HUYỀN THOẠI VỀ NHỮNG ĐỆ NHẤT CAO THỦ
Đào Thanh Tuy
(Nguồn: giadinh.net.vn. Yeuchip thực hiện ebook dạng prc để tặng riêng cho thuvien-ebook.com)
MỤC LỤC
I. ĐỆ NHẤT ROI HỒ NGẠCH VÀ HAI LẦN ĐÁNH CƯỚP DƯ ĐÀNH
II. HẠ VÕ SĨ NAM HÀN, VINH DANH LÀNG QUYỀN CỔ
III. TUYỆT KỸ CỦA CHA CON ÔNG "ỐC" BÌNH ĐỊNH GIA
IV. CHUYỆN VỀ “SƯ PHỤ CỦA VÕ TÒNG”
V. HAI LẦN “CỰC CHẲNG ĐÔ CỦA CHƯỞNG MÔN THĂNG LONG VÕ ĐẠO
VI. “VUA ÁM KHÍ” – ĐỆ TỬ CHÂN TRUYỀN CỦA PHÁI KHÔNG ĐỘNG
VII. “VUA ÁM KHÍ” VÀ NHỮNG LẦN “ĐÀM ĐẠO” VÕ HỌC CÙNG BÁC HỒ
VIII. “VUA ÁM KHÍ” VÀ LẦN DUY NHẤT DÙNG… ĐŨA ĐÁNH CƯỚP
IX. BẮC PHONG CHÂN NHÂN VÀ MÔN PHÁI “NHƯỜNG 3 ĐÒN”
X. CHƯỞNG MÔN PHÁI “NHƯỜNG 3 ĐÒN” THỬ TÀI “VUA ÁM KHÍ”
XI. CAO THỦ HOA QUYỀN VÀ TUYỆT KỸ HỒNG GIA
XII. AI LÀ THIÊN HẠ ĐỆ NHẤT VÕ VIỆT?
*************
I. ĐỆ NHẤT ROI HỒ NGẠCH VÀ HAI LẦN ĐÁNH CƯỚP DƯ ĐÀNH
Luận về võ công, không thể không nhắc đến đất võ Bình Định, cụ thể hơn là những địa danh như Thuận Truyền, An Vinh, An Thái. Đến giờ, tại nơi nghĩa quân Tây Sơn dấy binh đánh đuổi quân thù ấy vẫn còn truyền tụng những câu tục ngữ nói về tinh thần thượng võ của những địa danh này. "Roi Thuận Truyền, quyền An Thái" hay "Trai An Thái, gái An Vinh"…
Thôn Thuận Truyền nằm ở xã Bình Thuận, thôn An Vinh thuộc xã Bình An (quận Bình Khê), An Thái thuộc xã Nhơn Phúc huyện An Nhơn, giờ vẫn tồn tại rất nhiều những lò võ nức tiếng xa gần. Trong làng roi Thuận Truyền, không ai không biết tên tuổi lẫy lừng của võ sư Hồ Ngạch.
Hồ Ngạch tên thật là Hồ Nhu, ông sinh năm 1891, mất năm 1976, nguyên quán thôn Háo Ngãi, xã Bình An, sinh sống tại thôn Thuận Truyền, Bình Thuận. Cha ông là Đốc Năm (Hồ Đức Phổ), một võ quan của triều đình Huế, mẹ ông bà Lê Thị Huỳnh Hà, cũng là một người nức tiếng giỏi võ trong vùng.
Ngay từ nhỏ, Hồ Ngạch đã được cha mẹ truyền dạy võ công. Lớn lên, ông được gia đình gửi vào lò võ của cao sư Ba Đề, tiếp đến là Đội Sẻ, Hồ Khiêm, toàn những người nổi tiếng. Bởi thế, từ những đường roi của các cao nhân như Ba Đề, Hồ Khiêm kết hợp với nội công học được từ thầy Đội Sẻ đã tạo ra một Hồ Ngạch với những đường côn biến hoá, sâu hiểm khôn lường. Theo sự truyền tụng của giới võ lâm khi ấy, đường roi của Hồ Ngạch là tuyệt kỹ vô song.
Dân Bình Định đến giờ vẫn truyền tụng nhiều câu chuyện Hồ Ngạch bị các cao thủ khiêu chiến, thậm chí cả "đánh úp" hết sức lạ lùng. Các cao nhân thử tài với Hồ Ngạch thì nhiều lắm, nhưng nổi tiếng nhất vẫn là những trận thư hùng với lực sĩ Dư Đành.
Dư Đành là tướng cướp, về võ công thì đến cả quân lính triều đình khi nghe thấy tên cũng đã hồn xiêu phách tán. Tung hoành khắp vùng không có đối thủ, nghe tiếng Hồ Ngạch, Dư Đành nhiều lần gửi lời khiêu chiến. Chối từ mãi không được, sau cùng Hồ Ngạch cũng phải nhận lời thách đấu. Lần ấy, Dư Đành đem lũ lâu la về tận Thuận Truyền và hống hách đưa ra điều kiện, nếu Hồ Ngạch đấu thua thì phải gia nhập đảng cướp của y.
Vậy là, tại bãi vắng ngay sát thôn Thuận Truyền đêm ấy, một mình Hồ Ngạch đã đánh bại cả chục tên đệ tử của Dư Đành, vốn đều là những cao thủ võ lâm. Khi đám tay chân mỗi tên nằm một góc thì Dư Đành xuất hiện. Phải nói thêm rằng, Dư Đành có sức mạnh chẳng ai sánh kịp. Đã có lần, để diễu võ dương oai, một tay y đã cắp cả một con nghé hệt như người ta nhẹ nhàng bồng trên tay đứa trẻ.
Với thanh đao sáng loáng trên tay, vừa xuất hiện là Dư Đành tung đòn tới tấp. Thế nhưng, với đường roi thượng thừa của mình, Hồ Ngạch cũng chẳng hề nao núng. Đánh mãi mà vẫn không tìm được kẽ hở để "ăn sống nuốt tươi" đối phương, Dư Đành thấy máu nóng dồn lên mặt. Và khi ấy, Hồ Ngạch mới ra đòn tuyệt kỹ…
Tránh đòn truy hồn của đối phương, ông nhẹ nhàng tung người đá văng thanh đao cắm xuống đất, đồng thời xoay người giở đòn đánh nghịch. Biết đã vào thế hiểm, tiến thoái lưỡng nan, Dư Đành đành nhắm mắt chờ đường roi sát thủ. Thế nhưng, sau khi tiếng roi vun vút cất lên, Dư Đành đã thở phào choàng tỉnh bởi đường roi vừa chạm áo thì đối thủ đã thu về không đánh nữa.
Trận thư hùng ấy, dù đã nợ Hồ Ngạch một mạng nhưng Dư Đành vẫn không phục. Y rắp tâm kiếm cơ hội trả thù. Bởi thế, một chiều, đang mải mê với những chiêu thức võ thuật thì Hồ Ngạch được mọi người báo tin, không biết ai đã đến nương sắn nhà mình và nhổ hết sắn đóng vào những giỏ lớn. Điều lạ lùng là tất cả số sắn đó, kẻ trộm không lấy mang đi mà vẫn để nguyên trên rẫy.
Hồ Ngạch đâu biết rằng, đó là một âm mưu của Dư Đành. Ra rẫy, thấy sắn bị nhổ, chẳng còn cách nào khác, Hồ Ngạch đành phải quẩy những sọt sắn trĩu nặng ấy về. Vừa đi được một đoạn thì từ bụi cây bên đường, Dư Đành vọt ra với chiếc bắp cày trên tay. Chẳng nói chẳng rằng, y tung luôn một đường sát thủ.
Nghe tiếng gió, Hồ Ngạch vội thụt xuống, đường cày vụt qua đầu, văng thẳng vào cây bồ lời làm thân cây gẫy gập. Lợi dụng luôn cú đánh hụt ấy, Hồ Ngạch tức tốc áp sát, nhanh như chớp, chụp luôn tay Dư Đành rồi sử dụng thế lạc côn, không những hoá giải mà còn biến sức đối phương thành lực của mình, hất thẳng Dư Đành xuống bụi tre gần đó. Mắc kẹt giữa đám tre gai góc, lúc ấy, Dư Đành mới khẩn khoản xin tha và hứa từ đó không bao giờ dám về làng Thuận Truyền quậy phá nữa.
|
Rất nhiều võ sư Việt Nam hiện nay có thể biểu diễn được công phu này |
Đệ nhất côn thư hùng đệ nhất quyền
Năm 1924, làng võ Bình Định xuất hiện thêm một dòng võ mới đó là quyền Tàu. Người sáng lập ra dòng võ này là Tàu Sáu, tên thật là Diệp Trường Phát, sinh năm 1896 tại An Thái. Tuy là người Trung Quốc nhưng gia đình Diệp Trường Phát sinh sống ở An Thái đã được mấy đời.
Hấp thụ tinh thần thượng võ từ An Thái, 13 tuổi, Diệp Trường Phát được gia đình gửi về Trung Quốc để học võ từ các cao sức của Thiếu lâm Bắc phái. Sau 15 năm thụ giáo tại cố hương, 28 tuổi, Diệp Trường Phát trở lại An Thái mở lò dạy quyền Tàu.
Đến giờ, dân làng An Thái vẫn truyền tai nhau chuyện thi tài giữa Sáu Tàu và đệ nhất roi Hồ Ngạch. Bởi đó là cuộc thí võ kết bạn nên hai bên đã giao ước không gây thương tích, chỉ dùng mực ghi dấu trên y phục đối phương. Trước sự chứng kiến của nhiều môn đồ, hai ông giao kèo lấy một tuần nhang là một hiệp đấu.
Sau hiệp đấu quyền, khán giả đếm được những vết mực trên áo hai người là như nhau, tuy thế, Hồ Ngạch vẫn chắp tay bái phục Tàu Sáu, thừa nhận mình kém hơn một bậc. Khán giả hết sức ngạc nhiên.
Khi ấy, Hồ Ngạch mới giải thích, các vết mực Tàu Sáu lưu trên y phục mình có phần nhạt hơn. Điều đó chứng tỏ rằng, đường quyền thế cước của Tàu Sáu đã ở mức thượng thừa. Bởi vậy nên ông mới có thể vận hành công lực như ý muốn nên đòn ra mới nhẹ nhàng, dấu mực mới nhạt. Nếu cũng những quyền thế ấy, thi triển hết 12 thành công lực thì sức mạnh sẽ rất kinh hoàng, có thể lấy mạng người trong chớp mắt.
Về côn, tuyệt kỹ của Hồ Ngạch, hai bên cũng quần thảo kinh hồn. Người xem chỉ thấy tiếng gậy va vào nhau chan chát còn bóng người thì lấp loá, mờ ảo. Sau tuần nhang, Tàu Sáu thấy trên người mình nhiều vết mực hơn. Trước đông đảo mọi người, ông đã chắp tay bái phục: "Đoản côn ở Thuận Truyền chỉ có Hồ Ngạch làm chủ!".
II. HẠ VÕ SĨ NAM HÀN, VINH DANH LÀNG QUYỀN CỔ
Sáng tổ của làng quyền An Vinh (đất võ Bình Định) là Nguyễn Ngạc, tức Hương Mục Ngạc. Theo nhiều người thì bà tổ cô của Nguyễn Ngạc chính là thầy dạy võ của nữ tướng Bùi Thị Xuân.
Nguyễn Ngạc có nhiều học trò, họ đều là những võ sư ưu tú, tiếng tăm lừng lẫy. Trong số ấy phải kể đến Bảy Lụt, Tám Cảng, Chín Giác, Sáu Hà, Tám Tự, Hai Tửu, Hương Kiểm Mỹ…
Bảy Lụt tên thật là Nguyễn An, là con trai của Nguyễn Ngạc. Ông sáng dạ, sức khoẻ thì phi phàm, lanh lẹ tựa cọp beo.
Năm 1935, Bảy Lụt cùng em mình là Chín Giác và Hương Kiểm Mỹ tham dự giải đấu võ đài toàn quốc tại Huế. Thi đấu thắng hàng loạt đối thủ, ông đã đem về cho làng quyền An Vinh huy chương vàng. Từ đây, danh tiếng về làng võ này đã được các môn sinh khắp nơi biết đến.
Thừa hưởng các bí kíp quyền pháp của cha, không để thất truyền, Bảy Lụt cũng chiêu mộ nhiều đệ tử. Trong số ấy, nổi danh nhất là võ sư Phan Thọ, người gốc Bình Nghi (Tây Sơn) người đã thừa kế di sản đồ sộ của môn phái quyền An Vinh.
Võ sư Phan Thọ sinh năm 1925, bắt đầu học võ từ năm 17 tuổi. Ông được lĩnh hội võ thuật cao siêu của rất nhiều tiền bối. Các bài quyền, roi, kiếm, đao, thương ông học từ thầy Bảy Lụt, Tàu Sáu (Diệp Trường Phát). Các môn kích, gản, phủ, lăn khiên, chùy… ông học từ thầy Sáu Hà (Lê Hải). Các môn côn, thước, xích, độc bút, xà mâu, đinh ba… ông lĩnh hội từ thầy Hồ Ngạch. Tuy thế, sở trường của ông vẫn là quyền, thứ mà ông được thầy Bảy Lụt dày công dạy dỗ.
Cũng giống như nhiều võ sư nổi tiếng khác, võ sư Phan Thọ cũng đã có nhiều trận thi tài, mà đến giờ nhiều người khi nhắc tới đều vẫn ngả mũ thán phục tài năng.
Ngày ấy, khu vực Nam bộ, Trung Nam bộ rộ lên phong trào thi đấu võ đài theo kiểu tự do. Dù đã thượng đài rất nhiều lần nhưng Phan Thọ vẫn chưa có đối thủ. Tiếng tăm ông mỗi lúc một vang xa.
Năm 1972, một võ sư taekwondo đệ ngũ đẳng huyền đai, vốn là một sĩ quan quân đội Nam Hàn đã tìm đến ông gửi lời khiêu chiến. Bị "áp đáo tại gia", dù mến khách nhưng không có cách nào khác, ông phải nhận lời.
Trận tỉ thí diễn ra ngay trong nhà. Không khách khí, khách tung đòn trước. Đó là một cú đá có sức mạnh kinh hồn. Nhanh như sóc, Phan Thọ cúi người né tránh khiến chiếc cột giữa nhà thành… nạn nhân bất đắc dĩ. Thiết cước ấy làm cả gian nhà rung chuyển.
Thủ thế đến chiêu thức thứ ba, khi đối phương vẫn hăng say tung những cú đá nhanh như chảo chớp của mình. Lựa một cú đá quét ngang mặt của đối phương, ông liền giở thế tấn mã tam chiến, một chân quét, một tay đỡ đòn, tay còn lại dương hổ trảo, hạ luôn đối thủ. Chỉ một cú đánh ấy, viên sĩ quan Nam Hàn đã nằm sõng soài ngay góc nhà. Và, đương nhiên, anh ta chắp tay kính phục.
Ở tuổi tuổi xưa nay hiếm, nhưng lão võ sư Phan Thọ vẫn phải đứng ra nhận lời thách đấu của giới võ lâm. Khi ấy, năm 1998, lại một đoàn võ sĩ cũng của Hàn Quốc tìm đến nhà ông. Họ cho rằng, võ cổ truyền của Việt Nam chỉ là võ vườn, không có đẳng cấp như taekwondo nước họ. Tuy đã có tuổi, chẳng còn máu hơn thua nhưng khi đã chạm đến lòng tự hào dân tộc, lão võ sư lại xắn áo "thượng đài".
Lợi dụng sức trẻ, võ sinh Hàn Quốc ra đòn vun vút. Có cú sát thủ đến nỗi cả mảng vữa tường rơi lả tả. Lão võ sư cứ nhẹ nhàng tránh né, hoá giải, chờ cơ hội. Và cơ hội ấy cũng đã đến khi đối phương tung một cú đòn lỡ trớn. Chỉ chờ có vậy, lão võ sư liền cúi người, quét luôn chân trụ. Chỉ một cú đòn ấy, đám khách không mời đã phải chắp tay: "Kung fu Tây Sơn danh bất hư truyền!".
III. TUYỆT KỸ CỦA CHA CON ÔNG "ỐC" BÌNH ĐỊNH GIA
|
Lão võ sư Trần Hưng Quang đang dạy võ |
Ông trông hệt như Lão Ngoan Đồng Chu Bá Thông, một nhân vật võ công cái thế, tóc bạc như cước nhưng lúc nào cũng hồn nhiên như trẻ nhỏ trong tiểu thuyết nổi tiếng “Thần điêu đại hiệp” của Kim Dung…
Từng nổi danh với vai Ốc trong vở tuồng kinh điển Nghêu – Sò – Ốc – Hến, lại thêm cái vẻ hóm hỉnh ngoài đời, ít ai có thể ngờ rằng ông lão có vóc người nhỏ bé tuổi ngoại bát tuần ấy lại là chưởng môn của môn phái lừng danh Bình Định Gia.
Vị sáng tổ và tình bạn với võ tướng triều Quang Trung
Ông là võ sư Trần Hưng Quang, giang hồ thường gọi là Quang "Ốc", hay còn gọi thân mật là "ông Ốc". Trong giới võ lâm bây giờ, ông được suy tôn vào hàng trưởng lão. Những năm 90 của thế kỷ trước, đặc biệt khi người con trai Trần Hưng Hiệp tài năng thiên bẩm của ông còn sống, võ phái Bình Định Gia là mái nhà chung của cả vạn môn sinh đam mê quyền cước…
Ở Võ đường Việt – An (sân trường Việt Nam – Angiêri, đường Nguyễn Quý Đức, Thanh Xuân, Hà Nội) lúc nào cũng thấy một ông già ngồi đăm chiêu. Tuy ngồi bất động như thiền nhưng ánh mắt quắc thước của ông vẫn dõi theo từng động tác của đám học trò. Hễ ai tập sai, như điện giật, ông bật dậy, hấp tấp chạy tới, lúc la hét, khi ngọt ngào uốn nắn. Xong việc, ông lại thong thả bước lên thềm.
Ông quê gốc ở Bình Định. Theo đồng đạo võ lâm thì ông là người duy nhất đưa võ cổ truyền Bình Định Bắc tiến thành công. Nói về võ phái của mình, ông bảo, cách đây trên 200 năm cụ Trần Đại Chí, sáng tổ của môn phái, vốn là một võ tướng, võ công đệ nhất, thao lược tài danh, bởi mâu thuẫn với nhà Thanh mà chạy dạt sang đất Việt.
Theo gia phả của dòng họ thì thủa nhỏ, cụ Chí được gia đình gửi vào Thiếu Lâm học võ. Hơn chục năm trời theo thầy miệt mài với thập bát ban thành thạo, cụ lai kinh những mong đem chút tài mọn phụng giúp quốc gia, vinh danh dòng họ.
Thế nhưng, Mãn Thanh vào buổi suy tàn, bất mãn cụ đã đưa cả gia quyến xuôi về phương Nam, đến Bình Định. Tại đây, duyên kỳ ngộ, cụ đã kết bạn với võ tướng Võ Văn Dũng, một trong những tướng tài của vua Quang Trung.
Tri kỷ, hai người suốt ngày trà dư tửu hậu, bàn luận chuyện võ học tinh hoa. Và, những ngày tháng ấy, hai người đã trao đổi cho nhau tất cả những bí kíp võ công mà cả đời mình tầm sư học được. Qua cụ Dũng, cụ Chí đã lĩnh hội được toàn bộ võ công chân truyền của Bình Định, đồng thời, nhờ cụ Chí mà cụ Dũng đã thông tuệ võ học Trung Hoa.
Sau khi cụ Võ Văn Dũng qua đời, cụ Trần Đại Chí đã nghiên cứu, chắt lọc, tổng hợp những tinh hoa của hai nền võ thuật Trung Hoa và Việt Nam, sáng lập dòng Bình Định gia truyền theo nguyên tắc kết hợp giữa cương, nhu, trường, đoản, hư, thực. Đường lối của các võ phái thời ấy thường nêu cao tính chất chiến đấu, không nặng về biểu diễn khoa trương.
"Nuốt chửng" nhiều bí kíp võ công
Ở tuổi lên 10, võ sư Quang Bảo (tên gọi của lão võ sư Trần Hưng Quang) được cha mình truyền thụ võ nghệ. Đến năm 13 tuổi, với tư chất lanh lẹ, tinh tuý của phái võ gia truyền đã được ông cơ bản lĩnh hội. Tuy không muốn để lộ khả năng võ thuật của mình, nhưng tiếng tăm về cậu bé anh hùng ở Phú Cát là ông vẫn ngày một vang xa.
Tiếng lành ấy kinh động đến cả phủ quan, bởi thế, rất nhiều lần họ triệu tập ông đến chỉ với mục đích được thực mục sở thị ông thi triển quyền cước. Năm 14 tuổi, biết đã hết "vốn" để dạy cho đứa con khiếu võ, cha ông bắt đầu hành trình tìm thầy để mở rộng khả năng cho con mình. Gần chục năm ròng, hễ thầy nào có tiếng ở Bình Định thì cha ông đều dắt ông tới học.
Chỉ một vài năm, thậm chí vài tháng thì ông lại lên đường đi tìm thầy mới. Bây giờ, một trong những giai thoại tầm sư học đạo của ông vẫn được người Bình Định truyền tai nhau.
Ngày ấy, thầy Hà Trọng Sơn ở Phước Sơn (Tuy Phước) có môn song kiếm thuộc loại tuyệt kỹ, mỗi khi đường kiếm vung lên thì chẳng khác nào phượng múa rồng bay. Nhu cương hài hoà, mềm mại nhưng sự lợi hại thì kinh hồn bạt vía. Độc chiêu ấy, dù đệ tử rất đông, nhưng không ai lĩnh hội vẹn toàn.
Theo cha, ông đến và thật ngạc nhiên, chỉ sau ít bữa "ăn nhờ ở đậu", ông đã "nuốt chửng" bí kíp này. Thậm chí, trong đường kiếm ông đi, có nét nhàn nhã, thảnh thơi chẳng khác gì diều bay giữa trời quang đãng.
Tuy tạng người nhỏ bé, nhưng cũng như bao người luyện võ khác ở Bình Định, ông mải mê đi đánh võ đài. Ông kể, thủa ấy, ở Bình Định, bất cứ làng võ nào cũng có võ đài. Người luyện võ thường đăng đài thi thố tài năng, đấu võ để kết bạn, để trau dồi kiến thức. Lần thượng đài nào ông cũng giành cho mình phần thắng.
Đến giờ, người mê võ ở Bình Định hẳn chưa thể nào quên trận thư hùng kinh điển giữa ông và võ sĩ Đào Duy Hạ tại Quy Nhơn. Trận đấu diễn ra dưới sự cổ vũ cuồng nhiệt của cả mấy trăm người. Hai ông giao kèo đánh 3 hiệp, mỗi hiệp là 1 phút rưỡi. Trong 3 hiệp ấy, ai rớt đài trước thì là người thua cuộc.
Vào trận, tuy đã mặc khác màu áo nhưng bởi chiêu thức được tung ra quá nhanh nên khán giả vẫn không thể phân biệt được đâu là ông Hạ, đâu là ông Quang. Ba hiệp đấu trôi qua, cả hai võ sĩ đều thở dốc mà vẫn chưa phân thắng phụ. Đó là trận đấu duy nhất ông gặp đối thủ ngang tài ngang sức.
|
Võ sư Trần Hưng Quang luyện tập với mộc nhân |
Dùng thiết đầu công "đột nhập" tàu hỏa đang chạy
Ông theo nghiệp tuồng, cũng là một "tài sản" gia truyền. Và, trong cuộc đời nghệ sĩ của mình, ông đã ghi dấu ấn bởi đã đưa võ vào tuồng.
Năm 1980, nghỉ hưu, ông về Hà Nội sinh sống. Suốt mấy chục năm sống xa nhà, vào Nam ra Bắc, ngay chuyện đi tàu của ông cũng có giai thoại.
Một lần, ra đến nhà ga thì tàu đã chuyển bánh. Bế hai con nhỏ trên tay, túi khoác trên lưng, ông cắm đầu cắm cổ đuổi theo. Khi vừa theo kịp thì cửa toa tàu đã đóng im ỉm. Quá cấp bách, ông đành sử dụng luôn món "Thiết đầu công" mà mình đã khổ công rèn luyện. Cú húc đầu như trời giáng ấy đã làm cánh cửa sắt bật tung. Vẫn ôm con trên tay, ông vọt lên tàu một cách nhẹ nhàng.
Năm 1982, Bình Định Gia chính thức khai trương ở Hà Nội. Một lần kéo đệ tử lên CLB võ thuật quận Đống Đa biểu diễn, võ phái của ông đã làm những quan chức của Sở Thể dục – Thể thao Hà Nội mê mệt. Và, ngay lập tức họ đã mời ông tham gia Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội.
Chàng trai trẻ và những lần bất đắc dĩ xuất lộ tuyệt kỹ
|
Cố võ sư Trần Hưng Hiệp |
Ông có 3 người con, 2 trai một gái. Cố võ sư Trần Hưng Hiệp là thứ hai.
Với võ sư Quang thì dường như Hiệp sinh ra là để học võ. Ông kể, ngay từ tấm bé, ông đã phát hiện ra năng khiếu võ thuật thiên bẩm của cậu con trai. Bởi thế, những bài quyền, thế cước ông rèn cặp, Hiệp đã lĩnh hội rất nhanh. Nối nghiệp cha, Hiệp cũng theo học môn Tuồng cổ ở trường Sân khấu – Điện ảnh và dốc toàn bộ thời gian còn lại vào việc luyện rèn võ thuật.
Thời gian ấy, hễ nghe tiếng ở đâu có thầy giỏi là ngay lập tức anh tìm đến bái sư theo học. Bởi thế, khi tuổi mới đôi mươi, vốn liếng võ công của anh đã được võ lâm đồng đạo bái phục, kính nể và trở thành vị võ sư trẻ tuổi nhất trong làng võ cổ truyền.
Lão võ sư Trần Hưng Quang nói, nhờ có Hiệp mà Bình Định Gia trở nên nổi tiếng, được đông đảo môn sinh theo học, quần hùng mến mộ.
Tuổi trẻ, võ công cái thế, nhưng tính Hiệp điềm đạm, trầm tĩnh, sống nội tâm. Lão võ sư kể, có lần trong khu nội trú trường Sân khấu – Điện ảnh, một nhóm đầu gấu bên ngoài vào trường quậy phá, bắt nạt sinh viên. Không muốn va chạm nhưng cũng chẳng thể ngồi yên, Hiệp đành ra mặt.
Chọn tên có vẻ gấu nhất, anh mời vào phòng mình nói chuyện. Thấy cậu sinh viên người nhỏ bé, mặt mũi thư sinh, vị khách mời không những không tiếp thu những lời phải quấy mà còn tỏ thái độ thách thức, chửi bới om sòm.
Biết không thể nói suông với kẻ không biết điều ấy, đứng phắt dậy, Hiệp bảo: "Nếu anh thích đánh nhau thì đánh nhau với tôi! Nhưng cho tôi hỏi, chân tay anh liệu có cứng bằng chiếc chân giường này không?". Hỏi chưa dứt câu, bất thình lình anh tung chân đá quét. "Dính chưởng", chiếc chân giường vuông thành sắc cạnh gẫy gập làm đôi, văng ra phía cửa. Nhìn thấy cảnh ấy, kẻ "đầu gấu" mặt cắt không ra máu, ú ớ lùi ra rồi hô lũ đàn em chuồn thẳng.
Sau này, bởi ấn tượng với võ công thâm hậu và tinh thần thượng võ ấy, gã đầu gấu đã tìm đến anh, bái làm sư phụ, tu chí luyện rèn võ nghệ.
Cũng trong thời gian ấy, một chiều đi học về, gặp người quen anh được mời vào quán uống bia. Bàn bên cạnh, mấy gã đã ngà ngà, nói năng toàn lời tục tĩu. Hết chuyện, thấy bàn bên cạnh có cậu trai cứ ngồi im, chẳng nói chẳng rằng (anh không uống được bia) thì bọn chúng lấy làm… ngứa mắt. Chúng buông lời bóng gió cợt nhả, rồi cười hô hố với nhau.
Thấy vậy, anh quay đi, chẳng thèm để ý. Sự phớt lờ của anh khiến chúng càng thêm tức tối, ỷ đông, chúng quay sang gây sự. Mấy "chiến hữu" cùng bàn với anh ai cũng nóng mắt, nhưng thấy "quân ta" yếu thế hơn nên chẳng ai dám động thủ.
Trấn an các bạn, anh đứng dậy quay sang bàn bên. Giơ cốc bia đang uống dở lên, hướng về phía đối phương, anh bóp mạnh. Chiếc cốc vỡ vụn, phát ra những âm thanh sởn da gà. Chưa dừng lại, tay phải anh tung luôn một cú thôi sơn vào bức tường kiên cố ngay bên cạnh.
Cú đấm uy lực đến nỗi cả bức tường và mái nhà rung lên như vừa xảy ra địa chấn. Thấy đã gặp phải cao thủ, biết có đông cũng đánh không lại, nhóm anh chị bàn bên bỗng im phăng phắc. Phía bên này, sau những cú thị uy ấy, Hiệp lại chậm rãi ngồi xuống như chẳng có chuyện gì.
Linh giác công công phu đệ nhất
Cho đến bây giờ, võ lâm đồng đạo vẫn suy tôn Linh giác công của Trần Hưng Hiệp là thiên hạ đệ nhất, không ai bì kịp. Biểu diễn tuyệt chiêu này đòi hỏi người võ sư phải có công lực thượng thừa và cái tâm luôn tĩnh.
Với tuyệt chiêu này, đã nhiều lần Hiệp làm người xem thót tim vì sợ. Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, khi biểu diễn Linh giác, Hiệp thường đặt quả cam, táo, hoặc một mẩu thân chuối dài chừng gần chục cm lên đỉnh đầu người đối diện. Sau ấy, bằng mảnh vải đen, anh bịt kín mắt mình, tay cầm kiếm sắc, từ từ tiến tới. Mắt bịt kín, nhưng bằng giác quan, anh vẫn xác định được vị trí của mục tiêu và vung kiếm chém tới…
Dù chém ngang, hay dọc thì đường kiếm ngọt ngào ấy cũng chỉ phạt đôi vật thể trên đầu, chứ chẳng mảy may làm tổn thương một cọng tóc của người trợ diễn.
Ngay cả lão võ sư, đã nhiều lần xem con mình biểu diễn, nhưng lần nào ông cũng… hoảng. Ông cấm con mình tuyệt đối không được dạy chiêu thức nguy hiểm ấy cho ai. Dặn con vậy không phải vì ông muốn giữ độc chiêu cho gia đình mình mà vì… sợ. Đám học trò hiếu động, học chưa đến nơi đến chốn, chém phạt đầu nhau thì vô cùng nguy khốn.
Tuy quá nổi danh với Linh giác công nhưng sau này, mọi người đã không được thấy anh biểu diễn tuyệt chiêu này nữa. Anh là người cẩn trọng, không bao giờ thích chuyện phiêu lưu hay những trò chơi nguy hiểm. Bởi thế, một lần, diễn Linh giác bị hỏng, anh đã quyết tâm từ bỏ sở trường này.
Lần ấy, Bình Định Gia tổ chức biểu diễn ở Nhà văn hoá huyện Từ Liêm. Tiết mục Linh giác trứ danh của Hiệp được toàn thể khán giả đón đợi. Lần thứ nhất, quả táo Tầu nhỏ xíu trên đầu người trợ diễn đã bị anh chém toác đôi. Nhiều người kinh hãi không dám nhìn nhưng cũng nhiều người ưa cảm giác mạnh, muốn anh diễn lại.
Không thể chối từ thịnh tình của người mến mộ, anh lại bịt băng đen che mắt, lại tiếp tục diễn trò. Thế nhưng, khi thanh kiếm sáng loáng trong tay vừa vung lên thì anh bỗng khựng người lại, buông kiếm xuống. Tiếp tục một lần nữa cũng vẫn vậy, thanh kiếm trên tay anh chẳng thể lượn một đường ngọt xớt như nó vẫn thường thi triển, vẫn làm người xem kinh hãi.
Có lẽ, linh giác đã mách bảo anh rằng, trong một tâm trạng không được thoải mái, anh không nên dụng trò nguy hiểm ấy. Đắn đo, sau cùng, anh đã xin lỗi khán giả và thay bằng việc đặt quả táo lên đầu người trợ diễn thì anh đặt quả táo lên thành ghế. Nhát kiếm chí tử được tung ra. Quả táo bị chém phạt phần dưới, tung lên rồi lăn lông lốc trên sàn nhà. Mọi người vẫn vỗ tay rầm rập. Thế nhưng, trên mặt anh vẫn không thấy nụ cười.
Chào khán giả, anh vội vàng lùi vào phía trong. Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, về nhà con trai ông đã kể cho ông "sự kiện lạ lùng" ấy. Và, anh còn tiết lộ, hàng đinh đóng trên thành chiếc ghế đã bị anh chém bay hết mũ. Nếu hôm ấy, nếu là người thật thì không biết hậu quả thế nào. Vậy là, nghe theo lời khuyên của cha, cùng với tính cẩn trọng của mình, anh đã từ bỏ môn võ mà mình đã khổ công rèn luyện.
Khi tài năng đang độ chín muồi, khi Bình Định Gia đang khởi sắc, phát triển võ đường đến hầu hết các tỉnh phía Bắc với hàng vạn môn sinh theo học thì vì một tai nạn giao thông thương tâm, Trần Hưng Hiệp đã không còn nữa. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, từ hôm nghe tin con trai mất, ông cứ thấy mình như đi trên mây khói, người như không còn chút trọng lượng, sức lực nào.
IV. CHUYỆN VỀ “SƯ PHỤ CỦA VÕ TÒNG”
|
Một màn công phu đặc dị của Thăng Long võ đạo |
Năm 1989, báo giới đồng loạt đưa những thông tin “giật mình” về một “hiện tượng võ thuật mới”… Nhân vật của các bài báo chứa đựng sự kinh ngạc ấy là võ sư Nguyễn Văn Thắng, hiện là chưởng môn của Thăng Long võ đạo lừng danh.
Được thừa hưởng một gia tài võ học khổng lồ từ người ông và cha mình, võ sư Nguyễn Văn Thắng đã bổ sung cho nghệ thuật võ học Việt Nam nhiều giai thoại.
Ngày ấy, tại Đại hội võ thuật toàn quốc, với tiết mục Khẩu lợi công, Nguyễn Văn Thắng đã làm cho cả giới võ lâm phải ngả mũ kính phục. Vóc dáng thư sinh, gày còm (nặng 52 kg) nhưng qua khổ luyện, với hàm răng như thép của mình, ông đã nâng bổng chiếc bàn bao gồm đỉnh đồng, nến, hạc, khung ảnh Đạt Ma sư tổ… nặng tới gần 80 kg.
Hơn 20 năm đã trôi qua, vị võ sư gây chấn động với công phu đặc dị năm xưa vẫn thế, vẫn vóc dáng thư sinh, vẫn kiểu đi lại, nói năng hoạt bát và vẫn phương châm sống: "Thần vượng không ham ngủ, khí vượng không ham ăn, tinh vượng không ham sắc"… Đặc biệt hơn, ông vẫn gây bất ngờ bởi những công phu siêu đẳng của mình.
Lời giới thiệu của một đại cao thủ
Nội công thâm hậu của võ sư Nguyễn Ngọc Nội (môn phái Vịnh Xuân) đã nức tiếng trong làng võ bấy lâu nay. Ông đã từng đăng đài để mọi người thẳng tay đấm vào bụng mấy ngàn quả mà mặt chẳng hề biến sắc.
Vậy nhưng, khi hỏi ông về những cao thủ trong làng võ, đặc biệt về nội công, ông đã không ngần ngại giới thiệu cái tên Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo. Theo võ sư Nguyễn Ngọc Nội thì sự nghiệp võ công của người đồng đạo Nguyễn Văn Thắng đang có những bước tiến bất ngờ.
Dù được sự chỉ dẫn tận tình của võ sư Nội, nhưng vất vả lắm tôi mới gặp được vị võ sư từng gây kinh ngạc trong giới võ lâm năm xưa bởi ông bận túi bụi tối ngày. Thời gian biểu cho một ngày làm việc của ông, ai thấy cũng đều phát hoảng.
Một ngày của võ sư Thắng bắt đầu từ 3 giờ sáng. Khi ấy, tiết trời thanh mát, khí huyết lưu thông, ông lên sân thượng luyện khí công. Luyện khí đến 5 giờ, ông ra công viên Thống Nhất dạy khí công cho môn sinh cao tuổi. Bởi đang làm Chủ nhiệm khoa Giải phẫu bệnh lý (Bệnh viện Thanh Nhàn) nên 7 giờ, ông vội vã đến cơ quan. Làm việc đến 4 giờ chiều, ông về dạy thêm một lớp khí công ngay tại sân thượng nhà mình. Đến 7 giờ tối, lại tiếp tục dạy một lớp võ thuật cũng ngay tại sân thượng ấy.
|
Các võ sĩ Thăng Long võ đạo đang luyện tập |
Dòng dõi oai hùng
Võ sư Nguyễn Văn Thắng là chưởng môn đời thứ hai của Thăng Long võ đạo. Chưởng môn đời trước, cũng là sáng tổ của môn phái chính là cha đẻ của ông, võ sư nổi tiếng Nguyễn Văn Nhân.
Nếu ai đã tận thấy những thế võ cận chiến tuyệt kỹ mà đặc công Việt Nam vẫn sử dụng để hạ gục đối phương trong chớp mắt thì có thể hình dung ra phần nào quyền cước siêu phàm của Thăng Long võ đạo, bởi trước đây lão võ sư Nguyễn Văn Nhân là thầy dạy của rất nhiều đơn vị đặc công.
Cho đến tận bây giờ, làng võ vẫn nói cố võ sư Nguyễn Văn Nhân là người may mắn, bởi ông được thừa hưởng một "gia sản võ học" khổng lồ mà ông nội, ông ngoại của mình truyền lại.
Ông nội cố võ sư là một võ tướng của triều đình nhà Nguyễn, tên là Thống Luận. Cụ Thống Luận theo học Thiếu lâm nội gia, là bạn vong niên với cụ Đề Thám nên võ học cũng hết sức uyên thâm.
Ông ngoại cố võ sư Nhân là cụ Cử Tốn, người chỉ nhắc tới tên, cao thủ khắp nơi đều phải chắp tay bái phục. Cụ Cử Tốn là cử nhân võ thuật cuối cùng của triều Nguyễn. Khi giặc Pháp tấn công Hà Nội, cụ đã cùng Tổng đốc Hoàng Diệu chiến đấu trong thành. Về sau, khi Hà thành thất thủ, Tổng đốc Hoàng Diệu tuẫn tiết, cụ Cử Tốn lui về ở ẩn tại khu làng ngay bên ngoài thành Hà Nội (phố Trần Quý Cáp bây giờ).
Đau đáu nỗi nhục mất nước, cụ bí mật mở lò dạy võ, những mong, khi cơ hội đến lại cùng các môn sinh yêu nước của mình vùng lên chống giặc. Lò võ ấy một thời đã thu hút được rất nhiều những môn sinh ưu tú như Mùi Đen, Sáu Tộ (Sáng tổ môn phái Nam Hồng Sơn), Lý Đen, đặc biệt về sau này, người cháu ngoại của cụ - võ sư Nguyễn Văn Nhân, với những tinh hoa võ thuật học được từ cụ đã làm rạng danh tiên tổ.
|
"Hoàng Phi Hồng của Việt Nam"
Cụ Cử Tốn nhiều giai thoại, hệt như Hoàng Phi Hồng bên Trung Quốc, tinh thần thượng võ luôn song hành với tinh thần ái quốc, thương dân. Bởi là nơi hội tụ những nhân vật kỳ tài, quân Pháp coi lò võ của cụ chẳng khác nào cái gai trong mắt. Chúng tìm cách triệt hạ để Hà Nội không còn "vườn ươm mầm hoạ". Có lần, chúng bày gian kế hãm hại cụ đến mù hai mắt.
Thế nhưng, trước âm mưu hèn hạ của kẻ thù, cụ vẫn không hề khuất phục. Lò võ của cụ vẫn bí mật chiêu sinh, cụ thì vẫn bí mật truyền dạy võ công cho những đệ tử yêu nước của mình.
Bất lực, giặc Pháp viện đến một âm mưu quỷ quyệt, ấy là dùng giới võ lâm để triệt hạ lão võ sư "cứng đầu" ấy. Chúng dựng võ đài, loan báo khắp Đông Dương rằng, võ sư nào đánh hạ được thày trò Cử Tốn thì sẽ được trọng thưởng Bắc Đẩu bội tinh và được trọng đãi hậu hĩnh sau này.
Âm mưu ấy là vô cùng thâm hiểm, bởi sẽ gây cảnh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn. Nham hiểm hơn, chúng nghĩ, ham mê danh lợi, nhiều người đã "bỏ quên" tinh thần yêu nước, xoay mũi giáo vào chính… người nhà, quyết chí ăn thua.
|
Công phá chồng gạch |
"Sư phụ của Võ Tòng" ở… Việt Nam
Hiểu rõ âm mưu ấy, cụ Cử Tốn rất đỗi phân vân. Thượng đài thì khác nào mắc mưu quân cướp nước, không thượng đài thì môn phái ô danh, quần hùng khinh rẻ.
Sau cùng, cụ đã nghĩ ra được một kế sách vẹn toàn. Ngày ấy, ở sở thú Hà Nội có con hổ cụt đuôi vô cùng hung dữ. Con hổ to lớn, hễ thấy người là lồng lên, bổ nhào lên chuồng thép như muốn ăn sống nuốt tuơi. Cụ Cử Tốn muốn môn sinh của mình diễn lại tích "Võ Tòng đả hổ" ngay trước mắt quần hùng để tạo thanh thế.
Người được cụ chọn sắm vai Võ Tòng là võ sư Mùi Đen, một đệ tử có thân hình vạm vỡ. Đúng hôm đăng đài, quần hùng tụ tập mấy vòng xung quanh cùng đám sĩ quan Pháp và bè lũ sai nha, cụ Cử mới nói rõ lý do tại sao lại thay màn tỉ thí võ công bằng màn đả hổ. Nghe cụ nói, tất thảy đều cúi đầu im lặng, và nín thở chờ xem màn quần thảo mà mới đầu ai cũng cho là chơi dại ấy.
Sau một hồi trống rộn rã, hai chuồng cọp đã được mấy chục người khiêng ra, đặt ở hai đầu võ đài. Phía bên trái là chuồng con cọp đực cụt đuôi đang gầm lên những tiếng kinh hồn, bên phải là con cọp cái cũng đang nhe nanh, giương vuốt gầm gừ trông vô cùng dữ tợn.
Mùi Đen thượng đài, trông vô cùng hùng dũng. Cứ thế, trước sự kinh hãi của mọi người, ông thủng thẳng vào mở cửa chuồng con cọp đực. Hai bên quần thảo vô cùng ác liệt, sau một giờ, bằng một đòn chí mạng, ông đã bẻ gãy cổ con mãnh thú khát mồi ấy.
Chẳng cần nghỉ ngơi lấy sức, túm gáy "kẻ thua cuộc", ông vác sang chuồng con cọp cái. Lại một màn kịnh chiến kinh hoàng diễn ra. Và, cũng chừng ấy thời gian, con cọp cái đã bị ông bẻ gãy bốn chân, nằm phủ phục, rên những tiếng thảm thiết.
Phía dưới, quần hùng không ngớt vỗ tay tán thưởng và nể cái trí, cái dũng của thầy trò cụ Cử, chẳng ai còn dám thượng đài nữa. Có người còn gọi võ sư Mùi Đen là "sư phụ của Võ Tòng" vì một lúc đánh chết những hai con hổ. Còn đám thực dân Pháp thì được một phen muối mặt, rẽ đám đông đang hân hoan với những lời tán dương không ngớt, chuồn thẳng.
Sáng lập Thăng Long Võ đạo
|
Chưởng môn thứ nhất Nguyễn Văn Nhân (bên phải) |
Thụ giáo những tinh hoa võ công từ hai bên nội, ngoại, cố võ sư Nguyễn Văn Nhân đã nhanh chóng bộc lộ và phát huy năng khiếu võ học thiên bẩm của mình. Võ sư Nguyễn Văn Thắng kể, ngay trước Cách mạng tháng Tám, tuổi mới đôi mươi, cha ông đã là một thầy võ nổi tiếng ở Hà Nội. Thanh niên, bởi còn sốc nổi, cha ông cũng hay đi đả lôi đài.
Thời ấy, đa phần các võ sĩ thượng đài ra lời thách đấu đều do giặc Pháp giật dây, vậy nên các trận đấu đều vô cùng kinh hãi. Kẻ thua trận nhẹ thì tàn phế, nặng thì bỏ mạng ngay tại võ đài. Bởi thế, hầu hết các võ đài mà giặc Pháp dựng lên thời kỳ ấy, bên cạnh người võ sĩ thách đấu là chiếc quan tài được làm từ mây trông rất đẹp. Ai thua, tử trận thì nằm luôn vào chiếc quan tài ấy.
Một lần thượng đài, chàng trai trẻ Nguyễn Văn Nhân đã vô tình quá tay, đánh trọng thương một võ sĩ đã đăng đài cả tháng mà chưa ai đánh hạ. Theo lời võ sư Thắng thì ngày ấy, sau cú ra tay hơi mạnh đó, cha ông bị chính quyền thực dân truy nã. Sợ hãi, ông đã bỏ trốn biệt tích.
Sau ba tháng, nhớ nhà, ông về, nhưng chẳng dám vào nhà. Ông trèo lên cây bàng cổ thụ ngay gần nhà mà nhìn vào trong, nhìn ngó mọi người. Năm 1944, ông theo cách mạng. Tuần lễ vàng do Cụ Hồ phát động, ông đã đem tài nghệ của mình ra để biểu diễn quyên tiền lấy tiền vàng ủng hộ. Đất nước thống nhất, với những tinh tuý võ công mà mình đã được học, tinh luyện những phương pháp luyện tập võ thuật phù hợp với thể trạng người Việt, ông đã sáng lập ra môn phái Thăng Long võ đạo.
* Võ sư Văn Thắng kể, ông được cha mình truyền thụ võ công từ năm 12 tuổi. Bởi là sĩ quan quân đội nên cha ông dạy võ cho ông theo kiểu… kỷ luật thép.
Bây giờ, ông vẫn nhớ như in cái buổi đầu học võ… khổ sai ấy. Trong gian nhà bếp chật hẹp, năm đầu, cha ông chỉ dạy ông duy nhất một môn… đứng tấn. Tháng đầu tiên, cha ông bắt ông mỗi buổi phải đứng tấn khi que hương cháy hết 1/3 mới thôi.
Tháng thứ hai tăng lên là 1 nửa, tháng thứ 3 là cả que nhang. Đứng im, không nhúc nhích. Hễ động đậy là ngay lập tức chiếc roi trong tay cha vút lên, đau điếng. Hết đứng tấn dưới đất lại đứng trên cọc nhọn, sau một năm thì chuyển sang Ngoại ngạch công. Cha ông bắt ông treo ngược chân lên xà, rồi cứ thế, ngửa cổ xuống dưới nhấc những xô đá đổ lên xô to phía trên. Xô đá mỗi lúc một đầy, một nặng thêm theo thời gian mà cha ông đã định sẵn.
Hai năm, khi thân hình đã dẻo dai, cứng cáp ông mới được cha mình truyền thụ quyền cước…
V. HAI LẦN “CỰC CHẲNG ĐÔ CỦA CHƯỞNG MÔN THĂNG LONG VÕ ĐẠO
|
Võ sư Nguyễn Văn Thắng |
Võ sư Nguyễn Văn Thắng kể: suốt cả đời luyện võ nhưng chỉ có hai lần “cực chẳng đã” ông phải dùng công phu thượng thừa “giải quyết” chuyện đời. Đến giờ ông vẫn còn thấy day dứt.
Tập ngáp, tập nghiến răng, tập nhai… đá sỏi
Mỗi một bài quyền hay những môn công phu đặc dị đều là sự khổ luyện, giờ nghĩ lại, nhiều lúc võ sư Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo lừng danh, cũng thấy nổi da gà.
Thiết xa chưởng là một ví dụ. Cha ông đưa cho ông 12 cây đũa thẳng tắp, được ông tự vót từ thân tre già. Tháng đầu tiên, bằng tay không, một chưởng, ông phải cắm ngập chiếc đũa đó xuống nền đất cứng. Sợ hãi nhất là tháng đầu tiên. Nếu vận khí không tốt thì chiếc đũa không những không cắm xuống đất mà còn xuyên ngược vào tay mình.
Tháng thứ hai, vẫn một chưởng nhưng phải cắm liền lúc 2 chiếc đũa. Tháng thứ ba là 3 chiếc, đến tháng 12 thì cả 12 chiếc phải cắm được ngập thân trong lòng đất.
Thiết xa chưởng của võ sư Thắng bây giờ có lẽ chẳng ai bì kịp. Đã rất nhiều lần ông kê bàn tay của mình trên nền nhà để mọi người thẳng tay cầm vồ gỗ mà nện thoả sức chẳng khác nào đưa tay vào cối để giã, trong khi ông vẫn đang tươi cười nói chuyện.
Từ trước đến giờ, làng võ vẫn thừa nhận, khẩu lợi công của Thăng Long võ đạo là thiên hạ vô song. Võ sư Thắng bảo, chính bởi luyện môn công phu đặc dị này mà hàm răng trên của ông đã mòn vẹt, thành hình vòng cung trông rất khác người.
Theo võ sư Thắng, luyện khẩu lợi công đòi hỏi người tập luyện phải có lòng kiên nhẫn, và một quyết tâm bền bỉ, sắt đá. Ban đầu, người học chỉ tập mỗi động tác… ngáp. Một ngày cứ thế ngồi ngáp đến cả vạn lần. Sau tập ngáp là tập nghiến răng. Tư thế nào thì cũng chỉ chú tâm vào việc… day "bộ gặm nhấm" ấy.
Sau động tác đó, người luyện chuyển sang ngậm sỏi, nhá sỏi. Khi răng, hàm đã cứng, đã có lực thì chuyển sang nâng, nhấc, kéo những vật nặng. Ban đầu thì nhấc những túi cát nặng chừng 10 kg, sau đó tăng dần… thành chiếc cối đá nặng đến nửa tạ.
Trước đây, năm 1989, Liên hoan Võ thuật cổ truyền toàn quốc, võ sư Thắng khi đó nặng chỉ 52 kg nhưng đã dùng khẩu lợi công nhấc cả chiếc bàn với đỉnh đồng, nến, hạc, kiếm, ảnh Đạt Ma Sư tổ… nặng đến xấp xỉ 80 kg.
Sau mấy chục năm tu luyện, bây giờ, khẩu lợi công của võ sư Thắng đã đạt tới mức thượng thừa. Ông bảo, với hàm răng thép của mình, ông có thể nhai vỡ liền lúc mấy trăm chiếc cốc thuỷ tinh.
3 tạ – quá nhẹ !
Bởi là môn phái có những công phu dị thường nên rất nhiều lần Thăng Long võ đạo được Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội mời đi biểu diễn giao lưu với các đơn vị khác.
Võ sư Thắng bảo, đến giờ ông vẫn còn ấn tượng với lần lên Hoà Bình biểu diễn khí công cho các công nhân của Nhà máy Thuỷ điện sông Đà xem. Sở dĩ ông nhớ lần trổ tài kinh hồn ấy là bởi, khi về, ông đã bị họ hàng mắng cho một trận te tua. Ai cũng bảo, ông học lắm rửng mỡ, đùa với chính mạng sống của mình.
Ông kể, lần ấy, bởi được báo hơi muộn, chưa kịp chuẩn bị tiết mục gì lạ nên ông đành chọn môn khí công chịu lực. Vật dụng để biểu diễn là khối bê tông nặng gần 3 tạ, ông mượn tạm từ bể nước của khu tập thể gần nhà mình.
Tại công trường, khi các công nhân đã quây quần đông đủ, sau khi phô diễn những bài quyền cước đẹp tựa phượng múa, rồng bay thì tiết mục khí công chịu lực mở màn. Vị võ sư thân thể gầy nhẳng như que củi vận khí nằm im trên nền gạch. Khối bê tông 3 tạ được cần trục đưa tới, từ từ đặt nên người ông. Mọi người nín thở sợ hãi. Khi khối bê tông đã yên vị thì hai lực sĩ hai bên, mím môi mím lợi dùng búa tạ, nhè khối bê tông mà quai thật lực. Quai sã cánh tay mà khối bê tông không chịu vỡ, người võ sĩ bên dưới vẫn cứ nằm im thin thít, chẳng chút chau mày.
Không tin vào mắt mình, hai chuyên gia Liên Xô lực lưỡng nhảy vào, giằng lấy búa, đập tiếp. Lại một thôi một hồi những tiếng búa chan chát vang lên, nhưng khối bê tông vẫn trơ trơ. Người nằm dưới thì vẫn nét mặt thản nhiên như đang ngẫm nghĩ điều gì mông lung lắm. Mỏi tay, hai chuyên gia đành buông búa, trầm trồ thán phục.
Khi khối bê tông được nhấc ra, mọi người đã ùa vào sờ sờ nắn nắn khắp người vị võ sư tài giỏi. Họ ngạc nhiên bởi không hiểu thân hình vị võ sư được "kết cấu" bằng gì!?
Xuất chiêu vì… chiếc săm xe đạp
Trong suốt cả đời luyện võ, chỉ có hai lần ông cực chẳng đã phải đại phá… "xã hội đen".
Lần thứ nhất xảy ra cách đây đã hơn 20 năm. Chiều ấy, bởi vợ đang mang bầu, sắp sinh, ông đạp xe lên mạn hồ Hoàn Kiếm đón. Qua ngã tư Tràng Tiền, chẳng hiểu thế nào xe của vợ chồng ông bị xịt lốp. Thấy thế, toán sửa xe (toàn những tay thanh niên, mặt mày bặm trợn) ở gần đó đã lôi xềnh xệch xe của ông vào đòi sửa.
Thử săm, một gã bảo, bị thủng 3 lỗ lớn, phải vá thì mới đi được. Vá xong, trả tiền, ông giật mình khi gã đó phát giá bằng đúng nửa tháng lương bác sĩ của mình. Biết đã gặp bọn xấu bắt chẹt khách nhưng ông từ tốn xin chúng giảm giá, nhưng dù trình bày thế nào thì chúng cũng chẳng chịu nghe, thậm chí, còn hùng hổ đe dọa.
Cực chẳng đã ông đành bảo vợ ở lại, để mình chạy bộ về nhà lấy tiền. Rửa tay nhờ chậu nước thử săm xe, ông đã tá hoả khi phát hiện, trong chậu nước đục ngầu có một miếng cao su, được cắm những chiếc đinh nhọn hoắt. Thảo nào, khi nãy, xe của ông bị hết hơi rất chậm mà khi thử đã có đến ba nốt thủng.
Cầm miếng cao su cắm đinh ấy, ông quyết định vạch mặt quân gian trá. Bị lật mặt, đám thợ sửa xe sửng cồ, chúng đè ngửa xe ông ra, tháo lấy săm và cắt nát tươm. "Xử lý" song cái săm, thằng cầm búa, đứa cầm kéo đòi tính sổ "vợ chồng thằng nhiều chuyện". Uất ức, ông quyết định dạy cho bọn chúng một bài học nhớ đời. Nói thầm với vợ tạm lánh sang bên kia đường, ông ra tay.
Lúc này, dân đi đường túm lại rất đông, ai cũng lo cho chàng thanh niên mảnh khảnh, nhưng sợ nên chẳng ai dám can ngăn. Thấy vợ đã ra khỏi "vùng nguy hiểm", ông xuất chiêu luôn. Bốn năm tên đồng loạt lao vào nhưng chỉ trong chớp mắt, đứa thì ngã sõng xoài dưới cống, đứa thì lộn lên hè kêu la thảm thiết.
Thấy chiến hữu đều bị hạ đo ván một cách khó hiểu, có tên từ phía sau, chực vung búa lên đánh lén. Thấy mọi người chỉ, ông quay phắt lại. Gặp ánh mắt sắc lẹm của ông, tên này chân tay bủn rủn. Buông "vũ khí" trên tay, hắn co cẳng chạy. Thấy ông ra tay ngoạn mục, dân bên đường đồng loạt vỗ tay thán thưởng. Sau này, những người dân quanh đó nói bọn chúng đều là những phần tử "thương tích đầy mình".
3 trận chiến - 1 kẻ thù
Lần ra tay thứ hai, ông bảo, đó là cuộc chiến dai dẳng, khó chịu. Mở lớp dạy võ tại nhà (phố Hồng Mai, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội), ông luôn bị đám đầu gấu ở quanh khu vực đó quấy nhiễu. Môn đệ của ông liên tục bị chặn đường xin đểu, lúc thì lại bị mất đồ xe máy.
Một hôm, có môn sinh báo mất cốp xe, bực mình ông liền đi gặp mấy tên lưu manh ấy để "làm cho ra nhẽ". Gặp nhau ở quán nước, hỏi thì thằng nào thằng ấy đều chối đây đẩy. Biết có hỏi nữa cũng chẳng được gì, thất vọng, ông đứng dậy ra về. Để răn đe chúng, khi đứng dậy, tiện tay, ông đã vỗ luôn một chưởng vào bức tường rào gần ấy. Cú đòn răn đe ấy đã làm bức tường sụt một mảng lớn.
Sau đấy vài hôm, đám lưu manh bị công an bắt. Tại cơ quan công an, chúng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, trong đó có cả việc "nhảy đồ" ở lò võ của võ sư Thắng. Bị phạt tù, chúng uất ức cho rằng chính vị võ sư là người tố giác hành vi phạm tội của mình. Chúng nung nấu ý định trả thù.
Năm 1987, sau khi thụ án 2 năm, mấy tên trong băng nhóm đó mãn hạn. Về nhà, chúng tuyên bố, việc đầu tiên để "làm lại cuộc đời" là tìm "gã" võ sư đáng ghét để rửa hận. Võ sư Thắng kể, sáng ấy, đang ngồi ăn phở ở đầu phố thì thấy chúng chừng 7, 8 tên, lăm lăm trên tay "hàng lạnh", hùng hổ kéo nhau vào quán.
Biết chúng kiếm mình gây sự, ông chuyển lại tư thế ngồi, quay lưng vào tường và vẫn đủng đỉnh ăn như không có chuyện gì. Liếc thấy có tên lao vào, ông đứng phắt dậy, tay trái gạt chiếc chai hắn đang nện tới, tay phải dùng đũa dứ ngay trước mặt. Có lẽ biết nếu ông xuống tay thì đôi mắt của mình coi như hỏng, tên này sợ hãi đẩy đồng bọn lùi ra. Ông cũng thủ thế từ từ bước ra ngoài. Biết không thể đánh trực diện ông, chúng cũng nháy nhau giải tán.
Đêm ấy, kéo thêm cả chục tên lưu manh nữa, chúng đến thẳng cửa nhà ông chửi bới om sòm. Không thể lảng tránh, một mình ông xách kiếm mở cửa bước ra. Thanh kiếm sáng loáng trên tay, ông cứ thế múa vun vút. Nhìn sắc mặt, nghĩ là ông không doạ nên chẳng đứa nào dám xông vào ẩu đả.
Công an ập đến, tất thảy được đưa về phường. Tưởng sau lần ấy, chúng thôi giở thói du côn, ỷ đông hiếp yếu, nào ngờ, chúng vẫn tuyên bố, gặp ông ở đâu là đánh chết luôn ở đó. Và, đã vài lần chúng dao búa phục ông ở cổng bệnh viện nhưng được mọi người báo, ông đều lánh mặt an toàn.
Thấy không đánh thì không yên nên một buổi đi làm về, ông quyết định ra đòn. Hôm ấy, biết chúng tụ tập phục mình ở cổng bệnh viện, ông gửi lại xe và chiếc cặp da trên tay, ông thủng thẳng rảo bộ về nhà. Thế nhưng, vừa ra đến cổng, đám lưu manh trên đã ập tới.
Chẳng nói thêm gì nữa, ông xuất đòn luôn. Như con thiêu thân, lần lượt cả 4 tên đều bị ông hạ đo ván. Sau trận ấy thì ông đã “bình yên vô sự”. Sau này, gặp lại ông, chúng vẫn rối rít gọi ông là "đại ca", còn cảm ơn vì hôm ấy, ông đã nương tay, ra đòn chưa hết sức!
Nội công bí kíp của Thăng Long võ đạo bây giờ đã nổi như cồn. Các võ sinh đến theo học ngày một đông. Võ sư Thắng bảo, bây giờ, môn phái ông đã có trên 2.000 môn sinh. Bởi là một bác sĩ, nên ông muốn dùng chính nội công lừng danh của môn phái vào việc cứu người. Khí công trị liệu, ấy là một sở trường của Thăng Long võ đạo, hiện đang được rất nhiều bệnh nhân ở Hà Nội theo học để tự cứu mình.
Kỷ luật nghiêm ngặt
Theo võ sư Thắng, khi sáng lập môn phái Thăng Long võ đạo, cụ thân sinh của ông luôn hướng các môn đồ vào kỉ luật nghiêm ngặt, thậm chí có phần hơi khắc nghiệt. Truyền thống ấy vẫn được ông và các môn sinh sau này kế thừa.
Lý do của sự nghiêm ngặt ấy phần vì tinh thần võ đạo, học võ là để rèn luyện thân thể, không phải dùng để đánh người. Một lý do nữa là công phu của Thăng Long võ đạo có tính bạo liệt, khi ra đòn là đả thương đối thủ ngay tức thì.
VI. “VUA ÁM KHÍ” – ĐỆ TỬ CHÂN TRUYỀN CỦA PHÁI KHÔNG ĐỘNG
|
Lão võ sư Trần Công ngày trẻ, biểu diễn Tam tiết côn |
Làng võ nói về Huyền Công Đạo Trần Công, Nguyên chủ tịch Hội đồng cố vấn tối cao của Hội võ thuật Hà Nội, thế này: Từ thủa nhỏ, ông đã được sư phụ người Trung Hoa rèn cặp nên vũ thuật kinh hồn, nhất là khi thi triển Song hổ vĩ côn, Tam tiết côn, Không động kiếm, Cửu long tiên, Huyết kỳ…
Lão võ sư là một cây đại thụ, một tên tuổi lẫy lừng trong làng võ Việt, luận về võ học thì là bậc kỳ tài, thiên hạ ít người sánh kịp.
Ngoài cặp song kiếm vô địch hùng bá trên võ đài suốt bao năm, lão võ sư huyền thoại này còn làm chủ 20 binh khí và nhiều ám khí độc môn hiếm có trên đời.
Chính bởi công phu xuất chúng nên lão võ sư Trần Công đã nhiều lần được biểu diễn võ cho Bác Hồ xem, thậm chí còn được Người bất ngờ vào tận nhà ân tình thăm hỏi.
Cao nhân ẩn tích
Tuy tên tuổi lẫy lừng nhưng trong số những võ sư cao thủ mà tôi đã may mắn được gặp thì lão võ sư Trần Công là người… khó tìm nhất.
Ông mai danh ẩn tích đã hơn chục năm nay. Hỏi nơi ở của ông, người thì bảo, đã đến nhà rất nhiều lần, nhưng chính bởi cái sự thân thuộc ấy nên chẳng ai nhớ số nhà. Người khác thì lại nói, bởi lão võ sư thích lang bạt giang hồ nên duyên số gặp nhau… ngoài đường chứ nhà ở đâu thì không được biết.
Chính bởi sự quy ẩn lạ lùng ấy mà nhiều năm nay, nhiều môn sinh mến mộ ông đã nháo nhác kiếm tìm ông khắp nơi những mong được ông chỉ giáo, san sẻ cho ít nhiều những tinh hoa võ thuật mà ông đã cần mẫn gom góp cả đời, mà vẫn không gặp được.
Điện thoại khắp nơi, tôi cũng kiếm được một thông tin… mù mờ: Có người đã từng gặp lão võ sư ở gần dốc Tam Đa, đường Hoàng Hoa Thám. Lang thang tìm kiếm ở đó suốt mấy ngày trời, mới hay rằng, trước đây lão võ sư từng sống ở đó, nay chuyển nhà đi đâu thì không ai biết.
Mãi sau này, may mắn được lão võ sư Phan Dương Bình (làng võ còn gọi là Bình "bún", môn phái Vịnh Xuân, Vovinam) và võ sư Nguyễn Ngọc Nội (phái Vịnh Xuân) giúp đỡ, tôi mới biết được nơi ở mới của bậc tiền bối tài danh.
Sau cuộc họp Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội, hỏi các đồng đạo, võ sư Nội đã điện thoại báo rằng, lão võ sư Trần Công ở dốc Liễu Giai, gần sân Quần Ngựa.
Ra tận nơi hỏi, nhưng lạ lùng thay, lão võ sư nổi tiếng thì không ai biết, chỉ biết một ông già tuổi trạc 90 da dẻ hồng hào vẫn thường hay đạp xe qua lại. Đoán rằng ông cụ khoẻ khoắn ấy đích thị là người tôi muốn gặp nên tôi đã vội vàng tìm tới tận nhà. Cơ duyên, người như tiên như phật ấy chính là lão võ sư.
"Chú khách" kỳ dị
Lão võ sư đón tôi trong căn phòng chật chội, trên tường, xung quanh chiếc giường một, treo chi chít những binh khí, nào côn, nào kiếm, thứ nào cũng bóng nhẫy mồ hôi.
Ông bảo, đó là những bảo vật kỉ niệm của cả cuộc đời theo đuổi nghiệp võ của ông. Tuổi đã 90 nhưng lão võ sư còn tráng kiện lắm. Nhìn ông, tuyệt nhiên không thấy dấu hiệu gì của bệnh tật. Ông bảo, với võ thuật, ông như có duyên tiền định.
Sinh ra ở Nam Định, thế nhưng vì đói, mẹ ông đã cho ông vào thúng, quẩy đi khắp nơi bởi cuộc mưu sinh. Bát cơm, manh áo đã đưa hai mẹ con ra Hà Nội, trọ ở xóm Dinh, làng Vạn Bảo bây giờ. Hai mẹ con sống qua ngày bằng thúng ốc luộc mà mẹ ông tần tảo đội trên đầu đi bán rong khắp phố.
Năm ông lên 8 tuổi, có chút vốn, mẹ ông mở sạp hàng sáo ngay tại nhà. Ông tung tăng phụ giúp bà bán hàng, khi rảnh lại cùng đám bạn cùng tuổi mải mê đánh khăng, đánh đáo ngay trước cửa nhà.
Ông còn nhớ lắm, nhà ông khi ấy ở tận cuối con ngõ vắng vẻ, vậy mà hầu như hôm nào cũng thấy "chú khách" (người Trung Quốc) quẩy đôi xọt thuốc qua, rao bằng cái giọng lơ lớ: "Ai thuốc đê!". Mỗi lần đi qua chỗ ông và đám bạn đang chơi, chú khách lại dừng bước, rồi cứ thế, đứng nhìn ông đăm đăm.
"Chú khách" là người tốt bụng, mặc dù suốt ngày nhễ nhại mồ hôi với gánh thuốc trên vai, nhưng "chú" chỉ bốc thuốc và chữa bệnh không công. Ông chưa từng thấy "chú khách" lấy tiền của ai bao giờ.
Một trưa, trời nắng như đổ lửa, dừng chân trước nhà ông, sau khi ngắm nhìn ông vẫn ánh mắt đăm đăm ấy, "chú khách" bỗng quay sang mẹ ông hỏi: "Trời nắng tôi khát quá hà. Bà cho tôi xin hớp nước cho đỡ khát à!".
Nói vừa dứt câu, chẳng cần biết chủ nhà đồng ý hay không, "chú khách" đã quẳng đôi sọt thuốc, chạy ào về phía sau nhà, nơi có chum nước mà mẹ con ông vẫn dùng để thổi nấu. Thấy vậy, mẹ ông đã hoảng hốt: "Không uống nước ở đó được đâu bác ạ! Đau bụng chết, bác vào đây, nhà tôi có nước chè xanh!". Vừa nói, mẹ ông vừa rót bát nước chè khói vẫn còn nghi ngút.
"Bà tốt quá à! Thật ra, tôi vào đây không phải để xin nước đâu à!". "Chú khách" đáp lời mặt đầy bí ẩn. "Thế bác không khát nước à?! Bác vào đây làm gì vậy?". Mẹ ông hốt hoảng hỏi. "Tôi thấy bà có đứa con tốt quá à! Tôi muốn xin nó về làm con nuôi à!".
Nốt ruồi son "đặc chủng"
"Không! Không được đâu! Tôi có mỗi mình nó thôi!". Mẹ ông phản đối quyết liệt nguyện vọng của vị khách vừa thân quen lại vừa xa lạ ấy. "Không, tôi không mang nó đi đâu đâu! Tôi chỉ muốn nhận nó làm con nuôi để giáo nó thôi à!".
"Giáo nó, bác định giáo nó cái gì?". Mẹ ông xuôi giọng. "Tôi muốn dạy võ cho nó. Dạy võ cho nó khoẻ, không bị ai bắt nạt nữa à! Mấy lần nhìn nó, tôi biết nó là nhân tài để luyện võ đấy à! Nó có một nốt ruồi nhỏ ở trên thái dương bên trái đấy, nốt ruồi ấy là tốt lắm à!".
Thấy "chú khách" nói về đặc điểm kỳ lạ của cậu con trai mình, mẹ ông vội vàng kéo con trai lại, vén mớ tóc bờm xờm cạnh tai trái lên. Bà giật mình khi biết "chú khách" nói chẳng sai. Con trai bà có một nốt rồi son ngay giữa thái dương bên trái, nốt ruồi ấy bấy lâu tóc che kín, chẳng để tâm nên bà cũng không hề hay biết. Nghĩ đây là ý trời, vả lại, bấy lâu thấy "chú khách" là người tốt bụng, đường hoàng, nên bà đã gật đầu đồng ý.
Sau bữa ấy, "chú khách" ghé qua nhà ông luôn. Mỗi lần đến thăm, "chú" chỉ xoa đầu, nắn tay nắn chân ông chứ chẳng dạy võ thuật như là đã nói. Mãi vài tháng sau, khi tình cảm giữa "chú" và mẹ con ông đã trở lên thân thiện, "chú" đã xin mẹ ông để "chú" được đưa ông về Hàng Buồm, nơi có cửa hàng thuốc và gia đình "chú" ở.
Ngay hôm đầu tiên, "chú khách" đã gọi các con của mình lại và bảo họ biểu diễn võ thuật cho ông xem. Nghe lời cha, mấy đứa con lau nhau của "chú khách" lao vào thử tài nhau bằng những chiêu thức võ thuật vô cùng đẹp mắt. Xem bọn họ đánh nhau, ông thích lắm. Nhận ra vẻ thích thú của ông, "chú khách" khẽ gật đầu, ra chiều vô cùng mãn nguyện.
Bữa ấy, "chú khách" cũng vẫn chưa dạy võ cho ông mà ngay lập tức lại đèo ông về bằng chiếc xe đạp bóng loáng. Trên đường đi, "chú khách" đã nói với ông rằng: "Sang Việt Nam, mục đích của ta là không phải đi bán thuốc đâu à! Ta muốn đi tìm một đệ tử chân truyền. Tìm được con rồi, ta muốn con chăm chỉ luyện tập theo tất cả những gì ta chỉ bảo! Con nhớ không!".
Hồi ấy, còn bé, nghe "chú khách" nói thế nào thì ông chỉ biết gật đầu thế đó chứ biết gì về hoài bão của người thầy đến từ Trung Quốc xa xôi. Sau này, khi lớn hơn một chút, ông mới biết "chú khách", người đã coi ông như con, suốt đêm ngày truyền thụ cho ông những tinh hoa võ học chính là Mao Diệp Xi, giang hồ còn gọi là Xần Xi, là đệ tử nổi danh của môn phái Không Động, một môn phái lừng lẫy ở Trung Hoa đại lục.
Vì những biến cố của đất nước, Mao sư phụ đã phải đem gia đình sang sinh sống ở Hà Nội. Đã nhận nhiều đệ tử, nhưng chưa tìm được bậc kỳ tài, sợ những bí kíp võ công của môn phái mà mình đã dày công tu luyện bị thất truyền nên Xần Xi đã phải mượn gánh thuốc, đi triệu bước chân lang thang khắp nơi để tìm người nối nghiệp.
Bắc tiến
Từ hôm đó, chiều nào cũng vậy, Mao sư phụ đạp xe đến tận nhà để đón ông về Hàng Buồm luyện võ. Thời gian đầu, Mao sư phụ chỉ dạy ông mỗi hai "chiêu thức" vô cùng đơn giản ấy là xoay bi và đẩy bóng. Đưa cho ông những viên bi sắt to như quả quýt, Mao sư phụ bảo, cứ vê, xoay chúng trong lòng bàn tay, khi thì một, lúc thì hai, khi nữa thì ba viên liền lúc.
"Chơi" với bi chán thì quay sang đẩy bóng. Những quả bóng cao su rất lạ, thứ đó ông cũng không biết sư phu mình kiếm từ đâu. Mới đầu, Mao sư phụ bảo ông phải đẩy, ép quả bóng nhỏ nhất vào tường. Khi quả bóng đó bị lực từ tay ông đẩy, ép chặt hai mặt vào nhau thì mới thôi.
Đẩy được hai tay thì chuyển sang dùng một tay. Những quả bóng cứ to dần lên theo thời gian ông luyện tập. Gần hai năm sau, khi mà đứng kẹp giữa hai bức tường, hai bên là hai quả bóng to nhất, dùng lực, ông đẩy chúng bẹp dúm sát tường thì Mao sư phụ mới bắt đầu dạy ông quyền cước.
Cứ thế, thời gian thấm thoắt thoi đưa, năm ông 12 tuổi, ông đã thông thạo tất cả những chiêu thức võ thuật mà Mao sư phụ truyền dạy.
Luyện võ 10 năm mà không luyện khí thì cũng coi như chưa từng biết võ, điều này thì những đệ tử của Không Động, môn phái thiên về nội công rành hơn ai hết. Bởi thế, muốn rèn rũa "viên ngọc quý" của mình được toả sáng muôn bề, Mao sư phụ đã đi đến một quyết định quan trọng: đưa cậu học trò cưng về Trung Quốc.
Theo Mao sư phụ thì ở quê hương ông có một nơi luyện khí công vô cùng lý tưởng, đó là đỉnh Thái Sơn, cách nơi ở cũ của ông vài chục cây số.
Vậy là, dù không muốn phải xa đứa con duy nhất của mình, nhưng trước sự tận tình của Mao sư phụ, mẹ ông cũng đành gạt lệ tiễn ông đi.
Luyện nội công ở đỉnh Thái Sơn
Nhà Mao sư phụ ở huyện Tân Hội, tỉnh Quảng Đông. Lão võ sư Trần Công bảo, đến giờ, ông vẫn còn nhớ như in ngôi nhà số 3 phố huyện ấy. Sang đến nơi, ông mới biết mình có rất nhiều sư ca, sư tỉ.
Thấy Mao sư phụ về, họ đã lũ lượt kéo đến nhà chúc mừng. Thấy ông lanh lẹ lại rất đỗi hồn nhiên, nói tiếng Trung Quốc thì ngô nghê nên họ rất thích. Họ chiều chuộng ông hệt như cậu út trong nhà.
Tại đây, ông được Mao sư phụ đặt cho một cái tên Trung Quốc: Xần Cóng. Và, cũng tại đây, ngày nào cũng vậy, khi trời mới tờ mờ sáng, Mao sư phụ đã kéo ông dậy, rồi bằng xe đạp, đèo ông vượt mấy chục cây số tới núi Thái Sơn. Để xe dưới chân núi, hai thầy trò chạy bộ lên đỉnh.
Nơi chân mây ấy, hai thầy trò mải miết luyện khí công, hệt như… đôi bạn tri âm. Khi mặt trời khuất bóng, thầy trò mới ngừng việc luyện tập, xuống núi và thầy lại đèo trò về.
Đến giờ, lão võ sư Trần Công không thể nhớ chính xác mình đã luyện võ với Mao sư phụ ở Trung Quốc bao nhiêu năm. Chỉ biết, khi đi ông còn là một cậu bé ngây ngô, khi trở về thì đã là một chàng trai cường tráng, sức mạnh phi thường.
Ngày ấy, bởi nhớ thương đứa con độc nhất, mẹ ông đã mấy lần biên thư gọi ông về. Thương mẹ, ông đành lưu luyến tạm biệt người thầy khả kính.
Trước hôm lên đường trở về Việt Nam, trước mặt tất cả các đệ tử của mình, Mao sư phụ đã gọi ông lại mà rằng: "Tất cả những tuyệt kỹ võ công, ta đã dạy cho con hết cả. Con phải nhớ rằng, sau này khi ra đời, không bao giờ được dùng võ để chèn ép mọi người. Nếu làm trái lời thì đừng bao giờ nghĩ đến ta nữa!".
Cũng buổi ấy, Mao sư phụ đã làm một việc khác thường, ấy là đặt cho ông pháp danh Huyền Công Đạo. Việc đặt pháp danh đó, từ trước đến nay, Mao sư phụ chưa từng ưu ái với bất cứ đệ tử nào…
Ông về Việt Nam được ít lâu thì Mao sư phụ mất. Theo các sư ca, sư tỉ của ông nói lại thì khi hấp hối, Mao sư phụ đã luôn miệng gọi tên ông.
Theo nguyện vọng của Mao sư phụ là muốn được về phương Nam thăm ông, người đệ tử hiếu đễ, tài ba, các sư ca của ông đã tiễn đưa người thầy của mình về cõi vĩnh hằng bằng không táng. Thi hài của Mao sư phụ được hoả táng, sau đó gói gọn gàng trong ống nứa hệt như người ta làm pháo thăng thiên, hướng về phương Nam mà đốt…
VII. “VUA ÁM KHÍ” VÀ NHỮNG LẦN “ĐÀM ĐẠO” VÕ HỌC CÙNG BÁC HỒ
|
Lão võ sư Trần Công và những “ám khí” trên tay |
Nhờ công phu xuất chúng nên Huyền Đạo Công Trần Công nhiều lần được biểu diễn võ cho Bác Hồ xem, thậm chí còn được Người bất ngờ vào nhà ân tình thăm hỏi…
Một que tăm, một chiếc lá, một nhúm cát cũng có thể được Huyền Công Đạo Trần Công biến thành “vũ khí tối thượng” để hạ gục đối phương trong nháy mắt. Đó không phải là những điều chỉ có trong phim chưởng…
Những mũi tiêu kinh hoàng
Khi còn ở Việt Nam, ông đã được Mao sư phụ truyền dạy rất nhiều môn ám khí độc chiêu. Ông bảo, muốn ám khí đạt hiệu quả tốt nhất thì ngoài khả năng về nội công, đòi hỏi người sử dụng phải tập luyện thường xuyên, kiên trì. Ngưng luyện tập thì chỉ ít lâu, ám khí phóng ra sẽ không trúng đích như mong muốn.
Môn ám khí đầu tiên ông được sư phụ truyền dạy là phóng tiêu. Tiêu của Mao sư phụ rất đơn giản, chỉ là những chiếc đũa được chế từ những cây thép nhỏ, vát nhọn một đầu, sức đàn hồi lớn. Khi cần phóng tiêu, tuỳ khoảng cách xa, gần mà người sử dụng chỉ cần giữ cố định một đầu, vít cong đầu còn lại, dựa vào lực đàn hồi mà bật tiêu đi. Điều quan trọng nhất khi dùng ám khí đó là độ chính xác. Chính thế, người sử dụng phải luyện tập không ngừng.
Lão võ sư Trần Công kể, ban đầu tập phóng tiêu, Mao sư phụ dựng cho ông một hình nhân bằng rơm rồi bắt ông đứng cách chừng 7 – 10 m, phóng đũa sắt tới. Bước đầu là phóng sao cho trúng được phần ngực của hình nhân; Bước sau cao hơn, đó là phóng vào phần đầu; Tiếp đến là phóng vào phần mắt. Bài ám khí này chỉ được coi là thành công khi người tập trong tích tắc với cả chục chiếc đũa sắt trên tay, phóng đích xác vào phần mắt hình nhân.
Ngày còn ở bên Mao sư phụ, cũng như sau này, dạy độc chiêu phóng tiêu cho một số đệ tử, võ sư Trần Công thường lấy mục tiêu là những quả trứng, khi thì đặt ở khắp nơi, khi thì rút hết ruột, treo lên để gió đẩy đưa tứ phía. Nắm đũa giắt bên hông, tả xung hữu đột, chỉ nghe tiếng gió rít lên rất khẽ thì những chiếc đũa nhọn hoắt đã được ông phi bách phát bách trúng vào những quả trứng.
Búng ngón tay, đối phương mù mắt
Biến thể của tiêu đũa là tăm. Những chiếc tăm cật tre già, vót nhọn một đầu, trừ phần cật tre, với người bình thường thì chỉ dùng để vệ sinh răng, nhưng với Huyền Công Đạo Trần Công thì chúng là một ám khí vô cùng lợi hại, sát thương kinh hồn. Chỉ bằng động tác búng ngón tay, trong vòng 3 – 5 thước, chiếc tăm nhọn của ông có thể khiến đối phương mù mắt.
Thủa thanh niên, phiêu bạt giang hồ, lúc nào trong túi áo ngực của ông cũng có những chiếc tăm ấy để phòng thân. Chỉ có điều, chúng không làm từ tre mà được ông cần mẫn chế từ dây tanh của lốp xe đạp. Bởi luyện tập nhiều nên giờ, trông chúng vẫn sáng bóng, tựa như những chiếc kim mà người ta vẫn dùng để khâu giày dép.
Một loại ám khí khác mà nhiều người vẫn thấy trong phim truyện chưởng của Trung Quốc, ấy là cát. Ngày trước, tập loại ám khí này, tuy chưa một lần phải sử dụng nhưng bôn tẩu giang hồ, Huyền Công Đạo vẫn “trang bị” cho mình.
Chế loại ám khí này cũng công phu lắm. Ban đầu là phải chọn tìm cát hạt mịn, sau đó lọc qua nước để gạt bỏ rác bẩn và đất. Phơi khô rồi cho vào rang lẫn với muối, bột ớt, bột tiêu… Những “hợp chất” ấy khi quyện vào nhau sẽ vo thành những viên nhỏ xíu, tựa như hạt vừng. Lão võ sư đổ những “sản phẩm” ấy vào những lọ nhỏ, khi ngược xuôi thì bỏ trong tay nải, để ở tư thế tiện dùng.
Tao ngộ chiến, bị vây hãm bởi đông đối thủ, chỉ cần nhanh tay hất một lọ hỗn hợp ấy ra thì đảm bảo rằng không kẻ nào còn nhìn thấy nổi ánh sáng mặt trời. Khi đó, nếu cảm thấy cần phải đánh thì đánh, không cần thiết thì chỉ việc… đủng đỉnh bỏ đi.
Sát thương kẻ thù cách 50m bằng tiêu
Một loại ám khí nữa đã đưa tên tuổi Huyền Công Đạo nổi như cồn suốt mấy chục năm hành tẩu giang hồ ấy là thuật thổi tiêu. Bởi là người có nội công thâm hậu, nên đường tiêu của lão võ sư vừa đi xa, vừa vô cùng chuẩn xác.
Theo lão võ sư thì ống tiêu làm từ trúc, từ gỗ, hay từ thanh sắt rỗng ruột. Loại ám khí này tàn khốc và nguy hiểm ở chỗ mũi tiêu được ông làm từ những cây kim mà mọi người vẫn dùng để khâu vá hàng ngày. Đầu mũi kim, ông đánh ngạnh, khi găm vào người đối phương chỉ tạo cảm giác hơi buốt. Tuy nhiên, sự nguy hiểm là ở chỗ, khi đối phương rút tiêu ra, phần mũi tiêu sẽ gãy và nằm lại trong da thịt.
Theo Huyền Công Đạo, loại ám khí vô cùng lợi hại này có thể gây sát thương ở khoảng cách tới 50m. Chính thế, khi còn lãng du ở vùng cương thổ, ông vẫn dùng nó để… bắn chim. Thậm chí, cá dưới sông, dùng loại ám khí này, ông vẫn đều đều đánh bắt.
Cuộc biểu diễn lạ lùng trong sân vận động
Có lẽ trong làng võ Việt, ông là người may mắn được gặp Bác Hồ nhiều lần nhất. Lão võ sư kể, một sớm (năm 1961) có người đi ô tô tìm đến nhà ông, nói là ra sân Hàng Đẫy gấp, khi đi nhớ mang theo đôi Song hổ vĩ côn. Ngạc nhiên vì lời mời lạ lùng ấy, nhưng khi thấy phong thái của người khách lạ, linh tính mách bảo rằng đó chẳng phải chuyện bình thường, nên chẳng suy nghĩ nhiều, ông vào nhà xách côn đi luôn.
Gần đến nơi, vị khách mới cho ông biết một tin bất ngờ, Bác Hồ muốn xem ông múa võ nên đã bí mật mời ông đến. Thông tin ấy làm ông sững sờ. Ông không ngờ mình lại có được vinh dự lớn lao đến vậy. Niềm vui sướng đó khiến trống ngực ông nện liên hồi. Vào sân, ông đưa mắt nhìn khắp lượt, khán đài chẳng có ai, cũng chẳng thấy Bác đâu. Người dẫn đường chỉ lên góc khán đài cao nhất. Ngước mắt lên, ông thấy Bác cười hiền, giơ tay vẫy, ông cảm động đến suýt rơi nước mắt.
Không để mất thời gian của Người, ông ra sân với một suy nghĩ sẽ tung tất cả những tuyệt kỹ công phu mà suốt mấy chục năm trời mình rèn luyện để Bác thưởng thức. Thế nhưng, ra đến giữa sân, có lẽ chưa bao giờ biểu diễn trước một khán giả vĩ đại đến vậy, nên dù mấy lần xuống tấn nhưng ông vẫn thấy chân tay mình mềm nhũn. Sau cùng, thêm một lần nữa ngước lên khán đài, thêm một lần nữa bắt gặp nụ cười đôn hậu của Bác, ông trấn tĩnh lại.
Và hôm ấy, với đôi Song hổ vĩ côn, một binh khí sở trường, ông thi triển vun vút, để trên khán đài, những tiếng vỗ tay của Bác và tùy tùng cứ vang lên không ngớt.
Kết thúc buổi biểu diễn, người dẫn đường khi trước đã từ chỗ Bác ngồi chạy xuống, đưa cho ông một chiếc phong bì nói là Bác tặng và Người dặn rằng, khi về đến nhà mới được mở ra xem.
Ông cho chiếc phong bì đó vào túi ngực, hướng về phía Người cúi chào và ra về. Trên đường đi, ông như thấy túi áo mình nóng ran bởi ý nghĩ, không biết Bác tặng mình thứ gì mà bí mật đến vậy?
Về đến nhà, ông vội vàng bóc chiếc phong bì đó ra xem. Thì ra Người tặng ông mấy vần thơ giản dị: “Thể lực đứng đầu há phải tiền. Luyện rèn vũ thuật vẫn thường xuyên. Tiền nhiều thượng võ mua chẳng được. Vui mạnh sống lâu khác gì tiên”.
Triết lý của người học võ
Đến giờ, ông vẫn nhớ như in câu chuyện võ học mà ông từng may mắn được đàm đạo cùng với Bác. Sau lần biểu diễn võ cho người xem ở sân vận động Hàng Đẫy, có lần Bác đã mời ông vào nơi mình ở.
Tại đây, thấy Bác đang mải miết tập quyền cước, ông buột miệng hỏi: “Dạ thưa, Bác cũng tập võ Tàu?”. Nghe câu hỏi của ông, ngừng tập Bác quay sang từ tốn: “Sao chú lại hỏi thế?”. “Dạ, cháu thấy bài quyền Bác đang tập có xuất xứ từ Trung Quốc”.
“Đúng, chú nói đúng rồi! Đây chính là bài quyền bác học được của người Trung Quốc, nhưng không thể gọi là võ Tàu được!”. “Thế gọi là võ Trung Quốc, thưa Bác!”. “Chú nói thế cũng không phải, mà phải gọi là võ Việt Nam!”.
Câu khẳng định của Bác làm ông ngạc nhiên, không hiểu. Thấy vẻ bối rối của ông, Bác khẽ mỉm cười, kéo ông ngồi xuống, Người nói: “Nhà chú có ao thả cá, nhà hàng xóm của chú cũng có ao thả cá. Một hôm, trời mưa, nước lớn, cá nhà chú tràn sang ao nhà hàng xóm thì chú có sang đó mà nhận hay đòi lại cá nhà mình được không? Võ cũng vậy, từ Trung Quốc chảy xuống nước ta thì phải gọi là võ ta chứ!”. Triết lý đơn giản nhưng vô cùng chí lý của Người khiến ông suy nghĩ.
Thấy thế, Bác liền vỗ vai, thân mật: Chú là người giỏi võ, chú phải cố gắng làm sao để cả dân tộc ta học được võ, có thế thì mới có sức khoẻ để bảo vệ và kiến thiết đất nước! Phong trào học võ, rèn luyện sức khoẻ phải nở như hoa!. Ông bảo, chỉ một lần gặp ấy thôi, ông đã phục sát đất sự uyên bác của Bác Hồ, người mà ông cả đời kính trọng, quý yêu.
Anh thợ cắt tóc và chuyến thăm bí mật của Bác Hồ
Ông từng được Bác Hồ đến thăm. Chuyện đó, trong giới võ lâm có lẽ chẳng có võ sư nào được vinh hạnh ấy. Lão võ sư Trần Công bảo, ấy là phần thưởng cao quý nhất mà cả đời ông không thể nào quên được.
Ngày đó, ông thuê nhà ở dốc Tam Đa, sống bằng nghề cắt tóc. Hôm ấy, một sáng mùa thu, đang tha thẩn trước sân thì ông thấy một chiếc xe ô tô con đậu gần cửa nhà mình.
Cứ ngỡ đó là khách của hàng xóm nên chẳng bận tâm, ông vẫn mải mê với những suy nghĩ riêng tư của mình. Thế nhưng, một cái vỗ vai đã làm ông giật mình bừng tỉnh. Chưa kịp hỏi thì ông đã bàng hoàng khi vị khách đó từ từ tháo mũ ra. “Bác!”. Thấy ông mừng rỡ quá đỗi, vị khách lạ vội vàng ra dấu, ý rằng, không nên để người khác biết sự xuất hiện của Người.
Kéo ông vào nhà, Bác hỏi: “Thế chỗ chú luyện võ đâu?”. Câu hỏi của Bác làm ông bối rối bởi khi ấy, gia cảnh khó khăn, ông thuê một gian nhà rất chật, chỗ ông tập võ hàng ngày cũng là chỗ ông cắt tóc kiếm sống qua ngày. Chỗ ấy lổn nhổn những gạch đá, khi dọn về đó ở ông vẫn chưa kịp sửa sang.
“Chú tập võ ở đây?”. Chỉ vào khu nền nhà mấp mô đó, Bác ngạc nhiên hỏi. Không muốn Bác phải bận tâm nhiều về hoàn cảnh của mình, ông vội vàng đáp: “Dạ, chỗ này là cháu xới lên! Luyện võ ở đây chân sẽ cứng cáp hơn!”. Nghe ông nói vậy, Bác gật đầu cười: “Chú này tập chi mà lạ!”.
Cứ thế, câu chuyện về nghiệp võ và đời võ được ông và Bác đàm đạo say sưa, mãi khi phía ngoài, khách đến cắt tóc đã đứng chờ lố nhố, Bác mới lặng lẽ ra về… Đã mấy mươi năm trôi qua, nhưng lão võ sự nổi danh một thời vẫn không hết bùi ngùi khi kể về những kỷ niệm được gặp vị lãnh tụ kính yêu.
Lão võ sư Trần Công bảo, dù thành thạo nhiều ám khí độc môn như vậy, nhưng cả đời ông, ông mới sử dụng nó bất đắc dĩ một lần. Đó là trận chiến kinh hồn với một băng đảng giặc cướp.
VIII. “VUA ÁM KHÍ” VÀ LẦN DUY NHẤT DÙNG… ĐŨA ĐÁNH CƯỚP
|
Lão võ sư Trần Công không chỉ là “vua ám khí” mà còn là cao thủ về dùng kiếm |
Lão võ sư Trần Công bảo, tất cả các vật dụng ở xung quanh với ông đều có thể thành một loại ám khí kinh hồn. Dùng một chiếc lá cứng, một hòn sỏi, một mẩu que… ông vẫn có thể hạ gục đối thủ chỉ trong chớp mắt.
Theo học chủ nhân của bí kíp Gồng trà kha
Tuy thiên hạ vô song về độc chiêu ám khí nhưng theo lão võ sư Trần Công, trong suốt cuộc đời bôn tẩu giang hồ, ông chỉ duy nhất sử dụng chúng một lần khi giao chiến. Ông bảo, ám khí đã phóng ra là tàn khốc, là gây sát thương cho đối thủ, nên tuyệt đối không được dùng khi chưa thấy thực sự cần thiết.
Lần phải vận đến tuyệt chiêu đã diễn ra cách đây lâu lắm rồi, ông cũng không còn nhớ rõ đích xác vào năm nào nữa. Khi ấy, ông mới từ biệt Mao sư phụ trở về Việt Nam, lên khu Nghĩa Đô, bái danh sư Lại Phú Dương, cũng là một sư phụ rất giỏi về võ Tàu làm thầy để tiếp tục rèn thêm kĩ năng chiến đấu cho mình.
Nói thêm về võ sư Lại Phú Dương, theo lão võ sư Trần Công thì trước Cách mạng danh tiếng của cụ Lại đã nổi như cồn, đặc biệt với tuyệt chiêu Gồng trà kha. Có lần ngay gần chợ Bưởi, với tuyệt chiêu trên, cụ Lại đã để cho mọi người thẳng tay dùng dao chém vào người mà da thịt không hề sây sát, hệt như người ta dùng thanh gỗ mà nện vào bị bông.
Cụ Lại theo Cách mạng. Một lần, tại nhà người bạn của mình, Lại sư phụ bị giặc Pháp vây hãm. Chạy vọt lên tầng thượng của toà nhà cao 3 tầng nhưng quân giặc vẫn rầm rập đuổi theo. Trong cơn khốn quẫn, tài trí và sức mạnh phi thường của cụ đã vô cùng hữu dụng.
Thấy trên lầu có chiếc cối đá nặng đến cả trăm cân, phía dưới, bên nhà hàng xóm lại có chiếc ao rộng, cụ liền bê luôn chiếc cối ấy mà ném sang ao. Thấy tiếng động mạnh, tưởng cụ đã liều mình nhảy xuống ao, hòng tìm đường thoát, quân Pháp liền xì xồ hô nhau quay xuống, vây kín khắp bờ ao, chờ "con mồi" nổi lên để… bắt. Đánh lạc hướng kẻ thù, Lại sư phụ đã ung dung tìm đường thoát thân.
Cơ hội hiếm hoi dùng tuyệt kỹ
Lão võ sư Trần Công kể, ngày ấy, bởi nhớ lời dặn của Mao sư phụ nên ông đã giấu biệt không cho cụ Lại biết khả năng võ công của mình. Theo học cụ Lại được chừng một năm, một đêm, cụ dựng ngược ông dậy nói là đi đánh nhau. Tưởng thầy mình nói chơi, hoá ra đúng là đi đánh nhau thật.
Đối thủ của hai thầy trò là đảng cướp hung hãn ở khu chùa Thầy, cứ đêm đến chúng kéo nhau về khu ven Hà Nội ngang nhiên cướp bóc. Mỗi lần "ra quân" chúng thường gửi tối hậu thư cho gia chủ, thông báo luôn ngày giờ và những thứ… cần cướp. Nhận được thông báo ấy, nếu khổ chủ không kiếm đủ những thứ trên, hay cố tình tẩu tán tài sản thì chúng sẽ xuống tay vô cùng tàn bạo.
Đêm đó, địa chỉ mà chúng định mò tới là một gia đình ở ngay trong làng Nghè, nơi võ sư Lại Phú Dương sinh sống. Hoảng hốt, không biết cầu cứu ai, khổ chủ bèn tìm tới cụ Lại, những mong vì lòng trượng nghĩa mà lão võ sư ra tay cứu giúp.
Bất bình với toán cướp đã lâu, cụ Lại đã gật đầu ưng thuận. Trước lúc lên đường, cụ Lại nói với đệ tử của mình: "Binh khí cho con tự chọn, nên nhớ đây là toán cướp giết người không gớm tay!".
Lão võ sư Trần Công kể, nghe sư phụ mình nói thế, ông… mừng lắm. bởi toán cướp càng hung dữ bao nhiêu thì ông càng "có điều kiện" để thử nghiệm võ công của mình, thứ mà ông còn thấy thiếu vì từ trước tới giờ, ngoài mấy trận đánh võ đài toàn thắng ra, ông chưa bao giờ có cơ hội để dụng võ ngoài đời.
Đường phi tiêu thần sầu quỷ khốc
Khoác đôi song hổ vĩ côn vào tay, ra cửa, như sực nhớ ra điều gì, ông quay lại cầm thêm nắm đũa sắt, món ám khí mà ông tập luyện đã lâu. Đến nơi, bởi chưa đến giờ như đã hẹn nên toán cướp kia chưa xuất đầu lộ diện. Thấy hai thầy trò, gia chủ mừng quýnh nhưng vẫn có phần e ngại. Có lẽ, họ sợ hai thầy trò không phải là đối thủ của toán cướp tàn bạo.
Vẻ ái ngại, lo lắng ấy càng trầm trọng hơn khi vào đến nhà, cụ Lại sai cậu học trò miệng còn hơi sữa của mình ra cửa đứng canh, còn cụ thì cứ ngồi ung dung uống trà.
Đứng gác chưa mỏi chân thì phía đầu làng, đèn đuốc đã sáng rực. Quân ăn cướp đến. Thấy ầm ĩ, mấy nhà bên cạnh vội vàng tắt đèn, đóng cửa đánh rầm. Đạp cổng, ập vào sân, chúng hùng hổ quát mắng tựa như đang ở chỗ không người.
"Bọn kia đi đâu?" – đứng ngoài cửa, dù đã lấy hơi để giương oai, nhưng giọng quát bọn cướp của ông là cái giọng trẻ con, nghe rất đỗi buồn cười. "Á, thằng này láo! Các ông đi ăn cướp chứ còn đi đâu! Khôn hồn thì cút để các ông vào!" – một tên trong đám sừng sộ.
"Thích vào à? Thích vào thì cứ chui qua đây mà vào!" – chỉ tay xuống dưới háng mình, ông khiêu khích. "Chúng mày đâu, lôi thằng nhãi nhép này ra tẩm dầu đốt cho tao!" – không chịu được màn khiêu khích ấy, tên tướng cướp đùng đùng nổi giận, quát nạt đám lâu la.
Tiếng quát như sư tử hống ấy chưa dứt, một tên tiên phong đã vác binh khí lao lên tưởng sẽ ăn tươi nuốt sống cậu nhóc thư sinh mang gan cóc tía. Thế nhưng, vừa tiến lên được vài bước, hắn bỗng rú lên rồi ôm chân quị xuống. Một chiếc đũa sắt từ tay cậu thiếu niên phóng ra đã cắm phập vào đầu gối, khiến hắn không thể lê bước.
Thấy thuộc hạ bị dính đòn quá nhanh, tên tướng cướp đã giật mình lùi lại. Sợ mất mặt với đám đàn em, hắn lại rống lên đồng thời tuốt kiếm chực xông lên. Nhưng, cũng chỉ trong chớp mắt, một chiếc đũa nữa được "thằng nhóc láo toét" phóng ra. Lần này, chiếc tiêu đi một đường kinh hãi hơn, sượt qua mặt, xuyên qua vành tai của tên trùm sỏ. Vừa thoảng nghe tiếng gió rít bên tai, đã thấy máu rơi xuống vai áo lạnh toát, mặt cắt không còn giọt máu, quá kinh hãi, tên tướng cướp thối lui mấy bước rồi chẳng kịp hô đám lâu la, hắn co cẳng chạy.
Ngồi trong nhà, thấy "kỹ nghệ" lạ lùng ấy của ông, cụ Lại lấy làm ngạc nhiên lắm. Hỏi ai dạy, ông chỉ cười trừ nói rằng cái đó là ông tự mày mò, rồi năng luyện tập mà thành.
Từ lần bị dính đòn thảm khốc đó, toán cướp bỗng bặt vô âm tín. Người dân ven đô ai cũng mừng như vừa trải qua một kiếp nạn kinh hoàng.
Một mình vào hang cọp dữ
Sau đó chừng gần một tháng, ông nhận được một lá thư do một người lạ mặt chuyển đến. Người viết lá thư ấy chính là tên tướng cướp đã dính đòn của ông tháng trước. Hắn mời ông về đại bản doanh của hắn ở gần chùa Thầy để dự một bữa cơm giao hảo. Nhận bức thư ấy, nghĩ không đi không được, nên ông đã viết thư trả lời, hứa sẽ đến như đã hẹn.
Theo yêu cầu của tên tướng cướp, ông đi một mình và tuyệt nhiên không mang binh khí gì, đặc biệt là những que đũa sắt, thứ mà bọn chúng đã được một lần… "nếm mùi đau khổ".
Lão võ sư Trần Công kể, đợt ấy, không muốn cụ Lại và gia đình lo lắng, ông đã giấu nhẹm chuyện mình được mời vào "hang cọp".
Hôm đó, đúng hẹn, ông cứ một mình chạy bộ vào chùa Thầy cùng chiếc khăn mặt vắt vai. Gần đến nơi, qua mương nước, ông nhúng ướt chiếc khăn mặt và nghĩ, nếu trúng gian kế, bị phục kích thì đó cũng là một vũ khí có sức công phá kinh hồn, có thể đánh bại cả chục tên lưu manh trong vòng vài phút.
Sào huyệt của đảng cướp nằm trong một ngôi nhà kiên cố. Nhác thấy bóng ông, tên đầu lĩnh với vết thương trên tai còn chưa lành, vội vàng ùa ra vồn vã, xun xoe: "Cậu đến rồi à? Mời cậu vào trong! Biết hôm nay thế nào cậu cũng đến nên tôi đã triệu tập tất cả anh em đến đây để đón tiếp đấy!".
Vừa ngoắc tay mời, hắn vừa gỡ chiếc khăn trên vai rồi đẩy ông vào gian nhà trong, nơi đã đặt sẵn mâm cỗ với ê hề rượu thịt. Bị đẩy vào góc trong, tì lưng vào tường, ông hơi nghi ngại vì tư thế ngồi đó, nếu bị chúng dùng bàn ép chặt vào trong mà tấn công trực diện thì sẽ vô cùng nguy khốn.
Tuy thế, ông vẫn vui vẻ ngồi vào nơi mà tên đầu lĩnh đã định sẵn cho mình và hai tay thì luôn đặt trên mặt bàn để nếu có biến, ngay lập tức những chiếc thìa, đũa trong tầm với sẽ giúp ông chống trả.
Song thật lạ lùng, khi tất cả đều đã yên vị, tên đầu lĩnh bỗng đẩy ghế, quỳ thụp xuống nói: "Cám ơn cậu đã đến với chúng tôi! Thưa cậu, từ hôm ở làng Nghè về đến giờ, chúng tôi đã không còn đi cướp nữa! Cảm ơn cậu hôm đó đã nương tay!".
Nói vừa dứt câu, hắn tu ực bát rượu như vừa để cảm ơn, vừa để chuộc lỗi. Cuộc rượu cứ thế kéo dài mấy tiếng đồng hồ, ai lấy đều say nghiêng ngả…
|
Lão võ sư Trần Công biểu diễn tam tiết côn cho phóng viên xem |
Kiếp lãng du và một lần chết hụt
Ông là người thích lãng du, phiêu bạt. Ông bảo, giờ có tuổi, ông mới chịu xếp chân ở yên một chỗ chứ khi trước, đời ông là những chuyến đi. Bởi yêu thích cảnh tự do tự tại, ông đã từng bỏ phố xá, ngược lên biên giới ở đến cả chục năm. Đến đâu, ông cũng truyền dạy võ công hay bốc thuốc giúp mọi người nên luôn được đối đãi như thượng khách.
Ông kể, hồi ở Lào Cai, khi giặc phỉ hoạt động mạnh, với những độc chiêu võ thuật của mình, ông đã được mời dạy võ cho rất nhiều đơn vị tham gia tiễu phỉ.
Ở Lào Cai chán, ông lại vòng vào Quảng Trị, nơi bom đạn đang thời khốc liệt. Tại đây, ông lại được mời huấn luyện võ thuật cho các đơn vị đặc công. Ông tâm niệm, người luyện võ thì phải nay đây mai đó, có vậy thì mới trau dồi được vốn liếng võ thuật của mình.
Nhưng cũng vì thế mà trong một chuyến phiêu bồng, ông đã suýt bỏ mạng…
Năm 1960, ông và một số võ sư nổi tiếng khác về Ninh Bình để phát động phong trào học võ và dạy võ cho dân quân tự vệ tại Phát Diệm. Để dập tắt phong trào trên, gián điệp đã dùng thủ đoạn thâm độc là hạ sát các võ sư, đặc biệt là ông, người được quần chúng vô cùng yêu mến.
Chúng bỏ độc vào nồi canh tại nhà ăn tập thể. Vì thế, vừa buông đũa, gần 100 võ sư cùng các môn sinh bỗng thấy ruột mình quặn thắt, sau đó lịm đi. Biết là bị kẻ gian hạ độc, ông bình tĩnh ngồi xuống, vận khí bế huyệt để chất độc không thể ngấm nhanh chóng vào cơ thể mình.
Sau khi giúp đỡ các nhân viên y tế đưa mọi người ra Bệnh viện huyện chạy chữa, ông thấy mình choáng váng. Chất độc đã bắt đầu ngấm. Khi bác sĩ đưa ông lên giường bệnh, trong cơn đau đớn, vật vã, để giải toả, ông đã bẻ gãy cả… hai chiếc chân giường. Nhờ các bác sĩ cứu chữa tận tình, cùng với một thể trạng khoẻ mạnh vốn có, sự nguy kịch cũng dần qua.
Phát công chữa bệnh cứu người
Từ ngày thôi làm Chủ tịch Hội đồng cố vấn cao cấp của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Hà Nội, Huyền Công Đạo Trần Công đã lui vào sống đời ẩn dật.
Tuy thế, hầu như ngày nào ông cũng có khách. Đó là những người vì mến mộ ông mà cố gắng tìm đến để thỉnh giáo võ công. Đó là những bệnh nhân không may gặp chứng nan y, từ khắp mọi nơi, nghe dân tình mách bảo mà lặn lội tìm về, những mong nhờ thành tâm của mình mà được ông cứu chữa.
Lão võ sư Trần Công bảo, khách võ thì ông có thể chẳng mặn mà nhưng bệnh nhân thì ông vô cùng chu đáo. Cũng giống như Mao sư phụ, ông chữa bệnh là để cứu người chứ không bao giờ tính chuyện nhận thù lao.
Với tuyệt chiêu dùng công lực phát công chữa bệnh, ông đã cứu sống được nhiều người, trong số ấy, có cả những bệnh nhân đã bị các bệnh viện lớn trả về bởi hết đường chữa chạy.
IX. BẮC PHONG CHÂN NHÂN VÀ MÔN PHÁI “NHƯỜNG 3 ĐÒN”
|
Bắc Phong Chân Nhân Băng Sơn |
Võ lâm giang hồ biết đến Bắc Phong Chân Nhân – võ sư Băng Sơn với tư cách là đệ tử cuối cùng trong nhóm “Thập nhị đại đồ đệ” của Chưởng môn phái Võ lâm Côn Luân, Thanh Hư Chân Nhân Đoàn Tâm Ảnh.
Bởi muốn hoằng dương tinh thần võ đạo, lòng nhân ái và sự bao dung, Bắc Phong Chân Nhân và các môn sinh của mình còn nổi tiếng ở cách hành xử lạ thường khi tỉ thí võ nghệ: luôn nhường trước đối phương 3 đòn, rồi mới xuất chiêu đánh trả.
Chuyển võ sang văn
Trong số những võ sư nổi tiếng mà tôi đã gặp của loạt bài này, dù sinh năm 1958 nhưng ông vẫn là người trẻ nhất. Thế nhưng, tài không đợi tuổi, đến giờ, ông đã có một võ nghiệp mà rất nhiều võ sư phải ao ước, thán phục. Ông là võ sư Băng Sơn (tên thật là Bùi Quốc Sơn), Chưởng môn phái Võ lâm Phật gia, đệ tử chân truyền của Chưởng môn đời thứ 44 môn phái Thiếu Lâm Phật Gia – đại sư người Trung Quốc Lý Chấn Hòa.
Quê ông ở Mao Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Tổng Mao Điền ngày trước nổi tiếng là đất học, với 128 vị tiến sĩ, trong đó nổi tiếng nhất là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thời phong kiến, nhà Mạc đã cho lập Văn miếu ở Mao Điền để tôn vinh sự hiếu học của nhân dân xứ này.
Ngoài văn, Mao Điền cũng nổi tiếng về võ, mà bằng chứng là thời giặc Pháp đô hộ, đội du kích Mao Điền đã trở thành nỗi khiếp sợ đối với kẻ thù bằng những chiến công vang dội ở khắp đường 5. Tại đất ấy, dòng họ Bùi Xuân của võ sư Băng Sơn cũng nổi tiếng bởi tinh thần thượng võ, với các bài võ gia truyền như võ gậy, lăn khiên, song đao… Ông nội ông, cụ Bùi Xuân Cật, còn gọi là Trương Cất, được võ lâm đương thời ái mộ bởi thông thạo nhiều đòn hay thế hiểm của Long quyền, Hổ quyền, Ngọc trản, Thiết lĩnh… Lớn lên trong "môi trường" ấy, được mọi người rèn giũa tối ngày nên khiếu võ trong ông đã "có đất" sinh sôi.
Gia đình ông chuyển ra Hà Nội đúng khi nghề võ suy tàn. Bởi thế, ông được mọi người chuyển hướng, bắt quay sang "học văn" vì nghĩ đó là đường lập thân tốt nhất.
Cơ duyên từ trận đòn hội đồng
Thế nhưng, như cái duyên trời định, dòng máu võ thuật trong ông vẫn không khi nào ngưng chảy.
Ngày ấy, nhà ông ở phố Huế, ông hay lang thang cùng đám bạn ra ga Hà Nội chơi. Bởi hiềm khích với đám choai choai ở ga nên nhiều lần hai "băng" đã đánh nhau biêu đầu, sứt trán. Một bữa, bị "phục kích" bất ngờ, ông bị đám "đầu gấu" quây vào góc ga, "hứa hẹn" một trận đòn tới số.
Đang lúc nguy khốn, như trong truyện kiếm hiệp, không biết từ đâu một cô bé xinh xắn trạc tuổi ông bất ngờ xuất hiện. Thân thủ nhanh nhẹn, xuất chiêu biến ảo, chỉ trong giây lát cô bé đã khiến mấy tên ma cà bông ngã sõng soài, ù té mỗi đứa một nơi.
Thấy cậu nhóc bị thương, da thịt bầm dập, cô bé đã đưa cậu về nhà để cha mình chữa chạy. Nhà cô bé ở khu Trại Nhãn (La Thành – Hà Nội), nơi ấy khi đó toàn những ngôi nhà lụp xụp của dân tứ xứ. Trên đường đi, cô bé ấy bảo, cha cô là người Trung Hoa. Ông sang Việt Nam sinh sống đã lâu và cũng từ một cơ duyên tình cờ, cô được nhận làm con nuôi của ông cụ.
Nhà cô bé cũng tạm bợ như bao ngôi nhà ở khu vực ấy, chỉ có điều rộng rãi hơn và phía trước, sau đều có khoảng sân rộng được nện phẳng lì, chắc nịch. Khoảng sân ấy chắc chắn là để tập luyện quyền cước – là người đã từng tập võ, cậu bé Sơn thầm đoán vậy.
Đón cô con gái nuôi ở cửa, sau khi nghe cô nói chuyện (bằng tiếng Trung Quốc), người đàn ông có khuôn mặt hiền hậu nhưng ánh mắt tinh anh đã mời cậu bạn mới quen của con vào nhà.
Võ sư Băng Sơn kể, chỉ bằng một phương thuốc gia truyền bôi ngoài da, như có phép tiên, các vết bầm tím trên người ông đã dịu mát và ít phút sau thì lành hẳn như chưa từng bị va đập bao giờ. Thấy con mình cần có bạn và cậu bé mới quen cũng hiền lành nên khi tiễn ra cổng, ông già người Tàu ấy đã thân thiện mời ông khi rảnh thì đến chơi.
Võ sư Băng Sơn biểu diễn võ thuật |
|
|
|
Màn điểm huyệt sau sân nhà
Mấy ngày sau, thấy nhớ bố con ông lão tốt bụng, cậu bé Sơn lại tìm ra Trại Nhãn. Gọi cửa mãi mà không thấy ai ra mở, cậu đành lặng lẽ đẩy cổng bước vào. Trong nhà vẫn vắng hoe nhưng ở sân sau thì có tiếng hò hét, tiếng chân dậm huỳnh huỵch. Tò mò, cậu lại lặng lẽ tiến về nơi có những tiếng động lạ ấy.
Qua khe cửa sổ, cậu đã hết sức bất ngờ bởi trong khoảng sân rộng chừng chục mét vuông đang có cuộc tỉ thí lạ lùng. Mấy người cao to lực lưỡng đang thủ thế nhằm vào ông lão chủ nhà, người đã thoa "thuốc tiên" cho cậu hôm nào. Một tiếng hô vừa đủ nghe nhưng rất dõng dạc vừa cất lên thì cả đám người ấy tung đòn ào về phía góc sân, nơi chủ nhà vẫn điềm nhiên đứng tấn. Võ sư Băng Sơn kể, trong đời, ông chưa thấy một trận so tài nào mãn nhãn đến vậy.
Khi đối phương còn cách vài bước chân, ông lão người Tàu mới thi triển thân pháp. Thế nhưng, chỉ một cái nhún người, ông đã thoăn thoắt vòng đến trước mặt khắp lượt những đối thủ của mình. Và, mỗi lần "xuất hiện bất ngờ" ấy, ông đều điểm những đòn rất hiểm vào tử huyệt đối phương. Quần thảo một hồi, tất cả dừng tay. Sau động tác chào nghiêm nghị, mấy người lực lưỡng hổn hển bảo: "Thân thủ của sư phụ thiên hạ vô song, chúng con còn phải học hỏi rất nhiều!". Truớc lời khen ngợi ấy, ông lão chủ nhà chỉ cười hiền rồi khoát tay mời tất cả vào nhà.
Vào đến nhà trong, thấy cậu nhóc loắt choắt đang đứng khép nép sau cánh cửa nhìn mình bằng ánh mắt vừa sợ hãi, vừa nể phục, ông lão người Tàu đã vẫy cậu lại, xoa đầu và hỏi: "Con có thích học võ không?". Tim còn đang thình thịch đập, Sơn đã gật đầu bừa.
"Tốt lắm! Ta thấy con cũng có khiếu đấy! Nếu thích học thì cứ đến đây, ta sẽ dạy cho! Đây là những đệ tử của ta, họ đã theo ta được mấy chục năm rồi đấy!" – Chỉ vào những người vừa giao đấu với mình khi nãy, ông lão người Tàu ôn tồn giới thiệu.
Vị Chưởng môn đời thứ 44 Thiếu lâm Phật gia
Vậy là từ dạo đó, cứ tối đến là ông lại trốn gia đình chạy bộ từ nhà sang khu Trại Nhãn. Khi tình cảm của hai người đã nặng sâu, ông lão người Tàu mới tiết lộ cho cậu học trò bé nhỏ biết rõ thân phận thật của mình. Và, điều ấy đã làm cậu vô cùng bất ngờ, kinh ngạc.
Có lẽ, dù có nằm chiêm bao cậu cũng không thể ngờ có ngày mình lại gặp được Chưởng môn đời thứ 44 của môn phái nổi tiếng ở đất võ Trung Hoa: Thiếu lâm Phật gia. Ông tên là Lý Chấn Hoà, pháp danh là Băng Tâm (sinh năm 1989, quê ở tỉnh Hà Bắc), con trai của võ sư nổi tiếng và là Chưởng môn đời thứ 43 của môn phái, Lý Chấn Sinh. Ông sang đất Việt từ năm 1937.
Những ngày đầu, ông kiếm sống nhờ nghề bảo tiêu cho các thương gia chạy hàng đường dài, sau đó thì ổn định cuộc sống nhờ nghề bốc thuốc, chữa bệnh. Như để cậu học trò thơ ngây thực sự tin tưởng vào những lời mình nói, ông lão người Tàu đã mở tủ lấy cho cậu xem ấn, kiếm – những bảo vật của môn phái mà chỉ người chưởng môn mới được quyền gìn giữ. Lễ kết nạp ông vào môn phái được đại sư Chưởng môn tổ chức đơn giản nhưng đầy đủ thủ tục, nghi thức. Và, cũng tại buổi đó, Lý sư phụ đã đặt cho ông pháp danh theo pháp danh của người là Băng Sơn và nhận ông làm con nuôi.
Theo Lý sư phụ rèn luyện thành thạo Ngũ hình quyền (Long- Hổ- Báo- Xà- Hạc) và tinh thông thập bát ban cùng các kỹ năng cơ bản của Thiếu lâm Phật gia, võ sư Băng Sơn lên đường nhập ngũ. Những tháng ngày quân trường này, bởi tính ham học hỏi, bởi cơ duyên, ông đã được tiếp xúc với nhiều người luyện võ ở khắp mọi nơi, đặc biệt là tại các bản làng người dân tộc thiểu số sống rải rác khắp vùng cương thổ. Và, cũng từ những mối thâm tình ấy, ông đã được lãnh hội nhiều bí kíp võ công thuộc loại kỳ dị, hiếm có ở đời.
Xuất ngũ năm 1984, quẳng ba lô về nhà, ông vội vàng tìm đến nơi ở của Lý sư phụ. Dù đã mấy xuân nữa trôi qua nhưng sư phụ ông vẫn giữ nguyên phong độ ngày nào. Và, để kiểm tra xem sự tiến bộ của cậu học trò yêu sau mấy năm xa cách, Lý sư phụ cùng ông đã có cuộc so tài nảy lửa. Sau cuộc đấu đó, Lý sư phụ vô cùng mãn nguyện. Vỗ vai ông, đại sư bảo: "Khi đi con được 1 thì giờ về đã khá thêm tới 7- 8 phần!".
Khi đó, được sự dìu dắt của sư phụ và sư thúc Viễn Trí, cũng là một cao nhân trong làng võ, giữa năm 1985, ông đứng ra mở võ đường, chiêu nạp môn sinh. Và, cũng được phép của sư phụ chưởng môn, ông lấy tên võ phái là Võ lâm Phật gia, ý chỉ môn võ xuất phát từ cửa thiền, được phóng tác theo lối chiến đấu của các loài mãnh thú. Khi võ phái được thành lập, thêm một trọng trách và vinh dự nữa khi ông được sư phụ giao cho nhiệm vụ là đại diện của môn phái, chịu trách nhiệm phát dương quang đại môn phái ở Việt Nam.
Xuôi phương Nam tìm Thanh Hư Chân Nhân
Năm 1988, tuổi đã cao (99 tuổi), nỗi nhớ quê hương vò xé, Lý sư phụ đã lên đường về nước. Chia tay nhau, nắm tay ông, đại sư nghẹn ngào bảo: "Tất cả những kỹ năng của ta, con đều đã lãnh hội vẹn toàn. Nay ta về cố quốc, chẳng biết có ngày hội ngộ nữa không? Trước khi ta đi, ta muốn dặn con một điều con nhớ mà cố gắng thực hiện. Con hãy tìm gặp cho kỳ được Thiện Tâm Thiền sư Đoàn Tâm Ảnh để học thêm về đấu pháp. Trời Nam này, theo ta thì ông ấy là thiên hạ vô song. Hơn nữa, kinh nghiệm giang hồ là điều con còn thiếu mà ông ấy lại đã có thừa!".
|
Võ sư Băng Sơn chụp ảnh cùng với đại sư Đoàn Tâm Ảnh |
Nghe theo lời Lý sư phụ, ngay sau đó ít lâu, ông khăn gói vào Nam tìm Thiện Tâm Thiền sư. Về vị đại sư tiếng nổi như cồn này thì bây giờ, người luyện võ vẫn ước ao trong đời được một lần tham vấn. Thiện Tâm Thiền sư là Chưởng môn phái Võ Lâm Côn Luân, ông còn được võ lâm biết tới qua pháp danh Thanh Hư Chân Nhân.
Ông sinh năm 1900, ở miền Tây Nam Bộ, cha là người Triều Châu (Trung Quốc) mẹ là người Rạch Giá. Ngay từ nhỏ ông đã sống đời phiêu bạt. Năm 12 tuổi, ông được cha gửi sang Trung Quốc, trú tại chùa Phi Lai Tự, núi Sơn Đầu, tỉnh Mã Dương Cương. Người được "giao nhiệm vụ" rèn cặp Tâm Ảnh thì ở Trung Hoa đại lục hiếm người nào lại không biết tới. Ông chính là Mộc Đức Thiền sư, cố vấn cao cấp của Tổng thống Tôn Trung Sơn.
Sau gần chục năm luyện tập võ nghệ, khi tuổi ngoài 20, đại sư Đoàn Tâm Ảnh đã được Mộc Đức Thiền sư cùng đại sư Bắc Phong Hoà Thượng, Chưởng môn phái Thiếu lâm Bắc phái đứng ra tác hợp để cậu học trò yêu được kết tóc se duyên cùng cô nương Hoa Cẩm Tú (môn đồ của Bắc Phong Hoà thượng).
Sau đó, được sự đồng ý của hai vị đại sư phụ, vợ chồng Tâm Ảnh xuống núi hành hiệp với pháp hiệu là Ta Lô. Từ ngày xuống núi, tiếng tăm về cặp vợ chồng Tâm ảnh – Cẩm Tú cũng lẫy lừng khắp mọi nẻo đất Trung Hoa. Người chồng thì khiến đối phương nể sợ bởi đường côn dũng mãnh, biến hoá khó lường. Người vợ thì nức tiếng giang hồ với vuông lụa bạch, mỗi lần xuất chiêu thì có thể hạ gục đối phương ngay trong chớp mắt.
Chiến tranh Hoa – Nhật bùng nổ, vợ chồng ly tán mỗi người một phương. Sau nhiều năm tìm kiếm nhưng vô vọng, Đoàn Tâm Ảnh đành phải quay trở lại quê nhà. Về đất Quảng Ngãi vào năm 1932, nhưng máu phiêu bạt, ông lại khăn gói sang Lào và Campuchia. Năm 1944, Tâm ảnh trở về Việt Nam, trú tại Bạc Liêu. Lúc này, ông nương nhờ cửa Phật, sống ẩn dật ở các chùa chiền với pháp danh Thiện Tâm. Cũng thời kỳ này, bởi nạn cường hào ác bá, bởi sự hung đồ của quân cướp nước, ông đã đứng ra thành lập đảng Sao Trắng với sứ mệnh là trừ khử những tên tham quan, ô lại, nhũng nhiễu dân nghèo.
Chuyện đại sư Đoàn Tâm Ảnh hành hiệp trượng nghĩa thì bây giờ, dân các tỉnh miền Tây vẫn truyền tai nhau như một huyền thoại. Cứ khi mọi người yên giấc, bỏ áo thầy tu, khoác lên người bộ y phục kín mít, đại sư băng mình vào màn đêm tĩnh lặng. Và, lần nào đi thì lần ấy chí ít cũng một tên ác ôn phải đền tội ác.
Cứ sau mỗi lần ra tay, hiệp khách ấy luôn để lại trên "hiện trường" ám hiệu riêng của mình. Đó chính là chữ ký của ông. Chữ ký có hình ngôi sao 5 cánh. Suốt mấy năm trời, tại 6 tỉnh miền Tây, uy danh, sự lợi hại của vị đại hiệp có chữ ký lạ lùng ấy đã làm thực dân Pháp và bè lũ tay sai khiếp đảm. Bởi thế, nhiều dinh thự của những tên quan lại nợ máu với nhân dân đã vội vàng "nâng cấp", che chắn kín cổng cao tường để đề phóng thích khách. Thế nhưng, như từ dưới đất chui lên, như từ trên trời rơi xuống, tất cả các hệ thống canh phòng ấy đều là vô dụng. Hễ hiệp khách muốn "đòi nợ" ai, thì dù có phòng bị nghiêm ngặt đến mấy, kẻ đó vẫn phải rơi đầu.
Năm 1944, đại sư Đoàn Tâm Ảnh lại tiếp tục cuộc đời phiêu bạt của mình. Ông đã lưu dấu chân mình ở khắp các nước như Mã Lai, Thổ Nhĩ Kỹ, Nhật Bản, Phi Luật Tân… Tại những nơi đó, ông đã truyền bá công phu cho rất nhiều người.
Về lại Việt Nam năm 1954, ông bắt đầu thâu nạp môn sinh, mở võ đường dạy võ. Năm 1960 ông đã sáng lập Võ lâm đạo Việt Nam và thành lập Tổng hội Võ lâm Việt Nam tại Cần Thơ.
X. CHƯỞNG MÔN PHÁI “NHƯỜNG 3 ĐÒN” THỬ TÀI “VUA ÁM KHÍ”
|
Võ sư Băng Sơn thời trẻ |
Hành trình bái sư của võ sư Băng Sơn vô cùng gian khổ, bởi vô số người muốn một lần diện kiến nhân vật huyền thoại Thiện Tâm Thiền Sư mà không được, chưa nói đến việc được thu nạp làm đệ tử.
"Có phải Lý sư phụ giới thiệu tới tìm ta?"
Bởi lý do đó, vào Sài Gòn suốt mấy tuần trời, tìm đến khắp các võ đường của Võ lâm Côn Luân nhưng ông vẫn không một lần được thấy mặt Thiện Tâm Thiền Sư. Thấy ông vất vả, kỳ công, các trợ giáo của đại sư đã thương cảm, khuyên ông nên ra Bắc, bởi đại sư không bao giờ tùy tiện gặp người mình không quen biết.
Thế nhưng, nhớ lời dạy của Lý sư phụ trước lúc chia tay, ông quyết chí tìm gặp Thiện Tâm Thiền Sư cho kỳ được, dù có phải đi làm thuê để kiếm kinh phí trang trải trong những ngày chờ đợi.
Thế rồi, cơ duyên đến. Một lần viếng thăm một võ đường của đại sư nằm khuất sâu trong con hẻm nhỏ yên tĩnh, ông đã được một trợ giáo của đại sư đon đả mời vào. Chưa hết ngạc nhiên thì vị trợ giáo ấy đã bảo: "Đại sư đang chờ ông ở trong. Người biết thế nào ông cũng đến nên đã cố tình chờ đấy!".
Võ sư Băng Sơn kể, nghe câu nói đó ông mừng đến nỗi ú ớ chẳng nói được câu nào. Quãng đường từ võ đài vào phòng đại sư chỉ vòng vèo qua mấy gian nhà mà ông thấy như xa vời vợi. Cái giây phút căng thẳng ấy đã nhanh chóng trôi qua khi cánh cửa phòng của đại sư bật mở.
Đang ngồi trầm ngâm, thấy ông vào, đại sư đứng dậy, vồn vã: "Con vào đây! Ta chờ con cũng đã lâu rồi!". Khi vừa an vị, một câu hỏi nữa của đại sư càng khiến ông thêm phần bối rối, khó hiểu: "Có phải Lý sư phụ giới thiệu con tới tìm ta?". "Ôi, sao đại sư biết!?".
Trước câu hỏi đầy sự kinh ngạc ấy của ông, Thiện Tâm Thiền Sư chỉ khẽ mỉm cười. Sau này, ông đoán rằng, trước đây, bôn tẩu giang hồ, hai vị đại sư đã có lần hội ngộ nên đã hứa hẹn chuyện dìu dắt đệ tử cho nhau.
Môn đồ cuối cùng trong Thập nhị đại đồ đệ
Ngay buổi gặp gỡ ấy, đại sư Đoàn Tâm Ảnh đã thử tài năng võ nghệ của người đệ tử tương lai của mình.
Ngồi trên sập, đại sư bảo ông thi triển quyền cước trong nhà. Ban đầu, đại sư bắt ông đánh phá 2 cửa, rồi tăng lên 4 cửa, 6 cửa. Sau một thôi một hồi thi triển tất cả những kỹ năng mà mình có được, đã thấm mệt, đang chực dừng lại thì Thiện Tâm Thiền Sư lại giục tiếp: "Đánh 8 cửa!". Mệt, thêm nữa, trong căn phòng nhỏ ấy, không đủ diện tích để ông thực thi "mệnh lệnh" lạ lùng của vị đại sư, nên ông đành chắp tay mà rằng: "Cái đó thầy con chưa dậy!". Nghe ông nói vậy, đại sư bỗng phì cười.
Thế nhưng, sau nụ cười ấy ông bỗng trầm ngâm, như đang mải mê với một suy nghĩ vô cùng sâu sắc. Đăm đăm nhìn ông, bất chợt đại sư hỏi: "Con có muốn làm đệ tử ta không? Nếu đồng ý, ta sẽ đích thân chỉ giáo!?". Câu hỏi ấy đã làm ông vô cùng sung sướng, bởi đó là mục đích của chuyến đi đầy gian khổ mà ông đã phải chịu đựng.
Thế nhưng, nghĩ đến hàng ngàn đệ tử của đại sư, có mấy người được hưởng ân sủng đặc biệt ấy. Sợ hiềm khích, đố kỵ nên ông đã e dè: "Con sợ mình không có khả năng với lại còn sư huynh, sư đệ…". "Cái đó thì con khỏi phải lo, khả năng của con đến đâu ta biết! Còn về môn phái, ta sẽ đặc cách cho con!".
Sự kiện Thanh Hư Chân nhân đặc cách thu nạp đệ tử ấy chẳng mấy chốc lan rộng ra khắp sư môn, thậm chí cả làng võ phía Nam. Thế nhưng, với những người luyện võ chân chính thì lại cho đó là một điều vô cùng có lợi cho võ lâm, bởi họ tin vào con mắt tinh đời của ông. Và cũng qua sự kiện ấy, võ lâm mới hiểu hết khát khao cháy bỏng mà suốt cả cuộc đời, Thanh Hư Chân nhân chưa hội đủ điều kiện để thực hiện.
Từ năm 1960, khi sáng lập Tổng hội Võ lâm Việt Nam và Võ lâm đạo Việt Nam, sáng tổ Đoàn Tâm Ảnh đã có dự định hưng chấn võ đạo Việt Nam cùng với Thập nhị đại đồ đệ như truyền thống của các danh sư Côn Luân thủa trước ở Trung Hoa. Mỗi danh sư của phái Côn Luân thì có thể có nhiều đệ tử nhưng chỉ có 12 người được phong pháp danh và được truyền thụ tất cả những bí kíp võ công của môn phái.
Võ sư Băng Sơn kể, trước ông, đã có 11 đại đồ đệ được đại sư Đoàn Tâm Ảnh thu nạp. Trong số họ, đã có nhiều người danh chấn giang hồ như Hàng Thanh, Lạc Hà, Hùng Phong, Vũ Đức… (các cao thủ này hiện đang sinh sống và truyền bá võ thuật ở nước ngoài). Thu nạp ông làm đại đồ đệ cuối cùng, thứ 12, Thanh Hư Chân nhân đã đặt pháp danh cho ông là Bắc Phong Chân nhân với uớc muốn, ông sẽ đưa môn phái phát triển rực rỡ ở miền Bắc.
Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm Ảnh
Lần thứ hai "rút ruột" sư phụ
Từ dạo đó, ngày nào cũng vậy, võ sư Băng Sơn được Đại sư trực tiếp truyền thụ võ công. Đại sư là người rất nghiêm khắc trong việc dạy học trò. Còn nhớ, khi mới vào, tiếp xúc với một số đồ đệ của đại sư, ai cũng bảo: "Ổng khó tính lắm! Lôi thôi là ổng uýnh liền à!". Và, võ sư Băng Sơn cũng không ngoại lệ.
Tuy chưa bị "uýnh liền" nhưng Thanh Hư Chân nhân đã ra với ông một điều kiện, các bài mà thầy dạy ngày hôm trước, hôm sau phải tinh thông cho kỳ được. Nếu không làm được như thế thì đại sư sẽ không dạy nữa và coi như duyên số giữa hai thầy trò đã đến ngày cạn phai.
Chỉ ít lâu theo đại sư Đoàn Tâm Ảnh, ông đã lãnh hội được toàn bộ Thập bát chưởng công – võ công cơ bản của Côn Luân Bắc phái. Võ công của Côn Luân thiên về việc tu thân luyện sức, toát lên tinh thần nhân ái, các môn sinh thích sống cuộc đời ẩn dật, không phô trương. Bởi thế, võ lâm giang hồ bảo, võ của Côn Luân là Võ tiên.
Bởi còn công việc ngoài Bắc, nên khi đã thấm nhuần cái đạo của Võ tiên, thầy trò đành phải nói lời giã biệt. Mãi đến năm 1991, nhân Đại hội Võ thuật toàn quốc lần thứ nhất, Thanh Hư Chân nhân mới ra Hà Nội. Tái ngộ nhau, hai thầy trò mừng mừng tủi tủi. Võ sư Băng Tâm kể, lần gặp gỡ ngắn ngủi ấy, đại sư đã trao cho ông cuốn Cẩm nang bí kíp. Đây là cuốn sách ghi lại đầy đủ những bí kíp võ công của môn phái Côn Luân, do đại sư tự tay chép lại. Về cuốn sách đặc biệt này, võ lâm giang hồ xem như báu vật.
Có giai thoại rằng, trước đó, đã có rất nhiều nhà xuất bản đến nài nỉ xin mua lại bản thảo với số tiền khổng lồ. Riêng nhà sách Khai Trí ở Sài Gòn đã trả cho đại sư 200 cây vàng nhưng ông vẫn không chịu bán. Tiếp những nhà xuất bản ấy, đại sư chỉ bảo: "Sách quý, không bán được! Nhưng gặp ai, thấy thích tôi sẽ tặng ngay!".
Cũng trong lần gặp ấy, đại sư đã bảo ông rằng: "Ta 18 năm lang bạt học võ thì đến giờ đã truyền cho con được 9 năm rồi. Khi nào vào đó (Sài Gòn) ta sẽ truyền nốt 9 năm còn lại cho con!". Nghe lời dạy của đại sư, thu xếp ổn thỏa công việc, năm 1995, ông lại khăn gói vào Sài Gòn "rút ruột" tinh hoa võ thuật của sư phụ mình. Và, chuyến đi này, khả năng hấp thụ võ công của ông đã khiến Thanh Hư Chân nhân vô cùng mãn nguyện.
Võ sư Băng Sơn thi triển quyền cước
Thọ giáo "Vương kiếm" Huyền Công Đạo
Ra Bắc, vừa tập trung sức lực gây dựng môn phái, võ sư Băng Sơn còn được "Vương kiếm" – “vua ám khí” Huyền Công Đạo Trần Công quý mến chỉ giáo thêm. Nhờ sự tận tình ấy, ông đã lãnh hội được ở đại sư nhiều môn binh khí đặc dị và những bí pháp có một không hai. Và chuyện võ sư Băng Sơn diện kiến Huyền Công Đạo Trần Công đến giờ vẫn được giới võ thuật truyền tai nhau như một giai thoại đẹp.
Võ sư Băng Sơn kể, nghe tiếng tăm của cụ Trần Công đã lâu, đặc biệt là khả năng khí công siêu phàm của cụ, đã nhiều lần ông muốn thử. Thế nhưng, ngại mình là bậc hậu sinh, lại thêm phần Huyền Công Đạo nổi tiếng kỹ tính nên loay hoay mãi mà ông chẳng biết chọn cách nào. Cho đến một buổi, sau hôm gặp đại võ sư ở Hội võ thuật Hà Nội, ông đã quyết định "diện kiến" sự cao thâm của bậc danh nhân làng võ ấy. Ông lấy côn và tự đánh một đòn rất nặng vào tay trái của mình.
Cú "tự xử" ấy khiến khuỷu tay ông bầm tím, sưng vù. Ôm cánh tay đau đớn ấy, ông đã gõ cửa nhà Huyền Công Đạo. Võ sư Băng Sơn kể, hôm ấy ông đã được mấy phen kinh ngạc. Thấy bộ dạng của ông, Huyền Công Đạo như đã biết tỏng sự việc, nhưng ông vẫn vui vẻ mời ông vào và nói: "Ông muốn ta phóng khí chữa vết thương phải không, được rồi, ông cứ ngồi nguyên đó, ta sẽ chữa cho!".
Nghe đại sư nói thế, biết là "âm mưu" của mình đã bị đại sư "bắt vị", nhưng ông vẫn ngồi xuống và toan cởi bỏ hết áo rét để xem bậc trưởng lão… phóng khí chữa bệnh thế nào. Thế nhưng, việc ấy đã bị Huyền Công Đạo ngăn lại: "Không cần, ông cứ ngồi nguyên đó!". Lời của đại sư khiến ông rất kinh ngạc, bởi hôm đó trời rét như cắt da cắt thịt nên ông đã ních vào người rất nhiều áo rét. Ngoài 2 chiếc áo len, ông còn khoác thêm cả chiếc áo Na- tô dày ở ngoài.
Bởi ăn vận như vậy nên ông không thể tin lão võ sư có thể truyền khí xuyên qua ngần ấy áo để mà chữa thương cho mình. Thế nhưng, lạ kỳ thay, sau khi vận khí, tay đại lão võ sư để cách vết thương của ông đến cả gang tay. Vậy mà, chỉ trong tích tắc, ông đã cảm nhận được sự thay đổi rõ rệt ở ngay tại nơi "mình tự làm mình khổ" ấy. Tay ông lúc thì nóng ran, lúc thì lạnh toát.
Chừng 3 phút sau, Huyền Công Đạo kết thúc công việc của mình. Và thật bất ngờ, ông thấy tay mình tuyệt nhiên không còn đau đớn nữa. Vết thương thì chỉ qua đêm đó đã lành lại như chưa hề bị va đập.
Cuộc rượu định mệnh
Năm 1985, sau khi đi bộ đội về, võ sư Băng Sơn mở võ đường ở Hà Nội. Ông kể, cái thủa ban đầu cam khó ấy, để võ đường tồn tại được, ông đã phải nhiều lần đích thân đứng ra thi thố võ nghệ để giữ vững uy danh của võ đường. Trong số những đối thủ, có cả những kẻ cố tình phá đám, dẫm đạp lên tinh thần võ đạo.
Thế nhưng, từ sau trận đấu với một võ sư ở quận Hoàn Kiếm, ông đã rất ăn năn, tự hứa với mình không bao giờ ra tay nếu thật sự thấy không cần thiết. Nghe tiếng ông đã từng thọ giáo nhiều bậc đại sư tiếng tăm lừng lẫy và biết ông là đệ tử chân truyền của Chưởng môn Lý Chấn Hòa, một võ sư ở quận Hoàn Kiếm Hà Nội (cũng theo học một thầy Tàu), đã nhiều lần gửi lời thách đấu. Vị võ sư ấy lực lưỡng, sức mạnh thì kinh hồn, mỗi cú thôi sơn có sức nặng ngàn cân.
Để biểu diễn sức mạnh của mình trước võ lâm đồng đạo, vị võ sư ấy từng dùng tay trần đấm tróc vỏ cây già. Khiêu chiến mãi không được, vị võ sư đó đành qua một người quen của ông, mời ông tới nhà uống rượu. Nghĩ đó là sự ân tình, ông đã vui vẻ nhận lời mà không ngờ nó trở thành cuộc rượu định mệnh của vị võ sư kia.
Võ sư Băng Sơn kể, ban đầu cuộc rượu đó diễn ra rất vui vẻ, thế nhưng, rượu vào thì lời ra, chủ đề võ thuật lại được chủ nhà nhắc tới. Và ông ta có những lời miệt thị, xúc xiểm đến việc mấy lần ông từ chối lời thách đấu. Cùng với sự chế nhạo đó, ông ta khoe những thế võ độc của mình.
Rượu cũng đã ngà ngà, trước sự khoe khoang vô lối của đối phương, võ sư Băng Sơn bảo, những thế võ đó, ông có thể hóa giải được. Và, ngay trong cuộc rượu đó, ông đã "diễn thuyết" cách thức phá chiêu của mình. Bị bóc mẽ trước đám đệ tử của mình, gia chủ đã vô uất ức. Ông ta bảo, Băng Sơn chỉ giỏi… võ mồm, còn quyền cước thì chẳng đến đâu.
Một lần xuất chiêu cả đời day dứt
Vẫn bằng cái giọng khiêu khích, hợm hĩnh, ông ta thách người ngồi đối diện với mình ra sân thi đấu. Trước thái độ quá quắt ấy, hơi men trong người đã làm võ sư Băng Sơn tức giận. Ông đứng phắt dậy, ra sân. Nhưng, với "thói quen" vốn có khi thi đấu của mình, võ sư Băng Sơn kể, ông vẫn nhường cho đối thủ tấn công trước 3 đòn.
Và đúng như đã nói ở trong mâm rượu, hai đòn đầu, khi đối phương tung chiêu độc, ông đã lần lượt hóa giải và nhứ đòn vào những chỗ hiểm của đối phương. Đòn thứ ba cũng vậy, như mãnh thú say mồi, đối phương hùng hục lao tới, nhưng ông cũng nhanh chóng vô hiệu hóa chiêu thức ấy.
Đã quy ước trước, khi hai bên giao đấu, không được cố tình đánh vào những tử huyệt của nhau như yết hầu, mắt, hạ bộ… Sau đòn thứ 3, đáng ra vị võ sư kia phải dừng lại và coi như cuộc đấu đã phân biệt rõ kẻ thắng người thua. Vậy mà, khi ông đã dừng đòn, gia chủ vẫn bất thình lình chơi ngay đòn hiểm, xỉa thẳng tay vào mắt đối phương. Không đề phòng nên trước cú đánh bẩn ấy, ông chỉ kịp ngửa mặt tránh. Tuy thế, ngón tay của đối phương vẫn cầy rách mí mắt trái của ông.
Sau cú đánh đó, tiện tay, gia chủ tung ngay một đòn như trời giáng vào vai trái khiến ông loạng choạng. Biết đối phương quyết hạ độc thủ, hết đường lùi, ông quyết định phản đòn. Khi đối phương chưa kịp thu tay về thì đã bị ông túm lấy giật mạnh về phía trước…
Võ sư Băng Sơn kể, khi đối phương lỡ trớn, lao theo cú giật đó thì ngay lập tức, ông lách sang bên rồi giáng luôn một đòn vào mang tai đối phương và tiếp theo là một đòn vào phần gáy. Đồng thời với sê-ri đó là một cú gối thốc ngược lên phản đà đổ xuống của đối thủ. Dính 3 đòn liên tiếp, vị võ sư cao to ấy bật ngược ra phía sau và nằm bất động.
Võ sư Băng Sơn kể, vài tuần sau, có người đến tìm ông báo tin, vị võ sư ở Hoàn Kiếm đó sau lần tỉ thí với ông đã nằm liệt giường, không thể nào đi lại được nữa. Tin ấy làm ông giật mình, kinh hãi. Có lẽ tại bởi uống rượu, bởi tức giận nên hôm đó ông đã xuống tay quá nặng và những cú đòn đó đã làm kinh mạch của đối phương bị tổn thương, sinh ra bại liệt.
Hối hận, ông đã vội vàng đường sữa lên thăm. Gặp ông, vị võ sư đó buồn bã bảo: "Lỗi này do tôi, ông không phải bận tâm gì. Suốt mấy tuần qua, nằm suy nghĩ, tôi biết, với tính khí ấy của mình thì sớm muộn gì tôi cũng sẽ gặp cảnh này!".
Võ lâm Việt Nam tùng thư
Theo võ sư Băng Sơn thì cho đến tận bây giờ, vị võ sư ấy vẫn phải sống cảnh liệt giường. Tâm sự với tôi, day dứt ông bảo, nếu có thể thì qua bài báo này, một lần nữa ông gửi lời xin lỗi tới vị võ sư đó và gia đình. Một lời xin lỗi tự đáy lòng mình.
Sự day dứt ấy của võ sư Băng Sơn đã "ngấm" rất sâu vào phong cách dạy môn đồ. Nội quy môn phái, ông nhấn mạnh tinh thần võ đạo, ấy là không được dùng võ công để khuất phục người khác. Đặc biệt hơn, môn sinh của ông, nếu thi đấu với ai mà không được sự đồng ý của thầy thì coi như tự xóa tên mình ra khỏi môn phái.
Đặc biệt, tinh thần ấy đã "chuyển hóa" thành sự trượng nghĩa, nhân ái: Tất cả các môn đồ, nếu cực chẳng đã phải thi đấu thì dứt khoát phải nhường đối phương trước 3 đòn rồi mới được ra tay. "Quy chế" đó đã bất di bất dịch từ lâu lắm rồi!
Mấy lần tôi đến, trong căn nhà cấp 4 tuềnh toàng ở ngay cạnh hồ Thanh Nhàn, đều bắt gặp cảnh võ sư Băng Sơn đang loay hoay viết sách. Ông đang tập trung sức lực của mình để cho ra đời bộ sách Võ lâm Việt Nam tùng thư. Theo võ sư Băng Sơn thì đó là bộ sách ghi chép khá đầy đủ những chặng đường phát triển của võ học Việt Nam.
XI. CAO THỦ HOA QUYỀN VÀ TUYỆT KỸ HỒNG GIA
|
Võ sư Vũ Quang Tín |
Người có khuôn mặt của một võ tướng
Vài năm trước, trên một tờ báo của ngành Công an có đăng câu chuyện về một võ sư dũng cảm, dùng võ thuật khống chế một tên côn đồ nguy hiểm khi hắn hung hãn dùng dao tấn công dân lành.
Bài báo viết: "Hôm ấy, khi ông đang ngồi trò chuyện với một người bạn ở trước của nhà, thì không biết từ đâu một tên du đãng bất ngờ xuất hiện. Không biết có mối thù hận từ trước hay do nhầm lẫn mà tên này đã thình lình túm ngay tóc người bạn, giật ngược ra phía sau rồi như thú hoang, dùng dao nhắm vào cổ nạn nhân chém tới. Trước diễn biến bất ngờ ấy, vị võ sư ngồi đối diện đã bật dậy và bằng một động tác võ thuật điêu luyện, ông đánh văng hung khí trên tay của tên sát nhân, đồng thời, nhanh chóng khống chế, bắt giữ kẻ manh động ấy".
Người hùng năm đó chính là võ sư Vũ Quang Tín, Trưởng tràng môn phái Hoa quyền, đệ tử chân truyền của lão võ sư nổi tiếng Hoàng Thanh Vân (Chưởng môn đời thứ 2 của Hoa quyền).
Vũ Quang Tín (sinh năm 1952) mắt sắc, mày rậm, tóc búi củ hành, bộ râu thì vô cùng ấn tượng: Rậm và được tỉa tót công phu như để tôn khuôn mặt thêm phần… dữ dằn, chẳng khác nào một võ tướng thời Trung cổ. Tuy thế, khi tiếp xúc lại thấy ông khác hẳn với "phong thái" bề ngoài: Gần gũi, thân thiện, thậm chí có phần e dè, khiêm tốn.
Thế nhưng, sự kín kẽ trong cách ăn nói ấy vẫn chẳng làm cuộc nói chuyện giữa tôi và ông trong căn gác nhỏ ở khu Thanh Nhàn – Hà Nội, vốn đông đúc dân cư, kém phần hấp dẫn. Võ thuật, dường như với ông, đó là lẽ sống duy nhất của mình. Ông bảo: May mắn lớn nhất của đời mình là được bái võ sư Hoàng Thanh Vân làm sư phụ.
Cuộc bái sư kỳ lạ
Ông kể, nghe tiếng tăm của lão võ sư, chưa một lần giáp mặt nên ông cứ nghĩ, lão võ sư là một người to lớn, khuôn mặt thì tinh anh, phong thái thì vô cùng ung dung, thanh thoát, khác xa với những kẻ… "phàm trần". Thế nhưng, buổi đầu tiên diện kiến, thì thần tượng trong đầu ấy của ông đã… thay đổi hoàn toàn.
Lão võ sư Hoàng Thanh Vân là người nhỏ bé và trông bộ dạng thì rất… cù lần. Tuy thế, đã đến nơi thì ông vẫn ngỏ lời xin theo học. Đồng ý nhận ông làm đệ tử, nhưng trong năm đầu tiên, về võ thuật, sư phụ Hoàng Thanh Vân tuyệt nhiên không đả động gì đến ông.
Tới võ đường, lão võ sư chỉ dạy ông cách thức bốc thuốc chữa bệnh và thực hành ngay việc đó – chữa bệnh cho mọi người quanh vùng. Trong khi ấy, các sư huynh thì được lão võ sư tận tình chỉ bảo khiến ông rất đỗi tủi thân. Thi thoảng rảnh việc, thấy ông ngồi một mình tư lự, lão võ sư vời ông đến nhưng không phải để dạy võ công mà… đọc thơ cho ông nghe!
Buồn. Chán. Nản. Thấy biểu hiện ấy của ông, lão võ sư chỉ liếc mắt, rồi mủm mỉm cười. Mãi hơn 1 năm sau, một sớm, đến võ đường, đang chực bốc thuốc chữa bệnh thì ông bất ngờ được lão võ sư gọi lại và bảo: "Con theo ta cũng đã lâu, ta biết, con là người kiên định! Đức ấy, học võ thì quý vô cùng. Từ nay ta sẽ đích thân dạy võ cho con!".
Nghe sư phụ mình nói vậy, ông mừng vui khôn xiết. Thế nhưng, nỗi niềm rạng rỡ ấy bỗng chốc hoá thành sự lo lắng khi sư phụ ông tiếp lời: "Ta để con vào lớp của các sư huynh của con. Con phải cố mà theo kịp họ. Nhược bằng không thì ta cũng chẳng biết phải giáo dưỡng con cách nào cho phải nữa?!".
Nhắm mắt… vẫn nhìn thấy sự chuyển động của đối thủ
Bắt đầu từ hôm đó, ông đã có những tháng ngày theo đuổi nghiệp võ vô cùng khắc nghiệt. Các sư huynh ông đa phần là những người đã theo thầy rèn luyện được vài năm và ai cũng như hộ pháp. Bởi thế, sau mỗi buổi tập, về nhà là ông thấy toàn thân mình đầy vết bầm dập bởi bị… dính đòn.
Hoa quyền có phần cơ bản là công phu rèn luyện thập hình gồm thủ, nhãn, thân, yêu, túc, thức, đảm, khí, kình, thần. Các môn sinh của môn phái chỉ được tiếp cận đến quyền thuật khi đã "chín" ở giai đoạn "đào tạo cơ bản". Giai đoạn này, môn sinh phải khổ luyện mất những 3 năm, thậm chí lâu hơn. Khi đã thông thạo thập hình, môn sinh mới được truyền thụ 18 bài Hoa quyền cùng các loại binh khí như kiếm, côn, đao, song ngư, lưỡng đầu thiết lĩnh, thiết phiến, song phủ, song chuỳ…
Thời gian thấm thoắt trôi, với sự lanh lẹ vốn có, khả năng hấp thụ công phu của ông đã khiến Hoàng sư phụ vô cùng mãn nguyện. Võ sư Vũ Quang Tín bảo, người tập Hoa quyền được gọi là thành công chỉ khi phối hợp được đồng nhất Thân, Thủ, Bộ. Khi ấy, người luyện võ dường như rơi vào "trạng thái" tự do, có thể thích ứng linh hoạt từng tình huống chiến đấu cụ thể. Và, mỗi hình thức thích ứng ấy đều là những đòn thế vô cùng lợi hại, có thể hạ gục đối phương ngay lần "tiếp xúc" đầu tiên.
Theo Hoàng sư phụ được hơn 20 năm, khi công phu đã đạt tới trình độ xuất kỳ bất ý (đòn đánh ra như ý muốn, có thể nhắm mắt, nghe được chuyển động của đối phương). Năm 1993, hai thầy trò phải tạm chia tay. Hoàng sư phụ sang Nga dạy võ. Sống ở xứ lạnh lâu ngày thành quen, lão võ sư Hoàng Thanh Vân đã định cư luôn ở đó.
Võ sư Vũ Quang Tín
Một đòn… "chết bảy"
Có lẽ, trong số các võ sư mà tôi đã gặp, thì võ sư Vũ Quang Tín là người phải "cọ xát" quyền thuật nhiều nhất trong hành trình lập nghiệp của mình. Điều này đã được võ lâm đồng đạo xác nhận.
Lần ấy, ông đến thăm một anh bạn cũng luyện võ ở trên phố Trần Quốc Toản. Bởi cuộc viếng thăm không báo trước nên khi vào nhà, ông bất ngờ khi thấy nhà bạn mình lố nhố kẻ đứng, người ngồi. Thì ra, hôm đó, có một toán võ sĩ học công phu ở nước ngoài về, muốn vào so tài cao thấp cùng bạn ông.
Thấy một người đàn ông thấp bé xuất hiện, một gã trong đám bảo, ông nên ngồi vào góc giường, nếu không muốn vạ lây bởi sắp có đánh nhau to. Điệu bộ hống hách của đám võ sĩ ấy khiến ông khó chịu, nhưng nghĩ chẳng phải chuyện của mình, ông đành… ngoan ngoãn ngồi vào nơi mà họ đã "tận tình" chỉ bảo.
Tuy cuộc đấu chưa diễn ra nhưng quan sát, thấy sắc mặt của bạn mình… không được tốt, ông đoán biết, bạn mình đã có phần e ngại. Không tự tin thì khi thử tài chắc chắn chuốc lấy thất bại nên ông đã đứng dậy tham gia: "Tôi nghĩ chúng ta chỉ nên trao đổi võ thuật thôi. Như vậy thì cũng đủ để rạch ròi cao thấp!". "Không đánh hết lực thì làm sao phân biệt được! Phải đánh thẳng tay!". Một gã trong toán "khách mời" quả quyết và cả bọn đã đồng thanh hưởng ứng theo như muốn "ăn tươi nuốt sống" chủ nhà.
Trước tình thế ấy, với sự nao núng hiển hiện trên mặt bạn, nghĩ bạn mình không phải là đối thủ của toán người lực lưỡng trên, ông đã quyết định đứng ra tỉ thí thay bạn. Trước quyết định của ông, toán người trên chỉ cười khẩy nhưng họ vẫn gật đầu chấp thuận. Có lẽ, họ đã nghĩ, tạng người như ông thì chẳng được mấy hiệp. Thế nhưng, phòng trường hợp "ngoạ hổ tàng long", họ vẫn cử một người cao to nhất ra ứng đấu.
Chẳng cần nhiều, chỉ một lần vào đòn, kẻ kiêu ngạo đã bị người đàn ông thấp bé đánh bật ra góc sân, phải hồi lâu mới loay hoay gượng dậy. Sau cú đòn ấy, gã ta đã chắp tay xin thua rồi đứng dạt ra phía sau. Vẫn đứng nguyên vị trí đó, ông ra hiệu cho người khác vào sới.
Thế nhưng, chứng kiến đòn đánh của ông "dành cho" đồng đội mình, toán người ấy đứng như trời trồng, không ai nhúc nhích chân tay "xung trận" nữa. Chờ một hồi không thấy ai vào, ông mới chắp tay, từ tốn bảo: "Làng võ Việt Nam nhiều người tài giỏi hơn tôi gấp mấy trăm lần. Các cậu còn trẻ, học võ mà quên mất đạo thì thành tài sao được! Thôi, về học thêm đi. Khi nào thấy đủ, cứ tìm tôi mà thử!".
Học võ của danh sư "bát quái thần côn"
Võ sư Chu Há không uống rượu, thế nhưng nhà ông lúc nào cũng đông đúc bạn bè, quây quần chén thù chén tạc, rồi say mê luận chuyện võ công.
Võ sư Chu Há sinh năm 1947, quê gốc ở huyện Đầm Hà, Quảng Ninh. Bởi mưu sinh, nên ngay từ khi còn bé, ông đã theo cha mẹ rời lên Hà Nội. Cha ông là người mê võ nên ngay từ tấm bé, ông đã được cha mình truyền thụ những kỹ năng cơ bản của võ thuật.
Năm 1963, khi 16 tuổi, ông đã được người quen giới thiệu đến danh sư Tô Tử Quang, Sáng tổ môn phái Hồng gia quyền ở Việt Nam bái sư, học võ. Thầy Tô Tử Quang khi ấy ở phố Nguyễn Công Trứ, không mở võ đường mà chỉ dạy võ cho những người thân thiết. Võ sư Chu Há là một người như thế.
Võ sư Chu Há thời trẻ
Theo võ sư Chu Há, cụ Sú Tàu (tên thân mật của Tô sư phụ) là người Trung Quốc. Ông sinh năm 1910, ở huyện Long Châu, Quảng Tây trong một gia đình 8 đời theo nghiệp võ. Ngay từ nhỏ, Tô sư phụ đã được cha mình là võ sư nổi tiếng Tô Cao Lân truyền dạy công phu Hồng gia quyền. Có giai thoại rằng, năm lên 7 tuổi, Tô sư phụ đã được Hoàng Phi Hồng, cũng một danh sư của Hồng gia chỉ bảo thêm về quyền thuật. Với năng khiếu bẩm sinh, năm 18 tuổi, trong một cuộc thi võ hàng năm ở Quảng Tây, ông đã giành giải nhì và được mệnh danh là "Thần đồng võ thuật".
Sau khi thành danh ở Quảng Tây, như bao thanh niên khác, Tô Tử Quang tìm về Thượng Hải. Chốn nhiễu nhương ấy, bằng khả năng công phu của mình, ông đã được một đại thương gia trọng dụng khi một lần, dùng công phu giải cứu cô con gái rượu của vị thương gia ấy thoát khỏi tay bọn bắt cóc, tống tiền.
Thế nhưng, bởi mến mộ tài năng, khí phách của chàng trai trẻ, cô tiểu thư ấy đã đem lòng yêu mến. Mối tình không hộ đối, môn đăng ấy đương nhiên vướng phải sự cấm đoán cay nghiệt từ phía nhà cô gái. Vậy là, để mọi chuyện được yên bề, Tô sư phụ đành phải hi sinh tình yêu của mình. Ông lại tiếp tục lên đường phiêu bạt. Và Việt Nam là nơi dừng chân cuối cùng trong chặng đường giang hồ ấy.
Được biết, trong quãng thời gian ở Thượng Hải, Tô Tử Quang đã hai lần đoạt giải quán quân quyền thuật. Và, cũng chính ở đất này, ông đã được võ lâm giang hồ tôn sùng là "Bát quái thần côn" bởi khả năng siêu đẳng khi sử dụng binh khí này.
Công phu làm hài lòng cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Theo võ sư Chu Há, Tô sư phụ đến Hà Nội từ năm 1954. Ông làm việc tại Nhà máy in Tiến bộ. Mãi đến năm 1963, ông mới chính thức phổ biến Hồng gia quyền cho mọi người. Thế nhưng, việc truyền thụ ấy cũng chỉ ở phạm vi rất hẹp, đa phần môn đồ chỉ là những người gốc Hoa. Cùng với võ sư Làm Ốn Và, Voòng Sìu Khoóng, Chu Há là một trong ba đại đệ tử của thầy Tô (những đệ tử này được Tô sư phụ đặt hiệu riêng là Và Cố, Khoóng Cố, Há Cố).
Là người có tư chất võ thuật nên theo Tô sư phụ được ít lâu, võ sư Chu Há đã lĩnh hội xuất sắc những kỹ năng công phu mà sư phụ mình truyền dạy. Điều ấy đã được minh chứng bằng việc năm 1965, trong lễ hội Hoa Liên do Hoa kiều tổ chức ở Hà Nội, võ sư Chu Há đã vinh dự được Tô sư phụ chọn để biểu diễn quyền thuật cho Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Bác sĩ Trần Duy Hưng thưởng thức. Sau buổi biểu diễn đó, võ đường của Tô sư phụ đã được Thủ tướng gửi gắm nhiều lời khen ngợi.
Tuyệt kỹ cho người thích la cà quán xá
Năm 1982, Chu Há tham gia Hội võ thuật cổ truyền Hà Nội và đứng ra thành lập võ đường riêng.
Võ sư Chu Há là người đam mê sáng tạo. Với võ thuật cũng vậy. Với những tinh hoa học được từ sư phụ mình, ông đã góp phần làm rạng danh Hồng gia quyền với nhiều bài võ do tự mình phóng tác. Với các bài võ ấy thì các môn sinh của võ đường Chu Há đã giành được rất nhiều huy chương vàng ở các hội diễn, liên hoan võ thuật.
Võ sư Chu Há bây giờ
Đặc biệt, khi sáng tạo, võ sư Chu Há luôn hướng về những thứ "binh khí" gần gũi, giản đơn gắn liền với đời sống của con người. Mễ, điếu cày, ba toong… là những thứ thường thấy trong những bài võ do ông ngẫu hứng sáng tạo. Nói về lối tư duy lạ lùng ấy của mình, ông cười bảo, quán nước trà lá thường là nơi dễ bị… ăn đòn nhất. Bởi thế, với mễ để ngồi, điếu cày hút thuốc lào trong tay thì những người học bài võ này sẽ an tâm tuyệt đối khi… lê la quán nước!
Tên tuổi võ đường Hồng Gia cùng võ sư Chu Há ngày một nổi tiếng qua mỗi lần "võ lâm đại hội". Điều đó đã được thể hiện qua các tấm huy chương mà môn sinh của võ đường giành được sau những kỳ ứng võ thi tài. Sự nổi tiếng ấy không chỉ ở trong nước, mà nhiều môn sinh ở nước ngoài cũng vô cùng mến mộ ông.
Năm 1990, võ sư Chu Há được Sở Thể dục thể thao Hà Nội cử sang Nga, Tiệp Khắc (cũ) biểu diễn. Ông kể, ở những nước này, người dân rất đam mê quyền thuật phương Đông. Bởi thế, mỗi đêm biểu diễn, có đến 7- 8 vạn khán giả tới xem, cổ vũ. Cũng tại chuyến biểu diễn ấy, ông đã được mời ở lại để dạy công phu cho những võ sinh mến mộ mình.
Vậy là, suốt một năm trời, ông miệt mài truyền bá Hồng gia quyền tại Nga. Có lần, việc gia đình, ông phải về nước. Thế nhưng, về chưa đầy tuần thì học trò ông đã điện thoại tới tấp vì thấy ông đi… lâu quá! Theo võ sư Chu Há, hiện tại, ở Nga, những môn đệ năm nào của ông vẫn đang tiếp tục khuếch trương Hồng gia quyền và cũng thu hút được đông đảo môn sinh.
XII. AI LÀ THIÊN HẠ ĐỆ NHẤT VÕ VIỆT?
Huyền Công Đạo Trần Công khí công cự phách, ám khí kinh hồn; Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm ảnh xuất quỷ nhập thần, nghiệp võ huy hoàng vài thập kỉ; lão võ sư Trần Tiến, Hà Châu tuổi đã xấp xỉ bách niên nhưng quyền thuật thì vẫn mạnh như mãnh thú, gần xa nô nức khen tài… Kế đến, "lớp trẻ" như võ sư Chu Há, Băng Sơn, Vũ Quang Tín, Văn Thắng… cũng tài danh lừng lẫy, gây dựng nghiệp võ khiến người người thán phục, ngợi ca.
Vậy, trong số những "ngôi sao sáng chói" ấy, ai là thiên hạ đệ nhất?
Hùng kê đệ nhất?
Ông Trương Quang Trung, Phó Chủ tịch Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, nguyên là Vụ trưởng Vụ Thể dục Thể thao quần chúng (đồng thời là Tổng Thư ký đầu tiên của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam, từ năm 1991 tới năm 2007), đã được sống, được gắn bó với nhiều võ sư tên tuổi của làng võ Việt Nam.
Đặc biệt hơn, ông chính là người đã tiến hành biên soạn, xuất bản cuốn sách “Đời người – Nghiệp võ”, được tạm gọi là phác thảo đầu tiên về "khuôn mặt" những cao thủ của võ lâm Việt Nam suốt từ Nam chí Bắc.
Trong cuốn sách ấy, ông đã giới thiệu 23 võ sư, họ đều là những người nổi tiếng, có đóng góp tích cực cho phong trào võ thuật nước nhà. Tuy thế, khi hỏi ông về nhân vật số một trong làng võ đương đại, quan điểm cá nhân, ông đã không ngần ngại mà trả lời, người ấy là lão võ sư Ngô Bông, truyền nhân của bài võ Hùng kê quyền, hiện đang sinh sống ở Quảng Ngãi.
Theo ông Trung, lão võ sư Ngô Bông là người vô cùng say mê với võ thuật. Bất cứ nơi nào có "chuyện võ" là nơi ấy có sự "góp vui" của lão võ sư ấy.
Lão võ sư Ngô Bông sinh năm 1923, trong một gia đình nghèo ở Tư Nghĩa, Quảng Ngãi. Cha bị giặc Pháp sát hại, mẹ mất sớm nên ông phải về ở với nhà ngoại của mình. Tại đó, ông đã được hai cậu ruột của mình là Lê Chót và Lê Thuỳ dạy võ Tây Sơn. Trong số những bài võ ấy có Hùng kê quyền, tương truyền do Nguyễn Lữ sáng tác từ các thế đánh của gà chọi.
Tiếp đến, khi đã thành một thanh niên vạm vỡ, ông đã theo học Thiếu lâm với hai người thầy nổi tiếng ở Quảng Ngãi là Bảo Truy Phong (Gấu già) và Lâm Võ. Và cũng như nhiều võ sinh lúc bấy giờ, võ sư Ngô Bông cũng đã nhiều lần thượng đài thi đấu quyền Anh và võ tự do. Ông đã từng thắng nhiều võ sĩ tên tuổi lúc bấy giờ như Đinh Hổ (võ sĩ Campuchia), Đinh Đam (võ sĩ người Huế), Trực Hùng, Trực Ninh…
Với những đóng góp của mình cho phong trào võ thuật, khi Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam được thành lập, ông được mời làm cố vấn. Năm 1993, trong một hội thảo chuyên môn, bài Hùng kê quyền do ông là truyền nhân đã được bình chọn là một trong những bài võ thống nhất (nằm trong thể thức thi đấu) của Liên đoàn. Đặc biệt hơn, năm 2004, khi đã ngoài 80 tuổi, tại Liên hoan võ thuật truyền thống thế giới tổ chức tại Hàn Quốc, trước 70 môn phái Võ thuật nổi tiếng của khắp các quốc gia, với bài Hùng kê quyền do chính lão võ sư Ngô Bông thể hiện đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của tất thảy mọi người.
Mãnh sư Trần Tiến ở ngôi đầu?
Võ sư Phan Dương Bình (Bình "bún") lại có "quan điểm" khác. Luận bàn về chủ đề này, quan điểm cá nhân, võ sư Phan Dương Bình "đề cử" ngay rằng trong số những võ sư đương đại, ông thấy lão võ sư Trần Tiến xứng đáng được ngồi vào "ghế" đầu tiên.
Võ sư Phan Dương Bình kể, ông vừa mới đi Nam về. Chuyến đi ấy, vào Thành phố Hồ Chí Minh, ông và lão võ sư Trần Tiến đã có nhiều thời gian để trao đổi với nhau những điều tâm huyết về võ thuật. Điều ông thấy mừng là dù tuổi đã xấp xỉ bách niên nhưng lão võ sư Trần Tiến vẫn vô cùng rắn rỏi, minh mẫn. Điều ấy là minh chứng rõ ràng nhất cho sự uyên thâm của lão võ sư trên "con đường" võ học của mình.
Lão võ sư Trần Tiến sinh năm 1911, trong một gia đình có truyền thống võ học ở Bắc Giang. Ông nội ông là cụ Hoàng Hảo, bố là Hoàng Tân, cùng chi họ và từng tham gia nghĩa quân của hùm xám Yên Thế Hoàng Hoa Thám.
Khi nghĩa quân tan rã, để tránh sự truy sát của quân giặc, gia đình ông đã phải dạt về Đồ Sơn, Hải Phòng và đổi sang họ Trần. Ông được ông nội và cha mình truyền dạy võ công từ khi còn nhỏ. Năm 15 tuổi, cơ duyên, ông đã được lãnh hội võ công của một nhà sư người Trung Quốc sang Việt Nam lánh nạn, tên là Lý Giang Nam, quê ở Phúc Kiến, thuộc phái Thiếu Lâm.
5 năm sau đó, ông tiếp tục thụ giáo Nhu thuật và Judo của 2 võ sĩ người Nhật tên là Tanabe và Karachi. Với tinh thần ham học hỏi, ông còn tập cả quyền Anh do võ sĩ người Pháp Lafeur chỉ dạy.
Khi mới ngoài 20 tuổi, võ sư Trần Tiến đã danh nổi như cồn khi giành ngôi vô địch kiếm thuật ở Bắc Kỳ. Bởi bị giặc Pháp săn đuổi vì lý do "kích động kẻ xấu luyện võ gây mất an ninh trật tự" nên cuối năm 1936, võ sư Trần Tiến phải khăn gói vào Nam. Quãng thời gian này, bởi mưu sinh và cũng bởi sự sốc nổi của tuổi trẻ nên võ sư Trần Tiến đã rất nhiều lần thượng đài ở khắp các nước Đông Nam Á với nhiều đối thủ khác nhau và đều giành về mình phần thắng.
Theo võ sư Trần Tiến thì trận thượng đài cuối cùng của ông diễn ra trên đất Singapore. Sau khi loại hàng loạt các đấu thủ, trận "chung kết" ông gặp một đối thủ là võ sĩ người bản địa có biệt hiệu là Tiểu Lâm Xung.
Tiểu Lâm Xung là võ sĩ có thân hình cao lớn, rắn chắc. Trước đó, nhiều trận đấu, Tiểu Lâm Xung để đối thủ thoải mái tung quyền, cước vào người mà chẳng hề hấn gì. Khi đã thấm mệt, chỉ một đòn là Tiểu Lâm Xung hạ nốc ao đối thủ. Trước trận đấu căng thẳng ấy, trong lần tổ chức họp báo, Tiểu Lâm Xung đã thề sẽ đánh gục võ sĩ người Việt để "rửa hận" cho những "chiến hữu" đã bị ông triệt hạ. Thời gian ấy, võ sư Trần Tiến đang là nhân vật để một hãng giày nổi tiếng thực hiện quảng bá hình ảnh. Bởi thế, sự quan tâm của công chúng tới trận đấu "sinh tử" của ông là cơ hội tuyệt vời để hãng giày đó khuếch trương thương hiệu của mình. Do vậy, trước trận đấu, ông đã nhận được "tối hậu thư" của "đơn vị tài trợ", buộc ông phải thắng.
Lên đài, với "bàn tay sắt" của mình, như để thị uy, doạ nạt đối phương, Tiểu Lâm Xung đã tung những cú đấm sấm sét của mình vào những tấm gỗ dày đến 5 cm khiến chúng vỡ tan. Trước đòn phủ đầu ấy, ông vẫn không hề nao núng. Cậy sức, Tiểu Lâm Xung ra đòn tới tấp, nhưng với thân thủ nhanh nhẹn, võ sư Trần Tiến đã khéo léo tránh, né, đỡ đòn. Già nửa thời gian của trận đấu trôi qua, tuy chưa bị dính đòn nào nhưng phần thắng đã có vẻ nghiêng hẳn về võ sĩ người bản địa vì lợi thế tấn công nhiều hơn. Trong lúc say máu tấn công, Tiểu Lâm Xung đã bộc lộ nhiều sơ hở. Và, trong một tích tắc "ham công bỏ thủ" ấy, võ sư Trần Tiến đã nhanh chóng áp sát. Hạ thấp tấn, bằng một thế xà quyền, ông đã đánh thốc vào hạ bộ đối phương. Chỉ một đòn ấy, Tiểu Lâm Xung đã đổ đánh huỵch xuống sàn, không tài nào gượng dậy được. Vậy là, phần thắng đã thuộc về võ sư người Việt.
Thế nhưng, trong phút giây vinh quang ấy, thấy Tiểu Lâm Xung nằm bất động trên sàn, ông bỗng thấy ăn năn, day dứt. Thật ra, đòn ấy, với võ đài thi đấu kiểu tự do như trên thì chẳng có gì là sai luật, nay với tinh thần võ đạo, cú đánh ấy lại là cấm kỵ bởi tính sát thủ kinh hồn. Vậy nên ông tự nhận mình là người thua cuộc. Sau trận đấu ấy, ông đã tránh xa "kiếp sống võ đài".
Năm 1945, ra Hà Nội, được Việt Minh giác ngộ, lão võ sư Trần Tiến tham gia cách mạng. Vào quân ngũ, với khả năng quyền thuật siêu phàm của mình, ông đã được tổ chức phân công huấn luyện bộ đội tinh nhuệ (lực lượng đặc công sau này).
Năm 1978, ông rời quân ngũ nhưng vẫn tự nguyện tham gia dạy võ thuật cho một số sĩ quan quân đội Campuchia suốt hơn chục năm trời. "Về hưu" nhưng với nghiệp võ thì ông vẫn miệt mài theo đuổi.
Chắt lọc, đúc kết những tinh hoa võ học mà mình cả đời tích luỹ, lão võ sư Trần Tiến đã sáng lập võ phái Thiếu lâm nội gia võ thuật đạo Việt Nam. Đến giờ, võ phái của ông đã thu hút cả ngàn môn sinh. Trong số ấy, có rất nhiều môn sinh người Âu, Mỹ, Phi… bởi nghe danh mà lặn lội tìm về theo học. Với một sự nghiệp huy hoàng như trên, theo võ sư Phan Dương Bình, trong số những võ sư Việt Nam hiện đang còn sống và tham gia hoạt động võ thuật, lão võ sư Trần Tiến xứng đáng được xếp ở ngôi đầu.
Nhất Công nhì Ảnh?
Lão võ sư Trần Hưng Quang (Quang "ốc", Chưởng môn phái Bình Định Gia) là người vô cùng nghiêm túc trên con đường võ đạo đồng thời rất khắt khe với những nhận xét của mình. Tuy vậy, khi hỏi người đầu tiên mà ông nghĩ tới khi "lập bảng phong thần" thì ông đã trả lời ngay, người ấy là Huyền Công Đạo Trần Công, Chưởng môn phái Không Động.
Theo lão võ sư Trần Hưng Quang thì Huyền Công Đạo là người có đóng góp rất lớn cho võ thuật cổ truyền, đặc biệt là làng võ thủ đô Hà Nội. Huyền Công Đạo được biết tới như một người có nội công, khí công siêu phàm đồng thời là "cha đẻ" của rất nhiều binh khí đặc dị. Trong số ấy, độc môn ám khí của lão võ sư đã danh trấn giang hồ, không ai bì kịp. Làng võ Việt Nam, rất nhiều những võ sư nổi tiếng đều đã tìm đến lão võ sư để nhờ người chỉ giáo.
Nhận xét trên của lão võ sư Trần Hưng Quang cũng trùng với ý kiến của nhiều người. Bắc Phong Chân nhân Băng Sơn, Chưởng môn phái Võ lâm Phật gia cũng đồng quan điểm ấy. Có một giai thoại do võ sư Băng Sơn kể lại, năm 1991, khi Đại hội võ thuật toàn quốc được tổ chức tại Hà Nội, một số võ sư đã tiến hành "bình bầu" xem ai là đệ nhất cao thủ võ Việt. Và theo như kết quả của cuộc "bầu chọn" ấy, lão võ sư Trần Công đã ở ngôi đầu, kế đến là Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm Ảnh.
Khi chúng tôi gặp để xác minh thông tin này, thì viện lý do tuổi cao, lão võ sư Trần Công bảo ông không còn nhớ gì đến chi tiết này nữa. Và, nếu điều này thực sự… đã diễn ra thì ông cám ơn mọi người đã tỏ lòng mến mộ.
Còn với riêng Huyền Công Đạo, vị võ sư mà ông nể phục phải là người vẹn đức vẹn tài. Theo đại sư Trần Công, võ lâm Việt Nam đương đại, người ấy chính là hai lão võ sư Trần Tiến và Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm Ảnh. Theo Huyền Công Đạo, tuy chỉ gặp gỡ một vài lần hiếm hoi nhưng tính cách, khả năng chuyên môn của hai đồng đạo trên đã khiến ông cảm phục. Giống như lão võ sư Trần Công, võ sư Nguyễn Văn Thắng, Chưởng môn phái Thăng Long võ đạo cũng vô cùng hâm mộ nghiệp võ của hai lão võ sư trên, đặc biệt là với quyền sư Đoàn Tâm Ảnh. Theo võ sư Văn Thắng thì danh tiếng, khả năng siêu phàm của lão võ sư giờ đã 107 tuổi ấy (Đoàn Tâm Ảnh) không chỉ người trong nước biết tới mà nhiều môn sinh của các môn phái khác trên thế giới đều xuýt xoa, nể phục khi nhắc tới tên. Đoàn Tâm Ảnh chính là một huyền thoại của làng võ Việt Nam.
Những "người kế thừa vĩ đại"
Võ thuật có tính kế thừa và phát triển. Từ những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, khi phong trào võ thuật được khôi phục, trên bầu trời vốn đã nhiều tinh tú ấy lại xuất hiện thêm những ngôi sao sáng chói. Những "ngôi sao" ấy không những kế thừa tinh thần thượng võ – "vốn liếng", tinh hoa của thế hệ đi trước, mà còn đưa nền võ thuật nước nhà phát dương quang đại.
Võ sư Chu Há thuộc tuýp người khiêm tốn, rất ít khi đưa ra nhận xét về người khác. Tuy thế, khi đề cập đến vấn đề này, quan điểm cá nhân, với "thế hệ kế thừa" hiện nay, ông đã "tiến cử" hai võ sư, một của môn phái Vịnh Xuân, một của môn phái Võ lâm Phật gia.
Môn đồ của Vịnh Xuân, theo võ sư Chu Há, là võ sư Trương Quốc định, đệ tử của cố võ sư Trần Văn Phùng (một trong 5 học trò ưu tú nhất của võ sư Tế Công). Hiện tại, võ sư Định đang dạy Vịnh Xuân ở làng Ngọc Hà (Hà Nội).
Người thuộc môn phái Võ lâm Phật gia không ai khác là võ sư chưởng môn Băng Sơn (Bắc Phong Chân nhân). Theo võ sư Chu Há, những năm gần đây, môn phái của võ sư Băng Sơn đã "gặt hái" được nhiều thành công rực rỡ, thể hiện qua những tấm huy chương từ các lần "võ lâm đại hội"…
Võ học thâm như Đông Hải…
"Văn vô đệ nhất, võ vô đệ nhị", đó là quan điểm của ông Trương Quang Trung, Phó Chủ tịch Liên đoàn võ thuật cổ truyền và cũng là quan điểm chung của tất cả các võ sư khi nói về anh tài làng võ. Bởi thế, rất khó có thể tìm ra trong số rất nhiều những ngôi sao sáng trên bầu trời võ thuật Việt Nam, ngôi sao nào sáng nhất.
Điều này, càng được khẳng định qua câu nói của sáng tổ Trương Tam Phong, Chưởng môn phái Võ Đang, một võ phái nổi tiếng ở Trung Quốc. Câu nói này đã được lão võ sư Nguyễn Tỵ, Chưởng môn phái Nam Hồng Sơn, một môn phái đang thu hút rất đông đệ tử hiện nay ghi nắn nót ngay trên… tường nhà mình: "Võ học thâm như Đông Hải – Siêu quần võ sĩ đa thi sa số hằng hà". Nghĩa câu nói ấy, theo lão võ sư Nguyễn Tỵ thì võ học thâm sâu chẳng khác gì bể đông, anh tài thì đông đảo chẳng khác gì sao ở trên trời. Bởi thế, trong võ luôn có đạo, người học võ phải biết giữ lấy cái đạo của mình. Trong đạo ấy, thì điều đầu tiên là phải xóa bỏ cái tôi, không tự kiêu, tự phụ, coi thường người khác. Mình tài nhưng bể học bao la, ra ngoài xã hội chắc chắn có người tài giỏi hơn. Bởi thế, theo lão võ sư, viết câu đó lên tường, ngày ngày nhìn thấy thì mọi nơi, mọi lúc ông đều tự điều chỉnh tất cả những hành vi của bản thân mình.
Võ sư Văn Thắng có một kỷ niệm mà đến giờ, ông vẫn chẳng giây phút nào quên. Kỷ niệm ấy đã nhắc nhở ông rằng, trong thiên hạ, người tài là vô số kể. Cách đây cỡ độ chục năm, bởi chưa xây dựng được võ đường qui mô như bây giờ, ông phải dạy môn đồ của mình ở một sân chùa gần nhà. Tối nào cũng vậy, hễ khi những tiếng "hây ha" của buổi tập bắt đầu thì lại có một ông già không biết từ đâu ra khoảng sân ấy thảnh thơi hóng mát.
Một buổi, ngồi nhìn ông đi một bài quyền làm mẫu cho học trò, ông già kỳ lạ ấy đã đến bên nhẹ nhàng… góp ý. Theo ông lão thì võ sư Văn Thắng đi quyền quá chính xác, nhưng về cuối bài quyền, động tác cần mạnh và dứt khoát hơn, có vậy mới lộ rõ uy lực. Đó là những lời hoàn toàn chính xác.
Biết ông lão cũng chẳng phải "người thường", võ sư Văn Thắng đã mời ông chỉ giáo thêm. Ngay tối đó, trước rất đông môn sinh của Thăng Long võ đạo, ông già kỳ lạ ấy đã đi liên tiếp mấy bài quyền, côn khiến mọi người được một phen… mở mắt. Biểu diễn xong, ông lịch sự cúi chào mọi người rồi vội vã rút lui, không để lại danh tính dù võ sư Văn Thắng đã nằng nặc hỏi. Các tối sau, dù đã cố tình chờ đợi, nhưng chẳng biết bởi lí do gì, ông lão ấy đã không trở lại thêm một lần nào nữa.
Ai là thiên hạ đệ nhất cao thủ võ Việt? "Đó người cả đời cống hiến, hi sinh cho võ thuật và hết mình với nền võ học nước nhà" (lời võ sư Trần Công). Từ quan điểm này, thì bất cứ người nào đam mê nghiệp võ, giương cao tinh thần võ đạo và xả thân vì nền võ học nước nhà thì đều xứng đáng được tôn vinh là những đệ nhất anh tài trong rừng võ Việt Nam.
Đào Thanh Tuy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét