Ký sự đi Tây
Đỗ Khiêm
Tên sách: nt
Nguồn: Nxb Văn hoá Thông tin, 2003
Chế bản+Chính tả: capthoivu (TVE)
Ngày hoàn thành: 25/9/2006
Nơi hoàn thành: ASEC-Jak
Mục lục:
Ðến đời tôi, thì những chuyện này tầm thường hơn.
Đi là về
Cái sướng của người đọc du ký là mình chẳng phải đi đâu, cứ ngồi một chỗ (hoặc trùm chăn, nếu là mùa đông) mà cũng biết được khối chuyện thiên hạ, từ chuyện lạ tới chuyện quen cứ như mình đang phất phơ ở những trời ấy biển ấy đất ấy, gặp những người ấy. Hồi xưa mấy nhà thám hiểm, mấy ông cố đạo đều từng viết du ký, trước để cho vua đọc, sau để thần dân cùng đọc, cùng sướng (hay cùng khổ). Bây giờ thì bạn đang có trên tay một tập du ký, tập KÝ SỰ ĐI
Có thể gọi cuốn du ký này là "
"Dẫu ta thuộc hết đường hết lối
Chẳng bao giờ tới được
(Hai câu này, tôi (Th.Th.), lấy theo bản dịch của Hoàng Hưng), thì người đọc có thể ngả người, khà một tiếng: "
Quảng Ngãi, giữa Ðông 93
Thanh Thảo
Chiếc khăn vuông lụa
Chỉ mới đến trước cửa phi trường, tôi đã đánh mũi ngay cái mùi quen thuộc: mùi Pháp Quốc. Nó không phải cái mùi lò bánh mỳ Poitou, Le French Bakery, mùi Café Croissant Doré, La Pagode, cái mùi Tây của Phở 99 mà mãi một hôm cô bạn đầm từ Pháp sang nhắc nhở tôi mới biết. Ðang ngồi ăn bánh xèo trên lầu trong khi giọng hát Khánh Ly nheo nhẻo nheo nhẻo, ngay lúc nhắc nhở gì về
Ngày hôm đó làm tôi hơi quê với cô đầm cà chớn sang chơi
"Cổ chuỗi ngọc trai, vai khăn Hermès" là thành ngữ thông dụng chỉ một týp đàn bà đầm, thông dụng đến nỗi người ta viết tắt và nói tắt được, CPCH (Collier de perles, Carré Hermès) tương tự như là NATO, UNHCR và ICBM. Cái chuyện Carré Hermès thì rất là khúc mắc, tôi không rõ nó có tự bao giờ, chỉ biết là mươi mười lăm năm nay nó càng ngày càng thịnh hành ở những nơi gọi là lịch sự. Bao nhiêu tuổi đeo Carré Hermès cũng có thể được, nhưng thường thường là lứa hai mươi – bốn mươi. Nó biểu tượng cho sự chững chạc thì phải, tuy là trùm nó hẳn lên đầu chạy vội để tránh mưa ngoài bờ biển ở Deauville vào tháng tư khi trạm nghỉ mát này vừa hồi sinh, nhất là nếu để băng đoạn đường giữa viện thalassothérapie và khách sạn Normandie thì coi cũng dễ thương (nhớ đeo kính mát Miki xanh cây nhạt gọng cổ có chút strass và đi giày Carel đế thấp không mang vớ). Nói tóm lại, không có vật tùy thân nào tượng trưng cho cái tinh thần
Ở bên Mỹ, chẳng khi nào thấy đàn bà khoác khăn Hermès. Ở Bolsa, lại càng hiếm. Cái khăn Hermès rất dễ nhận, nó có đủ kiểu nhưng ưa viền ngoằn ngoèo linh tinh những hình cột đền Hy Lạp, lá nho. Có khăn vẽ cảnh du thuyền, cảnh đi săn bằng ngựa, cảnh chơi golf nhưng không có khăn nào tả cảnh đá banh cà na hay là trượt sóng. Màu thì nó cũng đủ cả, xanh, tím, đỏ, nhưng hơi chìm và nhã nhặn nên cũng khó nói. Chữ Hermès lại đề trên khăn rất kín đáo, trải ra mà tìm mới thấy nên nhận diện loại khăn này phải có kinh nghiệm. Dễ nhìn ra nhất là cái sắc nước của nó.
Khăn Hermès làm bằng lụa nhưng là một thứ lụa đặc biệt riêng của nhà Hermès. Có lụa Hà Ðông, có lụa Thái Lan, và có lụa Hermès. Nó hơi bóng, lại cứng hơn các loại lụa khác, thành ra khăn nào mà èo uột trên vai thì ắt không phải Hermès. Loại tơ này, hình như mỗi sáng ông Hermès, bà Hermès và các con, cô cậu Hermès phải dậy sớm ra vườn nhà cắt lá dâu cho tằm nó ăn hay sao thành ra chỉ có nhà Hermès có. Khăn vuông lụa thì thiếu gì nhãn; khăn Céline cũng là sang trọng vậy, khăn Dior tận Phi Châu người ta còn biết, cũng là lụa hết, nhưng không phải là lụa Hermès. (Ông Dior, bà Céline có thuộc loại ngủ trễ, tôi không rõ). Dậy sớm như vậy, cho nên nó đắt. Trong Duty Free Shop của phi trường LAX (phải nhá Boarding Pass mới vào được một vòng xem xét) thì một cái khăn Hermès $160, những 90 cm x 90 cm, như thế một phân vuông twill de soie vẫn còn rẻ chán, chỉ có hai cents. Nhưng mà vẫn đắt hơn những khăn hiệu khác, $100, $135. Người ta siêng năng, làm giàu là thế (early to rise…)
Tôi có một bà bác, ở bên Pháp năm nay là mười năm. (Ðây là ký sự, nghĩa là toàn những chuyện có thật, có sao tôi nói vậy không phải là tiểu thuyết hư cấu từ đầu óc tôi lệch lạc và thừa phong phú). Bà cụ ưa tiết kiệm, hướng về quê hương, đi chợ được cái túi plastic hay giữ lại, vừa phủi nó cho phẳng phiu vừa than thở "Cái túi này, ở bên nhà bây giờ không có được". Sống ở bên Tây, lại theo tiêu chuẩn ở bên nhà, thì tôi cũng lạ, (nhưng chắc không lạ được bằng sống ở bên nhà, lại theo tiêu chuẩn ở bên Tây). Cái gì recycle (tái dụng) được, bà bác tôi recycle hết; bao giấy, bao nylon, thùng carton, chỉ trừ có lon nhôm nước ngọt là cụ không có giữ, dùng để bày hoa trên bàn thờ cụ thấy thiếu thẩm mỹ. Áo len đan xong không vừa ý, cụ gỡ ra lấy len đan lại kiểu hợp thời trang hơn; vải vụn cụ cất một bên, nếu không đủ để may gối thì cụ làm giẻ nồi hay nhét vào dưới khe cửa mùa đông gọi là cho đỡ gió. Chuyện bà bác tôi ăn nhập gì đến đầm BCBG, rồi bạn sẽ thấy.
Nếu cụ ra chợ Tàu phố Mười Ba ở Paris nhân ngày cửa hàng Tang Frères hạ giá mấy thùng mỳ gói mà đầu lại quấn khăn Hermès thì cũng chẳng có gì để nói. Ðằng này, một hôm sang nhà cụ, vào trong phòng ngủ, tôi thấy một cái bao giống như là bao gối đầu. Nói thế thì phạm thượng, thật ra nó là một cái bao cụ may lấy, dùng để đêm đút hai chân vào cho khỏi lạnh. Ý kiến phát minh rất dân tộc này từ đâu ra tôi không rõ, có lẽ tại cụ không quen mang vớ, nhưng tôi thấy rất là ngộ nghĩnh, đại để như những chuyện hỏa tiễn Sam 2 bắn không đến máy bay B52, ta gỡ bộ phận bằng sắt ra thế vào bộ phận bằng tre cho nó nhẹ, nó bay cao hơn chẳng hạn. Phía ngoài của cái bao làm bằng vải nhung màn cửa, tuy có tróc nhưng chưa bạc lắm, vẫn giữ được màu xanh cây trang nhã. Tôi xin nói rõ là phía ngoài, vì người ta ai cũng thế, bao giờ cũng ráng giữ bên ngoài cho trang trọng và đẹp đẽ, đó là căn bản về thể diện. Bên trong thì khác, vớ được miếng vải xấu xí nào lót nó mà chẳng được, có ai để ý. Tôi cũng chẳng để ý và chắc cũng chẳng ai để ý đến miếng vải hoa hoét vàng bà bác dùng lót ở bên trong cái bao tối ngủ để thọc chân. Vất ở trên giường, nó cũng chỉ thập thò được một tí. Nhưng vợ tôi là người tinh mắt (nếu không tinh thì đã chẳng chịu lấy tôi, dĩ nhiên rồi) khều tôi nói khẽ: "Ê, khăn vuông Hermès".
Tôi không tin, nhìn kỹ lại. Làm sao có chuyện đó. Bà bác tôi, những ngày tế lễ, mặc đồ đẹp để chụp hình mới vào tủ gỡ cái khăn quấn đầu thứ năm, bảy đồng gì đó còn giữ nguyên trong giấy bóng kính, mang ra đội vài tiếng rồi lại xếp vào tủ trở lại trong bao origin của nó đợi dịp sau. Với polyester cụ còn kính trọng như vậy, có lẽ nào cụ lại đối xử tệ với hàng lụa thế kia. Tôi nhất định không tin, "no way", chắc là khăn gì đó. "Khăn Hermès, cái sắc lụa Hermès, anh nhìn mà anh không biết", vợ tôi quả quyết. Tôi lại gần, lộn cái bao ra, thì khăn Hermès. Bà bác tôi bị bắt quả tang, hơi xấu hổ, thấy cần phải phân bua: "Nó xấu xí nhưng còn lành lặn, cũng còn dùng được nên mới nhặt mang về làm vải lót ấy mà, bên trong mà sao cháu cũng thấy". Tôi quan sát kỹ, cái khăn lành lặn thật, cũng chưa bị cụ cắt xén khúc nào "còn dùng được chứ, sao bác lại lót bao gối làm gì, tốt chán, bác cho cháu mang về, may quần xà lỏn" tôi năn nỉ cụ. Tôi gỡ chỉ ra, mang về may quần xà lỏn, cho đến nay vẫn chưa ai biết nhưng ở đời nhiều chuyện không ngờ tới được, lỡ hôm nào xui xẻo đụng xe, người ta chở vào nhà thương cũng còn mát mặt với mấy cô y tá. Như bên Pháp các bà mẹ vẫn ưa dặn con, ra đường nhớ thay đồ lót, đề phòng trường hợp bị tai nạn.
Tại vì, nhân tiện tôi nhắc đến, thời trang đồ lót đàn ông từ vài năm nay là đổi kiểu trở về quần xà lỏn nhưng lịch sự làm từ khăn vuông Hermès thì nhờ bà bác tị nạn bên Tây, chỉ mình tôi có.
Câu chuyện này Tây chứ, tuy có phải là "đi Tây" hay "về Tây" thì tôi không rõ. Tôi là người Cali hay người Paris, người Bolsa hay người Porte d'lvry tôi chẳng biết. Ðiều này cần suy nghĩ kỹ, có lẽ đến cuối loạt bài này tôi mới có thể tự trả lời. Tôi là người ở Mỹ từ một năm nay hay là tôi là người về Pháp sau 12 tháng? Lúc đi, lúc về, thật ra ở đâu cũng thế. Thôi thì để phù hợp với đề tài, cho là tôi đi Tây đi. Nhưng chuyện đi Tây đến đây chỉ mới lẩn quẩn ở phi trường LAX và chung quanh cái khăn vuông Hermès thì cũng chán. Khăn vuông năm nay, mẫu được thời trang ưa chuộng nhất là "Pierres d'Orient et d'Occident". Muốn sành điệu cho trót xin đừng dùng những mẫu đã cũ, trừ trường hợp để may thành quần lót. Nhưng một cái khăn vuông có đủ để làm cả một thành phố hay không? Ngày trước, Nguyễn Tuân chỉ có mỗi một cái vali đã làm mê mẩn, phải ra nhà ga thổn thức những chuyến tàu xuôi Nam. Tôi ra đến phi trường, bắt gặp một cái Carré Hermès gần quày Air France, cũng nôn nao như là đã đến được Tây.
Cô Papae Fiu
Phi trường Charles De Gaulle đóng cửa hai ngày vì sương mù, chuyến bay này trễ bốn tiếng, tôi biết. Anh chàng người miệt Bretagne này nói tiếng Pháp điềm nhiên tuy ở đây cách vùng bán đảo quê anh có mười ngàn cây hơn. Quày Air France như là một thứ sứ quán, bầu không khí đã bắt đầu rất Pháp. Tôi trao anh bịch hành lý đựng các thùng sách mới (cuốn tập truyện đầu tay của tôi vừa in xong, tựa tên "CÂY GẬY LÀM MƯA", Tân Thư xuất bản, gồm mười một truyện, giá mười hai đồng, nghĩa là một truyện hơn được một đồng chút xíu), anh trao tôi một cái phiếu ăn miễn phí mười lăm đồng để giết thời gian trong khi đợi máy bay. Cuộc trao đổi văn hóa này, tôi leo lên lầu tính toán, đủ để qua bên phía bar ăn sò sống uống Long Island Tea khỏi cần ngồi bên quày tự phục vụ lấy ăn mỳ Nhật Bản Udon và uống Diet Pepsi. Ừ, lịch sự.
Cái bảng "Departures" nhấp nháy, tôi nhìn những chuyến bay vào buổi tối. Ngoài AF006, SFO-CDG (San Francisco – Charles De Gaulle) 9:45 Cổng 105 còn có vài ba chuyến Trung Mỹ, Manila, Tokyo, London, Úc Ðại Lợi, Tân Tây Lan. Trước lối vào phía tay phải, ở đây mỹ miều gọi là South Concourse, bộ lạc Philippines tụ tập vài năm người ồn ào nam phụ lão ấu chờ đợi, hình kỷ niệm chụp trước restrooms (nhà vệ sinh) đàn ông đàn bà, chốc chốc lóe lên tia flash trắng xanh. Xích lại gần thêm, lui ra, ôm vai nhau, đổi chỗ, ngắm máy ngang, ngắm máy dọc. Con nít lăng xăng đuổi bắt cười nói, vài người lớn cũng chơi trò ú tim nấp sau mấy hàng ghế. Trước lối vào tay trái, North Concourse, vắng vẻ hơn, vài người Nhật thẫn thờ qua lại. Ở giữa là cầu thang máy dẫn lên lầu ăn uống, phía dưới là tiệm Duty Free vắng vẻ. Ngay lối lên xuống, một ông đen lực lưỡng ngồi trên một cái xe đẩy hành lý quay ngược lại, quần áo chỉnh tề bất động cầm giỏ xin tiền cho một họ đạo Ki-tô. Thỉnh thoảng, như để duỗi người, ông ta lại dang hai tay ra thật rộng, lẩm nhẩm mấy câu Kinh thánh. Vài đứa trẻ cầm tiền cha mẹ đưa cho đến bỏ vào giỏ, tò mò nấn ná lại một vài giây. Cách đây vài năm, để ngăn các vị quảng bá tôn giáo này làm phiền người qua lại, tôi nhớ lại ngay phi trường LAX, dưới chân, trên đầu các thang máy lên xuống có kẻ một vùng an toàn bằng gạch đỏ với bảng giải thích bằng hai thứ tiếng "Ban quản trị phi trường không có quyền cấm những người quảng đạo thi hành Ðiều Một Tu Bổ của Hiến Pháp nhưng họ không được phép quấy rầy hành khách ở bên trong v! ạch đỏ vì lý do an ninh". Tấm bảng này dạo đó cũng có hiệu lực trấn an được những người yếu bóng vía như tôi, phải chờ đợi ở phi trường tôi không bao giờ đứng xa đầu cầu thang máy, lỡ có gặp nhà truyền giáo nào nài nỉ chỉ việc bước qua vạch đỏ là an toàn tức khắc (dù cho sau khi chết có phải xuống địa ngục, cái đó thì hậu tính). Dạo này không thấy những tấm bảng kiểu đó được yết thị nữa, chẳng hiểu vì tệ nạn (?) này đã giảm hay là Ðiều Một Tu Bổ của Hiến Pháp (trong đó có tự do truyền bá) đã lớn mạnh với thời gian hơn cả những lý do nhỏ nhặt về an ninh như là ngã cầu thang?
Ðến lúc qua khỏi cổng kiểm soát vũ khí, vào đến phòng đợi của cổng 105 bốn mươi lăm phút trước giờ dự định thì nước Pháp lại gần thêm một bước. Mấy chục người ngồi rải rác chẳng có ai mang vẻ gì là Mỹ. Bây giờ vào tháng hai, ngoài dịp nghỉ, người Mỹ chắc ít ai sang Âu Châu chơi vào giữa mùa đông. Tiếng Pháp rì rào các góc, từng đám chào hỏi nhau, mấy anh tây chị đầm hôn má phải trái xã giao, vài người điềm nhiên ngồi hút thuốc dưới bảng cấm. Ngay cả với người nặng hai tai hay là điếc (nghĩa là không nghe được họ nói tiếng gì), quang cảnh trên cũng rất là "Pháp" ở hai điều vừa kể. Người Mỹ chỉ hôn nhau vào dịp gì đặc biệt, người Pháp thì thân sơ gì, mới gặp lần đầu giới thiệu cũng phải túi bụi "bise" nhau. Tôi nói thí dụ, học trung học, đến trường trước khi vào lớp, con trai con gái mươi, hai mươi người phải hôn đủ cả mười hay hai mươi. Có người hai cái, một bên trái, một bên phải, có người đến bốn, trở đi, trở lại. Nó là lễ phép khi đến, khi đi, làm tôi nhớ thằng bạn Việt Nam lúc cùng ở bên Thái. Mỗi lần sắp giao thiệp với người bản xứ, nó lại nháy mắt bảo tôi "Mày coi nè, nó sắp lạy tao, đó, thấy chưa". Người Thái gặp ai cũng vái, chẳng cần là ông bà ông vải thì người Pháp gặp ai cũng hôn má, chẳng cần là tình nhân. Hơi phiền một tí, thì đã sao. Ðiều thứ hai là dân Tây hình như vô kỷ luật hơn ở bên này, những chữ kẻ "No Smoking" ngông nghênh chẳng coi ra gì cả, tuy là gần đây, dĩ nhiên phong trào chống hun khói người khác cũng đã lan sang tận đó.
Chuyến bay chỉ có mình tôi là người Việt, có lẽ đồng bào ta mải lo ăn Tết, ai ở đâu ăn ở đó, ai lấy máy bay đi đâu làm gì vào trước đêm trừ tịch. Tôi lắng tai nghe loáng thoáng, mấy người ở sau lưng làm nghề tiệm cơm ở L.A. biết mặt nhau bàn những chuyện lặt vặt về business "… Mickey Rourke, diễn viên điện ảnh, mới mua lại cái bar bên cạnh quán của tôi…" Tôi lên tàu, bụng mừng thầm vì tưởng chuyến bay xuất phát ở Los, có bấy nhiêu mạng thôi, thế nào chả kiếm ra được ba bốn ghế trống để mà nằm ngủ. Nào ngờ, tàu đã đầy sẵn quá nửa. Chuyến bay này khởi hành từ Papetee, Tahiti, ở Thái Bình Dương thuộc Pháp. Tahiti thuộc về Nam Bán Cầu, ở phía dưới Hawai cách Cali tám giờ máy bay và hiện nay đang vào hè. Câu chuyện trên tàu xôn xao thời tiết (xấu) ở Paris, sương mù được dân quần đảo nhiệt đới nhắc đến như là một tai họa kinh hoàng. Trên máy bay đại đa số là người Pháp, ngay cả người chủng tộc khác coi cũng rất là "Tây". Cô chiêu đãi Tàu nói tiếng Pháp không mang giọng ngoại quốc, anh hành khách ngăm ngăm đen chắc người Phi Châu Djibouti, Afars và Issas. Co ro trên một ghế, cổ quấn kỹ khăn choàng len, ông Trung Phi hói đầu cũng chẳng có gì đen "Mỹ". Týp đen này cũng không thể lộn với Giáo sư phụ giảng của Howard University ở D.C. Áo blazer xanh, kiếng đồi mồi gọng lớn, người trí thức Châu Phi văn hóa Tây điển hình. Tôi tìm ra hàng ghế 40 A, B, C window; 40D, aisle. Ðầu bên kia aisle, một cô tóc vàng nhuộm lăn tăn, còn trẻ, pull lót đen ngực không đeo nịt vú, quần jean trắng háng rộng đang ôm một cuốn sách bỏ túi của! tủ sách "J'ai lu". Bốn ghế tôi và cô mỗi người hai ghế. Mấy tờ Libé, Le Monde thiên hạ đã vơ hết, tôi lục giá đựng báo phía sau lưng tìm ra USA Today và Newsweek. Lật ra nhìn, cả hai đều ấn bản phát hành ở Âu Châu. Trang chót của Section I tờ USA Today, cái bản đồ khí tượng Âu Châu bốn màu lòe loẹt. Tôi nhìn
Cho mãi đến mấy tiếng sau, vật lộn với hai chỗ ngồi để tìm ra một vị thế co giò cho êm ấm mà không được, tôi lịch sự nhường cả ba cho người con gái cùng hàng ghế. Nàng lăn ra yên ả còn tôi tự an ủi, hai chỗ hay một chỗ gì cũng khó chịu, thà để cho có người còn lợi dụng được để duỗi chân. Ðàn bà Pháp bình đẳng, cô ta đề nghị sòng phẳng tao một giấc, hết lượt lại đến mày, tôi lên cơn tử tế, chả sao, chả sao, rồi cũng thiếp được ngay sau khi cuốn phim bắt đầu được chiếu sau bữa ăn. Ðến lúc sáng, cô ta choàng dậy rất tự nhiên: "Họ có báo là máy bay đang bắt đầu xuống hay là tôi nằm mơ?" Cô ta nằm mơ, còn những hai ba giờ nữa gì đó mới đến, có lẽ tại mùi café sữa. Trong tàu chưa bật đèn nhưng vài người không ngủ được kéo màn cửa sổ nhìn ra ngoài làm ánh sáng hắt chéo vào bên trong. Tôi nhìn cô bạn đồng hành dưới cái ánh sáng phảng phất này rọi vào trong khi phần lớn thân tàu còn tối. Qua một đêm chung, cô thân mật dùng "tutoiement" với tôi mày tao.
Corinne ở Papetee được hai năm hơn, giờ đang hè như đã nói, về Pháp lục địa chơi với gia đình một tháng.
Nhưng ở Paris, hẳn là không vậy. "Tao chỉ sợ mới xuống máy bay đã gặp người giành giật ba cái xe đẩy hành lý. Ra ngoài đường, dẫm lên chân nhau mà chẳng thèm ngó lại". Corinne nói, "Paris khó mà fiu". Tàu đến nơi, Paris ở bên ngoài, tôi nhìn ra thấy đã tối om. Sáu giờ chiều, chúng tôi mới vừa ăn sáng xong, người còn uể oải. Tôi hơi tội nghiệp cho cô này, tuy là cô ta hơi có cái tinh thần thuộc địa trong khi nói chuyện. Phần đông ai cũng thấy, ở đâu thì cũng kiếm ra những thứ đáng chê, đến lúc gần trở về lại đâm ra tiếc. Corinne giờ này nôn nao với cái lạnh thèm muốn hay là đã bắt đầu hối tiếc cái nóng bỏ lại đằng sau cách đây hai mươi giờ máy bay? Tôi nhìn nàng trùm vào người hai lượt áo len cũng lục túi lấy khăn cổ ra choàng vào mấy vòng cẩn thận. Khăn cổ tôi không phải bằng Cashmere mà bằng Cashmore nhãn hiệu cầu chứng 100% acrylic made in Korea, mùa rồi tôi bị lạnh phải mua ở New York. Cũng ở khu Upper East Side nhưng không phải ở trong Bloomingdale's, ở trong đường tàu điện ngầm, anh da đen bán năm đồng một cái. Tôi nhìn Corinne ái ngại, an ủi nàng một câu "Paris không fiu đâu nhưng còn đỡ hơn là New York". Nàng lên tinh thần hẳn, gật đầu.
Căn nhà ba bếp
Nếu mà mang ví với New York thì thành phố nào chả dễ chịu. Tôi mang
Có lẽ tại con đường Monsieur le Prince là con đường đầu tiên ở Paris tôi biết đến và đến giờ vẫn là con đường tôi rõ nhất ở trong thành phố, thuộc từng căn. Ðúng hai mươi năm trước, cũng vào tháng này, lần thứ nhất trong đời tôi thấy tuyết, thứ tuyết mỏng bất thường, chưa kịp xuống đến mặt đường đã chực trở thành mưa. Tôi ngồi nhìn sau cửa kính xe, đầu tự bảo đây là kinh thành ánh sáng về đêm dưới tuyết không ra tuyết, mưa chẳng ra mưa và con đường đầu tiên tôi đặt chân xuống là đường Monsieur le Prince.
Bây giờ hai mươi năm sau, cũng vào cùng dạo trong năm đó, tôi đi Tây lần nữa. Tôi đến
Lúc bắt đầu qua nhánh A86 để về nhà, thằng em lộn exit, rời xa lộ để vào thành phố. Tự nhiên hiện ra trước mặt tôi cái gì như một di tích cổ. Sương mù ở đây không phải như trong phim kinh dị, bạn đừng tưởng tượng lâu đài Dracula vàng vọt như trong những chương trình truyền hình vào lúc hai giờ sáng với Mistress Elvira. Cái bùng binh ở lối ra xa lộ này hiền hòa hơn. Ở ngoại ô đìu hiu này người ta dựng lên ngay giữa bãi đất trống những cái cổng chằng chịt như một hí viện La Mã còn sót lại sau cơn địa chấn.
Căn nhà tôi đến ở phía Ðông thành phố.
Căn nhà tôi đến ở cái ngoại ô nhì nhằng miệt Ðông này nhưng lên được một nấc vì không xa rừng mấy, lại lên thêm nấc nữa nhờ ở sát cạnh bờ sông. Những năm nước đột ngột lên cao thì hơi phiền một tí, ngồi hàng hiên có thể câu cá được mà xuống hầm đựng rượu thì rất tiện giặt giũ đồ, khỏi cần ra cầu ao. Việc sưởi là vấn đề vì ẩm ướt hơn bình thường nhưng lại được cái nhìn ra ngay bến du thuyền thì cũng đỡ, ấm lòng ngay kẻ tị nạn thuyền nhân. Thật tình mà nói, ở ngoại ô tôi không thích mấy, hàng quán quá xa xăm mà tôi không thuộc loại người thể thao để chiều về thay đồ jogging chạy bộ ra dọc bờ sông hay lấy thuyền ra bơi sải một hai một hai. Lý tưởng theo tôi thì phải ở Paris Intra – Muros, Nội vi quận tư hay quận sáu, ở từng năm nhìn ra vườn Lục Xâm hay khu Marais nhưng mà ở đời phải thực tế. Nhà ở
Tôi vào đến nhà, thượt người ra. Bận đi Tây này, hay là bận trở về, tôi không thấy gì làm hứng thú tuy cảm tưởng đầu tiên của tôi cũng không có gì là xấu. Trừ người nhà ra, dân Tây từ lúc ở phi trường đến giờ tôi chưa thấy được ai, chỉ trừ cái cô đứng đợi xe buýt và những cái xe nhà băng qua băng lại xuôi ngược trong sương mù. Tôi bước ra cái hàng hiên lồng kính ở tầng ba nhìn xuống bờ sông đen ngòm không một mống. Ðang ở cái Hạt
Ðến giữa đêm, chưa quen giờ giấc, tôi tỉnh dậy và đói bụng. Ðã sang ngày mồng một Tết. Căn nhà này là loại nhà biệt lập, ba tầng và bao quanh bởi vườn riêng. Gia đình tôi có máu xây cất, ưa cải biến, mỗi tầng đều có phòng ngủ, phòng tắm, phòng khách, cái đó thì chẳng có gì là lạ. Nhưng mỗi tầng đều có cả bếp riêng thành ra theo đúng lệ thì phải thờ đến ba Táo. Ðêm rạng mùng một tết, tôi lò mò ra cái bếp ở từng một, tủ lạnh trống trơn, nồi niêu xếp ở trong tủ ngăn nắp. Tôi lò dò lên từng nhì, thấy có bề bộn hơn, đâm ra hy vọng. Mở tủ lạnh ra, linh tinh đủ loại nước ngọt, có cả vài chai Champagne để sẵn nữa nhưng mà uống Champagne, dù là thứ thật, và vào ngày mùng một Tết, tuy là hợp lý nhưng cũng không no được. Tôi tìm ra một mớ trái cây tươi, măng cụt, chôm chôm, vải. Những thứ này tươi ở bên Mỹ không có, kể thì cũng lạ miệng, lâu rồi chưa ăn, mỗi thứ tôi làm vài trái. Bụng tôi không đồng ý, vẫn còn ấm ức, tôi mở tủ lôi ra được một hộp cua Nga. Nga nhất định không còn là thiên đường xã hội chủ nghĩa nhưng cua hộp Nga hiệu Chatka tức là snow crab Tây Bá Lợi Á thì ăn đứt cá các loại cua hộp khác. Tôi khui ra ăn một phần tư hộp, chẳng hiểu có phải tại tôi chán đời hay không nhưng cua hộp ăn với trái vải tươi nó cũng chẳng nhịp nhàng. Tôi leo lên tận từng thứ ba.
Bàn thờ để đâu thì tôi không biết nhưng trong căn bếp chót, tôi tìm ra được một cái bánh chưng. Ôi, ý nghĩa của ngày Tết. Có thế chứ, văn hóa dân tộc vẫn còn được duy trì. Tôi vừa bóc lá chuối vừa chùi tay, cái bánh chưa kịp nguội, còn nhơm nhớp gạo nếp. Cắn một miếng, bánh chưng ngọt, nhân đậu rơi vãi ra khắp nơi. Lúc bé, tôi vẫn thích bánh chưng ngọt hơn là bánh chưng mặn, có lẽ tại nhân nó người ta nhuộm đỏ, lại không có mấy cục mỡ lều phều. Ðằng này, sang đến Pháp không ai buồn nhuộm ruột bánh chưng ngọt nữa, phải nếm mới biết, tại nhìn thì nó cũng chỉ vàng vàng màu đậu như là bánh chưng mặn. Tôi không chờ đợi đến, đâm ra bất bình. Ðang đói đêm rạng mùng một Tết, lục những ba căn bếp mà còn bị miếng bánh chưng lừa mặn ngọt. Ngày đầu tiên của năm vào ba mươi lăm tuổi, chẳng cần thầy, chẳng cần xăm, chẳng cần chim bói, tôi biết thế nào cũng xui.
Chuyến tàu đầu năm
Không biết kiêng cữ ra sao, tôi để dành xuất hành sang ngày mùng hai. Họ hàng phân tán, bạn trai tôi không màng (tính tôi ít ưa giao thiệp với đàn ông lỗ mãng), tôi gọi điện thoại cho cô bạn gái. Ngày mùng hai nàng phải đi làm, nàng chẳng phải Việt cũng chẳng phải Hoa, nàng cũng chẳng phải Do Thái mà mùng hai âm lịch cũng chẳng trùng ngày Hannukah mà cho dù có là người Việt đi chăng nữa thì ở bên Tây tết lễ cũng có vẻ thờ ơ hơn nhiều là ở Bolsa. Tôi nhớ những năm trước, quận 13 có người Tàu múa lân xin tiền, các chủ tiệm đua nhau cột giấy bạc hai trăm (30 USD một tờ) ở đầu cái phất trần, chẳng hiểu để lấy le hay là lấy hên, cũng có đốt pháo cẩn thận nhưng tôi không phải con nít, đứng coi vài phút rồi chán. Giờ bảo tôi xuống tận đường Ivry, Choisy để mục kích cái cảnh này thì quá tội, mà lặn lội đến nhà Mutualité để coi văn nghệ hội đoàn hay sinh viên thì lại còn tội hơn. Mười lăm năm về trước, cái ngày tết "Maubert" tôi còn hăng hái, chẳng những đến coi mà lừng khừng có khi còn tham dự vào nữa là đằng khác. Tổng hội Sinh viên vào thời đó, nếu không phụ giúp cho các chị thay quần áo son phấn để tập dượt ở hậu trường thì cũng có mặt với các anh để gác cổng an ninh, khi cần hung hãn vỏ chai la-de, gậy nunchaku. Nhưng dần dà năm này sang năm khác, dân ca ba miền tôi thuộc hết, hò giã gạo với lại đập lúa tôi nghe nhàm tai, những chương trình văn nghệ Tết tôi thưa lui tới. Chọc mấy chị hoạt động thì cũng chẳng đến đâu, đánh lộn thì tôi không ưa đổ máu. Thường thường những chương trình văn nghệ như thế, năm ba ngàn người t�! � họp ở nhà Mutualité (trạm métro gần nhất là trạm Maubert-Mutualité nên mặc dù nó không ở trên Place Maubert mà ở trên đường St Victor, mặc dù nó mang tên là Maison de la Mutualité hẳn hoi, người Việt ta vẫn quen gọi là rạp Maubert) thứ nhất diễn văn chính trị cho đến chín, mười giờ, nghỉ giải lao ăn chả giò ngoài hành lang, sau đó đàn ca dân tộc đến nửa đêm bắt đầu dạ vũ. Khoảng hai ba giờ sáng bao giờ cũng có ẩu đả, ghế bàn chập choạng theo người khiêu vũ. Một năm nào đó người bỏ mạng, xác kéo ra ngoài đường quẳng dưới gầm xe. Chuyện hào hứng khác mà tôi nghe kể lại là vào những ngày hội như thế, nếu bạn đứng ở ngoài đường ở sát tường của rạp thì có thể nhìn qua cửa sổ thông hơi của phòng tắm đàn bà (hay đàn ông cũng vậy) đặt dưới hầm. Gần xa nô nức yến oanh, bạn đứng trên quan sát hết mà không ai để ý. Nghĩa là ở dưới người ta không để ý chứ còn ngoài đường đi ngang thì biết ngay, vị trí chiến lược này được trấn đóng kỹ càng, tụm năm tụm mười nhưng bạn nhoẻn miệng cười thì người ta cũng có thể cho ghé đầu vào nhìn một cái. Ấy là tôi nghe nói thế, chứ phòng tắm hay chết người là những năm tôi đã bắt đầu lơ là.
Giờ ở tận Mỹ qua, không lẽ lại canh ngày đến đó mà tìm người quen, tôi quên luôn chuyện đó. Tôi gọi điện thoại cho cô bạn, ngày mùng Hai âm lịch là ngày thứ ba, dĩ nhiên là nàng phải đi làm, lại làm ở tận ngoại ô xa. "Khoảng bảy giờ rưỡi tao mới về đến nhà" nàng dặn. Nhà nàng không ở cạnh nhà tôi, cách nhau những mấy loại phương tiện di chuyển công cộng, mất có cả tiếng, tôi canh, ngày mùng hai Tết, trời xẩm tối mới xuất hành.
Chỗ tôi ở, phải đi dọc bờ sông một quãng rồi leo lên một cái cầu thang mới ra đến mặt lộ. Ở ngoài lộ, có đường xe buýt ngoại ô nhưng hai mươi phút mới có một chuyến, vào những giờ đường kẹt khi về nhà, tan sở, đi bộ đua với xe buýt bao giờ cũng thắng. Tôi đi bộ, độ mười, mười hai phút theo vận tốc trung bình bên này thì đến nhà ga xe lửa. Phải nói, ở bên Pháp, nhất là ở
Nếu ở Mỹ, kỳ quan là xa lộ thì ở
Năm quan để đi khắp hết nội thành
Một năm rồi, tôi mới thấy métro trở lại nên không lấy đó làm khó chịu. Ở đây, phía Ðông thành phố, bình dân lao động, uyên ương Tàu mặt nghệt ra cầm tay nhau, những bà mẹ Phi Châu tay bồng tay bế, những người đi làm về mặt thừ ra vào trước giờ cơm. Không có những cánh tay ngà đeo túi Vuitton, không có bọt champagne sủi, ký sự đi Tây gì chán ngấy, lại vào dịp Tết nữa nhưng có ai thấy gì là Tết đâu. Tôi cũng chán nữa, và ngày mùng Hai xuất hành, ở trạm République hướng đi về Porte des Lilas, tôi cũng chẳng thấy gì Tết hết, có sao tôi nói vậy. Có cái gì thay đổi, một năm người ta lợi dụng lúc tôi vắng mặt đem đặt những thùng rác màu vàng chanh tươi mát đầy khắp nơi. Cứ mươi thước trong hành lang lại có một cái để mà vất giấy, gạt tàn. Ngoài ra vẫn vậy, đường tàu chạy về xóm dân cư nghèo vẫn những người mặt mày thiếu ngủ, lương tối thiểu có tăng lên chắc cũng chẳng được là bao, những cánh tay ngà lủng lẳng bao plastic, những cái mũi đỏ vì cảm cúm, thiếu vitamine C hay vì lạm dụng rượu. Nhưng mà tôi không ghét,
Gói ca-rô đỏ
Ký sự này, cho đến nay, chẳng có gì hấp dẫn. Ði Tây, đúng thì phải mơ màng, mà đến giờ tôi chưa nói được chuyện gì đáp ứng được cái đó cả. Tôi nhớ lại, ngày trước có lần gặp chị bạn ở Mỹ nhắc đến
Ðược chị bạn này xếp hàng thứ ba trong các kỳ quan của thủ đô ánh sáng ắt Tati phải là ghê gớm lắm. Mà Tati ghê gớm thật, ngay trong sách hướng dẫn của du khách Nhật cũng có đề. Tati không phải là viện bảo tàng, bảo tàng phải kể Musée d'Art Moderne Georges Pompidou, tức Centre Beaubourg, xanh đỏ cất theo hình nhà máy lọc dầu và được nhiều người thăm viếng nhất (Lần đầu tiên đến Los người quen đưa đến Redondo Beach ăn cua tôi cứ tưởng cái nhà máy lọc dầu ở bờ biển là viện bảo tàng Paul Getty ở Malibu). Bảo tàng phải kể đến Louvre, phòng khảo cổ Ai Cập bức tượng cụt đầu "Chiến thắng Samothrace" và bức tượng cụt tay Vệ Nữ Milo. Phải kể đến Musée d'Orsay vừa mới mở trong cái nhà ga bỏ hoang cũ, phái ấn tượng và tranh giáo đường
Tati cũng không phải là một thứ đền đài đã cũ, điện Invalides của nhà binh, đền Panthéon néo-classique để táng vĩ nhân dân tộc. Không phải là thánh đường Trung Cổ, di tích La Mã hay công trình kiến trúc mới đây và đáng quan tâm; Như Hí viện Bastille còn đang xây dang dở, cột Buren ở Palais Royal hay Kim Tự Tháp bằng kính ở Cour Carré điện Louvre do kiến trúc sư Pei vừa mới hoàn tất xong. Tati nói thẳng, khỏi lòng vòng, là một cửa hàng quần áo. Nhưng cửa hàng quần áo ở Paris thì vô khối, riêng một mục này viết mười cuốn sách cũng chưa nói đủ, nào sang trọng Haute Couture, nào trung lưu Department Stores, nào thời trang trẻ boutiques.
Thành thử ra, đến Tati người ta phần đông mua những thứ phụ tùng và phụ tùng ở Tati nổi tiếng nhất là quần áo lót phụ nữ. Dân lao động di cư đàn ông vào đây rất nhiều lựa soutien, sì-líp gửi về cho hiền thê ở xứ, phu nhân các vị bộ trưởng các nước nhược tiểu đến đây ẵm về làm quà đồ lót từng va-li một. Tại nói thật, áo quần Tati cũng phải kén lắm mới tìm ra được thứ tươm tất, tuy là rẻ thì vô địch nhưng của nào hàng nấy, trừ những chuyện bất ngờ. Tôi có quen một bà ngoại quốc lịch lãm và học thức, lấy chồng giàu và tính cũng ăn tiêu.
, Via Condotti,
,
Honoré bà đều có vào cửa tiệm, bà sang
Tati, sau khi hết chỗ để mà bành trướng ở quận 18 thì mở thêm hai cửa hàng khác ở
Cái bà hồi nãy, lần đầu tiên được dẫn đến Tati mua sắm nên còn chưa rõ cái lệ ra đến ngoài phải hủy ngay bao. Lần đó tôi phải ngồi một lúc ngoài quán với bà với mấy chục cái bao cũng ngượng. Nhưng thôi, còn chịu đựng được, bà làm sao thì làm, tôi không muốn phải đưa bà về cái khách sạn bốn sao bà ngụ ở sau Champs Elysées mà tay, nách còn ôm những gói đồ xuất xứ lộ liễu này.
Ở trên đường métro Répubique đi đến Place des Fêtes, vấn đề bao ca-rô đỏ ít nặng hơn. Ðây là khu bình dân ở
Người bạn chưa chồng
Cô bạn ở miền Ðông Paris của tôi chưa có chồng. Cô này lại đầm. Ờ, có thế chứ, đi Tây thì phải có đầm, vậy mới ra ký sự. Ðể tránh cái nôn nao của người đọc, tôi xin đề cập thẳng đến chuyện này. Ðúng ra thì đây là việc tôi phải làm từ lúc đầu, từ kỳ một đến kỳ hai chứ không nên đợi đến kỳ thứ sáu. Tại thường thì Tây sang hay vừa đi Tây về thì câu thứ nhất thứ nhì mà người ta ưa hỏi là "Có vui không, đầm ở bên đó thế nào?" Nghĩa là, ngắn gọn và súc tích, "Sao, đầm có vui không?" Nhưng câu hỏi đặt ra như vậy, nếu bạn trả lời cũng ngắn gọn và súc tích, chẳng hạn như là "Vui chứ", thì chẳng ai vừa ý cả. Người đặt sẽ gợi thêm, rành mạch và rõ rệt "Nhưng mà, đầm nó có đẹp không?"
Tính tôi không ưa vặn ngược, vòng vo và bắt bẻ nhưng những câu như thế bao giờ cũng làm tôi phân vân. "Ðẹp" là thế nào, tôi vốn lễ độ nên ít khi nào tôi hỏi lại nhưng trong đầu tôi không khỏi bối rối mà tự vấn. Ðích xác hỏi tôi về một người nào tôi đã khó trả lời, thí dụ "Vợ anh có đẹp không?" tôi còn chưa biết nói sao. Cách nào mà tôi có thể phán xét thẩm mỹ về một cái chung chung vài chục triệu mống như là "đầm" được? Nhất là, vợ tôi còn có thể thiên vị, tôi còn có thể chủ quan mà bênh vực (hay tùy trường hợp, bi quan mà than thở). Nhưng "đầm" nói rộng thì khó quá, cần phải giới hạn lại tôi may ra mới có thể trả lời. Dĩ nhiên là với sự dè dặt cần phải có, ngoại trừ những trường hợp đặc biệt, một cách đại khái, tổng quát và tương đối. Vâng, thì đây: "Ðầm có đẹp".
Ðàn bà thì, xứ nào mà chẳng đẹp. Ngay cả từng cá nhân nữa, nói trắng ra (hay nói đến cả đen), đàn bà thì, người nào mà chẳng đẹp. Trở lại thí dụ lúc nãy là vợ tôi, vợ tôi người xứ nào, vợ tôi đàn bà, vợ tôi, đẹp. Vậy mà cũng có người thấy xấu được. Bảo là xấu tôi không dám cãi, chỉ chữa nhẹ nhẹ "Ừ, thì xấu đi, nhưng mà có class". Người ta vặn tôi "Tôi hỏi anh, class là gì?" Tôi vặn lại (cũng vẫn nhỏ nhẹ thôi, vì tính tôi nhát, ít khi nào dám to tiếng): "Nếu không biết class là gì mà em còn phải hỏi, thì cũng không có cách nào giải thích!" Tôi trả lời như vậy được, tôi thích lắm. Nhưng chuyện đời tư này của tôi, ăn nhập gì đến đầm xấu đẹp? Nó cũng vậy, như bây giờ lấy ra so với Mỹ, thì tôi thấy đầm có đẹp. Người ta có thể không đồng ý, cho là đầm xấu đi. OK, thì xấu đi, nhưng mà có class. Thật sự, nếu so đo từng chi tiết thì dân
Mỹ có rất nhiều người, chẳng qua là coi mát mắt, vậy thôi, nhưng đầm, lại có phần lôi kéo. Nói vậy, có khi tôi thiên vị nữa, chẳng khác gì trường hợp vợ tôi vậy. Có lẽ tại lúc bé, tôi bị bố mẹ bắt đi học trường Tây nên họ nhồi sọ, nếu bắt tôi học trường Anh Văn Nguyễn Ngọc Linh thì giờ biết đâu tôi nghĩ khác. Như vợ tôi tôi thấy đẹp, ai mà chê xấu thì người đó vô duyên. Ðầm, đã hỏi thì tôi nói, thì có đẹp, không rõ là nhờ cái gì, nhờ sinh ra ở đây, nhờ đường lót bằng đá không trải nhựa, nhờ phố nhỏ từng căn nhà ôm nhau, nhờ mọi thứ, nhờ bánh mì baguette, nhờ mỗi ngày đọc Libé, nhờ mỗi tháng đọc Actuel, tôi không hiểu. Nhờ lối sống. Họ cũng mặc quần jean, không phải quần jean designer Vidal Sassoon, Oscar de la Ranta, Gloria Van der Bilt. Quần jean cày ruộng ở bên Mỹ, Levi's 501. Bận quần jean nhưng mà không biết đi skateboard và năm nay thì váy ngắn màu đen màu sẫm, hai mươi phân trên đầu gối, vớ không nhiều hoa hoét nhưng có một đường chỉ couture chạy dọc ở đằng sau bắp chân. Nhập gia rồi dần dần cũng tùy tục, nói ra thế này thì mất lòng nhưng tôi là người cầm bút can đảm và tôn trọng sự thực, đặt sự thực lên trên cả chính quyền lợi cá nhân ích kỷ của bản thân.
Dưới mắt tôi (câu nói sau đây tôi phải nhịn thở mà viết thẳng một hơi) ngay cả đàn bà Việt Nam ở bên Pháp cũng có style hơn là đàn bà Việt Nam ở bên Mỹ. Ở đâu riết rồi thì cũng có phần giống đó, đàn bà Việt ở Pháp hình như trong cung cách cũng có gì khác hơn là đàn bà Bolsa, tuy là cả khu Ivry – Choisy 13, cả khu Belleville 19 tìm hoài không ra một thẩm mỹ viện Việt Nam và theo sự hiểu biết của tôi, chẳng bao giờ có tổ chức thi hoa hậu.
Hay tại tôi là đàn ông nên tôi chỉ thích đầm ở cái dễ dãi, cái buông thả tự nhiên và cóc cần lối sống ở bên kia. Thí dụ như cô bạn tôi đến thăm. Cô này chưa có chồng, đã trên ba mươi nhưng đừng gọi cô ta là gái già, tội nghiệp. Nếu cô ta sinh ra ở Mỹ thì phải kể là cô ta năm đời chồng và bốn lần ly dị. Nhưng cô ta ở Pháp, cho nên có lúc cô ở với anh này vài năm, không hợp cô đi ở với anh khác một cách giản dị. Không lấy nhau thì chẳng cần ly dị, rất tiện, tuy là bỏ nhau thì cũng phải dọn nhà mà nhà bên này thì khó kiếm. Thành thử ra còn có trường hợp ở chung nhà tạm trong khi chờ đợi, người cũ vẫn còn quanh quẩn đó và người mới cuối tuần mới đến qua weed-end. Không ai đánh ai cả, người Pháp có vẻ là một dân tộc biết điều. Cách đây một dạo, cô ta ở chung với một anh vui tánh. Anh này đàn nhạc New Wave rất dễ chịu. Tóc anh dựng đứng, nhuộm vàng, tai anh đeo vòng ở một bên, mắt anh kẻ chì hung hãn, style anh nửa punk destroy nửa rocker hard nhưng anh rất hiền lành. Bỗng dưng một anh khác đột nhập vào cuộc đời đang yên ấm của hai người, phá tan hạnh phúc của cái gia đình không giá thú. Anh thứ nhì này ban ngày đi làm cà vạt com lê cẩn thận, áo sơ mi hấp tẩy nỉ sẹc và đeo kính gọng vàng. Tối đến anh manage ban nhạc, nghĩa là anh cũng thuộc loại dân chơi tuy là anh có đứng đắn hơn. Tôi cũng được chứng kiến từ đầu đến cuối cái thời gian anh lại nhà cô này ve vãn một cách lịch sự nhưng công khai. Hình như cái lịch sự nó ở trong cái công khai thì phải, đúng luật giang hồ nên chẳng ai trách gì được ai. Câu chuyện như một mà! n đấu súng ngoài lộ chính, mỗi người bước mười bước quay lưng lại nhìn thẳng vào mắt nhau thủ thế. Nó có quy tắc của nó, cấm ăn gian, chỉ đọ tài, bắn chậm thì chết. Tựa như là hai nhà quý tộc gentlemen theo nhau ra ngoài đồng nhã nhặn mà thanh toán những khích hiềm. Dĩ nhiên hai anh này kình địch, phải có một sống một chết nhưng cả hai anh đều tự trọng, có nghĩa là cả hai anh đều tôn trọng lẫn nhau, hiệp sĩ mã thượng thời Trung cổ. Tôi đến nhà anh cua đào ở chung với anh, tôi xin đưa thiếp báo danh, anh giỏi thì giữ được, không thì tôi lấy mất. Vâng, xin mời anh.
Một ông Pháp thời xưa khi đánh giặc với Anh vào thế kỷ 17, 18 gì đó, ở trận Courcy thì phải, bất tử nhờ câu nói sau khi hai bên dàn quân ra xong xuôi súng đạn lăm lăm "Xin mời các ông người Anh nổ súng trước". Chuyện này cũng vậy, làm tôi thích thú mà theo dõi. Tôi bàng quan ở đó như là nhân chứng trọng tài. Anh thứ nhì mua hoa mang đến nhà tặng nàng, anh thứ nhất ngày hôm sau đi kiếm một cái quà mang về ngay. Anh thứ nhì đến xem ngắm nghía, ờ quà khéo quá, nhiều ý nghĩa, tuần tới anh bày ra một trò còn hay hơn. Nếu hai anh này cùng cua một cô hàng xóm thì ; ờ chỉ chuyện bình thường. Ðằng này anh này đến nhà anh kia giành giật vợ không chính thức thì đàn bà (hay đàn ông cũng vậy) chẳng là sở hữu của một ai. Ðiều cần thiết là thành thật, theo quan niệm của bộ ba này. Họ Tây mà, tôi thấy cũng lạ. Tôi không lừa anh hay lén lút, anh không thể nào giận tôi. Và rồi, cũng chẳng ai giận ai, như hai võ sĩ quyền Anh sau khi thượng đài. Kết quả, nàng chọn anh mới, dọn nhà ra đi, để lại anh bồ cũ bơ vơ. Anh này bơ vơ đến nỗi, mỗi tuần thứ bảy chủ nhật anh buồn không biết đi chơi đâu lại bò đến nhà anh kia rủ cặp mới này đi chơi chung cho khuây khỏa. Anh bò đến, ăn cơm tối, nằm coi T.V. nhưng không phải để công kích trở lại hay gỡ gạc gì, anh chịu thua rồi, rất là sòng phẳng. Anh kia tiếp đãi tình địch cũ rất là ân cần, hôm nào anh bận gì, để vợ ở nhà hay đi đâu chơi với anh kia mà không ngần ngại. Anh còn chắc bụng nữa là đằng khác, đó là thượng sách. Có năm, cặp này mướn cái du thuyền đi nghỉ hè, còn dắt cả cái anh kia theo, mặc dù anh ! ta chẳng có kinh nghiệm gì về lèo lái bằng buồm.
Cái quan hệ gái trai như thế tôi phục lắm. Dĩ nhiên là về sau, từ ngày nàng đổi ý, giữa cô này và anh bồ cũ chẳng còn tằng tịu nữa, nó trở thành bạn bè thuần túy. Cho đến giờ nó vẫn vậy, càng ngày càng thêm thắm thiết vì bạn bè, càng lâu năm thì càng quý chứ sao. Ðó là tôi không muốn nói đến những cảnh nằm trên du thuyền tồng ngồng, chỉ sợ có người bảo là tôi mượn cớ để mà luân lý giáo khoa. Không, nó như vậy ở trong nếp sống mà nếu đây là một trường hợp đặc biệt thì tôi đem ra kể lại làm gì. Nó điển hình thì đúng hơn. Ở lứa tuổi trên ba mươi ở Pháp, những cặp ăn ở với nhau không hôn thú giờ hình như là đa số theo lời báo động của những nhà đạo đức cổ truyền. Không có con cái với nhau ăn ở như vậy đã đành, nhiều cặp có con vẫn cứ thế. Con mang họ mẹ hoặc họ cha nhưng bố mẹ vẫn không là vợ chồng. (Luật bên này cho phép con mang tên mẹ hay tên cha, tùy ý, trong trường hợp vợ chồng có hôn thú hay là không). Tình trạng này được xã hội chấp nhận, bạn có thể xin chính quyền cấp cho một tờ giấy chứng chỉ sống chung để sử dụng trong những trường hợp như là vay nợ, thuê mướn, thuế má gì đó. Chữ "concubin", "concubine" ngày càng thông dụng. Bạn đi làm, người sống chung cũng được hưởng bảo hiểm, trợ cấp hay những đặc quyền trước giờ chỉ dành cho người phối ngẫu có thành hôn chính thức, chiều hướng này ở Pháp có lẽ khó mà đổi ngược lại được, quốc hội kỳ này chắc sẽ thông qua một dự án hợp thức hóa tình trạng "concubinage". Nhưng ở đây, chẳng phải là quốc hội bày ra một đạo luật ! cách mạng mà chính là xã hội đã đổi thay trong hai thập niên chót này đến độ dân luật, luật gia đình không còn đáp ứng được với thực thể khiến các nhà lập hiến cuối cùng cũng phải bấm bụng mà đuổi theo.
Cô bạn tôi, ngoài ba mươi tuổi chưa chồng mà bố mẹ cô cũng chẳng lấy gì làm lo lắng và cô ta vẫn bình thường, cám ơn. Cô ta có người em gái, cũng ở tình trạng "sống chung" trên (tình trạng thế này, như đã nói, ở Pháp thì nhiều lắm). Cô này làm tiếp viên hàng không cho hãng Pháp, domestic airline, và ưa than phiền. Hãng cô ta làm, công nhận "concubinage" và cho phép người sống chung với nàng hưởng discount trên giá vé để những cặp kiểu mới này tung tăng nghỉ mát với nhau như vợ chồng thứ thật. Giữa các hãng hàng không vẫn có trao đổi về phần quyền lợi này của nhân viên. Làm Air
Tôi chẳng phải là phát ngôn viên của Moral Majority, hôn nhân tập tục của Hoa Kỳ với đạo đức hãng hàng không tôi không rõ, tôi tìm cách chạy bằng một câu trả lời ngụ ngôn rất là ấm ớ. (Khi nào không biết nói gì, thì tôi hội tề lơ lửng mà ngụ ngôn). "Ở bên Mỹ, tao cũng biết người làm flight attendant như mày vậy, có chồng cẩn thận, hôn thú hẳn hòi, họ cho chính thức hưởng giá rẻ. Ði đâu được quyền dắt chồng theo, vậy mà nàng lại chẳng bao giờ dắt chồng theo cả, như thế nghĩa là thế nào, mày than phiền với tao làm chi, hỏi tại sao tao không biết. Bên Mỹ khác, bên Tây khác. Ðó là khác biệt giữa hai nền văn minh Tây Mỹ".
Kể thì, khác biệt giữa những nền văn minh và khoảng cách đó, muốn nhét gì vào thì nhét nên cũng tiện.
Cái quyền làm ít
Làm hãng hàng không, một tuần bay mười sáu tiếng, một năm lãnh mười lăm tháng lương, được năm tuần lễ nghỉ, mùa hè nghỉ mát, mùa đông nghỉ nóng, được mua vé rẻ dắt người sống chung đi du dương du âm, được quyền than phiền và lâu lâu lại được quyền đình công. Trong xã hội Tây, kể ra thì cô này là người được hậu đãi. Những người còn lại, đa số thầm lặng, phải cắn răng quần quật một tuần ba mươi tám hay ba mươi chín tiếng và mỗi năm chỉ lãnh lương có được (ít thì) mười hai tháng, (thường thì) mười ba tháng nhưng cái năm tuần lễ nghỉ thì ai, đi làm hay đi buôn bán, nó là cái quyền bất khả xâm phạm.
Ở Pháp, không có gì thiêng liêng hơn là giày đi tuyết và áo tắm. Ði ngoài phố, đáp métro, quảng cáo mà bạn thấy nhiều nhất là về nghỉ mát. Nếu bên Mỹ, điều thứ mười một tu bổ của hiến pháp là quyền mua sắm, quyền chia động từ to shop hai mươi bốn tiếng một ngày và ba trăm sáu mươi lăm ngày một năm thì bên Pháp, chính phủ hữu tả gì cũng vậy, tinh thần đoàn kết dân tộc, năm lăm triệu người như một, là tinh thần nghỉ mát. Thành thử ra, đối với người ở Mỹ sang chẳng hạn, nó có rất nhiều chuyện trục trặc bực mình. Quyền tự do mua sắm tối thượng bị xung đột và va chạm với quyền tự do nghỉ mát cao cả. Cái tuần lễ ba mươi chín tiếng làm việc khó mà dung hòa với thói quen tiêu thụ ngày đêm. Một tuần lễ có những một trăm sáu mươi tám tiếng mà như vậy thì các cửa hàng đóng cửa đến những ba phần tư. Ngày chủ nhật thì đừng có hòng. Ngày thứ hai, nhiều chỗ cũng không. Người ta mở cửa ngày thứ bảy thì trong tuần người ta phải lấy một ngày bù lại, phần đông là thứ hai để còn có hai ngày nghỉ liên tiếp, trừ những người siêng năng chịu khó, thì thôi, thở dài mà đóng cửa vào thứ ba hay thứ tư đi. Một ngày tám tiếng, làm công sở tư đã thế, chẳng lẽ làm hàng quán, cửa hiệu lại chịu bị thiệt thòi. Tôi nói thí dụ một hiệu sách (tôi thích hình ảnh, chữ nghĩa nên tôi lấy hiệu sách làm thí dụ, ngoài ra tôi lại vừa có được một quyển sách mới ra, tôi xin phép nhắc lại, tập mười một truyện ngắn và mang cái tên thơ mộng là "Cây Gậy Làm Mưa", Tân Thư xuất bản, giá 12 USD), thí dụ một hiệu sách bình thường, không phải �! � trung tâm mua bán, ăn chơi trong thành phố. Ở bên này, hiệu sách nhỏ bán báo, tạp chí làm chuẩn, nhiều khi có đủ cả giấy mực, vật dụng văn phòng và có cả sách nữa. Nếu siêng năng, để người đi làm sớm có báo mà đọc trên tàu lửa tàu điện thì họ mở cửa lúc bảy giờ sáng hay tám giờ. Ðến trưa, có làm thì phải có ăn, dĩ nhiên họ phải đóng cửa, nấn ná một chút để người đi làm vào giờ nghỉ còn có thể ghé qua mua vài cái vớ vẩn đọc trong khi dùng bữa. Chịu khó thì họ mở đến một giờ trưa, thường thì mười hai giờ rưỡi. Tại vì họ cũng phải ăn trưa nữa. Văn phòng bên Pháp lunch một tiếng hay là hai tiếng, cửa hàng lunch đến ba hay bốn tiếng, đến ba giờ rưỡi, bốn giờ chiều mới mở cửa lại. Văn phòng sáu giờ chiều đóng cửa, các cửa hàng phải đợi đến bảy giờ rưỡi, tám giờ nên trưa họ nghỉ bù. Cửa hàng tạp hóa, quần áo, đồ chơi người lớn và trẻ em gì cũng vậy, sáu bảy giờ rưỡi tối là kéo màn sắt hết, khái niệm đi chợ đêm là khái niệm ấp úng ở bên này.
Lỡ tám giờ tối mà tôi đói thì sao, người khó tính thế nào cũng hỏi. Ngoài trường hợp có thể về nhà đun nước sôi đổ vào mì gói để ăn dằn bụng vừa theo dõi được chương trình tin tức buổi tối (vào lúc tám giờ tối) thì bạn có thể đi ăn tiệm. Nhờ những cửa hàng thực phẩm đóng sớm, nên ở bên này nguời ta chịu khó đi ăn tiệm. Như thế tốn tiền chết, ừ, nhưng mà vui hơn, ở đời chẳng có gì miễn phí. Người ta đi ăn tiệm, có vợ có chồng (hay người sống chung) thì người ta nắm tay nhau, không vợ không chồng thì người ta nháy nhó, rất là thích thú. Ở bên Pháp, phái nữ độc thân, không người hộ tống, có quyền lê la hàng quán, café hay đi ciné mà chẳng cần có bắp tay cuồn cuộn hay bàn tay lông lá nào bảo trợ. Nàng rút điếu thuốc ra nhìn quanh, hỏi "Có lửa không?" chàng lững khững lại gần, tay cầm Dupont, tay cầm Bic, tay cầm hộp diêm của nhà Seita (Công ty độc quyền sản xuất diêm quẹt) huýt gió một tiếng như là đối thoại giữa Lauren Bacall và Humphrey Bogart. Lãng mạn. Lãng mạn thì phải tốn tiền chứ, nhưng mà ngay cả việc đi ăn tiệm bạn cũng nên cẩn thận. Tiệm ăn chẳng cái nào mở cửa một tuần liên tục cả bởi vì người làm tiệm ăn cũng cần nghỉ và có nơi đóng cửa ngày chủ nhật, có nơi thứ hai, thứ ba, tùy hỉ cho nên những việc hẹn hò nhau nhiều khi rắc rối. Ðó là chưa kể nếu bốn giờ trưa mà muốn ăn một bữa đàng hoàng thì rất khó, ở Pháp, tiệm ăn không mở cửa liên tục từ sáng đến tối mà, thí dụ, mười một giờ đến hai giờ trưa và bảy giờ chiều đến mười một giờ khuya chẳng hạn.
Ðó là trường hợp lãng mạn. Ít tốn kém hơn là ăn tiệm và tiện lợi từ khoảng mười năm nay có người ngoại quốc chăm chỉ đua nhau sang đây mở tạp hóa thực phẩm, bán giá cao hơn trung bình nhưng mở cửa đến mười, mười một giờ đêm. Một cửa hàng bé cỏn con, cha mẹ con cái họ hàng, người cùng làng, cùng tổng bộ lạc gì đó chia nhau trông coi, Bắc Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Ðộ, thức khuya dậy sớm và chẳng bao giờ đi nghỉ mát, tắm biển hay trượt tuyết cả. Có lẽ năm ba năm một lần họ về thăm xứ, mang theo tủ lạnh, TV màu, phôn CD, lái xe Peugeot chạy vòng quanh ấp một vòng là đủ le với cả xã rồi nên ở bên này họ cắn răng mà chịu đựng cho người bản xứ được nhờ vào lúc đêm khuya khoắt, thiếu hộp cá thu hay là chai nước suối, còn có chỗ ở đầu đường le lói thắp đèn ngồi chờ đợi. Ở đầu kia, nếu bạn ở ngoại ô, các nhà tư bản quốc tế vào dạo này lại mới cho bạn một đường lựa chọn khác. Trong các thương xá khổng lồ, cửa hàng thực phẩm (và linh tinh quần áo, gia dụng) mở cửa đến chín giờ rưỡi tối, Carrefour, Auchan, Euromarché. Ðèn sáng lòa, nhạc lầm bầm mời gọi, đi mỏi chân hoài không hết, giá rẻ, đủ mặt hàng, tha hồ mà lựa chọn, từng đoàn người lũ lượt nối đuôi nhau đẩy xe, xe nào xe nấy đầy ắp như là tỵ nạn gồng gánh, một cảnh tượng riêng tôi thấy hãi hùng, tránh được là tôi tránh, chẳng bao giờ buồn đặt chân đến. Văn minh ngoại ô Pháp giờ cũng gần như là văn minh ngoại ô Mỹ, văn minh Mall, Les Quatre-Temps La Défense, Rosny, Vélizy, Créteil-Soleil, những địa danh tên nghe khủng khiếp gần như là Katum, Bình Giã, Ðồng Xo! ài. Ở đây người ta đánh nhau để mà tiêu thụ, đồ tiền thay vì đổ máu, làm tôi nhớ lại một tấm quảng cáo chụp hình một em bé ngây thơ chưa tội tình gì mà phải ngồi trong xe shopping-cart đi chợ. Câu quảng cáo đề: "Khi em lớn, em sẽ là người Euromarcheur", dựa trên tên hiệu của chợ Euromarché là một công ty Tây Ðức có cửa hàng khắp Âu Châu. Sinh con ra, để nó lớn lên thành người Euromarcheur thì mù mịt quá, khi tôi chết xin mang tôi ra chợ, đời ăn tiêu không cả chỗ đậu xe, tôi lần đó chợt mừng vì mình hiếm muộn.
Nhưng cái văn minh thương xá này chỉ vây quanh ngoại ô
Tôi sang Pháp phải vào dịp tháng Hai nên cũng có nhiều nơi đóng cửa, nhiều người đi vắng. Tháng Hai là Vacances de Février, con nít nghỉ nhưng từ khi có tuần lễ nghỉ thứ năm người lớn cũng nghỉ. Dạo trước, nghĩa là từ khi chính phủ Mặt trận Bình dân do tiên sinh Léon Blum thuộc đảng Xã hội (Lúc đó còn là SFIO, tức là Nhánh Pháp của Quốc tế Thợ thuyền) lãnh đạo lên chấp chánh vào năm 1936, người Pháp được bốn tuần lễ nghỉ và số giờ làm việc mỗi tuần được ấn định là bốn mươi. Những năm đầu tiên thế chiến thứ hai, phong trào nghỉ mát phát sinh trong giới lao động, người ta áo thun quần cộc nón két đạp xe ra bờ sông trước con mắt miệt thị của giai cấp chủ nhân dưới danh xưng "Congé Payé" (Congé Payé, nghỉ được lãnh lương, khác với những người quyền quý, nghỉ không cần lương vì không có cả lương nữa, chỉ có tiền). Riết nó thành tục lệ, cứ tháng Tám là thiên hạ ùn ùn kéo nhau đi nghỉ mát, vẫn áo thun quần cộc, nhưng giờ kéo theo cái xe bốn chỗ ngủ một phòng tắm, có bếp ở đằng sau, làm chật đường xa lộ. Paris tháng Tám chỉ có du khách và những người yêu nhau gặm bánh mỳ khô đi tản bộ trên những con đường vắng ngắt, cũng có cái hay của nó, được gọi là bầu không khí của Paris vào tháng Tám. Người nào kẹt ở lại, không di tản kịp chiều chiều ra nằm đỡ bờ sông Seine hay hồ bơi Deligny, cầm sách Sulitzer (best-seller mùa hè) đeo Walkman nghe Niagara (điệu tủ của mùa hè) và cũng tán tỉnh vớ vẩn những anh vai u, những cô đầu vú hồng như ở những nơi nghỉ mát vậy. Tháng Tám là tháng chia tay, Chức Nữ dẫn con ra ngoài biển, Ngưu L! ang ở lại Paris làm việc, chiều ra bờ sông ong bướm mấy cô Ý Ðại Lợi, Thụy Sĩ gì đó. Tháng Tám là tháng những mối tình vụng trộm khiến có cả thành ngữ "Tình Hè" nghĩa là tình ba mươi bữa, không đi đến đâu, anh đường anh, tôi đường tôi, những mối tình không tương lai, two weeks stand để mà nhớ lại tự nhiên mỉm cười một mình trong bàn giấy. Rất là đẹp, không có tiếp theo những mẹ chồng nàng dâu, trả góp mua bàn ghế không đủ, con đau và xe hỏng phải làm lại máy, thay dầu. Tháng Tám là tháng không ăn cơm nhà, ăn cơm tiệm, không ngủ với người phối ngẫu, ngủ với người mới gặp ngoài đường hay bãi biển, anh huấn luyện viên tennis Club Méditerranée hay cô du khách Ăng Lê. Ðể mà tê tái mười một tháng về sau, như thí dụ nổi tiếng ngay cả nền âm nhạc dịch của ta là "Adieu jolie Candy" (Từ nay cách xa nghìn trùng… từng tưng. Ðường bay não nùng… từng tưng… Tôi tiễn em nơi phi trường…) Ðấy những mối tình tháng Tám.
Nghỉ hè được bình dân hóa,
Nhưng họ khổ thì kệ họ, tôi cũng ít đọc Figaro Magazine, Figaro Madame nên không rõ khổ đến mức nào. Năm tuần lễ nghỉ, tôi thấy có lý, mà chẳng phải mình tôi. Ở Âu Châu nói chung, cái quyền làm ít là cái quyền thông dụng, ngay cả người lãnh lương thất nghiệp còn được hưởng, nghĩa là vào dịp nghỉ miễn khỏi phải ra Sở An Sinh trình diện để lãnh trợ cấp. Tôi về Paris vào dịp tháng Hai, chỉ buồn một chút cô bán bánh mỳ gần nhà đi vắng, cái bảng hành chánh báo tin trước cửa kéo màn không cho biết cô ta hai tuần lễ này giờ bột trôi bột nổi ở tận đâu. Tôi đành mượn lời ông Thôi Hộ, cụ Nguyễn Du mà "Bánh mì năm ngoái còn cười gió đông". (Tôi không biết chữ Nho, sợ trích "Bánh mỳ y cựu tiếu đông phong" nghe khó ổn, xin nhờ các vị Hán văn lỗi lạc chỉ giáo hộ). Hoa đào tôi chắc cái cười còn lơi lả thiếu đứng đắn chứ bánh mỳ thì tôi chịu lắm, nó tròn ròn rã tự nhiên. Nhất là bánh mỳ Tây.
Le, la baguette
Ở bên Pháp, có hai chuyện đáng kể. Thứ nhất là tình yêu và thứ nhì là bánh mỳ. Tình thì vô vàn rắc rối, rừng Boulogne, rừng Vincennes, rừng cao su mâu thuẫn vân vân, tôi chỉ biết kể chuyện bánh mỳ. Năm nay hai trăm năm kỷ niệm Cách mạng Tư sản Pháp, nói chuyện bánh mỳ không khỏi nhớ đến vợ chồng con cái Louis Thập Lục. Nhà này cũng được quần chúng mến yêu, gọi là "Ông làm bánh mỳ", "Bà làm bánh mỳ" và "Cậu bé làm bánh mỳ" (Ðông Cung Thái Tử, Dauphin de france, le petit mitron), tựa như là ta được thóc được gạo, vẫn cho đó là ơn vua vậy. Thế mà bà Marie-Antoinette ("con mẹ người Áo"), lúc dân chúng biểu tình đòi bánh mỳ lại bất nhẫn thốt ra câu "Chúng nó không có bánh mỳ thì cho chúng ăn bánh ngọt". Chữ "bánh ngọt" ở đây là brioche, người Mỹ dịch là cake. "Qu'ils mangent de la brioche – Let them eat cake" là một câu nhanh nhẩu khôi hài (đen) làm người đời nhớ mãi. Bánh brioche đời bà ta tôi không biết chứ đời nay ra tiệm mua nó đắt hơn bánh mỳ tiêu chuẩn những sáu bảy lần, nhiều khi người ta còn cho cả tóp mỡ (lardon) vào, ăn rất ngon. Thành thử ra, vài năm sau đó, người ta có lôi bà này ra chặt béng đầu cùng với ông chồng Cả Ðụt của bà tôi thấy cũng phải tuy tôi không là người khát máu. Ðiển tích này, chỉ để nói, ở bên Tây, dù là Hoàng Gia, Hoàng Hậu gì đi chăng nữa, cái chuyện bánh mỳ, chẳng thể đùa được.
Ðã lỡ nhắc đến họ nhà này, lại kỷ niệm hai trăm năm 1789, tôi nhớ Prévert có bài thơ mang tựa "Những Gia Tộc Lớn" để tặng họ. Nhớ mang máng thôi, xin đừng gọi điện thoại đến bắt bẻ:
"Louis I
Louis II
Louis III
Louis IV
Louis V
Louis VI
Louis VII
Louis VIII
Louis IX