu này luôn được các cô nữ sinh tán thưởng nhiệt liệt. Chỉ khổ cho tôi, từ những cảm tác ngẫu hứng lại bị trở thành "nhà thơ – đặt hàng" nên cứ phải vò đầu, bứt tóc, nhất là khi gặp phải những cái tên chỉ có 3 âm tiết hoặc chiết rời ra thì tối như hũ nút như cái tên Ngô Thị Mỹ Khánh này chẳng hạn. Mà cũng lạ, dẫu biết chắc mình mới gặp cô bé này lần đầu, sao tôi vẫn thấy ngờ ngợ, quen quen
*
Ngày 30 tháng 4, kỷ niệm ngày đất nước thống nhất. Thiên hạ dập dìu tràn ra phố xá và chiếm lĩnh những ngọn đồi thông mà trước đây chẳng có ma nào bén mảng Tôi cũng tự cho phép mình được thư giãn một ngày để hòa mình vào niềm vui chung. Phóng xe len qua cổng chợ, một con nhỏ áo quần rất "bụi" đi lăng quăng phía trước mặc cho tôi nhấn còi xe mấy lượt. Tôi kè xe đến sát, định "phùa" một câu cho hả cơn tức, thì
- Ô, chú Nguyễn! Cuốn lưu bút của cháu xong chưa?
Chết cha! Đụng phải con nhỏ này thiệt hổng ham, bởi cuốn lưu bút tôi chỉ mới phác họa rồi để đó vì bận tối mày tối mặt.
Tôi đành cười gượng gạo:
- Xong rồi, mai tới.
- Đẹp không chú?
- Hết ý!
- Chú Nguyễn đi đâu vậy? Cho cháu "quá giang" chút xíu được không? Tụi cháu có mục này hay lắm, chú ghé chơi luôn nghen!
Cô bé vừa nói vừa vỗ vỗ vào cái túi vải căng phồng đeo bên hông và nhảy lên yên sau xe tôi. Tôi bật cười:
- Chú chỉ khoái nhậu thôi, mà món này sức mấy Khánh có.
- Có luôn! Bảo đảm "bia bọt" đàng hoàng.
Khánh hướng dẫn tôi lượn lờ qua cả chục đồi thông. Chỗ nào cũng dày đặc người, họ đang picnic cắm trại ì xèo. Cuối cùng xe ngừng, vẫn dưới một đồi thông và vẫn có một nhóm người đang sinh hoạt dã ngoại
- Thôi, "bai" nha!
Tôi chưa kịp đưa tay vẫy thì Khánh đã níu lấy áo tôi:
- Chú còn "bia bọt" nữa chi. Dzô đây!
- Thôi, toàn bạn trẻ không hà, mà chú thì già rồi.
- Già thì có bạn già. Bảo đảm chú sẽ "kết" ngay tức khắc. Việt kiều từ Mỹ về đó chú Dzô đây chú!
Chẳng đặng đừng, tôi gật đầu:
- Một chút thôi nghe!
Khánh kéo tôi vào giữa vòng tròn của nhóm, trịnh trọng:
- Xin giới thiệu một người bạn vong niên vốn là họa sĩ, chú
- Nguyễn, phải không?
- Vâng, chú Nguyễn. Ủa, sao dì biết?
Người mà Khánh gọi bằng dì là một phụ nữ trong trang phục đúng "model Việt kiều", tôi nhìn và choáng váng. Hèn gì tôi thấy Khánh có nét quen quen. Tôi buột miệng:
- Hà phải không?
Người phụ nữ không trả lời nhưng Khánh bao giờ cũng nhanh miệng trả lời giùm:
- Đúng rồi! Dì Hà của Khánh đó. Khánh nói rồi, bảo đảm chú sẽ "kết". Ai ngờ hai người đã "kết" nhau từ lúc nào chẳng ai biết.
Phải, Khánh và các bạn trẻ này đều được sinh ra sau ngày đất nước thống nhất, làm sao họ biết được hơn hai mươi năm trước có một sinh viên mỹ thuật nhà ở Sài Gòn lại mê cô hoa khôi của trường Trung học Thánh Giuse Vũng Tàu. Mọi chuyện bắt đầu từ kỳ đi vẽ thực tập của gã sinh viên ở biển Vũng Tàu. Cô nữ sinh nhà ở Bến Đình nhưng chiều nào cũng có mặt ở Bãi Sau, để rồi hiện diện luôn trong tranh và ngự trị giữa trái tim gã sinh viên trẻ. Họ đã có những buổi hẹn hò đầy chất thơ và cũng đầy màu sắc Rồi tình hình chiến sự gia tăng khốc liệt. Những ngày cuối tháng 4 năm 1975, từ Sài Gòn tôi "bay" về Vũng Tàu nhưng không có cách gì "tiếp cận" với Bến Đình. Tôi tìm cách vượt qua từng trở ngại nhưng chỉ đến được Ngã tư Giếng Nước thì bị lạc đạn. Người ta đưa tôi vào bệnh viện nằm hết hai tháng. Khi tôi xuất viện, khắp nơi nhân dân đang nhộn nhịp bắt đầu cuộc sống mới – cuộc sống trên quê hương đã hết chiến tranh. Địa chỉ nơi tôi tìm đến đầu tiên là Bến Đình. Căn nhà của Hà sụp đổ tan tành. Hỏi thăm chung quanh, toàn là dân tứ xứ. Vậy là tôi mất Hà. Đã hơn 20 năm
Vâng, hơn 20 năm sau, chúng tôi gặp lại nhau trong một cảnh ngộ như thế này. Hà kéo tôi tách ra khỏi nhóm bạn trẻ đến ngồi dưới một gốc thông. Cô hỏi thăm tôi tíu tít trong khi tôi chỉ ậm ừ trả lời chiếu lệ. Biết làm sao hơn? Tất cả đều đã trễ tràng. Giá như cuộc tái ngộ diễn ra ngay sau ngày đất nước thống nhất, chắc chắn chúng tôi đã có nhau trọn vẹn. Làm sao Hà biết được tháng ngày ấy tôi đã sống quắt quay, nhớ nhung như một gã khùng. Ở đâu, lúc nào tôi cũng cố dò la tin tức của Hà. Vết thương sau ngần ấy năm đã thành vết sẹo kỷ niệm ngọt ngào. Bây giờ tôi đã có cuộc sống riêng, gia đình riêng và chắc chắn Hà cũng thế. Tôi cũng muốn hỏi thăm thật nhiều về cuộc sống của Hà nhưng cái "mác" Việt kiều đã ngăn tôi lại
Hà nhặt một trái thông khô, xoay xoay:
- Gặp lại nhau mà buồn quá, anh Nguyễn ha?
Tôi cười gượng:
- Tại có lẽ chúng mình đã qua cái tuổi để vui rồi.
- Nhỏ Khánh nói anh đang trang trí cuốn lưu bút cho nó hả? Dễ thương quá ha. Mùa hè cuối cùng đời nữ sinh của em không có lấy một trang lưu bút. Không có một dòng chữ của anh để làm kỷ niệm nữa. Em bất hạnh ghê anh Nguyễn ạ Hà mở ví đưa cho tôi một tấm danh thiếp – Địa chỉ của em. Lâu lâu ráng viết cho em một bức thư nghe anh
- Để làm gì? Có cần thiết phải như thế không, Hà?
Hôm sau, Khánh đến tiệm vẽ của tôi:
- Chú Nguyễn, dì Hà bảo Khánh đưa cuốn lưu bút về để dì ấy xem chú vẽ có đẹp không đấy!
- Xong rồi, nhưng chưa có "thơ tên".
- Thì ghi đại vào đi chú!
Tôi suy nghĩ một lúc rồi cầm bút ghi bốn câu thơ:
Ngô nghê một thuở học trò
Thị phi đành để con đò buông trôi
Mỹ châu đón bước em rồi
Khánh niên, nguyệt tận rối bời lòng ai
Khánh đọc tới, đọc lui bài thơ rồi nói:
- Thơ thì hay, nhưng thú thật Khánh chẳng hiểu gì cả chú ơi!
- Thì chính tôi cũng còn chưa hiểu nữa là. Thơ "lưu bút" mà! Quan trọng ở chỗ nó có bốn chữ "Ngô Thị Mỹ Khánh" là được rồi, phải không cô bé?
Khánh cười thẹn thùng. Trời ơi, nụ cười của Khánh sao mà giống Hà chi lạ!
Diễn kịch đêm xuân
Trên quốc lộ 1A, nằm cách Sài Gòn 70 km về hướng Đông Bắc là Đèo Mẹ Bồng Con. Trước kia, ở đây có một con đường uốn lượn từ thời Pháp thuộc. Sau này mở đường mới, cái tên đầy hình tượng được giữ lại dù giờ đây "đèo" chỉ còn là hai con dốc đủ để người đi xe đạp phải xuống xe dắt bộ Trên đỉnh dốc là làng tôi, có cả ngôi trường trung học tôi đang theo học. Tuy các cô nữ sinh trường tôi chưa từng làm mẹ (nên cũng chẳng có con để bồng) nhưng ngôi trường vẫn cứ mang tên "Trường Mẹ Bồng Con" như thường!
Tôi học khá giỏi môn Văn, lại có khả năng "xào, nấu" kiêm cả "đạo văn". Nhân dịp mừng xuân mới, trường tôi có tổ chức một đêm văn nghệ và tôi được giao trọng trách phải viết một vở kịch có nội dung nói lên truyền thống của trường, viết trong thời gian kỷ lục: một tuần. Tôi lo lắm, nhưng cũng hãnh diện vì được quý thầy cô "tín nhiệm". Nhận lời mà trong bụng "đánh lô tô". Buổi tối, tôi ngồi đực mặt trước chồng bản thảo còn nguyên giấy trắng, xoa đi xoa lại chiếc cằm chưa mọc râu mà phát rầu. Đột nhiên tôi vỗ đùi đánh đét:
- Hu-ra! Xin cám ơn, cám ơn Đèo Mẹ Bồng Con. Cám ơn nhạc sĩ Lê Thương. Cám ơn cụ Đặng Trần Côn với bản dịch của bà cố Đoàn Thị Điểm Tôi sẽ mượn tác phẩm của quý chư vị để "xào nấu" lại thành kịch bản "Truyền thuyết Hòn Vọng Phu" của tôi!
Đúng hẹn, tôi đem trình "tác phẩm" lên Ban Giám hiệu. Được "duyệt" vơi lời khen ngợi nồng nhiệt và được phép trọn quyền đạo diễn, tôi sướng đến ngất trời, hai cánh mũi cứ xòe ra như hai cánh buồm! Để xem nào, vai nữ sẽ giao cho À phải rồi, giao cho con Kim Thơ. Con nhỏ này có giọng ca hay đến độ nổi gai ốc! Điều quan trong là nhỏ Kim Thơ đang giữ danh hiệu "hoa khôi" của trường (dù chẳng bầu bán, thi tuyển) và hình như nhỏ ấy đang "để ý" tôi. Vai nam thì "còn ai trồng khoai đất này" nữa, dứt khoát phải là tôi! Vai phụ thì kiếm ai mà chẳng được, đứa nào mà chẳng muốn "chường mặt" trên sân khấu -dù chỉ một phút!
Hôm phân vai và dượt thử, thầy Trung phụ trách Văn Thể Mỹ có xuống tham gia chỉ đạo. Thằng Thanh có giọng ngâm rất ấm và du dương được tôi giao cho phần "ngâm thuyết minh". Nó hắng giọng rồi ngâm sang sảng:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng…
Trong khi thằng Thanh đang gân cổ giọng trầm, giọng bổng thì tôi dìu con Kim Thơ lượn qua, lượn lại trên sân khấu. Dứt phần "thơ" là đến phần "thoại", tôi nắm tay con Kim Thơ thì thào:
Em! Em về đi
Chiều rồi gió lạnh nẻo đường còn xa
Anh đi, em ở lại nhà
Vườn dâu em hái, mẹ già em trông…
Thầy Trung lắc đầu:
- Hỏng! Hỏng! Nói hùng hồn lên!
Tôi hoảng, liền "đổi tông", quát:
- Em! Em về đi!
Con Kim Thơ hoảng hồn, rụt tay về, khóc thút thít. Thế là thầy Trung tóm cổ thằng Thanh lên, "bắt" nó phải đóng vai người chinh phu – "chồng" của con Kim Thơ. Của đáng tội, thằng này bỗng dưng vớ vai "kép chánh" nên diễn rất "bốc" y như thật. Tôi tiu nghỉu, đành ngậm ngùi với vai "an ủi": ông lão thuyền chài. Đã thế, lại phải hát những đoạn rất hóc xương trong 2 bản nhạc Hòn Vọng phu 2 và 3 (Bài Hòn Vọng phu 1 rất quen thuộc và rất hào hùng đã bị thằng Thanh "phỗng" mất, nó vừa hát vừa múa kiếm thấy mà phát thèm! ).
Sân khấu dựng ở sân trường. Đêm trình diễn, tôi dùng vỏ bao xi măng thiết kế một quả núi nhỏ cao vừa đủ che khuất chiếc thang chữ A đặt ở phía sau. Con Kim Thơ áo tứ thân, khăn mỏ quạ, ẵm thằng cu Bi (con của chị Hóa – mượn đỡ, bồng lên sân khấu). Thằng Thanh khăn đóng, áo gấm xanh in chữ thọ, lưng đeo kiếm, chân mang hia uy phong lẫm liệt. Chỉ tội cho tôi phải đeo hàm râu giả hoe vàng bắp ngô, trán vẽ đầy vết nhăn, quần rách ống cao ống thấp, đứng lấp ló sau cánh gà để chỉ đạo.
Đến đoạn chia tay, tôi "chỉ đạo" con Kim Thơ:
- Nhéo thằng cu Bi đi! Nhéo thật đau vào!
Cu Bi khóc thét lên, giãy đành đạch. Kim Thơ vừa nựng "con" vừa nhéo! Khán giả xuýt xoa khen thằng nhóc "khôn quá trời, biết theo bố". Thằng Thanh đi khuất, con Kim Thơ bồng con hát vói theo:
- Ngựa đi ngoài xa hí vang trời. Chiêng trống khua trăm hồi…
Rồi nó vòng ra phía sau núi, ở đây đã bố trí sẵn một con búp bê hóa trang y hệt thằng cu Bi. Kim Thơ tráo con rồi ung dung bước lên đỉnh núi đứng chờ chồng. Bóng con Kim Thơ trên đỉnh núi, vòi vọi giữa trời đêm.
Đến lượt tôi ra vái "Bà", rồi ngoác mồm hát hết bài Hòn Vọng Phu 2 và phần đầu bài 3 thì "người chinh phu – thằng Thanh" trở về. Giờ thì nó đã hóa trang thành một lão tướng quắc thước, râu tóc bạc phơ. Sau màn "chào hỏi xã giao", tôi chỉ lên bóng "Bà" đang đứng trơ giữa trời – cái "địa chỉ" mà tướng quân cần tìm rồi biến! Thằng Thanh đến ôm chân núi, khóc như ri. Nó vừa khóc vừa ngâm thơ, nghe rất đã:
Áo em tuyết đọng lung linh
Áo anh cát bụi hành binh dãi dầu
Gió sương đã bạc mái đầu
Bao giờ quên hết nỗi sầu chinh nhân
Thằng Thanh ngâm hết câu rồi gục xuống, lá cây đổ ào ào xuống "Bà" và "tướng quân". Năm thằng ngồi trên sân thượng nhà trường, ôm năm chiếc bao tải đựng đầy lá. Chúng nó chỉ chờ đến phút này là xổ bao, trút lá xuống ào ào để kéo màn. Ai dè hồi chiều hốt lá, chẳng biết thằng nào vô ý hốt luôn vào trong bao một cục đá! Thằng Thanh đang nằm êm ru bỗng giật nẩy mình rú lên thảm thiết.
Tôi "hê" vội:
- Kéo màn!
Đầu thằng Thanh u lên một cục như quả trứng. May mà cục đá không trúng nhằm con Kim Thơ, không thì "người đẹp" đã trở thành "người dẹp"!
Vở kịch "thập cẩm" Truyền thuyết Mẹ Bồng Con được bà con trong làng Mẹ Bồng Con khen ngợi nhiệt liệt và tán thưởng quá xá. Trường Mẹ Bồng Con xuất quỹ chiêu đãi "quân ta toàn thắng" (thật ra có hai người bị thương: thằng Thanh u đầu và cu Bi bầm bắp vế. Tội ghê vậy đó!).
Đêm liên hoan mừng công, thằng Thanh vì "long thể bất an" nên không tham dự, báo hại tôi phải "hầu hạ" nhỏ Kim Thơ đủ chuyện. Nhỏ này coi bộ mau quên "chồng" nên đối xử với tôi rất ư đặc biệt. Tôi thích lắm, nhưng nghĩ đến những cái "nhéo" đầy ấn tượng của con nhỏ "dễ ghét quá trời" này lại toát mồ hôi hột! Có lẽ, tôi phải học "gồng"!
Hoa hồng để làm gì?
Đời đôi khi có những ngẫu nhiên tình cờ đem lại sự may mắn hoặc xui xẻo. Cách đây nửa năm, tôi vào một nhà sách để mua tài liệu học thêm. Buổi trưa, khách vắng. Quầy sách ngoại ngữ chỉ có tôi và một ông khách đứng tuổi lúi húi chọn sách. Lát sau, ông khách hết móc túi quần lại móc túi áo ở bàn tính tiền. Trên nền nhà, gần chỗ tôi đứng thì lại có một chiếc bóp dày cộm. Tôi nhặt lên, đem đến:
- Thưa ông, của ông đánh rơi.
Chỉ có vậy thôi mà tôi được một chỗ làm ngon lành ở một nhà hàng tuy không nổi tiếng nhưng lịch sự và đông khách mà ông ấy là chủ: "Tôi thích mẫu người trung thực như cậu. Chúng ta làm việc với nhau nhé!". Biết tôi là sinh viên ở tỉnh lên thành phố trọ học, có biết chút tiếng Anh và tiếng Hoa thông dụng, ông ấy lại càng quý. Từ đó, thời gian biểu của tôi xoay quanh trục tam giác: nhà trọ nhà trường nhà hàng.
Bà chủ nhà trọ cũng là một người tốt bụng, chỉ có điều bà có cô con gái hơi "xí xọn". Cứ 4 giờ chiều, từ trường về tôi chỉ kịp tắm rửa rồi "lên đồ" (vẫn là áo chemise trắng, quần đen) để đến nhà hàng – chỉ cần khoác thêm một chiếc áo gi-lê bên ngoài, nơ đen nơi cổ và bảng tên trước ngực là ai cũng có thể "ngoắc" tôi, bảo chạy vòng quanh nhà hàng!
*
Ngày đầu tiên đi làm, thấy tôi hăm hở bước ra cổng, cô con gái bà chủ nhà chặn tôi lại:
- Anh đi đâu mà bảnh tỏn vậy?
Tôi ú ớ. Chả nhẽ "thành thật khai báo" với "nó" rằng tôi đi làm tiếp viên nhà hàng à? Vậy là đành nói dối:
- Tôi mới ghi danh học thêm Anh ngữ ở Trung tâm X.
Tưởng nói cho qua thế thôi, ai ngờ sáng hôm sau bà chủ nhà đã nhanh nhảu:
- Dì nghe con Vân bảo là dạo này cháu còn đi học thêm buổi tối nữa. Có chí lập thân như vậy là tốt, nhưng dì thấy học đến 11, 12 giờ khuya mới về thì e không ổn. Nhồi nhét chữ nghĩa cho lắm vào, có khi lại đâm ra "man" đấy cháu ạ.
Tôi bật cười, trấn an bà chủ nhà:
- Không sao đâu dì, cháu sẽ cố gắng về sớm.
Nói thế mà vừa thấy tức cười vừa ngường ngượng. Học thêm, học thiếc gì đâu. Đi làm "bồi" thì có!
*
Cái sự "đi học thêm" của tôi chắc chắn sẽ còn tiếp diễn dài dài nếu như Vân cô con gái bà chủ nhà trọ không xuất hiện ở ngay chỗ tôi đang "học thêm".
Một nhóm bạn trẻ đặt tiệc sinh nhật tại đây. Tôi xởi lởi ra chào mời, bỗng hết hồn khi nhận ra "con nhỏ xí xọn" cũng có mặt trong đám nam nữ lao nhao ấy và nó cũng đang nhìn tôi trừng trừng.
Tôi bèn "lảng" và "lạng" đến một đồng nghiệp cầu cứu:
- Ông tiếp giùm mình bàn này. Đụng nhằm con kỳ đà bự chảng. Kẹt cứng!
Thằng bạn tiếp viên nháy mắt:
- O.K!
Chưa bao giờ tôi thấy nhỏ Vân diện đến thế. Ở nhà nó chơi rặt một mốt "đồ bộ". Vậy mà đêm nay nó "tròng" vào người chiếc jupe màu cam ngắn quá gối. Trông nó lạ hẳn. Hèn gì tôi bị "chớp chớp, lòa lòa" ngay từ phút đầu. Nhan sắc này, khối thằng chết mệt đây!
Lại một nhóm thanh niên kéo vào chiếm lĩnh chiếc bàn bên cạnh. Tôi phải ra tiếp. Nhóm này đã ngà ngà hơi men, vậy mà vẫn gọi cả thùng bia ra ăn uống ồn ào và liên tục "xoay" tôi như chong chóng. Tuy phải chạy ra, chạy vào nhưng theo quán tính thỉnh thoảng tôi vẫn liếc mắt về cái vị trí mà lẽ ra tôi không nên quan tâm. Đối tượng cũng thỉnh thoảng liếc mắt về phía tôi và tủm tỉm cười. Những nụ cười "đờ-mi" này làm tôi thấy nhột nhạt, nó như ngụ ý: "Bây giờ thì rõ rồi. Trung tâm Anh ngữ là cái nhà hàng này đây. Đồ xạo! ".
*
- Tụi bây có thấy con nhỏ mặc juýp màu cam cứ liếc sang bàn tụi mình cười cười không?
- Vậy hả? Ừa, mà đúng như vậy thật! Nó "kết" một thằng nào đó trong bọn mình rồi.
Bên bàn của Vân sôi động hẳn lên khi những cô gái bán hoa xuất hiện, họ mua hoa tặng nhau tới tấp (tiệc sinh nhật mà!). Điều buồn cười là chỉ rặt hoa hồng (có ai bán loại hoa nào khác nữa đâu?). Một thanh niên ở bàn tôi đang phục vụ cũng gọi mua một bó hoa. Gã đưa cho tôi, nháy mắt:
- Mang sang bàn bên kia tặng cô mặc juýp màu da cam giùm.
Rõ là oái oăm!
Vân tròn mắt, hết nhìn bó hoa lại nhìn tôi. Cả bàn tiệc cũng đột nhiên im ắng, dồn mắt về phía tôi. Vân nhận đóa hồng, tủm tỉm cười:
- Anh tặng Vân hả? Cám ơn nhiều nhiều nghen!
Tôi gãi đầu:
- Không phải, của ông khách bàn bên kia gởi tặng Vân đó!
Vân liếc qua bàn bên rồi nguýt một cái muốn chao đảo cả cái nhà hàng:
- Ứ thèm!
Cả bàn cười rần. Một thanh niên nói lớn:
- Món quà này đi lộn địa chỉ rồi. Trả lại đi!
- Xoảng! – một chiếc ly từ bàn bên bay sang và tiếp theo là đĩa, ghế và cả người. Hai nhóm thanh niên xáp vào nhau làm náo động cả nhà hàng. Rõ khổ! Hoa hồng chỉ tổ đem đến chiến tranh! Tôi ra sức can ngăn nhưng vô hiệu. Chỉ đến khi ông chủ ra phân giải, đôi bên mới tạm ngưng cuộc chiến. Nhóm kia rút lui sau khi để lại một câu nói đầy tính khủng bố:
- Có ngon thì ngồi đó chờ tụi tao mười phút.
Có vẻ chẳng có ai "ngon" cả. Nhóm còn lại chẳng còn rộn ràng đấu hót mà chụm lại, lấm lét, thầm thì Tình hình càng nghiêm trọng hơn khi những người giữ xe trước cổng hớt hải chạy vào báo là bọn kia trở lại với đầy đủ "đồ chơi". To chuyện thật rồi! Tôi phải hướng dẫn mấy "chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt" trong nhóm của Vân thoát thân theo lối cửa sau. Đám con gái cũng lục tục kéo nhau về.
Vân ngồi lì ở ghế:
- Em chờ anh xong việc rồi dẫn em về. Em sợ lắm!
Đúng là "ách giữa đàng". Khổ nỗi, tôi với cô ta lại ở chung nhà.
Nhờ vậy mà tôi được vào bệnh viện.
Một thằng trong nhóm phục ngoài cổng đã trông gà hóa cuốc khi thấy tôi (không mặc đồng phục) đi ra với "con nhỏ mặc juýp màu da cam". Hắn "lụi" một dao từ phía sau làm tôi ngã quỵ trong tiếng rú thảng thốt của Vân Chút xíu nữa là tôi được đưa đến Bình Hưng Hòa[20] làm bạn cùng giun dế nếu không được cấp cứu kịp thời. Đoạn cuối của sự cố "tặng phẩm hoa hồng" trong đêm sinh nhật của "đứa nào đó" là đâm nhầm. Tôi vào bệnh viện còn hung thủ thì chẳng biết là thằng nào! – Đúng là vô duyên!
Nằm cạnh tôi ở bệnh viện là một tay nhà báo ưa khôi hài. Ngay lần đầu gặp, ông ấy đã trêu tôi:
- Được đấy! Cả khoa ngoại này thằng nào cũng xấu như ma lem. Mày "đẹp giai" nhất, phong mày làm hoa hậu.
Gia đình tôi ở tận ngoài Trung, việc thăm nuôi cơm nước đều trông nhờ vào lòng tốt của bà chủ nhà trọ. Bà "biệt phái" cô con gái ngày hai buổi xách cà-men vào bệnh viện để tay nhà báo có dịp chọc ghẹo:
- Cả phòng này chỉ có mày là diễm phúc nhất. Có được một người yêu cúc cung phục vụ như vậy đến thánh cũng phải hoàn tục thôi, nhóc ạ!
Mặc cho Vân đỏ mặt, mặc cho tôi thanh minh thanh nga tay nhà báo cứ bô bô mỗi lần Vân xuất hiện:
- Kìa em! Nãy giờ nó cứ ra vô trông ngóng. Nó không đói đâu, chỉ cần nhìn thấy mặt em là nó no ngang rồi!
"Con nhỏ xí xọn" nguýt tay nhà báo một cái sắc lẻm:
- Ứ thèm!
Có lẽ nó nói thật. Cái ngữ sinh viên "nhà quê" lên tỉnh như tôi chỉ làm xốn mắt đám con gái thành phố như nó. Tôi phải luôn năn nỉ nó đừng để tâm đến những lời chọc ghẹo của tay nhà báo, sợ nó "ứ thèm" xách cà-men vô bệnh viện nữa thì tôi chỉ có nước nằm đớp không khí!
Có một điều lạ lùng: từ ngày tôi vào bệnh viện, sáng nào cũng có một cô gái lạ mặt đem vào tặng tôi một bó hoa hồng bọc trong giấy kiếng. Gạn hỏi, cô ấy chỉ lắc đầu cười:
- Em không biết gì cả, hoa người ta đặt, bảo đem vào tặng giường số 28.
Gã nhà báo nháy mắt, hóm hỉnh:
- Còn ai trồng khoai đất này nữa. Của "nó" chớ còn của ai. "Điệu" chưa từng thấy!
Vân lắc đầu quầy quậy:
- Ba cái vụ hoa hoét này em không biết à nha! Anh có bạn gái không vậy?
- Có chớ – Tôi đếm ngón tay điểm lại những cô bạn học từ trước đến nay bất kể thân sơ. Cũng được khoảng hai chục đứa. Đứa nào gởi tặng hoa cho tôi đây?
Nhỏ Vân tinh ý lắm. Những cái tên bạn gái của tôi, dù được tôi đếm lẩm nhẩm như thầy pháp bắt quyết vậy mà nó thuộc làu. Hôm qua, nó chỉ bó hồng:
- Đúng là hoa của chị Hoài rồi.
Hôm nay:
- Hoa của chị Khánh.
Ngày mai:
- Chắc hoa của chị Thủy.
Rồi ngày mốt, ngày kia Đến độ tôi phát cáu:
- Của ai kệ họ. Em đem về phòng học mà chưng.
Nói xong tôi mới biết mình ngu. Vân xỉa xói liền:
- Mắc mớ gì phải đem về. Hoa người ta tặng anh chớ bộ!
Mỗi ngày một bó. Một tháng 30 bó chất đầy lên mặt chiếc tủ con ở đầu giường nằm: bó khô, bó héo, bó tươi. Tôi ngán ngẩm nhìn "đống" hoa, chẳng biết xử lý ra sao?
- Đem phơi khô rồi sao vàng, hạ thổ. Ba chén sắc lại còn một. Trong uống, ngoài thoa chẳng những chóng bình phục mà còn vượng số đào hoa nữa đấy!
Đào hoa đâu chẳng thấy, chỉ thấy "khổ vì hoa", tôi bị đâm nhầm cũng chỉ vì một bó hoa đấy thôi!
Một buổi sáng, chẳng thấy "hoa tặng", tôi cảm thấy hơi thiêu thiếu. Ngày hôm ấy Vân cũng mất hút tăm dạng, tôi bồn chồn lo lắng. Phải nhai những ổ bánh mì ỉu xìu dai nhách mới thấy "cơm nóng, canh sốt" và sự có mặt của "con nhỏ xí xọn" là hết sức cần thiết đối với tôi. Tôi trông ngóng Vân như trẻ con mong mẹ đi chợ về.
- Mày ngu bỏ mẹ. Tao rình suốt tháng chẳng nghe mày nói với nó được nửa câu âu yếm, yêu thương. Nhạt phèo như mày, nó bỏ quách là hối không kịp đấy!
Quả thật, ngẫm lại thấy tay nhà báo nói đúng quá. Tôi đâm lo và thầm ước giá như giờ này Vân vào thăm tôi, tôi sẽ "liều mạng" làm một cử chỉ gì đó như nắm tay, vuốt tóc để nói với "con nhỏ xí xọn" rằng: "Ôi, em cần thiết cho anh biết chừng nào…".
Ngày hôm sau "cơm nóng, canh sốt" lại vào với tôi, nhưng do mẹ của Vân mang đến. Bà chép miệng:
- Con Vân sốt li bì từ hôm qua đến giờ. Một đứa nằm nhà, một đứa bệnh viện, xoay đến chóng cả mặt. Con Vân cứ giục dì đem cơm vào cho bây. Lại còn dặn tao nhớ ghé vào hàng hoa mua một bó nữa. Lu bu, tao quên mất tiêu! Thiệt người dưng nước lã mà nó bắt tao lo như lo cho rể không bằng!
- Chưa nhưng mà sắp là rể của dì rồi đó!
Bà chủ nhà trọ nhìn tôi lom lom:
- Bây đã nói gì với nó chưa?
Tôi đỏ bừng mặt, ngượng nghịu:
- Dạ chưa.
Đẩy chiếc cà-men một cái rẹt, "nhạc mẫu" của tôi ngúng nguẩy bỏ đi sau khi xổ toẹt một câu:
- Mày ngu bỏ mẹ!
Y chang câu nói của tay nhà báo!
Tôi nhìn nhận là mình ngu thật, nhưng hy vọng sau khi "Phơi khô, sao vàng, hạ thổ. Ba chén sắc còn một. Trong uống, ngoài thoa " mớ bông hồng quắt queo kia, tôi sẽ làm hài lòng người tặng hoa và cả bà "nhạc mẫu" khả kính của tôi nữa. Giờ thì, tôi chỉ muốn biến khỏi cái bệnh viện này, để bay về ngồi quạt cho "con nhỏ xí xọn" của tôi và nói với "nó" rằng:
- Ôi, em cần thiết cho anh biết chừng nào!
H.Đ.N
– Hết –
[1] Xem nhờ
[2] Cằn nhằn
[3] Khao
[4] Đồng nát
[5] Còn gọi là cây tếch
[6] Tiếng lóng, chỉ đồ tiếp tế của gia đình
[7] Một ca khúc của Trần Tiến
[8] Nhân vật quan trọng
[9] Thưởng
[10] Một ca khúc Trịnh Công Sơn
[11] Một ca khúc của Trần Tiến
[12] Ca khúc của Trịnh Công Sơn
[13] Bị tạm giữ
[14] Thơ Bác Hồ
[15] Giận, nghỉ chơi
[16] Lời một ca khúc của Dương Thiệu Tước
[17] Ca khúc "Con thuyền không bến" của Đặng Thế Phong
[18] Hắt hơi
[19] Tiếng lóng, tương tự như "Đồ hâm".
[20] Trung tâm Hỏa táng
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét