Thông tin ebook
Tên truyện : Hòn Bi Vỡ
Tác giả : Ngô Thị Hạnh
Thể loại : Văn học trong nước
Nhà xuất bản : Kim Đồng
Tủ sách : Tuổi Mới Lớn
Năm xuất bản : 2004
Số trang : 141
Kích thước : 10,5 x 17 cm
Trọng lượng : 290 g
Số quyển / 1 bộ : 1
Hình thức bìa : Bìa mềm
Giá bìa : 5.000 VNĐ
———————————-
Nguồn : http://www.nxbkimdong.com.vn
Chuyển sang ebook (TVE) : santseiya
Ngày hoàn thành : 02/08/2008
Nơi hoàn thành : Hà Nội
Mục Lục
Giấc mơ đom đóm
Trong những giấc mơ của tôi, giấc mơ về đom đóm là giấc mơ làm tôi băn khoăn nhiều nhất. Mỗi lần mơ giấc mơ ấy, tôi thường ngồi tiếc nhớ xa xôi mỗi khi thức dậy. Tôi tiếc vì bây giờ ở giữa thị thành không có đom đóm hay tiếc vì tình yêu của một người con gái đi qua quá vội vàng? Có những tình cảm mà lý trí không thể nào hiểu nổi. Chẳng hạn như mối tình của chị Xuân tôi
*
Khi tôi nói: "Đom đóm bay đi!" thì trong đầu tôi nghĩ: "Chị Xuân, hãy bay đi!". Chị sẽ bay đi thật xa để thoát khỏi những ràng buộc mà chị đã hy sinh cả tình yêu của mình để đổi lấy? Tôi mở bàn tay nhỏ bé của mình ra, con đom đóm lập lòe bay về phía bờ ao, nơi có những cây đằng đằng đang trổ bông trắng xóa. Đằng đằng khi đã già rụng xuống mặt ao, nổi trôi vô định. Đôi khi, tôi cũng muốn mình được như đằng đằng, không cần biết gì đến thời gian, không gian của vũ trụ đang luân hồi. Thời gian là một đường thẳng mà khi đã đi qua rồi thì phía sau ta biến mất. Cái đường thẳng phía sau ấy chỉ còn trong ký ức của những linh hồn sống.
Tôi còn sống thì trong tôi còn ký ức về chị Xuân và đom đóm.
Thời gian cuối hè đầu thu, đom đóm bay rất nhiều. Cầu ao, gió thổi vi vu. Những buổi tối của tình yêu và mơ mộng. Kẻ hay mơ mộng là tôi, còn nụ hoa tình yêu thì đang hé nở trong lòng chị Xuân. Chị hát khẽ khẽ một bài tình ca của Dương Thụ. Chị rất hay hát, chị hát lúc nấu cơm, lúc giặt đồ và cả trong lúc tắm. Mợ tôi hay mắng: "Con gái gì mà không ý tứ, cứ nghêu ngao như thế thì có mà ế nhọc". Mẹ chị Xuân thì không nói gì, bà nhìn con trìu mến như thể đồng tình: sau những giờ lao động mệt mỏi, người ta cần thư giãn bằng một cái gì đó nhẹ nhàng. Hát nghêu ngao cũng là một hình thức giải trí vô cùng đặc biệt. Tôi thì cảm thấy một niềm hạnh phúc mơ hồ khi nghe chị hát. Tôi không bao giờ nghĩ hát nghêu ngao mà lại bị ế chồng như mợ tôi nói. Đàn ông ấy ư, nhìn chị Xuân thì chỉ có mà mơ ước. Chị không đẹp nhưng duyên dáng và đầy sức sống. Làn da chị trắng hồng mặc dù chị suốt ngày ở ngoài đồng. Lúc chị tắm, trông chị tuyệt hơn cả những bức tranh khỏa thân của những họa sĩ lừng danh phương Tây. Khuôn mặt chị thánh thiện và thoát tục như khuôn mặt những nữ thần trong tranh của Raphael. Đôi mắt chị đen và sáng một cách kỳ lạ. Khi người đàn ông chỉ mới cảm mến chị mà đã vội nhìn vào đôi mắt ấy thì chắc là sẽ chuyển từ cảm mến sang si mê
Tôi và chị thường ra đồng vào những buổi chiều. Chị là người thích nhìn không gian bao la vào lúc trời vừa sắp tối. Chị bảo: không gian lúc này không tối cũng không sáng, mơ hồ và dễ cảm. Tôi không hiểu gì nhưng tôi thích được ra đồng với chị để vui chơi. Chị là người bắt cua rất giỏi và không sợ rắn. Có khi, chị thò tay vào hang cua lôi ra một con rắn nước, cầm con rắn ấy dí vào người tôi và bảo rằng rắn độc. Tôi la toáng lên. Chị ngửa cổ lên trời mà cười nhạo tôi. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi ở ngoài đồng, chị đã bắt được một mớ cua để về nấu canh. Thế nhưng, bắt cua xong, chúng tôi vẫn chưa chịu về nhà. Chúng tôi ngồi trước một con kênh đầy hoa súng. Buổi chiều, những cánh hoa súng đã tìm về với nhụy. Những cánh hoa đã chụm lại như những cái nụ chưa hề nở bao giờ. Chị bảo: thời gian vàng son nhất của hoa súng là vào buổi sáng thì đã qua rồi
- Vì vậy, em thích hoa sen hơn hoa súng. Hoa sen nở cả buổi sáng và buổi tối.
- Hoa sen đã được quá nhiều người yêu thích. Hoa súng cô đơn hơn, nó phải tự mình bươn chải để mong có được sự ưu ái của thiên nhiên.
Mắt chị nhìn những bông súng buồn buồn và tôi có những dự cảm không lành về cuộc đời của chị, dù chẳng nói được nó là gì. Tôi giật mình. Hoa súng chỉ nở từ tinh mơ đến lúc mặt trời trải nắng, lúc ấy chỉ độ chín mười giờ sáng
*
- Đom đóm bay đi, bay đi tìm hạnh phúc!
Chị cười khanh khách, cánh tay trắng trẻo tung đom đóm lên. Đom đóm bay, chẻ không gian màu đen ra thành nhiều mảnh.
- Em có muốn đi tìm hạnh phúc như đom đóm không? – Chàng trai hỏi, ánh mắt sáng ngời như nhìn thấu trái tim con gái của chị.
- Không! Chị nũng nịu và tôi biết chị đùa.
Lũ trẻ con chúng tôi ồn ào chơi ù, chơi trốn tìm. Đom đóm vẫn bay ở phía bờ ao và những bụi đằng đằng. Tôi mải mê chơi, không còn chú ý đến câu chuyện của chị Xuân và anh chàng ở làng bên nữa. Anh ta tên Trung, cao to và lực lưỡng. Anh từ làng bên cạnh đến đây mà phải đi bộ vì có một lần anh đi xe, để xe nơi đống rơm gần chỗ chúng tôi chơi và chiếc xe của anh đã bị con trai làng tôi phá nát. Anh đi bộ nhưng chưa chắc đã an toàn vì lũ trai làng tôi không thích trai làng khác đến tán tỉnh con gái làng mình. Việc anh Trung đi bộ đến thăm làm chị Xuân rất xúc động.
Có lần, chị nói với tôi:
- Vì một người con gái như chị mà anh ấy phải đi bộ mấy cây số, liệu có đáng không?
- Đáng! Tôi trả lời Bởi khi đến, anh ấy đã được hưởng "thành quả" là nụ cười và ánh mắt của chị. Xưa kia, Van Gogh[1] đi bộ trong tuyết hàng chục cây số, giày rách nát, đôi chân sưng phù, bỏng rát vì lạnh, đến nơi chỉ để nhìn ánh sáng leo lắt hắt ra từ căn phòng của nàng Loyer. Van Gogh tội nghiệp của chúng ta không thể vào thăm người mình yêu vì cô ta sắp lấy chồng.
- Em so sánh gì lạ đời vậy? Chị không biết Van Gogh, chị chỉ tội nghiệp cho anh Trung, anh ấy phải đi bộ vì chị.
- Vậy thì chị lấy anh ấy đi! Và chị cần nói cho mẹ chị biết về điều đó.
- Đừng, chị xin em đừng có nói gì hết. Chị sợ
- Tình yêu sẽ làm cho chị hết sợ.
- Cái con oắt con này…
Chị mắng tôi nhưng chị đồng tình với tôi. Khi gia đình chị biết chuyện chị với anh Trung thì tình yêu của chị bị ngăn cấm. Bố chị đã có ý định làm sui gia[2] với một gia đình khác. Chị chống lại ý định của bố quyết liệt, không kết quả, mệt mỏi
rồi buông xuôi. Chỉ đom đóm bay đi tìm hạnh phúc, còn chị, trong cái vòng luẩn quẩn của chữ tình, chữ hiếu, chị không thể bay đi. Ngày cưới chị cũng là ngày tôi theo gia đình vào miền
*
Nơi tôi ở không có đom đóm, không có khoảnh khắc để phân biệt rõ mùa hè và mùa thu. Nhưng tôi thường hay mơ, những giấc mơ về đom đóm và cảnh bắt tôm cua nơi ruộng đồng bát ngát. Trong mơ, tôi thường nói:
- Đom đóm bay đi, bay đi tìm hạnh phúc!
Để rồi khi thức dậy, mắt tôi ướt nhòe vì bóng chị Xuân hắt xuống bờ ao, khao khát Hình ảnh trong mơ chồng chéo trong tôi. Có một người khác vứt áo xuống ao để giặt, bóng chị nhòe đi như là nước mắt…
Em trai tôi
Tôi nhìn em trai mình, không biết phải nói gì để an ủi nó, đành ngồi im lặng cùng nó suốt một tiếng đồng hồ. Thôi thì đành làm thế, chỉ để thể hiện sự thông cảm với nỗi đau đầu đời của nó
*
Em tôi vào đại học, niềm vui chưa dứt đã phải bươn chải với đời để có thêm tiền đóng học phí, tiền ở, tiền ăn nơi thành phố sầm uất chưa kịp làm quen. Em tôi dáng người thanh mảnh, không đẹp trai nhưng có duyên ăn nói và thành thật. Từ giữa năm lớp mười hai, nó đã để ý một cô bạn cùng lớp. Cô bạn đó tên Quỳnh. Quỳnh cũng tỏ ra rất quan tâm đến em trai tôi. Em mua áo, tự tổ chức sinh nhật cho em tôi. Tuy không muốn xen vào chuyện riêng tư của em, tôi cũng biết nhờ mối tình đó mà nó học tập ngày càng tiến bộ. Quỳnh trắng trẻo, dễ nhìn. Giọng nói của em trong như giọng hót của họa mi trong những buổi chiều gió lộng.
Một lần, Quỳnh tâm sự với tôi:
- Chị Hai, em cũng muốn được vào đại học như chị và Thanh nhưng có lẽ là do em chưa đủ tài. Vả lại, gia đình em cũng không đủ điều kiện cho em học tiếp nên em đành chịu. Em ở nhà làm thợ may, không biết sau này Thanh có vì thế mà bỏ em?
Tôi nắm tay Quỳnh:
- Xã hội mình đâu phải ai cũng có thể tiến thân bằng con đường học đại học. Mỗi người có một nghề. May quần áo cũng là một cách làm đẹp cho đời vậy!
Quỳnh nhìn tôi cảm kích. Tôi định nói với em rằng: "Ở thành phố, Thanh nó luôn rất nhớ em" nhưng lại thôi. Nên để cho Thanh nói sẽ có ý nghĩa hơn nhiều lần
*
Tôi nhìn em trai mình. Không biết nói thế nào để cho nó biết rằng nó hơn hẳn cái người đàn ông kia. Thôi thì đành im lặng. Sau này, có lẽ nó sẽ hiểu ra giá trị đích thực của cuộc đời. Đồng tiền của người đàn ông ấy tuy đã mua được người mà em yêu, nhưng rồi nó cũng chỉ là một thứ phù du.
Lúc này đây, em tôi đang mất niềm tin. Nó không còn tin vào tình yêu cũng như không tin vào khả năng của chính mình nữa. Bởi trước đó, nó đã không nghĩ rằng đồng tiền lại có sức mạnh lớn đến như vậy. Bởi trước đó, nó đã không nghĩ rằng một xứ sở không người quen biết lại có thể có sức hấp dẫn lớn đến thế với người nó yêu. Bản thân tôi cũng không biết rằng mối tình đầu đó có phải là tình yêu đích thực của em tôi hay không nhưng tôi biết rằng, sự mất mát này đã là một điều bất công đối với nó.
*
Một buổi tối, tôi gặp Quỳnh trong quán cà phê ấm cúng. Quỳnh đi với vài người bạn gái. Tôi đến gần hỏi thăm em:
- Dạo này em có khỏe không? Không ngờ sự việc lại ra thế.
- Chứ chị nghĩ em có thể chờ Thanh đến bốn, năm năm mà không được biết chắc sau này anh ấy sẽ có việc làm hay không ư? Vả lại, khi ra trường, dù có việc làm đi chăng nữa, liệu anh ấy có thể lo được cho em như
- Thế còn tình yêu?
- Thời này, em không cần tình yêu để làm gì. Bản thân chị yêu văn chương như thế nào, em hiểu, nhưng rồi chị được gì ngoài những đêm thức trắng? Chị cũng phải bất lực nhìn những tác phẩm của mình nằm im trong ngăn kéo bởi các báo đã có sẵn những sản phẩm đặt hàng
- Quỳnh, chẳng lẽ em không còn tin vào bất cứ cái gì? Sống mà không có niềm tin thì thật là đáng sợ.
- Niềm tin của chị không biết còn được bao lâu nữa. Mà thôi, cuộc sống của em, em đã chọn.
Tôi nhìn Quỳnh. Em già dặn hơn nhiều. Mới chỉ có một năm sau khi rời trường trung học mà sao em có thay đổi nhiều đến vậy. Tôi thương hại em. Còn về phía em, chắc em cũng thương hại tôi, theo một cách khác!
*
Tôi nhìn em trai của mình: mắt nó sâu hơn, thân hình càng mảnh dẻ, tóc tai bù xù. Tôi muốn nói với nó rằng: chỉ chừng năm năm, mười năm nữa, những người con gái như Quỳnh sẽ không còn biết sự lệ thuộc là như thế nào, nhất là sự lệ thuộc về tiền bạc. Xã hội mình lúc đó ở đâu cũng trọng nhân tài, ai cũng xem trọng tình yêu, tôn vinh tình yêu và cũng có thể vì tình yêu mà sống chết. Nhưng tôi vẫn im lặng. Tôi ngồi bên em mình mà như ghế ngồi cạnh bàn vậy. Thanh biết nhưng đầu gối nó vẫn thu đến ngực, hai tay chống lên cằm.
*
Tôi đi dự đám cưới của Quỳnh. Thanh không đi, nó đưa cho tôi gói quà rồi cũng lũ bạn trai thời trung học vào quán bia. Tôi đi, bởi tôi muốn cho Quỳnh biết rằng: mặc dù tôi không ủng hộ việc nó bất cần tình yêu để lấy chồng Đài Loan, nhưng tôi vẫn luôn coi trọng nó. Mỗi người phụ nữ đều có một giá trị riêng, cần được trân trọng.
Quỳnh và chồng tiến đến bàn của tôi. Cô dâu chú rể cười rất tươi. Chú rể nâng ly chào cả bàn rồi nói:
- Xinh cổm ớn![3]
Quỳnh tranh thủ cúi xuống nói nhỏ với tôi:
- Qua đến bên đó em sẽ viết thư về cho chị.
- Xin cảm ơn!
Cô dâu và chú rể chào chúng tôi rồi đi sang bàn khác. Họ kề sát bên nhau trong ngày vui như những cặp uyên ương đã cùng nhau dệt mộng. Vậy mà trong tôi lại bùng lên một nỗi lo không phải của mình. Từ khi Quỳnh quyết định lấy chồng đến nay mới vẻn vẹn có hai tháng, làm sao Quỳnh có đủ thời gian để học tiếng Đài Loan. Đêm tân hôn, liệu em có đủ ngôn từ để diễn đạt cảm xúc của mình cho chồng hiểu
*
Tôi nhìn em trai của mình, biết nó vẫn chưa nguôi ngoai được nỗi nhớ người yêu, biết rằng nó vẫn chưa hiểu ra nó có giá trị hơn người đàn ông kia ở tri thức, ở tuổi trẻ. Tuổi trẻ và tri thức hơn hẳn những đồng tiền vác đi "mua người". Và Quỳnh, rồi sau này sẽ nhận ra rằng mình đã sai lầm khi xem nhẹ tình yêu
Cuối cùng thì tôi lên tiếng:
- Em phải vượt qua! Em còn trẻ. Thời gian sẽ khiến em quên Quỳnh đi và rồi em sẽ tìm được tình yêu đích thực.
- Chị đã lầm! Mắt em tôi sáng quắc, chiếu tia nhìn vào không gian vô định Em sẽ không bao giờ quên được nỗi thua thiệt này. Em sẽ luôn nhớ, nhớ để cố hết sức sao cho em của em, con trai của em sẽ không bao giờ phải chịu nỗi thua thiệt như em!
*
Tôi nhìn lại em trai của mình một lần nữa rồi yên tâm bước ra khỏi phòng vì tôi biết nó đã có thể ở một mình trong những căn phòng trống
Thuận
"Thuận, tao xin lỗi mày! Quả thật rằng chính tao cũng không thể ngờ rằng mày lại chết sớm và cái chết của mày lại khiến tao đau đớn đến vậy. Tao xin lỗi vì một nhân vật trong truyện của tao lại mang tên mày. Tao làm vậy để sau này tao có thể nhớ đến mày và có thể làm được gì thì làm cho những người khác không lặp lại tuổi trẻ mà mày đã qua như mày mong muốn vậy…".
Trí nhớ của tôi về Thuận rất nhạt. Trong cuộc đời, gặp biết bao người, có được bao nhiêu người để lại cho ta ấn tượng sâu đậm? Thuận là một người có cá tính, tôi nhớ được như vậy là vì những hành động và nụ cười của nó. Vậy mà đã có lúc, tôi quên cả tên nó nếu không xảy ra một chuyện làm tôi phải suy nghĩ nhiều.
Nó là nạn nhân của AIDS.
Tôi biết Thuận qua một người bạn gái. Thuận lớn hơn tôi một tuổi nhưng nó bảo tôi cứ gọi mày tao cho tiện. Tôi đi karaoke với nó vài lần, từng đến nhà nó đổ bánh xèo, ăn uống rồi nhảy nhót. Tuổi mới lớn thích làm những việc quậy quậy khác thường. Cái tuổi trẻ dễ hư dễ nên Rồi tôi lên thành phố học, quên bẵng có một Thuận trên đời. Nhưng, một lần về thăm nhà, tôi nghe ai đó nói: Thuận nghiện, vào tù vì tội buôn bán trái phép, ra tù rồi từng có một thời chịu làm loại gái có thể bỏ tiền ra mua được. Cũng phải thôi! Nó là một con bé đầy khí chất mạnh mẽ, thứ khí chất mà không chảy tràn vào những đam mê tích cực thì nó sẽ chảy tràn vào những sa đọa mà thôi. Thuận là một con người như thế, tuột mất cơ hội là hải âu thì nó không đời nào chịu làm chim én gãy cánh. Nhưng khi nhớ về nụ cười của Thuận, tôi cứ thấy đau đáu. Nó chịu làm kiếp quạ đen, muôn đời chìm đắm trong kiếp ăn thừa. Tôi suy nghĩ nhiều về nó, về cuộc đời, nhưng rồi mọi chuyện cũng dần bị lãng quên vì những lo toan thường nhật
Thời gian trôi. Sắp Tết.
Nắng trải khắp nơi nơi một màu lóa mắt.
Tôi đi chợ, tình cờ gặp lại nhỏ bạn cũ, nó làm chủ một quầy mứt nhỏ.
- Mày còn nhớ Thuận không? Con nhỏ hay cười, da ngăm đen, cao to nhất trong nhóm mình hồi trước đó!
- Có, nhưng chỉ mang máng thôi. Lâu quá rồi! Sao?
- Nó sắp chết rồi! Bị nhiễm AIDS, bác sĩ đã trả về cho gia đình chăm sóc.
Tôi thu hết trí nhớ để nhớ lại tất cả những gì có liên quan đến Thuận. Tất cả đều mờ nhạt, chỉ có nụ cười là rõ nét. Tôi không nhớ những lý do khiến nó hay cười, chỉ nhớ nụ cười rất có duyên, ánh mắt vui nhộn thích vui đùa.
Tôi xách giỏ trái cây đứng trước giường Thuận. Nhìn Thuận mặc đồ bộ, tôi mới nhớ lại trước kia nó chỉ mặc quần jeans và áo sơ mi của con trai, cứng cáp và ngổ ngáo.
- Mày có nhận ra tao không? – Tôi hỏi mà trong lòng không có một cảm xúc gì rõ rệt.
Đôi mắt trắng bệch của Thuận nhìn tôi. Nó nằm trên chiếc giường một. Người nó bỗng như dài ra, dài vô tận, còn chiều ngang thì teo lại. Xưa nó đã cao, ốm, nay trông nó mới thật thảm hại. Nó cao và ốm. Phải rồi! Có lần nó đã nói: "Tao mơ làm người mẫu. Được đi trên sàn diễn mà diện bộ cánh mới nhất của các nhà thiết kế thì thật là tuyệt! Phải không?". Nếu Thuận chịu khó học tập để thực hiện ước mơ của mình thì đã khác.
- Mày là con bé lầm lì nhất, nhỏ con nhất nhưng cũng chịu lắng nghe nhiều nhất. Mày tên Hạnh, phải không?
- Ừ!
- Nay mày làm gì?
- Còn đi học.
- Ráng nhé! Đâu phải ai cũng được vào đại học. Nếu mày đến cách đây một tuần thì mày đã bị đuổi ra khỏi nhà rồi. Tao ghét ai thấy tao như thế này, ghét sự thương hại. Nhưng mẹ tao đã ngăn cản, bà luôn làm tao phát điên lên vì nước mắt.
- Tao biết mày luôn thích cười.
- Phải!
Thuận cười, một nụ cười sắc lạnh, ánh mắt mỏi mệt nhìn lên phía trần nhà.
Rồi im lặng.
Tôi nhìn xung quanh căn phòng. Có một cái giường gấp nằm trong tư thế mở, kê gần chiếc giường Thuận, có lẽ là nơi ở của người chăm sóc Thuận. Thuận im lặng, tôi thì chẳng biết nói gì. Thời gian dài vô tận
Tôi đang lưỡng lự định ra về thì mẹ Thuận bước vào, trên tay ẵm một bé trai kháu khỉnh. Thằng bé tuột xuống khỏi tay bà:
- Út Thuận ơi, Út xếp con cò cho con chưa?
- Rồi, nhiều đến nỗi con không thể nào đếm được đâu.
- Được, con đếm được!
Thằng bé khẳng định, cái miệng chu ra thấy ghét. Nó chúi cả người về phía Thuận. Thuận chìa tay ra định ẵm nó. Bỗng, một cái giật rung người. Thuận co rúm lại, nhìn chằm chằm vào những bông băng trên người mình. Những mụn không lành, những dấu tiêm chích có thể nhìn thấy, những vết loang lổ hình tròn như người vừa giác hơi vì bị gió rỉ ra những nước vàng chưa được lau khô Mặt Thuận tái đi, xanh nhợt nhạt.
- Để Út lấy cò – Thuận chồm dậy, lấy cái hộp ở đầu giường rồi đổ ra những con cò được xếp bằng giấy trắng.
Thằng bé thấy thế mừng rỡ, hò reo. Rồi nó bắt đầu đếm. Đếm tới đếm lui cũng không quá số mười. Trong khi đó, những con cò trắng cứ bay tới bay lui ngợp trời bởi cái quạt máy nhỏ ở cuối giường.
Bất chợt, Thuận nhìn tôi bằng đôi mắt vô hồn mà một người như tôi không thể nào hiểu nổi:
- Khi tao chết, tao chỉ nhớ mỗi cu Phúc, còn tất cả tao quên hết! – Đôi mắt rời khỏi khuôn mặt tôi, nhìn về phía trần nhà Mà khi chết, đau đớn thế, liệu tao có thể nhớ được ai không?
Nghe thế, mẹ Thuận ôm mặt khóc, những tiếng nấc nén lại nơi lồng ngực…
*
Tôi đi, trở về với giảng đường của mình, rời bỏ Thuận, rời bỏ tất cả những gì liên quan đến nó. Mà liệu có được không khi xung quanh tôi vẫn nhan nhản những cảnh người ta bị hành vì ma túy, AIDS. Lý do gì khiến Thuận trở nên sa đọa và rồi bị trừng phạt. Nếu tôi không gặp Thuận, có lẽ tôi sẽ ít đau lòng hơn chăng? Tôi và nó không có một tình bạn sâu nặng, không có những kỷ niệm êm đềm của tuổi thơ, chỉ là hai đứa con gái tình cờ quen biết nhau, có thể gặp lại nhau cũng được, không cũng được. Ở tuổi hai mươi, tôi đang dồi dào sức trẻ, tương lai còn đang chờ đợi ở phía trước. Còn Thuận, Thuận hơn tôi có một tuổi mà đã phải chịu mọi sự đau đớn, lại là sự đau đớn do chính mình đem lại. Có nỗi đau nào hơn nỗi đau của một người biết mình sắp chết, cái chết lại có thể tính từng ngày được.
*
Trong cuộc sống, quả thật là có sự linh tính. Không hiểu sao ngày hôm đó chẳng có lý do gì mà tôi nhớ nhà da diết, nhớ mẹ tảo tần buôn bán, con Út thì phải lo toan hết việc nhà: nấu cơm, giặt đồ, quét dọn, thay tôi giúp mẹ… Không biết rồi nó học hành ra sao. Ba thì đi làm, lâu lâu mới có thể tranh thủ phụ nấu một bữa cơm… Lại nhớ cả giàn thiên lý, không biết có ai tưới tắm gì không; nhớ cây khế sau nhà giờ này chắc nó đã trổ bông tím lắm
Tôi quyết định rời giảng đường để chuẩn bị cho chuyến về thăm nhà. Suốt đêm, tôi trằn trọc, ngủ chập chờn. Sáng, tôi về từ rất sớm.
Về đến nhà, mọi việc vẫn bình thường. Nhưng chỉ một lát sau thì Kiều – một người bạn cùng xóm – hớt hơ hớt hải chạy sang báo tin: Thuận đã qua đời. Kiều thấy tôi cứ ngớ người ra thì nói liền bằng một giọng lạnh băng:
- Thuận chết sớm thế mà lại hay. Thế là chấm dứt những cơn đau vật vã, chấm dứt việc mẹ nó ngày nào cũng phải mua bông gòn thấm nước vàng tiết ra từ cơ thể nó, chấm dứt việc người thân phải thấy nó đớn đau mà chẳng giúp được gì
- Nhưng mà nhanh quá! Mới chưa đầy năm kể từ khi phát hiện bệnh.
- Ừ! Tại cơ thể nó đã vắt kiệt vì ma túy trước đó rồi. Hạnh có đi đưa đám không?
- Có, có chứ! Dù không thân nhưng cũng đã từng quen biết Lại là một cái chết trẻ!
- Ai bảo nó sống buông thả quá làm chi! – Mợ tôi đang nhặt rau, lên tiếng – Mới tí tuổi đã bỏ học, chơi bời, bất cần tuổi trẻ, gia đình, thiên hạ. Con không thân với nó thì đến làm gì! Người nhà họ cũng không ai nhận ra con đâu. Chơi với nhau từ thời lớp bảy, đến đó người ta không biết, lại nhìn mình bằng ánh mắt khinh khi .
Đó là theo cách nghĩ của mợ tôi. Tôi thì nghĩ khác. Con người thì đâu có ai hoàn toàn xấu hoặc tốt hoàn toàn. Tôi lại nhớ đến nụ cười của Thuận, nụ cười rất duyên, ánh mắt long lanh thích vui đùa
Nhóm chúng tôi bốn đứa đứng thắp nhang cho Thuận. Lần đầu tiên tôi thắp nhang mà không quỳ, cảm giác là lạ, cay cay nơi sống mũi Tấm ảnh Thuận ở đầu quan tài, nụ cười rất tươi. Nó chưa bao giờ chụp ảnh mà không cười.
Thắp nhang xong, ngồi vào bàn, tôi hỏi Ngân:
- Nãy mày nói gì với Thuận mà lâu vậy?
- Tao cầu nó phù hộ cho những người nghiện có thể cai được. Thuận vì ma túy mà
Bất chợt, Ngân khóc:
- Thằng em tao, nó cũng nghiện rồi.
Em Ngân mới học lớp mười. Nó là một thằng bé thông minh, lầm lì, ít nói. Vậy mà sao
Tôi cảm thấy lòng nặng trĩu. Ma túy chỉ là một thứ vô tri vô giác mà sao nó lại có đủ sức mạnh cướp đi tình yêu và đem lại nỗi đau cho con người?
Chị của Thuận ra tiếp chúng tôi. Chị nói cho chúng tôi biết thêm nhiều điều về Thuận. Tôi không còn nhớ rõ, chỉ nhớ chị rất tỉnh. Đôi mắt chị không đỏ hoe vì khóc, khuôn mặt chị không hốc hác vì khổ đau, chị chỉ gầy đi rất nhiều so với trước. Có lẽ, chị đã bỏ hết tâm sức của mình vào việc chăm sóc cho Thuận khi nó bệnh. Còn khi Thuận chết đi, người ta đau vì một cái chết trẻ nhưng lại như đã trút đi được một gánh nặng.
Đám tang được đưa vào buổi sáng nhưng trời đã nắng gắt. Nắng đổ vào tôi, vào đám tang, vào đất. Trời trút nắng đi như thế, liệu có vơi đi nguồn lửa của mình?
Hoa vông
Nhận được phiếu báo điện thoại, còn đang mắt nhắm mắt mở, tôi làu bàu:
- Ai mà gọi điện giữa trưa thế này!
Hai giờ chiều đối với dân ký túc xá vẫn là trưa. Thường mà không đi học thì cứ "quất" đến ba, bốn giờ là chuyện thường.
- Mày về được không? Con Nhung chết rồi!
- Cái gì? – Tôi tỉnh ngủ liền – Nhung chết? Tại sao?
- Tự tử!
Tôi bủn rủn cả chân tay, không còn biết mình đang nghĩ gì, buông một câu như phản xạ:
- Tao về!
Tôi tức tốc về ngay chiều hôm ấy. Sáng hôm sau thì đưa đám. Những cái chết trẻ thường người ta không để lâu. Khách của đám ma toàn là những học sinh của trường bổ túc văn hóa tỉnh. Nhung đang học lớp mười bổ túc ở đó. Phải khó khăn lắm, nó mới có thể tiếp tục đi học. Nó học nửa buổi, còn nửa buổi đi bào mì[4] hoặc nhặt đậu phộng mướn.
Tôi quen với Nhung từ hồi còn học cấp hai, chúng tôi thường tham gia hoạt động Đội của trường. Ngày đó, Nhung thích mặc chiếc áo màu xanh có thêu hình những bông hoa bưởi. Màu xanh nền đã bạc phếch, còn những bông bưởi trắng đã trở thành màu cháo lòng. Lần đi sinh hoạt nào, Nhung cũng mặc cái áo ấy. Tôi chê cái áo ấy cộc thì Nhung bảo: "Mặc áo cộc để người ta biết mình đã lớn". Tôi cười, thụi vào lưng Nhung mấy cái rồi cả hai đuổi nhau chạy khắp sân trường. Sau này khi chơi với nhau lâu, tôi mới biết chiếc áo ấy là của ba Nhung mua từ khi nó còn học lớp năm. Ba Nhung mất vì tai nạn giao thông, mất ngay trong lúc đi mướn truyện tranh về cho con gái lớn. Nhung biết thế nên càng nhớ thương ba nhiều hơn. Người ra đi, để lại Nhung và đứa em gái vừa tròn tám tuổi. Mẹ Nhung là nông dân, lấy chồng theo chồng về thị xã, thường ngày chỉ lo hai bữa cơm nước cho chồng cho con. Mất chồng, bà mất đi trụ cột chính trong nhà, cả về tinh thần lẫn vật chất. Vốn là người phụ nữ yếu đuối, bà không thể làm gì ngoài việc làm công lặt vặt cho những lò mì gần nhà. Công việc thất thường, lúc có lúc không. Nhung học được một thời gian rồi nghỉ vì thiếu tiền đóng học phí. Nó trở nên ít nói và có lúc còn tỏ ra bất cần đời. Tôi còn nhớ có một buổi chiều nó đem đến cho tôi một cây mía rồi bảo: "Nhi, mày ăn đi! Để nếu thình lình tao biến mất thì cứ ăn mía là mày nhớ đến tao". Ngày ấy, tôi còn nhỏ nên chẳng hiểu gì. Nhung cũng chỉ nói đùa. Thời gian trôi đi, tôi vào đại học, nó nghỉ học, buôn bán một thời gian rồi xin vào trường b�! �� túc văn hóa tỉnh. Nghe đâu nó tiếp tục học để xứng với người yêu và gia đình nề nếp của anh ta. Vậy mà, ai có thể ngờ lời nói đùa năm xưa lại như một điềm báo trước
Người lớn ở nghĩa trang, ngoài mẹ Nhung mắt đỏ hoe vì khóc suốt từ ngày hôm trước thì dường như chẳng ai khóc. Họ biểu lộ sự thương xót bằng những lời trách móc một thanh niên chết vì tự tử. Những lời đau đáu cứ thi nhau tuôn ra:
- Không hiểu con bé lấy trái mã tiền ở đâu mà uống. Tội nghiệp! Đến khi ngấm thuốc, bị giật dữ quá, nó đâm sợ, tông cửa chạy ra ngoài, hàng xóm đưa đi bệnh viện liền mà vẫn không kịp.
- Nhưng tự mình giết mình là bất hiếu.
- Con gái chết vì tình thì thật chẳng ra làm sao!
- Đúng thật tuổi trẻ dại dột. Ngày xưa, chúng mình còn khổ đến đâu. Bây giờ thời bình, chỉ có làm ăn mà sống, chúng nó cũng không làm được, hơi một tí là đòi chết. Rõ khổ thân cha mẹ!
Còn tôi, tôi không trách Nhung mà chỉ giận. Tôi giận nó tại sao không nghĩ về những đóa vông ngày xưa, trước khi từ bỏ cõi đời. Những hoa vông của ngày xưa
Tôi thường kể cho Nhung nghe về ông ngoại tôi khi dẫn nó về thăm vườn hoa vông đỏ thắm. Hoa vông thường rực đỏ từ đầu mùa xuân cho đến tận mùa hè. Những cây vông của ngoại trồng tạo thành một hàng rào vững chắc và đẹp mắt. Tôi bảo Nhung: "Khi buồn, nhìn vào hoa vông đương rừng rực đỏ, người ta có thể yêu đời lại ngay được". Nhung bảo tôi triết lý giống bà cụ non, chưa biết đến chán đời làm sao biết cái cảm giác "yêu đời lại". Tôi cười hì hì rồi nghĩ về ông ngoại. Ngoại thường sai tôi đi hái lá vông non để đem về nấu canh ăn cho khỏi mất ngủ. Khi trở trời, ngoại vẫn bị vết thương thời chiến tranh hoành hành, viên bom bi quái ác vẫn còn năm sâu trong đầu ngoại, không thể nào lấy ra được. Có lá vông, ngoại ngủ được ngon hơn. Ngoại bảo: "Không ở đâu có hoa vông đỏ bằng ở vùng Đông Nam Bộ". Sáng nào, ngoại cũng dậy sớm tập thể dục để giữ gìn sức khỏe. Thời gian trôi, rồi ngoại cũng mất, tôi vẫn không thể nào quên những lần ngoại gắt vì tôi cứ quàng chiếc khăn có màu đỏ của hoa vông trong lúc ngoại ốm. Ngoại yêu hoa vông và không muốn xa nó. Nó mang khát vọng cuộc sống, biết vươn lên, nở những bông hoa màu đỏ – như chính cuộc đời ngoại vậy. Hoa vông, loài hoa mang trong mình một niềm tin bất tử vào cuộc sống. Ngoại gắt tôi bởi ngoại sợ mình đánh mất màu hoa vông vì bệnh tật. Nhưng không, khát vọng từ những hoa vông ấy đã truyền qua tôi, và tôi nghĩ rằng nó đã truyền qua Nhung, chí ít thì cũng là một phần. Nhưng
*
Tôi về, ngắt hết những đóa vông màu đỏ chói ấy xuống. Và trong lòng tôi, sự rối rắm sắp bắt đầu. Trời càng nắng, đất càng khô, vông càng đỏ. Vậy mà trong tôi cứ như vỡ ra một cái gì rất quý, rất thiêng liêng. Tôi bày hoa vông lên giường, lên bàn, nhớ đến Nhung rồi ứa nước mắt, lại nhớ đến cái áo ngắn màu xanh có thêu hình những bông hoa bưởi
*
- Mày đừng trách tao mà vứt bỏ những bông hoa vô tội, màu vông còn đỏ thì máu tao vẫn chảy.
Nhung! Nó vẫn mặc chiếc áo màu xanh có thêu những chùm hoa bưởi, vẫn nhỏ bé như hồi lớp bảy. Nhìn thấy nó tôi tức giận gắt lên:
- Mày không nhớ lời hoa vông và ông ngoại, mày phản bội sự sống này.
- Mày không hiểu, Hạnh Nhi! – Nó nhìn tôi như nhìn một đứa trẻ – Mày được chăm sóc và học hành, những người mày yêu không làm mày đau khổ.
Tôi bắt đầu nhìn kỹ Nhung. Thân hình nó nhỏ bé và què quặt, cái đầu thì to và khuôn mặt mang vẻ ưu tư sầu muộn, ánh mắt sắc lạnh như dao, chân tay teo lại, trông đến lạ. Đành vậy, Nhung bằng tuổi tôi nhưng nó lớn hơn tôi nhiều lắm ở trường đời.
- Tao đã mất hết niềm tin. Yêu mẹ, mẹ vì hạnh phúc riêng mà xao lãng việc con Hiền. Tao thì sao cũng được, nó hư hỏng, tao biết hy vọng vào đâu? Mày chưa nhìn em mày cô đơn vì tủi phận, mày chưa biết khổ. Mày đã bao giờ có cảm giác rằng những người mày thương yêu nhất đều không hiểu mày, không tin mày? Liệu mày có nghĩ đến hoa vông khi mọi niềm tin đều bị nghiền nát? Phải! Tao là người chạy trốn hèn nhát, tao không bào chữa. Nhưng chính mày cũng đổ tội cho hoa vông, nghĩa là mày cũng không hiểu tao nốt.
Tôi nhìn thấy mình quỵ xuống, tai ù đi nhưng mắt vẫn tỏ. Tôi nhìn vào mắt Nhung, ánh mắt nó rực một nỗi niềm: niềm tin một tài sản vô cùng quí giá, nếu ai đánh mất nó thì khó lòng mà trụ lại được trên cõi đời này.
Tôi nhìn Nhung bối rối:
- Thế tại sao con người lại đánh mất niềm tin của nhau?
- Bởi vì con người vô tình. Từ vô tình đến vô tâm rất dễ, lại cứ lầm tưởng đó là một sự ngây thơ.
- Ai? Ai? Tôi lắp bắp.
Nhung không trả lời tôi, trong mắt nó còn ẩn chứa một niềm u uất. Nó chết nhưng chưa hết. Tình cảm của nó với cõi đời này còn nguyên vẹn nên nó mới như thế.
Nhung xa dần, định bước vào bóng tối thì tôi vội với theo:
- Nhung, tao luôn hy vọng. Đời này có buộc thì có gỡ!
Nhung không ngoảnh lại. Tôi chạy theo nó rồi bị vấp té.
*
Bừng tỉnh, tôi biết mình từ trên giường rơi xuống đất, toàn thân ê ẩm. Những lời của Nhung cứ như một cành bưởi quất vào tôi. Những cái gai khiến cho da tôi trầy xước. Ánh mắt của Nhung khiến tôi từng phút không yên.
Tôi đến gặp mẹ Nhung. Bà tiều tụy đi rất nhiều nhưng tôi vẫn cảm nhận được rằng bà đẹp hơn nhiều so với mẹ tôi. Bằng sự nhạy cảm của phụ nữ, tôi biết bà vẫn còn phơi phới sắc xuân. Và có lẽ, chính điều đó lại là điều khiến bà làm mất một phần niềm tin ở Nhung. Nghe có vẻ nghịch lý nhưng lại đúng với trường hợp của Nhung. Bà gọi tôi là con, nước mắt rơi lã chã khi nhắc đến Nhung: "Cái con ấy thật bướng bỉnh! Nó đi rồi mà còn để lại cho dì những lời trách cứ". Tôi nắm lấy bàn tay của người đàn bà bất hạnh, một cảm giác gì đó không rõ ràng trong tôi, cứ bồng bềnh, bồng bềnh
Tờ giấy nhàu nát được chuyển sang tay tôi. Tôi mở ra, nét chữ Nhung nguệch ngoạc: "Mẹ, con đi đây! Xin lỗi mẹ vì con quyết định ra đi sớm quá. Nhưng như vậy sẽ tốt hơn cho mẹ, mẹ sẽ được tự do. Mẹ sẽ không còn phải lo lắng, suy nghĩ đến con khi đi với người yêu của mẹ. Mẹ hãy chăm sóc em Hiền, nó không bướng như con. Thế mà mẹ biết không, nó đã tỏ ra khó chịu khi có con ở bên cạnh. Con chỉ là một đứa dư thừa ".
- Nhung! Mày đã lầm! – Tôi thét lên, một lần nữa lá thư lại bị vò nát.
- Hôm ấy bác đi vắng… Bà nức nở kể trong đau khổ Hai mẹ con đã không nói chuyện với nhau từ ngày hôm trước. Nó thật là đần, tình cảm của bác dành cho người đàn ông kia dù có thế nào cũng làm sao có thể so sánh với tình mẹ thương con.
- Bác không phải là người có lỗi! Tôi vịn vào đôi vai gầy gầy của người mẹ, vỗ về.
Ra đến cổng, tôi gặp Phương bạn trai của Nhung. Hơi rượu từ anh phả sang tôi rất nồng.
- Hạnh Nhi, em cũng đến đây ư?
- Anh Phương!
- Nhi, em có biết không? Anh đã không bắt điện thoại của Nhung mặc dù anh biết cô ấy gọi. Nhung gọi rất nhiều lần. Có lẽ Nhung đã khóc, cô ấy là người quả quyết nhưng lại rất hay khóc vì tủi thân.
- Tại sao anh lại không trả lời cô ấy? – Tôi nhìn anh ta tỏ vẻ thương hại.
- Tại sao ư? Tại cục ghen to đùng nó chèn trên đầu anh. Anh đã thấy một người con trai chở cô ấy, cười cười, nói nói. Thằng ấy chạy băng băng trên đường Cách mạng Tháng Tám. Anh đã oán giận Nhung, rằng cô ấy là người không chung thủy. Thế nhưng hôm đám tang Nhung, anh đã nhận ra anh ta. Em có biết người con trai đó là ai không? Đó là thằng Sang em bà con với Nhung. Thật đáng nguyền rủa. Anh nhất định phải thú tội. Anh vào với bác gái đây!
Anh Phương! Dù sao, Nhung cũng đã đi rồi. Đối với nó, mọi chuyện đã không còn xoay chuyển nữa. Việc anh không nhận điện thoại chỉ là một giọt nước, nhưng lại là giọt nước cuối cùng làm tràn ly
Tôi trở về với những đóa vông của mình. Nhìn màu đỏ của nó, tôi chợt nghĩ đến lời ngoại: "Cây vông không chỉ để làm hàng rào ngăn cách nhà này với nhà kia mà nó còn nở ra những bông hoa màu đỏ. Màu đỏ ấy là vách ngăn giữa ánh sáng và bóng tối".
Có lẽ vào giờ này năm sau, những cây vông lại cho ra những bông hoa màu đỏ. Những bông hoa đầy sức sống, tồn tại và vươn lên giữa cái nắng quay quắt này
Với biển
Lần đầu tiên đến với biển, tôi cảm thấy tất cả như rộng mở tới vô cùng. Mặt trời ban đầu chỉ là một tia sáng lẻ loi, giờ đã thành một vầng dương đầy kiêu hãnh. Có bao giờ biển cảm nhận được rằng mình được phản chiếu từ ánh mặt trời kia?
Chuyến đi này, tôi đã đổi lấy bằng nửa tháng lương làm gia sư của mình. Chẳng lẽ đến đây chỉ để ngủ? Vì thế, mặc dù một giờ đêm chúng tôi mới rời bãi biển nhưng sáng nay, khi mặt trời chưa mọc, tôi đã có mặt ở đó. Tôi khoan khoái đi bộ từ bãi Sau đến bãi Dứa. Sóng biển vẫn rì rào, thì thào cùng gió sớm
- Em mua giùm chị mớ tôm tích đi!
Bị cắt ngang dòng suy nghĩ, tôi hơi chau mày. Tuy vậy, tôi vẫn đến gần vì tính tò mò. Một người phụ nữ có nước da đen bóng ngồi bệt xuống cát ướt sát bờ biển nhìn tôi cười, nụ cười phảng phất vẻ mệt mỏi của một đêm không ngủ. Lẽ ra tôi phải gọi người phụ nữ này bằng cô vì chị xấp xỉ tuổi mẹ tôi, giống mẹ tôi ở cái sự tần tảo buôn bán, gánh nặng chồng con.
- Chị không buôn bán gì đâu, mớ ghẹ này là của chồng chị vừa đi thúng về, bảo đảm với em không mua ở đâu rẻ hơn đây.
Tôi nhìn qua mớ tôm, ghẹ, quả thật là của người vừa đi đánh bắt về. Khoảng hai ký ghẹ lộn xộn to nhỏ, tôm sú và tôm tích đã được chọn ra cho vào bọc theo từng mớ.
- Mớ này chị để cho em hai mươi lăm ngàn – Chị chỉ vào mớ tôm tích.
Tôi sững người. Ở nhà hàng bình dân, chừng ấy cũng phải hai trăm ngàn đồng. Ở nơi này, người ta bán sức lao động, vắt kiệt sức mình cho biển chỉ để có ngần ấy đồng bạc ư? Tôi đã thấy biển hôm qua. Trời không trăng, chỉ có vài ánh sao leo lét, biển thì đen kịt cùng với những vệt sáng gào thét. Gió lúc nào cũng ù ù, ầm ầm như trời sắp bão. Trước biển ban đêm, người ta dễ rùng mình kiếp sợ. Thế mà trước những con sóng sẵn sàng nuốt chửng mọi vật kia là cái thúng chứa người đàn ông đang tập trung làm việc trong lặng lẽ. Sóng cứ xô từng cơn. Ở một ngôi nhà phía biển, có người phụ nữ không ngủ chờ chồng
- Mớ ghẹ này chị bán bao nhiêu? – Một người đàn ông chen vào giữa hai chúng tôi.
- Dạ hai mươi nghìn.
- Thôi mười lăm đi!
- Cho em mười bảy được không? – Người phụ nữ ngước nhìn, mệt mỏi, hy vọng.
- Ừ thì mười bảy! – Người đàn ông xách túi ghẹ lên, bước chân đi nhẹ nhàng mừng rỡ.
Bán mớ ghẹ ấy xong, chị nhìn qua tôi, tôi lúng túng:
- Em rất muốn mua nhưng không sao bảo quản được, em không phải là người ở đây.
- Chị biết, em mua tôm tích phải không?
- Dạ!
- Em đến nhà chị, chị sẽ luộc cho.
Tôi chạy thật nhanh về phòng trọ, lấy tiền, máy ảnh. Lũ bạn tôi vẫn ngủ rất say. Tôi đi chân trần, bám theo sau chị trên bãi cát dài. Nhìn bàn chân to, đen bóng và chắc rắn của chị, tôi càng có thiện cảm hơn với người dân chài miền biển.
Ngôi nhà chị làm bằng gỗ, màu đen xám. Hai đứa trẻ đang chơi trước cửa nhà cũng đen xám như thế.
- A! Má về! Thằng nhỏ reo lên.
- Ba đâu rồi? – Thằng lớn hỏi.
- Ba mày đi uống rượu.
- Vậy là có thịt ăn rồi, có rau với cơm trắng nữa! – Thằng nhỏ nhoẻn miệng cười.
- Chị này là ai? – Thằng lớn nhìn tôi bằng ánh mắt tinh nghịch, cười cợt.
- Gọi bằng cô chứ! Mẹ nó nhắc.
- Hổng dám đâu, chỉ bằng chị Hai nhà mình. Sao lâu rồi không thấy chị Hai về hả má?
- Mới hai tháng mà lâu cái gì!
- Hai không nhớ con, nhớ biển hả má? – Thằng nhỏ hỏi, miệng méo xệch.
- Thôi, không hỏi nhiều nữa! Má cho một ngàn mua bánh nè! – Chị rút xấp tiền mỏng đưa cho thằng lớn một ngàn.
Hai đứa bé tí tởn cầm tiền đứng dậy. Trước khi chúng bỏ chạy, tôi đã kịp làm một "pô" hình lén khiến chúng kêu á lên rồi biến mất sau liếp cửa.
Chị bắc bếp lên, bắt đầu nhóm lửa. Nhìn khung ảnh nhỏ chụp cả gia đình chị, tôi đi gần về phía bếp trò chuyện cùng chị.
- Con bé ngồi giữa nắm tay hai đứa nhỏ đó là con Hai nhà chị. Nó đi học ở Sài Gòn – Mắt chị sáng lên sau làn khói mỏng – Học xong, nghe đâu nó sẽ làm việc ở tòa án.
- Học luật hả chị? Tôi đoán.
- Ừ, năm nhất.
- Đi biển chắc vất vả lắm hả chị? Tôi chuyển đề tài.
- Chừng 11 giờ tối, ổng đi đến tờ mờ sáng thì mới về. Bữa nào hên thì cũng đỡ, gặp bữa xui là về không.
- Sao ảnh không về nhà liền hả chị?
- Đi biển cực quá phải uống chút rượu cho ấm lòng chứ!
- Em nghe nói trước khi đi phải uống cả nước mắm hả chị?
- Ừ! Đi biển nguy hiểm lắm. Hôm bữa, anh nhà bên bị con đẻn[5] cắn. Mới nghe á một tiếng, chồng chị chạy qua là anh ta đã chết rồi.
Tôi rùng mình. Biển đấy ư? Biển thì thào ngoài kia, cho con người nhiều thứ và lấy đi của họ cũng không ít.
- Quen nghề rồi em ơi, không đi không chịu nổi. Có lần chị bàn với ổng đi buôn bán cho dễ kiếm tiền. Nhưng được vài ngày lại không chịu được. Nhớ biển. Chắc là mắc nợ biển rồi À, tôm của em xong rồi nè.
Đưa tiền cho chị, cảm ơn chị rồi ra về, tôi suy nghĩ miên man. Đến gần trưa, khi lũ bạn tôi vừa ở biển về phòng trọ, tôi mới đem mớ tôm tích luộc ra. Bọn nó reo lên như bắt được vàng. Đứa thì khen tôi giỏi giang mua được mớ tôm tích tươi ngon, đứa thì nói tôi xài sang. Chúng nó đoán theo giá ở các nhà hàng sang trọng tại thành phố Hồ Chí Minh. Những người ở nhà hàng kiếm được nhiều tiền từ sinh vật biển nhưng họ không bị rắn biển cắn bao giờ
*
- Đi với tao đến thăm nhỏ Liên bên trường luật.
- Quen đâu bên đó?
- Tiếp thị chung hồi đầu năm hai.
- Ừ, chờ tao thay đồ.
Thế là tôi theo nhỏ bạn đến một căn hộ sang trọng. Nhìn đồ đạc trong phòng, tôi không nghĩ đó là phòng mướn của một sinh viên tỉnh lẻ.
- Nhìn bạn quen quá!
Tôi thốt lên. Nước da khỏe khoắn này cùng với gương mặt kia gợi cho tôi nhớ đến sự mặn mòi của biển.
- Bạn ở Vũng Tàu phải không? – Tôi hỏi tiếp.
- Đúng rồi, sao bồ biết?
Tôi bắt đầu lục tìm trong giỏ xách. Tôi có thói quen mang theo album ảnh – những "tác phẩm nghệ thuật" của tôi.
- Bạn là chị của hai nhóc này?
Nhỏ Liên đón lấy tấm ảnh từ tay tôi, nhìn tấm ảnh một cách âu yếm. Ánh mắt nó quá buồn. Nó gật đầu.
Chợt, có tiếng điện thoại di động reo. Liên buông tấm ảnh xuống bàn.
- Em đây!
-
- Em đang ở nhà.
-
- Anh đến hả? Ngay bây giờ?
-
Liên đặt điện thoại xuống, mặt có vẻ không yên. Tôi giật mình vì cái nhéo vào eo của nhỏ bạn cùng phòng. Đôi mặt nó nháy nháy ra hiệu rút lui. Liên nắm tay tôi, xin lại tấm hình. Nhìn Liên, tôi không còn cách nào khác là tặng luôn cho cô ấy.
Ra đến cổng, tôi làu bàu:
- Sao về sớm vậy? Đã nói chuyện gì được với Liên đâu?
- Không về không được, ở đó một lát lão già về cũng đuổi khéo mình đi.
- Là sao?
- Sao mà mày ngây thơ thế? Lão già bao con Liên, lúc đầu là đóng tiền học phí, sau đó là mướn nhà, sắm sửa tiện nghi
- Già, miễn Liên yêu là được.
- Yêu cái nỗi gì. Ổng đã có vợ, hai con.
Ngồi phía sau, chiếc xe đạp cọc cạch của nhỏ bạn khiến tôi không nghe rõ thêm điều gì nhưng tôi thấy một điều gì đó rất ngậm ngùi. Tôi nghĩ đến Liên. Tôi nghĩ đến mẹ Liên, người phụ nữ bất ngờ tôi gặp trên bãi biển cùng với căn nhà màu đen xám bay mùi tôm tích Tôi nhớ đến ánh mắt của chị khi nghĩ đến con Hai. Tai tôi lại nghe tiếng sóng thét gào, và câu chuyện về anh hàng xóm bị đẻn cắn chết không kịp trối. Tôi thấy một người cha đang âm thầm quay thúng ra biển, một người mẹ lặng im trong đêm, giật mình vì tiếng đứa con út trong mơ thốt lên:
- Hai không nhớ em, nhớ biển sao Hai?
Mái ấm
Hà cầm tờ giấy thấm nhòe nước mắt lên, nâng niu rồi vò nát. Biết viết gì cho em trai của mình đây? Rằng: em hãy cố mà chịu đựng những gì chị không phải chịu đựng ư? Chị đi học xa, mỗi ngày có phải đối mặt với sự thật đâu mà đòi khuyên răn. Nó nhớ đến cảnh ba nó say rượu. Người say thường ỷ thế say để nói hết ra những gì mình đang chất chứa mà không cần biết người khác sẽ nghĩ gì. Ba nó la hét, đập đồ, than thở rồi ngồi khóc. Mẹ nó ngồi như đóng băng, ánh mắt mơ hồ, lãng đãng buồn. Thằng Phương chạy ra ngoài, nó đuổi theo, níu áo em mà nước mắt lưng tròng.
- Em đi đâu? Mười một giờ rồi, không ngủ làm sao ngày mai đi học?
- Chị nghĩ em còn có thể yên tâm học được sao? Chị thì ngày mai lên thành phố là xong chuyện. Còn em, phải đến năm năm nữa mới thoát khỏi cái nhà này.
- "Thoát khỏi"? Là con trai, mới học lớp tám sao em ăn nói bi quan vậy? Mẹ có lỗi thì có lỗi với ba, không có lỗi với chị em mình. Em đừng làm cho mẹ tội càng thêm nặng.
Hà một tay dắt em, một tay chùi nước mắt. Hai chị em bước vào nhà trong ánh đèn héo hắt. Trời đêm!
Hà biết, lần đó mình khuyên được em vào nhà không phải nhờ lý lẽ mà nhờ những giọt nước mắt. Hà không có lý lẽ để giải thích cho mẹ, dù là chỉ để trấn an mình. Lá thư viết cho em chỉ còn lại là những lời hỏi thăm sức khỏe. Làm ngơ như thể gia đình không có chuyện gì không phải là cá tính của nó.
Hà nhìn lên bức tường trắng của căn phòng nhỏ. Đôi mắt mệt mỏi, đục ngầu khi nghĩ đến gia đình. Nó muốn làm con mèo rúc vào tủ áo để quên đi mọi sự bên ngoài. Nó muốn ở lại ký túc xá trong những ngày hè. Nhưng nghĩ đến em, đến ba, nó lại không yên tâm. Nó tức giận mình sao quá yếu đuối, cả lo. Khi gặp rắc rối, người ta mới biết mình không chai lì, mạnh mẽ như mình vẫn nghĩ. Trong gia đình, em trai dựa dẫm vào chị gái là chuyện thường. Ở nhà nó, điều này càng rõ hơn bất cứ nhà nào. Nó biết rằng em trai nó hễ ở nhà thì luôn mồm ghẹo chị, nhưng khi ra ngoài lúc nào cũng tự hào vì có người chị lớn hơn mình năm tuổi, người mà nó có thể dựa dẫm trong học hành, có thể yên tâm đi chơi, ở nhà đã có người bênh vực. Nay không có chị ở nhà, lại thêm mẹ Nếu nó không về, không biết em nó sẽ ra sao. Còn ba, ba có thể sẽ quỵ mất. Nó về.
*
Hà mắm chặt tay em, cố kìm lại những giọt nước mắt rơi vô ích. Nó có thể căm giận người mẹ mà nó hằng yêu thương kính trọng? Người mẹ đã từng là điểm tựa của ba, là bóng mát tuổi thơ và cuộc đời của các con.
- Tại sao anh cứ muốn níu giữ những gì không còn là của mình? Đừng kéo dài thời gian vô ích một khi tôi đã quyết định.
- Tôi có điểm nào thua cái thằng lúc nào cũng đóng bộ quân phục ấy? Cô muốn lấy nó phải bước qua xác tôi và hai đứa con! – Ba chưa bao giờ hung dữ như thế. Mắt ba trợn tròn, đôi môi run, mặt rừng rực đỏ – Cô hám tiền hay bị nó mê hoặc? Tôi sẽ giết nó!
- Phải! Tôi hám tiền đấy. Thiên hạ chả thiếu người vì tiền mà làm chuyện đồi bại. Anh không giết được tiền bởi anh cũng cần nó. Nếu anh không muốn ly dị vì sợ ảnh hưởng thì ly thân. Tôi sẽ đi, sẽ không làm phiền anh nữa.
- Đi đâu? – Ba gặng hỏi, gương mặt dần dần chuyển sang tái, rồi xám xịt – Cái ngày xưa của cô đã chết rồi. Sao cô cố tình không chịu hiểu? Tại sao tôi không đủ sức làm cho cô hiểu? Tại sao?
-
- Tiền! Đồ chết tiệt!
-
- Một thằng công nhân làm ống nhựa, tích cóp cả đời cũng không đủ tiền để nuôi con ăn học, để lo cho cô bằng bạn bằng bè. Ha ha Đáng đời hắn!
-
- Đành rằng tôi nghèo, cô có thể bỏ tôi, nhưng còn các con? Chẳng lẽ cả chúng nó mà cô cũng đành lòng bỏ rơi sao? Cô đành lòng sao? Chúng nó không làm gì nên tội, chúng nó ngoan ngoãn học hành, và chúng yêu cha mẹ chúng!
Hình như những câu nói đó là vũ khí cuối cùng của ba, là tia hy vọng duy nhất của ba.
Còn mẹ, mẹ vẫn lặng câm. Mẹ cúi mặt, nhìn xuống nền nhà, nơi thường ngày có bàn chân của những người mẹ thương yêu đặt lên đó. Nơi ấy, mẹ đã lau chùi sạch sẽ để những người mẹ thương yêu có thể ngủ trong những buổi trưa hè nóng nực. Nơi ấy vừa tiếp nhận những giọt nước mắt rơi vãi, ngậm ngùi.
Không được mẹ trả lời, ba rũ mình xuống đi văng, mệt nhừ như người phải lao động liên tục mười năm mà không được ăn, được nghỉ. Người thiếp đi, để rồi nửa đêm tỉnh dậy.
- Con ơi, Hà ơi! Mẹ các con đâu?
Nó nhìn ba. Toàn gương mặt biểu lộ sự hoảng hốt của người đàn ông vừa bị đánh cắp một vật quí nhất đời mình. Càng thương ba bao nhiêu, nó càng bất bình với mẹ bấy nhiêu. Người đàn bà đã ngoài bốn mươi tìm được gì tốt đẹp hơn ngoài mái ấm của mình? Người đàn bà một khi đã nhẫn tâm thì cả thế giới này sụp đổ.
Thế giới không sụp đổ. Mẹ nó đi, mái ấm trở thành hoang tàn vắng lặng, chỉ còn lại tiếng kêu thảng thốt và tiếng nấc của đứa con gái yếu đuối. Mọi hy vọng, tình yêu của nó đều phụ thuộc vào gia đình. Gia đình có thể sụp đổ và nó bắt đầu sợ hãi. Em nó có thể mắc vào cạm bẫy của ma túy trong lúc buồn chán. Ba nó có thể bị con sâu rượu hoành hành. Còn nó, liệu nó có đủ sức để mà học tiếp. Nó buồn, rồi đâm ra tự ái. Tự ái làm cho ánh mắt của nó ngấn lệ rồi rực sáng.
- Ba! Sao ba còn hoảng hốt như vậy? Điều này ba đã được báo trước rồi kia mà! Ba sụp đổ, em và con cũng ngã. Cả gia đình mình đều chết vì một người đàn bà như vậy, liệu có đáng không?
- "Gia đình"? Cái nhà này còn là một gia đình hay sao?
- Còn, tất nhiên là còn! Bởi vì em và con cần ba. Ba phải thương chúng con nhiều hơn lúc ba vừa thấy chúng con ra đời.
-
- Ba! – Giọng nói của Hà nhỏ nhưng cương quyết – "Người ta" đã không cần mình thì mình phải tự cần mình chứ ba!
Ba nó vẫn im lặng, tay người xiết chặt tay con gái. Nhưng mắt người sụp xuống, mái tóc hoa râm hơi dài xõa xuống vầng trán có nhiều nếp nhăn
*
Thế rồi ba nó cũng đến xí nghiệp, em nó vẫn nhập học bình thường, còn nó ở thành phố túi bụi với bao nhiêu việc phải làm, phải học. Đã gần một năm trôi qua, nặng nề nhưng vẫn có thể vượt qua. Thế mới biết, người ta vẫn có thể vượt qua được những điều mà người ta cho là quá tải. Nếu biết nghĩ mọi việc đơn giản hơn một chút thì người ta đã không tưởng tượng ra những cái gai dài và nhọn trên con đường dài của mình.
- Hà 313 có điện thoại!
Quái! Ai điện cho mình vào giờ này nhỉ? Đã gần 10 giờ đêm rồi – Hà nghĩ vậy nhưng vẫn nhanh nhẹn lấy áo khoác và chạy đến phòng nghe điện thoại.
- Alô!
- Em Phương đây!
- À, Phương, có chuyện gì giờ này mới gọi?
- Bác Liêm chết rồi.
- Bác Liêm nào?
- Bác mà mà đi cùng với mẹ đó!
- Tai nạn xe à?
- Không! Nghe nói do di chứng chiến tranh gì gì đó. Em không biết rõ. Chị có về không?
- Về vì người đã phá vỡ hạnh phúc gia đình nhà mình sao?
- Tùy chị! Ba bảo em gọi chị về.
- Để chị suy nghĩ đã!
- Thì chị cứ việc suy nghĩ. Sáng ngày mốt là đưa đám đó. Em cúp máy đây.
Hà buông máy, trở về phòng với một tâm trạng khó tả. Hà nghĩ về tất cả, tất cả những gì có liên quan tới người đàn ông đó. Rồi Hà nghĩ về mẹ. Một người đàn bà hai mươi năm hy sinh cho gia đình. Hiếm khi mẹ chiều theo ý thích cá nhân mình để mua sắm hay làm mất thời gian. Toàn bộ thời gian của mẹ đều thuộc về gia đình. Chẳng lẽ một phụ nữ như vậy lại Bất chợt, Hà gục xuống, nước mắt tuôn trào nhưng không phải là những giọt nước mắt rơi vì tủi hận hay tức giận mà là những giọt nước mắt vì thương yêu. "Người ấy" chết vì di chứng chiến tranh, vì
Về đến nhà, Hà thấy bác Ba Hương đang quét dọn ở nhà mình. Bác là người bạn thân thiết của mẹ. Nhà bác cách nhà Hà chỉ một con đường nhỏ, vì vậy cho nên bác thường đến nhà nó chơi và động viên, chăm sóc nó trong lúc gia đình nó gặp khó khăn. Hà không bao giờ quên ơn người đã giúp đỡ nó vượt qua những giây phút khó khăn nhất trong cuộc đời. Vừa nhìn thấy Hà về, khuôn mặt buồn bã của bác trở lên rạng rỡ lạ thường. Hà không biết vì sao bác buồn, phải chăng cả bác cũng đau buồn khi "người ấy" ra đi.
- Cuối cùng thì con cũng về! Bác đã đợi con từ rất lâu. Chỉ mình con là chưa đến tang lễ.
- Chẳng lẽ ba con cũng đã đến rồi sao?
- Phải, ba con cũng đã hiểu ra sự thật và đã tha thứ cho tất cả. Thật ra thì cả mẹ con và bác Liêm đều không có lỗi. Có chăng là do chiến tranh, chiến tranh đã cướp đi của bác ấy thứ quý nhất, đó là sức khỏe để những hôm trái gió trở trời, bác ấy phải chịu đớn đau. Mẹ cháu thì lầm tưởng rằng sự hy sinh của mình cho bác ấy vào lúc cuối đời là tốt cho bác ấy. Nhưng không, bác ấy vẫn bị những cơn đau cùng cực vì di chứng chiến tranh hoành hành mà mẹ cháu không thể giúp được gì. Còn hơn thế nữa, khi bác ấy biết mẹ cháu đã rời bỏ mái ấm để đến chăm sóc cho bác ấy thì bác ấy dằn vặt, đau khổ trong nỗi mặc cảm rằng mình đã phá vỡ gia cang của người khác chỉ vì mình đáng được thương hại.
- Thế ra không phải mẹ cháu vì tiền và tình yêu ngày xưa mà đến với bác ấy hay sao?
- Tiền ư, con gái? Một người cựu chiến binh như bác ấy thì làm gì ra tiền khi sức khỏe đã kiệt quệ, ngoài vài trăm ngàn hàng tháng dành cho những thương binh? Còn tình yêu thì chỉ là cái cớ để mẹ cháu rời xa gia đình. Mẹ cháu đến với bác Liêm chỉ vì cái nghĩa cử của ngày xưa.
"Nghĩa cử của ngày xưa?". Khi bác Ba nhắc đến đây, Hà chợt nhớ lại một lần Hà đã cùng mẹ tâm sự.
- Phụ nữ khác đàn ông con ạ! Chỉ có phụ nữ mới có thể hy sinh đời mình, thậm chí hơn cả đời mình vì người họ mang ơn, vì cái nghĩa mà họ phải trả cho người đã cứu sống họ. Còn đàn ông thì họ chỉ có được hạnh phúc thật sự khi họ lấy người họ yêu.
- Mẹ đã từng mang ơn một người nào chưa?
- Có, mẹ đã từng mang ơn một người đàn ông, người ấy đã cứu mẹ thoát chết trong một trận càn. Nhưng mẹ chưa hề được trả ơn. Ngày đó, mẹ chưa gặp ba, mẹ còn rất trẻ và bác ấy là một chiến sĩ rất dũng cảm. Nhưng trong thời chiến tranh, đâu phải cái gì muốn là được. Mẹ và bác ấy không còn gặp lại nhau nữa kể từ ngày ấy
- Bác tên gì hả mẹ?
- Bác ấy tên Liêm.
Sự thật là như vậy ư? Hà cảm thấy vô cùng thiếu sót khi không thể hiểu mẹ sớm hơn để có thể chia sẻ cùng mẹ. Vậy là mẹ phải âm thầm chịu một nỗi oan mà nó không hề hay biết. Một người đàn ông trở về sau cái chết, sau hai mươi năm. Bệnh tật và cô đơn. Và mẹ nó đã tình cờ gặp lại. Nếu biết thế thì nó đã không quá khổ đau. Cuộc đời sao cứ xảy ra những việc không ngờ.
Hà còn đang loay hoay trong một luồng cảm xúc bất chợt thì nghe bác Ba nhắc:
- Chúng ta đến tang lễ đi! Biết cháu đến, bác Liêm sẽ có thể sẽ ra đi một cách nhẹ nhàng hơn.
- Dạ!
*
Mọi việc xong xuôi, mẹ trở về trong niềm hạnh phúc không ngờ mình có thể tìm lại được. Ba thì bối rối trong giây lát khi nhìn mẹ lại lúi húi nấu ăn trong bếp như xưa. Thằng Phương thì cứ lăng xăng, chạy tới chạy lui từ bếp lên nhà. Còn Hà, nó không còn băn khoăn rằng trên đời có thật tình yêu không nữa. Niềm tin trong nó lại trở về, tươi rói hơn xưa.
Mái ấm sẽ ấm hơn khi người ta biết tin biết yêu và biết tha thứ cho nhau
Viên thuốc xanh
Thương thấy mẹ ngồi khóc. Không mấy ngày mà mẹ không khóc. Đôi vai mẹ run lên theo từng cơn nấc làm cho Thương cảm thấy mình như là người có lỗi. Chỉ mình Thương ngoan với mẹ thôi thì chưa đủ. Nỗi đau buồn của mẹ vì anh Hai nhiều hơn so với những niềm vui nhỏ bé của em dành cho mẹ.
Ba hay dậy sớm, đi tập thể dục rồi ngồi thơ thẩn với mấy cây kiểng còn ngái ngủ. Ba cứ ngồi đó, nghĩ điều gì rất lung. Ba vuốt những sợi tóc đã điểm bạc rồi cảm thấy mình có lỗi. Không! Ba ơi, Thương muốn nói với ba rằng: ba không hề có lỗi. Ba ngày đêm miệt mài làm việc để cho gia đình mình khấm khá, để cho con và anh Hai được học hành. Nhưng anh Hai Anh đã làm cho gia đình ai cũng cảm thấy có lỗi. Thương cũng thường mặc cảm khi tình cảm của mình đối với anh không đủ lớn để kéo anh về với gia đình.
Anh Hai vẫn ở trường cai nghiện. Nó thấy nhớ anh nhưng lại rất giận anh. Anh đã tiêu tốn biết bao nhiêu tiền của của gia đình, hù dọa cả mẹ, chạy trốn cha và có lần bán luôn cả cuốn tự điển của em Thương giận anh mình nhiều, nhưng nó biết anh nó là người tốt, người có thể dùng tình thương để cảm hóa được. Tuổi thơ anh được miền quê nuôi dưỡng nhưng vừa lớn lên, anh lại chịu sự ảnh hưởng tiêu cực của thị thành. Anh hư hỏng vì anh bị quyến rũ, bị mê hoặc, bị lệ thuộc. Anh Hai ơi, anh là của gia đình. Thương luôn hy vọng rồi một ngày anh sẽ trở lại cùng gia đình với một tinh thần minh mẫn và một cơ thể cường tráng như xưa. Điều đó sẽ là sự thật hay chỉ là một giấc mơ
*
- Út ơi!
- Anh Hai, anh lại trốn về ư? – Thương vội nhìn vào khuôn mặt hốc hác và đôi mắt tím bầm của anh. Quần áo anh tả tơi, chân đất và đầu trần. Có lẽ anh đã leo rào và chạy bộ về nhà.
- Út ơi, em phải cứu anh. Anh sắp chết rồi! Sắp chết! Em không thể thấy người sắp chết mà không cứu! Tiền, đưa tiền cho anh, bao nhiêu cũng được
- Em làm gì có tiền? Sao anh cứ ở trường được vài tháng là lại trốn về? Mẹ biết được, mẹ sẽ đau lòng lắm.
- Đừng đem mẹ ra đây để dọa anh. Anh muốn có tiền, em lấy ngay đi! Anh không chờ được nữa rồi.
- Anh có thể chạy bộ được về nhà thì anh cũng có thể đi với em đến một nơi. Nơi đó sẽ có một loại thuốc giúp được anh. Không phải là ma túy mà là thuốc cai nghiện.
- Anh không tin! Em đừng dối anh. Út ơi, em đừng có tưởng tượng!
- Vì tình yêu và hạnh phúc gia đình mình, vì tình anh em ruột thịt của anh, em xin anh hãy tin em một lần. Niềm tin cứu được linh hồn và thể xác. Nếu anh có niềm tin, anh sẽ đạt được điều anh muốn.
Anh Hai nhìn em gái út, nước mắt em chảy ướt cả những sợi tóc xõa trên má. Nhưng ánh mắt em sáng rực, chiếu thẳng vào anh khiến anh không thể không gật đầu
*
Thương dắt anh Hai đi qua một vùng đầy cát. Mặt trời lên, cát làm bỏng rát bàn chân. Chỉ có thể đi bằng đôi chân trần mới thể hiện được sự thành tâm của mình. Dù chân có phải phồng rộp cũng phải vượt qua.
- Út ơi, anh khát nước, anh cần phải có giày. Em có đem theo tiền không?
- Anh Hai ơi, tiền chỉ là phương tiện. Nhưng lúc này, chúng ta không cần phương tiện mà chúng ta cần ý chí. Anh hãy dùng hết ý chí của mình để vượt qua.
- Cả sống lưng anh lạnh buốt những gai đâm. Anh cần có thuốc.
- Không, anh đang có em! Hãy nghĩ về cha mẹ!
Thương vẫn nắm chặt tay anh, dìu anh đi qua vùng cát nóng bỏng Gần một ngày trôi qua, họ chưa ăn gì, chưa uống gì. Họ gần như kiệt sức.
Mặt trời lặn và họ cũng thiếp đi. Đang trong cơn mê loạn, Thương chợt tỉnh vì những giọt nước mát.
- Anh Hai, trời mưa! Chúng ta có nước uống rồi.
Anh chợt tỉnh, đưa tay hứng những giọt nước mưa và vội uống. Nhưng việc tỉnh lại làm anh đau đớn hơn. Toàn thân anh đau nhói, đôi chân bị bỏng ngấm nước càng khiến anh khó chịu hơn.
- Chúng ta phải quay về, Út ơi! Anh xin em, Út ơi! Anh cần mẹ. Nếu mẹ có ở đây, mẹ sẽ cho anh uống, cho anh ăn và đắp chăn cho anh khỏi lạnh.
- Và nếu có ba, ba sẽ che chở cho anh em ta khỏi bị mưa ướt. Nhưng anh em ta đã đi được nửa đường rồi. Chúng phải đến được nơi có thuốc cho anh. Viên thuốc đó chỉ dành cho những ai có thể vượt qua thử thách thì mới xóa bỏ được những lỗi lầm.
- Anh đói, anh rét. Anh muốn về nhà.
- Anh sẽ về nhà khi anh vượt qua thử thách. Mẹ sẽ rất tự hào vì anh. Cả nhà ta đang tiếp sức cho anh.
Anh nắm tay em gái như anh đang nắm tay người mẹ đang che chở đời mình. Đứa em gái mà thường ngày anh hay la mắng. Đứa em gái hay khóc nhè chỉ vì ganh tị mẹ hay chăm sóc và lo lắng cho anh hơn. Nhìn vào đôi mắt em, anh thấy ở đó một niềm tin, mặc dù có lúc rất mỏng manh. Đôi mắt ấy tiếp thêm niềm tin và sức mạnh cho anh. Anh cố hết sức đứng dậy, dựa vào thân hình bé nhỏ mà cứng cỏi của em và đi tiếp.
Trời tối đen như mực. Những giọt mưa vẫn xối xả rơi như trêu ngươi, như ca hát, như để khiêu khích lòng người. Hai anh em lần mò, đi từng bước với cả nhiệt tâm. Hai thể xác rã rời nhưng chứa một niềm khao khát mãnh liệt. Sự thắng thế thuộc về tình thương Phía trước là màu đen, hai bên là bóng tối. Trong mắt họ, một ánh lửa soi đường.
Hai anh em đi suốt đêm. Họ trải qua bao cảnh tượng hãi hùng, vượt qua bao nhiêu chặng đường gian khổ. Nhưng đến khi họ trải qua được một ngọn núi, lúc đầu tưởng như sẽ ngất xỉu vì mệt, vậy mà khi qua đến nơi họ thấy ánh trăng chiếu sáng cả vùng trời. Ánh trăng – thiên nhiên gợi mở lòng người, khơi gợi lại ký ức. Anh Hai cảm thấy dễ chịu và mơ về những ngày thơ ấu. Anh đã từng đi bắt cua trong những đêm như thế này. Anh đã từng cùng em út đi kéo vó. Anh kéo vó, Út ném thính và soi đèn. Rồi những trò chơi thuở nhỏ cứ hiện về như một cuốn phim nhẹ nhàng nhiều màu sắc. Anh đánh khăng, đánh đáo cùng với các bạn trai cùng xóm, chơi bịt mắt bắt dê cùng với bọn con Út và bạn của nó. Nhất là cái trò bịt mắt hái hoa của bọn con Út làm đám hoa dại dễ thương phải tàn tạ Những tiếng cười giòn của tuổi thơ, những niềm vui êm đềm, dịu ngọt ru anh vào một cõi hồi tưởng. Anh nhớ lại bài hát đồng dao anh thường hát:
Lộn tùng phèo
Nước trong, nước chảy
Có cô mười bảy
Có chị mười ba
Đi hái lá đa
Về lộn tùng phèo
Rồi một ý nghĩ lóe lên khiến anh day dứt. Ngày đó, niềm vui anh có được sao mà nhẹ nhàng, êm ả. Còn những ngày gần đây, anh chỉ tìm được niềm vui khi thấy ánh đèn của sàn nhảy, khi sử dụng thuốc, đua xe Những cảm giác thác loạn từ thuốc, những nỗi đau chết người từ thể xác đến tâm hồn cũng từ thuốc. Ôi, anh muốn thoát ra tất cả để chỉ đổi lấy cảm giác được nhìn thấy cánh cò trắng bay cao. Rồi những hình ảnh cây dừa, cây ổi, đầm sen, ruộng đồng, hoa súng bám lấy anh, ru anh dịu ngọt. Chợt
- Anh Hai, ta đến nơi rồi!
Bị cắt ngang khỏi dòng hồi tưởng, anh nhìn về phía tay Út chỉ. Một ngôi nhà nằm giữa cánh đồng xanh bao la. Trời đã sáng tự lúc nào không biết. Tiếng chim hót trên những bụi tre gần đó. Hoa dại trên đường tỏa hương thơm. Nỗi đau trong cơ thể anh vẫn còn âm ỉ nhưng trong lòng anh đã bớt nặng nề vì anh đã tìm được lốt thoát cho mình.
Ngôi nhà nhỏ xinh bật mở. Bác sĩ mặc áo choàng xanh bước tới rồi ân cần nói:
- Ta đã đợi hai con từ lâu lắm.
Người đến bên tủ thuốc và lấy một viên thuốc màu xanh. Sau đó, người đem viên thuốc đến bàn thí nghiệm rồi đóng lên đó một nét chữ màu hồng. Người đến bên anh Hai.
- Viên thuốc này sẽ khiến con có thể thoát khỏi mọi nỗi vật vã đớn đau bởi nó chứa đựng màu xanh của hy vọng và quê hương, màu hồng của thân ái và hạnh phúc gia đình. Con đã đến được đây, con xứng đáng được rửa sạch mọi lỗi lầm
Anh Hai trân trọng cầm lấy và uống. Vừa uống xong, anh cảm thấy như mình đã vượt qua được một đoạn đường dài và vô cùng dễ chịu. Thương đứng im hưởng thụ niềm hạnh phúc mà mình đã góp phần tạo ra cho anh, cho mình và cho cả gia đình
*
Từ đó, mẹ thôi khóc. Ba thôi cảm thấy mình bất lực. Gia đình trở thành điểm tựa thật sự của mỗi thành viên. Những việc đời thường trở nên có ý nghĩa đến không ngờ. Mái ấm là vòng tay êm ái ru ta vào giấc ngủ yên lành hơn bất cứ nơi nào
Miền nhớ
1.
Vừa thi tốt nghiệp mười hai và thi đại học xong, tôi quyết định về quê một mình. Vừa được mẹ đồng ý là tôi về ngay không do dự. Bố tôi lo: "Con gái mà đi tàu xe một mình ". Tôi trấn an: "Tàu hỏa bây giờ an toàn lắm!". Bố tôi gật gù nhưng người vẫn điện thoại báo trước cho ông biết và nhờ người thân đi đón tôi ở ga Hà Nội.
Tàu khởi hành vào lúc hoàng hôn. Thật thú vị khi ta khởi đầu vào lúc ngày sắp kết thúc. Cảm giác như được đi ngược, được phá vỡ một qui tắc nào đó. Tôi mơ hồ thấy mình là người chiến thắng, hạnh phúc dù chỉ là trong phút chốc. Ánh mặt trời đỏ thẫm lan tỏa vào những cụm mây làm cho chúng có một màu hồng rực. Ai bảo ngắm hoàng hôn buồn chứ tôi bảo là không. Mặt trời trước khi lặn đã cố phả hết sức sống của nó vào vũ trụ, vào thiên nhiên. Dù có nhường chỗ cho đêm, mặt trời vẫn để lại những dư âm tốt đẹp cho sự sống.
Tôi ngồi sát cửa sổ ở toa số mười và ngồi cạnh một chú phóng viên ảnh. Chú muốn đổi chỗ cho tôi để chụp phong cảnh và chụp những người sinh hoạt trên toa. Tôi loay hoay cùng chú, cười nói tự nhiên và thoải mái. Tôi hỏi chú về nghề báo. Chú trả lời cho tôi thật cặn kẽ và còn nói thêm rằng nghề báo khó lắm, không hợp với phụ nữ đâu, nhất là đối với phóng viên ảnh sống nay đây mai đó. Tôi bảo với chú rằng bởi vì khó nên có nhiều người muốn thử, được làm một "chiến sĩ trên mặt trận văn hóa" thì thật là oai. Chú cười, hai mắt híp lại, nước da đen giòn của chú làm cho tôi thích thú.
Tiếng còi tàu thách thức niềm háo hức trong tôi. Cảnh vật ở làng Hoàng Xuyên trong tôi vẫn nguyên vẹn. Từ con đường, bờ dậu đến con sông, trường học. Cánh đồng xanh trải dài đến chân trời, những con đường nhỏ ngoằn ngoèo uốn khúc, cả những cọng đòng đòng ngọt lịm tôi ăn lúc chăn bò. Tất cả như nuôi lớn tâm hồn tôi. Mà ký ức tuổi thơ cũng thật lạ. Mình dù có vì công việc bộn bề mà quên mất thì nó lại ập đến trong mơ, lúc thì hình ảnh, lúc thì là một câu đồng dao nghịch ngợm khiến ta phải bật cười. Tôi thường nằm mơ, con người trong mơ là người của hiện tại nhưng cảnh trong mơ thì lại là cảnh vật của làng quê cũ. Năm tôi rời quê là năm tôi học lớp bốn. Ở cái tuổi lên mười ấy, tôi chưa ý thức được cái gì là quê hương, có chăng tình quê đã được hình thành trong tiềm thức…
Tôi học lớp một ở trường làng. Lên lớp hai thì lên trường xã. Từ nhà lên đến trường xã khoảng hai cây số. Đối với những bạn khác thì không sao, nhưng đối với tôi thì là cả một vấn đề to lớn. Tôi được mệnh danh là hạt mít vì quá nhỏ bé. Vào những ngày mưa phùn, đường đê đã trơn, trời lại thêm nhiều gió. Đến được trường, tôi ngã ít nhất thì cũng mười lần, có hôm còn bị thụt chân xuống hố. Những cái hố có gai xương rồng được đào sẵn bởi ý tưởng quái ác ám ảnh tôi. Có lần, tôi bị thụt xuống đó và phải quay trở về nhà trong nỗi khiếp sợ khôn nguôi. Hôm sau, mẹ tôi phải cõng tôi đi học. Người ta thường nhớ đến những gì đau đớn nhất và thơ mộng nhất. Tuổi thơ tôi đã được nếm trải hai thứ đó nên tôi rất nhớ quê. Tuổi thơ là niềm tự hào và cũng là nguồn nhựa ít ỏi còn lại để tôi vươn lên mỗi khi đuối sức. Lần này, tôi về quê với lý do thăm ông bà nhưng cũng là dịp để tôi nhìn lại tuổi thơ mình…
2.
Xe vừa dừng lại trước cửa nhà ông bà nội là tôi đã nhảy cẫng lên, nói cười rối rít. Bà nội mắng yêu tôi rằng lớn rồi còn cứ lon ton như trẻ con. Tôi nhìn ông bà nội bằng cặp mắt thương yêu rồi chạy tót ra sau vườn. Đằng sau vườn là con sông xưa kia tôi thường trốn ra đó tắm vào mỗi buổi trưa. Vườn của ông bà tôi, nay cây trái đã nhiều hơn xưa rất nhiều và cũng rộng hơn xưa. Chạy được một đoạn, tôi phải khựng lại vì một sự thay đổi lớn. Cái ao ở giữa vườn đã biến mất. Thay vào đó là những cây nhãn, cây vải thiều, cây bưởi Ôi, thế là dấu tích chết hụt của tôi đã bị che phủ. Cái ao đã được phun cát, thành đất tốt cho cây có quả trĩu cành. Cái ao đã không còn trong hiện thực, chỉ còn trong tâm tưởng mà thôi…
Ngày học lớp hai, thấy các chị họ tôi chèo thuyền trên ao, tôi cũng đòi leo lên cho bằng được. Không hiểu sao, cái thân bé loắt choắt của tôi vừa trèo lên, lập tức cái thuyền xiêu xiêu vẹo vẹo. Rồi nó xoay mòng mòng. Các chị họ của tôi cũng chỉ lớn hơn tôi chừng vài tuổi nên cũng không thể nào xoay xở được. Cầm cự được một lát thì chiếc thuyền lật úp trong tiếng kêu thất thanh của tụi tôi. Ở giữa ao mà được quậy nước thì cũng thật là thích. Tôi quơ chân quơ tay thỏa thích một hồi mới biết mình đã gặp tai họa. Nước cứ thế trào vào miệng, vào mũi, vào lỗ tai tôi và tôi nhận ra mình… không biết bơi. Từ trước đến giờ, tôi toàn bơi cây chuối. Mùa hè, ngày nào tôi cũng đập chân bì bõm, hai tay vịn cây chuối bơi khắp ao. Nhưng lần này thì không có cây chuối nên tôi đang chìm dần. Có lẽ là tôi sắp chết chìm. Tôi sợ nhất là bị chết đuối vì ý nghĩ: xuống địa ngục tôi sẽ bị ma vương dìm xuống nước mỗi ngày mười hai lần. Như thế thì dù cho nước có mát thật cũng chẳng thích thú gì. Ôi, tôi sắp chết
Bất chợt, có đôi tay rất khỏe túm ngang hông tôi rồi đưa tôi lên khỏi mặt nước. Đôi tay khỏe mạnh ấy xốc ngược tôi lên vai cho đầu tôi dốc xuống đất rồi chạy vòng quanh vườn. Thật lạ là lúc ấy tôi vẫn tỉnh. Tôi biết nước đang từ mũi, từ miệng mình trào ra. Nhưng mắt tôi vẫn nhắm nghiền. Tôi rất sợ nước vào mắt. Tôi thích bơi cây chuối cũng chỉ vì tôi sợ nước vào mắt, bơi cây chuối có thể ngước đầu lên và ngắm cảnh thoải mái. Khi đã thật sự biết mình ở trên bờ tôi mới từ từ mở mắt ra. Tai tôi nghe thấy tiếng hét của chị Lan. Chị Lan học chung lớp với tôi nên tôi toàn xưng hô là mày tao. Qua tiếng hét và những câu nói hấp tấp của chị, tôi biết anh Tuấn còn phải cứu một người nữa là chị Huệ. Tôi vô cùng ngạc nhiên là tại sao chị Huệ lại không biết bơi? Tôi cứ tưởng chị phải là người con gái bơi giỏi nhất làng vì chị là người cưỡi bò nhanh nhất trong lũ tụi tôi. Tôi thường xuyên chăn con bò của ông nội tôi. Con bò già chậm chạp, thế nhưng, tôi cưỡi lên mình nó và dùng roi quất thì nó lồng lên rất nhanh, nhanh không thua gì những con bò trẻ. Vào những ngày nghỉ hè, chúng tôi chăn bò từ sáng cho đến nhá nhem tối. Cứ đến chiều là cả lũ chúng tôi cưỡi bò từ cánh đồng về con đường cái rồi từ đường cái về đến đường làng. Người lớn khi thấy chúng tôi chỉ đưa tay lên dọa mà không đánh, cũng không mắng nên chúng tôi không bao giờ coi việc cưỡi bò là nguy hiểm cả, ngược lại chúng tôi còn coi đó là phần thưởng của một ngày chăm sóc gia súc. Tôi nhắc lại là trong cái nhóm lộn xộn ấy, chị ! Huệ luôn là người dẫn đầu, vậy mà
Anh Tuấn lặn hụp một hồi lại ngóc đầu lên. Anh ngóc đầu lên lần thứ hai thì tôi bắt đầu hét. Tôi hét rất to. Chị Lan thấy tôi hét to quá thì chị thôi hét mà mặt chị cứ tái dần đi. Chẳng lẽ chúng tôi đang sắp mất dần một người chị? Chị Minh – người lớn nhất trong hội chèo thuyền – nhảy lại xuống ao. Và tôi biết rằng, chính chị Minh đã cố bơi lên thật nhanh để đi gọi anh Tuấn đến cứu chúng tôi. Anh Tuấn ngóc đầu lên thấy chị Minh thì anh quát: "Mày có lên ngay không, tao dìm xuống nước bây giờ!". Chị Minh luống cuống nhưng vẫn không chịu lên. Trong bốn chị em trốn ra chèo thuyền, chị Minh là người lớn nhất nên chị phải chịu tránh nhiệm trước người lớn. Thấy chị Minh bị mắng, tôi càng hét to: "Chị Huệ ơi, ới chị Huệ ơi!". Chắc là nghe tôi hét to quá nên bác Mừng từ trong nhà chạy ra. Bác Mừng là bố của anh Tuấn, chị Minh, chị Huệ và chị Lan. Nhìn cảnh đứa nào cũng ướt như chuột lột và chiếc thuyền chỏng chơ ở giữa ao, bác hiểu ra sự tình nên hỏi anh Tuấn như quát:
- Còn thiếu đứa nào?
- Con Huệ.
- Cái ao cạn thế, sao mà mò mãi mà không thấy?
Cái ao này là ao để ông nội tôi nuôi cá, đổ đủ thứ phân và cỏ xuống cho cá ăn. Nhưng cách đây một năm, ông không nuôi nữa, nước dần dần trong. Và buổi trưa, chúng tôi thường trốn ra ngoài này nghịch nước. Ao không thông ra sông nên nếu chị Huệ chết, xác chị sẽ nổi lềnh bềnh trên mặt ao. Rồi sẽ lại có đám ma, có đám ma thì người lớn ai cũng buồn rầu và khó tính. Bọn nhóc tụi tôi mà cứ chạy loắng quắng là thế nào cũng bị ăn đòn. Nhưng cái chuyện bị ăn đòn đối với tôi bây giờ cũng không quan trọng. Cái quan trọng hơn hết với tôi lúc này là nếu chị Huệ biến mất, lúc tôi đi chăn bò sẽ không có ai lớn để bênh vực tôi. Bọn con trai trong làng thế nào cũng bắt nạt tôi cho bằng chết. Càng nghĩ, tôi càng không muốn chị Huệ chết một tí nào cả. Tôi lại càng gào to hơn. Bác cả Mừng nghe tôi gào càng nóng ruột nên quát tôi "Im đi!" rồi nhảy ùm xuống ao.
Bất chợt nghe "rắc" một tiếng ở góc ao. Đúng là tiếng cành cây gãy. Anh Tuấn phát hiện ra chị Huệ đang lúi húi trong lùm ổi xõa xuống ao. Anh tức giận lao tới lôi chị Huệ ra. Tôi và chị Lan ở trên bờ la hò: "Trốn tìm muôn năm!". Bác cả Mừng vừa vui vừa tức. Nhưng có lẽ bác bực nhiều hơn vui nên chị Huệ bị một trận đòn ra ngô ra khoai. Thì ra là lúc anh Tuấn đang lo cứu tôi và chị Lan thì chị Huệ đã thừa cơ trốn vào lùm ổi um tùm nhằm để hù dọa tụi tôi. Nào ngờ, bác cả Mừng lại xuất hiện nên chị run quá, làm lộ tung tích. Chị Minh nhờ vậy mà không bị "qui trách nhiệm" hay bị mắng gì cả. Người lớn ai cũng săm soi vào chị Huệ. Tôi tưởng chị Huệ buồn lắm. Ai ngờ hôm sau đi chăn bò, gặp tôi, chị hớn hở: "Thế là ai cũng phải lo cho chị nhé! Chị mà chết thì ai cũng phải khóc ròng".
Bây giờ thì cái ao không còn, cây ổi già cũng chẳng còn dấu vết. Tôi cảm thấy lòng mình nao nao đến lạ. Gần chỗ tôi đứng là cây vải thiều đã cho quả chín đỏ. Tôi quơ tay hái một trái, lột cái vỏ ấy ra, cùi bên trong trắng tinh mọng nước. Một mùi thơm quyến rũ đến nao lòng. Cắn một miếng, cái ngọt thanh vào đến tận cổ, lan tỏa khắp những ngóc ngách của sự yêu thương. Cứ như là trong trái vải thiều mọng đỏ này hội tụ tất cả những tinh hoa thanh khiết của con người và thiên nhiên. Tôi nhằn cái hạt đen bé xíu ra. Cái hạt đen óng ánh bé xinh như chiếc… răng của người thiếu nữ thời xưa. Thôi, sự đổi thay đôi khi cũng tốt. Chẳng phải nhờ cái vườn này mà ông bà tôi đã được sống cảnh no đủ, thoải mái đấy ư? Tôi theo lối mòn ra bờ sông. Gió thổi bồng tóc tôi, gió làm cho những cọng cỏ dưới chân tôi rì rào ca hát. Những chiếc lá sắc cứa nhẹ vào đôi bàn chân nhỏ bé của tôi. Nghe xót xót, thương yêu. Được làm một ngọn gió hiếm hoi giữa buổi trưa hè thì thật là hạnh phúc. Bây giờ, tôi mới thật sự cảm thấy được dư vị êm đềm của tuổi thơ tôi đã đi qua. Con sông quê hương trong tôi lúc nào cũng lăn tăn sóng, nhẹ nhàng cuốn những cụm bèo tím dập dờn trôi. Giờ tận mắt nhìn lại dòng sông xưa, tôi thấy nó như nhỏ lại rất nhiều. Thời gian trôi, dòng sông cũng khác và rồi tôi cũng khác. Gió vẫn e dè thổi vào những rặng cây mà tôi lại ngỡ gió thổi vào lòng tôi cho bớt trống.
Chợt tôi nghe tiếng bà nội gọi:
- Mây ơi, vào tắm rồi còn nghỉ ngơi chứ! Đi tàu xe xa thế mà không biết mệt à?
Tôi chạy trở vào nhà, chợt thấy thương ông bà đến lạ. Tôi là đứa cháu đầu tiên của ông bà. Thế mà vừa lớn lên là đã đi biền biệt. Ông bà có nhiều cháu, nhưng đứa nào ông bà cũng thương, đứa nào sống ở xa thì càng thương, càng nhớ nhiều hơn. Tình yêu thương của người lớn đối với những đứa trẻ như chúng tôi là vô bờ bến. Nhưng không phải đứa trẻ nào cũng cảm nhận được. Tôi chạy vào, bỏ lại những kỷ niệm ngọt ngào da diết cho khu vườn ôm trọn…
3.
Tôi về quê đã được gần nửa tháng, đến nhà ai trong làng, tôi cũng được đón tiếp vui vẻ, nồng hậu. Tôi cố ý tìm lại những người bạn xưa mà không gặp. Chỉ gặp toàn người lớn. Những người cỡ tuổi tôi đều đã có chồng hoặc vợ nên còn đang bận rộn ở ngoài đồng nhưng phần lớn là họ đã rơi quê đi lập nghiệp: đứa đi Quảng Ninh, Hải Phòng, đứa vào miền
Đang thả hồn theo những hồ sen tôi bị giật mình bởi tiếng gọi của một người phụ nữ lớn tuổi:
- Con Mây cháu bà Khuê phải không? Bác nghe cháu về đã mấy hôm nay. Vào đây chơi!
- Dạ!
Tôi bước vào nhà, lòng cảm thấy thương mến những người làng quê hiếu khách. Tôi được bác hỏi han đủ mọi chuyện, từ chuyện sức khỏe đến làm ăn của gia đình tôi ở Tây Ninh. Những nhận định của bác về người đi xa quê rồi quên cội nguồn làm cho tôi bối rối. Và cuối cùng, bác cũng nói về đứa con trai lớn của mình. Đó là anh Chinh. Anh là một trong những thanh niên hiếm hoi của làng tôi thi đậu vào trường đại học ở Hà Nội. Anh học rất giỏi nên có khả năng được trường giữ lại làm cán bộ khung. Vì vậy, bác than rằng rồi anh cũng sẽ bỏ làng mà đi như những thanh niên khác. Nói chuyện được hồi lâu thì anh Chinh đi làm đồng về. Tôi rất vui là tình cờ gặp lại anh trong chuyến "du ngoạn" vào buổi chiều này. Bác gái thấy chúng tôi hỏi chuyện nhau một cách sôi nổi thì bác bỏ xuống bếp nấu cơm. Bác bảo các cô cậu trẻ nói chuyện với nhau thì hợp hơn.
- Ngày em đi em còn bé xíu. Lúc đó, anh cũng chỉ mới học lớp bảy.
- Anh nhớ kỹ quá ha!
- Sao không kỹ cho được. Vì có lần ông nội anh bảo số anh mà lấy em thì vừa giàu vừa sang mà.
- Ừ! Nhưng lúc đó em có biết gì đâu. Cái tuổi còn cởi trần chạy theo quang gánh mẹ mà.
Ngày đó, vào mùa hè đứa trẻ con nào mà không thích ở trần. Mặc dù còn ở trần nhưng chúng tôi đã giỏi dang lắm. Tuy mới học lớp bốn nhưng lúc đó tôi đã biết đi gặt, nhổ mạ, bắt cua, bắt cào cào Hai chúng tôi thi nhau kể về những chuyện ngày xưa. Vào những đêm sáng trăng, chúng tôi chơi trò trốn tìm. Anh Chinh rất khỏe nên thường gánh tôi trong quang gánh để bọn kia không thể tìm thấy. Tôi thì rất thích chui vào những đống rơm đã được rút rỗng ra ở phía dưới. Sau khi giành nhau nói về những chuyện cũ, tôi đề nghị với anh ra ngoài chơi cho thoáng. Chúng tôi ngồi ở gần cầu ao, nơi có những đóa sen đang chớm nở. Điều gì đang hé mở cũng tạo ra một niềm tin tuyệt đối và một sức sống muốn tuôn trào. Thấy tôi cứ ngây ra trước hồ sen, anh Chinh nhìn tôi lạ lắm. Anh cười rồi bảo rằng:
- Người làng mình không ai yêu thiên nhiên giống như em đâu! Không ai dám bỏ ra hàng giờ để ngồi ngắm hoa sen cả.
- Thế họ yêu thiên nhiên như thế nào?
Tôi hỏi lại mà trong lòng giận lắm. Chẳng lẽ tôi không phải là người của làng này hay sao? Thấy tôi có vẻ mất hứng, anh Chinh giải thích:
- Người nông dân họ không ngồi ngây ra mà ngắm cái đẹp mà họ tạo ra cái đẹp. Và cái đẹp đối với họ cũng luôn đồng nhất với cái cần thiết. Làng mình gần đây không nuôi cá nữa mà trồng hoa sen cũng vì lợi ích của nó. Trồng hoa sen để lấy hạt bán cho Trung Quốc, giá rất cao.
- Vâng! Ngày trước em cũng đâu có thời gian mà rong ruổi như thế này. Ngoài giờ học ra là ở ngoài đồng.
Nói chuyện với anh Chinh, tuổi thơ về trong tôi rất gần. Như có thể sờ thấy được, nhìn thấy được nó ở ngay trước mắt mình. Những ngày hè có mưa, chúng tôi – gần như tất cả bọn trẻ trong làng – đều đi bắt cào cào. Chúng tôi mặc quần đùi, đầu trần, ôm cái ống bơ đã được đục sẵn một lỗ nhỏ, chạy ra cánh đồng. Trời mưa, cào cào ướt cánh rất dễ bắt. Chúng tôi chạy dọc theo những con đường nhiều cỏ. Cào cào thường trú ở trong cỏ, chúng lại đậu thành cặp nên bắt rất thích. Bắt cào cào cặp không cần dùng vỉ mà chỉ cần dùng tay chụp. Những cô cậu đã ở trong bơ thì thấy bóng tối nên cứ nhảy bồm bộp, nghe rất vui tai. Khi đã bắt được chừng trên lưng bơ thì chúng tôi bắt đầu la hét và nhảy nhót. Những trò chơi trong mưa được bày ra đến vô tận. Nào chơi ù, nhảy trồng chuối, chơi ti vi ti vít Tiếng sấm của trời cũng không thể làm át được tiếng hò hét của tụi tôi. Mỗi lần có chớp, chúng tôi còn hét to hơn: "Ông trời chụp ảnh tụi bay ơi!". Chúng tôi lúc nào cũng tin là ông trời chụp ảnh thật nên đứa nào cũng cười toe toét cho ảnh đẹp. Những đôi môi thâm tím hát những bài đồng dao theo nhịp độ hối hả của cuộc chơi:
Ti vi ti vít
Con vịt nằm trong
Con ong nằm ngoài
Củ khoai nằm giữa
Đốt lửa hai bên
Nhà trên đám cưới
Nhà dưới đám ma
Ù à ù ập
Chơi cho đến khi mệt đứt hơi, chúng tôi mới chạy về nhà. Có khi trên đường về nhà chúng tôi còn tắm sông cho đỡ lạnh. Trời mưa, nước dưới sông ấm hơn nước ở trên bờ. Trời thì một màu trắng xóa, đất thì mang màu xanh của lúa, nước sông thì đục những phù sa.
Về đến nhà, đứa nào không bị đánh vì đi lâu thì cũng bị mắng là không mặc áo. Người lớn hù dọa chúng tôi bằng cách kể những chuyện người bị sét đánh chết dưới mưa và những hồn ma bị chết oan bay vật vưởng khắp cánh đồng. Thế nhưng, chúng tôi cũng không thể bỏ được thói quen bắt cào cào và chơi dưới mưa. Cũng rất may là trẻ làng chúng tôi chẳng đứa nào chết vì sét đánh hay ma rượt. Chỉ có mỗi cái Cúc con bác Diệp là bị chết đuối vì đi bắt chem chép một mình ở một đoạn sông vắng…
Sẽ vô cùng thiếu sót nếu tôi không kể đến món cào cào. Cào cào đem ra nhặt sạch cánh, bẻ chân, rồi bỏ vào rang giòn với muối. Những con cào cào chín vàng ươm, giòn rụm ăn với cơm nóng mùa mưa thì hết ý, ăn kèm với canh mùng tơi hoặc lá dâm bụt non thì càng ngon. Những bữa cơm có cào cào, tôi có thể ăn được năm bát, bụng to hơn đầu.
Nghĩ đến tính ham ăn của mình, tôi bật cười. Anh Chinh cũng cười theo rồi anh nghiêm nghị nói:
- Đôi khi, tuổi thơ là một nguồn sức lực giúp cho con người vượt qua khó khăn trước mắt. Anh rất ít khi nghĩ về tuổi thơ, trừ khi anh sắp bị stress. Anh thoát khỏi tình trạng buồn rầu khi nghĩ rằng thuở nhỏ, mình chẳng có gì cả, sao mình vẫn có thể vui. Vậy bây giờ, mình đã có khá nhiều thứ, sao mình lại buồn rầu vì những chuyện không đâu.
- Chúng mình đi ra cánh đồng ngoài kia đi! Tôi lại đề nghị.
- Lỡ chiều em rồi thì phải chiều cho trót vậy. Không thôi em lại trách con trai miền Bắc không biết chiều phụ nữ bằng con trai miền
- Ráng đi! Tôi cười khanh khách Để khi nào em lấy chồng, em sẽ xin tiền chồng trả công cho anh.
Nghe tôi nói bằng cái giọng trong veo và kéo dài những âm tiết cuối thì anh cười, giọng cười trầm ấm mang hơi thở của tình thương mến.
Tôi tung tăng chạy trước. Chạy được một đoạn, tôi lại dừng lại ngắt hoa cỏ may. Hoa cỏ may to và tím khiến tôi rất thích thú. Đi được một đoạn, anh Chinh lại nhắc đến của tuổi thơ. Tôi ngạc nhiên nên hỏi anh:
- Anh có tâm sự phải không?
- Ừ! Anh trả lời mà không nhìn tôi. Đôi mắt sáng của anh nhìn xa xăm.
Tôi nhìn anh rồi nhìn cánh đồng đang còn trơ gốc rạ. Những người nông dân đang tát nước từ mương vào ruộng. Xa xa là những người đàn ông đang cày ruộng một cách kiên nhẫn. Nhìn cảnh vật rồi nhìn anh Chinh, tôi đã đoán ra được lý do vì sao anh cứ nhắc đi nhắc lại với tôi về nỗi nhớ thời thơ ấu. Phải, có lẽ khi con người xa quê, điểm tựa duy nhất của họ là nhớ về tuổi thơ để có thể sống tốt và sống cho xứng đáng. Và đôi khi, cũng chính nhờ cái tuổi thơ ấy mà người ta có thể bỏ tất cả những bộn bề công việc để có dịp quay lại nơi mình đã sinh ra.
Thấy anh Chinh vẫn im lặng tôi đành lên tiếng trước.
- Anh định ở lại Hà Nội phải không?
- Có lẽ! Có thể là vì công việc của anh.
Nếu nói về lý do để rời bỏ quê hương thì sẽ có vô vàn những lý do chính đáng. Anh học khoa tiếng Nhật. Cái ngôn ngữ ấy có thể giúp gì được cho cái làng quê nhỏ bé này? Nhưng nếu nghĩ thế thì cũng không đúng. Ngành nào nếu cần cũng có thể giúp cho quê hương ở những mức độ khác nhau. Ở đây, tôi không muốn đề cập đến những lý do, tôi muốn nói đến sự quyết định. Tôi hỏi anh:
- Anh đã quyết định rồi thì có gì để anh phải băn khoăn đến vậy?
- Anh đâu có băn khoăn. Anh chỉ cảm thấy như có một cái gì đó níu kéo. Mà đôi khi, mình cảm thấy gì chính mình cũng không biết rõ.
- Em muốn anh biết rằng em luôn nghĩ: con người phải biết chấp nhận những thay đổi. Sự thay đổi tích cực giúp cho con người tiến bộ. Còn nếu không biết chấp nhận sự thay đổi, con người sẽ bị cô lập hoặc đào thải.
Nghe tôi triết lý như vậy, anh Chinh cứ nhìn tôi chằm chằm. Anh mỉm cười, còn tôi thì cười khanh khách, phá vỡ không gian tĩnh lặng của buổi chiều ở một làng quê. Giọng cười của một cô gái mười chín tuổi như tôi có lẽ đã làm anh Chinh nhẹ nhàng. Chúng tôi là hai người bạn biết chia sẻ cùng nhau.
Tôi lại hồn nhiên chạy khắp những con đường nhỏ ngăn giữa ruộng này với ruộng kia. Tôi chạy nhảy như một đứa trẻ được rời sách vở đến với trò chơi trốn tìm…
4.
Tôi trở về ngôi nhà nhỏ bé của ông bà nội tôi cạnh đường đê và thật sự ngạc nhiên về đôi chân bị phồng rộp của mình. Đôi bàn chân bé nhỏ của tôi còn bị xước vì cỏ và những vết mẩn đỏ sưng lên vì kiến cắn. Tại sao thế này? Tôi hỏi một câu hỏi dư thừa mà tự bản thân mình cũng ý thức được. Đôi chân ngày xưa đã từng lội ruộng, nay lại mang những nét của một tiểu thư suốt ngày được mang hài? Tôi phải xức dầu cho đôi chân của mình vì một buổi chiều chạy nhảy thỏa thích mà không mang giày đó. Tôi cũng không còn ngạc nhiên nữa. Bàn chân tôi bé nhỏ, da chân thì mỏng và trắng hồng. Nó không đủ sức chịu được những vết cắn của bọn kiến vàng. Và tôi cũng biết rằng tôi không thể đạp đôi chân trần của mình trên đá sỏi.
Tôi cảm thấy rõ sự thay đổi của mình hiện nay so với ngày xưa. Đôi chân tôi ngày xưa đã từng lội dọc theo bờ ao để kéo vó. Tôi thường kéo vó vào buổi tối cùng với em trai của mình. Hai chị em tôi rất thích công việc này vì làm xong là có tép để ăn cơm. Tôi thì kéo vó còn em tôi thì xách đèn và đáp thính. Những con tép nhỏ rang lên đỏ như ớt, ăn rất thơm và ngon. Nghĩ cũng lạ là sau này, tôi được ăn rất nhiều những con tôm biển to, thế nhưng tôi cũng không thể nào quên được cái cảm giác ngon lành khi được ăn chính những con tôm, con tép mình bắt được.
Tôi về quê vào ngày mùa nên không thấy có ai đi kéo vó. Ai cũng lo phơi rơm phơi thóc, lo ra ruộng dận rạ và chuẩn bị ruộng, mạ cho một vụ mới. Sáng sớm, tôi còn đang loay hoay thì bà nội đã đi ra ruộng. Tôi làm vệ sinh cá nhân xong thì chạy ngay ra ruộng với bà. Ông bà nội tôi chỉ có hai sào ruộng ở gần nhà. Chạy qua con đê, vượt qua một bờ kênh nhỏ là đến ngay chỗ bà tôi đang đứng. Tôi xắn quần, nhảy xuống ruộng, cùng bà dận rạ. Mới làm việc được một lúc trời đã nắng lên. Tôi bắt đầu nheo nheo mắt. Bà nội để ý thấy thế thì nói như chửi:
- Về nhà đi! Con với cả cháu, đi làm đồng mà không đội nón.
Tôi bị mắng nên mặt phị ra. Bà tôi thấy thế thì cười mà bảo:
- Đi làm đồng thì người ta phải đội nón, chít khăn, mang xà cạp. Chứ ai lại như cháu: đầu trần, mặc quần tây, mặc áo tay ngắn thế kia.
- Thì có sao nào, miễn cháu làm được việc thôi chứ!
- Thôi về chơi một chút rồi nấu cơm cho bà. Ở đây một hồi, nắng gắt không khéo lại cảm.
Tôi nghe lời bà bước lên bờ, chợt cảm thấy lạc lõng. Mình mà có ở lại quê giúp bà chắc cũng không thể trở thành một cô gái siêng năng và cần cù được. Không khéo còn trở thành kẻ ăn không ngồi rồi cũng nên. Tôi nhìn bà nội. Mặc dù bà đội nón nhưng mắt bà vẫn nheo nheo vì nắng. Đôi chân trần của bà đạp lên những gốc rạ thẳng tắp theo những luống cày. Tôi nhìn bà rồi nhìn con đường dưới chân mình. Bất chợt, tôi hỏi:
- Bà ơi, sao nay trên đường và cánh đồng ít cào cào vậy?
- Trời nắng hạn, đến cỏ còn chết nói gì cào cào. Cỏ chết, cào cào lấy gì mà ăn. Vả lại, bây giờ, người ta phun thuốc sâu nhiều lắm. Cào cào từ từ rồi cũng chết hết cả thôi. Mà cháu hỏi cái giống ấy làm gì? Nó chỉ biết phá mạ với ăn lúa.
Cào cào để ăn mà bà!
- Ngày xưa nghèo, hiếm thịt cá thì người ta mới ăn cào cào, chứ nay có đầy đủ rồi, ai thèm ăn cào cào nữa.
Thế ra, bây giờ nếu tôi thèm một bữa cào cào rang muối cũng không thể có được. Mà thôi, thà cứ giữ cái vị ngon của bữa cơm cào cào ngày ấy làm kỷ niệm còn hơn bây giờ được ăn rồi cảm thấy không ngon lại tự trách mình.
Tôi quay trở về, đi ngược con nước đang chảy trong mương. Gần đây có cái trạm bơm. Nó cung cấp nước cho cả cánh đồng. Trạm bơm cũng là cái mốc ngăn chia làng tôi với làng Văn Nhuệ. Dẫn nước từ trạm bơm ra cánh đồng là hai bờ tường cao. Tôi đi dọc theo bờ tường ấy, lại nghĩ về cái thuở còn đi học. Chiều nào, đi học về chúng tôi cũng đi vòng theo lối này rồi không chịu đi trên đường mà lúc nào cũng lội xuống con mương nhỏ được bao bọc bởi hai bờ tường ấy. Đang trong dòng hồi tưởng, tôi chợt nghe có tiếng hát đồng dao lanh lảnh. Giọng của những đứa trẻ chừng mười tuổi bao giờ cũng trong veo. Tôi đi về phía có tiếng hát. Thì ra tụi nhỏ đang đánh chuyền. Giọng một bé gái cất lên:
Ốc nổi ổi xanh
Cây chanh có trái
Con gái có chồng
Đàn ông có vợ
Đàn bà có con
- Ý, mày chết rồi! Đến lượt tao. Hồi nãy tao đến bàn nào rồi nhỉ?
- Bàn ba. Có vậy mà cũng không nhớ.
Ba la ba lỉa
Ba tỉa cành sung
Ba rung cành đào
Ba vào bàn tư
Cứ thế, những bài đồng dao được luân hồi. Nghe chúng hát, tôi nhớ về những tháng ngày còn học ở quê. Ngôi trường cấp một của tôi nằm giữa cánh đồng lúa bao la nên xung quanh toàn là những con mương quanh năm nước chảy. Giờ ra chơi là những giây phút vô cùng vui nhộn của lũ học trò chung tôi. Bữa nào chúng tôi cũng giỡn cho đến khi mồ hôi mồ kê đầy người thì mới thôi. Nhưng lý thú nhất vẫn là những buổi chúng tôi lội qua con mương đến một gò đất cao. Nơi ấy, duy nhất chỉ có một căn nhà của Ủy ban nhân dân xã. Nhưng cái ủy ban ấy đóng cửa suốt ngày. Ở đây có một cây bàng lớn, tán lá rộng, vô cùng sum suê. Nó trở thành vương quốc của chúng tôi. Chúng tôi chơi đủ trò ở đó. Chúng tôi hay chơi trò đánh khăng. Muốn chơi trò này thì phải đào một cái lỗ nhỏ, có hai thanh gỗ, một lớn và một nhỏ. Thanh nhỏ để xuống lỗ mới đào và thanh lớn dùng để phát, đẩy thanh nhỏ đi xa. Thanh nhỏ bay càng xa thì người chơi càng được công nhận là mình chơi giỏi. Nếu ai thắng cuộc thì người đó được cõng vòng quanh sân. Khi chúng tôi chơi đánh khăng đã mệt thì chúng tôi chơi thả đỉa ba ba. Chúng tôi ngồi xuống và duỗi thẳng hai chân ra, rồi cùng nhau hát bài:
Thả đỉa ba ba
Chớ bắt đàn bà
Phải tội đàn ông
Cơm trắng như bông
Gạo tiền như muối
Đổ mắm đổ muối
Đổ chuối hạt tiêu
Đổ niêu cứt gà
Đổ phải nhà nào
Nhà ấy phải chịu
Thả đỉa ba ba
Khi chữ "ba" kết thúc ở chân người nào thì người ấy được rút một chân vào. Và cứ thế xoay vòng. Trò chơi kết thúc khi tất cả đều được đứng lên. Có khi chúng tôi ham chơi nên đã không nghe tiếng trống vào học. Đến khi thấy trường im lặng chạy về trường thì thế nào cũng bị thầy giáo đánh đòn…
Hồi ức về tuổi thơ làm cho tôi nảy ra ý định đến thăm lại trường cũ. Tôi trở về nhà lấy xe đạp. Tôi đạp xe trên con đê đầy ổ gà và nắng. Con đê cao và nhỏ, được mặc áo bằng rơm mới của ngày mùa. Có những đống rơm ủ trên triền đê chưa được phơi, bốc lên mùi ngai ngái. Rơm và ổ gà làm cho tôi chạy xe đạp mà cứ như là cưỡi ngựa. Tôi chạy một hồi mà sao vẫn chưa tới cái giếng làng. Tôi còn nhớ cái giếng là mốc của con đường dẫn đến khúc quẹo vào trường. Tôi cảm thấy mất tự tin vào trí nhớ của mình. Có một chị gánh quang gánh, đội nón đi qua. Tôi đánh bạo hỏi thăm:
- Đường từ đây đến trường còn xa không vậy chị?
- À, chỉ một đoạn nữa là tới.
- Dạ, em cảm ơn.
- Nghe giọng nói hình như em không phải người ở quê này.
- Em là người quê mình chứ. Chẳng qua là em đã rời quê lâu rồi. Nhìn chị sao quen quá!
Chị ta nhìn tôi ngạc nhiên, rồi mở chiếc nón lá trên đầu ra. Tôi nhận ra ngay đó là cái Tươi học chung với tôi hồi lớp bốn.
- Chị. Trời, là cái Tươi phải không?
- A! cái Mây đây mà! – Tươi reo lên, mắt ánh lên một niềm thú vị bất ngờ.
Chúng tôi ríu rít nói chuyện với nhau một hồi. Hỏi thăm về thầy cô cũ. Chuyện học hành làm ăn. Tươi tỏ ra mừng rỡ thật sự khi tôi nhắc đến tên các bạn trong lớp không sót một người. Tươi hiện đã có chồng và cũng đã có một con gái đầu lòng. Tôi bảo như vậy thì hạnh phúc quá rồi. Nó mỉm cười, nụ cười không được tươi cho lắm.
- Mây biết không, mình đã cố gắng học cho hết lớp mười hai, ngỡ mong được vào đại học để lên thành phố, được tự do. Nhưng ngặt nỗi, cái tài của mình thấp quá nên thi không đậu đành phải ở nhà lấy chồng.
Tươi bảo tôi chắc giờ đang học ở đại học, tôi bảo đang chờ kết quả thi. Tôi phải chịu học trễ một năm vì chuyển chỗ ở vào miền
Tươi im lặng một lúc rồi nói tiếp:
- Mây còn nhớ thằng Tiệp lớp mình hồi trước không?
- Nhớ chứ, sao?
- Nó bị điên rồi.
Tiệp là đứa con đầu lòng trong một gia đình hạnh phúc. Nhưng đến năm Tiệp học lớp ba thì mẹ nó chết vì sinh đôi. Hai đứa em sinh đôi của nó may mắn được cứu sống. Theo tục lệ khi chôn người mẹ người ta kẹp theo hai khúc cây chuối non vào hai bên nách. Bọn trẻ con chúng tôi thắc mắc thì được người lớn lý giải rằng: để cho người mẹ xuống dưới bớt cô đơn, sẽ không còn hiện về đòi con của mình. Tiệp học giỏi nhưng cũng là tay phá phách nhất lớp. Có lần Tiệp và một nhóm con trai trốn học đi tắm sông rồi vắt quần áo lên cây. Bọn con gái chúng tôi biết được, đã cho người lên cây lấy hết quần áo của bọn chúng đem về lớp. Khi tắm xong, chúng không có quần áo mặc thì cả lũ cứ đứng dưới nước mà la. Đến khi vào lớp, thầy giáo thấy lớp vắng nhiều thì đem ra điều tra. Sự việc vỡ lở, bọn thằng Tiệp bị cả lớp cười cho một trận nên thân. Hôm ấy, cả lũ bị phạt đứng nắng một buổi chiều.
Ngày tôi chuẩn bị vào
- Tiệp điên cách đây hai năm Giọng Tươi buồn buồn – Lý do vì sao thì mình cũng không rõ lắm. Chỉ biết Tiệp điên sau khi cha chết được vài tháng. Hai người em sinh đôi còn đổ thừa cho Tiệp tội giết cha.
- Có chuyện ấy thật sao?
- Ừ, cũng có thể là do hiểu lầm nhưng cũng có thể là do có ý vì muốn chiếm hết ruộng vườn mà cha Tiệp để lại. Nhưng có lẽ Tiệp điên vì mọi người sống với nó mà không còn tin tưởng ở nó. Tiệp còn bị người yêu bỏ rơi, cô ấy đã vội vã kết hôn với một chàng trai miền
Ở đời ai cũng có một nỗi đau, chẳng có nỗi đau nào giống nỗi đau nào. Có những nỗi đau mà người ta không thể vượt qua, nỗi đau bị đánh mất niềm tin đối với Tiệp thì thật sự to lớn đến nỗi nó phải điên loạn.
Tôi chia tay với Tươi trong sự tiếc nuối vì nó còn phải ra đồng làm việc. Nhìn bạn mình trưởng thành, tôi biết rằng mình đã lớn. Tôi không đến thăm Tiệp mà đạp xe đi thẳng đến trường. Lòng suy nghĩ miên man về một điều gì đó không thể định hình. Ngôi trường của tôi năm nào đã được tân trang và xây thêm nhiều phòng mới nhưng tôi vẫn nhận ra dãy phòng mà mình học trước đây. Khu đất trống ở giữa vẫn trồng hoa màu. Mùa hè trường vắng tanh. Những dãy phi lao nhìn tôi mỉm cười xào xạc
5.
Một buổi tối mùa hè nóng nực, ông nội trải chiếu ra ngoài sân rồi gọi tôi ra ngồi chơi cho mát. Những làn gió từ phía đồng ruộng thổi vào làm cho những cọng rơm va vào nhau sột soạt. Những cọng rơm vàng óng còn dính lại những hạt lúa lép. Những hạt lúa ấy nhìn tôi và hỏi rằng:
- Sao Mây không bay đi mà lại về đây với lúa lép làm gì? Chúng tôi biết Mây thích bay nhảy lắm, giống như những hạt lúa tròn căng mẩy vậy.
- Những hạt lúa tròn căng mẩy cũng muốn ở lại chứ!
- Không, Mây lầm rồi. Chỉ một số bị bắt buộc ở lại thì chúng mới ở lại để làm giống mà thôi. Còn lại, chúng được chở đến thành phố, bến cảng để xuất đi nước ngoài khi chúng đã thành hạt gạo trắng thơm. Chúng được cống hiến cho đời vẻ đẹp của mình còn chúng tôi thì không nên chúng tôi buồn lắm.
- Các bạn cũng có ích vậy! Tôi nói, không nhìn những hạt lúa lép mà nhìn những vì sao đang nhấp nháy trên trời Các bạn dính vào rơm để rơm dễ cháy. Các bạn làm phân để đất ruộng thêm màu mỡ.
- Biết thế, nhưng chúng tôi chẳng bao giờ được nhắc đến, thậm chí còn bị người đời coi khinh là đồ lúa lép vô tác dụng.
- Kệ họ, biết làm sao mà chiều hết người đời được. Họ có việc của họ, mình có việc của mình. Mình không có tài có sức thì mình sống bình lặng, không làm phiền ai là được rồi. Mình cho việc mình làm là tốt thì nó tốt. Lúa lép biết không, tôi cũng là một người bất tài. Tôi chỉ biết yêu ruộng đồng chứ không thể làm cho ruộng đồng xanh tốt được. Nhưng tôi sẽ làm việc khác, hoặc nếu không làm được tôi cũng sẽ là một công dân bình thường, không làm hại đến ai.
Nghe tôi nói vậy những hạt lúa lép chảy tràn nước mắt. Chúng khóc nức nở, chúng va chạm vào nhau, ôm nhau mà khóc. Rồi một hạt lúa lép nói với tôi:
- Cảm ơn Mây lắm lắm! Chúng tôi từ lâu cứ tủi phận mình là không giúp được cho đời nên chẳng dám nhìn ai. Bị bọn lúa chắc khiêu khích, nhạo báng, chúng tôi cũng phải cắn răng chịu đựng. Chúng tôi đã vô dụng, càng vô dụng hơn. Nay nhờ có Mây chỉ ra điều đáng sống thì chúng tôi vui sướng vô cùng. Hiểu ra được phận nào thì làm việc ấy. Chúng tôi vui mừng như loài hoa dại không mùi thơm cũng có thể tô điểm cho đời vậy. Thây kệ, đời có chê nhạo loài hoa dại thì hoa dại cũng vẫn nở, phải không Mây?
Tôi gật đầu rồi mỉm cười khích lệ. Những hạt lúa lép đã thôi khóc và cười rạng rỡ. Đâu đó, gió đưa đến một mùi thơm nồng nàn, ngai ngái của rơm mà tôi biết chắc rằng trong mùi thơm ấy có sự cộng hưởng của nhưng bông lúa lép.
Ông nội bảo: "Ông làm nhà ở ven sông này cho mát, mùa hè ở đây nóng lắm, nhưng người già sợ mùa đông hơn. Tôi nhìn ông nội. Ông tuy đã ngoài bảy mươi nhưng vẫn còn khỏe lắm. Sau mười năm ly biệt, tôi mới về thăm ông được một lần. Ông mừng nên bỏ cả việc đánh tổ tôm ở nhà chơi với tôi. Ông cười, đôi mắt sáng hằn những dấu chân chim:
- Ông vào miền
- Ông còn lạ gì đất miền
- Chuyện đó đã xưa lắm rồi. Bây giờ mọi thứ đã khang trang, đổi mới cả rồi.
- "Khang trang,đổi mới" ông cũng không đi. Bọn mày còn trẻ, bọn mày phải về thăm ông. Ngày trẻ ông đã đi khắp rồi nên già thì chỉ muốn ở nhà.
Nhắc lại thời tuổi trẻ, ông kể cho tôi nghe về cái chết của một người bạn lính. Hôm ấy hành quân đêm. Lúc được nghỉ giải lao, cậu bạn dựa vào ba lô mà ngủ. Lính ai chẳng thèm ngủ nên xét về tình thì thương mà xét về lý thì giận. Vì chiều cơn buồn ngủ mà cậu ta phải bỏ mạng giữa Trường Sơn.
- Sao chỉ ngủ thôi mà phải bỏ mạng hả ông?
- Anh ta vì ngủ quên nên không tiếp tục hành quân mà bị bỏ lại phía sau hàng ngũ. Khi toán hành quân đi được chừng hai cây số, điểm danh lại thì thấy mất một người. Cho người quay lại tìm thì xác của anh ta đã bẹp dí như cái bánh tráng. Cháu biết tại sao như vậy không? Vì xe chở vũ khí của mình bam đêm không bật đèn (sợ địch phát hiện) nên đã vô tình cán nát anh ta, hết xe này đến xe khác
Tôi kinh hoàng. Thời chiến, chỉ cần một sơ xuất nhỏ cũng có thể dẫn đến cái chết. Câu chuyện của ông bị cắt ngang bởi có chú Lộc và em Phương đến thăm. Chú Lộc bảo tôi:
- Lâu lắm mới có cháu gái về chơi. Nếu cháu muốn đi Hải Phòng thăm cô Thoa thì chú dẫn đi.
Tôi bằng lòng ngay. Được thăm lại tất cả người thân trong một gia đình lớn là điều hạnh phúc. Nói chuyện với chú Lộc một lúc, tôi vào chơi với em Phương. Em nằm ngửa mặt lên trời hát một bài đồng dao nghịch ngợm:
Thằng cuội ngồi gốc cây Đa
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời
Mẹ còn cưỡi ngựa đi mời ông trăng
Ông trăng mà lấy bà trăng
Đẻ ra con rắn thằn lằn cụt đuôi
Ông trăng bảo để mà nuôi
Bà trăng bảo để đem vùi xuống tro
Ông trăng bảo để mà kho
Bà trăng đập chết đem cho láng giềng
Tôi chơi với em Phương một lát rồi đi ngủ để dành sức cho ngày mai…
6.
Xe xích lô của hai chú cháu vừa trờ tới cổng nhà cô Thoa thì đã có hai thằng nhóc chạy ra. Hai đứa lấm lét nhìn tôi, thằng nhỏ nháy mắt tinh nghịch. Đến lượt cô Thoa chạy ra, vừa nhìn thấy tôi, cô đã mắng yêu:
- Mẹ bố cháu gái, lớn bằng tần này mới chịu về thăm quê.
Rồi cô nói huyên thuyên đủ thứ, cả chuyện bố tôi đã điện ra báo trước làm cô cứ hồi hộp chờ mãi. Cô còn nói sẽ vào thăm miền
Tắm xong, tôi cảm thấy lòng mình mở rộng đến vô cùng. Phía sau nhà cô tôi là một vùng đất trũng mọc đầy hoa dừa. Những bông hoa tạo thành một vùng tím hồng khiến tôi mê mẩn. Gió thổi về từ phía đồng trống mới gặt xong. Gió hắt vào thân thể nhỏ bé của tôi, một cảm giác thanh thản đến vô cùng. Nhưng chỉ một lát sau tôi đã khám phá ra một nơi còn tuyệt diệu hơn. Đó là cả một khung trời thơ mộng ở trước cửa nhà, chỉ cần đi qua con đường nhựa là có thể tha hồ thơ thẩn. Một khu đất trống để hoa mắc cỡ mọc đầy. Những bông hoa nhỏ xíu, dễ thương cứ đung đưa trong gió. Xa xa là một dãy núi, như thể chỉ một dãy núi đó thôi đã bao bọc cả một Thủy Nguyên nhỏ bé này.
Một làn khói đồng lan tỏa từ phía xa xa. Ở đây, người ta dùng than ong để nấu nướng nên họ đốt rơm ngay ở trên đồng ruộng của mình. Tôi đang thả hồn mình theo những làn khói tỏa, chợt có tiếng của em Cơ gọi tôi:
- Chị Mây, về chơi thả diều với em đi!
Thằng Cơ có gương mặt của một con búp bê xinh xắn. Ngày sinh nó, thoạt nhìn cô Thoa tưởng là một công chúa, mừng quýnh lên. Nào ngờ lại là một thằng cu. Nhìn cái miệng xinh xinh của nó, tôi cứ nghĩ nó là con gái. Tôi hỏi:
- Còn Thanh đâu?
- Anh Thanh đang nấu cơm. Chị em mình cứ đi thả diều đi. Nấu cơm là nhiệm vụ của anh ấy mà.
Con diều bé tí tẹo, chắc là nó tự làm lấy. Tôi và nó cứ lúi húi, loay hoay mãi mà con diều cũng không bay lên cao được. Bị các con diều khác vượt qua, thằng Cơ tức lắm, nó cứ hét ầm lên. Tôi cười ngặt nghẽo. Nó càng tức thả dây diều càng nhiều, con diều bị chùng, lao xuống một mái nhà ở gần đấy. Thằng nhỏ mắt mũi sụt xịt. Nó bảo tại tôi nên con diều mới bị tai nạn. Khiếp, con trai học lớp bốn rồi mà nhõng nhẽo hết biết! Nhìn cái bộ dạng của nó, tôi chịu không nổi, nên nổi máu anh hùng hứa vào nhà người ta lấy lại con diều.
Cánh cửa màu xanh khép hờ. Tôi đi vào, thấy cửa kính nhà trong cũng đóng, chắc có người ngủ trong nhà. Tôi tự tin đi thẳng ra đằng sau. Con diều nằm bẹp dí trên mái tôn, tôi chỉ cần leo lên cái bể nước là có thể với tới được. Nhưng cái bể nước lại cao. Thấy cái ghế đẩu ở gần đấy tôi liền lấy để làm bệ trèo lên. Lần này thì có cơ may, tôi tì tay lên thành bể, cố gắng hết sức mới trèo lên được, vừa lên được thì chân đạp vào cái ghế. Cái ghế đổ xuống sân xi măng tạo ra những âm thanh chói tai. Tôi nín thở, có tiếng động từ trong nhà. Một anh chàng vừa chạy ra vừa hỏi: "Ai, ai đó?". Nhìn thấy tôi đứng xớ rớ trên mặt bể, anh ta quát:
- Rình mò ăn trộm phải không?
- Người ta như vầy mà dám đổ thừa là ăn trộm. Ha, ỷ giàu nên ngon dữ, muốn đổ thừa cho ai ăn trộm cũng được chắc?
Trên khuôn mặt anh ta biểu lộ một chút ngạc nhiên khi nghe tôi nói giọng
- Giời, cái cô này vào nhà người ta phá phách còn lý sự cùn. Chứ cô không ăn trộm thì vào đây làm gì?
- Tôi vào lấy con diều của tôi. Tôi chỉ tay lên con diều, chắc bộ dạng tôi lúc đó xấu xí lắm nên anh ta cứ ôm bụng cười ngặt.
- Hí hí, ha ha
- Bộ anh là ngựa hay sao vậy? Anh có im đi không thì bảo.
- Cô đừng có mà giậm chân lên bể như vậy. Cái bể ấy cũ lắm rồi, nó mà sụp xuống thì cô chỉ có nước chết. Còn tôi thì tôi cứ cười đấy, lớn đầu như vậy mà không biết chơi diều.
Tự dưng bị cái anh chàng từ trên trời rơi xuống này sỉ nhục, tôi ức lắm. Tôi càng giận thằng Cơ đã đưa tôi vào chỗ chết. Trong bụng tôi thầm rủa anh chàng này là cái đồ… Bắc kỳ không biết ga-lăng, thấy con gái gặp nạn còn "mượn gió bẻ măng", chọc ghẹo người ta. Tôi thách thức:
- Có giỏi sao không lên lấy diều xuống cho người ta đi.
- Muốn tôi lên thì cô phải xuống chứ! Cả hai lên đó, sập bể chết cả đám à?
Làm sao mà xuống được bây giờ. Cái ghế đã đổ nằm chổng chơ dưới sân. Làm sao tôi có đủ can đảm để nhảy xuống. Tôi đành lên gân đánh liều:
- Thử anh vậy thôi, chứ tôi dư sức lấy được con diều ấy xuống. Cần gì phải nhờ tới anh!
Anh chàng bụm miệng cười bỏ vào nhà. Tôi càng tức. Con trai gì đâu mà đi chấp nhặt với một đứa con gái đẹp như tôi. Nhưng chỉ một phút sau, anh ta đã vác ra một cái nệm. Trời, bộ ông này điên rồi hay sao mà đem nệm ra sân ngủ vào lúc đang chiều thế này. Nhưng không hiểu sao, anh ta đem cái nệm đến dưới chân bể, ngay trước mặt tôi.
- Để cái nệm ở đây, lỡ cô ngã xuống khỏi gây ra án mạng trong đất nhà tôi.
- Trời!
Thấy cái nệm dày, tôi lao luôn xuống nằm vạ vì trái tim con gái "anh dũng" của tôi đã bị tổn thương.
- Chị Mây ơi, sao chị lâu quá vậy? Thằng Cơ chờ không được đẩy cổng chạy vào.
- Cơ, người này là ai vậy? Anh ta hỏi.
- Là chị của em ở miền
- À, thì ra vậy! Anh ta quay về phía tôi Thôi, tôi tạm tin cô không có ý đồ rình mò ăn trộm.
Nói rồi anh ta leo lên bể như một con mèo lấy con diều xuống, nhanh và điệu đàng như một nghệ sĩ hái hoa. Anh ta nhìn con diều rồi nói với thằng Cơ:
- Em làm diều sai quy tắc rồi. Cái cánh bên này sao lại to và dày hơn cánh bên kia? Làm vậy, con diều khi bay sẽ bị chao, không thể nào lên cao được.
- Có giỏi thì làm cho một con đi! Tôi lên tiếng.
Anh ta lại cười cười
Chị em tôi về nhà, tôi liền hỏi thằng Cơ:
- Anh ta tên gì mà sao đáng ghét vậy?
- Anh ấy tên Phương. Chị đừng ghét anh ấy, anh ấy là người tốt đó. Anh ấy học rất giỏi, thi một phát là đậu đại học Hà Nội đó. Thường ngày, anh ấy hay đến nhà mình dạy kèm anh Thanh học toán.
- Em ca ngợi người ta dữ quá ha! Nhưng chị còn phải chờ xem tình hình thế nào đã. Ở lâu mới biết lòng người mà.
Nghe tôi nói vậy thằng Cơ ra chiều không bằng lòng, nó thè lưỡi ra để chế nhạo tôi.
Chiều ngày hôm sau, khi ngủ trưa dậy, tôi nghe tiếng nói ồn ào ở nhà ngoài. Rửa mặt xong, tôi đi ra. Thì ra anh chàng "diều" đang nói chuyện với thằng Cơ và thằng Thanh. Tôi ra nói dóc với anh ta để trả thù cho cái lòng tự ái trẻ con của tôi bị tổn thương.
- Anh mang con diều mới sang cho chị em tôi phải không?
Anh ta cười không nói gì, thằng Cơ níu áo tôi:
- Chị, chị xem con điều này có tuyệt không?
- Của anh ta đấy hả?
- Vâng!
Thì ra cái anh chàng này cũng biết điệu gớm, quan tâm cả lời thách thức của tôi. Nhưng chắc anh này là dân thất nghiệp nên mới rảnh rang bỏ thời gian ra làm một con diều công phu như vậy.
- Em có muốn đi thả diều với tụi anh không?
Trời, cái ông này dám đến đây để dụ dỗ hai đứa em trai của tôi. Em của tôi chứ bộ là của ông ta hay sao mà ông dám xưng là "tụi anh"? Mà nếu tôi không đồng ý thì dám chắc một trăm phần trăm là tụi em tôi bỏ tôi ở nhà một mình.
- Sao lại không đi?
- A! Vậy chúng ta đi thôi.
Thằng Thanh bảo:
- Anh chị và em Cơ cứ đi trước. Em nấu cơm xong rồi sẽ đi sau.
Hôm nay là thứ bảy nên bãi thả diều rất đông. Phần lớn là những cặp vợ chồng trẻ ở thị trấn và thành phố dẫn con đi thả điều. Họ ngồi tâm sự với nhau, còn những cô cậu thì vô cùng thích thú với những con diều xanh đỏ rực rỡ. Con diều của chúng tôi màu xanh da trời, viền tím. Anh chàng làm diều này chắc cũng là dân lãng mạn nên mới có sự kết hợp bắt mắt tôi như thế. Sau những ngày miệt mài học tập, được sống với nhưng con diều như vầy thật là thú vị.
- Mây ở miền
- Thích lắm! Anh có biết cây me không?
- Anh có nghe nói.
- Nếu anh vào miền
- Em có vẻ yêu thích cây cỏ quá nhỉ?
- Dạ, loài cây nào cũng mang một tiếng nói riêng của mình.
Chúng tôi cứ nói chuyện với nhau như thế, cởi mở thân thiết với nhau lúc nào không biết. Anh hiện đang học đại học ở Hà Nội. Tôi chê anh học ngành Toán – Tin khô khan. Anh ghẹo tôi chọn ngành Văn chắc là ướt át lắm. Thế nhưng, chúng tôi nói chuyện với nhau cả buổi lại có vẻ rất hợp. Tôi hỏi anh về đời sống của sinh viên. Anh toàn kể những chuyện dở khóc dở cười mà thật sự lúc đó tôi chưa hiểu hết được.
Tôi ở Thủy Nguyên được hơn một tuần. Hầu như buổi chiều nào chúng tôi cũng gặp nhau. Hôm thì thả điều, hôm thì đi ra phà Bính ở sông Cấm chơi. Có lần, tôi và em Cơ đang thả diều thì anh đứng sát bên. Anh thả theo con diều của chúng tôi một tấm giấy nhỏ hình bầu dục. Anh bảo: "Gởi thư cho diều". Con diều đã nhận được thư rồi mà sao nó cứ làm ngơ. Anh còn bảo con gái cũng hay như vậy lắm, biết rồi mà cứ vờ như không biết. Tôi bảo tôi thì sẽ không như vậy. Tình cảm, suy nghĩ của tôi như thế nào thì tôi thể hiện ra như thế. Anh lại cười. Nước da ngăm đen và cái miệng rộng làm cho anh thêm có duyên. Chúng tôi thường ra bến phà vào buổi tối vì buổi tối mát mẻ và có đèn đêm của thành phố phản chiếu xuống dòng sông, trông rất tuyệt. Anh hay mang theo một túi mận. Vị mận chát chát, chua chua, ngọt ngọt làm tôi nhớ mãi. Mỗi lần cho tôi ăn mận, anh lại bảo khi anh vào miền
Ngày ở nhà, tôi không bao giờ dậy sớm, nhưng ở Thủy Nguyên này mà không dậy sớm thì thật uổng phí. Buổi sáng sớm, khi mặt trời lên, khung cảnh ở đây vô cùng thú vị. Mặt trời như một cái bánh tráng khổng lồ màu đỏ gạch từ từ nhô lên từ đỉnh núi. Không gian tĩnh lặng, những cây bạch đàn còn ngái ngủ. Tôi luôn bỡ ngỡ vì hạnh phúc lấy được từ cây cỏ. Trên một mảnh ruộng gần đấy, có hai cái cây chụm đầu vào nhau. Hai cái cây thưa thớt lá, nhìn chúng có vẻ vừa hạnh phúc vừa cô đơn. Nhìn từ xa, ta có cảm tưởng như chỉ có một cây đang chơi vơi giữa đồng ruộng. Sau khi đi tập thể dục buổi sáng về, anh Phương thấy tôi vẫn còn đứng ngắm hai cái cây giữa khoảng trống đầy hoa mắc cỡ ấy thì anh lên tiếng:
- Mây này, người hay mơ mộng như em thì sau này sẽ khổ đó!
- Anh trở thành thầy bói hồi nào vậy? Mà nếu sau này em có khổ vì mơ mộng thì em cũng không sợ đâu.
Nói xong tôi nhìn anh cười cười rồi bỏ vào nhà.
Buổi trưa, tôi chạy sang nhà anh, báo tin cho anh biết tôi đã đậu vào trường đai học mà tôi yêu thích và tôi sẽ phải trở về nhà trong tuần này để làm thủ tục nhập học và cũng vì vậy mà tôi sẽ phải trở về Hưng Yên trong ngày mai. Anh chúc mừng tôi, rồi ra ngoài sân đứng nhìn cái bể. Anh thẫn thờ nói một câu làm cho tôi phải nao lòng:
- Thế là cái ngày này cũng đến, nhưng không ngờ nó lại nhanh đến vậy.
Buổi chiều, anh chở tôi bằng chiếc xe đạp chạy vòng quanh thị trấn Thủy Nguyên bé xíu. Rồi anh chạy dọc con đường đê cao và nhỏ đến cheo leo. Một bên là dòng sông mênh mông và một bên là ruộng đồng và đồi núi. Một đám mây ngũ sắc trên trời đi theo chúng tôi. Đây là lần đầu tiên chúng tôi đi với nhau mà không có em Cơ. Tôi cảm thấy hơi ngại, còn anh thì thấy điều đó như là một điều của tự nhiên. Nhìn áo anh ướt đẫm mồ hôi, tôi thấy tội tội nên nói một câu dư thừa:
- Anh chở em đi xa vậy làm chi cho mệt!
- Anh biết em thích ngắm cảnh thiên nhiên nên muốn cho em biết hết cái thơ mộng và hoang dã của Thủy Nguyên này để khi xa, em sẽ luôn nhớ nó. Người ta không chỉ nhớ cảnh mà không nhớ người.
- Thế anh đưa em đi chơi là cũng có ý đồ à?
- Ừ!
- Thế anh không phải là người tốt à?
- Đâu ai đám nhận mình là người tốt đâu em. Trừ khi người đó là thần thánh.
- Vậy thì em là thánh thần! – Tôi vừa nói vừa cười, tôi cười chỉ để làm tan đi cái vẻ nghiêm nghị của anh.
Thế mà anh vẫn có vẻ buồn buồn lạ lẫm. Tôi không thích nghĩ rằng mình đã đem lại nỗi buồn trong anh. Chúng tôi im lặng. Nơi triền đê đầy những cỏ may và hoa dừa dại. Màu tím làm gió nổi dậy trong tôi
Lúc chuẩn bị hành lý cho tôi trở về, cô Thoa khóc như trẻ con. Tôi hơi bất ngờ trước tình cảm quyến luyến của cô đối với mình. Có lẽ cô khóc không phải chỉ vì tôi mà phần lớn vì cứ phải xa cách với bố tôi hoài. Tình anh em ruột thịt đôi khi bị lắng xuống do nỗi tất tả của gia đình riêng. Nhưng đến khi nó trỗi dậy thì khó lòng mà kìm chế được. Tôi lấy tay vỗ vỗ vào lưng cô an ủi:
- Cháu sẽ lại về thôi mà! Cả bố cháu nữa!
Cô nghe nhắc đến bố tôi thì nước mắt càng lã chã. Chú Lộc gắt:
- Thôi đi! Nước mắt đàn bà, chẳng được tích sự gì!
Thằng Cơ thấy mẹ khóc thì nó cũng mếu máo theo:
- Hè năm sau chị lại về chơi thả diều với em nha!
- Ừ! – Tôi hứa để chiều lòng em chứ thật ra tôi biết mình nói dối.
Chiếc xe ôm chuẩn bị nổ máy thì anh Phương chạy qua.
- Mây, em để quên lá thư của diều nè!
Tôi mỉm cười, nhận ra đó là mảnh giấy anh đã thả lên cùng với con diều hôm nọ. Xe chạy, bỏ lại những ánh nhìn luyến tiếc phía sau lưng
Khi đã ngồi yên trên xe đò, tôi dở mảnh giấy ra xem:
"Con diều bé bỏng của anh! Con diều đã cho anh điều mới mẻ và hạnh phúc trong mùa hè này. Anh mong hè nào cũng được như vậy. Còn nếu không được như vậy, thì anh mong diều luôn nhớ mãi có một mùa hè đẹp và thơ mộng nơi đồng cỏ mênh mông này. Còn anh, anh sẽ không bao giờ quên mình đã mắc nợ một con diều. Con diều đã cho anh cảm nhận được một thứ tình cảm trong sáng nhất…".
Xe đò vẫn chạy, bỏ lại phía sau đồng ruộng và núi đồi cùng với vùng trời Thủy Nguyên màu ngọc bích…
7.
Đêm cuối tháng, nền trời đen thăm thẳm ẩn hiện những vì sao nhấp nháy làm xao động lòng người. Tôi nằm trên gác, không sao chợp mắt được. Ngày mai tôi về nhà. Biết bao nhiêu điều mới lạ sau một tháng cách xa. Và rồi tôi hồi hộp vô cùng khi nghĩ đến mình sẽ được vào trường đại học mà tôi yêu thích. Tôi rồi sẽ trải qua cuộc sống của một sinh viên tỉnh lẻ vô cùng gian lao. Kiến thức là vô giá nên để đạt được một trình độ nhất định người ta phải trải qua biết bao khó nhọc thăng trầm. Tôi cứ nghĩ, nghĩ mãi từ chuyện này sang chuyện kia. Cái đầu bé nhỏ của tôi hiện ra rất nhiều hình ảnh. Những ngày vừa mới trôi qua này rồi đây cũng sẽ có một ý nghĩa vô cùng lớn lao trong cuộc đời tôi. Cả những khát khao trong cuộc sống cũng làm tôi suy nghĩ và so sánh. Trước ngưỡng cửa cuộc đời, ai mà chẳng bồi hồi, da diết tin yêu. Từ khuôn ngực phập phồng của tôi hiện lên một cây lúa tốt tươi. Hình ảnh ấy lại rất mờ, rất mờ
Thế nhưng, hình ảnh ấy lại từ từ đậm dần lên như một tình yêu ẩn giấu trong cuộc sống bề bộn, nay trỗi dậy, hiện ra thật rõ ràng trong tiềm thức. Tôi mặc chiếc áo mỏng màu xanh của lúa, chạy tung tăng trên con đường dày cỏ rất êm. Tôi chạy chân trần, cỏ hôn đôi bàn chân bé nhỏ của tôi. Một sự âu yếm ngọt ngào. Niềm hạnh phúc được âu yếm ấy tôi đã từng giấu giếm, nay lộ ra không hề được che phủ dù chỉ là được che bởi một lớp sương mù. Tôi chạy, rong chơi mãi rồi chợt dừng chân trước một cây lúa như một điềm báo trước, như sự linh cảm của tình ruột thịt bị chia rẽ, cách xa. Nhưng cây lúa đẹp đẽ ấy lại khiến tôi thèm muốn. Tôi đưa tay định tẽ cây lúa ấy ra để hưởng trọn hương vị ngọt ngào của đòng đòng thì bất chợt cây lúa lên tiếng:
- Đừng ăn ta, con yêu!
- Sao lúa lại gọi tôi bằng con?
- Con không nhận ra ta sao? Hãy nhìn lên tấm áo của mình, con đang mang một phần xương thịt của ta.
Tôi nhìn lại áo mình. Đúng là tôi đang mang một phần thân thể của người. Cây lúa nhìn tôi âu yếm nói:
- Cách đây mười chín năm, ta đã sinh ra con trên mảnh đất này. Ta đã cố sinh ra con bằng tất cả tình yêu của ta và của đất. Đó là một ngày đẹp trời. Con đã chào đời vào một buổi chiều tuyệt đẹp. Sự khởi đầu của con là sự kết thúc của ánh dương đầy kiêu hãnh. Con mang niềm khao khát của đêm và khát vọng của ánh sáng ban ngày. Bởi thế, niềm khao khát được yêu, được cống hiến sẽ luôn cháy mãi trong con. Nó sẽ là ngọn lửa sưởi ấm tâm hồn con lúc con cảm thấy mình cô đơn, băng giá và nó cũng có thể thiêu đốt con nếu con chẳng thể làm gì…
Con yêu, khi ta vừa mới sinh ra con, con đã nhìn ta và hỏi: "Tại sao con được sinh ra từ lúa?". Ta trả lời: "Vì cây lúa là sự khởi đầu kỳ diệu nhất"…
Cây lúa còn nói thêm rằng: "Con cứ đi đi, hãy đi đến nơi nào cần con và đến nơi nào con cần. Dù con ở chỗ nào ta cũng có thể đùm bọc và che chở cho con".
Chợt nghe có tiếng vọng của gió. Tôi tỉnh dậy, thấy mình đang ngủ trên giường, bên cạnh là bà nội tôi đang ngủ rất say. Tôi nhìn lại áo mình, đúng là tôi đang mặc chiếc áo màu xanh của lúa.
Như một điều đã được sắp đặt từ trước, hoàng hôn buông xuống và tôi đi. Tôi không biết rõ lòng mình lúc ấy, vừa luyến tiếc và vừa như rộn rã. Con đường phía trước đang chờ bước chân tôi. Chú Lộc chở tôi lên Hà Nội bằng chiếc xe Min-khờ. Tiếng nổ của chiếc xe khuấy động sự yên tĩnh của ruộng đồng, của những con mương trồng đầy những đóa sen hồng thắm. Xe chạy qua một cánh đồng. Tôi nhìn thấy cô Thư tôi đang cấy ở đấy. Tôi nói như hét:
- Cô Thư ơi, cháu đi đây!
Cô ngước lên nhìn tôi, đôi tay đầy bùn vẫy vẫy. Xe vẫn chạy, bỏ lại phía sau nụ cười của cô giữa ruộng đồng. Tôi bật khóc như một đứa trẻ vừa bị giật đi món quà mà nó yêu thích. Vậy mà trước đây chưa đầy mười lăm phút, tôi đã cười hớn hở khi chia tay với ông bà nội và xóm làng. Chú tôi cười khà khà: "Biết thương quê rồi hả cháu gái? Ở xa về nhìn cái cảnh lam lũ ruộng đồng này chỉ muốn dắt người thân đi". Tôi không biết mình có muốn rủ cô vào
Ngày cô Thư chưa có chồng, bố tôi có ý muốn cô tôi vào chỗ chúng tôi để sinh sống. Có lẽ cô cũng thích nhưng chờ hoài không thấy mẹ tôi điện ra nói gì nên cô lại thôi. Mẹ tôi không phải là người ích kỷ nhưng người sợ không đủ khả năng đùm bọc cho cô. Hoàn cảnh gia đình tôi lúc ấy rất khó khăn. Mẹ tôi sợ cô khổ rồi cô lại trách. Hôm được tin cô lấy chồng, bố tôi ngồi trầm tư. Bố rầu rầu nói một mình: "Thế là con nhỏ không thể thoát khỏi cảnh ruộng đồng". Mẹ tôi thì ngồi im, không nói một câu nào.
Buổi tối, tôi và chú ở lại nhà một người bà con ở Hà Nội. Năm giờ sáng ngày hôm sau, tôi lên tàu. Tiếng còi tàu không bao giờ làm cho tôi khóc. Nó như thúc giục, như kích thích trong tôi hình thành một nguồn khao khát mới…
Chị
Nhung dặn nó phải gọi mình bằng chị. Con trai nhỏ hơn con gái hai tuổi coi như là đồ em út, không thèm chấp. Nó biết mình bị coi là nhóc mà cứ lẽo đẽo theo chị hoài. Ở chỗ nào Nhung cũng cứ: "Chị cho em đi với chị là chỉ để cho vui, cho có người bên cạnh. Em đừng có mà mơ mộng hão huyền!". Lúc Nhung thấy nó có vẻ phục tùng mình thì cứ "Em lấy giúp chị" cái này; "em lấy giúp chị" cái kia… Nó bị sai nhưng xem chừng hí hửng lắm. Lúc nào cũng: "Em sẵn lòng" hoặc "Yes, madam!". Trong lòng nó nghĩ: chỉ cần chị ấy cho mình ở bên cạnh dù chỉ để cho vui cũng được.
Mặc dù bị Nhung chặn ngay từ đầu, nó vẫn không khỏi mơ mộng và tưởng tượng đến một ngày kia chị sẽ nhìn ra sự quan trọng của nó đối với chị. Rồi chị sẽ bớt mắng nó hơn, bớt "chị chị em em" hơn. Đi với chị, mặc dù bị sai nhưng nó vẫn lấy làm hãnh diện lắm. Được sánh vai cùng một người lớn hơn mình, có kinh nghiệm, lại hiểu biết mọi thứ thì còn gì vui sướng hơn? Nó biết chị rất hiểu nó. Mỗi lần có chuyện gì buồn, thấy nó ấp a ấp úng là chị biết ngay. Ai giống cái bọn con gái cùng lớp, chẳng hiểu biết gì mà còn ra mặt ta đây. Thấy cái mặt bọn con gái cùng lớp là nó đã thấy ghét. Con gái gì đâu mà kiêu căng, lại còn hay lên gân. Chỉ có chị Nhung là dễ thương nhất! Chị có trợn mắt nhíu mày, trông chị vẫn cứ có duyên như thường!
Chị Nhung lớn hơn nó hai tuổi nhưng học trước nó một lớp. Chỉ học trước một lớp thôi, nhưng chị có đủ kinh nghiệm để chỉ bảo nó trong học tập cũng như trong cuộc sống. Cả những vui buồn bất thường của nó chị cũng hiểu ngay. Ngày chị Hai nó làm đám hỏi, nó rất buồn. Nó cũng không hiểu tại sao nó buồn mặc dù trước đó nó rất vui khi biết chị mình tìm được người yêu chị. Nhưng đến khi làm lễ, nó lại phát sùng lên khi thấy anh rể tương lai đeo nhẫn cho chị Hai nó. Nó muốn chạy đến giựt cái nhẫn rồi vứt phăng đi, vứt cái vật sắp cướp chị Hai của nó ra khỏi mái ấm gia đình. Nó muốn vậy nhưng nó đã kìm chế được. Và cũng chính vì sự kìm chế đó mà nó buồn, cảm thấy tự ti cho cái thân phận làm em.
Nó nói những cảm giác đó với lũ bạn trai thì tụi này đã cười vào mặt nó: "Mày đúng là đồ con nít nhõng nhẽo, sợ chị Hai đi mất rồi thì không có ai thay tã cho mày à?". Nó càng điên lên, bèn than thở với mẹ. Mẹ nó bảo: "Chị con lớn thì phải lấy chồng chứ cản làm sao được". Chẳng ai hiểu nó, dù chỉ một tý bằng ngón tay út. Thế rồi, nó đến gặp chị Nhung, chị mới đi Vũng Tàu với lớp về. Chị thấy mặt nó ủ rũ thì chị trêu. Nhưng vừa nghe nó nói về điều ấy thì chị đã hiểu ngay và giải thích cho nó biết vì sao nó buồn. Chị Hai của mình, sống với mình từ bé đến lớn, lo cho mình đủ thứ, nay đương nhiên có người đến cướp chị của mình đi, ai mà không tức, không có một phút sợ mất hết tình cảm chị em vì một người khác họ. Rồi sau này chị mình còn phải khổ vì họ nữa chứ! Em buồn cũng là điều rất tự nhiên. Đó là sự biểu hiện của tình yêu thương xen lẫn tính ích kỷ. Em còn bé bỏng lắm nên mới thế, mà đàn ông thì bao giờ chả bé bỏng(!). Đối với người phụ nữ mà họ yêu thương thì họ lúc nào cũng chỉ như một đứa trẻ lớn tuổi.
Chị Nhung giải thích rất cặn kẽ về trường hợp của nó. Nó đã hiểu và không còn buồn nữa. Chị còn nói một câu mà nó rất tâm đắc: tình yêu thương thì phải biết hy sinh và nhường nhịn, và tình yêu thương thì chẳng vỡ mất bao giờ. Chị Hai của nhóc mà có lấy chồng đi nữa thì chị cũng không bao giờ đánh mất tình chị em ruột thịt.
Nghe chị nói, nó rất hài lòng, thầm cảm ơn trời đã cho nó gặp và quen được một người như chị Nhung. Càng ngày nó càng mến mộ chị nhiều hơn. Mà từ mến mộ chuyến sang một tình cảm khác cũng rất dễ.
Đã có mẫu người để thần tượng và mến mộ rồi nên ngày nào cũng phải gặp mặt những đứa bạn trong lớp thì thật chán. Cái lũ con gái học lớp mười hai chỉ biết chúi mũi vô học hành mà không biết ở ngoài đời đã xảy ra chuyện gì nữa. Vậy chứ hễ có nói thì tụi nó lại lên gân: năm cuối rồi phải học cho đến nơi đến chốn. Bọn chúng còn không biết mở mắt ra nhìn bọn con trai này đã trở thành những đấng mày râu như thế nào. Chẳng đứa nào được như chị Nhung. Chị đã là sinh viên, lại còn là sinh viên khoa du lịch nữa chứ, ăn nói có duyên và hoạt bát phải biết. Nó lại còn rất thích những lúc chị pha trò bắt chước một nhân vật kịch nào đó. Cho nên hễ cứ một tuần không được gặp chị thì nó lại cảm thấy thiếu thiếu thế nào ấy
Cái gì người ta thiếu thì người ta rất quý và khao khát có được. Mà thói đời cái gì quý thì hay sợ mất, cho nên chị Hai nó có chồng thì nó buồn chứ chị Nhung mà có chồng chắc là nó chết mất! Đối với nó thì chẳng ai có thể xứng với chị Nhung của nó được. Thế mà có lần chị đã kể:
- Nhóc biết không, có anh học năm tư khoa Pháp văn cứ theo chị hoài. Mà kể ra thì anh này cũng ngộ, mới gặp chị có một lần ở thư viện, anh ta đã tỏ ra là thân thiết lắm.
- Pháp chứ Mỹ em cũng không thèm!
- Em nói cái gì vậy? Người ta học Pháp văn là học tiếng Pháp, văn hóa Pháp. Những người học văn hóa Pháp rất lịch sự với phụ nữ.
Mọi lần, chị nói cái gì cũng hay, cái gì nghe cũng lọt mà sao nay chị kể đến cái anh chàng nọ thì nghe chói tai quá! Lại còn ánh mắt của chị nữa chứ! Trời ơi, thấy chết đi cho rồi, đôi mắt cứ long lanh, long lanh khi nhắc đến cái thằng cha đó. Nó nghĩ cuộc đời này sao mà lắm bể dâu. Chẳng lẽ cái ông từ trên trời rơi xuống ấy lại có thể chiếm mất tình cảm của nó đã gây dựng gần hai năm trời. Nó đâm lo lắng.
*
Lúc cầm tấm thiệp mời sinh nhật của nó, chị cứ nhìn nó đăm đăm.
- Nhóc này, em mời chị thì phải mời thiệp "cộng" chứ!
- Chị là chị, cộng với ai khác nữa để làm gì? Chị là một cộng với em là hai là được rồi!
- Nhóc này dám hỗn với chị nha! Nếu vậy, chị không đi sinh nhật nhóc nữa đâu.
Thật sự nó muốn khóc dễ sợ. Ước gì chị đừng gọi nó là nhóc nữa, chị bỏ cái chữ nhóc ấy đi, bảo nó nhảy vào lửa, nó cũng nhảy. Nhưng nó lại không dám nói điều ấy với chị. Sợ chị phát hiện ra, chị sẽ "xù" nó luôn. Nó cảm thấy rất buồn khi dạo này chị không còn rủ nó đi ăn kem như trước nữa. Mà hễ nó đến rủ chị thì chị lại bảo nó phải chú tâm vào học hành. Học thì từ từ học chứ làm gì dữ vậy? Mấy cái môn học bài, nó học một loáng là xong. Nó buồn, nhưng nó luôn hy vọng đêm sinh nhật nó sẽ gỡ lại tình thế. Mà chính nó cũng không hiểu được đó là tình thế gì
Sinh nhật nó sẽ được tổ chức một cách thật ấm cúng. Nó chỉ mời vài người bạn thân và chị. Nó hí ha hí hửng với việc tổ chức trò chơi chích bong bóng. Nó tự tay ghi từng mảnh giấy nhỏ. Trò này sẽ rất hấp dẫn đây. Những mảnh giấy ghi những câu vui vui như: "Bạn hãy cười ba mươi sáu kiểu", "Bạn hãy đi theo dáng đi của vịt bầu, sao cho mọi người trong bữa tiệc cùng cười", hoặc: "Bạn là người đẹp nhất nên bạn sẽ được trang điểm bằng bánh kem"… Nhưng trong số những mảnh giấy ấy, có một mảnh rất đặc biệt mà nó đã bỏ cẩn thận vào một trái bóng lớn nhất. Một mảnh giấy "biểu lộ tình yêu". Làm việc này có hơi mờ ám nhưng đó lại là dịp duy nhất. Người ta đã dạy cần phải biết nắm cơ hội khi nó đến. Trong ngày vui của nó chẳng lẽ chị Nhung lại nỡ mắng?
Các bạn đã đến đầy đủ, chỉ thiếu mỗi chị Nhung. Nó cứ đứng lên ngồi xuống, lòng nóng như lửa đốt. Chị chưa bao giờ hứa lèo với nó điều gì cả. Nhưng sao lần này chị lại đến trễ như vậy? Hay là chị bị xe đụng? Í ì, đừng có mà nghĩ bậy chứ cái đầu bã đậu! Các bạn đã bắt đầu hối thúc. Nó đã quyết tâm đợi thì phải đợi đến cùng. Thời gian dài như những dòng sông
Rồi chị cũng đến. Nó mừng quýnh lên nhưng rồi mặt chảy dài ra ngay tức khắc. Đi cùng với chị là một anh cao và ốm. Anh không đẹp trai nhưng xem ra thì rất đạo mạo. Anh đeo kính trắng, trông có vẻ rất trí thức. Nhưng dù anh ta có như thế nào đi nữa thì nó cũng không bao giờ muốn anh ta chen vào giữa nó và chị.
Anh chìa tay ra bắt tay với nó. Chị nhanh nhảu giới thiệu:
- Đây là anh Sơn, anh học khoa Pháp mà chị đã kể với em đó.
Thì ra là cái anh chàng phải gió này! – Nó nghĩ – Ước gì anh ta biến khỏi đây.
- Thôi, vào tiệc đi! – Chị tự nhiên như người trong nhà Chị xin lỗi đã để các em phải đợi.
Nó nhập tiệc mà như người mất hồn. Nó cứ nghĩ cái "ông tướng" này có gì hơn nó mà chị Nhung phải dẫn đến đây giới thiệu. Rồi nó lại nghĩ hay là chị Nhung muốn giới thiệu bạn trai cho nó biết để nó không còn mộng mơ gì nữa. Nhưng chị làm sao có thể biết được tình cảm của nó, tình cảm của nó, đến nó còn không biết nữa là.
Nó đang bồng bềnh với mớ suy nghĩ hỗn độn thì mọi người giục nó giật giọng:
- Chủ nhân, chích bong bóng trước đi!
- Đã thế thì cho tới luôn, nó nghĩ. Đến lượt mình tấn công rồi. Nhưng lạ thay, nó tìm mãi mà không thấy quả bóng to nhất đâu. Chắc nó đã bị xì hơi. Nó nhớ trái bóng đó màu đỏ, nhưng lại có đến ba trái bóng màu đỏ, biết làm sao đây? Chắc là trời không hỗ trợ người có "tà tâm". Đứng ngớ ra một hồi, nó chọn đại một trái màu đỏ. Trời! Quả là gậy ông đập lưng ông. "Bạn là người đẹp nhất đêm nay nên ". Nó bị trét bánh kem đầy mặt. Nhưng nó cũng rất vui vì thấy tất cả mọi người đều la hét vui vẻ. Cuộc vui do những trái bóng nổ ra vẫn kéo dài. Cho đến khi hắn bước lên. Không còn có gì trớ trêu hơn là hắn đã chích nhằm trái bong bóng mà nó đã dày công hy vọng. "Bạn hãy hôn người bạn khác phái mà bạn đã thầm yêu và kính trọng". Mọi người, ai cũng la hét ủng hộ, vỗ tay cổ vũ anh ta. Rồi anh ta cũng đứng lên, nhẹ nhàng tiến về phía chị. Chị Nhung đang đỏ mặt lên vì thẹn. Toàn thân nó như nổ tung, nó cũng không ngờ là nó lại có phản ứng mạnh đến thế. Khi hắn chuẩn bị hôn chị, mắt vui tươi nhìn mọi người tỏ vẻ nhã nhặn, nó làm bể cái ly.
Rồi như một thằng điên, nó quát:
- Cút khỏi đây! Tao cấm mày đụng vào chị ấy!
Cả phòng bàn tán xôn xao. Chị Nhung bỏ về cùng hắn ta, không thèm chào nó lấy một tiếng.
Kể từ hôm ấy, chị Nhung rất ít đến gặp nó. Chị nói chị không hề giận nó vì đó chỉ là hành động của một đứa em trai có tính khí bất thường. Nhưng thà chị giận nó còn hơn là chị nói như vậy. Chị cũng ít bông đùa với nó hơn và hình như chị cũng thường gặp anh Sơn nhiều hơn.
Thời gian trôi, nó vào đại học. Ai cũng bảo lớn lên thì người ta sẽ nghĩ khác về đối tượng mình. Nhận định đó không sai. Thế nhưng, những suy nghĩ tốt đẹp về chị thì không bao giờ mất đi trong nó. Giờ đây, nó đã nhìn những đứa con gái trong lớp bằng cặp mắt thiện cảm hơn. Trong số những người bạn gái cùng lớp, có người còn từng trải và trưởng thành hơn nó. Nó kể về chị với một vài người bạn, họ bảo: cứ xem đó là mối tình đầu.
Cho đến bây giờ, khi nhớ lại những kỷ niệm xưa, nó tự cười mình và nghĩ đến một vùng trời êm đềm, nơi có một người chị nó hằng kính trọng và yêu thương…
Hòn bi vỡ
Trân cầm ly rượu lên: "Xin chúc mừng thiên sứ tròn một tuổi và chúc mừng mày ". Trân nhìn thẳng vào mắt Thảo, cô không thể nào đoán được bạn đang nghĩ gì. Đôi mắt đen huyền của Thảo dường như không còn là đôi mắt thể hiện tâm hồn nữa, đã khác ánh mắt ngày xưa, không còn long lanh rực lửa thể hiện rõ rệt những điều mình yêu mình ghét nữa.
- Mày đừng bỏ lửng câu như thế! Cứ nói thẳng rằng tao sắp thoát được cục nợ và đang chuẩn bị cho một cuộc sống mới.
- Không phải là cuộc sống mới đâu! Hôn nhân có hạnh phúc phải là hôn nhân có tình yêu. Sao mày không một lần tin vào tình yêu và chờ đợi nó. Đó mới là sự đổi đời.
- Tao luôn có niềm tin chứ, tin thì tao mới dám bước một bước nữa. Mà sao mày cứ hay vặn vẹo! Là chuyện vui thì cứ xem là chuyện vui đi. Dù sao thì tao cũng lấy chồng và được cưới hỏi hẳn hoi.
Trân cảm thấy buồn cho Thảo. Thảo ơi, mày đã một lần lao vào hôn nhân không tình yêu. Sao bây giờ mày còn muốn thử vận may một lần nữa? Trân lắc lắc cái đầu, mình còn có thể nghĩ đúng về bạn được nữa không? Một cô gái mười tám tuổi chưa một lần xao động vì chuyện yêu đương, liệu lấy chồng có thể yêu chồng ngay được không trong khi tuổi của chồng gấp mình đến… ba lần.
- Tao nhớ ổng lắm! – Trân nhớ lại lời Thảo cách đây hai năm về trước – Tuy ổng đã quá tứ tuần nhưng nhiều khi như con nít, nhõng nhẽo cả với tao.
- Vậy thì tốt quá!
- Mặc dù không cưới hỏi nhưng ổng cũng đã chính thức đứng ra trả hết nợ cho nhà tao, chu cấp cho tao không thiếu một thứ gì.
Rồi Thảo có thai, định phá nhưng chồng ngăn cản. Đã là nghĩa vợ chồng thì một ngày cũng là tình nghĩa. Vậy mà, chẳng lẽ cả điều ấy, Thảo cũng không nghĩ đến. Hay còn vì một lý do nào khác nữa? Nghĩ đến đó Trân hỏi bạn:
- Thế còn ổng thì sao? Chẳng lẽ mày không một lời từ biệt?
- Hình con thì tao đã gửi sang cho ổng. Ổng chỉ biết gửi tiền về mà chẳng có một lời động viên. Lúc tao nhắn ổng về làm thủ tục để khai sinh cho cu Bin thì đợi mãi chẳng thấy. Thế là tao khai sinh nó không cha. Kể cũng buồn, nhưng thế đâm ra lại hay. Khỏi ràng buộc gì cả.
- Tao thì lại luôn mong rằng mày cứ ở nhà rồi sẽ gặp được người ưng ý. Hôn nhân không tình yêu thì cuộc sống khác nào địa ngục, lại khác biệt ngôn ngữ.
- Ở nhà thì có mà chết đói à?
- Mày sẽ đi làm.
- Ai sẽ nhận một người chưa có bằng tốt nghiệp vào làm. Mày nghĩ tao có thể đi làm mướn sao
Biết nói thế nào khi Thảo đã bị cuộc sống lệ thuộc chi phối. Trân cảm thấy nghẹn ngào khi biết chắc bạn mình không còn như xưa nữa. Làm sao có thể trở lại cái thuở học lớp bảy, hai đứa giang nắng đi bán kẹo cao su và thuốc lá, cái thuở có thể cặm cụi bào vỏ mì cả ngày chủ nhật để mua được cái áo trắng đi học, cái thuở mà bây giờ Trân nghĩ lại thì cảm thấy tự hào còn Thảo thì cảm thấy tủi hổ Đang miên man trong dòng suy nghĩ thì ba Thảo bất chợt xuất hiện. Ông vỗ vai Trân tỏ vẻ mừng rỡ:
- A Trân! – Giọng ông vang lên – Trong nhóm bạn cũ của con Thảo, gần cả chục đứa giờ chỉ còn lại có mình con. Thôi, vậy cũng được, có còn hơn không. Uống với bác một ly nào!
- Bác say rồi!
Trân nói mà không nhìn vào mặt bác. Cô sợ nỗi buồn của mình sẽ lây sang người cha tội nghiệp này. Từ trước đến giờ, Trân luôn quí trọng bác như cha. Bác đã trải qua bao thăng trầm khó nhọc để có được mái ấm này. Thế mà khi các con đã lớn, ông lại không thể nào kìm được bước chân của chúng. Ông phải chùn bước trước Thảo, nó luôn hỏi ông: ba có đảm đương được hết mọi chuyện không mà ngăn cản? Sự "đổi mới" và đồng tiền có thể chi phối được người cựu chiến binh mà Trân thầm kính trọng?
- Say mới sống thật được con ạ! Gặp con, bác nhớ lại thời bác còn chạy xe lôi. Cứ đến chiều là chở một lũ nhóc tụi con chạy dọc Bình Minh. Bác nhớ cái đứa hay đòi bác chạy về phía đồng rộng là con. Còn con quỷ Thảo cứ đòi lên thị xã ăn kem, coi hát. Nó cứ ganh tị sao bác hay chiều cháu. Bác cứ chạy dọc theo rẻo đồng rộng; đứa nào đòi bẻ bông súng, đòi tắm sông… bác cũng chiều hết!
- Ba đừng kể chuyện ngày xưa nữa có được không! – Thảo gắt.
- Ngày xưa cái gì! Mới ba, bốn năm chứ mấy Trân gắt lại Thảo.
Rồi nó cũng bất chợt giật mình. Mới có ba, bốn năm mà đã có bao nhiêu chuyện để kể, những chuyện đã hoàn toàn khác bây giờ, huống hồ gì với ba Thảo, chuyện chiến trường đã trở thành cổ tích
Bây giờ đứa nào cũng nghĩ đến chuyện mưu sinh. Mưu sinh thì thời nào chẳng có. Những đám bạn hồn nhiên, chơi vơi nhau bất cần vật chất rồi thì dần dần cũng phải rã tan. Đứa tiếp tục học đại học, đứa đi làm, đứa lêu lổng, đứa lấy chồng. Thảo cũng lấy chồng mà sao Trân cứ nghe đăng đắng. Thôi thì việc gì cũng có cái giá của nó
Trân nhìn ra phía cánh đồng nắng vàng như hoa mai. Liệu khi xa quê Thảo có còn nhớ màu nắng tuyệt diệu này? Gió thổi vào lồng lộng như những chiều nhóm bạn ngày xưa mắc võng ở hai cây điều trước nhà. Hai cây điều, bây giờ bị cưa mất một cây. Gốc cây cũ còn sống nên vẫn mọc ra những nhánh cho lá non, cây còn lại trổ ra những lá vàng hoe, cằn cọc.
- Trân này, tao biết mày buồn chuyện tao đi bước nữa, mà lại lấy chồng Đài Loan. Nhưng mày hãy tin đi! Rồi tao sẽ giàu có. Tao sẽ gửi tiền về cho cha mẹ, cu Bin và tiền cho các em tao ăn học.
- Các em? Trân chua xót nhìn Thảo – Em Trinh đã nghỉ học rồi! Mày gửi tiền về cho nó làm gì! Hãy để cho nó được hưởng niềm hạnh phúc của việc sống tự lập. Còn mày thì hãy thú nhận đi. Mày làm vậy chỉ vì bản thân mày.
Thảo níu áo Trân, ra hiệu cho bạn nói nhỏ lại. Mọi người trong bữa tiệc đã bắt đầu nhìn Trân xoi mói. Ở cái ấp này, chuyện lấy chồng Đài Loan khi chưa biết chồng ra sao, gia đình chồng như thế nào cũng đã là chuyện thường tình. Bạn ngăn Trân lại chỉ vì để cho bạn bớt xúc động, một điều không tốt cho một cuộc vui. Ở đây, ai cũng biết nó sắp lấy chồng và sẽ tổ chức ở thành phố. Thảo không suy nghĩ nhiều dù sao cũng có nhiều người đồng tình với cô. Có người còn cho rằng cô may mắn: "Gái có con mà lấy được trai tân ở nước ngoài". Thảo kéo ghế sát hơn về phía Trân:
- Bồ đừng suy nghĩ nhiều! Cứ tin rằng cuộc sống vợ chồng rồi sẽ phát sinh tình cảm. Nếu bồ ở hoàn cảnh mình, chắc bồ cũng làm vậy mà thôi. Còn cu Bin thì mình sẽ bảo bà ngoại nó lo cho nó không thiếu một thứ gì. Mình không quên thiên chức làm mẹ đâu mà bồ lo.
Trân vẫn định nói một điều gì đó nhưng lại thôi. Cũng đành, mỗi người một con đường
Bữa tiệc tàn, hai người bạn đi dạo trên đường mòn gần cánh đồng. Những cây lúa xanh rì sắp trổ đòng rì rào đón họ. Lần này, họ không đi dạo một mình. Trên tay Thảo là cu Bin đang bi bô có vẻ thích thú khi được đi chơi. Thằng bé mới có một tuổi đã sắp phải xa mẹ. Đôi mắt ngây thơ của nó thích thú nhìn những sự vật xung quanh. Thảo vừa đi vừa nói chuyện thân mật với Trân. Thảo cứ hỏi Trân mãi là nếu Thảo đi lâu quá thì liệu khi Thảo về nó có nhận ra mình không. Thằng bé chỉ nhớ hơi mẹ khi nó đói, còn những lúc khác nó cứ đeo bà ngoại. Thảo còn nói huyên thuyên đủ thứ, nhiều nhất là chuyện học ngôn ngữ nước ngoài, rồi lại hỏi Trân về chuyện phong tục tập quán. Thảo nói:
- Làm sinh viên như Trân, sau này ra trường chứ chưa chắc có việc làm. Rồi cũng phải sống thiếu thốn, khổ sở Hay là cứ như Thảo lấy đại một ông giàu có hay chồng nước ngoài để ông ta lo cho từ A đến Z, lại có cơ hội đến được một đất nước mới lạ
Mỗi lời Thảo nói cứ như dao cứa vào cổ Trân. Phía bên trong cổ, có cái gì đó như chặn lại khiến Trân không nói được một lời nào, thành ra Trân như một người ngoan ngoãn nghe theo lời bạn. Trân nhìn con hẻm gầy xiêu vẹo theo lằn cỏ mọc. Nó vẫn như ngày nào nhưng nay nó không còn là nhân chứng của những trò chơi tuổi thơ nữa. Những trò bắt cua, hái hoa súng, ăn trộm bí đỏ để nấu chè giữa đồng bằng rạ. Trò bắn cu li ấy ngày nay đã vỡ…
Tất cả đã vỡ thành trăm mảnh. Chúng lao vào Trân đau buốt, còn Thảo thì không nhìn thấy chúng. Đối với Thảo thì chúng không còn tồn tại trên cõi đời này. Trân nhìn con mương khô cạn với một cặp mắt vô hồn. Những cây hoa súng nằm quằn quại trên lớp bùn khô. Những chiếc lá của chúng mang một màu đỏ đau đáu…
N.T.H
– Hết –
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét