Thứ Hai, 4 tháng 11, 2013

Eragon 3P2.html

Chương 29: RỪNG ĐÁ

Tiếng reo hò vang lên từ đám đông.

Eragon đang ngồi trên một khán đài gỗ mà người lùn đã xây men theo đường chân lũy ở mặt ngoài Hang Bregan. Pháo đài nằm trên một bờ núi tròn của ngọn Thardûr, cao hơn một dặm bên trên thung lũng đặc sương mù, và từ trên đó có thể nhìn được nhiều dặm theo cả hai hướng, hoặc cho đến khi những đỉnh núi che khuất tầm nhìn. Giống như Tronjheim và những thành phố người lùn khác mà Eragon đã viếng thăm, Hang Bregan hoàn toàn được dựng lên bằng đá mỏ – trong trường hợp này, một loại đá hoa cương màu hung đỏ khoác lên vẻ ấm áp cho những căn phòng và hành lang bên trong. Cái hang là một công trình dày, vững chắc mọc cao năm tầng lên đến một tháp chuông mở, có đỉnh là một khối thủy tinh to ngang hai người lùn và được giữ bởi bốn gọng đá hoa cương kết nối với nhau tạo thành một chỏm đá nhọn. Khối thủy tinh, theo như Orik nói với Eragon, là một mẫu lớn hơn của những ngọn đèn không lửa của người lùn, và trong những dịp quan trọng hoặc khẩn cấp, có thể dùng nó để soi sáng toàn bộ thung lũng bằng ánh sáng màu vàng. Những người lùn gọi nó là Az Sindriznarrvel, hay Viên ngọc Sindri. Rất nhiều ngôi nhà phụ tụ tập quanh sườn cái hang, là nơi cư trú của những người phục vụ và chiến binh của Dûrgrimst Ingeitum, cùng với những công trình khác, như chuồng ngựa, xưởng rèn, và một nhà thờ dựng lên dành cho Morgothal, vị thần lửa của người lùn và là thần hộ mệnh của các thợ rèn. Bên dưới những bức tường cao, nhẵn nhụi của Hang ! Bregan là hàng tá những trang trại rải rác đó đây trong những khoảng rừng trống, những cuộn khói lững lờ trôi bên trên những ngôi nhà đá.

Và còn nhiều điều khác nữa, Orik đều đã chỉ và giải thích cho Eragon sau khi ba đứa trẻ lùn hộ tống nó vào đến sân trong của Hang Bregan, la hét "Argetlam!" với bất cứ ai trong tầm nghe. Orik đã đón mừng Eragon như một người anh em, rồi đưa nó đến nhà tắm và, khi nó đã sạch sẽ, ông lo liệu cho nó một cái áo choàng màu tía sẫm, với một vòng xuyến vàng để đeo vào lông mày.

Sau đó, Orik đã làm Eragon ngạc nhiên khi giới thiệu nó với Hvedra, một nữ người lùn có đôi mắt sáng, khuôn mặt tròn với bộ tóc dài, và hãnh diện tuyên bố rằng họ vừa mới làm đám cưới hai ngày trước. Trong khi Eragon bày tỏ sự ngạc nhiên và chúc mừng, Orik đứng đổi chân liên tục trước khi đáp lại, "Tôi đã rất đau lòng vì cậu không có ở đây để dự lễ, Eragon ạ. Tôi đã nhờ một pháp sư liên lạc với Nasuada, và tôi hỏi cô ta liệu có thể chuyển lời mời của tôi đến cậu và Saphira không, nhưng cô ta từ chối nói lại với cậu; cô ta sợ lời mời có thể khiến cậu xao nhãng nhiệm vụ sắp tới. Tôi không thể trách cô ta, nhưng tôi ước gì cuộc chiến này cho phép cậu dự đám cưới của chúng tôi, và chúng tôi dự đám cưới anh họ cậu, vì tất cả chúng ta giờ đều đã là họ hàng, theo luật pháp nếu không phải theo huyết thống."

Bằng giọng nặng nề, Hevdra nói, "Xin hãy coi tôi là họ hàng của cậu, thưa Khắc-tinh-của-Tà-thần. Miễn là khả năng của tôi cho phép, cậu sẽ luôn được đối đãi như người nhà ở Hang Bregan, và cậu có thể thỉnh cầu sự che chở của chúng tôi bất cứ khi nào cậu cần, cho dù kẻ săn lùng cậu là Galbatorix đi nữa."

Eragon cúi đầu, biết ơn vì đề nghị giúp đỡ của bà. "Bà thật tử tế." Rồi nó hỏi, "Nếu bà không phiền vì sự tò mò của tôi, tại sao bà và Orik lại chọn làm đám cưới vào thời điểm này?"

"Chúng tôi đã dự định sẽ thành thân mùa xuân này, nhưng…"

"Nhưng," Orik tiếp lời với vẻ cộc cằn, "đám Urgals tấn công Farthen Dûr, rồi Vua Hrothgar phái tôi đi dạo mát với cậu ở Ellesméra. Khi tôi trở lại đây và các gia đình trong tộc đã chấp thuận tôi làm grimstborith mới, chúng tôi nghĩ đã đến lúc làm trọn lời hứa hôn của chúng tôi và trở thành vợ chồng. Có khi chẳng ai trong chúng tôi sống được đến hết năm, vậy thì lần lữa mà làm gì?"

"Vậy là ông đã thực sự trở thành tộc trưởng," Eragon nói.

"Đúng. Chọn ra người lãnh đạo mới cho Dûrgrimst Ingeitum là một vụ gây nhiều tranh cãi – chúng tôi gặp phải nhiều khó khăn trong hơn một tuần – nhưng đến cuối cùng, hầu hết các gia tộc đều tán thành rằng tôi nên tiếp bước Vua Hrothgar mà kế vị ngài vì tôi là người thừa tự duy nhất mang tên ngài."

Lúc này Eragon đang ngồi cạnh Orik và Hvedra, ăn ngấu nghiến bánh mì và thịt cừu mà những người lùn đã mang tới và quan sát cuộc thi đấu diễn ra trước các khán đài. Đã là thông lệ, Orik nói, nếu một gia tộc người lùn có vàng thì họ sẽ tổ chức các cuộc chơi để giúp vui cho khách dự đám cưới. Gia tộc của Vua Horthgar rất giàu có, các cuộc chơi hiện giờ đều đã kéo dài được ba ngày và đã được lên lịch để tiếp tục thêm bốn ngày nữa. Cuộc chơi gồm nhiều nội dung: đấu vật, bắn cung, đấu kiếm, đọ sức, và nội dung đang diễn ra, là Ghastgar.

Từ hai đầu đối diện của một sân cỏ, hai người lùn trên lưng hai con Feldûnost trắng đang tiến về phía nhau. Hai con dê núi có sừng nhảy băng qua bãi cỏ, mỗi con bật xa hơn hai mươi thước. Người lùn ở bên phải có một cái mộc nhỏ cột bên tay trái nhưng không có vũ khí. Còn người lùn bên trái không có khiên, nhưng trong tay phải, ông ta giữ một ngọn giáo trong tư thế sẵn sàng để ném.

Eragon nín thở khi khoảng cách giữa hai con Feldûnost thu hẹp. Khi chúng còn cách nhau không tới chín thước, người lùn có cây giáo vung tay trong không trung và phóng ngọn giáo vào đối thủ. Người lùn kia không hề lấy khiên che chắn mà vươn tay ra và, với một sự khéo léo đáng kinh ngạc, chộp lấy cán giáo. Ông ta vung nó lên quá đầu. Đám đông tụ tập quanh trường đấu hò reo vang dội, cả Eragon cũng góp vào, vỗ tay nhiệt liệt.

"Quả đó khéo thật!" Orik kêu lên. Ông cười và nốc cạn vại rượu mật ong của mình, bộ giáp khoác ngoài bóng loáng của ông lấp lánh trong ánh sáng chiều tối. Ông đội một mũ sắt có gắn vàng, bạc, hồng ngọc, và trên ngón tay ông là năm chiếc nhẫn thiệt lớn. Trên hông ông là cây rìu vẫn luôn luôn hiện hữu. Hvedra còn được tô điểm lộng lẫy hơn, với những mảnh vải được thêu thùa trên bộ áo váy xa hoa của mình, những dây ngọc trai và vàng xoắn xuýt quanh cổ, và trong mái tóc bà là một chiếc lược ngà gắn một viên lục bảo to như ngón cái của Eragon.

Một hàng người lùn đứng và thổi một bộ tù và chạm trổ, âm thanh lanh lảnh vang vọng trong dãy núi. Rồi một người lùn to như một thùng rượu bước tới trước và, bằng tiếng Người lùn, tuyên bố người chiến thắng trong cuộc thi cuối cùng, cũng như đọc tên cặp đấu tiếp theo sẽ tranh tài trong môn Ghastgar.

Khi người điều khiển buổi lễ nói xong, Eragon cúi xuống và hỏi, "Bà có đi cùng chúng tôi đến Farthen Dûr không, Hvedra?"

Bà ta lắc đầu và cười rạng rỡ. "Tôi không thể. Tôi phải ở lại đây và lo công việc của Ingeitum trong lúc Orik đi vắng, như vậy lúc quay lại anh ấy sẽ không phải thấy chiến binh của mình chết đói còn vàng thì bị tiêu sạch."

Tủm tỉm cười, Orik đưa cái vại của mình ra cho một người phục vụ cách đó vài thước. Khi người lùn vội vã đi tới và rót thêm rượu vào vại từ một cái bình, Orik nói với Eragon với một vẻ hãnh diện rõ rệt, "Hvedra không nói khoác đâu. Cô ấy không chỉ là vợ tôi, cô ấy là… Chà, các cậu không có từ này. Cô ấy là grimstcarvloss của tộc Dûrgrimst Ingeitum. Grimstcarvloss nghĩa là… 'người giữ nhà,' 'người quản lý nhà.' Nhiệm vụ của cô ấy là đảm bảo rằng các gia đình trong tộc trả mức thuế đã thỏa thuận cho Hang Bregan, rằng các đàn thú của chúng tôi được đưa đến đúng cánh đồng và đúng thời điểm, kho thức ăn và ngũ cốc của chúng tôi không vơi đi quá mức, phụ nữ Ingeitum dệt đủ vải, chiến binh của chúng tôi được trang bị đầy đủ, thợ rèn luôn luôn có quặng để luyện thành sắt, và nói chung, đảm bảo rằng bộ tộc của chúng ta được trông nom tốt và sẽ thịnh vượng và phát đạt. Chúng tôi có một câu nói: một grimstcarvloss tốt có thể tạo dựng cả một bộ tộc –"

"Và một grimstcarvloss tồi có thể hủy diệt cả một bộ tộc," Hvedra nói.

Orik cười và siết tay bà. "Và Hvedra là người giỏi nhất trong các grimstcarlossn. Đấy không phải là một danh hiệu thừa kế. Cậu phải chứng minh cậu xứng đáng với nhiệm vụ nếu cậu muốn giữ nó. Cũng hiếm khi vợ của một grimstborith lại là một grimstcarvloss. Tôi thật may mắn nếu xét theo mặt này." Cúi đầu, ông ta và Hvedra cọ mũi vào nhau. Eragon liếc đi chỗ khác, cảm thấy cô đơn và lạc lõng. Ngả đầu ra, Orik làm một hơi rượu mật ong, rồi nói, "Có rất nhiều grimstcarvlossn nổi tiếng trong lịch sử chúng tôi. Người ta thường nói là đám tộc trưởng chúng tôi chỉ giỏi tuyên chiến với nhau và các grimstcarvlossn lại thích chúng tôi cứ đi mà cãi vã nhau để khỏi có thời gian can thiệp vào công việc của bộ tộc."

"Nào nào, Skilfz Delva," Hvedra quở. "Anh biết điều đó không đúng mà. Hay ít nhất là không đúng đối với chúng ta."

"Ừm," Orik nói, và chạm trán mình vào trán Hvedra. Họ cọ mũi với nhau lần nữa.

Eragon lại chú ý đến đám đông bên dưới khi họ bùng ra la ó và huýt sáo điên cuồng. Nó thấy một người lùn tham gia trong cuộc thi Ghastgar đã mất chiến ý và, vào phút cuối, ông ta giật con Feldûnost của mình sang một bên để rồi cố gắng chạy trốn khỏi đối phương. Người lùn có cây giáo truy đuổi liền hai vòng quanh trường đấu. Khi họ đã đủ gần nhau, ông ta đứng lên trên hai bàn đạp và phóng cây giáo ra, đâm trúng vào sau vai trái của ông lùn nhát gan. Người lùn đó hú lên, rơi khỏi lưng chiến mã và nằm nghiêng sang bên, ghì chặt lấy lưỡi giáo và cái cán đang găm vào thịt. Một người chữa trị nhào tới chỗ ông ta. Sau một lát, mọi người đều quay lưng lại quang cảnh đó.

Môi trên Orik cong lên phẫn nộ. "Ha! Gia đình hắn sẽ tốn nhiều năm mới tẩy sạch được vết nhơ hổ nhục của đứa con trai. Tôi rất tiếc vì cậu phải chứng kiến hành động đáng khinh này, Eragon ạ."

"Nhìn ai đó tự làm xấu mặt mình chẳng bao giờ là thú vị."

Ba người họ ngồi yên lặng suốt hai cuộc đấu tiếp theo, rồi Orik làm Eragon giật mình khi nắm lấy vai nó và hỏi, "Cậu có muốn thấy một khu rừng bằng đá không, Eragon?"

"Một thứ như thế không tồn tại, trừ khi là chạm khắc."

Orik lắc đầu, mắt lấp láy. "Không phải chạm khắc, và nó có tồn tại. Vậy tôi hỏi lại, cậu có muốn thấy một khu rừng bằng đá không?"

"Nếu ông không giỡn… có, tôi muốn."

"A, tôi mừng là cậu chấp thuận. Tôi không giỡn, và tôi hứa với cậu là ngày mai cậu và tôi sẽ tản bộ giữa rừng cây bằng đá hoa cương. Đó là một trong những kỳ quan của rặng núi Beor. Mọi vị khách của Dûrgrimst Ingeitum đều nên có dịp đến thăm nơi đó."

☻ ☻ ☻

Sáng hôm sau, Eragon ngồi dậy trên cái giường nhỏ quá khổ trong căn phòng đá trần thấp, cùng những đồ đạc có kích cỡ chỉ bằng nửa bình thường. Nó rửa mặt trong một chậu nước lạnh, và, trái lệ thường, nó nới rộng tầm ý thức về phía Saphira. Nó chỉ cảm nhận được tâm tưởng của những người lùn cùng những con thú bên trong và xung quanh cái hang. Nản chí, Eragon cúi ra trước, nắm lấy vành cái chậu, kiệt quệ vì cảm giác bị cách ly. Nó giữ nguyên tư thế đó, không thể cử động hay suy nghĩ, cho đến khi tầm nhìn của nó hóa thành đỏ thẫm với những đốm sáng nhấp nháy trôi nổi trước mắt. Hổn hển, nó thở ra và lại hít vào thật sâu.

Mình nhớ ả suốt hành trình từ Helgrind, nó nghĩ, nhưng ít nhất mình biết là mình đang trở lại với ả nhanh nhất có thể. Còn giờ đây mình đang rời xa khỏi ả, và mình không biết khi nào mới lại được đoàn tụ.

Giũ mình, nó mặc quần áo rồi tìm đường xuyên qua những hành lang xoắn ốc của Hang Bregan, cúi đầu với những người lùn mà nó đi ngang, và họ chào nó bằng cách lặp lại "Argelam!" một cách hồ hởi.

Nó thấy Orik và mười hai người lùn khác ở sân trong của cái hang, đang đóng yên cho một hàng ngựa nhỏ, hơi thở của chúng sinh ra những cụm khói trắng trong không khí lạnh. Eragon thấy mình như một ông khổng lồ khi những người đàn ông thấp lùn vạm vỡ di chuyển quanh nó.

Orik đón chào nó. "Chúng tôi có một con lừa trong chuồng ngựa, nếu cậu muốn cưỡi."

"Không, tôi sẽ đi bộ, nếu các ông không thấy vấn đề gì."

Orik nhún vai. "Tùy ý cậu."

Khi họ đã sẵn sàng khởi hành, Hvedra bước xuống những bậc thang rộng bằng đá dẫn từ cổng vào đến đại sảnh của Hang Bregan, váy của bà ta lê dài phía sau, và đưa cho Orik một cái tù và bằng ngà phủ vàng kim bao quanh hai đầu. Bà nói, "Cái này của cha em khi ông đi cùng Grimstborith Aldhrim. Em đưa nó cho anh để anh có thể nhớ đến em trong những ngày sắp tới." Bà nói nhiều điều nữa bằng tiếng Người lùn, nhỏ nhẹ đến mức Eragon không thể nghe thấy, rồi bà ta và Orik chạm trán vào nhau. Ngồi thẳng lại trên yên, Orik đưa tù và lên môi và thổi. Một âm thanh trầm và mạnh mẽ vang lên, âm lượng tăng dần cho đến khi không khí bên trong khoảng sân dường như rung động như một chiếc dây thừng bị gió đưa đẩy. Một đôi quạ đen bay ra từ ngọn tháp bên trên, kêu vang. Tiếng tù và làm máu Eragon rộn lên. Nó cựa quậy, hăm hở muốn rời đi.

Nâng cái tù và lên quá đầu và với một cái nhìn cuối cùng dành cho Hvedra, Orik thúc con ngựa tiến tới, đi nước kiệu ra khỏi cổng chính của Hang Bregan, rồi ngoặt sang hướng đông, về phía đầu thung lũng. Eragon và mười hai người lùn kia theo sát phía sau.

Trong ba giờ, họ đi theo một lối mòn kéo dài ngang qua sườn núi Thardûr, trèo lên cao hơn bao giờ hết bên trên lòng thung lũng. Những người lùn cố điều khiển những con ngựa nhanh nhất có thể mà không làm chúng bị đau, nhưng tốc độ của chúng vẫn là rất nhỏ so với Eragon nếu nó được chạy thoải mái. Dù phát nản, Eragon vẫn không phàn nàn gì, vì nó nhận ra ngoài thần tiên và Kull, nó không thể tránh được việc phải đi chậm lại với tất cả các sinh vật khác.

Nó rùng mình và kéo cái áo khoác vào sát hơn. Mặt trời vẫn chưa xuất hiện trên rặng Beor, và một cái lạnh ẩm ướt lan tỏa khắp thung lũng, cho dù chỉ còn vài giờ nữa là đến giữa trưa.

Rồi họ lên đến một dải đá hoa cương bằng phẳng rộng hơn ba trăm thước, viền bên phải tiếp giáp với một vách nghiêng của những cái cột đá thiên tạo hình bát giác. Màn sương mù lay động che khuất đầu kia của dải đá.

Orik đưa một tay lên nói, "Nhìn đi, Az Knurldrâthn đó."

Eragon cau mày. Chăm chú hết sức, nhưng nó không nhìn ra cái gì đáng chú ý ở nơi cằn cỗi đó. "Tôi không thấy rừng đá nào cả."

Trèo xuống ngựa, Orik đưa dây cương cho một người lính đằng sau và nói, "Đi bộ với tôi nếu cậu không phiền, Eragon."

Cùng nhau họ bước về phía đám sương mù xoáy cuộn, Eragon thu ngắn bước chân cho ngang với Orik. Sương mù lướt qua mặt Eragon, mát lạnh và ẩm ướt. Hơi nước trở nên dày đặc đến mức che khuất toàn bộ phần thung lũng còn lại, bao bọc chúng trong một khung cảnh màu xám buồn tẻ, ở đó mọi chỗ đều y hệt nhau chẳng có gì phân biệt. Không e dè, Orik bước tới với dáng đi tự tin. Eragon, tuy vậy, cảm thấy mất phương hướng và hơi lảo đảo, và nó đi với một tay đưa ra trước mặt, đề phòng trường hợp húc phải bất cứ thứ gì ẩn nấp sau làn sương mù.

Orik dừng lại ở rìa một vết nứt mảnh làm hư hại bề mặt đá hoa cương mà họ đang đứng ở trên và nói, "Giờ cậu thấy gì?"

Nheo mắt, Eragon đảo nhìn tới lui, nhưng sương mù vẫn có vẻ đơn điệu như trước. Nó mở miệng định nói nhưng rồi để ý thấy một điểm hơi khác biệt trong màn sương về phía bên phải, một khuôn mẫu mờ nhạt của ánh sáng và bóng tối vẫn giữ nguyên dạng ngay cả khi sương mù trôi qua. Nó chợt nhận ra những vùng khác nữa cũng tĩnh tại: những mảng tương phản lạ thường và trừu tượng, không tạo thành thứ gì có thể nhận ra được cả.

"Tôi không…," nó bắt đầu nói khi một cơn gió nhẹ làm lay động tóc nó. Dưới sự khích lệ nhẹ nhàng của làn gió, sương mù mỏng đi và những kết cấu rời rạc của bóng tối tan ra tạo thành thân của những cái cây lớn màu tro với những cành nhánh trần trụi và nứt vỡ. Hàng tá những cái cây như thế vây bọc nó và Orik, những bộ xương nhợt nhạt của một khu rừng cổ xưa. Eragon ấn lòng bàn tay lên một thân cây. Vỏ cây lạnh và cứng như đá cuội. Những mảng địa y xanh xao bám lấy bề mặt cái cây. Eragon thấy gai gai phía sau gáy. Dù nó không cho là mình mê tín quá mức, nhưng màn sương ma quái và thứ ánh sáng chập chờn kỳ dị và bề ngoài của chính những cái cây – dữ dằn, xúi quẩy và huyền bí – kích phát một tia sợ hãi trong nó.

Nó liếm môi và hỏi, "Làm sao lại thành ra thế này?"

Orik nhún vai. "Vài người cho rằng Gûntera đã đặt chúng ở đây khi người sáng tạo ra Alagaësia từ cõi hư không. Một số khác lại cho là Helzvog đã tạo ra chúng, vì đá là nguyên tố ưa thích của ngài, và chẳng lẽ vị thần của đá lại không có những cái cây bằng đá trong vườn của mình? Vẫn có những người khác nói không phải, rằng những cái cây này đã từng giống như bao cây cối khác, nhưng một thảm họa ghê gớm từ xa xưa đã chôn vùi chúng vào lòng đất, và trải qua thời gian, gỗ biến thành đất, và đất biến thành đá."

"Lẽ nào lại như thế?"

"Chỉ có chúa mới biết chắc. Còn ai khác ngoài họ có thể hy vọng hiểu được những điều tại sao hay thế nào của vạn vật?" Orik dời chỗ. "Tổ tiên của chúng tôi đã tìm ra những cái cây đầu tiên trong khi đang khai thác đá hoa cương ở đây, hơn ngàn năm trước rồi. Hvalmar Lackhand, sau này trở thành grimstborith của Dûrgrimst Ingeitum, đã ngừng việc khai thác và bảo những thợ xây của mình đục những cái cây ra khỏi đá bao xung quanh. Khi họ đã tách ra được gần năm chục cây, Hvalmar nhận ra có thể có hàng trăm, hoặc hàng ngàn những cái cây đá bị chôn vùi trong sườn Núi Thardûr, cho nên ông ta ra lệnh cho người của mình ngừng công việc lại. Nơi này, tuy vậy, đã thu hút trí tưởng tượng của chủng tộc chúng tôi và kể từ đó, knurlan từ mọi tộc đã tới đây và lao động để tách thêm nhiều cây khác ra khỏi lớp đá hoa cương. Thậm chí có những knurlan đã cống hiến cả đời cho công tác này. Việc gửi mấy đứa con cháu quậy phá xuống đây đục ra một hay hai cái cây dưới sự giám sát của một thợ cả cũng đã trở thành truyền thống rồi."

"Nghe tẻ nhạt quá."

"Việc đó cho chúng thời gian để ăn năn về lề thói của mình." Dùng một tay, Orik vuốt ve bộ râu bện của mình. "Chính tôi đã phải tiêu vài tháng ở đây hồi tôi còn là một thằng cứng đầu cứng cổ ở tuổi bốn mươi ba."

"Thế ông có ăn năn về lề thói của mình không?"

"Eta. Không. Nó quá là… tẻ nhạt. Sau tất cả những tuần đó, tôi chỉ lôi ra được một cái cành từ phần đá hoa cương, cho nên tôi bỏ trốn và tình cờ gặp một nhóm Vrenshrrgn –"

"Những người lùn của tộc Vrenshrrgn?"

"Đúng, knurlagn của tộc Vreshrrgn, Sói Chiến, Sói Chiến tranh, hay bất cứ từ gì cậu có thể dùng trong ngôn ngữ này. Tôi tình cờ gặp họ, rồi say sưa bia rượu, và khi họ đi săn Nagran, tôi quyết định mình cũng nên giết một con lợn rừng và mang đến cho Vua Hrothgar để làm nguôi cơn giận của ngài đối với tôi. Đó không phải điều khôn ngoan nhất tôi đã làm. Kể cả những chiến binh lão luyện nhất cũng ngại săn Nagran, mà tôi vẫn còn giống thiếu niên hơn là đàn ông. Khi đã thấu hiểu, tôi nguyền rủa sự ngu ngốc của bản thân, nhưng tôi đã thề là tôi sẽ làm, nên tôi không còn lựa chọn nào khác hơn là thực hiện lời thề."

Khi Orik ngừng, Eragon hỏi, "Chuyện gì đã xảy ra?"

"À, tôi giết một con Nagra, với giúp đỡ từ Vrenshrrgn, nhưng con lợn rừng đã húc vào vai tôi và tung tôi lên cành một cây gần đó. Nhóm Vrenshrrgn đã phải vác cả hai, con Nagra và tôi, về lại Hang Bregan. Nhà vua hài lòng vì con lợn rừng, và tôi… tôi, cho dù được những người trị thương giỏi nhất chăm sóc, vẫn phải mất nguyên tháng tiếp theo nằm trên giường, và Vua Hrothgar nói như thế là đủ để trừng phạt tôi vì tội trái lệnh ngài."

Eragon quan sát ông lùn một lát. "Ông rất nhớ ngài."

Orik đứng yên một thoáng, cằm tựa lên bộ ngực chắc nịch. Nâng cây búa của mình lên, ông đập cái cán vào mặt đá hoa cương, tạo ra một tiếng cách sắc nét vang vọng giữa rừng cây. "Đã gần hai thế kỷ kể từ khi dûrgrimstvren cuối cùng – cuộc chiến thị tộc cuối cùng – tàn phá đất nước chúng tôi, Eragon à. Nhưng trước bộ râu đen của Morgothal, chúng ta đang phải đối mặt với một cuộc chiến mới."

"Ngay lúc này ư?" Eragon kêu lên, thất kinh. "Tệ đến thế thật sao?"

Orik cau có. "Tệ hơn rồi. Tình trạng căng thẳng giữa các bộ tộc đang mạnh hơn lúc nào hết trong ký ức của bất cứ ai. Cái chết của Vua Hrothgar và sự xâm lấn Đế quốc của Nasuada đã làm khuấy động sự phẫn nộ, làm trầm trọng hơn những đối nghịch cũ, và càng thúc đẩy mạnh những kẻ vẫn tin rằng chia sẻ số mệnh với Varden là điên rồ."

"Làm sao họ lại tin như thế khi mà Galbatorix đã tấn công Tronjheim bằng đám Urgals?"

"Bởi rằng," Orik nói, "họ đã tin là không thể đánh bại được Galbatorix, và những vụ tranh cãi của họ gây ảnh hưởng nhiều đến người của chúng tôi. Thành thật với tôi nào, Eragon, nếu Galbatorix đương đầu với cậu và Saphira ngay lúc này, hai vị có thể thắng được hắn không?"

Eragon nghẹn họng. "Không."

"Tôi nghĩ là không. Những người phản đối Varden đã mù quáng trước sự đe dọa của Galbatorix. Họ nói rằng nếu chúng tôi từ chối che chở cho Varden, nếu chúng tôi không chấp nhận cậu và Saphira vào Tronjheim, thì Galbatorix đã không có lý do gì để gây chiến với chúng tôi. Họ nói rằng nếu chúng tôi cứ lo cho bản thân và cứ ẩn trốn trong những hang động và đường hầm, chúng tôi sẽ không phải sợ Galbatorix nữa. Họ không nhận ra rằng cơn khát quyền lực của Galbatorix là không đáy và rằng hắn sẽ không ngừng lại cho đến khi nào toàn thể Alagaësia nằm dưới chân hắn." Orik lắc đầu, cơ bắp trên cẳng tay ông cuộn lên và rắn lại khi ông nắm chặt cây rìu. "Tôi sẽ không cho phép chủng tộc tôi co rúm trong hang như những con thỏ đế cho đến khi con sói bên ngoài đào đường vào và xơi tái tất cả. Chúng ta phải tiếp tục tranh đấu với hy vọng rằng bằng cách nào đó chúng ta tìm ra được một cách để giết Galbatorix. Và tôi sẽ không để cho đất nước bị tan rã vì chiến tranh thị tộc. Với hoàn cảnh như hiện giờ, một dûrgrimstvren khác sẽ hủy diệt nền văn minh của chúng ta và có lẽ sẽ nhấn chìm Varden luôn." Hàm rắn lại, Orik quay sang Eragon. "Vì sự tốt đẹp cho người của chúng ta, tôi dự định sẽ giành lấy ngôi vua. Dûrgrimstn Gedthrall, Ledwonnû, và Nagra đã cam kết sẽ ủng hộ tôi. Tuy nhiên có quá nhiều người đứng giữa tôi và vương miện; sẽ không dễ gì gom đủ phiếu để trở thành vua. Tôi cần phải biết, Eragon à, cậu sẽ ủng hộ tôi trong chuyện n! ày chứ?" Khoanh tay lại, Eragon bước từ cây này đến cây kế tiếp rồi lại quay lại. "Nếu tôi làm vậy, sự ủng hộ của tôi có thể sẽ làm các tộc khác chống lại ông. Không chỉ bởi ông sẽ phải yêu cầu mọi người trở thành đồng minh với Varden, mà ông còn phải yêu cầu họ chấp nhận một Kỵ sĩ Rồng như một thành viên trong số họ, họ chưa bao giờ làm điều này trước đây và tôi không tin bây giờ họ lại muốn làm thế."

"Đúng, điều đó có thể khiến một số chống lại tôi," Orik nói, "nhưng cũng có thể giúp tôi thu được phiếu bầu của số khác. Điều đó cứ để cho tôi phân xử. Tất cả những gì tôi muốn biết chỉ là, cậu sẽ ủng hộ tôi chứ? …Eragon, sao cậu do dự?"

Eragon nhìn chăm chăm một cái mấu rễ cây nhô ra từ mặt đá hoa cương dưới chân nó, tránh ánh mắt Orik. "Ông lo lắng về những gì tốt đẹp cho người của ông, đúng là phải như vậy. Nhưng mối lo của tôi rộng hơn thế; chúng chứa đựng những gì tốt đẹp cho cả Varden và thần tiên và bất cứ ai chống lại Galbatorix. Nếu… nếu ông không chắc giành được vương miện, và có một tộc trưởng khác có khả năng, và người đó không có ác cảm với Varden –"

"Không tộc trưởng nào có thiện cảm với Varden hơn tôi được nữa!"

"Tôi không chất vấn tình bằng hữu của ông," Eragon phản kháng. "Nhưng nếu những gì tôi nói xảy ra và vì những gì tốt đẹp cho toàn phần còn lại của Alagaësia, chẳng lẽ tôi không nên ủng hộ người lùn nào có cơ hội thành công lớn nhất sao?"

Bằng giọng trầm chết người, Orik nói, "Cậu đã thề lời huyết-thệ trước Tim của Đá, Eragon à. Xét theo mọi điều luật trong vương quốc, cậu là một tộc viên của Dûrgrimst Ingeitum, cho dù những kẻ khác có phản đối dữ dội đến đâu. Việc Vua Hrothgar nhận cậu vào tộc là chưa từng có tiền lệ trong toàn bộ sử sách, và điều đó không thể bị tháo bỏ trừ khi, với tư cách grimstborith, tôi khai trừ cậu khỏi tộc. Nếu cậu quay lưng lại tôi, Eragon à, cậu sẽ làm ô danh tôi trước toàn thể giống loài tôi và không ai có thể tin vào sự lãnh đạo của tôi được nữa. Hơn thế, cậu sẽ chứng tỏ cho những kẻ gièm pha cậu rằng chúng tôi không thể tin tưởng một Kỵ sĩ Rồng. Các tộc viên không phản bội lẫn nhau vì ngoại tộc, Eragon ạ. Sẽ không xong đâu, không xong, trừ khi cậu muốn tỉnh dậy trong đêm với một con dao găm cắm vào tim cậu."

"Ông đang đe dọa tôi?" Eragon hỏi, cũng bằng giọng lặng lẽ tương tự.

Orik chửi thề và đập cái rìu vào đá hoa cương lần nữa. "Không! Tôi sẽ không bao giờ giơ tay chống lại cậu, Eragon! Cậu là nghĩa đệ của tôi, cậu là Kỵ sĩ duy nhất tự do ngoài vòng kiềm tỏa của Galbatorix, và quỷ tha ma bắt tôi nếu tôi không thấy quý mến cậu sau những chuyến ta đi cùng nhau. Nhưng kể cả tôi không làm hại cậu, như thế không có nghĩa là toàn thể tộc Ingeitum cũng sẽ nhẫn nại như thế. Tôi nói vậy không phải như một lời hăm dọa mà như một phát biểu chân thật. Cậu phải hiểu điều này, Eragon à. Nếu bộ tộc nghe được cậu ủng hộ tộc khác, chắc tôi sẽ không thể kiềm chế họ được đâu. Cho dù cậu là khách của chúng tôi và luật hiếu khách bảo vệ cậu, nhưng nếu cậu tuyên bố chống lại Ingeitum, cả tộc sẽ coi cậu như một kẻ phản bội, và tục lệ của chúng tôi sẽ không cho phép kẻ phản bội đứng trong hàng ngũ mình. Cậu hiểu tôi không, Eragon?"

"Ông trông đợi gì ở tôi?" Eragon hét lên. Nó vung tay ra và bước tới lui trước mặt Orik. "Tôi cũng đã thề với Nasuada, và đó là lệnh cô ta đưa ra cho tôi."

"Và cậu cũng đã nguyện trung thành với Dûrgrimst Ingeitum!" Orik rống lên.

Eragon ngừng lại, nhìn chằm chằm ông lùn. "Ông sẽ buộc tôi đày đọa toàn bộ Alagaësia chỉ để ông có thể duy trì chỗ đứng của mình giữa các tộc?"

"Đừng lăng mạ tôi!"

"Vậy thì đừng yêu cầu điều không thể ở tôi! Tôi sẽ hậu thuẫn ông nếu ông có khả năng bước lên ngôi báu, còn nếu không, thì tôi sẽ không. Ông lo lắng cho Dûrgrimst Ingeitum và cả chủng tộc của ông nói chung, trong khi trách nhiệm của tôi là lo lắng cho họ và cả toàn thể Alagaësia." Eragon ngồi sụp xuống, tựa vào một thân cây lạnh lẽo. "Và tôi lại không thể làm mếch lòng ông và tộc của ông – ý tôi là, của chúng ta – cũng như cả vương quốc người lùn."

Bằng giọng hòa nhã hơn, Orik nói, "Có một cách khác, Eragon ạ. Sẽ khó khăn hơn cho cậu, nhưng sẽ giải quyết được tình thế khó xử của cậu."

"Sao? Giải pháp xuất sắc nào thế?"

Đẩy cái rìu vào đai lưng, Orik bước tới chỗ Eragon, nắm lấy cẳng tay nó, và ngước nhìn nó qua đôi lông mày rậm. "Hãy tin tưởng tôi đang làm điều đúng đắn, Eragon Khắc-tinh-của-Tà-thần. Hãy cho tôi lòng trung thành như là cậu thực sự được sinh ra trong Dûrgrimst Ingeitum. Những người dưới tôi không bao giờ dám liều tuyên bố chống lại chính tộc trưởng của mình để ủng hộ ngoại tộc. Nếu một grimstborith đánh nhầm tảng đá, đó sẽ là trách nhiệm của một mình ông ta, nhưng như thế không có nghĩa là tôi không thấy được những băn khoăn của cậu." Ông nhìn xuống một lát, rồi nói, "Nếu tôi không thể làm vua, hãy tin rằng tôi không quá mù quáng vì quyền lực trước mắt đến nỗi không nhận ra được nỗ lực của mình đã thất bại. Nếu điều đó xảy ra – không phải tôi tin nó sẽ xảy ra – thì tôi sẽ tự nguyện ủng hộ cho một ứng viên khác, vì tôi cũng như cậu, không hề muốn thấy một grimstnzborith thù địch với Varden lên ngôi. Và nếu tôi phải giúp tiến cử một ai khác lên ngôi, thì địa vị và uy tín mà tôi giao cho tộc trưởng đó sẽ tự nhiên bao hàm cả của cậu, vì cậu thuộc Ingeitum. Cậu có tin tưởng tôi không, Eragon? Cậu sẽ chấp nhận tôi như grimstborith của cậu chứ, như mọi thần dân đã tuyên thệ của tôi?"

Eragon rên rỉ và tựa đầu vào cái cây thô ráp, ngước nhìn những cành cây vặn vẹo trắng như xương bị sương mù bao bọc. Tin tưởng. Trong tất cả mọi thứ, Orik đã yêu cầu ở nó thứ khó đưa ra nhất. Eragon thích Orik, nhưng tự đặt mình xuống dưới uy thế của ông lùn trong khi quá nhiều điều đang lâm nguy như vậy sẽ càng làm giảm tự do của nó, và nó rất miễn cưỡng với viễn cảnh đó. Và cùng với tự do của nó, nó cũng sẽ làm giảm phần trách nhiệm của nó đối với số mệnh của Alagaësia. Eragon cảm thấy như thể nó đang bị treo trên mép một vách đá và Orik đang cố thuyết phục nó rằng có một gờ đá ở dưới chỉ cách chân nó có một thước, nhưng Eragon không thể bắt mình buông tay được, vì sợ rằng mình sẽ ngã vào sự diệt vong.

Nó nói, "Tôi sẽ không làm một bầy tôi thiếu suy nghĩ cho ông sai bảo này nọ đâu. Nếu là vấn đề Dûrgrimst Ingeitum, tôi sẽ theo ý ông, nhưng trong mọi vấn đề khác, ông sẽ không thể tác động gì lên tôi đâu."

Orik gật đầu, mặt nghiêm nghị. "Tôi không lo lắng về nhiệm vụ mà Nasuada giao cho cậu, cũng như cậu sẽ giết những ai trong khi đánh lại Đế quốc. Không, điều làm tôi mất ngủ, trong khi lẽ ra tôi phải ngáy như Arghen trong hang của mình, chính là tưởng tượng ra cậu cố gắng tác động lên việc bầu chọn của hội đồng thị tộc. Ý định của cậu là cao thượng, tôi biết, nhưng dù cao thượng hay không, cậu cũng không quen thuộc với chính trị của chúng tôi, cho dù Nasuada đã giảng giải cho cậu kỹ đến đâu. Đây là lãnh vực chuyên môn của tôi, Eragon ạ. Cứ để tôi kiểm soát theo cách mà tôi cho là thích đáng. Đó là điều mà Vua Hrothgar đã chuẩn bị cho tôi trong suốt cuộc đời tôi."

Eragon thở dài, và với cảm giác đang bị rơi, nó nói, "Được rồi. Tôi sẽ làm theo cách mà ông cho là tốt nhất trong việc nối ngôi, Grimstborith Orik."

Một nụ cười nở rộng trên mặt Orik. Ông siết chặt tay Eragon hơn, rồi buông ra và nói, "A, cảm ơn cậu, Eragon. Cậu không biết điều đó có ý nghĩa thế nào đối với tôi đâu. Cậu thật là tốt, rất tốt, và tôi sẽ không quên điều đó, cho dù tôi có sống đến hai trăm tuổi và râu mọc dài đến mức kéo lê trên đất."

Phớt lờ chính mình, Eragon tủm tỉm cười. "Ừ, tôi hy vọng nó không mọc dài đến thế. Ông sẽ quàng chân vào đó liên tục mất!"

"Điều đó thì có lẽ," Orik vừa nói vừa cười. "Với lại, tôi thì nghĩ là Hvedra sẽ cắt ngắn nó đi một khi nó dài đến đầu gối tôi. Cô ấy có lập trường rõ ràng về độ dài thích hợp của một bộ râu."

₪ ₪ ₪

Orik dẫn đường khi hai người rời khỏi khu rừng đá, bước xuyên qua màn sương không màu xoáy cuộn giữa những thân cây bị vôi hóa. Họ nhập bọn với mười hai người lính của Orik, rồi bắt đầu đi xuống sườn núi Thardûr. Dưới lòng thung lũng, họ tiếp tục đi thẳng sang sườn phía bên kia, và tại đó những người lùn đưa Eragon đến một đường hầm được che giấu rất khéo léo dưới bề mặt đá, nó sẽ chẳng bao giờ tự mình tìm ra được lối vào.

Eragon có phần tiếc rẻ vì bỏ lại sau lưng ánh mặt trời nhợt nhạt và khí núi trong lành để đổi lấy bóng tối của đường hầm. Hành lang rộng hai thước rưỡi và cao gần hai thước – hơi thấp so với Eragon – và giống như những đường hầm khác của người lùn mà nó đã vào, đường hầm này thẳng như một mũi tên theo như nó có thể thấy. Nó ngoái lại nhìn qua vai vừa đúng lúc thấy ông lùn Farr đóng lại phiến đá hoa cương có bản lề, có chức năng như cánh cửa đường hầm, nhấn chìm cả đám vào bóng tối. Một lát sau, mười bốn quả cầu rực rỡ đủ màu xuất hiện khi những người lùn lấy những cái đèn lồng không lửa ra khỏi túi yên của họ. Orik trao một cái cho Eragon.

Rồi họ bắt đầu tiến về phía trước, bên dưới chân những ngọn núi, và móng ngựa làm vang vọng trong đường hầm những tiếng lách cách, nghe như những hồn ma giận dữ đang quát vào họ. Eragon nhăn nhó, biết rằng họ sẽ phải nghe những tiếng ầm ĩ này suốt cả chặng đường đến Farthen Dûr, vì đó là nơi mà đường hầm kết thúc, cách đó rất nhiều dặm. Nó khom hai vai và siết chặt quai túi và ước rằng nó đang ở cùng Saphira, bay bổng thật cao bên trên mặt đất.

Chương 30

Roran ngồi xổm trên mặt đất ,nhìn chằm chằm qua tấm lưới đan bởi những cành liễu . Gần 200 mét phía xa, 53 người lính & lái bò ngồi quanh 3 bếp lửa, ăn bữa tối của họ khi màn đêm vội vã buông xuống mặt đất. Những người giải quyết xong bữa tối, đang nghỉ ngơi bên bờ 1 con sông vô danh, rộng & fủ đầy cỏ. Mấy con bò đừng thành 1 hình nửa vòng tròn lởm chởm quanh mấy bếp lửa. Rất nhiều con bò tập tễnh ăn cỏ sau trại , thi thoảng lại rống lên với nhau . Gần 20 mét phía dưới dòng , 1 gò đất mềm nhô lên cao khỏi mặt đất, cản bước bất kì kẻ nào tấn công hay rút chạy khỏi cái góc chết đó. "Họ đang nghĩ gì vậy?" Roran lấy làm lạ. Chỉ cần cẩn thận khi đang trong vùng địch ,dựng trại phòng thủ (trong khi họ đang trong lòng Đế quốc). Nghĩa là tìm 1 địa thế có thể bảo vệ phía sau. Nhưng dù vậy cũng fải cẩn thận chọn nơi nghỉ chân nào có thể rút lui khi bị mai phục. Như thế này, thiệt dễ như ăn kẹo cho Roran & những chiến binh khác dưới quyền của Martland ,lướt qua những bụi cây họ đang nấp & dồn những người lính của Đế chế vào ô đất hình chữ V tạo bởi dòng sông & mô đất, nơi họ có thể thong thả mà tiêu diệt từng người. Những người lính đã được huấn luyện lại có thể mắc lỗi rành rành như vậy khiến Roran bối rối. Có lẽ họ từ 1 thành phố, anh nghĩ Hoặc là ít kinh nghiệm, Roran cau mày. Vậy tại sao họ lại được giao nhiệm vụ cho 1 chiến dịch quan trọng như thế này?". "Anh có phát hiê�! �n ra cái bẫy nào ko?", Roran hỏi. Anh không cần quay đầu lại cũng biết Carn ngay bên cạnh mình, cùng với Halmar & 2 người khác. Trừ 4 tay kiếm gia nhập đội của Martland thế chỗ những người đã hi sinh hoặc bị thương quá nặng trong trận đánh trước, Roran đã kề vai chiến đâu với tất cả mọi người trong đội. Không muốn đơn độc, Roran tin tưởng họ bằng cả mạng sống của mình, khi anh biết sự tin tưởng của họ dành cho anh. Như thể có 1 sợi dây ràng buộc họ với nhau vượt qua tuổi tác, thân phận. Sau trận đánh đầu tiên, Roran cảm thấy bất ngờ khi anh ,cũng như bọn họ, có thể cảm thấy thân thiết với đồng đội như vậy. "Không có gì để nói cả" Carn thì thầm " Nhưng mà…" "Họ có thể nghĩ ra những câu thần chú mà anh ko thể dò ra được , phải, phải. Nhưng có pháp sư nào đi với họ ko?" "Ko chắc lắm, nhưng ko, tôi nghĩ vậy" Roran vạt sang 1 bên đám lá liễu để nhìn rõ hơn cách bố trí đàn bò."Tôi ko thích điều này", anh lầm bầm " 1 pháp sư hộ tống đoàn khác. Sao ko fải đoàn này?" " Họ ít người hơn anh tưởng" "Mmh." Roran gãi râu, vẫn lo lắng trước sự bất cần của đám lính. "Liệu họ có dụ ta tấn công? Họ không có vẻ sẵn sàng cho điều đó, nhưng lộ diện bây giờ cũng nguy hiểm đủ đường. Cái bẫy nào họ đang dành cho chúng ta? Không còn ai khác trong vòng 90 dặm quanh đây , Murtagh & Thorn thì đc nhìn thấy lần cuối đang bay về phương bắc từ Feinster. "Gửi tín hiệu đi", Roran nói. "Nhưng bảo với Martland rằng tô! i lo lă�! �ng về việc họ dựng trại như thế này. Có thể họ là những thằng khờ hoặc là họ có được sự bảo vệ vô hình bởi phép thuật hay những trò ma quỷ của tên vua." Im lặng, và rồi " Tôi đã nhắn. Martland có nói ông ấy cũng có cùng mối bận tâm như anh, nhưng trừ phi anh muốn cong đuôi chạy về với Nasuada, còn không, chúng ta sẽ thử vận may của chính mình." Roran càu nhàu, quay về phía những người lính. Anh ra hiệu bằng cằm, rồi cùng với những người lính khác, bò nhanh tới nơi họ để ngựa lại. Tới nơi, Roran leo lên lưng Hoả Tuyết. "Họ! Đứng yên, chàng trai" anh thì thầm, vuốt ve Hoả tuyết khi con ngựa hất đầu lên. Trong ánh sáng mờ, bờm & lông Hoả tuyết lấp lánh ánh bạc. Không phải lần đầu, Roran ước con ngựa ít bị nhận ra hơn, màu hồng hoặc hạt dẻ chẳng hạn. Lấy tấm khiên đc treo trên yên ngựa, Roran luồn tay qua dây đai & kéo chiếc búa ra khỏi thắt lưng. Roran nuốt khan, nắm chặt chiếc búa,1 sự căng thẳng quen thuộc chạy qua vai, . Khi 5 người đã sẵn sàng, Carn giơ 1 ngón tay, mí mắt khép hờ, đôi môi khẽ giật giật như thể đang nói chuyện với chính mình. 1 con dế gáy gần đó. Mí mắt Carn chợt mở ra. "Hãy nhớ, nhìn thẳng xuống đất cho đến khi các anh quen được với ánh sáng, và ngay cả khi đó, cũng đừng nhìn lên bầu trời." Sau đó tay pháp sư bắt đầu niệm cổ ngữ , những từ ngữ khó hiểu đầy phép thuật. Roran che người lại bằng chiếc khiên, ngồi lệch 1 bên trên yên ngựa khi 1 tia sáng trắng ,sáng như ánh mắt tr! ời gi�! �̃a trưa chiếu xuống khoảnh đất. Ánh sáng phát ra từ đâu đó phía trên căn lều & Roran phải cố ngăn mình tìm chính xác xuất phát điểm của nó . Hét lớn, anh thúc vào sườn con Hoả tuyết & khom người lại khi con chiến mã lướt đi. Phía bên kia, Carn & những người lính khác hành động tương tự, vung vũ khí của họ lên. Cành cây đập mạnh vào đầu & vai của Roran, trước khi Hoả tuyết phóng khỏi bụi cây & phi nước đại hết tốc lực về phía doanh trại. 2 nhóm kị binh khác, 1 của Martland, 1 của Ulhart cũng lao ầm ầm về phía doanh trại, Lính & lái bò thét lên báo động, nhắm mắt lại. Lảo đảo như người mù, chúng sờ soạng tìm vũ khí vừa cố xếp đội hình đẩy lùi cuộc tấn công. Roran không cố gắng làm Hoả tuyết chậm lại. Thúc con ngựa nhanh hơn, Roran đứng hẳn lên , giữ chặt bằng tất cả sức mạnh khi Hoả tuyết nhảy qua khoảng trống hẹp giữa 2 con bò. Hàm răng của anh va vào nhau lập cập khi chạm đất. Hoả tuyết đá đất tơi vào 1 trong những ngọn lửa trại làm tàn lửa bắn tung toé. Những người còn lại trong đội của Roran cũng nhảy qua những con bò. Họ sẽ chăm sóc những tên lính ở sau, Roran chỉ phải lo những tên phía trước. Hướng Hoả tuyết về phía 1 tên lính, Roran đập vỡ mũi tên lính bằng cán búa, máu đỏ bay vụt qua mặt anh. Roran kết liễu tên lính với 1 cú đập nữa vào đầu trước khi gạt thanh kiếm từ 1 tên khác. Bên phía kia, Martland,Ulhart & những người lính cũng họ cũng nhảy vào trại, tiếp đất trong tiếng lách các! h của m! óng ngựa & tiếng kêu chói tai của áo giáp, vũ khí. 1 con ngựa rống lên & gục xuống khi 1 tên lính xiên nó bằng giáo. Roran lại chặn thanh kiếm, đập gãy xương tay tên lính, buộc hắn fải buông kiếm . Ko dừng lại, Roran đập vào giữa chiếc áo trấn thủ đỏ của tên lính, khiến hắn gãy xương ức, vết thương đau đớn khiến hắn thở hổn hển, gục xuống. Roran ngồi lại yên ngựa, tìm kiếm đối thủ tiếp theo. Bắp thịt của Roran rung lên với niềm hứng khởi điên rồ. Mọi thứ xung quanh anh rõ ràng & sắc xảo như được khắc trên kính. Roran cảm thấy mình ko thể bị thương, cảm thấy mình vô địch. Thời gian dường như bị kéo dãn & trôi 1 cách chậm chạp đến nỗi nghe tiếng bướm đêm đập cánh như thể nó đang bay qua hũ mật chứ ko fải ko khí. 1 đôi bàn tay kẹp chặt lưng áo giáp của Roran & kéo mạnh anh khỏi lưng Hoả tuyết, ném anh xuống nền đất cứng, hơi thở thoát ra hết khỏi lồng ngực Roran. Đôi mắt anh lập loè & tối sầm trong giây lát . Khi đủ sức nhìn lại, anh thấy tên lính đầu tiên anh tấn công đang ngồi trên ngực , bóp cổ mình. Tên lính che kín nguồn sáng Carn đã tạo ra trên bầu trời. 1 quầng sáng trắng bao quanh đầu & vai hắn, khuôn mặt hắn ngập trong bóng tối. Roran ko thể nhìn rõ khuôn mặt của hắn trừ những chiếc răng hở loé sáng. Tên lính siết chặt những ngón tay của hắn quanh cổ Roran, khiến Roran phải thở hổn hển. Roran mò tìm cây búa đánh rơi nhưng nó ngoài tầm với. Gồng cứng cổ ngăn ko cho tên lính bóp nát sự sô! ́ng củ! a mình, anh móc con dao găm từ chiếc thắt lưng, đâm xuyên qua áo giáp, qua lớp áo trấn thủ & xuyên qua xương sườn bên trái.

Tên lính ko chút ngần ngại cũng chẳng nới tay . 1 tràng cười điên dại tuôn ra từ tên lính. Đầu óc quay cuồng, tim ngừng đập cùng nỗi ghê tởm khiến cho dạ dày Roran lạnh toát vì khiếp sợ. Anh nhớ lại những âm thanh anh đã nghe thấy khi nom Varden đánh nhau với những người ko biết đau đớn trên cánh đồng cỏ cạnh sông Jiet. Trong thoáng chốc, anh đã hiểu tại sao những tên lính lại chọn địa điểm cắm trại bất lợi như vậy. Chúng ko quan tâm có dính bẫy hay ko, khi chúng ta ko thể làm đau chúng. Sao đỏ, sao vàng nhảy múa trong mắt Roran . Lảo đảo trong trạng thái vô thức, Roran rút mạnh con dao ra, đâm vào nách tên lính, xoắn mạnh . Máu nóng bắn ra nhưng tên lính dường như ko để ý. Vạn vật vỡ ra thành muôn vệt sáng khi tên lính lại đập đầu Roran xuống đất .1 lần . 2 lần. 3 lần. Roran cố gắng nâng hông lên, đẩy tên lính ra nhưng ko thành. Mắt ko nhìn thấy gì nữa, tuyệt vọng , anh đâm vào nơi đoán là mặt tên lính & cảm thấy con dạo chạm vào 1 miếng thịt mềm. Roran rút dao về 1 cách yếu ớt & đâm lại về hướng đó, cảm thấy như đâm vào đầu 1 khúc xương. Sức ép quanh cổ Roran tan biến. Roran nằm trên đất, ngực nặng trịch, rồi lăn tròn, nôn mửa, cổ họng khô cháy, Vừa thở hổn hển vừa ho, Roran lảo đảo đứng lên , trông thấy tên lính nằm sõng soài bất động ngay bên cạnh, con dao găm nhô ra từ mũi hắn. "Đánh vào đầu", Roran hét lên,dù cổ họng khô cháy "Vào đầu !". Anh để con dao lại trên mũi tên lính, vớ cây búa trên nền đất bị giày xe! ́o, tranh thủ nhặt 1 cây giáo bị bỏ rơi cùng với cái khiên. Nhảy qua tên lính, Roran chạy về phía Halmar, đang đứng đọ kiếm với 3 tên lính cùng 1 lúc. Trước khi mấy tên lính kịp nhận ra, Roran nện mạnh vào đầu 2 tên gần nhất, mũ sắt vỡ thành từng mảnh. Tên thứ 3 để lại cho Halmar, còn anh chạy đi kiếm tên lính đã bị anh đập vỡ mũi (???- Roran đánh ai đầu tiên vậy T.T ) & coi như đã chết. Roran trông thấy tên lính đang ngồi trên 1 bánh xe bò, phun ra từng cục máu khô & cố căng dây cung. Roran xuyên thủng 1 mắt hắn bằng cây giáo. Những miếng thịt xám ngoét bám vào đầu mũi thương khi anh buông nó ra. ( T.T ) 1 í nghĩ loé lên trong đầu Roran. Anh phóng ngọn giáo về phía 1 tên lính mặc áo trấn thủ đỏ bên kia đống lửa gần anh nhất – cây giáo xuyên qua người hắn – rồi đẩy nhẹ cán búa vào dưới thắt lưng, Roran căng cây cung của tên lính. Tựa lưng vào bánh xe, Roran bắt đầu bắn những tên lính lao ra từ khu trại, cô gắng kết liễu chúng với 1 mũi tên may mắn trúng mặt , cổ hay tim bằng ko cũng có thể làm chúng bị thương, giúp cho đồng đội của anh có thể hạ chúng 1 cách dễ dàng hơn. Nếu ko có gì khác thì Roran đoán rằng những tên lính sẽ chảy máu đến chết trước khi trận đánh kết thúc. Sự tự tin trước khi bắt đầu trận đánh đã chuyển thành sự thất vọng. Quân Varden tán loạn, mất hết tinh thần, có người vẫn ngồi trên lưng ngựa, có người ko , và đa số đều đã phải đổ máu. Ít nhất 5 người lính mà Roran có thể chỉ ra, đã ! chết k! hi những tên lính họ nghĩ là đã giết được quay lại tấn công họ. Không thể nói bao nhiêu lính đã ngã xuống giữa cái mớ hỗn độn này nhưng Roran có thể nhìn ra Varden còn hơn 25 người hay đại loại vậy. Roran nhận ra "Chúng có thể xé chúng ta ra từng mảnh chỉ với 2 tay không trong khi chúng ta đang cố băm vằm chúng ra". Đưa mắt tìm Hoả tuyết giữa đám hỗn loạn, Roran tìm thấy con bạch mã xa hơn phía dưới dòng sông, đang đứng cạnh 1 cây dương liễu, lỗ mũi mở to, 2 tai bịt tẹt đầu. Với cây cung trong tay, Roran giết thêm 4 tên lính nữa & làm bị thương hơn 1 tên. Khi chỉ còn 2 mũi tên , Roran phát hiện ra Carn đang đứng bên kia khu trại, đấu tay bo với 1 tên lính bằng 1 góc lều bị cháy. Kéo dây cung cho đến khi mấy sợi lông vũ trên mũi tên chạm vào tai, Roran bắn vào ngực tên lính. Tên lính ngừng lại & Carn chặt đầu hắn. Roran vứt cây cung sang 1 bên, búa trong tay, chạy về phía Carn, la lớn "Anh ko thể giết bọn chúng bằng phép thuật sao?" Trong 1 thoáng, Carn chỉ có thể thở hổn hển, rồi lắc đầu, trả lời "Câu thần chú nào tôi thốt ra cũng bị vô hiệu". Ánh sáng từ chiếc lều cháy mạ vàng khuôn mặt anh ta. Roran nguyển rủa. " Đi cùng tôi" anh hét to, nâng chiếc khiên lên. Vai kề vai, 2 người tiến về phía bọn lính gần nhất: 1 đám 8 tên lính đang bao vây 3 người của Varden. Vài fút sau, ánh vũ khí loé lên loang loáng, Roran nhận những vết thương bất ngờ, da thịt rách bươm. Bọn lính dai sức hơn người thường, chúng không bao giờ né khi bị tấn công & cu�! �ng chă�! �ng mảy may gì ngay cả khi nhận những vết thương khủng khiếp nhất. Cố sức quá nhiều, Roran lại buồn nôn, 8 tên lính vừa ngã xuống , Roran cúi người, nôn lại. Anh quệt miệng lau đám mật sót lại. 1 trong 3 người lính họ định cứu đã chết, dao cắm vào cật, 2 người còn trụ lại được tiếp tục nhập bọn vs Roran & Carn, tiếp tục tấn công nhóm lính tiếp theo. " Dồn chúng về phía dòng sông",Roran hét lớn ( Roran = Rocker ^^ ). Nước & bùn sẽ làm những tên lính khó cử động & có lẽ sẽ giúp Varden thắng thế hơn. Cách đó ko xa, Martland sốc lại 1 đội 12 người lính Varden còn đang ngồi trên lưng ngựa, đang làm đúng những gì Roran đã nói: dồn bọn lính xuống dòng nước lấp lánh ánh sáng. Bọn lính & mấy tên lái bò còn sống vẫn cố kháng cự. Chúng tống khiên vào mấy người lính bộ. Chúng thọc khiên vào ngựa. Nhưng dù chúng chống trả rất hung tợn Varden vẫn buộc chúng lùi từng bước 1 cho đến khi lũ người trong lớp áo trấn thủ đỏ đó đứng ngập quá gối dưới dòng nước chảy xiết, 1 nửa bị loá mắt bởi ánh sáng kì lạ chiếu vào. "Dàn hàng", Martland hô lớn, xuống ngựa, đứng dạng 2 chân trên bờ sông "Đừng để chúng lên bờ." Roran hạ thấp nửa người, ấn mạnh gót chân xuống nền đất mềm cho đến khi thoải mái với tư thế của mình, chờ đợi tên lính to con, đang đứng trước anh vài feet trong dòng nước lạnh, tấn công. Gầm lên 1 tiếng, nước bắn tung toé khỏi vũng nước nông, hắn vung kiếm. Roran đưa khiên lên đỡ, nện t! rả 1 cu! ́ nhưng hắn lấy khiên chặn lại & chém rách chân anh. Sau vài giây giao đấu, ko ai có thể làm bị thương kẻ kia. Bất ngờ, Roran đánh gãy cẳng tay trái tên lính, dồn hắn lùi lại vài bước. Tên lính chỉ cười, thốt ra những tiếng rầu rĩ, lạnh lẽo. Roran lo sợ liệu anh & đồng đội có sống sót qua đêm nay. Chúng khó giết hơn cả loài rắn. Chúng ta có thể chém chúng tơi tả, chúng vẫn bổ tới trừ khi có đòn gì đó kết liễu chúng. Suy nghĩ của Roran bị cắt ngang khi tên lính lại lao vào anh, thanh kiếm hình chữ V của hắn lung linh như 1 lưỡi lửa dưới ánh sáng mờ . Trận đấu bỗng trở thành 1 cơn ác mộng với Roran. Luồng sáng kì lạ trở thành tai hoạ khi ban cho dòng nước & lũ lính 1 diện mạo kì dị , tẩy trắng chúng, & đẩy những cái bóng của chúng thành những vệt dài, mỏng, sắc như dao cạo xuyên qua làn nước,trong khi khắp nơi xung quanh đó, bong tối dày đặc vẫn đang bao phủ. Hết lần này đến lần khác Roran đẩy lùi những tên lính lao lên giết anh, nện búa vào chúng cho đến khi không còn nhận ra hình người , nhưng chúng vẫn không chết. Sau mỗi cú đòn, từng giọt máu đen như mực phủ lên dòng sông, chảy theo dòng nước. Những tiếng loảng xoảng chết người đều đều tiếp diễn khiến cho Roran khó chịu & tê dại. Cho dù anh có cố gắng thế nào đi nữa, luôn luôn có lớp lính khác lao lên hết đâm rồi lại chém . Và những tiếng cười điên dại vẫn ko ngừng vang lên từ những kẻ biết mình đã chết, chỉ còn duy trì hình hài của sự s�! �́ng khi! Varden đang tàn phá cơ thể chúng. Và rồi im lặng. Roran vẫn nấp sau chiếc khiên, cây búa giơ lên, thở hổn hển, nhễ nhãi mồ hội & máu. 1 phút trôi qua, Roran dần nhận ra rằng ko còn ai đứng dưới nước trước anh nữa. Roran nhìn qua trái, qua phải 3 lần, không hiểu nổi sao những tên lính quỷ quái đó cuối cùng cũng chết. 1 cái xác trôi ngang qua anh giữa dòng nước lấp lánh. Roran gầm lên 1 tiếng không rõ rãng, khi 1 bàn tay nắm chặt cánh tay phải của anh, xoay người lại, anh chỉ thấy Carn đang đứng bên cạnh. Người pháp sư nhợt nhạt, lấm tấm vết máu khô, nói" Chúng ta thắng rồi, Roran! Ê? Chúng ta đuổi được chúng rồi." Roran buông thõng 2 tay, ngả đầu ra phía sau, quá mệt để ngồi nghĩ. Anh cảm thấy….cảm thấy các giác quan sắc bén dị thường và mọi xúc cảm được nhồi sâu trong lòng. Anh hài lòng về điều đó, bằng ko, anh nghĩ mình sẽ phát điên. "Tập trung lại & kiểm tra mấy cái xe bò!", Martland la lớn. " Càng nhanh chúng ta càng sớm ra khỏi cái nơi đáng nguyền rủa này! Carn, chăm sóc cho Welmar, tôi ko thích trông thấy vết rạch đó." Bằng 1 nỗ lực phi thường, Roran quay người lại & lê bước qua bờ sông, tiến lại chiếc xe gần nhất. Chớp chớp mắt khi giọt mồ hôi chảy qua lông mày, Roran nhận ra trong đội chỉ còn 9 người trụ lại . Anh dẹp mọi thứ ra khỏi đầu "Ko fải lúc để than khóc." Khi Martland Redbeard bước ngang qua khu trại giờ chỉ còn là bãi xác chết, 1 tên lính Roran cho là đã chết bật dậy & chặt đứt tay phải bá tước. Bằng 1 ! động ! tác thuần thục duyên dáng, ông đá thanh kiếm văng khỏi tay tên lính, quỳ lên họng hắn, và dùng tay trái, rút dao ra khỏi thắt lưng đâm xuyên qua tai trái tên lính, giết chết hắn. Khuôn mặt ông ấy đỏ bừng đầy căng thẳng, Martland kẹp phần còn lại của cổ tay phải xuống dưới nách trái, xua những người đang chạy tới " Để tôi yên!Không nặng lắm đâu. Đến mấy cỗ xe kia! Trừ phi mấy thằng lười các anh nhanh lên còn ko chúng ta sẽ ở lại đây cho đến khi râu tôi bạc như tuyết. Nhanh lên!" Carn từ chối nhúc nhích , dù Martland quắc mắt, quát lớn "Xéo đi, hoặc là tôi sẽ quất roi lên người anh tội trái lệnh". Carn đỡ cánh tay vụng về của Martland " Tôi có thể gắn nó lại nhưng có lẽ sẽ cần vài phút." "Ah, đồ chết tiệt, tha cho ta" Martland la lên, rụt cánh tay lại, giấu vào trong áo trấn thủ. "Đừng làm ta cáu nữa, hãy cứu Welmar & Lindel nếu anh có thể. Hãy tính chuyện này sau khi chúng ta bỏ lại những con quái vật này vài dặm. " "Có thể quá muộn." Carn nói. "Đó là lệnh, thưa ngài pháp sư, ko phải lời yêu cầu." Martland lớn tiếng. Khi Carn lui xuống, Martland dùng 2 hàm răng thắt lại ống tay áo phía trên cánh tay phải trước khi kẹp lại dưới nách trái. Khuôn mặt vị bá tước lấm tấm mồ hôi " Được rồi! Có đồ gì jấu sau mấy cỗ xe chết tiệt đó?" "Dây thừng!" ai đó la to. " Rượu! " Martland cằn nhằn. "Ulhart, ghi lại cho tôi." Roran júp những người khác xem xét mấy cái xe, thông báo cho Ulhart. Sau cùng, họ giết hết những con bò &! amp; đô! ́t những cỗ xe như thường lệ. Mấy người lính bắt lại ngựa, leo lên chúng & buộc những người bị thương vào yên ngựa. Khi mọi thứ đã sẵn sàng , Carn hướng về phía ngọn lửa sáng trên bầu trời, lẩm nhẩm 1 tràng cổ ngữ dài, lộn xộn. Màn đêm lại bao phủ thế giới. Liếc sang, Roran trông thấy khuôn mặt Carn rộn ràng khi nhìn ngắm những ngôi sao nhợt nhạt trước khi chìm vào bóng tối quen thuộc, anh trông thấy những con bướm đêm màu xám nhạt bay vô hướng trên bầu trời như linh hồn người đã chết. Tim nặng trĩu, Roran đặt gót chân lên sườn Hoả tuyết, rời khỏi bãi chiến trường. – Hết chương 30

CHƯƠNG 31: MÁU TRÊN ĐÁ

Chán nản, Eragon lao ra khỏi căn phòng hình tròn sâu bên dưới trung tâm của Tronjheim. Cánh cửa gỗ sồi đóng sập lại sau lưng nó với tiếng sầm trống rỗng. Eragon đứng chống hông ở giữa hành lang hình vòm bên ngoài căn phòng và nhìn trừng trừng vào sàn nhà được lát đá hoa nhiều màu với mã não và ngọc bích hình chữ nhật. Từ lúc Orik và nó đến Tronjheim ba ngày trước, mười ba tộc trưởng của các bộ tộc người lùn không làm gì khác ngoài việc tranh cãi những chủ đề mà Eragon thấy thật tầm phào, như là tộc nào có quyền thả các đàn thú của mình vào các đồng cỏ nào đó đang được nói đến. Khi nó nghe các tộc trưởng tranh luận những điểm khó hiểu trong bộ luật hợp pháp của họ, Eragon thường muốn quát lên rằng họ đúng là những tên ngốc đui mù sắp sửa dìm toàn bộ Alagaësia xuống dưới quyền cai trị của Galbatorix, trừ khi họ gạt sang một bên những băn khoăn vụn vặt của họ và chọn một người trị vì mới mà không trì hoãn lâu hơn nữa. Vẫn đang suy nghĩ miên man, Eragon chậm rãi đi xuống hành lang, gần như không chú ý đến bốn người lính gác đang đi theo nó – họ vẫn làm thế khi nó đi bất cứ đâu – cũng như những người lùn mà nó đi ngang qua trong đại sảnh, chào nó với những biến thể của từ "Argetlam." Tệ nhất là Íorûnn, Eragon quyết định. Nữ người lùn đó là grimstborith của Dûrgrimst Vrenshrrgn, một bộ tộc hùng mạnh và ưa chiến tranh, và bà ta đã thể hiện rõ ràng ngay từ đầu cuộc thảo luận, rằng bà ta ! dự định sẽ giành ngôi vua về mình. Chỉ có một bộ tộc khác, Urzhad, là công khai hứa danh dự sẽ ủng hộ sự nghiệp của bà ta, nhưng dường như bà ta đã nhiều dịp chứng tỏ trong suốt cuộc họp tộc trưởng. Bà ta thông minh, láu cá, và có khả năng xoay chuyển hầu hết các tình huống thành lợi thế cho mình. Bà ta có thể là một nữ hoàng xuất sắc, Eragon thừa nhận với chính mình, nhưng bà ta quá ranh ma, không thể nào biết được liệu bà ta có ủng hộ Varden không một khi bà ta lên ngôi. Nó tự cho phép mình cười một cách châm biếm. Nói chuyện với Íorûnn luôn khiến nó thấy lúng túng. Người lùn công nhận rằng bà ta rất đẹp, và thậm chí khi so sánh với con người, vẻ đẹp của bà ta cũng rất ấn tượng. Bên cạnh đó, bà ta dường như đã bộc lộ sự mê hoặc đối với Eragon mà nó không thể thăm dò được. Trong mọi cuộc đối thoại giữa họ, bà ta luôn luôn nói bóng gió về lịch sử và thần thoại của người lùn mà Eragon chẳng hiểu gì cả nhưng điều đó có vẻ làm thích thú Orik và những người lùn khác đến vô tận. Bên cạnh Íorûnn, hai tộc trưởng khác cũng nổi bật lên là những kình địch cho ngôi vua: Gannel, tộc trưởng của Dûrgrimst Quan, và Nado, tộc trưởng của Dûrgrimst Knurlcarathn. Là những người bảo vệ tín ngưỡng của người lùn, tộc Quan sử dụng ảnh hưởng to lớn giữa các dòng dõi của họ, nhưng cho đến giờ, Gannel cũng chỉ nhận được sự ủng hộ của hai bộ tộc nữa là Dûrgrimst Ragni Hefthyn và Dûrgrimst Ebardac – một bộ ! tộc ch! ủ yếu tận tụy với việc nghiên cứu học thuật. Ngược lại, Nado đã tạo dựng được liên minh lớn hơn, bao gồm các tộc Feldûnost, Fanghur, và Az Sweldn rak Anhûin. Trong khi Íorûnn có vẻ muốn ngôi báu chỉ đơn thuần vì quyền lực mà bà ta sẽ có được, Gannel không có vẻ thù địch với Varden – dù cho Eragon không thân thiện với họ cho lắm – thì Nado lại công khai và kịch liệt phản đối mọi dính líu đến Eragon, Nasuada, Đế quốc, Galbatorix, Nữ hoàng Islanzadí, hoặc theo như Eragon có thể nói: bất cứ sinh vật nào ở bên ngoài rặng núi Beor. Bộ tộc Knurlcarathn là bộ tộc của những thợ đá, nhân lực, hàng hóa và vật chất. Không tộc nào sánh bằng họ, mọi tộc khác đều dựa vào ý kiến của họ trong việc đào hầm và xây dựng nơi ở của mình, và ngay cả tộc Ingeitum cũng cần họ để khai thác quặng cho các xưởng rèn của họ. Và nếu khả năng ứng cử vương miện của Nado lung lay, Eragon biết trong số các tộc trưởng khác sẽ có ít người có chung quan điểm với nó vươn lên thế chỗ ông ta. Az Sweldn rak Anhûin chẳng hạn – bộ tộc này gần như đã bị Galbatorix và nhóm Phản đồ xóa sổ trong cuộc nổi loạn của chúng – đã tuyên bố họ là kẻ thù huyết thống của Eragon trong suốt chuyến viếng thăm của nó đến thành phố Tarnag và mọi hành động của họ trong các cuộc họp thị tộc đều biểu lộ mối căm hờn không thể xoa dịu đối với Eragon, Saphira, mọi thứ liên quan đến rồng và những ai cưỡi rồng. Họ đã phản đối cả sự hiện diện của Eragon ! ở cá! c cuộc họp giữa các tộc trưởng, điều đó làm trì hoãn nghi thức thêm sáu giờ không cần thiết. Vài ngày nay, Eragon nghĩ "mình sẽ phải tìm ra một cách để hòa giải với họ. Hoặc là vậy, hoặc là mình sẽ phải kết thúc những gì mà Galbatorix đã bắt đầu. Mình sẽ không sống cả đời trong nỗi sợ hãi Az Sweldn rak Anhûin". Một lần nữa, như nó đã làm rất thường xuyên trong mấy ngày qua, nó chờ đợi sự trả lời của Saphira. Và khi thấy điều đó không đến, một nỗi đau quen thuộc như đâm vào tim nó. Dù liên minh giữa các tộc có vững chắc đến đâu, vẫn có một nghi vấn về sự không minh bạch. Cả Orik, Íorûnn, Gannel và Nado đều không có đủ hậu thuẫn để chiến thắng trong một cuộc bầu cử đại chúng, vì vậy tất cả họ đều hăng hái tham gia vào việc cố gắng giữ lòng trung thành của những tộc đã hứa sẽ giúp họ, đồng thời cố gắng mua chuộc người ủng hộ của đối thủ. Bất chấp tầm quan trọng của quá trình, Eragon thấy nó cực kỳ nhạt nhẽo và điều đó làm nó bực mình.

Nhờ sự giải thích của Orik, Eragon hiểu rằng trước khi các tộc trưởng bầu cho mình một người cai trị, họ phải biểu quyết xem liệu họ đã sẵn sàng chọn một nhà vua hoặc một nữ hoàng mới chưa, và cuộc bầu cử sơ bộ phải được ít nhất chín phiếu thuận nếu muốn được tính là qua. Cho đến lúc đó, chưa một tộc trưởng nào, kể cả Orik, cảm thấy đủ yên tâm vào địa vị của mình để mang vấn đề ra giải quyết và tiến hành cuộc bầu cử cuối cùng. Như Orik nói, đó là phần phức tạp nhất trong cả quá trình và trong vài trường hợp, Eragon được biết là nó đã trì hoãn lâu đến phát nản. Trong lúc cân nhắc tình hình, Eragon thả bộ vu vơ xuyên qua khu phòng bên dưới Tronjheim cho đến khi nó thấy mình đang ở trong một căn phòng khô ráo, bụi bặm với một hàng gồm năm cổng vòm màu đen ở một đầu và một bức phù điêu tạc hình một con gấu đang nhe răng gầm gừ cao cỡ sáu thước. Con gấu có răng bằng vàng và mắt là những viên ruby tròn nhiều mặt. "Chúng ta đang ở đâu, Kvîstor?" Eragon hỏi, liếc nhìn những người lính gác của nó. Giọng của nó tạo ra những tiếng vang trống rỗng trong căn phòng. Eragon có thể cảm nhận được tâm trí của rất nhiều người lùn ở tầng bên trên, nhưng nó không hề biết làm sao để tới được chỗ họ. Gã lính chỉ huy, một người lùn còn khá trẻ không hơn sáu mươi tuổi, bước tới trước. "Những phòng này được khai phá hàng ngàn năm trước bởi Grimstnzborith Korgan, khi Tronjheim còn đang được xây! dựng.. Chúng tôi không sử dụng chúng nhiều kể từ hồi đó, trừ khi toàn bộ chủng tộc chúng tôi tập trung trong Farthen Dûr." Eragon gật đầu. "Ông dẫn tôi trở lên được không?" "Dĩ nhiên, Bàn Tay Bạc." Đi một cách khẩn trương, vài phút sau họ đến một cầu thang rộng rãi với bậc thang nông và có kích cỡ của người lùn, dẫn lên khỏi mặt đất đến một hành lang đâu đó ở góc tây nam Tronjheim. Kvîstor dẫn Eragon đến nhánh phía nam trong bốn hành lang dài hàng dặm chia Tronjheim theo bốn hướng của một la bàn. Đó cũng là hành lang mà Eragon và Saphira đã đi qua khi lần đầu vào Tronjheim cách đây vài tháng. Eragon đi xuống, về phía trung tâm thành phố với một cảm giác kỳ lạ. Nó cảm thấy như nó đã già đi vài tuổi trong thời gian chuyển tiếp. Con đường lớn cao bốn tầng đông đúc những người lùn của mọi bộ tộc. Tất cả bọn họ đều nhận thấy Eragon, nó chắc chắn điều đó, nhưng không phải tất cả đều hạ cố chào nó, và nó biết ơn điều này, vì nó không phải nỗ lực đáp lại bằng nhiều câu chào hơn. Eragon cứng đờ người khi nó thấy một hàng người của tộc Az Sweldn rak Anhûin đi ngang qua hành lang. Đám người lùn đồng loạt quay đầu nhìn nó, vẻ mơ hồ toát lên đằng sau cái khăn che mặt màu tím mà họ luôn mang khi ở nơi công cộng. Người lùn cuối cùng trong hàng nhổ lên sàn về phía Eragon trước khi kịp đi theo hàng qua một cánh cổng mái vòm và ra khỏi đại sảnh cùng với đồng đạo của ông ta. "Saphira mà ở đây, họ đã chẳng dá! m xấc x! ược như thế", Eragon nghĩ. Nửa giờ sau, nó tới cuối cái hành lang tráng lệ, và mặc dù nó đã đến đó rất nhiều lần trước đây, một cảm giác sợ hãi và ngạc nhiên bao trùm lấy nó khi nó bước đi giữa những cây cột bằng đá mã não có chóp bằng kim cương vàng to gấp ba lần một người và bước vào căn phòng tròn ở trung tâm Tronjheim. Căn phòng dài hàng trăm thước từ đầu này đến đầu kia, sàn nhà bằng đá cacnelian láng bóng được chạm hình một cây búa bao quanh bởi mười hai ngôi sao, tộc huy của Dûrgrimst Ingeitum và của vị vua đầu tiên của người lùn, Korgan, người đã khám phá ra Farthen Dûr khi đang đào vàng. Đối diện Eragon ở đầu bên kia là lối vào ba đại sảnh khác, trải rộng ra khắp thành phố. Căn phòng không có trần nhưng kéo dài lên tới đỉnh của Tronjheim, khoảng một dặm phía trên đầu. Ở đó mở ra vòm rồng nơi Eragon và Saphira đã trú ngụ trước khi Arya phá vỡ ngôi sao ngọc bích, và rồi đến bầu trời bên trên: một cái đĩa xanh tráng lệ dường như ở xa không tưởng tượng nổi, cứ như được đeo nhẫn bởi cái miệng mở của Farthen Dûr – ngọn núi rỗng cao mười dặm che chở Tronjheim khỏi phần còn lại của thế giới. Chỉ một lượng rất ít ánh sáng ban ngày chiếu xuống dưới đáy của Tronjheim. Thành phố Vĩnh hằng Chạng vạng – thần tiên đã gọi nó như thế. Vì có quá ít ánh sáng mặt trời vào được thành phố núi – trừ nửa giờ chói lọi trước và sau giữa trưa trong suốt thời gian nóng nhất của mùa h! è ̵! 1; những người lùn soi sáng bên trong bằng vô số những ngọn đèn lồng không có ngọn lửa của họ. Hàng ngàn những cái đèn như thế được trưng bày rực rỡ trong căn phòng. Mỗi ngọn đèn sáng chói được treo bên ngoài những cái cột của con đường có mái vòm xếp thành hàng trên mỗi tầng của thành phố. Và thậm chí còn nhiều lồng đèn hơn được gắn bên trong những mái vòm, đánh dấu những lối vào đến những căn phòng kỳ lạ không được biết tới, cũng như lối đi của Vol Turin, Cầu Thang Vô Tận, xoáy ốc xung quanh căn phòng từ sàn lên đến đỉnh. Ấn tượng gây ra vừa u sầu vừa ngoạn mục. Những ngọn đèn có rất nhiều màu sắc, khiến cho vùng bên trong của căn phòng như được tô điểm bằng những viên đá quý rực rỡ. Vẻ lộng lẫy của chúng, tuy vậy, lại lu mờ đi bên cạnh sự tráng lệ một viên ngọc thực sự, viên ngọc vĩ đại nhất trong tất cả: Isidar Mithrim. Trên sàn, những người lùn đã xây một giàn giáo bằng gỗ đường kính mười tám thước, và bên trong hàng rào ghép bởi những cái xà bằng gỗ sồi, họ đang ráp lại ngôi sao ngọc bị vỡ vụn, lần lượt từng mảnh quý giá, với một sự thận trọng và khéo léo vô cùng. Những mảnh vỡ mà họ chưa lắp được giữ trong những hộp ko có nắp, có lót những ổ len nguyên chất, mỗi hộp được ghi nhãn với một dòng những dấu hiệu nguệch ngoạc. Những cái hộp rải rác khắp một khoảng rộng của khu phía tây căn phòng. Có lẽ khoảng ba trăm người lùn đang ngồi cúi mình trên nhữ! ng cái ! hộp, mải mê với công việc của mình, cố gắn những mảnh vụn lại với nhau thành một khối liền. Một nhóm khác đang hối hả bắc giàn, hướng vào những mảnh ngọc vụn bên trong, cũng như xây thêm các công trình khác. Eragon quan sát họ làm việc trong vài phút, rồi đi thơ thẩn tới khu vực sàn nhà mà Durza đã phá vỡ khi hắn và đám chiến binh Urgals của hắn xông vào Tronjheim từ những đường hầm bên dưới. Dùng mũi giày, Eragon gõ vào sàn đá bóng loáng trước mặt. Không còn dấu vết nào những hư hại mà Durza đã gây ra. Những người lùn đã làm được một việc phi thường khi xóa bỏ những tàn tích của Trận chiến Farthen Dûr, mặc dù Eragon hy vọng họ sẽ tưởng niệm về trận chiến bằng một kiểu tượng đài nào đó, vì nó cảm thấy để cho những thế hệ tương lai không quên đi cái giá phải trả bằng máu của người lùn và quân Varden trong suốt cuộc chiến chống lại Galbatorix, là một điều quan trọng. Nản chí, Eragon lao ra khỏi phòng hội nghị tròn được giấu sâu dưới trung tâm của Tronjheim. Cánh cửa bằng gỗ cây sồi đóng lại đằng sau nó với một tiếng vang ầm.

Eragon đứng chống tay lên hông ngay giữa hành lang vòng cung bên ngoài phòng họp và nhìn chằm chằm xuống sàn đá, nơi được khảm đá mã não và ngọc bích hình chữ nhật. Từ khi nó và Orik đến Tronjheim, cách đây ba ngày, thì những việc mà mười ba tộc trưởng của các bộ tộc người lùn đã làm không có gì khác ngoài việc tranh cãi về vấn đề mà Eragon nghĩ là không cần thiết, chẳng hạn như có nhiều bộ tộc đòi quyền lợi cho người bị thương của họ ngay giữa cuộc tranh cãi. Khi nghe những cuộc tranh luận tối nghĩa của các tộc trưởng đưa ra những quan điểm pháp lý của họ, Eragon cảm thấy như muốn la to lên rằng họ đang bị mù bởi cho rằng số phận bất hạnh của toàn Alagaësia là do chính sách cai trị của Galbatorix trừ khi họ đặt mối quan tâm nhỏ nhen ít kỷ của họ qua một bên và chọn người đứng đầu mà không trì hoãn nữa.

Vẫn đang chìm đắm trong suy nghĩ, Eragon chậm bước xuống hành lang, để bốn vệ sĩ theo sau nó – như họ đã làm dù cho nó có ở bất cứ đâu – cũng như trong tộc người lùn, nhiều người chào nó với nhiều cách dành cho “Bàn-tay-bạc”. Người mà nó không mong muốn nhất là Íorûnn, Eragon nghĩ vậy. Một phụ nữ người lùn là tộc trưởng của Dûrgrimst Vrenshrrgn, một thị tộc hùng mạnh, hiếu chiến, và bà ta đã làm rõ, từ khi cuộc họp bắt đầu, rằng bà ta dự tính chiếm lấy ngai vàng cho riêng mình. Chỉ có một thị tộc khác, Urzhad, đã cởi mở thừa nhận họ theo phe bà ta, nhưng như những gì bà ta đã có dịp thể hiện trong cuộc họp giữa các tộc trưởng thì bà ta quá thông minh, xảo trá, và có thể giải quyết hầu hết các tình huống. Bà ta có thể là một nữ hoàng xuất sắc, Eragon thừa nhận, nhưng bà ta quá xảo quyệt, không thể biết được bà ta có hỗ trợ Varden hay không một khi bà ta lên ngôi. Nó tự thưởng cho mình một nụ cười nhăn nhó. Khi nói chuyện với Íorûnn, bà ta luôn cảnh giác nó. Người lùn coi bà ta là một biểu tượng sắc đẹp, và ngay cả nếu theo các tiêu chuẩn của con người, thì bà ta gây một ấn tượng rất mạnh. Bên cạnh đó, bà ta dường như làm mê hoặc Eragon khiến nó không thể không để ý. Trong tất cả các cuộc tranh luận, bà ta cứ luôn đưa ra lời ám chỉ về lịch sử và thần thoại của bộ tộc người lùn, điều mà Eragon không hiểu lắm nhưng dường như để Orik và các người lùn khác phân tâm ! không dừng lại được.

Thêm vào với Íorûnn, hai tộc trưởng khác đã nổi lên như là địch thủ của nhau cho ngôi vua. Gannel, tộc trưởng của Quan Dûrgrimst, và Nado, tộc trưởng của Dûrgrimst Knurlcarathn. Như người quản lý của các tôn giáo người lùn, các Quan có ảnh hưởng rất lớn giữa các thị tộc của họ, nhưng cho đến nay, Gannel đã đạt được sự hỗ trợ của hai thị tộc khác, Dûrgrimst Ragni Hefthyn và Dûrgrimst Ebardac – thị tộc chỉ chủ yếu dành riêng cho các học giả nghiên cứu. Ngược lại, Nado đã giả tạo một liên minh lớn hơn, bao gồm các thị tộc Feldûnost, Fanghur, và Az Sweldn rak Anhûin.

Ngược lại với Íorûnn dường như muốn cái ngai chỉ dành cho cái quyền lực mà bà ta có ý định đạt được sau đó, Gannel, vốn đã không có vẻ thù nghịch với Varden – mặc dù không phải là ông ta thân thiện với họ – Nado thì thẳng thắn và kịch liệt chống lại bất kỳ những dính dáng có sự hiện diện của Eragon, Nasuada, Đế Quốc, Galbatorix, Nữ Hoàng Islanzadí, hoặc, cho đến nay Eragon có thể nói, bất kỳ sinh vật nào bên ngoài Núi Beor. Knurlcarathn là thị tộc xây dựng và ở nam giới cũng như về nhu cầu vật chất, họ không có sự cân bằng, vì mỗi thị tộc khác đều phụ thuộc vào chuyên môn của họ cho việc đào hang hay xây dựng nơi ở, và thậm chí ngay cả Ingeitum cũng cần họ khai thác các mỏ quặng cho lò rèn của mình. Và nếu Nado giành được ngôi vua thì sẽ có biến động, Eragon biết rằng nhiều người trong số ít tộc trưởng sẽ chịu chia sẻ quan điểm của ông ta, sẽ nhảy lên và chiếm lấy ngôi của ông ta. Az Sweldn rak Anhûin, là một ví dụ điển hình như là Galbatorix và Forsworn, đã gần như xoá sổ trong thời gian của cuộc nổi dậy – đã công khai rằng sẽ lấy máu của kẻ địch là Eragon trong thời gian nó ghé thăm thành phố Tarnag và trong mỗi hành động của họ tại cuộc họp của các thị tộc, đã chứng tỏ lòng căm thù vẫn không nguôi đối với Eragon, Saphira, và mọi thứ cần làm với con rồng và người cưỡi chúng. Họ đã tỏ ra khó chịu khi để Eragon tham dự tại cuộc họp của các tộc trưởng, mặc dù nó đã được pháp luật của ! người lùn hoàn toàn cho phép, và được phép tham dự cuộc họp này, do đó không cần phải trì hoãn các nghi thức những sáu giờ.

Một trong những ngày này, Eragon nghĩ, mình sẽ phải tìm cách để tạo hoà bình với họ. Nếu không mình sẽ phải hoàn thành những gì Galbatorix gây ra. Mình từ chối tiếp tục sống trong sự sợ hãi về Az Sweldn rak Anhûin. Một lần nữa, như nó đã thường xuyên làm vậy trong quá khứ cách đây vài giờ, nó chờ hồi âm của Saphira, và khi không nhận được, một cảm giác đau nhói quen thuộc như đâm vào tim nó.

Liên minh giữa các thị tộc vững chắc đến đâu, tuy nhiên, đó là câu hỏi không chắc chắn. Orik, Íorûnn, Gannel cũng như Nado, tất cả đều không có đủ ủng hộ để thắng cuộc bình chọn người được bầu chọn lên ngôi, vì thế tất cả họ đều tích cực tham gia vào việc giữ lại lòng ủng hộ của các thị tộc, những người mà đã hứa sẽ giúp họ trong khi đó, họ lại đang đâm lén sau lưng kẻ địch. Mặc cho tầm quan trọng của vấn đề, Eragon cho rằng việc đó cực kỳ chán ngắt và bực bội.

Dựa trên những lời giải thích của Orik và theo như Eragon hiểu thì trước khi các tộc trưởng muốn đưa ra một điều lệ, họ phải thông qua bỏ phiếu, cho dù muốn hay không thì họ phải chuẩn bị sẵn sàng để chọn ra một vị vua hay nữ hoàng và việc bầu cử sơ bộ phải được bỏ vào ít nhất chín phiếu bằng chính năng lực của họ để được thông qua. Đến bây giờ, không một tộc trưởng nào, kể cả Orik, cảm thấy đủ an toàn ở vị trí của họ để đưa ra vấn đề vào đầu và tiếp tục đến cuối cuộc bầu cử. Đó là, như Orik đã nói, trong vài trường hợp, được biết như là kéo theo một khoảng thời gian dài bực bội.

Khi đã cân nhắc về tình trạng đó xong, Eragon đi thơ thẩn qua nhiều ngõ ngách dưới Tronjheim cho tới khi nó tìm lại được chính nó trong cái phòng khô và đầy bụi bặm, với năm cung vòm đen trên một mặt và một bức phù điêu được khắc với một con gấu cao hai mươi feet đang gầm gừ ở mặt còn lại. Con gấu có răng vàng và tròn, mắt được khảm màu hồng ngọc.

- Chúng ta đang ở đâu vậy, Kvîstor? Eragon hỏi, nhìn qua những vệ sĩ. Tiếng nói của nó vang khắp phòng. Eragon có thể cảm thấy được tâm trí của nhiều người lùn với cấp độ trên họ, nhưng nó không biết làm sao để tiếp cận.

Người vệ sĩ dẫn đầu, một người lùn khá trẻ không hơn sáu mươi, bước lên. – Các phòng này đã được dọn cách đây nhiều thiên niên kỷ bởi Tộc trưởng Korgan, khi Tronjheim đang xây dựng. Chúng tôi đã không sử dụng chúng nhiều từ đó, ngoại trừ khi toàn bộ tập hợp ở Farthen Dûr.

Eragon gật đầu: – Có thể đưa tôi quay trở lên phía trên?

- Tất nhiên, thưa Bàn-Tay-Bạc.

Một vài phút đi bộ đưa họ lên một cầu thang rộng không sâu lắm, với kích cỡ bước chân của người lùn, lên khỏi mặt đất đến một hành lang nào đó nằm ở phía tây nam của thành Tronjheim. Từ đó, Kvîstor hướng dẫn Eragon vào hành lang phía nam khoảng chừng bốn dặm dài, chia Tronjheim dọc theo xung quanh điểm chính giữa.

Đó cũng là cái hành lang mà qua đó Eragon và Saphira đã lần đầu tiên bước vào Tronjheim cách đây vài tháng trước, và Eragon đi xuống, hướng về trung tâm của thành phố núi, với một cảm giác lạ của lòng hoài cổ. Nó cảm thấy như đã già đi nhiều năm tuổi.

Đại lộ số bốn mươi, một đám đông người lùn trong nhiều bộ tộc khác nhau. Hầu hết trong số họ nhận ra Eragon, nó chắc chắn thế, nhưng không ai chào nó, điều mà nó rất cảm ơn, vì điều đó cứu nó khỏi các nỗ lực phải trả lại nhiều hơn là các lời chào.

Eragon gần như hoá đá khi trông thấy một nhóm người của tộc Az Sweldn rak Anhûin băng qua hành lang. Một trong số họ quay lại nhìn nó, mặt của họ bị che khuất sau mạng che màu tím, cái mà họ luôn đeo khi đi ra ngoài. Người lùn đi cuối cùng trong đó phỉ nhổ ngay trước mặt Eragon trước khi đi nhập vào dòng người và ra khỏi hành lang cùng với anh em của hắn. Nếu Saphira ở đây, chúng sẽ không dám xấc láo như thế”, Eragon nghĩ.

Nửa giờ sau, nó đến khúc cuối hành lang tráng lệ, và mặc dù nó đã đi nhiều lần trước đây nhưng một cảm giác của sự sợ hãi và thắc mắc bao trùm lấy nó như khi nó đi giữa các cột mã não đen có ngọn màu vàng đá zircon với kích thước gấp ba lần của một người. Nó đi vào phòng họp tròn ngay giữa Tronjheim.

Phòng họp rộng khoảng một ngàn feet, với một tầng khắc đá carnelian bóng loáng với một cái búa, bao quanh là mười hai biểu tượng, là gia huy của thị tộc Dûrgrimst Ingeitum và của vị vua người lùn đầu tiên, Korgan, người đã phát hiện ra Farthen Dûr trong khi đào mỏ vàng. Đối diện với Eragon và cũng như phía bên kia là ngõ ra vào của ba đại sảnh dẫn xuyên qua thành phố núi. Phòng hội nghị không có nóc nhưng dẫn lên phía trên cùng của Tronjheim, khoảng một dặm.Đó là nơi dành cho rồng khi Eragon và Saphira đã từng ở cho đến khi Arya làm vỡ ngôi sao Sapphire, và rồi bầu trời: một màu xanh sáng xa xăm có vẻ không thể tưởng tượng được, bao lấy miệng thành phố núi Farthen Dûr cao trên mười dặm, để che khuất Tronjheim khỏi tầm nhìn của thế giới bên ngoài.

Chỉ có một số lượng ánh sáng vừa đủ chiếu vào Tronjheim. Thành phố Chạng Vạng Vĩnh Cửu, các thần tiên gọi như vậy. Bởi chỉ một vài tia nắng mặt trời có thể lọt vô được thành-phố-núi, ngoại trừ một chút tia nắng chói loá mắt nửa giờ trước và sau buổi trưa khi nắng hè lên cao. Người lùn thắp sáng bằng nhiều các lồng đèn không có lửa. Hàng ngàn trong số đó soi sáng phòng hội nghị. Một cái lồng đèn treo ở ngoài trên từng cây cột của mái vòm cong mà mỗi tầng của thành-phố-núi đều có, và thậm chí nhiều đèn hơn được gắn vào nhiều mái vòm, tạo thành lối vào cho các phòng xa lạ, cũng như con đường của Vol Turin, Cầu Thang Vô Tận, cái mà xoắn quanh phòng hội nghị từ đỉnh tới đáy. Hiệu quả cực kỳ cách điệu lẫn đẹp mắt. Các lồng đèn có nhiều màu sắc khác nhau, làm cho sự xuất hiện của nó như là bên trong phòng hội nghị như được điểm thêm với nhiều viên đá quý rực rỡ.

Vẻ lộng lẫy của nó, tuy nhiên, lu mờ bên cạnh vẻ đẹp lộng lẫy của một viên đá quý thật sự, viên đá quý lớn nhất trong tất cả: Isidar Mithrim. Trên sàn nhà của phòng họp, các người lùn đã xây dựng một cái giàn giáo gỗ có đường kính khoảng sáu mươi mét, và phía bên trong của hàng rào gỗ sồi tươi, chúng là, từng mảnh quý giá kề nhau, ráp lại các mảnh vỡ của Khối Ngọc Sao Hoa với một cách cực kỳ cẩn thận và tinh vi . Các mảnh chưa tìm ra chỗ để ráp lại thì được lưu giữ trong các hộp đang mở với miếng lót bằng len phía trong, mỗi hộp được dán nhãn với một dòng chữ cổ khẳng khiu. Cái hộp được mở đầy ra ở mặt phía Tây của phòng họp rộng lớn. Có lẽ ba trăm người lùn ngồi quanh, chăm chú vào công việc của họ trong lúc họ tìm chỗ để gắn các mảnh vỡ phù hợp vào nhau để thành một khối. Nhóm khác hối hả chung quanh giàn giáo, giữ cho các mảnh đá quý trong vòng, như cũng như xây dựng thêm các cấu trúc.

Eragon quan sát chúng trong vài phút, rồi thả bộ qua khu lầu nơi mà Durza đã tàn phá khi hắn và lũ chiến binh Urgal của hắn xâm nhập vào Tronjheim từ đường hầm phía dưới. Dùng mũi giầy, Eragon đá cục đá phía trước. Không còn một vết tích hư hại mà Durza gây ra. Người lùn đã xoá sạch các vết tích còn lại của trận chiến Farthen Dûr, mặc dù Eragon hy vọng rằng họ sẽ để lại làm kỷ niệm, cho thế hệ sau không bao giờ quên là máu của nhiều người lùn và Varden đã đổ xuống trong quá trình đấu tranh chống lại Galbatorix. Khi Eragon đi lại giàn giáo, nó gật đầu chào Skeg, người đang đứng trên nền đá nhìn Khối Ngọc Sao Hoa. Eragon đã gặp người lùn gầy, nhanh nhẹn này trước đây. Skeg là thành viên của Dûrgrimst Gedthrall, và đã được Vua Hrothgar tin tưởng giao cho nhiệm vụ phục hồi kho báu quý giá nhất của người lùn.

Skeg ra hiệu cho Eragon leo lên trên nền đá. Một khung cảnh đầy đá quý, hình chóp nhọn, lấp lánh, cạnh mỏng như giấy, bề mặt gợn sóng làm cho Eragon thấy giống như nó kéo chính nó lên trên tấm ván thô sơ. Phía trên của Khối Ngọc Sao Hoa nhắc nó nhớ đến băng trên sông Anora ở thung lũng Palancar vào cuối mùa đông, khi mà băng vừa tan vừa đông lại nhiều lần và rất nguy hiểm khi đi qua, có nhiều cú va mạnh và băng nhấp nhô qua lại khi nhiệt độ lên cao. Thay vì chỉ có màu xanh biển, trắng, hay là trong suốt thì những mảnh còn lại của Khối Ngọc Sao Hoa lại mềm, hồng hồng, nhìn được thông qua các vết nâu cam.

- Việc như thế rồi vậy? Eragon hỏi.

Skeg nhún vai và khua tay trong không khí như hai cánh bướm. – Nó vẫn như thế, thưa Bàn Tay Bạc. Ngài không thể vội vàng để hoàn thành.

- Đối với tôi thì ông đang tiến hành nhanh tiến trình.

Với một ngón trỏ xương xẩu, Skeg giơ tay lên, chùi chùi cái mũi rộng và tẹt. – Phần trên của Isidar Mithrim – Khối Ngọc Sao Hoa, những gì bây giờ ở phía dưới, Arya đã làm vỡ nó ra thành nhiều mảng lớn, nên dễ gắn lại với nhau. Phần dưới của Khối Ngọc Sao Hoa, tuy nhiên, những gì hiện ở phía trên …

Skeg lắc đầu, nhăn mặt đau buồn. – Do ảnh hưởng của vụ vỡ, tất cả các phần ngược lại với bề mặt của khối ngọc, bị đẩy ra do Arya và rồng Saphira, hướng xuống phía ngài và Tim Đen… nó đã vỡ hoa hồng phía trong thành từng miếng nhỏ hơn bao giờ hết. Và hoa hồng, Bàn-Tay-Bạc à, hoa hồng là biểu tượng của viên đá. Nó là phần phức tạp nhất, phần đẹp nhất của Khối Ngọc Sao Hoa. Và giờ nó nằm ở hầu hết các phần. Trừ khi chúng tôi có thể ráp lại hết, ở mọi nơi nó lẫn vào, chúng tôi có thể đưa viên đá cho các thợ kim hoàn và họ mài nhẵn thành vòng tròn cho mẹ của chúng tôi.

Các từ Skeg nói ra như nước tràn bờ. Ông ta la bằng ngôn ngữ người lùn vào người đang mang cái hộp qua hành lang, sau đó giật giật râu trắng của ông và hỏi: – Ngài đã bao giờ nghe kể lại chưa, Bàn-Tay-Bạc, câu chuyện kể về Khối Ngọc Sao Hoa được khắc ra, trong thời đại của Herran?

Eragon ngập ngừng, nhớ lại bài học lịch sử ở Ellesméra. – Tôi biết nó được khắc bởi Dûrok.

- Đúng thế. Skeg nói: – Đó là Dûrok Ornthrond – Mắt Sáng, như ngài nói theo ngôn ngữ chúng tôi. Không phải chính ông ta là người phát hiện ra Khối Ngọc Sao Hoa, nhưng nó được ông ta phát hiện ra từ những hòn đá xung quanh, ông ta là người khắc ra nó, và cũng là người làm đẹp cho nó. Năm mươi năm, ông ta dùng hết thời gian để làm ra Ngôi Sao Hoa. Viên đá mê hoặc ông hơn bất cứ thứ gì khác. Mỗi đêm, ông ta lúi cúi ngồi nhìn Khối Ngọc Sao Hoa đến khi trời sắp sáng, như ông ta đã xác định rằng Khối Ngọc Sao Hoa không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, mà còn liên kết tâm hồn của tất cả những ai cầu nguyện với nó và nó sẽ cho người đó tìm được một chỗ trong bàn của các vị thần. Lòng tận tâm của ông ta là như vậy, trong ba mươi năm thứ hai của ông, khi bà vợ nói với ông ta rằng ông phải chia sẻ gánh nặng với người học việc hoặc bà ta sẽ rời khỏi nhà, Dûrok không nói lời nào nhưng xoay vai lại và típ tục làm cánh hoa như ông ta đang làm một năm trước. Dûrok típ tục làm Khối Ngọc Sao Hoa cho tới khi ông ta hài lòng với tất cả các đường thẳng và cong. Sau đó ông mặc một bộ đồ trang nhã, bước lại Khối Ngọc Sao Hoa và nói: “Gûntera, hãy bảo vệ tôi; tất cả đã xong”, và rồi ngã chết trên sàn.

Skeg đập lên ngực mình, tạo ra một tiếng đập mạnh. – Trái tim của ông ta đã ra, cho cái gì nữa mà ông ấy phải sống? … Đó là những gì chúng tôi đang khôi phục lại, Bàn Tay Bạc: năm mươi bảy năm của việc không ngừng cố gắng bởi một trong những nghệ sĩ của tộc chúng tôi đã được biết. Trừ khi chúng tôi có thể đặt Khối Ngọc Sao Hoa trở lại chính xác ban đầu, chúng tôi sẽ phải hoàn thành những gì Dûrok đã làm, cho tất cả những ai chưa từng nhìn thấy Khối Ngọc Sao Hoa. Nắm chặt bàn tay phải của mình, Skeg thình lình đập xuống đùi để nhấn mạnh từng từ của mình.

Eragon tựa lên lan can cao tới hông ở phía trước nó và theo dõi năm người lùn phía đối diện của viên đá đang treo thấp người lùn thứ sáu, người đang buộc chặt trong sợi dây, cho tới khi anh ta treo người từng tý một lên phía trên cạnh nhọn của viên đá vỡ Sapphire. Thò tay vào trong, người lùn đang treo lơ lửng tháo từng mảnh nhỏ của Khối Ngọc Sao Hoa từ cái ví da và túm lấy cái miếng vỡ với cái kiềm nhỏ, vừa đủ để đặt vào phía trong của khối ngọc.

– Nếu như lễ đăng quang được tổ chức sau hôm này ba ngày, ông có thể khôi phục Khối Ngọc Sao Hoa trước lúc đó không? Eragon hỏi.

Skeg gõ gõ cái lan can với mười ngón tay của ông ta, tạo ra một nhịp điệu mà Eragon không thể nhận ra là điệu gì, ông lùn nói: – Chúng tôi sẽ không vội vàng khôi phục Khối Ngọc Sao Hoa nếu như không phải con rồng của ngài đề nghị giúp đỡ. Việc hấp tấp vội vàng xa lạ với chúng tôi, Bàn-Tay-Bạc à. Nó không phải là bản chất của tộc chúng tôi, đó là của tộc người, vội vàng như vậy thì giống loài kiến khích động. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ làm hết mình để Khối Ngọc Sao Hoa sẵn sàng vào thời điểm lễ đăng quang. Nếu như ngài cần trong ba ngày kể từ bây giờ… cũng được, tôi không nên quá hy vọng về tiến trình chúng tôi đang làm. Nhưng nếu như được thì trong tuần sau, tôi nghĩ là chúng tôi sẽ hoàn tất.

Eragon cảm ơn Skeg vì dự đoán của ông ta, sau đó nó đi khỏi. Với những người bảo vệ theo sau nó, Eragon đi tới một trong những phòng ăn ở thành-phố-núi, một phòng dài, thấp với nhiều bàn đá sắp xếp theo hàng dài một bên, và nhiều người lùn đang bận về cái lò đá phía bên kia.

Ở đây Eragon ăn bánh mì, cá có thịt trắng mà người lùn bắt ở dưới hồ, nấm, và một số loại khoai nghiền nhừ mà nó đã ăn trước đây ở Tronjheim nhưng chưa biết nguồn gốc mà nó giờ mới biết. Trước khi nó bắt đầu ăn, thế nhưng, nó cẩn thận kiểm ra thức ăn coi có độc hay không, bằng cách sử dụng phép mà Oromis đã dạy nó.

Khi Eragon ăn nốt mẩu bánh mì cuối cùng với, uống một chút bia vào buổi sáng, Orik và khoảng mười chiến binh cùng bộ tộc đi vào phòng ăn. Các chiến binh ngồi tại bàn của họ, nơi mà họ có thể quan sát cả hai cổng ra vào, trong khi Orik tham gia với Eragon, đặt mình ngồi vào bàn phía đối diện. Anh ta đặt khuỷu tay lên bàn và để mặt lên tay.

Eragon thi triển một vài phép để ngăn ai đó nghe lén, rồi hỏi: – Có phải chúng ta vừa trải qua một cuộc thất bại khác?

- Không, không có cuộc thất bại nào hết. Chỉ có những cuộc bàn cãi trong bực bội.

- Tôi đã nhận thấy.

-Và mọi người thì nhận thấy tâm trạng thất vọng của cậu. Orik nói. -Cậu phải kiểm soát mình tốt hơn về sau, Eragon à. Để lộ ra điểm yếu cho đối thủ của cậu không có gì hơn là giúp cho họ. Tôi Orik đột nhiên im lặng khi một người lùn bệ vệ đi lạch bạch và đặt dĩa đồ nóng hổi trước mặt anh ta.

Eragon cau mày nhìn góc bàn. -Nhưng chẳng phải anh là ứng cử viên tốt nhất cho ngôi vua? Chúng ta có tiền thêm được bước nào với tất cả những chuyện tầm phào lê thê này không?

Orik giơ một ngón tay lên trong khi nhai cái miệng đầy bánh mì. -Chúng ta đã đạt được rất nhiều. Đừng có ủ rũ thế! Sau khi cậu đi, Havard đã đồng ý giảm thuế đánh vào giá muối của Dûrgrimst Fanghur bán cho Ingeitum, đổi lại trong mùa hè, họ có thể vào đường hầm của chúng ta tới Nalsvrid-mérna, để họ có thể săn hươu đỏ tụ tập quanh hồ trong những tháng ấm áp của năm. Cậu nên thấy Nado nghiến răng thế nào khi Havard chấp nhận lời đề nghị của tôi.

- Chết tiệt! Eragon nhổ nước bọt. -Thuế, hươu – việc đó có ảnh hưởng gì tới người lãnh đạo thành công như Hrothgar? Thành thật với tôi đi, Orik. Vị trí của anh như thế nào so với những tộc trưởng khác? Và việc này còn kéo dài tới chừng nào nữa? Với mỗi ngày qua đi, nó càng khiến cho Đế Quốc sẽ phát hiện ra trò lừa này và Galbatorix sẽ tấn công Varden khi tôi không có đó để bảo vệ khỏi Murtagh và Thorn.

Orik chùi miệng của mình vào một góc khăn trải bàn. -Vị trí của tôi ảnh hưởng vừa đủ. Không có các tộc trưởng nào có đủ hỗ trợ để kêu gọi biểu quyết, nhưng Nado và tôi có nhóm người ủng hộ tốt nhất. Nếu một trong hai giành được ủng hộ của hai hoặc ba bộ tộc khác, thế cân bằng sẽ nhanh chóng thuộc về người đó. Havard đang dao động rồi. Cho nên việc này sẽ không mất quá nhiều công khích lệ, tôi nghĩ, để thuyết phục ông ta vào chung phe với ta. Tối nay chúng ta sẽ ăn bánh mì với ông ta, và tôi sẽ làm những gì tôi có thể để thu xếp việc đó.

Orik nhai ngấu nghiến miếng nấm khô, rồi nói: -Khi cuộc họp giữa các thị tộc kết thúc, có thể sau đó một tuần nếu chúng ta may mắn, và có lẽ hai nếu không.

Eragon lầm bầm chửi rủa. Nó quá căng thẳng, bụng của nó sôi ầm ầm và đe doạ sẽ loại bỏ miếng thịt nó vừa ăn. Chồm qua bàn, Orik nắm lấy cổ tay Eragon. -Không có gì mà cậu và tôi có thể làm hơn nữa để đẩy nhanh quyết định của cuộc họp các thị tộc, do đó đừng để việc đó làm cậu lo nữa. Lo lắng về những gì cậu có thể thay đổi, và để phần còn lại theo cách của nó, hiểu chứ? Anh ta thả tay Eragon ra.

Eragon thở nhẹ ra và chống cánh tay lên bàn. -Tôi biết. Nó chỉ là chúng ta có quá ít thời gian, và nếu thất bại thì…

-Việc gì tới sẽ tới. Orik nói. Anh ta cười nhưng mắt anh ta buồn và trống rỗng. -Không ai có thể thoát được sự sắp đặt của số phận.

-Anh không thể chiếm cái ngai bằng vũ lực ư? Tôi biết anh không có nhiều quân ở Tronjheim, nhưng với sự hộ thuẫn của tôi, ai có thể chống lại anh?

Orik dừng con dao ở giữa cái dĩa và miệng mình, rồi lắc đầu, tiếp tục ăn.Vừa nhai nhồm nhoàm, anh ta vừa nói: –Như thế sẽ chỉ tai hại thêm.

–Tại sao?

–Cần tôi phải giải thích ư? Toàn bộ chủng tộc tôi sẽ chống lại chúng ta, và thay vì kiểm soát được quốc gia, tôi sẽ thừa kế chỉ có hư danh. Nếu họ chống lại, tôi sẽ không đặt cược dù chỉ một thanh kiếm gãy là chúng ta sẽ không sống nổi trong một năm.

–À!

Orik không nói thêm gì nữa đến khi thức ăn trên đĩa anh ta sạch bách. Sau đó, anh ta uống một ngụm bia, và tiếp tục cuộc trò chuyện: –Chúng ta đang ở thế cân bằng trên một đường núi lồng lộng gió với dốc đứng cao một dặm ở cả hai đầu. Nhiều bộ tộc trong chúng tôi ghét và sợ Kỵ Sĩ Rồng bởi những tội ác mà Galbatorix, và Lũ Phản đồ gây ra, và giờ là Murtagh đã cam kết chống lại chúng tôi. Và nhiều người trong số họ lo sợ thế giới bên ngoài các ngọn núi, đường hầm và hang mà chúng tôi ẩn nấp.

Orik nhìn xung quanh bàn và nói tiếp: –Nado và Az Sweldn rak Anhûin chỉ làm tình hình thêm xấu đi. Họ lợi dụng nỗi lo sợ của mọi người để chống lại cậu, Varden, và Vua Orrin… Az Sweldn rak Anhûin chỉ là bản sao thu nhỏ của những gì chúng ta phải vượt qua nếu tôi lên làm vua. Bằng cách nào đó, chúng ta phải tìm ra cách xoa dịu mối quan tâm của họ, và của những người như họ, thậm chí nếu cho tôi làm vua, tôi sẽ phải cung cấp cho họ nghe những điều đúng sự thật nếu tôi muốn duy trì được sự hỗ trợ của các bộ tộc. Vua hay Nữ hoàng người lùn luôn phải khoan nhượng giữa các thị tộc, cho dù họ là người cầm quyền mạnh đến thế nào đi nữa,cũng như khi các tộc trưởng có ủng hộ của các gia đình trong thị tộc của họ.

Nghiêng đầu, Orik uống cạn cốc bia của mình, rồi đặt xuống với một tiếng cạch.

–Có gì tôi có thể làm không, bất cứ tập quán hay nghi lễ nào của tộc anh mà tôi có thể thực hiện, điều gì đó sẽ làm Vermûnd và những người của ông ta nguôi giận? Eragon hỏi, tên của người lãnh đạo hiện thời của Az Sweldn rak Anhûin. –Phải có cái gì để tôi có thể làm dịu lại sự nghi ngờ và đem đến một kết thúc cho mối thù này.

Orik bật cười và đứng dậy khỏi bàn: –Cậu có thể đi chết Sáng sớm hôm sau, Eragon ngồi tựa lưng lại bức tường cong trong một phòng tròn, sâu dưới trung tâm của Tronjheim, cùng với một số nhóm chiến binh, cố vấn, phục vụ, và thành viên các gia đình của các tộc trưởng, những người đủ tư cách để tham dự cuộc họp các thị tộc. Các lãnh đạo thị tộc thì ngồi trên ghế lớn, được khắc, bố trí xung quanh các cạnh của bàn tròn, mà hầu hết đều giống lời chú giải ở tầng cuối cùng của thành-phố-núi đào qua đỉnh của Korgan và Ingeitum.

Vào lúc này, Gáldhiem, lãnh đạo bộ tộc Dûrgrimst Feldûnost, đang nói. Ông ta lùn, ngay cả với một người lùn – khó hơn hai feet chiều cao – và mang mẩu áo choàng vàng, nâu đỏ nhat, và xanh đậm. Không giống như nhiều người lùn trong Ingeitum, ông ta không gọn gàng hoặc tết râu lại, để nó lòng thòng trước ngực như là bụi cây gai. Đứng trên ghế, ông đập mạnh cái bàn bóng loáng bằng tay nắm lại trong găng của ông ta và gầm lên, ” . . . Eta! Narho ûdim etal os isû vond! Narho ûdim etal os formvn mendûnost brakn, az Varden, hrestvog dûr grimstnzhadn! Az Jurgenvren qathrid né dômar oen etal-”

“. . . Không,” Eragon dịch lại, một người lùn tên Hûndfast, thì thầm. “Ta sẽ không cho phép điều đó xảy ra. Ta sẽ không để các lũ đần độn không râu này, lũ Varden, phá huỷ quốc gia của chúng ta. Cuộc Chiến Rồng làm chúng ta yếu đi và không -”

Eragon cố kiềm chế ngáp, chán chường. Nó tự cho phép chính nó thả hồn nhìn xung quanh bàn đá granit, từ Gáldhiem đến Nado, một người lùn mặt tròn với tóc màu vàng nhạt, người đang gật đầu lia lịa với bài diễn thuyết như sấm của Gáldhiem; Đến Havard, người đang dùng dao găm để làm sạch móng tay dưới của hai ngón tay còn lại trên tay phải của ông; Đến Vermûnd, lông mày rậm nhưng mặt khác, khó dò sau mạng che tím của ông; Đến Gannel và Ûndin, người ngồi hướng gần nhau, đang thì thầm, trong khi Hadfala, một phụ nữ người lùn cao tuổi là tộc trưởng Dûrgrimst Ebardac và là thành viên thứ ba trong liên minh với Gannel, cau mặt nhìn mớ giấy da đầy phép thuật mà bà ta mang đến mọi cuộc họp; Và rồi tới tộc trưởng của Dûrgrimst Ledwonnû, Manndrâth, người ngồi nghiêng về phía Eragon, lộ ra cái mũi dài, khoằm xuống để ấn tượng tốt; Đến Thordris, tộc trưởng của Dûrgrimst Nagra, người mà nó có thể thấy một chút trừ mái tóc gợn sóng màu nâu vàng của bà, mà nó thì xoã ra sau vai bà xuống sàn, bằng hai lần chiều cao của bà; Đến phía sau đầu của Orik mà nó có thể thấy sau lưng ghế anh ta là Freowin, tộc trưởng Dûrgrimst Gedthrall, một người lùn cực kỳ béo, người luôn giữ mắt ông cố định lên khúc gỗ mà ông đang bận khắc vào chân dung một con quạ to tướng; Đến Hreidamar, tộc trưởng của Dûrgrimst Urzhad, người mà trái ngược với Freowin, tướng người vừa vặn, với cẳng tay nhỏ, người mặc áo giáp dài và chỉ huy việc thu thập thông tin; Và! cuối cùng đến Íorûnn, da của bà ta nâu sẫm bị một vết thương mỏng, hình lưỡi liềm ngay trên xương gò má bên trái, một mái tóc bóng mượt buộc dưới mũ bạc hình đầu sói, mặc một cái váy màu đỏ son và đeo vòng cổ bằng vàng nạm ngọc lục bảo lấp lánh.

Íorûnn để ý Eragon đang nhìn bà ta. Một cái cười mỉm hiện ra trên môi bà. Với vẻ khêu gợi, bà ta nháy mắt về phía Eragon, che khuất một trong hai cặp mắt hình quả hạnh của bà từng làm lỗi nhịp nhiều trái tim.

Má của Eragon đỏ lên như máu bị dồn lên, tai nó đỏ bừng như bị ong đốt. Nó thay đổi cái nhìn về phía Gáldhiem, ông ta vẫn còn đang bận cố chấp với ý kiến của ông, đưa ngực ra trước như con gà trống oai vệ.

Vì Orik đã nói trước, Eragon vẫn bình thản suốt cuộc họp, giấu phản ứng lại những người nhìn nó. Khi cuộc họp tạm dừng để ăn trưa, nó vội đi lại Orik và giả bộ về hướng khác để không ai có thể nghe thấy, nói: – Đừng tìm tôi từ bàn của anh. Tôi chịu đủ việc ngồi và nói rồi. Tôi sẽ đi khám phá các đường hầm một tý.

Orik gật đầu, giả vờ lãng đi, và thì thầm trả lời: – Cứ làm gì mà cậu muốn, nhưng chắc chắn là cậu sẽ về trước khi cuộc họp tiếp tục; Sẽ không tốt nếu cậu trốn, cho dù cuộc họp chán như thế nào đi nữa.

– Theo ý anh vậy.

Eragon ra khỏi phòng họp, qua khỏi một nhóm người lùn đang hăm hở ăn bữa trưa của họ, và quay trở lại với bốn vệ sĩ đang chờ ở ngoài hành lang, nơi họ đang chơi trò may rủi với nhiều chiến binh nhàn rỗi của các thị tộc khác. Với những vệ sĩ theo sau, Eragon đi vào một hướng ngẫu nhiên, cho phép đôi chân mang nó đi nơi nào muốn trong khi nó suy nghĩ về cách hàn gắn lại việc chia bè phái bất đồng của người lùn thành một khối đoàn kết chống lại Galbatorix. Theo như nó nghĩ thì cách duy nhất nó có thể hình dung ra thì thật là quá cường điệu, thật quá ngớ ngẩn để tưởng tượng ra cách đó có thể thành công.

Eragon để ý đến nhóm người lùn mà nó gặp trong đường hầm—ngoại trừ lầm bầm vài câu chào mà đôi khi phép xã giao lịch sự đòi hỏi—thậm chí rào cản xung quanh của nó cũng không chính xác, tin tưởng rằng Kvîstor có thể dẫn nó trở về phòng họp. Mặc dù Eragon không học lập rào cản xung quanh, nó vẫn giữ dấu tư tưởng của hầu hết các sinh vật mà nó có thể cảm nhận được trong bán kính vài chục thước, thậm chí đến cả con nhện nhỏ nhất đang trốn sau cái mạng nhện trong góc một căn phòng, vì Eragon không muốn bị bất ngờ vì ai đó tìm ra nó.

Cuối cùng khi nó dừng lại, nó ngạc nhiên khi thấy chính nó ở trong cùng căn phòng bụi bặm mà nó đã phát hiện trong lần đi lang thang ngày hôm trước. Phía bên trái nó vẫn là năm khung vòm đen dẫn tới cái hang bí ẩn này, trong khi phía bên phải nó cũng là bức phù điêu khắc đầu và vai một con gấu đang gầm gừ. Vẫn còn ngạc nhiên bởi sự trùng hợp ngẫu nhiên, Eragon đi chậm rãi về phía bức phù điêu bằng đồng và nhìn lên răng nanh trắng bóng của con gấu, tự hỏi cái gì đã kéo nó quay trở lại.

Một lúc sau, nó đi vào giữa năm khung vòm và nhìn qua đó. Hành lang chật hẹp phía dưới không có đèn lồng và sớm chìm vào bóng tối. Phóng tư tưởng của nó ra, Eragon thăm dò xem độ dài của đường hầm và một số các phòng mỏ ngõ bị bỏ. Một nửa tá nhện và một đống gồm bướm đêm, động vật nhiều chân, và dế là những loài duy nhất cư trú ở dưới. –Xin chào. Eragon kêu, và nghe như là giọng nói của chính nó quay lại còn một nửa âm lượng. –Kvîstor. Eragon nói, nhìn vào anh ta. –Không lẽ chẳng có ai sống ở nơi cổ xưa này?

Một người lùn mặt trẻ măng trả lời: –Có một số. Một số ít người lùn kỳ quặc, những người mà không có bạn bè là niềm vui hơn so với cái chạm của tay vợ hoặc âm thanh tiếng nói của bè bạn. Một trong những người lùn trong số đó đã báo cho chúng ta cách tiếp cận đội quân của Urgal, nếu ngài còn nhớ, Bàn-Tay-Bạc. Ngoài ra, mặc dù chúng tôi không nói tới họ thường xuyên, nhưng họ là những người đã vi phạm pháp luật của vùng đất chúng tôi và những tộc trưởng của họ đã đày họ đi với thời hạn nhiều năm, hoặc, nếu có vi phạm nghiêm trọng, thì sẽ hết phần đời còn lại của họ. Tất cả họ như là những xác chết biết đi đối với chúng tôi; chúng tôi tránh xa họ nếu gặp họ ở bên ngoài vùng đất của chúng tôi và treo họ nếu chúng tôi bắt được họ trong biên giới chúng tôi.

Khi Kvîstor đã nói xong, Eragon cho biết là nó đã sẵn sàng rời khỏi nơi này. Kvîstor chỉ đường, và Eragon theo anh ta ra cửa mà qua đó họ đã đi vào, ba người lùn khác theo sau. Họ đi chưa tới hai mươi mét thì Eragon nghe một tiếng gió lướt nhẹ từ phía sau, mà Kvîstor thì không có vẻ để ý.

Eragon nhìn trở lại. Với ánh sáng màu hộ phách chiếu bởi các đèn lồng không có lửa treo ở hai đầu hành lang, nó thấy bảy người lùn mặc toàn một màu đen, mặt chúng thì che bằng mảnh vải đen và chân chúng được quấn bằng vải rách, đang chạy về phía nhóm của nó với một tốc độ mà Eragon cho rằng chỉ duy nhất tộc thần tiên, các Kỵ sĩ, và các sinh vật khác mang dòng máu ma thuật trong người đạt được. Trên tay phải của chúng cầm một cây dao găm dài, sắc bén với lưỡi dao phản chiếu lập loè nhiều màu sắc rực rỡ, còn tay trái chúng, cầm một cái khiên bằng kim loại với nhiều đinh sắt nhọn nhô ra phía trước. Tâm trí của chúng như là Ra'zac, giấu kín khỏi Eragon Khi tiếng động và cơn đau đã dịu đi, nó hạ tay xuống và lảo đảo đứng lên, nghiến chặt răng vì những vết thương trên người. Lảo đảo và loạng choạng, nó nhìn chằm chằm về phía vụ nổ.

Vụ nổ đã phủ đen một khoảng dài hơn mười bước trong hành lang bằng bồ hóng. Những bụi tro tàn mềm mại cuộn lên trong không trung, cũng nóng như không khí từ trong một cái lò rèn đang đốt nóng. Tên lùn vừa nãy định đâm Eragon thì nằm trên mặt đất, thảm bại, cơ thể phủ đầy vết bỏng. Sau vài cơn co giật, hắn nằm bất động luôn. Ba vệ sĩ còn sống của Eragon nằm ở bờ của đám bồ hóng, nơi mà vụ nổ chắc đã quăng họ ra. Ngay khi nó nhìn, họ lảo đảo đứng dậy, máu nhỏ giọt từ tai và những cái miệng mở tang hoác của họ, râu cháy xém và rối tung. Những đường nối chạy dọc vành áo giáp của họ sáng rực màu đỏ, nhưng lớp da lót áo giáp của họ có vẻ đã bảo vệ họ khỏi những việc tồi tệ nhất từ nhiệt.

Eragon bước tới từng bước, rồi dừng lại và rên rỉ khi một cơn đau bùng ra giữa hai xương vai của nó. Nó cố xoay tròn cánh tay để cảm nhận phạm vi của vết thương, nhưng khi da nó giãn ra, cơn đau trở nên quá lớn khiến nó không thể tiếp tục. Gần như mất đi ý thức, nó tựa vào tường để chống. Nó liếc nhìn tên lùn bị cháy lần nữa. Chắc mình cũng bị thương tương tự như vậy trên lưng.

Tự ép buộc chính nó phải tập trung, nó đọc lại hai câu thần chú được tạo ra để chữa những vết bỏng mà ông Brom đã dạy nó trong suốt những chuyến du hành. Khi chúng có hiệu lực, nó cảm thấy như một dòng nước mát êm dịu đang chảy dọc lưng nó. Nó thở dài nhẹ nhõm và đứng thẳng dậy.

–Các anh có bị thương đâu không? Nó hỏi khi mấy người vệ sĩ khập khiễng bước tới.

Người lùn đi đầu nhăn mặt, đập nhẹ vào tai, và lắc đầu.

Eragon lầm bầm nguyền rủa và chỉ khi đó nó mới nhận thấy nó không thể nghe được giọng nói của nó. Một lần nữa rút năng lượng dự trữ từ bên trong cơ thể, nó đọc thần chú khôi phục lại cơ cấu bên trong tai của nó và của họ. Khi câu thần chú kết thúc, một cơn ngứa đến khó chịu bò ngoằn ngoèo trong tai nó, rồi mất dần cùng với câu thần chú.

–Các anh có bị thương đâu không?

Người lùn phía bên phải, một người vạm vỡ với bộ râu hình chữ chi, ho và phun ra một cục máu đông, rồi càu nhàu –Không gì mà thời gian không sửa được. Ngài thì sao, Khắc-tinh-của-Tà-thần?

–Tôi sẽ sống.

Kiểm tra sàn trên từng bước, Eragon bước vào khu vực phủ đen bồ hóng và quỳ xuống bên cạnh Kvîstor, hy vọng nó vẫn có thể cứu ông ta khỏi nanh vuốt thần chết. Ngay khi nó trông thấy vết thương của Kvîstor, nó biết điều đó là không thể.

Eragon gục đầu xuống, ký ức về cuộc đổ máu mới đây làm đau xót tâm hồn nó. Nó đứng dậy. –Tại sao cái đèn lồng lại phát nổ?

–Chúng chứa đầy hơi nóng và ánh sáng, thưa Bàn-Tay-Bạc. Một vệ sĩ trả lời. –Nếu chúng bị vỡ, tất cả sẽ thoát ra cùng một lúc và lúc đó tốt hơn là nên đứng xa chúng ra.

Ra dấu về phía các xác chết nhàu nát của những kẻ ám sát, Eragon hỏi: –Anh có biết chúng là người của tộc nào không?

Người lùn với bộ râu hình chữ chi lục lọi quần áo của vài tên lùn áo đen từ bên này qua bên kia, rồi nói: –Barzûl! (Chết tiệt!) Chúng không mang một dấu hiệu nào trên người để ngài có thể nhận ra, Bàn-Tay-Bạc ạ, nhưng chúng có mang cái này. Anh ta đưa ra một cái vòng đeo tay làm bằng lông ngựa tết lại có gắn những viên thạch anh tím tròn bóng.

–Nó có nghĩa gì?

–Loại thạch anh tím này, Anh lùn nói, và gõ vào một trong những viên ngọc với một cái móng tay đầy vệt bồ hóng. –Loại thạch anh tím đặc biệt này, nó chỉ mọc trên bốn phía của dãy núi Beor, và ba trong số đó thuộc về Az Sweldn rak Anhûin.

Eragon nhăn mặt. –Vậy là Tộc trưởng Vermûnd đã sắp đặt cuộc tấn công này sao?

–Tôi không chắc chắn lắm, thưa Bàn-Tay-Bạc. Có thể một bộ tộc khác đã để cái vòng này lại cho chúng ta tìm thấy. Họ có thể muốn chúng ta nghĩ rằng đó chính là tộc Az Sweldn rak Anhûin, như thế chúng ta sẽ không nhận ra kẻ thù thực sự là ai. Nhưng… nếu tôi phải đánh cược, Bàn-Tay-Bạc, tôi sẽ cược một xe đầy vàng rằng chính bọn Az Sweldn rak Anhûin chịu trách nhiệm trong vụ này.

–Quỷ tha ma bắt chúng đi. Eragon lầm bầm. –Cho dù là kẻ nào, quỷ tha ma bắt chúng. Nó siết chặt hai nắm tay để ngăn chúng run lên. Bằng một bên đôi bốt, nó đá vào những con dao găm hình trụ mà bọn ám sát đã sử dụng. –Những câu chú trên những vũ khí này và trên những… những tên đàn ông này. Nó hất cằm ra dấu –Đàn ông, người lùn, cái gì cũng thế, chúng phải đòi hỏi một lượng nội lực kinh khủng, và tôi không thể tưởng tượng ra được độ phức tạp của những từ ngữ. Thực hiện chúng sẽ rất khó và nguy hiểm… Eragon nhìn lần lượt những vệ sĩ của mình và nói. –Các anh là các nhân chứng của tôi, tôi thề sẽ không để cuộc tấn công này, cũng như cái chết của Kvîstor, thoát khỏi sự trừng phạt. Dù bất cứ một bộ tộc hay những bộ tộc nào gửi những tên sát thủ thú vật này đến, tôi mà biết được tên chúng, chúng sẽ ước rằng chưa bao giờ nghĩ đến việc tấn công tôi và, bằng việc tấn công tôi, tấn công vào Dûrgrimst Ingeitum. Điều này tôi thề với các anh, nhân danh một Kỵ sĩ Rồng và như một thành viên của Dûrgrimst Ingeitum, và nếu bất cứ ai hỏi các anh, cứ nhắc lại lời hứa của tôi với họ như tôi đã nói với các anh.

Những người lùn cúi đầu trước nó, và người có râu hình chữ chi đáp lời. –Như ngài ra lệnh, chúng tôi làm theo, thưa Bàn-Tay-Bạc. Ngài làm tôn vinh ký ức về vua Hrothgar bằng những lời nói của ngài."

Rồi một người lùn khác nói: –Dù là bất cứ bộ tộc nào, chúng đã xâm phạm luật về lòng hiếu khách; chúng đã tấn công một vị khách. Chúng còn không sánh bằng lũ chuột, chúng là những menknurlan. Anh ta nhổ lên sàn, và những người lùn kia nhổ theo anh ta.

Eragon đi lại nơi vẫn còn những tàn tích của thanh kiếm nó. Nó quỳ gối xuống đám bồ hóng và, dùng đầu ngón tay, chạm vào một trong những mảnh vỡ bằng kim loại, lần theo hai cạnh tả tơi của nó. Chắc mình đã chém vào cái khiên và bức tường rất mạnh, lấn áp cả những thần chú mà mình đã dùng để tăng cường sức mạnh cho lưỡi kiếm, nó nghĩ.

Rồi nó nghĩ, Mình cần một thanh kiếm.

Mình cần một thanh kiếm Kỵ sĩ.

Chương 32: VẤN ĐỀ TRƯỚC MẮT

Cơn gió nóng buổi sáng dưới lòng đất phía trên các căn phòng ngầm thật khác biệt với gió buổi sáng trên đồi, chuyển động luân phiên liên tục. Saphira chỉnh góc đôi của cánh cô nàng lấy lại thăng bằng tốc độ và áp lực không khí, nâng những cái chân nặng cả ngàn cân của nó dưới ánh sáng mặt trời đang chiếu xuống dưới lòng đất. Hai mí mắt của nó nhắm lại một lúc, tận hưởng một chút êm ái trong làn gió, cũng như sự ấm áp của những tia sáng đang chiếu xuống bên trên thân hình đồ sộ. Cô rồng tưởng tượng ánh sáng làm cho nó như đang lóng lánh rạng rỡ trong mắt những người đã xem nó lượn vòng trước mặt trong bầu trời một cách kì diệu, và nó bay thật nhanh với niềm vui, rằng từ những điều đã biết từ trước tới giờ thì nó là con rồng đẹp nhất ở Alagaësia, không ai có thể hy vọng sánh bằng với những cái vảy rực rỡ, thân hình dài, cái đuôi thon nhọn; và đôi cánh đẹp, rất to lớn, tương xứng với thân hình đồ sộ; những cái vuốt cong, những cái răng nanh dài trắng bóng, có thể làm đứt đôi một cái cổ hoang dã của một con bò chỉ với một nhát cắn? Không phải là rồng vàng Glaedr, anh rồng đực đã mất một chân trong thời kì sụp đổ của các Kị Sỹ. Cũng không phải là Thorn hoặc Shruikan, dù họ đều phải làm nô lệ của Galbatorix, họ đã bị buộc phải quy phục điều trái với lí trí của họ. Một con rồng, mà không được tự do làm những gì mà nó muốn thì không thực sự là một con rồng. Bên ! cạnh đó, họ là rồng đực, và trong khi những con rồng đực có thể xuất hiện một cách rất hùng vĩ và hoành tráng, thì họ vẫn không thể có một thân hình với những vẻ đẹp tráng lệ như của cô rồng. Không, nó đã được ban tặng những phẩm chất tuyệt vời nhất, tốt nhất ở đất nước Alagaësia này, và nó xứng đáng được như thế .

Saphira vặn vẹo thân mình, hài lòng với tất cả mọi thứ từ những cái gai trên đỉnh đầu cho đến chóp đuôi của nó. Hôm nay là một ngày đẹp trời. Cái nóng của mặt trời làm cho cô rồng cảm thấy như đang được nằm trong một cái tổ ấm áp. Bụng nó được ăn no đủ, bầu trời trong xanh, và chẳng có gì đáng phải bận tâm tham gia vào, ngoài việc canh chừng kẻ địch cho những người chiến đấu, điều nó luôn làm như là một thói quen vậy.

Niềm hạnh phúc của nó từ trước tới giờ chỉ có một nỗi băn khoăn nhỏ, nhưng bây giờ đã là một một vết rạn nứt lớn trong lòng, một vấn đề sâu sắc đáng để cho nó phải suy nghĩ tới, và nó vẫn còn xem xét điều đó, những chi tiết bất thường, nó đã lớn lên, cho đến khi nó đã nhận thức được mình đã thực sự trưởng thành; nó mong có Eragon ở bên cạnh để chia sẻ với mình trong lúc này. Cô rồng khẽ gầm lên một tiếng nhỏ và phun ra một ngọn lửa màu xanh từ giữa hai hàm răng, đốt nóng không khí trước mặt, một lúc sau nó khép miệng lại, cắt đứt dòng nước lửa. Cái lưỡi của nó ngứa ran như vẫn còn những hạt lửa li ti đang chạy trên đó. Khi Eragon, một phần của linh hồn và trong chính trái tim nó, đi liên lạc cho Nasuada từ Tronjheim và hỏi nó liệu có nên tham gia không? Saphira đã từng thúc giục Eragon tuân lệnh Nasuada và đi tới những ngọn-núi-cao-không-thể-bay-tới đó, nhưng bây giờ đã quá nhiều thời gian trôi qua, và Saphira cảm thấy lạnh lẽo và trống rỗng trong lòng.

Có một bóng đen bao phủ trên thế giới, nó nghĩ:” Đó là những gì làm tôi có buồn bã”. Có vài thứ làm ảnh hưởng tới Eragon. Anh ấy đang ở trong nguy hiểm, hoặc đã bị nguy hiểm trong thời gian gần đây. Và mình không thể giúp đỡ được gì cho anh ấy. Nó đã không phải là một con rồng hoang dã. Kể từ khi nó nở ra, cô nàng đã chia sẻ tất cả cuộc sống với Eragon, và không có anh ấy, nó chỉ như đang sống với có một nửa mình. Nếu anh ấy chết mà không có nó ở bên để bảo vệ , nó sẽ không còn có lý do gì để tiếp tục sống nữa, chỉ còn sống để theo đuổi sự trả thù mà thôi. Nó biết, nó sẽ lao tới đâm bổ vào bất cứ kẻ nào mà đã giết anh ấy và rồi sau đó, nó sẽ bay trên thành phố đen của tên phản bội, kẻ phá huỷ trứng rồng, người đã cầm tù nó trong rất nhiều thập kỷ qua, và nó sẽ làm tất cả trong khả năng để giết hắn ta, dù rằng điều đó cũng có nghĩa là sẽ có một cái chết đón chờ nó ở nơi đó.

Saphira lại gầm lên giận giữ và chộp nhanh một con chim sẻ nhỏ dại dột đã bay vào trong phạm vi những cái răng của nó. Nó đã đớp hụt, và con chim đã lao đi và nó tiếp tục bay mà không bị cản trở nữa, tâm trạng nó chỉ hơi bực tức một chút. Để có một chút thời gian, nó đi săn chim sẻ nhưng sau đó thì lại quyết định không đáng phải bận tâm về thứ cỏn con như xương và những cái lông vũ chim sẻ. Nó sẽ không bao giờ là một món ăn ngon và đủ no cả.

Nghiêng cánh trên gió, và nó lắc đuôi về hướng đối diện để dễ xoay trở, nó đảo vòng xung quanh, dõi theo mặt đất và tất cả những con vật nhỏ ở xa phía dưới đang chạy nhốn nháo để tìm chỗ trú ẩn khỏi đôi mắt săn mồi sắc sảo của nó. Ngay cả từ độ cao cả ngàn feet, nó vẫn có thể thấy hết tất cả những cái chấm nhỏ li ti trên lưng của một con gà đang chạy trên cánh đồng trồng lúa mì phía tây của sông Jiet. Nó có thể thấy cả những vết màu nâu như là một con thỏ đang hăm hở chạy đến cái tổ an toàn với đầy những con thỏ khác. Nó có thể nhìn ra một bầy nai nhỏ đang co rúm lại bên dưới các bụi cây nho dọc theo một nhánh nhỏ của sông Jiet. Và nó có thể nghe những tiếng chút chít the thé đầy hoảng sợ, khiếp đảm của những con vật đang cảnh báo cho đồng loại của mình sự hiện diện của nó. Những tiếng kêu la của chúng làm nó hài lòng, một điều thật đúng là: chúng nên biết sợ hãi nó. Nếu mà chúng không bao giờ sợ nó nữa, thì nó biết rằng đó là cái lúc mà nó đã chết.

Cách xa khoảng 3 dặm về phía đầu nguồn của dòng sông, Varden đã cắm trại bên bờ sông Jiet thành một đoàn dài những cái lều nhỏ màu đỏ nằm dựa vào những vách đá nhô ra của dãy núi. Varden đã đến và đang vượt sông từ ngày hôm qua, và từ đó, mới có ba đạo quân loài người, các Urgals đồng minh và những con ngựa-nó-không-được-ăn thịt đã băng qua chỗ cạn của sông. Đạo quân di chuyển chậm như vậy, nó thấy băn khoăn rằng là con người chẳng có nhiều thời gian để làm nhiều việc khác hơn nếu cứ phải đi như thế này, cuộc đời của họ thật quá ngắn ngủi. Sẽ thuận tiện hơn biết bao nếu họ có thể bay, nó nghĩ vậy, và tự hỏi tại sao con người không làm thế. Bay lượn rất dễ dàng, nó không bao giờ nghĩ rằng tạo hoá sinh ra mình mà lại để bó buộc ở dưới mặt đất. Thậm chí Eragon cũng giữ mình dính chặt vào với mặt đất, mà nó cũng biết anh ấy cũng có thể tham gia cùng nó trên bầu trời vào bất kỳ lúc nào chỉ với vài từ Cổ ngữ. Nhưng sau cùng, nó vẫn không thể hiểu những hành động của những kẻ thậm chí cứ phải lảo đảo đứng không vững trên hai chân, vì phải mang những thứ lỉnh kỉnh như vòng tai, chỉ tai, hay sừng hay những thứ bé nhỏ mà nó có thể dẫm nát chúng ngay dưới chân mình. Chương 32 – cont

Một thoáng chuyển động ở phía đông bắc thu hút sự chú ý của ả rồng, nó tò mò nghiêng về phía đó. Nó thấy một đoàn bốn mươi lăm con ngựa mệt mỏi lê bước về phía nhóm Varden. Hầu hết những con ngựa đều không có người cưỡi, nên nó không nghĩ ngợi gì cho đến khi thêm nửa giờ nữa trôi qua và từ gương mặt của những người đang cưỡi ngựa, nó nhận ra đó có thể là nhóm của Roran đang trở về sau cuộc đột kích. Nó tự hỏi điều gì đã xảy ra làm quân số của họ suy giảm đến thế và cảm thấy một thoáng bứt rứt lo lắng. Nó không bị ràng buộc với Roran, nhưng Eragon quan tâm đến anh ta, và đó đủ là lý do cho nó lo lắng về phúc lợi của anh ta.

Phóng tâm trí xuống phía nhóm Varden nhốn nháo, nó lần tìm cho đến khi tìm thấy điệu nhạc trong tâm trí của Arya. Khi nàng tiên đã nhận ra nó và cho nó tiếp xúc với tâm tưởng của cô, Saphira nói, Roran sẽ tới đây trước chiều tối. Tuy nhiên quân số nhóm anh ta bị giảm thiểu trầm trọng. Một thảm họa nào đó đã xảy ra với họ trong chuyến này.

Cảm ơn, Saphira, Arya nói. Ta sẽ báo cho Nasuada.

Khi Saphira rút khỏi tâm trí Arya, nó cảm thấy một sự tiếp xúc lùng soát của Blödhgarm-lông-sói-xanh-đen. Tôi có phải một con chim mới nở đâu, nó cáu kỉnh. Ông không phải kiểm tra sức khỏe tôi mỗi vài phút như thế.

Mi có lời tạ lỗi nhún nhường nhất của ta, Bjartskular, chỉ là mi đã đi được khá lâu rồi, và nếu bất cứ ai đang quan sát, họ sẽ bắt đầu thắc mắc sao mi và –

Rồi, biết rồi, nó cằn nhằn. Thu ngắn sải cánh, nó nghiêng xuống dưới, cảm giác về trọng lượng rời khỏi nó, và xoay tròn theo những đường xoắn ốc chậm chạp khi lao xuống phía dòng sông cuộn nước. Tôi sẽ ở đó ngay.

Ba trăm thước bên trên mặt nước, nó giang cánh và cảm thấy sức căng trên màng bay khi gió ép lên chúng một lực khổng lồ. Nó chậm lại gần như đứng yên, để không khí tràn ra khỏi cánh và lại tiếp tục bay nhanh, lướt vào trong phạm vi ba chục thước quanh mặt nước-uống-không-tốt màu nâu. Đập cánh một cái để duy trì độ cao, nó bay ngược Sông Jiet, cảnh giác về sự thay đổi áp suất đột ngột làm ảnh hưởng đến khí-lạnh-bên-trên-dòng-nước, và có thể đẩy nó vào một hướng ngoài ý muốn, hay tệ hơn, vào những mũi-cây-nhọn hoặc mặt-đất-bẻ-gãy-xương.

Nó lướt cao bên trên nhóm Varden đang tụ tập bên sông, đủ cao để sự xuất hiện của nó không làm hoảng vía mấy con ngựa ngờ nghệch. Rồi, trôi dần xuống với đôi cánh giữ yên, nó đáp xuống một khoảng trống giữa những cái lều – khoảng trống Nasuada đã lệnh đặt riêng ra cho nó – và lê bước qua khu trại đến cái lều trống của Eragon, nơi Blödhgarm và mười một thần tiên mà ông ta chỉ huy đang đợi nó. Nó chào họ bằng một cái nháy mắt và một cái búng lưỡi, rồi cuộn mình lại trước lều của Eragon, cam chịu ngủ gà gật chờ đợi bóng tối như nó sẽ làm nếu Eragon đang thực sự ở trong lều và anh ta và nó là đoàn bay đêm. Thật chán ngắt và nhạt nhẽo, cứ nằm đó ngày qua ngày, nhưng đó là điều cần thiết để giả bộ rằng Eragon vẫn còn ở cùng Varden, vì vậy Saphira không than phiền, cho dù sau mười hai giờ hoặc hơn thế trên mặt-đất-cứng-lởm-chởm làm bẩn những cái vảy, nó thấy chỉ muốn đánh nhau với cả ngàn tên lính, hoặc san bằng một cánh rừng bằng răng và móng và lửa, hoặc vọt lên và bay cho đến khi không thể bay được nữa hoặc cho đến khi tới điểm tận cùng của đất, nước, và không khí.

Gầm gừ với chính mình, nó lấy móng nhào nặn làm mềm đất, rồi đặt đầu vắt ngang cẳng chân và đóng mí mắt trong lại, như thế nó có thể nghỉ ngơi mà vẫn quan sát được những ai đi ngang. Một con chuồn chuồn vo ve trên đầu nó, và không phải lần đầu nó thắc mắc là cái gì đã khiến những kẻ đần độn tầm thường đặt tên thứ côn trùng đó theo tên chủng tộc nó. Trông nó chả giống rồng gì cả, cô ả càu nhàu, rồi trôi vào một giấc ngủ thư thái.

Vòng-lửa-lớn-trên-trời tiến gần lại chân trời khi Saphira nghe thấy những tiếng kêu la hò hét chào mừng, nghĩa là Roran và các chiến hữu của anh đã đến khu dựng trại. Nó tỉnh dậy. Như những lần trước, Blödhgarm nửa hát nửa thầm thì một câu thần chú tạo ra một chân dung ảo của Eragon, rồi khiển nó bước ra khỏi lều và trèo lên lưng Saphira, ngồi đó và nhìn quanh, mô phỏng hoàn hảo một sự sống độc lập. Nhìn bề ngoài, hình ảnh này không có khiếm khuyết gì, nhưng nó lại không có tâm trí riêng, và nếu bất cứ điệp viên nào của Galbatorix thử lén đọc suy nghĩ của Eragon, chúng sẽ khám phá ra sự lừa đảo ngay lập tức. Bởi vậy, sự thành công của mưu kế phụ thuộc vào Saphira chở hình ảnh này qua khu trại và biến khỏi tầm nhìn càng nhanh càng tốt, và phụ thuộc vào hy vọng rằng danh tiếng ghê gớm của Eragon sẽ làm chùn bước những tên mật thám trước nỗ lực lượm lặt thông tin về Varden từ tâm trí nó, vì sợ nó trả thù.

Saphira đứng dậy và lao xuyên qua trại, mười hai thần tiên chạy thành đội hình xung quanh nó. Mọi người nhảy tránh khỏi đường của họ, hô to, "Chào, Khắc-tinh-của-Tà-thần!" và "Chào, Saphira!", làm ngời lên cảm giác ấm áp trong bụng ả rồng.

Khi nó đến chỗ cái lều-nhộng-bướm-đỏ-cánh-gấp của Nasuada, nó cúi xuống và chui đầu vào trong lỗ hổng tối trên một bức vách, ở đó các vệ sĩ của Nasuada đã kéo một ô vải sang một bên cho nó chui vào. Blödhgarm liền tiếp tục bài hát nhẹ nhàng của ông, và bóng ma Eragon trèo khỏi Saphira, bước vào cái lều đỏ thẫm và, khi đã khuất tầm nhìn của những kẻ đang dòm ngó bên ngoài, tan ra thành hư không.

"Ngài có nghĩ mưu mẹo của chúng ta đã bị khám phá ra không?" Nasuada hỏi từ chiếc ghế tựa cao của cô.

Blödhgarm cúi đầu với một cử chỉ thanh nhã. "Một lần nữa, Tiều thư Nasuada, tôi không thể nói chắc. Chúng ta sẽ phải đợi và xem liệu Đế quốc có lợi dụng sự vắng mặt của Eragon hay không trước khi chúng ta biết câu trả lời cho câu hỏi đó."

"Cảm ơn ngài, Blödhgarm. Vậy thôi."

Với một cái cúi chào nữa, vị thần tiên rút khỏi lều và chọn một vị trí khoảng vài thước đằng sau Saphira, canh gác bên sườn nó.

Saphira nằm xuống và bắt đầu liếm sạch những cái vảy quanh cái móng thứ ba của bàn chân trái trước, ở chỗ đó đã đóng những vệt đất sét trắng khô xấu xí mà nó nhớ đã giẫm lên trong lúc ăn con mồi cuối cùng.

Không tới một phút sau, Martland Râu đỏ, Roran, và một người-đàn-ông-tai-tròn, nó không nhận ra người này, bước vào cái lều đỏ và cúi chào Nasuada. Saphira ngừng việc làm sạch, dùng lưỡi nếm không khí và nhận ra vị máu khô, mùi mồ hôi chua đắng, mùi ngựa và da hòa lẫn, và, mờ nhạt nhưng không thể nhầm lẫn, mũi gai nhọn của nỗi sợ con người. Ả rồng kiểm tra bộ ba lần nữa và thấy người đàn ông râu đỏ dài đã mất cánh tay phải, rồi tiếp tục đào đất sét ra khỏi vảy của mình.

Nó tiếp tục liếm láp bàn chân, hoàn lại vẻ rực rỡ vốn có cho từng cái vảy, trong khi Martland, rồi đến người-đàn-ông-tai-tròn-Ulhart, và rồi Roran, kể lại câu chuyện máu lửa về những kẻ thích cười mà không chịu chết vào những lúc được phân công phải chết, và nhất quyết chiến đấu tiếp rất lâu sau khi Angvard đã gọi tên chúng. Như thông lệ, Saphira giữ yên lặng trong khi những người khác – cụ thể là Nasuada và cố vấn của cô, Jörmundur-hốc-hác-chân-dài – thẩm vấn các chiến binh về chi tiết nhiệm vụ xúi quẩy của họ. Saphira biết đôi khi Eragon thấy khó hiểu tại sao cô ả không tham gia nhiều hơn vào các cuộc đối thoại. Lí do im lặng của nó rất đơn giản: ngoại trừ Arya và Glaedr, nó chỉ cảm thấy thoải mái nhất khi truyền đạt tư tưởng với Eragon, và theo ý nó, hầu hết những cuộc đối thoại chẳng là gì hơn sự do dự vô nghĩa. Cho dù tai tròn, tai nhọn, có sừng, hay lùn, những kẻ hai-chân có vẻ khoái do dự. Brom không do dự, một điều mà Saphira thích ở ông. Với nó, những lựa chọn rất đơn giản; hoặc là có một hành động nó có thể thực hiện để cải thiện tình hình, và nó sẽ thực hiện trong những trường hợp đó, hoặc là không, và mọi điều khác nói về chủ đề đó đều chỉ rặt là những tiếng ồn vô nghĩa. Trong mọi trường hợp, nó đều không tự khiến mình lo lắng về tương lai, ngoại trừ đối với Eragon. Nó luôn lo lắng, về anh ta.

Khi đã hoàn tất những câu hỏi, Nasuada bày tỏ lời chia buồn của mình về cánh tay bị mất của Martland, rồi cho Martland và Ulhart đi, trừ Roran, cô nói, "Anh đã chứng tỏ được lòng can trường của mình một lần nữa, Cây-búa-dũng-mãnh. Tôi rất hài lòng về năng lực của anh."

"Cảm ơn Tiểu thư."

"Những người chữa trị giỏi nhất sẽ chăm sóc Martland, nhưng ông ấy vẫn cần thời gian để hổi phục từ những thương tích của mình. Nhưng kể cả khi đó, ông ấy cũng không thể chỉ đạo những trận đánh như thế này chỉ với một tay. Từ bây giờ, ông ấy sẽ phải phục vụ Varden từ đằng sau chiến tuyến, không phải đằng trước. Tôi nghĩ, có lẽ tôi sẽ thăng cấp cho ông ấy và cho ông ấy làm cố vấn quân sự của tôi. Jörmundur, ông nghĩ sao về ý đó?"

"Tôi thấy đó là một ý tưởng xuất sắc, thưa Tiểu thư."

Nasuada gật đầu, vẻ hài lòng. "Tuy nhiên, điều đó nghĩa là, tôi phải tìm đội trưởng khác cho anh phục vụ, Roran à."

Roran liền nói, "Thưa Tiểu thư, thế còn đội quân của riêng tôi? Chẳng lẽ tôi chưa chứng tỏ được mình với sự hài lòng của Tiểu thư bằng hai trận đánh này sao, cũng như những thành tích quá khứ của tôi?"

"Nếu anh tiếp tục nổi bật như vậy, Cây-búa-dũng-mãnh, anh sẽ sớm có đội quân của riêng anh. Tuy nhiên, anh phải kiên nhẫn và chờ đợi thêm một thời gian. Chỉ hai nhiệm vụ, dù ấn tượng đến đâu, có thể vẫn chưa cho thấy một cái nhìn toàn diện về tính cách của một người. Tôi là người thận trọng trong việc giao phó người của tôi cho những người khác, Cây-búa-dũng-mãnh ạ. Trong chuyện này, anh phải theo ý tôi."

Roran nắm chặt đầu cây búa giắt ở thắt lưng, gân và mạch máu nổi phồng trên tay, nhưng giọng nói anh vẫn giữ vẻ lịch sự. "Dĩ nhiên, thưa Tiểu thư Nasuada."

"Rất tốt. Lát nữa một người phục vụ sẽ mang đến nhiệm vụ mới cho anh. Ồ, và nhớ lo liệu cho mình một bữa ăn ra trò khì anh và Katrina đã xong việc tổ chức mừng đoàn tụ. Đó là lệnh, Cây-búa-dũng-mãnh à. Nhìn anh như sắp đổ nhào đến nơi rồi."

"Dạ, Tiểu thư."

Khi Roran sắp sửa rời đi, Nasuada đưa một tay lên, nói, "Roran này." Anh ngừng lại. "Vì anh đã đánh với những kẻ không biết đau đớn, anh có tin rằng có một sự bảo vệ khỏi đau đớn tương tự như thế sẽ làm cho việc hạ chúng dễ dàng hơn không?"

Roran lưỡng lự, rồi lắc đầu. "Sức mạnh của chúng chính là điểm yếu của chúng. Chúng không che chắn bản thân giống như khi sợ bị kiếm chém hay tên đâm, do đó chúng bất cẩn với chính mạng sống của mình. Đúng là chúng có thể đánh tiếp sau khi một người bình thường đã phải gục chết từ lâu, và đó không phải một lợi thế nhỏ trên chiến trường, nhưng chúng cũng vong mạng nhiều hơn, bởi vì chúng không bảo vệ thân thể mình như một điều nên làm. Trong sự tự tin tê liệt, chúng sẽ đi vào bẫy và những hiểm họa mà chúng ta phải làm mọi điều để tránh. Miễn là tinh thần của Varden giữ vững, tôi tin với những chiến thuật đúng đắn chúng ta có thể đánh bại những con quái thích cười đó. Nhưng, nếu chúng ta giống chúng, hai bên sẽ chặt chém nhau đến quên lãng luôn, mà chẳng bên nào thèm quan tâm, vì chúng tôi đâu có suy nghĩ giữ gìn thân mình. Đó là suy nghĩ của tôi."

"Cảm ơn anh, Roran."

Khi Roran đi rồi, Saphira nói, Vẫn chưa có tin gì của Eragon?

Nasuada lắc đầu. "Chưa, vẫn chưa có gì, và sự im lặng của anh ta bắt đầu làm tôi thấy lo. Nếu trước ngày mốt anh ta vẫn không liên lạc, tôi sẽ nhờ Arya gửi tin nhắn đến một pháp sư của Orik yêu cầu phản hồi của anh ta. Nếu Eragon không thể đẩy nhanh kết thúc cuộp họp các bộ tộc người lùn, thì tôi e ta không thể trông cậy vào người lùn như đồng minh trong những trận đánh sắp tới. Điều tốt duy nhất của kết quả tai hại đó là Eragon có thể về với chúng ta mà không phải trì hoãn lâu hơn."

Khi Saphira chuẩn bị rời khỏi cái lều-nhộng-đỏ, Blödhgarm lại triệu hồi bóng ma Eragon và đặt nó lên lưng Saphira. Saphira rút đầu ra khỏi lều, và như nó đã làm trước đó, lao xuyên qua khu trại, những thần tiên uyển chuyển giữ đều bước với nó trên suốt đoạn đường.

Khi nó đã tới lều của Eragon và cái bóng-màu-của-Eragon biến mất trong đó, Saphira hạ mình xuống đất và cam chịu chờ đợi thời gian còn lại của ngày trôi qua trong sự buồn tẻ đơn điệu. Tuy vậy, trước khi miễn cưỡng chợp mắt tiếp, nó mở rộng tâm trí về phía lều của Roran và Katrina và nhấn vào tâm trí Roran cho đến khi anh ta hạ hàng rào quanh ý thức của mình xuống.

Saphira à? anh hỏi

Chứ anh còn biết ai như em nữa à?

Dĩ nhiên là không. Chỉ là em làm anh ngạc nhiên. Anh… à, hơi bận một chút vào lúc này.

Cô ả nghiên cứu màu sắc cảm xúc của anh, cũng như của Katrina, và thích thú với phát hiện của mình. Em chỉ muốn chào mừng anh quay về. Em mừng vì anh không bị thương.

Suy nghĩ của Roran nháng lên nóng-lạnh-bối-rối, và có vẻ anh gặp khó khăn trong việc tổ chức một câu trả lời mạch lạc. Cuối cùng, anh nói, Em thật tử tế, Saphira.

Nếu anh có thể, hãy ghé chỗ em vào ngày mai, chúng ta có thể nói chuyện thật lâu. Em không thể chịu được cứ phải ngồi đây hết ngày này đến ngày khác. Anh có thể kể em nghe nhiều hơn về Eragon như thế nào trước khi em nở ra cho anh ấy.

Đó… đó là vinh dự của anh.

Hài lòng vì đã thực hiện yêu cầu của phép xã giao tai-tròn-hai-chân bằng việc chào đón Roran, và phấn khởi vì biết ngày tiếp theo sẽ không quá nhàm chán nữa – vì không thể nghĩ ra kẻ nào lại dám lờ đi đề nghị yết kiến của nó – Saphira cố cảm thấy thoải mái nhất có thể trên nền đất trần, ao ước – như nó vẫn thường làm – có được cái tổ mềm mại trong ngôi-nhà-cây-đu-đưa-gió của Eragon ở Ellesméra. Một luồng khói thoát ra khi ả thở dài và ngủ thiếp đi, mơ thấy mình bay cao hơn bất cứ lần bay nào trước đây.

Nó vỗ cánh và cứ vỗ cánh cho đến khi vượt lên trên những đỉnh núi không thể với tới của rặng Beor. Nó lượn vòng ở đó một lúc, nhìn xuống toàn thể Alagaësia đang nằm bên dưới nó. Rồi một ham muốn không thể kìm nén được khiến nó muốn leo lên cao hơn nữa để xem nó có thể thấy những gì, và thế là nó lại bắt đầu vỗ cánh, và tưởng chừng như trong một cái chớp mắt, nó bay vút lên vượt qua mặt trăng ngời sáng, cho đến khi chỉ còn lại nó và những ngôi sao bạc treo trên nền trời đen. Nó lững lờ trôi giữa những khoảng trời trong một khoảng thời gian mơ hồ, nữ hoàng của thế giới rạng rỡ như đá quý bên dưới, nhưng rồi lo lắng len vào tâm hồn nó, và nó hét lên bằng suy nghĩ của mình:

Eragon, anh ở đâu!

Chương 33: Hôn Anh Ngọt Ngào Sau khi thức dậy, Roran nhấc mình rời khỏi vòng tay trơn tru của Katrina rồi cởi trần ngồi xuống cạnh chiếc giường hai vợ chồng nằm chung. Anh ngáp và dụi mắt, sau đó ngắm nhìn ánh sáng lò sưởi bập bùng le lói bên hai nếp cửa, cảm thấy cả người đờ đẫn mụ mị từ những mệt mỏi tích lũy bao lâu nay. Một cảm giác ớn lạnh len vào người anh, nhưng anh vẫn ở nguyên một chỗ, không nhúc nhích. “Roran?” Katrina hỏi bằng giọng còn ngái ngủ. Cô chống một tay ngồi dậy và dùng tay kia với tới anh. Anh không phản ứng gì khi cô chạm vào người, tay cô vuốt khắp lưng trên của anh, xoa xoa cần cổ. “Ngủ đi. Anh cần phải nghỉ ngơi. Không bao lâu nữa là anh lại phải ra đi rồi.” Anh lắc đầu, không nhìn lấy cô. “Chuyện gì vậy?” cô hỏi. Cô ngồi thẳng người, kéo một tấm chăn lên đắm qua vai anh, sau đó tựa vào người anh, gò má ấm áp của cô kề sát tay anh. “Anh vẫn còn lo về người đội trưởng mới hay lo không biết tiểu thư Nasuada sẽ gởi anh đi đâu?” “Không phải.” Cô im lặng một lúc. “Mỗi lần anh ra đi, em cảm thấy như bản thân anh trở vê với em ít đi. Anh đã trở nên nhẫn tâm và trầm lặng hơn… Nếu anh muốn nói cho em biết chuyện gì khiến anh phiền muộn, thì anh có thể mà, không cần biết là dễ sợ đến cỡ nào. Em là con của ngưòi hàng thịt, và ngay cả em cũng đã từng thấy bao nhiêu chiến binh tử trận xa trường.” “Muốn!” Roran hét lên, lời nói nghẹn trong cổ. “A! nh không bao giờ muốn nghĩ về chuyện này nữa.” Anh nắm chặt tay, hơi thở thất thường. “Một chiến sĩ chân chính sẽ không biết tới những thứ anh cảm nhận.” “Một chiến sĩ chân chính,” cô nói, “không cần phải chiến đấu vì lý tưởng nhưng chỉ làm thế vì họ phải làm thôi. Một người mà khát khao chiến tranh, một người mà hưởng thụ cảm giác giết chóc, hắn ta là một kẻ tàn bạo, một con quái vật. Không cần biết hắn có được bao nhiêu vinh quang trong chiến trường, điều đó không thể xoá đi sự thật rằng hắn không khá hơn một con sói dại sẵn sàng quay mình cấu xé bạn bè gia đình cũng như đối với kẻ thù.” Cô vuốt tóc đang xoả ngang mắt anh sang một bên và nhịp lên đầu anh, nhẹ và chậm. “Anh từng nói với em rằng 'Bài hát của Gerand' là câu chuyện anh thích nhất về Brom, rằng đấy chính là lý do anh chiến đấu với cây búa thanh vì lưỡi kiếm. Anh còn nhớ Gerand ghét giết chóc tới cỡ nào hay không và ông ta miễn cưỡng thế nào khi phải cầm lại vũ khí?” “Ài.” “Vậy mà ông ta vẫn được con là chiến sĩ dũng mãnh nhất trong lứa của ông ta.” Cô ôm lấy hai gò má của anh vào tay và xoay mặt anh khiến anh bị ép phải nhìn thẳng vào cặp mắt nghiêm nghị của cô. “Và anh là người chiến sĩ dũng mãnh nhất mà em được biết, Roran, ở đây hay ở bất kỳ nơi nào.” Anh cảm thấy miệng khô đi, nói: “Còn Eragon hay…” “Họ không có được nửa phần dũng cảm như anh. Eragon M! urtagh, G! albatorix, những người lùn… tất cả bọn họ tham chiến với thần chú trong miệng và năng lực manh mẽ hơn anh nhiều. Nhưng anh…” cô hôn lên mũi anh, “anh chỉ là một người tầm thường. Anh đối diện với kẻ thù bằng hai chân. Anh không phải là pháp sư, vậy mà vẫn vặn được cặp anh em sinh đôi. Anh chỉ nhanh và mạnh như một người bình thường, vậy mà vẫn không lẩn trốn lần tấn công đám Ra'zac trong hang ổ bọn chúng và cứu em thoát khỏi ngục tù của bọn họ.” Anh nuốt ực một tiếng: “Lúc đó anh được bùa bảo hộ của Eragon bảo vệ.” “Nhưng cái đó cũng không còn nữa. Hơn nữa, anh không có gì bảo hộ lúc ở làng Carvahall, lúc đó anh có trốn né tụi Ra ‘zac không?” Khi anh ta không trả lời, cô nói: “Anh không hơn gì một người tầm thường, nhưng anh đã làm những chuyện mà ngay cả Eragon hay Murtagh cũng không làm được. Với em, những điều đó khiến anh trở thành người chiến sĩ dũng mãnh nhất Alagaësia… Em không thể nghĩ ra ai khác ở làng Carvahall có thể tốn bao nhiêu công sức vậy như anh đã làm để cứu em.” “Cha em cũng sẽ làm được như vậy.” anh ta nói. Anh cảm nhận được cô run rẩy bên anh, “Đúng vậy, cha có thể làm được.” cô thì thầm, “nhưng cha sẽ không bao giờ có khả năng thuyết phục mọi người đi theo như anh được.” Cô ôm chặc lấy anh hơn. “Bất cứ anh đã thấy hoặc đã làm chuyện gì, anh vẫn còn có em.” “Đó là tất cả mà anh muốn có.” Anh nói rồi sau đó ôm ! lấy c�! � vào lòng một hồi lâu. Qua một chút, anh thở dài: “Mặc dù vậy, anh ước mong là cuộc chiến này đã được kết thúc. Anh ước mong có thể về cày ruộng lại, gieo giống và gặt hái mùa vụ sau khi đã chín bông. Nghề nông tuy cơ cực, nhưng ít nhất cũng là lao động chân thật. Chuyện giết chóc thế này không thể tính là chân thật. Đó chính là trộm cướp… trộm cướp nhân mạng, và không có người tâm tình bình thường nào mong đợi.” “Đúng như em nói.” “Đúng như em nói.” Dù có chút khó khăn, anh cũng ráng mỉm cười. “Anh đã đánh mất bản thân. Lại còn đem buồn phiền trút lên người em trong khi em cũng có đủ chuyện phải lo.” Rồi anh lấy ta đặt lên bụng bầu tròn trĩnh của cô. “Buồn phiền của anh cũng đã coi như là buồn phiền của em kể từ khi chúng ta cưới nhau.” Cô thì thầm và rúc vào tay anh. “Chuyện phiền thế này,” anh nói, “không ai phải chịu đựng cả, đặc biệt là đối với những người mình thương yêu.” Cô kéo người khỏi anh một chút và anh thấy ánh mắt cô trở nên ảm đạm thờ ơ, giống như mỗi khi cô nghiền ngẫm lại khoảng thời gian tù đày tại Helgrind. “Không,” cô thì thào, “có nhiều chuyện phiền phức không ai cần phải chịu đựng cả.” “À, đừng buồn nữa.” Anh kéo cô lại gần hơn, cả hai đung đưa, trong lòng thầm nghĩ ước gì Eragon chưa từng kiếm được viên trứng Saphira kia ở núi Spine. Sau một hồi khi Katrina đã thả lỏng người trong vòng tay anh và an! h cũng ! không còn thấy căng thẳng nữa, anh vuốt ve đường cong ở cổ cô, “Lại đây, hãy cho anh một nụ hôn ngọt ngào, rồi chúng ta trở về giường, anh đã mệt rồi và cũng muốn ngủ một giấc. Cô phá lên cười rồi trao cho anh một nụ hôn ngọt ngào nhất, rồi họ nằm bên nhau như cũ, ngoài lều vẫn tĩnh lặng ngoại trừ tiếng của dòng sông Jiet chảy qua khu trại, không ngừng nghỉ, tràn ngập vào những giấc mơ của Roran, nơi mà anh tưởng tượng ra cảnh bản thân đứng trước mũi thuyền, Katrina bên cạnh, cùng nhau nhìn vào cuống họng của đại dương, Mắt Lợn Lòi. Rồi anh nghĩ, làm sao có thể hy vọng trốn thoát?

CHƯƠNG 34 : GLÛMRA

Hàng trăm feet dưới Tronjheim, tảng đá mở ra 1 cái hang động sâu hàng nghìn feet dẫn tới 1 hồ màu đen tĩnh lặng 1 bên không biết sâu bao nhiêu,bờ bên kia là đá cẩm thạch. Những nhũ đá màu nâu, hơi ngà ngà nhỏ giọt trên trần hang, trong khi những nhũ đã khác mọc lên từ nền hang, tạo thành cột hình trụ phình to, dày hơn cả những cây lớn nhất ở Du Weldenvarden. Rải rác trên các cột nhũ là những ụ nấm to như những cái lều đá loại thấp cho từ 3 đến 20 người ở.ngọn lửa không bao jờ tắt từ những chiếc đèn chihếu ánh sáng đỏ rực của sắt lên mỗi cánh cửa gần đó.bóng tối phủ kín khoảng đất đằng sau mấy cái đèn. bên trong 1 cái lều, Eragon ngồi trên cái ghế dường như quá nhỏ cho nó, bên cạnh cái bàn bằng đá granite cũng không cao hơn đầu của nó. Mùi của phó-mát dê loại mềm, những miếng nấm mỏng, men rượu, thịt hầm, trứng chim bồ câu, bụi than tràn ngập trong không khí. Ngồi đối diện nó, Glûmra,, 1 phụ nữ người lùn thuộc Gia Đình Mord, bà ta là mẹ của Kvîstor, cận vệ thân cận của Eragon, đang rên rỉ và lấy nắm tay đấm vào ngực mà than khóc. Nước mắt của bà sáng long lanh trên khuôn mặt tròn trĩnh. 2 người bọn nó ngồi 1 mình trong lều. 4 cận vệ mới của Eragon- được Thrand bổ sung, bao gồm 1 chiến binh từ đoàn tùy tùng của Orik- đang đợi bên ngoài, cùng với Hûndfast, thông dịch viên, người mà Eragon đã cho ra ngoài lều khi nó biết là Glûmra có thể nói tiếng của nó. Ngay sau vụ mưu hại nó, Eragon đã liên lạc với Orik bằng tinh! thần, và rồi Orik nài nỉ nó chạy thật nhanh đến những căn phòng dưới Ingeitum, nơi mà nó thật sự an toàn tránh khỏi bất kì vụ ám sát nào khác. Eragon nghe theo, và hiện jờ nó vẫn đang ở đây, trong khi Orik ra lệnh hoãn cuộc họp bộ tộc lại đến sáng ngày mai, trên mặt đất tình trạng khẩn cấp được ban bố nên sự quyết định nhanh chóng của ông là cần thiết. Sau đó Orik cùng với những chiến binh dũng mãnh nhất và những phù thủy lão luyện nhất, đến địa điểm phuc kích, rồi bọn họ xem xét và ghi chép lại bằng cả 2 cách, phép thuật và phi phép thuật. Sau khi đã hài lòng về những jì tìm hiểu được, Orik nhanh chóng chạy về căn hầm của nó, và nói với eragon, " chúng tôi có nhiều việc để làm nhưng có wá ít thời gian để hoàn thành chúng. Trước khi buổi họp bộ tộc bắt đầu lại vào giờ thứ 3 của buổi sáng ngày mai, chúng ta phải tìm ra tất cả sự nghi ngờ về kẻ đã ra lệnh ám sát. Nếu chúng ta làm được, chúng ta sẽ có thể sử dụng chúng để chống lại kẻ thù, Nếu không, chúng ta sẽ bị động trong bóng tối, đối với kẻ địch. Chúng ta chỉ có thể giữ bí mật vụ ám sát đến cuộc họp bộ tộc, không thể lâu hơn. Knurlan đã nghe được tiếng đánh nhau của ngài vang khắp đường hầm dưới Tronjheim, mặc dù thế, tôi biết bọn họ sẽ tìm khiếm nguyên nhân của sự náo loạn, e rằng có thể có sự sụp đổ, hoặc những tai họa tương tự vậy xảy ra, tàn phá thành phố ngay trên đầu chúng ta.". Orik giậm đôi chân và nguyê! ̀n rủa! tổ tiên bất cứ người nào đã gửi tên thích khách đến, rồi ông chống tay lên hông và nói :" 1 cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc đã đang đe dọa chúng tôi rồi, nó đang đứng trước ngưỡng cửa. chúng ta phải nhanh chóng di chuyển nếu chúng ta muốn ngăn chặn định mệnh nghiệt ngã này. Knurlan đang tìm kiếm chúng ta, câu hỏi cần được trả lời, lời đe dọa phải đáp trả, vật hối lộ cần cung cấp, và cuộn giấy phải đánh cắp – và tất cả phải làm trước buổi sáng ngày mai !" " còn tôi thì sao ?" Eragon hỏi. " ngài vẫn nên ở đây chho đến khi chúng ta biết Az Sweldn rak Anhûin hay các bộ tộc khác có 1 lực lượng lớn ở đâu đó muốn giết ngài. Hơn nữa, chúng ta giấu kín vụ mưu sát ngài và chuyện ngài còn sống đã chết hay bị thương càng lâu, thì kẻ tấn công càng không chắc chắn lắm về sự an toàn của hắn. Ban đầu, Eragon đồng ý với đề xuất của Orik, nhưng sau khi nhìn những người lùn hối hả bàn tán, nó cảm thấy sự khó khăn và bất lực tăng dần lên. Cuối cùng, nó chộp lấy Orik và nói : " nếu tôi phải ngồi đây, nhìn chòng chọc vào bức tường này trong khi các ông tìm kẻ gây ra zụ này, thì tôi sẽ nghiến răng trèo trẹo mất.(–> khúc này khó dịch cực (+.+) Phải có cái jì đó để tôi làm giúp các ông chứ… còn Kvîstor thì sao? chúng ta phải làm jì đó cho gia đình của anh ta ở Tronjheim này chứ? Có ai nói cho bọn họ về cái chết của anh ta chưa? Bởi vì nếu chưa, tôi sẽ là người đưa tin tức đó, vì bảo vệ tôi, anh! ấy đ! ã chết." Orik hỏi cận vệ của ông, và từ bọn họ, ông biết là quả thực ở Tronjheim, Kvîstor có gia đình , và chính xác hơn là ở bên dưới Tronjheim. Nghe xong, Orik cau mày và lẩm bẩm 1 từ kì quặc với Dwarvish. "bọn họ là những người rất khó hiểu", ông nói, " Knurlan là người đã từ bỏ mặt đất để xuống thế giới dưới lòng đất, ngoại trừ 1 vài lần cướp bóc trên mặt đất. Rất nhiều trong số bọn họ sống ở đây, dưới Tronjheim và Farthen Dûr hơn bất kì nơi bào khác, bởi vì bọn họ có thể thoát ra khỏi Farthen Dûr và không thể chắc chắn rằng bọn họ có ở bên ngoài hay ko, vì hầu hết bọn họ không thể sinh sản, bọn họ đã làm wen với việc giảm không gian sinh sống. Tôi không biết là Kvîstor cũng thuộc số đó." ( hix chỗ này đọc khó hiểu thiệt áh._>.<) " Ông có phiền nếu tôi đi thăm gia đình của anh ta ko?" Eragon hỏi." trong những phòng này, có những bậc thang dẫn xuống dưới, đúng ko? Chúng ta có thể đi mà không bị ai phát hiện." Orik suy nghĩ trong giây lát, rồi gật đầu." ngài nói đúng. Con đường đủ an toàn, và không 1 ai sẽ nghĩ rằng sẽ tìm thấy ngài giữa những người kì bí đó.bọn chúng sẽ đến đây đầu tiên, rồi từ đây chúng sẽ phải tìm cách khác để truy tìm ngài… Hãy đi, và đừng way trở lại cho đến khi tôi gửi thông điệp tới ngài, cho dù Gia Đình Của Mord có xua đuổi ngài đi chăng nữa, thì ngài cũng phải ngồi trên 1 tảng măng đá cho đến khi trời sáng. Nhưng, Eragon, ngài phải cẩn thận; những ngư�! �̀i kì! bí đó giữ kín lòng họ, và bọn họ rất coi trọng danh dự của bộ tộc, và bọn họ có những phong tục riêng rất kì lạ. Bước đi cẩn thận, bởi vì ngài đang đứng trên những tảng đá phiến sét mục,eh?" Và vì thế, cùng với cận vệ Thrand bổ sung, và Hûndfast đi cùng, Eragon- với 1 cây kiếm của người lùn dắt vào thắt lưng-tiến đến cầu thang dẫn xuống dưới gần nó nhất, và đi vào đó, nó tiến xuống sâu hơn vào lòng đất mà trước jờ nó chưa từng đặt chân đến. và đến đúng lúc thích hợp, nó báo tin cho Glûmra về cái chết của Kvîstor, vá nó ngồi xuống lắng nghe bà than khóc về đứa con xấu số của mình, xen lẫn trong đó là tiếng gào thét đứt đoạn, không rõ tiếng của Dwarvish, âm điệu rất chói tai và rùng rợn [...]

Lúng túng vì cường độ nỗi đau của bà ta, Eragon liếc mắt ra khỏi khuôn mặt bà. Nó nhìn cái bếp lò bằng đá màu lục đứng dựa vào một bức tường và những vết khắc mòn vẹt mô tả các mẫu hình vẽ trang trí các cạnh. Nó xem xét tấm thảm màu nâu và lục trải trước lò sưởi, thùng đánh kem ở góc, và thực phẩm dự trữ treo thòng xuống từ xà nhà. Nó nhìn chằm chằm một khung dệt vải bằng gỗ nặng đứng dưới một cửa sổ tròn với kính bằng thủy tinh màu hoa oải hương. Rồi, than khóc đến đỉnh điểm, Glûmra lôi kéo ánh mắt Eragon khi bà đứng dậy khỏi cái bàn, đến chỗ bàn bếp, và đặt bàn tay trái lên cái thớt. Trước khi Eragon kịp ngăn lại, bà ta lấy ra một con dao lạng thịt và cắt đứt một lóng ngón tay út của mình. Bà ta rên rỉ và kêu to gấp đôi.

Eragon bật dậy nửa chừng với một tiếng kêu không chủ ý. Nó thắc mắc cơn loạn trí nào đã khiến bà lùn mất tự chủ và liệu nó có nên cố kìm nén bà ta không, sợ rằng bà ta sẽ tự gây thêm thương tích cho bản thân. Nó mở miệng định hỏi liệu bà ta có muốn nó chữa trị vết thương không, nhưng rồi nó đổi ý, nhớ lại những lời cảnh báo của Orik về những tục lệ kỳ quặc của những cư dân dưới lòng đất và ý thức mạnh mẽ về danh dự. Bà ta có thể sẽ coi lời đề nghị là một sự sỉ nhục, nó nhận ra. Ngậm miệng lại, nó lại ngồi xuống cái ghế nhỏ quá cỡ của mình.

Sau một lát, Glûmra ngồi thẳng lại, hít sâu một hơi, rồi lặng lẽ và điềm tĩnh rửa sạch đầu ngón tay chảy máu của mình bằng rượu mạnh, bôi lên đó một thứ thuốc mỡ màu vàng, và băng bó vết thương. Khuôn mặt tròn vành vạnh vẫn còn tái nhợt vì cú sốc, bà ngồi vào cái ghế đối diện Eragon. "Tôi cảm ơn cậu, Khắc-tinh của Tà-thần, vì đã đích thân mang đến cho tôi tin tức về số phận đứa con tôi. Tôi mừng vì biết nó đã chết một cách kiêu hãnh, một chiến binh cần phải vậy."

"Ông ấy là người can đảm nhất," Eragon nói. "Ông ấy có thấy rằng kẻ thù nhanh nhẹn như thần tiên, nhưng ông ấy vẫn xông tới để bảo vệ tôi. Sự hi sinh của ông ấy cho tôi thời gian để tránh những lưỡi dao, đồng thời để lộ sự nguy hiểm của bùa phép mà chúng yểm lên vũ khí. Nếu không có hành động của ông, tôi không nghĩ hiện giờ tôi có thể ở đây."

Glûmra chậm rãi gật đầu, mắt nhìn xuống, vuốt phẳng mặt trước áo váy. "Cậu có biết ai đứng sau cuộc tấn công này không, Khắc-tinh của Tà-thần?"

"Chúng tôi chỉ nghi ngờ thôi. Grimstborith Orik đang cố xác minh sự thật ngay lúc chúng ta trò chuyện."

"Có phải là Az Sweldn rak Anhûin?" Glûmra hỏi, phỏng đoán sắc sảo của bà khiến Eragon ngạc nhiên. Nó cố hết sức che đậy phản ứng của mình. Trong lúc nó im lặng, bà nói, "Tất cả chúng tôi đều biết mối huyết thù của chúng đối với cậu, Argetlam; mọi knurla trong dãy núi này đều biết. Vài người trong chúng tôi đã ủng hộ sự chống đối của chúng, nhưng nếu chúng thực sự tính đến chuyện giết cậu, thì chúng đã tính lầm hướng của đá và đã tự kết tội mình vì điều đó."

Eragon nhướn một bên lông mày, chăm chú. "Kết tội? Như thế nào?"

"Chính là cậu, Khắc-tinh của Tà-thần, đã kết liễu Durza, do đó giúp chúng tôi bảo vệ Tronjheim và sự sống bên dưới thoát khỏi nanh vuốt của Galbatorix. Chủng tộc chúng tôi sẽ không bao giờ quên điều đó khi mà Tronjheim vẫn còn đứng vững. Và có lời đồn từ các đường hầm rằng rồng của cậu sẽ khôi phục lại Isidar Mithrim?"

Eragon gật đầu.

"Cậu thật tốt, Khắc-tinh của Tà-thần. Cậu đã làm nhiều điều cho chủng tộc chúng tôi, và dù bất cứ tộc nào đã tấn công cậu, chúng tôi sẽ chống lại chúng và báo thù."

"Tôi đã thề trước các nhân chứng," Eragon nói, "và tôi thề với bà nữa, rằng tôi sẽ trừng trị bất cứ kẻ nào đã phái những tên sát nhân đâm sau lưng đó tới và tôi sẽ buộc chúng phải ước chưa bao giờ nghĩ ra một việc làm bẩn thỉu đến vậy. Tuy nhiên –"

"Cảm ơn cậu, Khắc-tinh của Tà-thần."

Eragon lưỡng lự, rồi cúi đầu. "Tuy nhiên chúng tôi không được phép làm bất cứ điều gì có thể dẫn động chiến tranh thị tộc. Không phải lúc này. Nếu phải dùng đến vũ lực, chính Grimstborith Orik sẽ quyết định khi nào và ở đâu chúng tôi phải rút kiếm, bà đồng ý chứ?"

"Tôi sẽ nghĩ về những điều cậu nói, Khắc-tinh của Tà-thần," Glûmra đáp. "Orik…" Điều bà ta định nói tiếp nghẹn lại trong miệng bà. Mí mắt dày của bà ta sụp xuống và bà ta nghiêng ra trước một lát, nhấn bàn tay thương tật lên bụng. Khi cơn đau qua đi, bà đứng thẳng dậy và áp mu bàn tay lên má bên kia và lắc lư sang hai bên, than van, "Ôi, con trai tôi… con trai đẹp đẽ của tôi."

Đứng dậy, bà lảo đảo đi vòng qua cái bàn, hướng về phía một bộ sưu tập nhỏ gồm kiếm và rìu gắn trên tường sau lưng Eragon, bên cạnh là một hốc tường phủ một tấm màn lụa đỏ. Sợ bà ta định gây thêm thương tích cho bản thân, Eragon bật dậy, hất đổ nhào cái ghế gỗ sồi trong cơn hấp tấp. Nó với đến chỗ bà ta, rồi nhận ra bà ta đang đi về phía hốc tường phủ vải, chứ không phải đám vũ khí, và nó giật tay mình về trước khi mạo phạm.

Những cái khoen bằng đồng thau khâu ở mép trên mảnh lụa va vào nhau lách cách khi Glûmra dẹp mảnh lụa sang một bên, làm lộ ra một cái kệ sâu, bị che khuất, chạm khắc những dấu hiệu và hình thù chi tiết đến kinh ngạc, Eragon nghĩ nó có thể ngắm nhìn hàng giờ mà vẫn không thể nắm bắt được chúng trọn vẹn. Trên cái kệ thấp là tượng sáu vị thần lớn của người lùn, cùng với chín thực thể khác mà Eragon không nhận ra, tất cả được chạm trổ với những đường nét và tư thế được cường điệu hóa nhằm truyền đạt hiệu quả hơn những đặc tính của hình tượng được miêu tả.

Glûmra lấy ra một cái bùa bằng vàng và bạc từ lớp áo lót, hôn lên nó rồi áp nó vào chỗ hõm ở cổ họng mình khi bà quỳ xuống trước hốc tường. Giọng thăng giáng trong những đoạn nhạc kì lạ của người lùn, bà bắt đầu ngâm nga một khúc ai ca bằng ngôn ngữ của mình. Giai điệu làm mắt Eragon nhỏ lệ. Trong vài phút, Glûmra hát, rồi chìm vào im lặng và tiếp tục nhìn chằm chằm những bức tượng nhỏ, và khi bà nhìn chúng, những đường nét trên khuôn mặt bị đau buồn tàn phá của bà dịu đi. Và nếu trước đó trên mặt bà Eragon chỉ thấy có giận dữ, đau khổ, và tuyệt vọng, thì giờ đây lại mang một khí sắc chấp nhận điềm tĩnh, sự thanh thản, cùng một vẻ siêu nghiệm uy nghi. Một ánh sáng êm dịu dường như tỏa ra từ nét mặt bà. Khi sự biến đổi của Glûmra hoàn tất, Eragon gần như không nhận ra bà ta.

Bà nói, "Tối nay Kvîstor sẽ dùng bữa trong lâu đài của Morgothal. Tôi biết điều đó." Bà hôn cái bùa một lần nữa. "Tôi ước tôi có thể ăn cùng nó, cùng với chồng tôi, Bauden, nhưng mà vẫn chưa đến lúc tôi được nghỉ ngơi trong hầm mộ của Tronjheim, và Morgothal từ chối cho những ai đẩy nhanh hành trình của mình vào lâu đài của ngài. Nhưng dù sớm hay muộn, gia đình tôi sẽ lại đoàn tụ, cùng với tất cả những tổ tiên của chúng tôi từ khi Gûntera sáng tạo ra thế giới từ bóng tối. Tôi biết điều đó."

Eragon quỳ xuống cạnh bà, giọng khàn khàn, nó hỏi, "Làm sao bà biết?"

"Tôi biết vì nó là như thế." Cử động chậm rãi và kính cẩn, Glûmra chạm đầu ngón tay vào những bàn chân chạm trổ của những ông thần. "Làm sao có thể khác được? Bởi vì thế giới, cũng như một lưỡi gươm hay một chiếc mũ giáp, không thể tự tạo ra nó, và bởi những đấng duy nhất đủ năng lực để tạo hình cho cõi trần và thiên đường là những đấng quyền năng siêu phàm, cho nên chúng ta phải tìm kiếm câu trả lời ở những vị thần. Tôi tin tưởng giao phó cho họ sự công bằng của thế giới, và nhờ niềm tin của tôi, tôi giải phóng con người tôi khỏi gánh nặng của xác thịt tôi."

Bà nói với một sự tin tưởng đến mức, Eragon đột nhiên cảm thấy muốn được chia sẻ niềm tin với bà ta. Nó ao ước được quẳng sang một bên những ngờ vực và sợ hãi của mình để biết rằng, đôi lúc dù thế giới có thể xấu xa đến đâu, cuộc sống cũng không phải chỉ đơn thuần là hỗn loạn. Nó ao ước được biết chắc rằng cuộc đời nó sẽ không chấm dứt ngay cả khi một thanh kiếm chặt lìa đầu nó và rằng một ngày nó sẽ được gặp lại ông Brom, cậu Garrow, và mọi người khác mà nó đã quan tâm và đã đánh mất. Một khát khao dữ dội được hy vọng và an ủi tràn ngập trong nó, khiến nó rối loạn, để lại nó chấp chới trên bề mặt quả đất.

Còn lúc này.

Một phần trong nó do dự không cho phép nó tự giao mình cho những vị thần người lùn và trói buộc nhân dạng và ý thức về phúc lợi của mình vào một thứ mà nó không hiểu. Nó cũng thấy khó khăn khi phải thừa nhận rằng nếu các vị thần thực sự tồn tại, thì những vị thần người lùn là duy nhất. Eragon chắc chắn là nếu nó hỏi Nar Garzhvog hay một thành viên của những bộ lạc du mục, hay thậm chí là những linh mục áo đen của Helgrind, rằng thần của họ có thật hay không, họ cũng sẽ tán dương uy thế những vị thần của họ một cách sôi nổi y như Glûmra vậy.

Mình phải làm sao để biết tín ngưỡng nào là tín ngưỡng đích thực? nó tự hỏi. Chỉ vì một ai đó theo một đức tin nào đó không nhất thiết có nghĩa đó là con đường đúng…. Có lẽ không một tín ngưỡng nào chứa đựng toàn bộ sự thực về vạn vật. Có lẽ mỗi tín ngưỡng chứa đựng một mảnh rời của sự thực và trách nhiệm của chúng ta là nhận biết những mảnh rời đó và hợp nhất chúng lại. Hoặc có lẽ những thần tiên đã đúng và không hề có thần. Nhưng làm sao mình biết chắc?

Thở dài thật dài, Glûmra lẩm nhẩm mấy từ bằng tiếng Người lùn, rồi đứng dậy và kéo tầm màn lụa phủ lên hốc tường. Eragon cũng đứng dậy, nhăn mặt khi những cơ bắp đau nhức vì trận chiến giãn ra. Nó theo bà đến chỗ cái bàn, rồi ngồi lại vào ghế. Từ một tủ đá đặt trong tường, bà lùn lấy ra hai cái vại thiếc, rồi lấy ra hai túi đầy rượu treo trên trần và rót ra cho cả bà và Eragon. Bà đưa vại của mình lên và phát biểu một lời nâng cốc uống mừng bằng tiếng Người lùn, mà Eragon cố gắng bắt chước, rồi họ uống.

"Thật là tốt," Glûmra nói, "khi biết rằng Kvîstor vẫn sống tiếp, khi biết rằng ngay lúc này nó được khoác áo choàng hợp với một ông vua trong khi hưởng thụ bữa tiệc tối trong lâu đài của Morgothal. Cầu mong nó giành được nhiều vinh quang khi phục vụ các vị thần!" và bà lại uống.

Khi nó đã uống cạn, Eragon định chào từ biệt Glûmra, nhưng bà khoát tay ngăn nó. "Cậu có chỗ ở chưa, Khắc-tinh của Tà-thần, an toàn khỏi những kẻ muốn giết cậu?" Eragon liền nói với bà việc nó phải ẩn mình bên dưới Tronjheim cho đến khi Orik gửi người đưa tin đến. Glûmra gật đầu với một cái giật cằm gọn và dứt khoát, nói, "Vậy thì cậu và người của cậu phải đợi ở đây cho đến khi sứ giả đến, Khắc-tinh của Tà-thần à. Tôi nhất quyết như thế." Eragon bắt đầu phản đối, nhưng bà lắc đầu. "Tôi không thể để những người đã chiến đấu cùng con trai tôi phải chờ mòn mỏi trong mấy cái hang vừa ẩm vừa tối khi mà tôi vẫn còn sự sống trong xương của tôi. Cho gọi người của cậu đi, chúng ta sẽ ăn và vui vẻ trong buổi tối ảm đạm này."

Eragon nhận ra nó không thể rời đi mà không làm Glûmra phật ý, nên nó gọi mấy người lính và người phiên dịch của nó. Họ cùng nhau giúp Glûmra chuẩn bị bữa tối gồm bánh mì, thịt, bánh nướng, và khi mọi thứ đã xong, bọn họ cùng ăn uống và nói chuyện đến tối muộn. Glûmra đặc biệt sôi nổi; bà uống nhiều nhất, cười lớn nhất, và luôn luôn là người đầu tiên đưa ra những nhận xét hóm hỉnh. Ban đầu Eragon bị sốc vì cách cư xử của bà, nhưng rồi nó nhận thấy những nụ cười của bà không bao giờ với tới đôi mắt bà, và khi bà nghĩ không có ai nhìn, niềm vui rút khỏi gương mặt bà và biểu hiện của bà lại trở nên u sầu và tĩnh lặng. Làm cho họ vui lòng, nó nghĩ, là cách mà bà tổ chức kỷ niệm cho ký ức về con trai bà, cũng như để chống đỡ nỗi thương tiếc trước cái chết của Kvîstor.

Tôi chưa bao giờ gặp ai giống như bà trước đây, nó nghĩ khi nó quan sát bà ta.

Rất lâu sau nửa đêm, ai đó gõ cửa căn chòi. Hûndfast mở ra một người lùn giáp trụ đầy đủ có vẻ cáu kỉnh và không thoải mái; ông ta cứ liếc về phía các cửa chính và cửa sổ và các góc tối. Với một tràng từ bằng cổ ngữ, ông ta thuyết phục Eragon rằng ông ta là người đưa tin của Orik, và ông ta nói, "Tôi là Farn, con trai của Flosi…. Thưa Argetlam, Orik yêu cầu cậu trở về với tất cả sự khẩn trương có thể. Ông ấy có những thông tin quan trọng nhất liên quan đến những sự kiện ngày hôm nay."

Ở ngưỡng cửa, Glûmra tóm lấy cẳng tay trái của Eragon với những ngón tay như thép, và khi nó nhìn xuống đôi mắt cứng rắn của bà, bà nói, "Hãy nhớ lời thề của cậu, Khắc-tinh của Tà-thần, và đừng để những tên sát hại con trai tôi thoát khỏi sự trừng phạt!"

"Tôi sẽ không quên," nó hứa.

Chương 35: HỘI ĐỒNG THỊ TỘC

Những người lùn canh gác bên ngoài khu phòng của Orik mở toang cánh cửa đôi dẫn vào trong khi Eragon bước về phía họ.

Lối vào trước mặt dài và trang trí lộng lẫy, có ba ghế ngồi hình tròn bọc vải đỏ xếp thành một hàng kéo xuống giữa phòng. Những tấm rèm thêu trang trí các bức tường, cùng những ngọn đèn không lửa ở khắp nơi, trong khi trần nhà được khắc chạm để mô tả một trận chiến lừng danh trong lịch sử người lùn.

Orik đang đứng hội ý với một nhóm lính của mình và vài người lùn râu xám của Dûrgrimst Ingeitum. Eragon vừa đến gần, Orik quay sang nó, nét mặt dữ tợn. "Tốt, cậu đã không chậm trễ! Hûndfast, anh lui về doanh trại của mình được rồi. Chúng tôi cần nói chuyện riêng."

Phiên dịch viên của Eragon cúi đầu và biến mất qua cái cổng tò vò phía bên trái, bước chân ông ta vang dội trên sàn đá mã não láng bóng. Khi ông ta đã ở ngoài tầm nghe, Eragon nói, "Ông không tin ông ta?"

Orik nhún vai. "Giờ tôi chẳng biết tin ai hết; càng ít người biết chúng ta đã khám phá ra những gì, càng tốt. Chúng ta không thể liều để cho tin tức rò rỉ sang tộc khác trước ngày mai. Nếu bị thế, điều đó chắc chắn đồng nghĩa với một cuộc chiến thị tộc." Những người lùn đằng sau ông thì thầm với nhau, có vẻ bối rối.

"Thế tin tức của ông là gì?" Eragon lo lắng hỏi.

Orik ra hiệu, những người lính đứng sau lưng ông liền bước sang một bên, để lộ ra trong góc ba người lùn bết máu me bị trói chồng chất lên nhau. Người lùn nằm dưới cùng rên rỉ và đá chân trong không trung nhưng không thể tự thoát ra khỏi bên dưới mấy tên bạn tù.

"Bọn nào đây?" Eragon hỏi.

Orik đáp, "Tôi đã nhờ vài thợ rèn kiểm tra mấy con dao găm của bọn tấn công. Họ xác nhận tay nghề đó là của một gã Kiefna Mũi-dài, một thợ rèn kiếm của tộc ta, có khá nhiều tiếng tăm."

"Tức là ông ta có thể cho ta biết ai đã mua những con dao đó và do đó kẻ thù của chúng ta là ai?"

Một tiếng cười cộc cằn làm rung bộ ngực của Orik. "Gần như không, nhưng chúng tôi đã truy dấu được những con dao từ Kiefna đến một tay sản xuất vũ khí ở Dalgon, cách đây rất nhiều dặm, hắn ta đã bán chúng cho một knurlaf với –"

"Một knurlaf?" Eragon hỏi.

Orik cáu kỉnh. "Một phụ nữ. Một phụ nữ với bảy ngón mỗi bàn tay đã mua những con dao cách đây hai tháng."

"Thế ông tìm thấy bà ta chứ? Không thế có quá nhiều phụ nữ có số ngón tay như vậy được."

"Thực ra, tình trạng đó là khá phổ biến trong chúng tôi," Orik nói. "Nhưng mặc xác vụ đó đi, sau khá nhiều vất vả, chúng tôi đã xoay sở định vị được bà ta ở Dalgon. Lính của tôi ở đó đã thẩm vấn bà ta một cách tỉ mỉ nhất. Bà ta thuộc tộc Dûrgrimst Nagra, nhưng theo như chúng tôi xác định được, bà ta đã hành động theo ý muốn cá nhân, và không theo lệnh nào từ những người đứng đầu tộc của bà ta cả. Từ bà ta, chúng tôi biết được là một người lùn đã thuê bà ta mua những con dao găm rồi giao cho một tay buôn rượu rồi tay đó sẽ mang chúng đi từ Dalgon. Kẻ thuê người phụ nữ không cho bà ta biết những con dao sẽ được đưa đến đâu, nhưng nhờ hỏi những thương gia của thành phố, chúng tôi đã phát hiện ra rằng hắn đi thẳng từ Dalgon đến một trong những thành phố được quản lý bởi Dûrgrimst Az Sweldn rak Anhûin."

"Như thế chính là bọn chúng!" Eragon kêu lên.

"Hoặc thế hoặc có thể là kẻ nào đó muốn ta nghĩ đó chính là chúng. Ta cần nhiều chứng cứ hơn trước khi có thể xác minh được chắc chắn tội ác của Az Sweldn rak Anhûin." Một tia sáng lóe lên trong mắt Orik, và ông giơ một ngón tay. "Vậy là, bằng cách dùng một thần chú rất, rất thông minh, chúng tôi đã vạch lại đường đi của bọn sát thủ ngược lại qua các đường hầm và hang động rồi lên đến một khu vực bỏ hoang ở tầng thứ mười hai của Tronjheim, tách khỏi đại sảnh phụ thêm vào ở nhánh phía nam của góc phía tây, dọc theo…thôi, được rồi, cái đó không vấn đề. Nhưng một hôm nào đấy tôi sẽ phải dạy cậu cách các phòng được bố trí trong Tronjheim, để nếu có lúc nào cậu cần tìm một nơi bên trong thành phố một mình, thì cậu còn tìm được. Dù thế nào thì, con đường dẫn chúng tôi đến một nhà kho bỏ hoang nơi mà ba tên kia –" ông ra dấu về phía những gã lùn bị trói –"đang ở. Chúng không ngờ đến chúng tôi, và do đó chúng tôi có thể bắt sống chúng, dù chúng đã cố tự sát. Chẳng dễ dàng gì, nhưng chúng tôi đã công phá ký ức của hai tên – để lại tên thứ ba cho những grimstborithn khác thẩm vấn tùy ý – và chúng tôi đã khai thác mọi thứ chúng biết về vụ này." Orik lại chỉ vào mấy tù nhân. "Chính là bọn này đã hỗ trợ cho bọn sát thủ tấn công, cung cấp dao với mớ quần áo đen, và cho chúng ăn và trú ẩn tối hôm qua."

"Chúng là ai?" Eragon hỏi.

"Ha!" Orik kêu lên, và nhổ xuống sàn. "Chúng là Vargrimstn, những chiến binh đã tự làm nhục mặt mình và giờ không thuộc tộc nào cả. Chả ai giao du với những tên rác rưởi như thế trừ khi phải dính líu vào những hành vi côn đồ mà không muốn có người biết. Về ba tên đó thì là thế. Chúng nhận lệnh trực tiếp từ Grimstborith Vermûnd của Az Sweldn rak Anhûin."

"Không còn nghi ngờ gì sao?"

Orik lắc đầu. "Không nghi ngờ gì cả; chính Az Sweldn rak Anhûin đã cố giết cậu, Eragon ạ. Chúng ta chắc sẽ không bao giờ biết được có tộc nào khác tham gia với chúng trong pha tấn công này hay không, nhưng nếu ta vạch trần sự phản trắc của Az Sweldn rak Anhûin, điều đó sẽ buộc bất cứ kẻ nào khác có liên quan đến âm mưu này phải làm ô danh chính những đồng mưu trước đây của chúng; phải từ bỏ, hoặc ít nhất là trì hoãn, những công kích xa hơn vào Dûrgrimst Ingeitum; và, nếu việc này được xử lý thích đáng, phải đưa tôi lá phiếu của chúng cho ngôi vua."

Một hình ảnh nhá lên trong tâm trí Eragon về lưỡi kiếm màu sắc lấp loáng lòi ra từ sau cổ của Kvîstor và biểu hiện đau đớn của ông ta khi ngã xuống sàn chết. "Chúng ta sẽ trừng trị Az Sweldn rak Anhûin như thế nào vì tội này? Có nên giết Vermûnd không?”

"A, cứ để việc đó cho tôi," Orik nói, gõ nhẹ lên mũi. "Tôi có một kế hoạch. Nhưng chúng ta phải bước đi thật cẩn thận, vì đây là một tình huống thuộc loại vô cùng tinh vi. Một sự bội phản như thế chưa hề xảy ra trong rất nhiều năm rồi. Là người ngoài, cậu không thể biết chúng tôi thấy ghê tởm thế nào khi phát hiện ra một kẻ trong chính chúng tôi lại tấn công một vị khách. Việc cậu là Kỵ sĩ tự do duy nhất chống lại Galbatorix càng làm cho tội lỗi trở nên tồi tệ hơn. Có thể cuộc đổ máu tiếp theo là cần thiết, nhưng vào lúc này, nó sẽ chỉ dẫn đến một cuộc chiến thị tộc khác."

"Một cuộc chiến thị tộc có thể là cách duy nhất để giải quyết Az Sweldn rak Anhûin," Eragon chỉ ra.

"Tôi nghĩ là không, nhưng nếu tôi lầm và chiến tranh là không thể tránh khỏi, chúng ta phải đảm bảo rằng đó là một cuộc chiến giữa các tộc còn lại với Az Sweldn rak Anhûin. Điều đó sẽ không quá tệ. Hợp sức lại, chúng ta có thể nghiền bẹp chúng trong vòng một tuần. Nhưng một cuộc chiến thị tộc mà chia ra hai hoặc ba phe sẽ hủy diệt đất nước chúng ta. Cho nên, điều then chốt là trước khi ta rút kiếm của mình ra, ta phải làm cho các tộc khác thấy được những gì Az Sweldn rak Anhûinn đã làm. Để được như thế, liệu cậu có cho phép các pháp sư từ các tộc khác kiểm tra ký ức của cậu về cuộc tấn công để họ có thể thấy chuyện đã xảy ra đúng như lời ta nói, và rằng chúng ta không dàn dựng chuyện đó vì lợi ích của chính mình?"

Eragon lưỡng lự, không thật lòng muốn mở trí óc mình cho người lạ, rồi hất đầu về phía ba gã lùn nằm chất đống lên nhau. "Thế chúng thì sao? Ký ức của chúng không đủ thuyết phục các tộc khác về tội lỗi của Az Sweldn rak Anhûin sao?"

Orik nhăn nhó. "Có thể, nhưng để cho thấu đáo, các tộc trưởng sẽ nhất quyết thẩm tra ký ức của chúng ngược lại cậu, và nếu cậu từ chối, Az Sweldn rak Anhûin sẽ quả quyết rằng chúng ta đang che giấu điều gì đó khỏi hội đồng thị tộc và rằng lời cáo buộc của chúng ta không hơn gì những lời bịa đặt vu khống."

"Được rồi," Eragon nói. "Nếu phải làm, thì tôi sẽ làm. Nhưng nếu những pháp sư đó xớ rớ ở những nơi họ không được phép, dù là vô tình, tôi sẽ không có lựa chọn nào khác hơn là đốt cho những gì họ thấy ra khỏi tâm trí họ. Có vài điều tôi không thể cho phép mọi người biết đến."

Gật đầu, Orik nói, "Đồng ý, tôi có thể nghĩ ra ít nhất một thông tin ba-chân sẽ khiến chúng tôi khiếp vía nếu nó được loan báo khắp vùng, nhỉ? Tôi chắc chắn các tộc trưởng sẽ chấp nhận điều kiện của cậu – vì tất cả bọn họ đều có những bí mật của riêng mình mà họ sẽ không muốn bị bàn tán đó đây – nhưng tôi cũng tin chắc là họ sẽ ra lệnh cho các pháp sư của họ phải tiến tới, bất chấp nguy hiểm. Cuộc tấn công này có khả năng kích phát một sự náo động trong chủng tộc chúng tôi, nên các grimstborithn sẽ cảm thấy bắt buộc phải xác minh sự thật, mặc dù điều đó có thể khiến họ trả giá bằng những pháp sư cao tay nhất."

Vươn thẳng người, Orik ra lệnh chuyển đám tù nhân ra khỏi lối vào được trang hoàng và cho giải tán tất cả cấp dưới, trừ Eragon và một lực lượng gồm hai mươi sáu chiến binh giỏi nhất của ông. Vung tay một cách thanh nhã, Orik nắm lấy khuỷu tay trái của Eragon và dẫn lối cho nó vào khu phòng bên trong. "Tối nay cậu phải ở yên đây, với tôi, tại đây Az Sweldn rak Anhûin sẽ không dám tấn công đâu."

"Nếu ông định ngủ," Eragon nói, "tôi phải cảnh báo ông, tôi không thể nghỉ ngơi, không phải đêm nay. Máu trong người tôi vẫn còn tưng bừng hết lên vì cuộc chiến hỗn loạn đó, còn ý nghĩ của tôi thì cũng không ổn tương tự thế."

Orik đáp, "Nghỉ hay không tùy cậu; cậu không được quấy giấc của tôi, vì tôi sẽ kéo một cái mũ len dày trùm qua mắt. Tuy thế tôi khẩn thiết mong cậu hãy cố mà bình tâm lại – có thể với vài kỹ thuật mà thần tiên đã bày cho cậu – và hồi phục sức mạnh của cậu. Ngày mới đã ở trước mặt chúng ta rồi, và chỉ còn lại vài giờ trước khi hội đồng thị tộc được triệu tập. Chúng ta phải tươi tỉnh hết mức có thể cho những gì sắp đến. Những điều chúng ta làm và nói hôm nay sẽ quyết định vận mệnh sau cùng của người của tôi, đất nước của tôi, và toàn phần còn lại của Alagaësia…. A, đừng làm cái miệng khó chịu thế! Thay vì vậy hãy nghĩ đến điều này: cho dù thành công hay thất bại đang chờ chúng ta, mà tôi tất nhiên hy vọng chúng ta thắng, tên tuổi của chúng ta sẽ được nhớ đến cho tới ngày tận thế vì cách chúng ta đã xử sự trong hội nghị này. Ít nhất đó cũng là một thành tích để làm cậu no bụng bằng lòng kiêu hãnh! Chúa hay thay đổi, và cái bất diệt duy nhất mà chúng ta trông chờ được chính là những gì mà chúng ta đạt được qua những việc làm của mình. Danh vọng hay ô nhục, cả hai cái đó đều đáng quên đi khi cậu đã ra đi từ vương quốc này."

Khuya đêm đó, trong những giờ yên ắng trước buổi sáng, tâm tưởng của Eragon đi lang thang khi nó ngồi chìm trong vòng tay lót đệm của một cái tràng kỷ của người lùn, và trạng thái ý thức của nó tan vào mớ hình ảnh tưởng tượng lộn xộn của những giấc mơ tỉnh. Tuy nhiên nó vẫn nhận thức được những hình khảm ở những tảng đá màu gắn trên bức tường đối diện, và nó cũng trông thấy, y như một miếng vải lót rực rỡ phủ lên những hình khảm, những khung cảnh về cuộc sống của nó trong Thung lũng Palancar, trước khi định mệnh trọng đại và đẫm máu xen vào sự tồn tại của nó. Tuy nhiên, những khung cảnh đó xa rời khỏi sự thực đã được thiết lập, và nhấn chìm nó vào những trạng thái tưởng tượng được dựng lên dần từ những mảnh vụn của những gì đã thực sự xảy ra. Trong những khoảnh khắc cuối cùng trước khi nó tỉnh lại từ trạng thái ngẩn ngơ, những hình ảnh đó lung linh và trở nên hiện thực một cách mạnh mẽ.

Nó đang đứng trong xưởng của chú Horst, những cánh cửa ở đó để mở, lỏng lẻo trên bản lề, giống như những tên ngốc ngoác miệng cười nhăn nhở. Ở ngoài là một đêm không sao, và bóng tối bao trùm tất cả dường như áp lên viền ánh sáng đỏ mờ đục tỏa ra từ những viên than đá, cứ như háo hức muốn ngốn hết mọi thứ bên trong phạm vi của khối cầu đỏ hoe đó. Bên cạnh cái lò rèn, chú Horst hiện ra to lớn như một người khổng lồ, những cái bóng nhảy múa trên khuôn mặt và bộ râu của ông trông thật đáng sợ. Cánh tay lực lưỡng của ông giơ lên và hạ xuống, và một tiếng lanh lảnh như tiếng chuông làm rung động không trung khi cái búa của ông giáng xuống đầu một thanh thép sáng rực màu vàng. Một chùm tia lửa tung ra rồi tiêu tan trên mặt đất. Người thợ rèn đập thanh kim loại thêm bốn nhát nữa; rồi ông nhấc thanh thép ra khỏi cái đe và nhúng nó vào một thùng dầu. Những lưỡi lửa như những bóng ma, xanh và mỏng như tơ, bập bùng dọc trên bề mặt lớp dầu rồi biến mất với những tiếng rít khẽ giận dữ. Lấy thanh thép ra khỏi cái thùng, Horst quay về phía Eragon và cau mày với nó. Ông nói, "Sao mày lại đến đây, Eragon?"

"Cháu cần một thanh gươm của Kỵ sĩ Rồng."

"Biến đi. Tao không có thời gian để rèn cho mày một thanh gươm Kỵ sĩ đâu. Mày không thấy là tao đang làm việc với cái treo nồi của Elain à? Bà ấy phải có nó trong trận chiến. Mày đi một mình à?"

"Cháu không biết."

"Cha mày đâu? Mẹ mày đâu?"

"Cháu không biết."

Rồi một giọng nói mới vang lên, một giọng nói được đánh bóng bởi sức mạnh và quyền lực, và giọng đó nói, "Vị thợ rèn tốt này, nó không đi một mình. Nó đi với ta."

"Thế ông là ai?" Horst gặng hỏi.

"Ta là cha nó."

Giữa hai cánh cửa rộng mở, một dáng vẻ to lớn vây bọc bởi ánh sáng nhợt nhạt hiện ra từ bóng tối ngưng đọng và đứng trên ngưỡng cửa của xưởng rèn. Một chiếc áo choàng đỏ tung phần phật trên đôi vai rộng hơn cả của một tên Kull. Trong tay trái người đàn ông lập lòe thanh Zar'roc, sắc bén như sự đau đớn. Qua khe hở của cái mũ sắt sáng loáng, đôi mắt xanh dương của ông ta xoáy vào Eragon, ghim nó xuống đất, như một mũi tên xuyên qua một con thỏ. Ông ta nâng tay kia của mình lên và đưa về phía Eragon. "Con trai ta, đi với ta. Cùng với nhau chúng ta có thể hủy diệt Varden, giết Galbatorix, và chinh phục toàn thể Alagaësia. Nhưng hãy đưa ta trái tim con, và chúng ta sẽ là bất khả chiến bại."

"Đưa cho ta trái tim con, con trai."

Kêu lên tắc nghẹn, Eragon bật ra khỏi cái tràng kỷ và đứng nhìn chằm chằm sàn nhà, nắm tay nó siết chặt, ngực phập phồng. Mấy người lính gác của Orik liếc nó dò hỏi, nhưng nó phớt lờ họ, quá rối loạn để có thể giải thích cơn bộc phát của nó.

Vẫn còn sớm, vì thế sau một lát, Eragon ngồi lại xuống cái tràng kỷ, nhưng sau đó, nó giữ mình tỉnh táo và không cho phép mình chìm vào vùng đất của những giấc mơ, vì sợ những sự hiện hình có thể giày vò nó.

Eragon đứng tựa lưng vào tường, tay đặt trên đốc thanh kiếm của người lùn, nhìn các tộc trưởng đi thành hàng vào phòng hội nghị hình tròn nằm bên dưới Tronjheim. Nó đặc biệt để mắt đến Vermûnd, grimstborith của Az Sweldn rak Anhûin, nhưng nếu người lùn che mạng đỏ tía đó có ngạc nhiên vì thấy Eragon còn sống và khỏe mạnh thì ông ta cũng không thể hiện ra.

Eragon cảm thấy giày của Orik thúc vào giày nó. Không rời mắt khỏi Vermûnd, Eragon cúi về phía rik nghe ông thì thào, "Nhớ, bên trái và xuống dưới ba ô cửa," ám chỉ nơi Orik đã chốt một trăm lính của mình mà không cho các tộc trưởng khác biết.

Cũng thì thào, Eragon nói, "Nếu máu phải đổ, tôi có nên chớp cơ hội mà khử con rắn Vermûnd đó không?"

"Trừ khi hắn cố làm thế với tôi hay cậu, không thì làm ơn đừng." Orik bật cười thầm. "Làm vậy sẽ khó mà khiến cho các grimstborithn khác quý mến cậu…. À, tôi phải đi đây. Cầu nguyện Sindri ban cho may mắn chứ? Chúng ta chuẩn bị mạo hiểm vào một biển dung nham mà chưa ai dám vượt qua trước đây đâu."

Và Eragon cầu nguyện.

Khi tất cả các tộc trưởng đã yên vị xung quanh cái bàn ở giữa phòng, những người quan sát từ vòng ngoài, gồm cả Eragon, nhận chỗ ngồi của mình trong số những cái ghế xếp vòng tròn đặt tựa vào bức tường uốn cong. Nhưng Eragon không ngồi thoải mái vào ghế như những người lùn khác, mà chỉ ngồi ở mép, sẵn sàng đánh nhau ngay khi thấy dấu hiệu nguy hiểm nhỏ nhất.

Khi Gannel, chiến binh-linh mục mắt-đen của Dûrgrimst Quan, đứng dậy và bắt đầu nói bằng tiếng Người lùn, Hûndfast khép nép lại gần cánh phải của Eragon và lẩm nhẩm dịch không ngừng. Ông lùn nói, "Chào mừng một lần nữa, các tộc trưởng huynh đệ của tôi. Nhưng dù có thích đáng hay không, tôi vẫn phân vân, vì một số tin đồn gây nhiễu loạn – tin đồn của tin đồn, nếu đó là sự thật – đã tới tai tôi. Tôi không có thông tin gì ngoài những lời mơ hồ và gây lo lắng này, cũng như bằng chứng để theo đó tìm ra lời kết tội cho những hành động xấu. Tuy vậy, vì hôm nay là ngày của tôi để chủ trì việc này – buổi hội họp của chúng ta – tôi đề nghị chúng ta hãy tạm hoãn cuộc thảo luận hệ trọng nhất của chúng ta lại, và nếu các vị tán thành, cho phép tôi đưa ra một vài câu hỏi cho hội đồng."

Các tộc trưởng thì thầm với nhau, và rồi Íorûnn, Íorûnn rạng rỡ má lúm đồng tiền, nói, "Tôi không có phản đối, Grimstborith Gannel. Ông đã khơi dậy trí tò mò của tôi bằng những lời bóng gió khó hiểu này. Hãy để chúng tôi nghe những câu hỏi mà ông có."

"Đúng vậy, cho chúng tôi nghe đi," Nado nói.

"Cho chúng tôi nghe đi," Manndrâth và tất cả các tộc trưởng còn lại, kể cả Vermûnd, nhất trí.

Đã nhận được sự tán thành mà mình yêu cầu, Gannel tỳ các khớp ngón tay của ông lên bàn, im lặng một lát để tập trung sự chú ý của mọi người trong phòng. Rồi ông nói. "Ngày hôm qua, trong khi chúng ta đang dùng bữa trưa ở những địa điểm nhất định, các knurlan ở khắp trong các đường hầm bên dưới góc tây của Tronjheim đã nghe thấy tiếng huyên náo. Báo cáo về độ ồn là khác nhau, nhưng có nhiều người như vậy nhận thấy nó trên một phạm vi rộng, chứng tỏ nó không phải là một náo động nhỏ. Giống như các vị, tôi đã nhận được một cảnh báo thường lệ về một vụ sập hầm có thể đã xảy ra. Tuy nhiên, điều mà các vị có thể không ý thức được, là chỉ hai giờ sau –"

Hûndfast ngập ngừng, và nhanh chóng thì thầm, "Từ này rất khó diễn tả bằng ngôn ngữ này. Những-người-chạy-trong-hầm, tôi nghĩ vậy." Rồi ông ta tiếp tục dịch:

"– những-người-chạy-trong-hầm đã phát hiện ra vết tích của một trận chiến phi thường bên trong một trong số những đường hầm cổ mà ông tổ danh tiếng của chúng ta, Korgan Râu-dài, đã khai phá. Sàn phủ đầy máu, tường đen thui vì bồ hóng từ một cái lồng đèn mà một chiến binh với lưỡi gươm bất cẩn đã đánh thủng, các vết nứt chia cắt đá xung quanh, và ngổn ngang khắp nơi là bảy thân thể nát nhừ và cháy thành than, cùng những dấu hiệu chứng tỏ có những thân thể khác đã bị mang đi. Đây cũng không phải tàn tích của những cuộc xung đột vụn vặt mơ hồ từ Trận chiến Farthen Dûr. Không! Vì máu còn chưa khô, bồ hóng vẫn còn mềm, những vết nứt mới bị vỡ ra là rõ ràng nhất, và, tôi được cho biết, những tàn dư của phép thuật hùng mạnh vẫn có thể được phát hiện ra bên trong khu vực đó. Ngay lúc này, vài pháp sư giỏi nhất của chúng tôi đang nỗ lực tái dựng một hình ảnh bản sao của những gì đã xảy ra, nhưng họ ít có hy vọng thành công, vì những thứ có liên quan được bao bọc bởi bùa phép rất ranh ma. Như vậy câu hỏi đầu tiên của tôi cho hội đồng là: có ai trong các vị có hiểu biết sâu xa hơn về sự việc bí ẩn này không?"

Khi Gannel kết thúc phần nói của mình, Eragon gồng cứng chân sẵn sàng bật dậy nếu những tên lùn che mạng tía của Az Sweldn rak Anhûin với tay đến kiếm của chúng.

Orik hắng giọng nói, "Tôi tin rằng tôi có thể thỏa mãn một chút sự tò mò của ông về điểm đó, Gannel à. Tuy nhiên, vì câu trả lời của tôi nhất thiết phải là một câu trả lời dài, tôi đề nghị ông hỏi luôn những câu hỏi khác của mình trước khi tôi bắt đầu."

Trán Gannel sa sầm vì một nét cau mày. Gõ gõ các đốt ngón tay lên bàn, ông nói, "Được thôi…. Về những điều có liên quan rõ ràng tới tiếng binh khí trong các đường hầm của ngài Korgan, tôi đã được báo lại rằng rất nhiều knurlan đang đi lại trong Tronjheim và, với ý định ngấm ngầm, đã tập hợp ở nhiều nơi thành những nhóm lớn có vũ trang. Các điệp viên của tôi không thể xác định các chiến binh thuộc tộc nào, nhưng nếu bất cứ ai trong hội đồng này cố lén lút sắp đặt lực lượng của mình trong khi chúng ta đang tham gia vào cuộc họp quyết định ai sẽ kế vị Vua Hrothgar, thì điều đó sẽ ám chỉ những động cơ thuộc loại đen tối nhất. Như vậy câu hỏi thứ hai của tôi cho hội đồng là: ai là người đứng sau cuộc vận động thiếu suy nghĩ này? Và nếu không ai sẵn lòng thừa nhận hành vi sai trái của mình, tôi đề nghị một cách kiên quyết nhất rằng chúng ta hãy ra lệnh trục xuất tất cả binh lính, không phân biệt thị tộc, ra khỏi Tronjheim trong thời hạn cuộc họp và rằng chúng ta hãy lập tức cử ra một ngôn-luật-viên để điều tra những việc này và xác định ai là người chúng ta phải khiển trách."

Tiết lộ, câu hỏi, và kiến nghị sau đó của Gannel đã gợi lên một cuộc đàm luận sôi nổi xôn xao giữa các tộc trưởng, trong đó những người lùn tung ra những lời buộc tội, rồi phủ nhận, rồi buộc tội ngược lại nhau với độ cay độc ngày càng tăng, cho đến cuối cùng, khi một Thordris điên tíêt quát lác với một Gáldhiem mặt đỏ bừng, Orik lại hắng giọng, khiến mọi người ngừng lại và nhìn ông chăm chăm.

Bằng một giọng ôn hòa, Orik nói, "Điều này tôi cũng tin là có thể giải thích cho ông, Gannel, ít nhất là phần nào. Tôi không thể nói gì về hoạt động của các tộc khác, nhưng vài trăm lính đang hối hả trong các đại sảnh của người hầu trong Tronjheim chính là của Dûrgrimst Ingeitum. Điều này tôi thoải mái thừa nhận."

Tất cả yên lặng cho đến khi Íorûnn nói, "Và ông có lời giải thích nào cho hành động mang tính tham chiến này, Orik, con trai của Thrifk?"

"Như tôi vừa nói, thưa Íorûnn xinh đẹp, câu trả lời của tôi phải là một câu trả lời dài, nên nếu ông, Gannel, có bất cứ câu hỏi nào khác, tôi đề nghị ông hãy đưa ra luôn."

Gannel cau mày sâu hơn cho đến khi đôi lông mày lồi ra của ông ta gần như chạm nhau. Ông nói, "Tôi sẽ giữ lại những câu hỏi khác của tôi vào lúc này, vì tất cả chúng đều liên quan đến những câu tôi vừa đưa ra, và hình như chúng tôi đang phải đợi trên sự thích thú của ông để được biết thêm bất cứ điều gì về những chủ đề đó. Tuy nhiên, vì ông có liên quan chặt chẽ đến những hành động đáng ngờ này, một câu hỏi mới đã nảy ra với tôi mà tôi phải hỏi ông một cách rõ ràng, Grimstborith Orik. Vì lý do nào mà ông đã rời khỏi cuộc họp ngày hôm qua? Và cho tôi cảnh báo ông, tôi sẽ không chấp nhận sự thoái thác. Ông đã cho hay là ông có hiểu biết về những vụ việc này. Vậy được, giờ là lúc cho ông tự mình cung cấp một lời giải thích toàn vẹn, Grimstborith Orik."

Orik đứng dậy ngay khi Gannel ngồi xuống và nói, "Tôi rất sẵn lòng."

Hạ thấp cái cằm râu ria của mình đến khi nó chạm vào ngực, Orik dừng lại một thoáng và rồi bắt đầu nói bằng một giọng vang dội, nhưng ông không mở đầu như Eragon đã mong đợi, cũng như Eragon đã phỏng đoán, hay hội đồng đã mong đợi. Thay vì mô tả nỗ lực lấy mạng Eragon, từ đó giải thích tại sao ông đã kết thúc buổi họp trước thời hạn, Orik mở đầu bằng việc thuật lại, vào bình minh của lịch sử, dòng giống người lùn đã di cư như thế nào từ những cánh đồng đã một thời xanh tươi của Sa mạc Hadarac đến rặng núi Beor, nơi họ đã khai quật những đường hầm dài vô số dặm, xây cất những thành phố hoa lệ của mình cả bên trên lẫn bên dưới mặt đất, và tiến hành những cuộc chiến đầy sức sống giữa những phe phái của mình, cũng như với rồng, những sinh vật mà, trong hàng ngàn năm, người lùn vẫn nhìn nhận với một con mắt pha trộn giữa ghét, sợ, và kính nể bất đắc dĩ.

Rồi Orik nói về sự xuất hiện của thần tiên ở Alagaësia và thần tiên đã tranh đấu với rồng như thế nào cho đến khi hai phía gần như diệt tuyệt lẫn nhau và, kết quả, hai loài đã nhất trí ra sao để sáng tạo ra những Kỵ sĩ Rồng để duy trì hòa bình về sau này.

"Và sự đáp lời của chúng ta là sao khi chúng ta biết được ý định của họ?" Orik gặng hỏi, giọng nói ngân vang trong phòng họp. "Chúng ta có yêu cầu được dự phần vào hiệp ước của họ không? Chúng ta có mong muốn được chia sẻ quyền năng của Kỵ sĩ Rồng không? Không! Chúng ta trung thành với lề lối cũ của chúng ta, lòng căm hờn cũ của chúng ta, và chúng ta bác bỏ ngay cả cái ý nghĩ ràng buộc với loài rồng hay cho phép bất cứ ai bên ngoài vương quốc kiểm soát chúng ta. Để bảo tồn uy quyền, chúng ta đã hy sinh tương lai của mình, vì tôi tin rằng nếu vài người trong số Kỵ sĩ Rồng là knurlan, Galbatorix có khi đã không bao giờ gây dựng được quyền lực. Thậm chí nếu tôi lầm – và tôi không hề có ý coi nhẹ Eragon, người đã chứng tỏ mình là một Kỹ sĩ giỏi – rồng Saphira có thể đã nở ra cho một người trong chủng tộc chúng ta chứ không phải là một con người. Và khi đó những vinh quang nào có thể thuộc về chúng ta?"

"Thay vì thế, tầm quan trọng của chúng ta trong Alagaësia đã bị suy giảm kể từ khi Nữ hoàng Tarmunora và người trùng tên Eragon hòa giải với loài rồng. Ban đầu địa vị bị hạ thấp của chúng ta cũng không quá đắng để nuốt trôi, và thường thì phủ nhận vẫn dễ hơn là chấp nhận. Nhưng rồi lũ Urgals đến, và rồi là con người, và thần tiên sửa đổi những thần chú của họ để con người cũng có thể làm Kỵ sĩ. Vậy rồi chúng ta có yêu cầu được bao hàm vào hiệp định của họ, như đó là… quyền của chúng ta không?" Orik lắc đầu. "Lòng kiêu hãnh của chúng ta sẽ không cho phép điều đó. Tại sao chúng ta, chủng tộc lâu đời nhất trên vùng đất này, lại đi cầu xin thần tiên ân huệ từ phép thuật của họ? Chúng ta chẳng cần phải trói buộc định mệnh của mình với loài rồng để bảo vệ chủng tộc ta khỏi diệt vong, như là thần tiên với loài người. Chúng ta lờ đi, dĩ nhiên, những trận chiến đã nổ ra giữa chính chúng ta. Những cuộc chiến đó, chúng ta lập luận, là những việc riêng tư và không liên can đến ai khác hết."

Các tộc trưởng đang lắng nghe cựa quậy. Nhiều người trong số họ có vẻ không hài lòng với sự chỉ trích của Orik, trong khi những người còn lại có vẻ tiếp thu hơn những lời bình luận của ông và có vẻ trầm ngâm.

Orik tiếp tục: "Trong khi những Kỵ sĩ trông nom Alagaësia, chúng ta đã hưởng thụ thời kỳ thịng vượng tuyệt vời nhất chưa từng được ghi chép trong niên sử của vương quốc. Chúng ta phát triển hưng thịnh hơn bao giờ hết, nhưng chúng ta lại chẳng có góp phần gì vào nguyên nhân của điều đó: Kỵ sĩ Rồng. Khi những Kỵ sĩ suy tàn, cơ đồ của chúng ta cũng chấn động, nhưng một lần nữa, chúng ta không có góp phần gì vào nguyên nhân của điều đó: những Kỵ sĩ. Tôi thấy rằng, cả hai tình trạng trên đều không thích hợp cho một chủng tộc có tầm cỡ như chúng ta. Chúng ta không phải là một đất nước đầy tớ lệ thuộc vào những ý tưởng bất chợt của những ông chủ ngoại quốc. Những kẻ không phải hậu duệ của Odgar và Hlordis cũng không có quyền thao túng vận mệnh của chúng ta"

Lời lập luận này được các tộc trưởng thích hơn; họ gật đầu và mỉm cười, và Havard thậm chí vỗ tay vài cái ở lời cuối cùng.

"Giờ cân nhắc kỷ nguyên hiện tại của chúng ta," Orik nói. "Galbatorix đang nắm thế lực, và mọi giống loài đều chiến đấu để duy trì sự tự do. Hắn đã trở nên rất hùng mạnh, và lý do duy nhất chúng ta vẫn chưa phải nô lệ của hắn, cho đến giờ, chính là hắn vẫn chưa quyết định bay ra trên lưng con rồng đen của hắn và đánh thẳng vào chúng ta. Hắn mà làm vậy, chúng ta sẽ sụp đổ trước hắn như cây non trước tuyết lở. May mắn là, có vẻ hắn bằng lòng với việc chờ cho chúng ta chém giết và tự mở đường đến tận cổng thành trì của hắn ở Urû'baen. Bây giờ, tôi xin nhắc các vị rằng trước khi Eragon và Saphira xuất hiện ướt nhẹp và lê bước đến ngưỡng cửa trước của chúng ta, với một trăm tên Kull đang la ó ngay sát gót, hy vọng duy nhất của chúng ta đánh bại Galbatorix là một ngày nào đó, ở nơi nào đó, Saphira sẽ nở ra cho Kỵ sĩ mà nó chọn và người bí ẩn này sẽ, có thể, may ra, nếu chúng ta may mắn hơn mọi con bạc đã từng thắng một cú tung súc sắc, có khả năng lật đổ Galbatorix. Hy vọng? Ha! Chúng ta thậm chí còn không có hy vọng; chỉ có hy vọng của hy vọng. Khi Eragon lần đầu trình diện, rất nhiều người trong chúng ta đã mất tinh thần vì bề ngoài của cậu ta, kể cả chính tôi. 'Nó chỉ là một cậu bé,' chúng ta đã nói. 'Sẽ tốt hơn nếu cậu ta là một thần tiên,' chúng ta đã nói. Nhưng nhìn xem, cậu ta đã chứng tỏ bản thân mình là hiện thân cho mọi hy vọng của chúng ta! Cậu ta kết liễu Durza, từ đó ! cho phép chúng ta cứu sống thành phố yêu quý nhất của chúng ta, Tronjheim. Rồng của cậu ta, Saphira, đã hứa sẽ hồi lại cho Ngôi Sao Hoa Hồng vẻ huy hoàng trước đây. Trong Trận chiến Cánh Đồng Cháy, cậu ta đã đánh đuổi Murtagh và Thorn, nhờ vậy giúp chúng ta chiến thắng ngày đó. Và nhìn xem! Cậu ta giờ đây đã khoác vẻ bề ngoài của một thần tiên, và nhờ những ma thuật kỳ lạ của họ, cậu ta đã nhận được tốc độ và sức mạnh của họ."

Orik giơ một ngón tay nhấn mạnh. "Hơn thế nữa, Vua Hrothgar, bằng sự thông tuệ của mình, đã làm điều mà không một vị vua hay grimstborith nào khác từng làm; ngài đề nghị nhận Eragon vào Dûrgrimst Ingeitum và để cậu ta trở thành một thành viên của chính gia đình ngài. Eragon không có nghĩa vụ phải chấp nhận đề nghị này. Thực tế, cậu ta nhận thức được rất nhiều gia tộc của Ingeitum phản đối điều đó, và nói chung rất nhiều knurlan sẽ không thích thú gì điều đó. Nhưng bất chấp những ngăn trở đó, và bất chấp thực tế rằng mình đã bị ràng buộc lòng trung thành với Nasuada, Eragon vẫn đón nhận món quà của Vua Hrothgar, biết hoàn toàn rõ rằng điều đó sẽ chỉ làm cho cuộc đời mình khó khăn hơn. Như đã tự mình nói với tôi, Eragon đã tuyên thệ trước Tim của Đá vì ý thức được nghĩa vụ mà mình cảm thấy đối với tất cả giống loài trong Alagaësia, và đặc biệt là đối với chúng ta, bởi vì chúng ta, nhờ việc làm của vua Hrothgar, đã cho cậu ta và Saphira thấy một lòng tốt đến vậy. Nhờ thiên tư của Vua Hrothgar, người Kỵ sĩ tự do cuối cùng của Alagaësia, là hy vọng duy nhất của chúng ta chống lại Galbatorix, đã thoải mái lựa chọn trở thành một knurla toàn diện chỉ trừ dòng máu. Kể từ đó, Eragon đã tôn trọng luật lệ và truyền thống của chúng ta với tất cả sự hiểu biết của mình, và cậu ta mong muốn học hỏi nhiều hơn về văn hóa của chúng ta để có thể chứng tỏ lòng kính trọng của mình đối với ý nghĩa đích ! thực của lời thề. Khi Vua Hrothgar gục ngã, bị quật ngã bởi tên phản bội Murtagh, Eragon đã thề với tôi trước mọi hòn đá của Alagaësia, và cũng ở cương vị một tộc viên của Dûrgrimst Ingeitum, rằng cậu ta sẽ đấu tranh để trả thù cho cái chết của Vua Hrothgar. Cậu ta đã cho tôi lòng kính trọng và sự phục tùng mà tôi đáng được nhận với danh hiệu grimstborith, và tôi tự hào coi cậu ta là nghĩa đệ của tôi."

Eragon liếc nhìn xuống, má và chóp tai nó nóng bừng. Nó ước Orik đừng quá thoải mái tán dương nó như thế; điều đó chỉ làm địa vị của nó khó giữ vững hơn trong tương lai.

Khoát tay bao quát các tộc trưởng khác, Orik kêu lên, "Mọi điều chúng ta có thể ao ước ở một Kỵ sĩ Rồng, chúng ta đều đã nhận được ở Eragon! Cậu ta tồn tại! Cậu ta hùng mạnh! Và cậu ta đã che chở người của chúng ta theo cách mà chưa có Kỵ sĩ nào từng làm!" Rồi Orik hạ tay xuống, hạ cả giọng nói của mình, cho đến khi Eragon phải ráng sức mới nghe được lời của ông. "Nhưng chúng ta đã đáp lại tình bằng hữu của cậu ta như thế nào? Chỉ toàn bằng những cái cười nhạo, sự xem thường và sự gắt gỏng oán giận. Tôi nói, chúng ta là một chủng tộc vô ơn, và trí nhớ của chúng ta là quá dai cho chính những tốt đẹp của mình…. Thậm chí có những kẻ đã chất chứa quá nhiều ung nhọt căm hờn, họ đã dùng đến bạo lực để làm nguôi cái khát từ cơn giận của mình. Có lẽ họ vẫn tin là họ đang làm những gì tốt nhất cho người của chúng ta, nhưng nếu vậy, thì tâm trí họ mốc meo như một miếng phó mát lâu năm. Nếu không, tại sao họ lại cố giết Eragon?"

Các tộc trưởng đang lắng nghe im lặng hoàn toàn, mắt họ dính chặt vào gương mặt Orik. Sự tập trung của họ quá căng thẳng, tộc trưởng to béo Freowin, đã dẹp việc chạm khắc hình con quạ và khoanh tay lại trên cái bụng phì nhiêu của mình, mang một cái vẻ không khác gì một bức tượng lùn.

Với những đôi mắt nhìn mình không chớp, Orik thuật lại cho hội đồng về việc bảy tên lùn trang phục đen đã tấn công Eragon và cận vệ của nó như thế nào trong khi họ đang lang thang trong những đường hầm bên dưới Tronjheim. Rồi Orik cho họ biết về cái vòng đeo tay tết bằng lông ngựa gắn những viên thạch anh tím mài tròn mà lính gác của Eragon đã tìm thấy trong một cái xác.

"Đừng nghĩ đến chuyện buộc tội cuộc tấn công này lên bộ tộc chúng tôi chỉ với một bằng chứng tầm thường như thế!" Vermûnd kêu lớn, bật dậy. "Ai cũng có thể mua những thứ trang sức rẻ tiền như thế ở hầu hết các chợ trong vương quốc này!"

"Đúng thế," Orik nói, nghiêng đầu về phía Vermûnd. Bằng một giọng bình thản và bước chân nhanh nhẹn, Orik kể cho các thính giả của mình, như ông đã kể với Eragon tối trước đó, người của ông ở Dalgon đã xác nhận với ông rằng những con dao găm lung linh kỳ dị mà bọn sát thủ sử dụng được rèn bởi thợ rèn Kiefna, và cả việc người của ông đã khám phá ra rằng gã lùn mua những vũ khí đó đã tính vận chuyển chúng từ Dalgon đến một trong những thành phố do Az Sweldn rak Anhûin giữ. Thấp giọng gầm gừ nguyền rủa, Vermûnd lại bật dậy. "Những con dao đó có thể chưa bao giờ đến được thành phố chúng tôi, và thậm chí nếu có, ông cũng chẳng thể rút ra kết luận gì từ việc đó! Có nhiều knurlan thuộc rất nhiều tộc sống bên trong những bức tường của chúng tôi, cũng như bên trong những bức tường của Hang Bregan chẳng hạn. Điều đó chẳng cho biết gì cả. Cẩn trọng những gì ông sắp nói, Grimstborith Orik, vì ông không có lý lẽ nào để chĩa những cáo buộc đó vào tộc của tôi."

"Tôi cũng có quan điểm như ông vậy, Grimstborith Vermûnd," Orik đáp. "Bởi vậy, tối qua, các pháp sư của tôi và tôi đã tái lập lộ trình của bọn sát thủ ngược lên nơi xuất phát của chúng, và trên tầng mười hai của Tronjheim, bọn tôi đã bắt giữ ba knurlan đang ẩn trốn trong một kho chứa bám bụi. Bọn tôi đã công phá ý thức của hai trong số chúng và, từ chúng, bọn tôi biết chúng đã cung cấp lương thực cho bọn sát thủ trong vụ tấn công. Và," Orik nói, giọng ông trở nên cay nghiệt và ghê gớm, "từ chúng, bọn tôi đã biết được nhân dạng của kẻ đứng sau. Tôi nói tên ông, Grimstborith Vermûnd! Tôi nói ông Kẻ sát nhân và Bội-thệ. Tôi nói ông là kẻ thù của Dûrgrimst Ingeitum, và tôi nói ông là một kẻ phản bội đồng loại của mình, vì chính ông và tộc của ông đã cố sát hại Eragon!"

Hội đồng thị tộc nổ ra hỗn loạn khi mọi tộc trưởng, trừ Orik và Vermûnd, bắt đầu la hét và vung tay, đồng thời cố át cuộc đối thoại. Eragon đứng dậy và nới lỏng thanh kiếm đi mượn khỏi vỏ, rút ra hơn một phân, như thế nó có thể phản ứng với bất cứ một tốc độ nào nếu Vermûnd hay một trong những tên lùn của ông ta chọn đúng thời điểm đó để ra tay. Tuy nhiên Vermûnd không động đậy, cũng như Orik; họ nhìn chằm chằm vào nhau như những con sói đối địch và không bận tâm đến những chuyển động xung quanh.

Cuối cùng khi Gannel đã tái lập được trật tự, ông nói, "Grimstborith Vermûnd, ông có thể bác bỏ những công kích này không?"

Bằng một giọng đều đều vô cảm, Vermûnd đáp, "Tôi phủ nhận chúng với mọi cái xương trong người tôi, và tôi thách thức bất cứ ai chứng tỏ được chúng là thỏa đáng với một ngôn-luật-viên."

Gannel quay sang Orik. "Vậy hãy đưa ra chứng cứ của ông, Grimstborith Orik, để chúng tôi có thể phán xử liệu chúng có hiệu lực hay không. Có năm ngôn-luật-viên ở đây ngày hôm nay, nếu tôi không lầm." Ông ra dấu về phía bức tường, nơi năm người lùn râu trắng đứng và cúi đầu. "Họ sẽ đảm bảo rằng chúng ta không lạc ra khỏi ranh giới của luật pháp trong quá trình điều tra. Chúng ta tán thành chứ?"

"Tôi tán thành," Ûndin nói.

"Tôi tán thành," Hadfala nói và tất cả các tộc trưởng còn lại nói theo, trừ Vermûnd.

Đầu tiên, Orik đặt cái vòng thạch anh tím lên mặt bàn. Mỗi tộc trưởng nhờ một trong những pháp sư của mình kiểm tra nó, và tất cả đều nhất trí chứng cứ đó chưa đủ thuyết phục.

Rồi Orik nhờ một hầu cận mang vào một cái gương gắn trên một cái kiềng bằng đồng. Một pháp sư trong đoàn tùy tùng của ông niệm một thần chú, và trên bề mặt bóng loáng của cái gương xuất hiện hình ảnh về một căn phòng nhỏ, chất đầy sách. Một thoáng trôi qua, rồi một người lùn lao vào phòng và cúi đầu về phía hội đồng từ bên trong cái gương. Bằng giọng hổn hển, ông ta giới thiệu mình là Rimmar, sau đó tuyên thệ bằng cổ ngữ để đảm bảo sự trung thực của mình, ông ta kể với hội đồng làm thế nào ông ta và trợ thủ của mình đã tìm ra những điều có liên quan đến những con dao mà những kẻ tấn công Eragon đã sử dụng.

Khi các tộc trưởng đã thẩm vấn xong Rimmar, Orik bảo những chiến binh của mình mang vào ba tên lùn mà tộc Ingeitum đã bắt giữ. Gannel ra lệnh cho chúng tuyên thệ trung thực bằng cổ ngữ, nhưng chúng nguyền rủa ông ta và nhổ lên sàn và từ chối. Rồi các pháp sư từ tất cả các tộc nhập vào suy nghĩ của chúng và xâm chiếm ý thức chúng, moi lấy thông tin mà hội đồng yêu cầu. Không hề có phản đối, các pháp sư chứng thực những gì Orik đã nói.

Sau cùng, Orik gọi đến Eragon làm chứng. Eragon thấy hồi hộp khi nó đi đến chỗ cái bàn và mười ba tộc trưởng dữ tợn đang nhìn nó chằm chằm. Nó nhìn ngang qua căn phòng dán mắt vào một xoắn màu trên một cái trụ cẩm thạch và cố phớt lờ nỗi lo của mình. Nó lặp lại những lời thề chân thực khi một pháp sư nói với nó, và rồi, không nói nhiều hơn mức cần thiết, Eragon thuật lại cho các tộc trưởng nó và các cận vệ của nó đã bị tấn công như thế nào. Sau đó, nó trả lời những câu hỏi không thể tránh khỏi của những người lùn và rồi cho phép hai trong số các pháp sư – hai người Gannel đã chọn ngẫu nhiên trong số những người được tập hợp – để kiểm tra ký ức của nó về vụ việc. Khi Eragon hạ thấp hàng rào xung quanh tâm trí nó, nó nhận thấy hai pháp sư có vẻ e sợ, và nó cảm thấy an ủi một chút vì điều đó. Tốt, nó nghĩ. Họ sẽ ít có khả năng đi lang thang vào những nơi không nên nếu họ biết sợ mình.

Eragon nhẹ nhõm vì cuộc thanh tra trôi qua không có rắc rối nào, và những pháp sư chứng thực cho phần tường thuật của nó với các tộc trưởng.

Gannel đứng dậy khỏi ghế và gọi các ngôn-luật-viên, hỏi họ: "Các vị đã thỏa mãn với chất lượng của những bằng chứng mà Grimstborith Orik và Eragon Khắc-tinh của Tà-thần đã đưa ra chưa?"

Năm người lùn râu trắng cúi đầu, và người lùn ở giữa nói, "Chúng tôi đã thỏa mãn, thưa Grimstborith Gannel."

Gannel lẩm bẩm, có vẻ không ngạc nhiên. "Grimstborith Vermûnd, ông chịu trách nhiệm cho cái chết của Kvîstor, con trai của Bauden, và ông đã cố giết một vị khách. Với việc đó, ông đã mang đến sự ô nhục cho toàn thể chủng tộc chúng ta. Ông nói sao về điều này?"

Tộc trưởng của Az Sweldn rak Anhûin ấn bẹp tay xuống bàn, mạnh máu nổi phồng lên dưới lớp da nâu. "Nếu tên Kỵ sĩ Rồng này là một knurla toàn diện chỉ trừ dòng máu, vậy thì hắn không phải là khách và bọn ta có thể đối xử với hắn như với bất cứ kẻ thù nào ở một tộc khác."

"Tại sao, điều đó thật vô lý hết sức!" Orik kêu lớn, gần như líu lưỡi vì giận dữ. "Ông không thể nói cậu ấy –"

"Hãy bớt lời, nếu ông vui lòng, Orik," Gannel nói. "La hét sẽ không giải quyết việc này. Orik, Nado, Íorûnn, vui lòng đi cùng tôi."

Lo lắng bắt đầu làm Eragon bứt rứt khi bốn người lùn đi ra và hội ý với các ngôn-luật-viên trong vài phút. Chắc chắn họ sẽ không để Vermûnd thoát được sự trừng phạt chỉ bởi một trò bịp bợm miệng lưỡi nào đó! nó nghĩ.

Trở lại bàn, Íorûnn nói, "Các ngôn-luật-viên đều nhất trí. Tuy Eragon là một thành viên ràng buộc bởi lời thề của Dûrgrimst Ingeitum, nhưng cậu ấy cũng giữ những vị trí quan trọng bên ngoài vương quốc chúng ta: cụ thể, là một Kỵ sĩ Rồng, đồng thời là một đại diện chính thức của Varden, gửi đến bởi Nasuada để chứng kiến lễ đăng quang của người cai trị kế tiếp của chúng ta, và cũng là một bằng hữu có ảnh hưởng lớn đối với Nữ hoàng Islanzdí và chủng tộc của bà nói chung. Vì những lý do đó, Eragon xứng đáng với sự hiếu khách tương tự như chúng ta sẽ dành cho bất cứ một đại sứ viếng thăm nào, thái tử, quốc vương, hay bất cứ một yếu nhân nào khác." Nữ người lùn liếc sang Eragon, đôi mắt tối, lóe sáng của bà ta rõ nét trên tứ chi nó. "Tóm lại, cậu ấy là vị khách danh dự của chúng ta, và chúng ta phải đối đãi với cậu ấy như là… mà mọi knurla không mất trí cần phải biết."

"Đúng, cậu ta là khách của chúng ta," Nado đồng tình. Môi ông ta mím lại trắng bệch và má co rúm lại, như thể ông ta vừa mới cắn một quả táo chỉ để phát hiện ra nó vẫn chưa chín.

"Giờ ông nói sao, Vermûnd?" Gannel vặn hỏi. Đứng dậy khỏi chỗ ngồi, người lùn che mạng tía nhìn quanh bàn, lần lượt nhìn chằm chằm vào các tộc trưởng. "Tôi nói điều này, và hãy nghe cho rõ, hỡi các grimstborithn: nếu bất cứ tộc nào vung rìu chống lại Az Sweldn rak Anhûin bởi những lời buộc tội giả dối này, chúng tôi sẽ coi đó là một hành động chiến tranh, và chúng tôi sẽ đáp lại thích đáng. Nếu các vị bỏ tù tôi, điều đó chúng tôi cũng coi là một hành động chiến tranh, và chúng tôi sẽ đáp lại thích đáng." Eragon thấy cái mạng của Vermûnd giật giật, và nó nghĩ tên lùn có thể đang cười ở bên dưới. "Nếu các vị tấn công chúng tôi theo bất cứ cách nào, cho dù bằng thép hay bằng lời, không cần biết lời khiển trách của các vị ôn hòa đến cỡ nào, chúng tôi sẽ coi đó là một hành động chiến tranh, và chúng tôi sẽ đáp trả thích đáng. Trừ khi các vị nóng lòng muốn xé tan đất nước này thành ngàn mảnh đẫm máu, tôi khuyên các vị hãy để gió cuốn trôi đi cuộc thảo luận sáng nay, và hãy lấp đầy đúng chỗ trong tâm trí các vị với suy nghĩ ai sẽ là người cai trị tiếp theo trên ngôi báu hoa cương."

Các tộc trưởng ngồi yên lặng một lúc lâu.

Eragon đã phải cắn lưỡi mình để khỏi nhảy lên bàn mà chửi Vermûnd cho đến khi những người lùn đồng ý treo cổ hắn lên vì tội ác của hắn. Nó tự nhắc mình rằng nó đã hứa với Orik là sẽ nghe theo chỉ dẫn của Orik khi đối phó với hội đồng thị tộc. Orik là tộc trưởng của mình, và mình phải để ông ta đáp trả theo cách mà ông ta thấy là thích hợp.

Freowin gỡ tay ra và đập một bàn tay đầy thịt xuống mặt bàn. Bằng giọng trung khàn khàn vang khắp phòng, dù có vẻ không lớn hơn một lời thì thầm, ông lùn to béo nói, "Ông đã làm ô danh chủng tộc chúng ta, Vermûnd. Chúng tôi không thể giữ lại danh dự knurlan của mình và phớt lờ sự xúc phạm của ông."

Người phụ nữ lùn cao tuổi, Hadfala, xốc lại bó giấy chi chít chữ rune và nói, "Ông mong đạt được gì, ngoài sự tiêu vong của chúng ta, bằng việc giết Eragon? Thậm chí nếu Varden có thể lật đổ Galbatorix mà không cần đến cậu ấy, những bất hạnh nào mà rồng Saphira sẽ giáng xuống chúng ta nếu chúng ta giết chết Kỵ sĩ của nó? Nó sẽ làm Farthen Dûr ngập máu của chính chúng ta."

Không một lời nào từ Vermûnd.

Tiếng cười phá vỡ sự yên lặng. Âm thanh quá bất ngờ, ban đầu Eragon không nhận ra nó đang phát ra từ Orik. Tiếng cười dịu xuống, Orik nói, "Nếu chúng ta chống đối lại ông hay Az Sweldn rak Anhûin, ông sẽ coi đó là hành động chiến tranh ư, Vermûnd? Được thôi, vậy chúng tôi sẽ không chống đối lại ông, hoàn toàn không."

Lông mày Vermûnd nhô ra. "Làm sao điều này lại cho ông sự thích thú đó?"

Orik lại cười khẽ. "Bởi tôi đã nghĩ đến một điều mà ông không nghĩ đến, Vermûnd. Ông muốn chúng tôi để yên cho ông và tộc của ông? Vậy tôi đề nghị với hội đồng rằng chúng ta sẽ làm theo nguyện vọng của ngài Vermûnd đây. Nếu Vermûnd đã tự hành động theo ý mình mà không phải trên danh nghĩa grimstborith, ông ta sẽ bị đày xử tử vì những tội lỗi của mình. Do đó, hãy để chúng tôi xét xử tộc của ông như đối với người đó; hãy để chúng tôi trục xuất Az Sweldn rak Anhûin khỏi trái tim và trí óc chúng tôi cho đến khi họ chọn thay thế Vermûnd bằng một grimstborith khác với khí chất có chừng mực hơn và cho đến khi họ công nhận hành vi đê hèn của mình và ăn năn về nó trước hội đồng thị tộc, cho dù chúng ta có phải chờ cả ngàn năm."

Lớp da nhăn nheo quanh mắt Vermûnd tái đi. "Ông sẽ không dám đâu."

Orik cười. "A, nhưng chúng tôi sẽ không đụng một ngón tay đến ông và đồng loại của ông. Chúng tôi chỉ đơn giản là phớt lờ ông và từ chối giao thương với Az Sweldn rak Anhûin. Ông sẽ tuyên chiến vì chúng tôi không làm gì cả chăng, Vermûnd? Vì nếu hội đồng nhất trí với tôi, đó chính xác là những gì chúng tôi sẽ làm: không gì cả. Ông sẽ dùng mũi kiếm bắt chúng tôi phải mua mật ong và vải và đồ trang sức thạch anh của ông chăng? Ông chẳng có lính để bắt chúng tôi phải làm thế." Quay về phía những người còn lại ở bàn, Orik hỏi, "Các vị còn lại nói sao?"

Hội đồng thị tộc không mất nhiều thời gian để quyết định. Từng người một, các tộc trưởng đứng dậy và biểu quyết trục xuất Az Sweldn rak Anhûin. Thậm chí Nado, Gáldhiem, và Havard – cựu đồng minh của Vermûnd – cũng ủng hộ đề xuất của Orik. Với mỗi biểu quyết xác nhận, da mặt Vermûnd trước đó còn rõ nét trở nên càng lúc càng trắng bệch, cho đến khi ông ta trông như một con ma ăn vận trang phục kiếp trước của chính mình.

Khi biểu quyết đã xong, Gannel chỉ về phía cửa và nói, "Xéo đi, Vargrimstn Vermûnd. Hãy rời khỏi Tronjheim ngay hôm nay và mong không ai trong Az Sweldn rak Anhûin gây rắc rối cho hội động thị tộc cho đến khi họ đáp ứng những điều kiện chúng ta đã đặt ra. Cho đến lúc những điều đó xảy ra, chúng ta sẽ tẩy chay mọi thành viên của Az Sweldn rak Anhûin. Tuy nhiên, hãy biết điều này: kể cả tộc của ông có thể tự miễn thứ cho chính họ về sự hổ thẹn của mình, thì ông, Vermûnd, sẽ mãi mãi là Vargrimstn, thậm chí cho tới ngày chết của ông. Đó chính là ý nguyện của hội đồng thị tộc." Tuyên bố xong, Gannel ngồi xuống.

Vermûnd ở nguyên chỗ cũ, vai ông ta rung lên với một cảm xúc mà Eragon không xác định được. "Chính các người mới là những kẻ đã làm ô danh và phản bội dòng giống," hắn gầm gừ. "Bọn Kỵ sĩ giết tất cả người trong bộ tộc chúng ta, trừ Anhûin và những người lính của bà. Các người mong chúng ta quên điều này ư? Các người mong chúng ta tha thứ điều này ư? Ha! Ta nhổ lên nấm mồ tổ tiên các người. Chúng ta ít nhất cũng không để mất râu của chúng ta. Chúng ta sẽ không nhảy cẫng lên với cái con rối của đám thần tiên này trong khi những thành viên gia đình đã chết của chúng ta vẫn thét gọi sự báo thù."

Phẫn nộ siết chặt Eragon khi không ai trong số các tộc trưởng đáp lại, và nó sắp sửa trả lời sự đả kích của Vermûnd với những lời cay nghiệt của chính nó khi Orik liếc nó và lắc đầu thật nhẹ. Một cách khó nhọc, Eragon cố kìm hãm cơn giận, mặc dù nó tự hỏi sao Orik lại để cho một sự sỉ nhục khốc liệt như vậy qua đi mà không phản bác.

Đó gần như là… Ồ.

Đẩy người khỏi bàn, Vermûnd đứng dậy, bàn tay cuộn lại thành nắm đấm và vai ông ta gù lên. Ông ta tiếp tục nói, nhiếc móc và miệt thị các tộc trưởng với sự căm giận tăng dần cho đến khi ông ta la lối thật lực.

Tuy vậy, dù những lời chửi rủa của Vermûnd tệ hại đến mức nào, các tộc trưởng vẫn không đáp lại. Họ nhìn chằm chằm vào khoảng không, như thể đang trầm tư về những tình huống khó xử phức tạp, và mắt họ trượt khỏi Vermûnd mà không dừng lại. Trong cơn thịnh nộ, khi Vermûnd túm vào ngực áo giáp của Hreidamar, ba trong số lính gác của Hreidamar nhảy tới và kéo Vermûnd ra, nhưng khi họ làm thế, Eragon nhận thấy biểu hiện của họ ôn tồn và không biến đổi, như thể họ chỉ đơn thuần là giúp Hreidamar làm ngay ngắn áo giáp của mình. Khi họ thả Vermûnd ra, những người lính không nhìn vào ông ta nữa.

Một cơn ớn lạnh trườn lên xương sống Eragon. Những người lùn hành động như thể Vermûnd đã ngừng tồn tại. Như vậy đây chính là ý nghĩa của việc bị trục xuất khỏi những người lùn. Eragon nghĩ nó thà bị giết còn hơn phải chịu đựng một số phận như thế, và trong một khoảnh khắc, nó cảm thấy một dao động vì thương hại Vermûnd, nhưng lòng thương hại của nó biến mất ngay khoảnh khắc tiếp theo khi nó nhớ lại vẻ mặt lúc chết của Kvîstor.

Chửi thề lần cuối cùng, Vermûnd sải bước ra khỏi phòng, theo sau bởi những người thuộc tộc của ông ta, đã hộ tống ông ta đến cuộc họp.

Không khí giữa các tộc trưởng khác lại thoải mái ngay khi hai cánh cửa đóng sập sau lưng Vermûnd. Một lần nữa những người lùn lại nhìn ngó xung quanh không hạn chế gì, và họ tiếp tục nói chuyện ầm ĩ, bàn tán xem họ sẽ cần làm gì tiếp với Az Sweldn rak Anhûin.

Rồi Orik gõ gõ lên mặt bàn bằng đốc con dao găm của mình, và mọi người quay lại để nghe ông. "Giờ chúng ta đã giải quyết xong Vermûnd, còn một vấn đề nữa tôi muốn hội đồng xem xét. Mục đích chúng ta tập hợp tại đây là để chọn ra người kế nhiệm Vua Hrothgar. Tất cả chúng ta đều có nhiều điều để nói về chủ đề này, nhưng tôi tin giờ là thời điểm chín muồi để dẹp lời nói ra sau và để hành động nói thay cho chúng ta. Vì vậy tôi kêu gọi hội đồng hãy quyết định liệu chúng ta đã sẵn sàng hay chưa – và theo ý tôi, chúng ta còn hơn cả sẵn sàng – để tiến hành cuộc biểu quyết cuối cùng ba ngày sau kể từ lúc này, theo như luật của chúng ta. Biểu quyết của tôi, như tôi đưa ra, là rồi."

Freowin nhìn Hadfala, bà này đang nhìn Gannel, ông này đang nhìn Manndrâth, ông này đang giật giật cái mũi của mình và đang nhìn Nado, và ông này đang chìm sâu vào cái ghế của mình và nhai nhai bên trong má.

"Rồi," Íorûnn nói.

"Rồi," Ûndin nói.

"…Rồi," Nado nói, và cả tám tộc trưởng còn lại cùng nói.

Vài giờ sau, khi hội đồng nghỉ ăn trưa, Orik và Eragon trở lại khu phòng của Orik để ăn. Không ai nói gì cho đến khi họ vào khu phòng, đã được phòng bị chống nghe trộm. Tại đó Eragon cho phép mình cười. "Ông đã lên kế hoạch trục xuất Az Sweldn rak Anhûin ngay từ đầu, đúng không?"

Vẻ thỏa mãn hiện trên mặt, Orik cũng cười và vỗ bụng. "Quả là vậy. Đó là hành động duy nhất tôi có thể thực hiện để không chắc chắn dẫn đến chiến tranh thị tộc. Chúng ta vẫn có thể có chiến tranh, nhưng sẽ không phải do chúng ta gây ra. Nhưng tôi không cho một tai họa như thế có thể xảy ra. Chỉ với mức độ ghét cậu, tôi nghĩ hầu hết Az Sweldn rak Anhûin sẽ hoảng sợ vì những gì Vermûnd đã làm trên danh nghĩa của họ. Tôi nghĩ ông ta sẽ không giữ chức grimstborith được lâu đâu."

"Và bây giờ ông đã đảm bảo cuộc biểu quyết cho vị vua mới –"

"Hoặc nữ hoàng."

"– hoặc nữ hoàng mới sẽ diễn ra." Eragon ngập ngừng, miễn cưỡng làm vơi niềm vui chiến thắng của Orik, nhưng rồi nó hỏi, "Ông có thực sự có được hậu thuẫn cần thiết để giành ngôi không?"

Orik nhún vai. "Trước sáng nay, không ai có được sự hậu thuẫn cần thiết. Bây giờ cán cân đã chuyển rồi, và vào lúc này, sự đồng tình nằm bên chúng ta. Chúng ta cũng có thể tranh thủ thời cơ; chúng ta sẽ không bao giờ có một cơ hội ngon ăn hơn thế này đâu. Dù sao thì, chúng ta không thể để hội đồng thị tộc lề mề lâu thêm nữa. Nếu cậu không quay về Varden sớm, có thể sẽ mất tất cả."

"Chúng ta sẽ làm gì trong lúc đợi cuộc biểu quyết?"

"Trước hết, chúng ta sẽ tổ chức ăn mừng thành công của chúng ta bằng một chầu," Orik tuyên bố. "Sau đó khi ta đã no nê rồi, ta sẽ tiếp tục như trước: nỗ lực tập hợp thêm phiếu bầu trong khi giữ vững phần mà chúng ta đã giành được."

Răng của Orik lóe lên màu trắng bên dưới mép bộ râu khi ông ta lại cười. "Nhưng trước khi chúng ta được nốc đến một ngụm rượu, cậu phải quan tâm một điều, mà cậu đã quên mất."

"Cái gì?" Eragon hỏi, khó hiểu vì sự khoái trá rõ ràng của Orik.

"Tại sao, cậu phải triệu hồi Saphira đến Tronjheim, dĩ nhiên rồi! Dù tôi có trở thành vua hay không, chúng ta vẫn sẽ tôn lên một tân vương trong thời hạn ba ngày. Nếu Saphira định dự buổi lễ, nó sẽ phải bay gấp để có thể đến đây trước lúc đó."

Kêu không thành tiếng, Eragon chạy đi tìm một cái gương.

Chương 36: BẤT TUÂN

Đất đen tươi tốt áp vào tay Roran mát lạnh. Anh nhặt một cục đất xốp và bóp vụn trong các ngón tay, công nhận rằng nó ẩm ướt và chứa đầy lá, thân cây, rêu, và các chất hữu cơ khác đang phân hủy, những thứ cung cấp thức ăn tuyệt hảo cho cây trồng. Anh áp nó vào môi và lưỡi mình. Vị rất sống động, chứa hàng trăm mùi vị khác nhau, từ núi nghiền vụn đến những con bọ hung và gỗ mục và phần chân rễ mềm mại của cỏ.

Đất trồng tốt đây, Roran nghĩ. Anh hồi tưởng về Thung lũng Palancar, và anh lại nhìn thấy mặt trời mùa thu lướt ngang qua ruộng lúa mạch bên ngoài căn nhà của gia đình mình – những hàng ngay ngắn thân cây vàng óng đu đưa trong gió nhẹ – với Sông Anora về phía tây và những đỉnh núi phủ tuyết nhô cao trên cả hai phía thung lũng. Đó là nơi mình nên ở, cày ruộng và xây dựng gia đình với Katrina, chứ không phải tưới mặt đất bằng chất lỏng từ chân tay người ta.

"Cậu kia!" Đội trưởng Edric quát, chỉ về phía Roran từ trên ngựa. "Thôi lãng phí thời gian đi, Cây-búa-dũng-mãnh, đừng để tôi phải đổi ý và cho cậu đứng gác với đám cung thủ!"

Phủi tay vào xà cạp, Roran đứng dậy từ tư thế quỳ. "Rõ, thưa ngài! Tuân lệnh!" anh nói, nén mối ác cảm của mình đối với Edric. Từ lúc gia nhập đội của Edric, Roran đã cố nắm bắt những gì có thể về lai lịch của người này. Theo những gì anh nghe được, Roran kết luận Edric là một chỉ huy giỏi – nếu không Nasuada đã không giao cho ông ta đảm trách một nhiệm vụ quan trọng thế này – nhưng ông ta có tính cách rất khó chịu, và ông ta kỷ luật lính của mình chỉ vì những sai lệch nhỏ nhất trong những bài luyện tập được đưa ra, Roran chán nản nhận ra điều đó sau ba dịp khác nhau trong ngày đầu tiên của mình với đội của Edric. Roran tin rằng, đó là một kiểu chỉ huy làm suy yếu tinh thần người lính, cũng như làm trì trệ óc sáng tạo và sáng kiến của những người dưới mình. Có khi Nasuada giao mình cho ông ta vì chính những lý do đó, Roran nghĩ. Hoặc có lẽ đây là một bài kiểm tra khác của cô ta. Có thể cô ta muốn biết liệu mình có thể nén được kiêu hãnh lại đủ lâu mà làm việc với một người như Edric hay không.

Trở lên lưng Hỏa Tuyết, Roran đi đến phía trước hàng dọc gồm hai trăm năm mươi người. Nhiệm vụ của họ rất đơn giản; vì Nasuada và Vua Orrin đã rút phần lớn lực lượng ra khỏi Surda, Galbatorix có vẻ đã quyết định tranh thủ sự vắng mặt của họ và tàn phá khắp đất nước vô phương tự vệ, cướp bóc các thị trấn và làng mạc và thiêu rụi những cây trồng cần thiết để hậu thuẫn cho cuộc xâm chiếm Đế quốc. Cách đơn giản nhất để loại bọn lính là cho Saphira bay ra mà xé xác chúng thành từng mảnh, nhưng trừ khi nó bay đến chỗ Eragon, chứ mọi người đều nhất trí rằng sẽ rất nguy hiểm cho Varden nếu vắng ả rồng quá lâu. Vì thế Nasuada đã gửi đội của Edric đến để đẩy lui bọn lính, và quân số của chúng, theo như các gián điệp của Nasuada đã ước lượng lúc đầu, là vào khoảng ba trăm. Tuy nhiên, hai ngày trước, Roran và những người lính còn lại đã hoảng vía khi bắt gặp những dấu vết chỉ ra rằng lực lượng của Galbatorix là gần tới bảy trăm.

Roran gò cương Hỏa Tuyết đến bên Carn đang ngồi trên con ngựa cái có đốm vừa gãi cằm vừa nghiên cứu địa hình.

Trước mặt họ là một thảm cỏ gợn sóng rộng mênh mông, điểm trên đó lác đác một vài cây liễu và cây dương. Diều hâu săn mồi từ trên cao, trong khi bên dưới, thảm cỏ đầy những tiếng rít của chuột, thỏ, những con gặm nhấm đang đào bới, và những con thú hoang khác. Bằng chứng duy nhất cho thấy con người đã từng tới đây là những vệt cỏ bị giẫm đạp hướng về chân trời phía đông, đánh dấu đường đi của bọn lính.

Carn liếc nhìn mặt trời ban trưa, da quanh đôi mắt ủ rũ co lại khi anh nheo mắt. "Ta phải bắt kịp chúng trước khi bóng dài hơn chiều cao của ta."

"Và rồi chúng ta sẽ khám phá ra liệu bên ta có đủ đông mà dẹp được chúng không," Roran lẩm bẩm, "hay là chúng sẽ đè bẹp chúng ta. Chỉ lần này thôi, tôi muốn ta đông hơn nó." Một nụ cười nham hiểm hiện trên mặt Carn. "Với Varden thì luôn là vậy."

"Vào hàng!" Edric hét lớn, thúc ngựa đi xuống vệt đường dẫn xuyên qua thảm cỏ. Roran ngậm chặt miệng và thúc gót chân vào sườn Hỏa Tuyết khi đoàn quân theo bước người đội trưởng.

Sáu giờ sau, Roran ngồi trên Hỏa Tuyết, nấp bên trong một nhóm cây sồi mọc dọc theo bờ một dòng suối nhỏ phẳng lặng đầy những bụi cói và tảo nổi. Qua mớ cành cây đan xen trước mặt, Roran nhìn chăm chú một ngôi làng đổ nát với không hơn hai mươi căn nhà. Roran quan sát với cơn giận càng lúc càng tăng khi các dân làng đã phát hiện ra đám quân lính đang tiến tới từ phía tây, rồi thu gom vài bọc tài sản và chạy trốn về phía nam, hướng tới trung tâm Surda. Nếu Roran có quyền quyết định, anh sẽ cho dân làng biết sự có mặt của họ và đảm bảo rằng họ sẽ không phải mất nhà của mình, nếu như anh và những người đồng hành có thể ngăn chặn điều đó Anh nhớ rõ nỗi đau và sự tuyệt vọng cũng như cảm giác vô vọng khi anh rời bỏ Carvahall, và anh sẽ giúp họ thoát khỏi điều đó nếu anh có thể. Anh cũng sẽ yêu cầu đàn ông trong làng chiến đấu cùng mình. Thêm mười hay hai chục bộ vũ khí nữa có thể đồng nghĩa với sự khác biệt giữa chiến thắng và chiến bại, và Roran biết rõ hơn hầu hết mọi người về lòng hăng hái khi người ta chiến đấu để bảo vệ nhà của mình. Tuy nhiên, Edric đã phản đối ý kiến đó và nhất quyết rằng Varden phải ẩn nấp trong những ngọn đồi phía đông nam của làng.

"May là chúng đi bộ," Carn lẩm bẩm, nói về cột quân lính màu đỏ đang diễu hành về phía ngôi làng. "Chứ không chúng ta sẽ không đến đây trước được."

Roran liếc nhìn lại những người đang tập trung sau lưng. Edric đã cho anh quyền chỉ huy tạm thời đối với tám mươi mốt người lính. Trong số họ có người dùng kiếm, dùng giáo, và nửa tá cung thủ. Một trong những người bạn của Edric, Sand, chỉ huy một đội tám mươi mốt người nữa, trong khi Edric đích thân lãnh đạo phần còn lại. Cả ba nhóm tập trung co cụm giữa đám cây sồi, và Roran nghĩ đó là một sai lầm; khi họ phá bỏ thế yểm trợ thì thời gian để sắp xếp đội hình sẽ chính là thời gian cho bọn lính bố trí phòng thủ.

Nghiêng đầu về phía Carn, Roran nói, "Tôi không thấy tên nào có dấu hiệu bị cụt tay què chân hay thương tích đáng kể gì khác, nhưng thế cũng chẳng chứng tỏ được gì. Cậu có thấy bất cứ tên nào là người không biết đau không?"

Carn thở dài. "Ước gì tôi thấy. Em họ anh thì được, vì Murtagh và Galbatorix là hai pháp sư duy nhất mà Eragon nên sợ, còn tôi chỉ là một pháp sư quèn, mà tôi cũng không dám kiểm tra bọn lính. Nếu có pháp sư cải trang trong bọn, chúng sẽ biết tôi do thám ngay, và khả năng là tôi không thể phá được tâm trí của chúng trước khi chúng báo động cho đồng bọn là ta đang ở đây."

"Có vẻ mỗi lần chuẩn bị đánh nhau chúng ta đều có cuộc thảo luận này," Roran nhận xét, quan sát lực lượng của bọn lính và cố quyết định xem dàn quân thế nào là tốt nhất.

Carn cười, nói, "Không sao. Tôi chỉ hy vọng chúng ta cứ thảo luận thế đi, bởi vì nếu không –"

"Một hoặc cả hai ta đã toi –"

"Hoặc Nasuada đã chia lại chúng ta sang hai đội trưởng khác nhau –"

"Rồi sau có thể chúng ta vẫn toi, bởi vì sẽ chẳng có ai yểm trợ chúng ta," Roran kết luận. Một nụ cười nở trên môi. Đó đã là trò đùa quen thuộc của họ. Anh rút búa ra khỏi thắt lưng và nhăn mặt khi cái chân trái của anh nhói đau ở chỗ mà con bò đã dùng sừng làm rách thịt anh. Cau có, anh với tay xuống xoa bóp chỗ đau.

Carn nhìn thấy liền nói, "Ổn chứ?"

"Không giết được tôi đâu," Roran nói, rồi cân nhắc lại lời của mình. "À, có thể có, nhưng quỷ tha ma bắt tôi đi nếu tôi đợi ở đây trong khi cậu ra xẻ thịt mấy con lừa lóng ngóng kia."

Khi bọn lính tới làng, chúng đi thẳng qua, chỉ dừng lại để phá cửa chính mỗi nhà và ngó vào các phòng xem có ai trốn bên trong không. Một con chó chạy ra từ sau một cái thùng đựng nước mưa, lông cổ dựng đứng, bắt đầu sủa bọn lính. Một tên trong bọn bước tới trước phi cây giáo của hắn ra, giết chết con chó.

Ngay lúc tên đầu tiên trong bọn lính tiến đến đầu kia làng, Roran siết chặt tay quanh cán búa, sẵn sàng xông trận, nhưng rồi anh nghe thấy một tràng những tiếng la chói lói, và một cảm giác sợ hãi túm chặt lấy anh. Một toán lính đi ra từ căn nhà áp chót, kéo theo ba người đang vùng vẫy: một người đàn ông tóc bạc cao gầy, một phụ nữ trẻ áo cánh tả tơi, và một thằng nhỏ không hơn mười một tuổi.

Mồ hồi túa ra trên trán Roran. Bằng một giọng đều đều, thấp và chậm, anh bắt dầu nguyền rủa, nguyền rủa ba nạn nhân vì đã không bỏ trốn cùng làng xóm, nguyền rủa bọn lính vì những gì bọn chúng đã làm và có thể sắp làm, nguyền rủa Galbatorix, và nguyền rủa bất cứ ý tưởng nào của số phận đã gây nên tình cảnh như thế này. Sau lưng anh, anh ý thức được đồng đội của anh cựa quậy và lẩm bẩm giận dữ, nóng lòng muốn trừng trị bọn lính vì sự tàn bạo của chúng.

Lục soát hết các nhà, bọn lính quay lại đường cũ đến giữa làng và lập thành một nửa hình tròn nham nhở vây quanh các tù nhân của chúng.

Hay! Roran thầm reo lên khi bọn lính quay lưng lại nhóm Varden. Kế hoạch của Edric chính là chờ cho chúng làm vậy. Trong trạng thái sẵn sàng phát lệnh tấn công, Roran nhỏm người khỏi yên cương khoảng chục phân, toàn thân căng lên. Anh cố nuốt, nhưng cổ họng quá khô.

Tên sĩ quan chỉ huy bọn lính, tên duy nhất ngồi trên ngựa, xuống ngựa và trao đổi vài lời không thể nghe thấy với người đàn ông tóc bạc. Không hề cảnh báo, tên sĩ quan rút thanh kiếm cong và chặt đầu người đàn ông, rồi bật lùi lại để tránh dòng máu phun ra. Người phụ nữa thét lên thậm chí còn lớn hơn trước đó.

"Xông lên," Edric nói.

Roran mất nửa giây mới lĩnh hội được từ mà Edric vừa điềm tĩnh thốt ra chính là câu lệnh mà anh đang chờ đợi.

"Xông lên!" Sand hét lên phía bên kia Edric, phi nước đại ra khỏi bãi sồi cùng với người của mình.

"Xông lên!" Roran hét, thúc gót vào sườn Hỏa Tuyết. Anh cúi người đằng sau tấm khiên của mình khi Hỏa Tuyết chở anh lao xuyên qua đám cành cây, rồi lại hạ khiên xuống khi đã ra ngoài, phi xuống sườn đồi, với tiếng móng ngựa vang rền xung quanh. Tha thiết muốn cứu mạng người phụ nữ và cậu bé, Roran thúc Hỏa Tuyết phi hết tốc độ. Nhìn lại, anh phấn khởi thấy nhóm của anh đã tách khỏi nhóm Varden còn lại mà không có vấn đề gì nhiều; ngoài vài người bị tụt lại sau, còn phần lớn tập hợp lại thành một nhóm duy nhất không tới chục thước sau lưng anh.

Roran lướt mắt sang Carn đang cưỡi ngựa trong nhóm tiên phong của Edric, cái áo choàng xám của anh ta tung phần phật trong gió. Một lần nữa, Roran ước gì Edric cho họ được ở cùng một nhóm.

Theo lệnh của ông ta, Roran không đâm thẳng vào làng, mà hơi lái sang trái và đi vòng qua các nhà để ép sườn bọn lính và tấn công từ một hướng khác. Sand cũng làm vậy ở cánh phải, trong khi Edric và lính của ông xông thẳng vào làng.

Một dãy nhà che khuất những tiếng va chạm lúc đầu, nhưng Roran nghe thấy những tiếng la hét đồng thanh vang lên, rồi một chuỗi những tiếng tưng tưng kim loại kỳ lạ, và tiếp đến là tiếng la hét của người và ngựa.

Bụng dạ Roran rối lên vì lo lắng. Tiếng gì thế? Chẳng lẽ là cung kim loại? Có cả món này sao? Không bận tâm đến nguyên nhân, anh biết lẽ ra không thể có nhiều tiếng ngựa kêu đau như thế. Tay chân anh phát lạnh khi nhận ra với sự chắc chắn tuyệt đối rằng cuộc tấn công đã gặp rắc rối và trận chiến có thể đã thất bại rồi.

Anh giật mạnh cương Hỏa Tuyết khi họ đi ngang ngôi nhà cuối cùng, hướng con ngựa về phía trung tâm làng. Sau lưng anh, người của anh cũng làm theo. Hai trăm thước trước mặt, Roran thấy ba hàng lính đang đóng giữa hai ngôi nhà, chặn đường họ. Bọn lính có vẻ không hề sợ sệt những con ngựa đang lao về phía chúng.

Roran lưỡng lự. Lệnh cho anh rất rõ ràng: anh và người của anh lo sườn phía tây và mở đường xuyên thủng đội quân của Galbatorix cho đến khi họ nhập lại với Sand và Edric. Nhưng Edric đã không cho Roran biết anh phải làm gì trong trường hợp lao thẳng vào bọn lính không còn có vẻ là một ý tưởng hay nữa, khi anh và người của mình đã vào vị trí rồi. Và Roran biết nếu anh làm trái lệnh đã ra, kể cả là để ngăn người của anh khỏi bị tàn sát, anh sẽ mắc tội bất tuân thượng lệnh và Edric có thể trừng trị anh vì điều đó.

Rồi bọn lính quẳng những cái áo choàng lụng thụng của chúng sang một bên và đưa nỏ lên vai.

Khoảnh khắc đó, Roran quyết định anh sẽ làm bất cứ điều gì để đảm bảo rằng Varden sẽ thắng trận này. Anh sẽ không để bọn lính tiêu diệt lực lượng của anh với một loạt tên duy nhất chỉ vì anh muốn tránh những hậu quả không dễ chịu của việc trái lệnh đội trưởng.

"Nấp ngay!" Roran hét lên, giật mạnh đầu Hỏa Tuyết sang phải, bắt con vật ngoặt ra phía sau ngôi nhà. Một tá mũi tên găm vào mặt bên căn nhà chỉ một giây sau đó. Nhìn quanh, Roran thấy tất cả lính của mình đã xoay sở cúi xuống sau mấy ngôi nhà gần đó trước khi bọn lính bắn, chỉ trừ một người. Người lính quá chậm chân này nằm đổ máu trên đất, hai mũi tên xuyên qua ngực anh ta. Mũi tên đục thủng áo giáp anh ta như thể nó không dày hơn một mảnh giấy lụa. Hoảng sợ vì mùi máu, ngựa của anh ta tung vó lên và trốn khỏi làng, để lại một đám bụi cuộn lên phía sau.

Roran với tay lên túm lấy cạnh một cái xà ở mặt bên căn nhà, giữ Hỏa Tuyết đứng yên một chỗ trong khi anh tuyệt vọng cố tính toán cách hành động. Bọn lính đã trói chân anh và đồng đội; họ không thể bước trở ra khoảng trống mà không bị lãnh tên khắp người, họ sẽ biến thành nhím ráo.

Một nhóm lính của Roran tiến đến chỗ anh từ một căn nhà được căn của anh che một phần khỏi tầm nhìn của bọn lính. "Làm sao đây, Cây-búa?" họ hỏi. Họ không có vẻ khó chịu với việc anh đã làm trái lệnh; ngược lại, họ nhìn anh với biểu hiện của một sự tín nhiệm mới.

Nghĩ nhanh hết sức, Roran đưa mắt nhìn xung quanh. Anh chợt nhìn thấy một cây cung cùng một ống đựng tên buộc sau yên ngựa của một người trong nhóm. Roran mỉm cười. Chỉ vài người trong nhóm là cung thủ, nhưng tất cả bọn họ đều mang theo cung tên để săn bắn lấy thức ăn và giúp nuôi quân khi họ đang ở giữa nơi hoang dã mà không có hỗ trợ từ nhóm Varden.

Roran chỉ căn nhà anh đang tựa vào và nói, "Lấy cung của các anh rồi trèo lên mái, vừa bao nhiêu người thì lên bấy nhiêu, nhưng nếu các anh quý trọng mạng mình, hãy ở ngoài tầm nhìn cho đến khi tôi bảo làm ngược lại. Và khi tôi bảo, hãy bắn và cứ bắn cho đến lúc các anh hết sạch tên hoặc cho đến khi tên cuối cùng chết. Hiểu chứ?"

"Rõ, thưa ngài!"

"Vậy đi đi. Những người còn lại, tìm các căn nhà mà các anh có thể tận dụng để tỉa bớt bọn lính. Harald, nói cho tất cả mọi người biết, rồi tìm mười người dùng giáo và mười người dùng kiếm giỏi nhất trong số ta và đưa họ đến đây càng nhanh càng tốt."

"Tuân lệnh!"

Với tác phong nhanh nhẹn, người lính vội vàng thi hành. Những người gần Roran nhất lấy cung và ống tên của họ từ sau yên cương rồi đứng lên lưng ngựa, trèo lên mái tranh của căn nhà. Bốn phút sau, phần lớn người của Roran đã vào vị trí trên mái của bảy căn nhà khác nhau – khoảng tám người một mái – và Harald đã quay lại cùng với số người được yêu cầu.

Roran nói với những người lính đang tụ tập quanh anh, "Rồi, giờ nghe đây. Khi tôi phát lệnh, những người ở trên sẽ bắt đầu bắn. Ngay khi mũi tên đầu tiên bay vào bọn lính, chúng ta sẽ xông ra và cố giải cứu Đội trưởng Edric. Nếu ta không thể, ta sẽ phải làm sao cho mấy cái áo đỏ kia biết mùi thép lạnh. Các cung thủ chắc sẽ làm bọn lính bối rối đủ cho ta lại gần chúng trước khi chúng kịp dùng đến mấy cái nỏ. Hiểu rồi chứ?"

"Rõ, thưa ngài!"

"Thế thì bắn!" Roran hét lên.

Với những tiếng thét đến lạc giọng, những người lính trên mấy căn nhà nhô ra khỏi rìa mái và đồng loạt nhả tên vào bọn lính phía dưới. Cơn mưa tên rít lên trong không khí như những con chim bách thanh khát máu lao xuống con mồi của mình.

Một khoảnh khắc sau, khi những tên lính bắt đầu gào thét đau đớn vì những vết thương, Roran nói, "Giờ xông lên!" và nện gót chân vào Hỏa Tuyết.

Cùng nhau, anh và người của mình phi nước đại vòng qua căn nhà, kéo những con chiến mã của mình quẹo ngặt đến mức họ gần như lộn nhào. Trông cậy vào tốc độ của mình và trình độ của những cung thủ bên trên, Roran lượn vòng qua đám lính, chúng đang vùng vẫy một cách hỗn loạn, cho đến khi anh đến địa điểm cuộc tấn công tai họa của Edric. Mặt đất ở đó loang đầy máu, và những xác chết của rất nhiều chiến binh chiến mã rải rác khắp khoảng trống giữa các căn nhà. Lực lượng còn sót lại của Edric đang phải đánh giáp lá cà với bọn lính. Roran ngạc nhiên thấy Edric vẫn còn sống, đang chung lưng chiến đấu với năm người lính của ông.

"Đi cùng tôi!" Roran hét lên với những người đi cùng anh khi họ lao vào trận chiến.

Bằng hai cú đá bất ngờ, Hỏa Tuyết hạ gục hai tên lính, đánh gãy tay cầm kiếm và phá thủng lồng ngực chúng. Hài lòng với chiến mã, Roran quai búa tứ tung, gầm gừ trong sự hân hoan điên cuồng của trận chiến khi anh đốn ngã hết tên này đến tên khác, không một tên nào có thể trụ được trước những cú đánh tàn bạo của anh. "Theo tôi!" anh hét lên khi anh lên ngang hàng với Edric và những người còn sống sót khác. "Theo tôi!" Trước mặt anh, trận mưa tên vẫn tiếp tục đổ xuống bọn lính, buộc chúng phải che chắn bằng khiên đồng thời cố gắng né gạt những thanh kiếm và mũi giáo của quân Varden.

Khi anh và lính của mình đã vây quanh nhóm Varden đang đứng, Roran hét lên, "Lui! Lui! Về chỗ mấy cái nhà!" Từng bước một, tất cả bọn họ rút lui cho đến khi họ ở ngoài tầm chém của bọn lính, và rồi họ quay đầu chạy thẳng về phía căn nhà gần nhất. Bọn lính bắn và giết mất ba người Varden trên đường chạy, nhưng số còn lại đến được căn nhà mà không bị thương tích gì.

Edric ngồi sụp xuống cạnh căn nhà, hớp hơi để thở. Khi đã nói lại được, ông ra dấu về phía người của Roran và nói, "Can thiệp rất đúng lúc và rất được hoan nghênh, Cây-búa-dũng-mãnh, nhưng sao ta lại thấy cậu ở đây, mà không phi ra từ giữa đám lính, như ta trông đợi?"

Rổi Roran giải thích những việc mình đã làm và chỉ cho ông thấy những cung thủ trên mái nhà. Trán Edric sa sầm khi ông nghe Roran báo cáo. Tuy nhiên ông không truy cứu Roran vì tội bất tuân của mình mà chỉ nói, "Cho những người kia xuống ngay. Họ đã thành công trong việc phá hàng ngũ bọn lính. Giờ chúng ta phải trông cậy vào việc chơi kiếm trung thực để loại chúng."

"Chúng ta còn quá ít người để tấn công trực tiếp bọn lính!" Roran phản đối. "Chúng áp đảo ta còn hơn ba trên một."

"Thế thì ta sẽ lấy can trường bù số lượng!" Edric rống lên. "Ta được biết là cậu có can đảm, Cây-búa-dũng-mãnh, nhưng rõ ràng lời đồn đã lầm và cậu nhát như một con thỏ đế đang run vậy. Giờ thì làm như ta nói, và đừng chất vấn ta lần nữa!" Người đội trưởng chỉ một người của Roran. "Cậu kia, cho ta mượn con ngựa." Sau khi người lính xuống ngựa, Edric trèo lên và nói, "Một nửa số các cậu lên ngựa, theo ta; ta đi tiếp viện cho Sand. Những người khác, ở lại với Roran." Đá vào sườn con ngựa, Edric phi nước đại cùng những người ông chọn theo, phi từ nhà này sang nhà khác khi tìm đường đi vòng qua đám lính đang túm tụm ở trung tâm ngôi làng.

Roran lắc đầu tức giận nhìn họ rời đi. Anh chưa từng bao giờ để cho ai chất vấn lòng can đảm của mình mà không đáp lại lời chỉ trích bằng lời hoặc bằng những cú đánh. Tuy nhiên khi mà trận chiến còn tiếp diễn thì sẽ không thích đáng cho anh đối đầu với Edric. Được lắm, Roran nghĩ, ta sẽ cho Edric thấy lòng can đảm mà ông ta tưởng mình thiếu. Nhưng đó sẽ là tất cả những gì ông ta lấy được của mình. Mình sẽ không cho cung thủ ra đối mặt với bọn lính khi mà ở vị trí hiện giờ họ an toàn hơn và hiệu quả hơn.

Roran quay lại xem xét những người mà Edric đã để lại cho anh. Trong số những người mà họ cứu được, Roran mừng vì thấy Carn, trầy xước và máu me, nhưng về tổng thể, vô sự. Họ gật đầu với nhau, và Roran nói với cả nhóm: "Các anh đã nghe Edric nói đấy. Tôi không đồng ý. Nếu làm theo ý ông ta, tất cả chúng ta sẽ tàn đời thành một đống trước khi mặt trời lặn. Chúng ta vẫn có thể thắng trận này, nhưng không phải bằng cách bước thẳng vào chỗ chết! Chúng ta thiệt về số lượng, thì có thể bù lại bằng khôn ngoan. Các anh biết tôi đã đến gia nhập Varden như thế nào. Các anh biết tôi đã từng chiến đấu và đánh bại Đế quốc, và chỉ trong một làng như vậy thôi! Chuyện này tôi làm được, tôi thề với các anh. Nhưng tôi không thể làm một mình. Các anh có theo tôi không? Nghĩ kĩ đi. Tôi sẽ nhận trách nhiệm vì bỏ qua lệnh của Edric, nhưng ông ta và Nasuada có thể vẫn trừng phạt bất cứ ai có liên quan."

"Thế thì họ là đồ ngốc," Carn làu bàu. "Họ thích chúng ta chết ở đây à? Không, tôi nghĩ là không. Anh có thể tin tưởng tôi, Roran."

Ngay khi Carn tuyên bố, Roran thấy những người khác giữ thẳng vai, cân lại hàm và mắt họ bừng cháy với quyết tâm mới, và anh biết họ đã quyết định chia sẻ số phận với anh, cho dù là vì họ không muốn bị tách ra khỏi pháp sư duy nhất của đội. Rất nhiều người là những chiến sĩ Varden đã nợ ơn cứu mạng của một thành viên trong Du Vrangr Gata, và những kỵ binh mà Roran đã gặp thà tự đâm vào chân mình còn hơn là ra chiến trận mà không có một pháp sư ở kề bên.

"Được," Harald nói. "Anh cũng có thể tin tôi, Cây-búa-dũng-mãnh."

"Vậy theo tôi!" Roran nói. Với tay xuống, anh kéo Carn lên lưng Hỏa Tuyết ngồi sau anh, rồi khẩn trương đưa nhóm của mình quay lại vòng qua làng đến chỗ những cung thủ trên mái nhà, họ vẫn tiếp tục bắn tên vào bọn lính. Trong lúc Roran và người của anh phi từ nhà này sang nhà khác, các mũi tên vù vù sướt qua họ – âm thanh nghe như những con côn trùng khổng lồ giận dữ – và một cái thậm chí còn xuyên một nửa qua khiên của Harald.

Khi họ đã an toàn sau chỗ nấp, Roran bảo những người trên ngựa đưa cung tên cho những người dưới đất, và những người này lại trèo lên mái tham gia với các cung thủ kia. Khi họ trèo lên theo lời anh, Roran ra hiệu với Carn, anh này đã nhảy khỏi Hỏa Tuyết ngay khi họ dừng lại, và nói, "Tôi cần một thần chú của cậu. Cậu có thể che chắn cho tôi và mười người khác khỏi bị tên bắn không?"

Carn ngần ngừ. "Bao lâu?"

"Một phút? Một giờ? Ai mà biết?"

"Che chắn từng đấy người khỏi một nắm tên thôi sẽ nhanh chóng vượt quá giới hạn của tôi… Nhưng nếu anh không phiền việc tôi chặn những mũi tên trên đường bay, tôi có thể bẻ hướng của chúng khỏi các anh, như thế –"

"Thế cũng được."

"Chính xác anh muốn tôi bảo vệ ai?"

Roran chỉ những người anh chọn để đi cùng mình, và Carn hỏi tên từng người họ. Đứng gù vai lên, Carn bắt đầu lẩm nhẩm bằng cổ ngữ, mặt tái đi và căng thẳng. Ba lần anh ta cố tung phép, nhưng cả ba lần đều hỏng. "Xin lỗi," anh nói, run run thở ra. "Tôi không tập trung được."

"Chết tiệt, đừng xin lỗi," Roran làu bàu. "Cứ làm đi!" Nhảy khỏi Hỏa Tuyết, anh nắm lấy hai bên đầu Carn, giữ anh ta đứng yên. "Nhìn tôi này! Nhìn thẳng vào mắt tôi này. Đúng rồi. Cứ nhìn tôi… Tốt. Giờ đặt phép xung quanh chúng tôi đi."

Nét mặt Carn thư thái và vai anh thả lỏng, rồi với một giọng tự tin, anh lặp lại câu thần chú. Ngay khi bật ra từ cuối cùng, anh khẽ đổ vào tay Roran trước khi hồi phục lại. "Xong rồi," anh nói.

Roran vỗ nhẹ vào vai anh ta, rồi lại trèo lên Hỏa Tuyết. Lướt mắt qua mười kỵ sĩ, anh nói, "Yểm trợ sau lưng và hai cánh của tôi, nhưng cứ ở sau tôi chừng nào mà tôi vẫn còn vung được búa."

"Tuân lệnh!"

"Hãy nhớ, những mũi tên không thể làm hại được các anh nữa. Carn, cậu ở đây. Đừng cử động quá nhiều; giữ sức đi. Nếu cậu thấy không thể duy trì được thần chú nữa, ra hiệu cho chúng tôi trước khi cậu kết thúc. Đồng ý không?"

Carn ngồi trên bậc cửa của căn nhà, gật đầu. "Đồng ý."

Siết lại tay quanh khiên và búa, Roran hít thật sâu, cố trấn tĩnh. "Cố lên nào," anh nói, và chắt lưỡi cho Hỏa Tuyết chạy.

Với mười người lính cưỡi ngựa sau lưng, Roran phi ra giữa con đường đất chạy giữa các căn nhà và đối diện bọn lính một lần nữa. Năm trăm tên hay khoảng đó trong đoàn quân của Galbatorix vẫn đang ở trung tâm ngôi làng, hầu hết bọn chúng đều cúi hoặc quỳ đằng sau khiên của mình trong khi cố gắng lên lại nỏ. Thỉnh thoảng một tên lại đứng lên và nhả một mũi về phía các cung thủ trên mái nhà trước khi lại thụp xuống đằng sau cái khiên khi một mũi tên xé gió bay qua chỗ hắn vừa mới đứng. Khắp khoảng trống vương vãi xác người, những mũi tên rải rác đầy mặt đất, như lau sậy đâm ra từ đất đẫm máu. Vài chục thước phía bên kia bọn lính, Roran có thể thấy một nhóm thân thể vùng vẫy, và anh cho rằng đó là chỗ mà Sand, Edric, và bất cứ thứ gì còn lại trong lực lượng của họ đang chiến đấu với bọn lính. Nếu người phụ nữ trẻ và cậu bé đang ở trong khoảng trống, anh không nhận ra họ.

Một mũi tên lao đến Roran. Khi mũi tên còn cách ngực anh không tới một thước, nó đột ngột đổi hướng và bay nghiêng đi, trượt khỏi anh và đồng đội. Roran nao núng, nhưng mũi tên đã bay qua rồi. Họng anh nghẹn lại, và nhịp tim tăng gấp đôi

Liếc xung quanh, Roran phát hiện một cái xe hàng đổ vỡ tựa vào một căn nhà bên tay trái. Anh chỉ vào nó và nói, "Kéo cái kia ra đây và lật ngược nó lại. Chắn bớt càng nhiều đường càng tốt." Anh hét lên với các cung thủ, "Đừng để bọn lính lẻn sang đánh từ hai cánh! Lúc nào chúng xông vào ta, làm mỏng lực lượng chúng đi càng nhiều càng tốt. Còn lúc nào hết tên là xuống gia nhập với bọn tôi ngay lập tức!"

"Rõ!"

"Coi chừng bắn nhầm bọn tôi, không tôi thề là sẽ ám nhà các anh đến ngày tận thế!"

"Rõ!"

Thêm nhiều mũi tên nữa bay vào Roran và những người lính, nhưng trong mọi trường hợp các mũi tên đều trượt khỏi vòng bảo vệ của Carn và đổi hướng đâm vào tường hoặc xuống đất hoặc biến luôn lên trời.

Roran nhìn người của anh kéo cái xe hàng ra đường. Khi họ gần xong, anh ngẩng đầu, hít hơi đầy phổi, rồi hướng giọng nói về phía bọn lính, anh rống lên, "Này bọn chó thối tha rúm ró kia! Xem mười một người bọn ta chặn đường bọn mày đây. Thắng bọn tao, và bọn mày sẽ được tự do. Thử dùng tay đi nếu chúng mày có gan. Sao? Do dự à? Dũng khí đàn ông của chúng mày đâu rồi, bọn giòi bọ biến dạng, bọn sát nhân mặt heo bệnh hoạn kia? Cha chúng mày là đồ ngu si chảy nhớt đáng lẽ phải chết chìm từ lúc mới sinh! Đúng, và mẹ chúng mày là đồ rác rưởi vô giá trị, là thê thiếp của lũ Urgals!" Roran cười thỏa mãn khi vài tên trong bọn lính hú lên giận dữ và bắt đầu nhục mạ lại anh. Tuy nhiên, một tên trong bọn có vẻ đã mất tinh thần chiến đấu tiếp, vì hắn bật dậy và chạy về phía bắc, che chắn mình bằng cái khiên và nhảy nhặng xị từ bên này sang bên kia trong nỗ lực tuyệt vọng tránh né các cung thủ. Bất chấp nỗ lực của hắn, nhóm Varden bắn hắn chết tươi trước khi hắn chạy được hơn ba mươi thước. "Ha!" Roran kêu lên. "Đồ hèn, tất cả chúng mày, đồ chuột sông chấy rận! Nếu tin này cho chúng mày thêm can đảm, thì cho chúng mày biết: Roran Cây-búa-dũng-mãnh là tên của tao, và Eragon Khắc-tinh của Tà-thần là em họ tao! Giết được tao, lão vua thối tha đó sẽ thưởng chúng mày chức bá tước đấy, có khi còn hơn. Nhưng chúng mày sẽ phải giết tao với một lưỡi gươm; nỏ của chúng mày không ích gì với tao đâu. Tới đ! i, đồ ốc sên; đồ con đỉa; đồ ve trắng chết đói! Tới hạ tao đi nếu chúng mày có thể!"

Những tiếng hét xông trận vang lên xôn xao, một nhóm ba chục tên lính liệng mấy cây nỏ đi, rút những thanh kiếm sáng loáng ra, và, khiên giơ cao, chạy về phía Roran và người của anh.

Qua vai phải của mình, Roran nghe Harald nói, "Thưa ngài, chúng đông hơn ta nhiều." "Đúng," Roran nói, dán chặt mắt vào bọn lính. Bốn tên trong số chúng vấp ngã và nằm bất động trên đất, bị xuyên thủng bởi vô số mũi tên.

"Nếu cả bọn đánh cùng một lúc, chúng ta không có cơ đâu."

"Đúng, nhưng không đâu. Nhìn xem, chúng bối rối và mất tổ chức rồi. Chắc chỉ huy của chúng gục rồi. Miễn là chúng ta giữ vững đội hình, chúng không đè bẹp được ta đâu."

"Nhưng mà, Cây-búa, chúng ta cũng không thể giết hết từng đấy tên được!"

Roran liếc Harald ở phía sau. "Chắc chắn có thể! Chúng ta chiến đấu để bảo vệ gia đình chúng ta và để giành lại nhà và đất của chúng ta. Còn chúng chiến đấu là vì Galbatorix bắt chúng làm thế. Chúng không có được trái tim cho trận đánh này. Cho nên hãy nghĩ về gia đình anh, nghĩ về nhà anh, và nhớ rằng anh đang bảo vệ những điều đó. Một người đàn ông chiến đấu vì những điều lớn lao hơn bản thân anh ta có thể giết bay cả trăm tên lính!" Trong lúc nói, Roran nhìn thấy trong tâm trí anh hình ảnh Katrina trong bộ váy cưới màu xanh dương, và anh ngửi thấy hương thơm từ da cô, và anh nghe thấy giọng nói câm lặng của cô trong cuộc nói chuyện của họ khuya đêm đó.

Katrina.

Rồi bọn lính đã ở trước mặt họ, và trong một lát Roran không nghe thấy gì ngoài những tiếng thịch thịch của kiếm nảy ra khỏi khiên của anh và tiếng loảng xoảng khi búa của anh giộng xuống mũ sắt và những tiếng kêu la của bọn lính khi chúng bẹp rúm dưới búa của anh. Bọn lính quăng mình vào anh với sức mạnh tuyệt vọng, nhưng chúng không phải đối thủ của anh và đồng đội. Khi anh hạ gục tên lính cuối cùng, Roran phá ra cười phấn khởi. Thực là vui khi được nghiền nát những kẻ sẽ làm hại vợ và đứa con chưa chào đời của anh!

Anh vui mừng thấy không một ai trong số lính của anh bị thương nghiêm trọng. Anh cũng nhận thấy trong cuộc đụng độ, vài cung thủ trên mái đã xuống khỏi mái nhà và chiến đấu trên lưng ngựa với họ. Roran cười toe với mấy người mới và nói, "Chào mừng đến với trận chiến!"

"Nhiệt liệt là đằng khác!" một người đáp lại.

Đưa cây búa phủ máu của anh chỉ vào lề đường bên phải, Roran nói, "Anh, anh, và anh, chất đống mấy cái xác ra kia. Dùng thêm cái xe để tạo ra một cái phễu, như thế mỗi lượt sẽ chỉ có hai hay ba tên xông vào được thôi."

"Tuân lệnh!" những người lính trả lời, nhảy khỏi lưng ngựa.

Một mũi tên rít lên lao vào Roran. Anh phớt lờ nó và tập trung vào nhóm lính chính, ở đó có một toán nữa, có lẽ khoảng một trăm tên, đang tụ tập lại chuẩn bị cho trận kịch chiến thứ hai. "Nhanh lên!" anh hét lên với những người đang dời chỗ mấy xác chết. "Chúng đến ngay trước mặt rồi. Harald, đi giúp đi."

Roran liếm môi, hồi hộp khi nhìn người của anh làm việc trong khi bọn lính đang đến gần. Anh nhẹ nhõm nhìn bốn người Varden kéo cái xác cuối cùng vào chỗ và trèo trở lên ngựa trước khi toán lính bổ tới.

Những căn nhà ở hai bên đường, cũng như cái xe hàng lật ngược và rào chắn kinh khủng bằng xác người, làm chậm và ngăn cản dòng lính, cho đến khi chúng gần như bị tắc lại khi đến được chỗ Roran. Đám lính bị ép lại quá chật, chúng vô phương thoát khỏi những mũi tên cắm xuống chúng từ phía trên.

Hai hàng lính đi đầu mang giáo, và chúng dùng để đe dọa Roran và những người Varden khác. Roran né được ba nhát đâm, nguyền rủa vì anh không thể với quá được cây giáo bằng cái búa của mình. Rồi một tên đâm trúng Hỏa Tuyết vào phần vai, Roran cúi rạp ra trước để khỏi bị quẳng xuống đất khi con ngựa hí vang và lồng lên.

Khi Hỏa Tuyết hạ trở xuống, Roran trượt ra khỏi yên, giữ con ngựa ở giữa anh và hàng rào lính dùng giáo. Hỏa Tuyết nhảy lên khi một cây giáo nữa xuyên vào da nó. Trước khi bọn lính có thể làm nó bị thương tiếp, Roran giật cương Hỏa Tuyết và bắt nó nhảy lùi ra sau cho đến khi đủ khoảng trống giữa những con ngựa khác để nó có thể xoay trở. "Yah!" anh hét lên, và phát vào mông con ngựa, cho nó phi nước đại ra khỏi làng.

"Tránh đường!" Roran gầm lên, vẫy nhóm Varden. Họ tạo một khoảng trống cho anh giữa đám ngựa của họ, và anh lại vọt lên tuyến đầu của trận đánh, giắt búa vào thắt lưng.

Một tên lính thọc giáo vào ngực Roran. Anh chặn nó bằng cổ tay, bị cái cán bằng gỗ cứng làm thâm tím, rồi giật cây giáo khỏi tay tên lính. Hắn ngã dập mặt xuống đất. Quay cây giáo trong tay, Roran đâm tên lính, rồi nhào ra trước và đâm luôn hai tên nữa. Roran đứng rộng chân, trụ vững hai chân trên nền đất tươi tốt nơi mà một lần nữa anh lại mong ước được gây dựng mùa màng, rồi vung vẩy cây giáo vào đám lính, hét lớn, "Tới đi, lũ khốn đê tiện! Giết tao đi nếu chúng mày làm được! Tao là Roran Cây-búa-dũng-mãnh, và tao không sợ thằng nào cả!"

Bọn lính bước tới trước, ba tên bước qua xác các đồng đội cũ của chúng để giao chiến với Roran. Nhảy sang một bên, anh xiên cây giáo vào hàm tên ngoài cùng bên phải, làm tan tành răng của hắn. Máu loang ra trên lưỡi giáo khi anh rút nó ra và, quỵ xuống một gối, anh xỏ lụi tên ở giữa vào trúng nách hắn.

Một va chạm làm rung động vai trái Roran. Khiên của anh dường như nặng hơn gấp đôi. Nhô đầu lên, anh thấy một cây giáo đang ghim vào tấm ván gỗ sồi trên khiên của anh, và tên lính còn lại của bộ ba nhào vào anh với một thanh kiếm tuốt trần. Roran đưa cây giáo lên quá đầu như là anh đang chuẩn bị ném nó và, khi tên lính chùn bước, anh đá vào giữa hai chân hắn. Anh giải quyết hắn với một cú duy nhất. Trong khoảng tạm lắng ngắn ngủi sau đó của cuộc chiến, Roran gỡ cái khiên vô dụng khỏi tay và liệng nó cùng với cây giáo đang găm vào xuống dưới chân bọn lính, hy vọng làm rối chân chúng.

Thêm nhiều tên lính bước tới, nao núng vì nụ cười toe toét hung tợn và cây giáo thọc xỉa của Roran. Một núi xác người mọc lên trước mặt anh. Khi nó lên đến ngang hông, Roran nhảy lên trên cái khoảng hẹp đẫm máu, và anh đứng nguyên ở đó, bất chấp khó giữ thăng bằng, vì độ cao cho anh lợi thế. Do bọn lính buộc phải trèo lên một dốc xác người để với đến chỗ anh, nên anh có thể giết cả mớ bọn chúng khi chúng vấp phải một cái tay hay một cái chân hay giẫm lên cái cổ mềm oặt của một trong số những kẻ tiền nhiệm của mình, hay trượt chân trên một cái khiên nằm nghiêng.

Từ vị trí cao của mình, Roran thấy những tên lính còn lại đều đã tham gia hết vào cuộc tấn công, trừ hai chục tên ở đầu kia làng vẫn đang đánh với lính của Sand và Edric. Anh nhận ra anh sẽ không thể nghỉ ngơi gì nữa cho đến khi trận đánh kết thúc.

Thời gian trôi qua, Roran lãnh thêm hàng tá vết thương. Nhiều vết thương không đáng kể – một vết cắt ở mặt trong cẳng tay, một ngón tay gãy, một vết rách dọc sườn chỗ mà một con dao găm đã rạch xuyên áo giáp – nhưng những vết khác thì không. Một tên nằm trên đống xác đã đâm Roran vào bắp chân phải, làm anh cà nhắc. Không lâu sau đó, một tên to đùng chắc nịch bốc mùi hành và phó mát ngã đè lên Roran và, trong hơi thở hấp hối, hắn đâm một mũi tên vào vai trái Roran, khiến sau đó anh không thể nhấc tay mình lên quá đầu. Roran cứ để mũi tên găm vào thịt, vì anh biết anh có thể chảy máu đến chết nếu rút nó ra. Đau đớn trở thành cảm giác thống trị anh; mọi cử động của anh đều gây ra những đau đớn mới, nhưng đứng yên có nghĩa là chết, do đó anh tiếp tục tung ra những cú chết người, bất chấp những thương tích và bất chấp sự kiệt sức.

Thỉnh thoảng Roran ý thức được nhóm Varden ở sau lưng hoặc bên cạnh anh, như khi họ ném một cây giáo ngang qua anh, hay khi một lưỡi gươm phóng qua vai, hạ gục một tên sắp sửa đánh vỡ sọ anh, nhưng chủ yếu Roran đơn độc đối diện bọn lính, do đống xác mà anh đang đứng ở trên và khoảng trống giới hạn giữa cái xe hàng lật ngược và mấy căn nhà. Phía trên, các cung thủ vẫn còn tên tiếp tục bắn yểm trợ, những mũi tên xám lông ngỗng của họ đâm thấu bất kể xương hay gân.

Lâu sau đó, Roran xiên cây giáo của mình vào một tên lính, và khi mũi giáo đâm vào áo giáp hắn, cái cán liền nứt ra và tách dọc. Tên lính có vẻ bất ngờ vì thấy mình còn sống, vì hắn ngập ngừng trước khi vung kiếm lên trả đòn. Sự chậm trễ bất cẩn của hắn cho phép Roran cúi xuống bên dưới thanh thép đang rung lên, nhặt một cây giáo khác trên mặt đất, rồi dùng nó kết liễu tên lính. Roran chán nản và phẫn nộ nhận thấy cây giáo thứ hai cũng không trụ được tới một phút trước khi vỡ tan trong tay anh. Ném những mảnh vụn vào bọn lính, Roran lấy một cái khiên từ một cái xác và rút búa ra khỏi thắt lưng. Ít nhất, cây búa của anh chưa bao giờ làm anh thất vọng.

Kiệt quệ chứng tỏ là kẻ thù lớn nhất của Roran khi mấy tên cuối cùng trong bọn lính từ từ tiếp cận, tên nào cũng đợi đến lượt mình đấu với Roran. Tứ chi anh nặng nề và thiếu sức sống, thị lực anh chập chờn, và có vẻ anh không thể hớp đủ không khí, vậy mà làm cách nào đó anh vẫn triệu tập được sức mạnh để hạ gục đối thủ tiếp theo của mình. Do phản xạ của anh chậm đi, bọn lính gây thêm cho anh vô số vết cắt và thâm tím mà trước đó anh đã có thể tránh dễ dàng.

Khi khoảng trống hiện ra giữa mấy tên lính, và qua đó Roran thấy không gian rộng mở, anh biết cuộc thử thách của anh đã gần kết thúc. Anh không tỏ ra khoan dung với mười hai tên cuối cùng này, chúng cũng không hề yêu cầu điều đó, mặt dù chúng không thể hy vọng vượt qua được anh và nhóm Varden đằng sau. Chúng cũng không hề cố chạy trốn. Thay vào đó, chúng nhào vào anh, gầm gừ, chửi rủa, chỉ mong muốn giết kẻ đã tàn sát bao nhiêu đồng đội của chúng trước khi chúng tới được khoảng trống.

Ở một mức nào đó, Roran khâm phục lòng can đảm của chúng.

Tên bắn xuyên ngực bốn tên trong bọn, quật ngã chúng. Một mũi giáo ném ra từ đâu đó sau lưng Roran trúng xương đòn tên thứ nămvà hắn cũng đổ xuống cái giường xác chết. Thêm hai cây giáo nữa chọn được nạn nhân, và rồi bọn lính đến được chỗ Roran. Tên đi đầu chặt vào Roran bằng một cái rìu gắn đinh. Mặc dù Roran có thể cảm thấy đầu mũi tên nghiến vào xương, nhưng anh vẫn vung tay trái lên dùng khiên chặn cái rìu. Hú lên vì đau và điên tiết, cũng như khát khao cháy bỏng được kết thúc trận đánh, Roran quay vòng cây búa và kết liễu tên lính với một quả vào đầu. Không dừng lại, Roran nhảy tới trên cái chân lành lặn và nện tên tiếp theo liền hai quả vào ngực trước khi hắn có thể phòng thủ, đập vỡ xương sườn hắn. Tên thứ ba tránh được hai đòn của Roran, nhưng rồi Roran lừa hắn với một cú nghi binh và khử luôn hắn. Hai tên cuối cùng kéo về Roran từ hai phía, chém vào mắt cá anh khi chúng trèo lên đỉnh của đống xác. Sinh lực bùng lên, Roran cầm cự với chúng trong một lúc lâu và mệt nhọc, cả hai bên cùng cho và nhận thương tích, cho đến cuối cùng anh giết một tên bằng cách đục thủng mũ giáp của hắn và tên kia bằng cách đập gãy cổ hắn với một cú chuẩn xác.

Roran chao đảo rồi gục xuống.

Anh thấy mình được đỡ dậy, liền mở mắt ra và thấy Harald đang kề một túi rượu vào miệng mình. "Uống đi," Harald nói. "Anh sẽ thấy đỡ hơn."

Ngực phập phồng, Roran vừa hớp hơi vừa uống vài ngụm. Rượu ấm làm cay xè khoang miệng méo mó của anh. Anh cảm thấy chân mình vững lại và nói, "Ổn rồi, anh cứ thả tôi ra."

Roran tựa vào cây búa và quan sát chiến trường. Lần đầu tiên anh nhận thức được đống xác người đã dâng cao đến thế nào; anh và đồng đội phải đứng cao ít nhất là sáu thước trong không trung, gần như ngang nóc mấy căn nhà ở hai bên. Roran thấy hầu hết bọn lính chết vì tên bắn, nhưng kể cả thế, anh biết tự anh cũng đã tàn sát một lượng vô kể.

"Bao… bao nhiêu?" anh hỏi Harald.

Người lính máu me đầy người lắc đầu. "Sau ba mươi hai thì tôi mất dấu. Chắc người khác biết đấy. Những gì anh đã làm, Cây-búa-dũng-mãnh… Chưa bao giờ tôi thấy một kỳ công như vậy, thực hiện bởi một người với khả năng của người thường. Rồng Saphira đã chọn đúng; người trong gia đình anh đúng là những chiến binh không giống ai. Không một sinh vật nào sánh được can trường của anh, Cây-búa ạ. Dù hôm nay anh đã tàn sát bao nhiêu, tôi –"

"Một trăm chín mươi ba!" Carn kêu lên, trèo lên chỗ họ.

"Cậu chắc không?" Roran hỏi, nghi ngờ.

Carn gật đầu khi anh đến chỗ họ. "Chính xác! Tôi đã quan sát, và tôi đếm rất cẩn thận. Một trăm chín mươi ba tên, là – chín mươi tư nếu anh tính cả cái thằng mà anh đâm thủng ruột trước khi đội cung xử hắn."

Con số làm Roran sững sờ. Anh không ngờ con số tổng thể lại lớn đến thế. Anh bật ra một tiếng cười khan. "Tiếc là không có thêm. Thêm bảy thằng nữa là tôi có chẵn hai trăm." Những người khác cũng cười.

Lo lắng phủ lên gương mặt gày gò, Carn đưa tay đến cái chốt đâm ra từ vai trái Roran, nói, "Đây, để tôi xem vết thương cho."

"Không!" Roran nói, và gạt tay anh ta ra. "Có thể có những người khác bị nặng hơn tôi. Xem cho họ trước đi."

"Roran, có mấy vết cắt có thể nguy hiểm tính mạng nếu tôi không cầm máu lại. Sẽ chỉ mất –"

"Tôi ổn," anh càu nhàu. "Cứ mặc tôi."

"Roran, nhìn lại anh kìa!"

Anh nhìn rồi ngoảnh đi. "Vậy thì nhanh nhanh lên." Roran nhìn chăm chăm bầu trời quang đãng, tâm trí trống rỗng khi Carn kéo mũi tên ra khỏi vai anh và lẩm nhẩm vài câu thần chú. Ở mỗi chỗ thần chú phát tác, Roran cảm thấy da anh ngứa lên và ngọ nguậy, tiếp theo đó là sự sung sướng khi cơn đau chấm dứt. Khi Carn đã xong, Roran vẫn đau, nhưng không quá đau nữa, và tâm trí sáng sủa hơn trước.

Việc chữa trị làm Carn xám mặt và run rẩy. Anh tì vào đầu gối cho đến khi cơn run rẩy ngừng lại. "Tôi sẽ đi…" Anh ngừng lại lấy hơi. "…đi giúp những người bị thương khác." Anh đứng thẳng người và tìm đường trèo xuống dưới, lắc lư như đang say rượu.

Roran nhìn anh ta đi, lo lắng. Rồi anh chợt thắc mắc về số phận những người còn lại trong đoàn của họ. Anh nhìn về phía đầu kia của làng, không thấy gì ngoài những thân thể vương vãi, một số trong trang phục đỏ của Đế quốc, số khác là len nâu của Varden. "Edric với Sand sao rồi?" anh hỏi Harald.

"Tôi xin lỗi, Cây-búa, nhưng tôi chẳng thấy gì ngoài tầm gươm của tôi."

Gọi mấy người vẫn đứng trên mái nhà, Roran hỏi, "Edric với Sand sao rồi?"

"Chúng tôi không biết, Cây-búa!" họ đáp.

Dùng búa giữ thăng bằng, Roran từ từ trèo xuống đống xác người, với Harald và ba người khác bên cạnh, họ băng qua trảng trống ở trung tâm làng, xử tử bất cứ tên lính nào còn sống. Khi họ đến rìa trảng trống, nơi số Varden chết thảm vượt trội số quân lính, Harald đập kiếm lên khiên và la lên, "Có ai còn sống không?"

Một lúc sau, một giọng nói đáp lại từ phía những căn nhà: "Xưng tên đi!"

"Harald và Roran Cây-búa-dũng-mãnh và những người Varden khác. Nếu ngươi phục vụ Đế quốc, thì hãy đầu hàng đi, vì đồng đội của ngươi chết hết rồi và ngươi không thể đánh được bọn ta đâu!"

Từ đâu đó giữa mấy căn nhà có tiếng loảng xoảng kim loại rơi, và rồi một hai người một, các chiến binh Varden hiện ra từ chỗ trốn và đi khập khiễng ra trảng trống, nhiều người đang dìu những đồng đội bị thương. Họ tỏ vẻ sửng sốt, và vài người bị dính rất nhiều máu, khiến Roran lúc đầu nhầm họ với những tên lính bị bắt. Anh đếm được hai mươi tư người. Trong số những người đi sau cùng có Edric, đỡ theo một người bị mất cánh tay phải trong trận đánh.

Roran ra hiệu, và hai người của anh vội tới đỡ cho Edric. Người đội trưởng thẳng người dậy. Từng bước chậm chạp, ông đến chỗ Roran và nhìn thẳng vào mắt anh, vẻ mặt khó hiểu. Cả ông và Roran đều không chuyển động, và Roran nhận thấy khoảng đất trống trở nên đặc biệt yên lặng.

Edric là người đầu tiên nói. "Bao nhiêu người của cậu còn sống?"

"Hầu hết. Không phải toàn bộ, nhưng hầu hết."

Edric gật đàu. "Còn Carn?"

"Cậu ấy sống… Thế còn Sand?"

"Một tên bắn trúng anh ta lúc hắn tấn công. Anh ta chết chỉ vài phút trước." Edric nhìn trượt qua Roran, rồi nhìn về phía đống xác chết. "Cậu làm trái lệnh ta, Cây-búa-dũng-mãnh."

"Vâng."

Edric đưa một bàn tay mở về phía anh.

"Đội trưởng, không!" Harald kêu lên, bước tới trước. "Nếu không nhờ Roran, chúng tôi đã chẳng còn ai đứng đây. Và lẽ ra ngài phải thấy anh ấy đã làm những gì; anh ấy tự tay hạ gần hai trăm tên!"

Lời cầu xin của Harald không gây ấn tượng gì với Edric, ông tiếp tục đưa tay ra. Roran cũng giữ nguyên vẻ thản nhiên.

Harald liền quay sang anh nói, "Roran, anh biết mọi người ủng hộ anh. Nói đi, chúng tôi sẽ –"

Roran liếc mắt ra dấu cho anh ta yên lặng. "Đừng ngốc thế."

Edric nói qua đôi môi mỏng, "Ít nhất cậu cũng không hoàn toàn mất khôn. Harald, ngậm cái miệng cậu lại trừ khi cậu muốn dẫn đầu đám ngựa thồ suốt đường về."

Nâng cây búa lên, Roran trao cho Edric. Rồi anh mở khóa đai lưng, thanh kiếm và dao găm của anh giắt ở đó, và anh cũng nộp luôn cho Edric. "Tôi không có vũ khí nào khác," anh nói.

Edric gật đầu dữ tợn, và ngoắc cái dây lưng lên vai. "Roran Cây-búa-dũng-mãnh, bằng việc này ta sa thải cậu khỏi đội. Ta có lời hứa danh dự của cậu rằng cậu sẽ không cố bỏ trốn chứ?"

"Thưa có."

"Vậy thì cậu có thể trở nên hữu ích ở chỗ nào cậu có thể, còn trong mọi trường hợp khác, cậu sẽ cư xử như một tù nhân." Edric nhìn quanh và chỉ vào một người lính, "Fuller, cậu sẽ nhận vị trí của Roran cho đến khi chúng ta trở lại trụ sở chính của Varden và Nasuada sẽ quyết định phải làm gì về việc này."

"Rõ, thưa ngài," Fuller nói. ₪ ₪ ₪

Trong vài giờ, Roran cúi người cùng các chiến binh khác thu nhặt các xác chết của người bên họ và chôn trên con đường rìa làng. Trong lúc làm việc, Roran nhận ra chỉ có chín người trong số tám mươi mốt lính của anh bị chết trong trận đánh, trong khi Edric và Sand đã mất gần một trăm năm mươi người, và Edric lẽ ra đã mất nhiều hơn, không kể một nhóm lính đã đi theo Roran sau khi anh đến cứu họ.

Khi họ đã mai táng xong những người thương vong, nhóm Varden nhặt lại các mũi tên, rồi dựng một giàn thiêu ở giữa làng, lột bỏ quân trang của bọn lính, kéo chúng lên trên đống gỗ, rồi châm lửa. Những cái xác cháy làm bốc đầy trời những cột khói đen nhờn mỡ kéo lên phải đến hàng dặm. Qua làn khói, mặt trời nhìn như một cái đĩa dẹt màu đỏ.

Không thể tìm thấy người phụ nữ trẻ và cậu bé mà bọn lính đã bắt giữ. Vì không thấy xác của họ trong số xác chết, Roran đoán hai người đã trốn khỏi làng khi trận chiến nổ ra, và anh nghĩ đó là điều hay nhất mà họ có thể làm được. Anh chúc họ may mắn, dù họ đã đi bất cứ đâu.

Roran ngạc nhiên và vui mừng thấy Hỏa Tuyết chạy nước kiệu vào làng vài phút trước khi nhóm Varden chuẩn bị rời đi. Ban đầu con ngựa bất kham và cảnh giác, không cho phép ai đến gần, nhưng bằng cách nói chuyện nhẹ nhàng với nó, Roran đã xoay sở trấn tĩnh được con ngựa đủ để làm sạch và băng bó vết thương ở vùng vai của nó. Vì cưỡi Hỏa Tuyết lúc nó còn chưa lành hoàn toàn là không khôn ngoan, Roran buộc nó vào trước mấy coan ngựa thồ, và con ngựa tỏ ra không thích ngay lập tức, nó cụp tai lại, quất đuôi sang hai bên, và cong môi lên để nhe răng ra.

"Ngoan nào," Roran nói, vuốt ve cổ con ngựa. Hỏa Tuyết đảo tròng mắt nhìn anh và hí khẽ, tai nó từ từ thả lỏng.

Rồi Roran nhảy lên một con ngựa thiến vốn thuộc về một người Varden đã chết và đi đến cuối hàng người tập trung giữa những căn nhà. Roran tảng lờ nhiều cái liếc nhìn của họ, mặc dù anh thấy phấn khởi khi vài người bọn họ lẩm bẩm, "Tốt lắm."

Trong lúc ngồi đợi Edric ra lệnh xuất phát, Roran nghĩ đến Nasuada và Katrina và Eragon, và một cảm giác sợ hãi bao trùm suy nghĩ của anh khi anh tự hỏi liệu họ sẽ phản ứng ra sao khi biết sự nổi loạn của mình. Roran gạt bỏ những lo lắng của mình một giây sau đó. Mình đã làm những gì đúng đắn và cần thiết, anh tự nhủ. Mình sẽ không hối tiếc, không cần biết kết quả có thể ra sao.

"Đi thôi!" Edric hét lên từ phía đầu đoàn người.

Roran thúc con ngựa đi nhanh hơn, và anh cùng những người khác đồng loạt tiến về phía tây, ra khỏi làng, bỏ lại đống xác lính cháy dần vào hư không.

Chương 37 : Thông Điệp Trong Gương

Ánh bình minh phủ khắp người Saphisra, thấm vào người một sự ấm áp dễ chịu. Cô nàng nằm phơi nắng trên một phiến đá bên trên căn lều bọc vải trống trơn của Eragon chừng vài bộ. Hành động đêm qua: bay trinh sát các cứ điểm của triều đình, việc mà cô ả làm mỗi đêm kể từ khi Nasuada gởi Eragon tới núi rỗng ruột Farthen Dûr, đã khiến cô nàng uể oải. Những chuyến bay này thật cần thiết để che dấu sự vắng mặt của Eragon, nhưng chương trình này khiến cô nàng bị hao mòn thể lực, mặc dù màn đêm không khiến cô ả hoảng sợ, nhưng cô nàng không phải là kẻ có thói quen sống về đêm, vả lại cô ta không thích làm chuyện gì mà có tính đều đặn như vậy. Hơn nũa, phải một khoảng thời gian dài người Varden mới di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, cho nên hầu hết thời gian là cô nàng bay qua bay lại cùng một phong cảnh mỗi đêm. Lần kích thích duy nhất là cô nàng phát hiện tên chậm tiêu rồng vảy đỏ Thorn đang bay thấp ở chân trời đông bắc buổi sáng hôm trước. Hắn không có quay lại đối phó với cô nàng nhưng lại tiếp tục lên đường hướng sâu về phía triều đình. Khi Saphira báo cáo lại điều này, Nasuada, Arya và các người lùn canh giữ Saphira đã phản ứng như một bầy chim sẻ bị hoảng sợ, la hét rên rỉ với nhau rồi phóng đi tứ phía. Họ còn khăng khăng muốn tên tóc xanh đen như sói Blödhgarm, bay với cô nàng làm thế thân cho Eragon, dĩ nhiên cô nàng từ chối. Cho phép thần tiên đặt một nhân ảnh ma nước của Eragon lên lưng là một chuyệ! n, nhưng cô nàng không sẵn lòng để ai khác ngoài Eragon cưỡi trừ khi là trong một trận chiến không thể tránh khỏi, nhưng cho dù thế cũng chưa chắc được. Saphira ngáp dài, duỗi chiếc chân trước bên phải, vươn các ngón có móng trong lòng bàn tay. Lại lần nữa thư giãn, cô nàng cuộn đuôi quanh người và sửa tư thế đầu và bàn tay một chút, viễn cảnh của hươu và các con mồi khác trôi từ từ qua tâm trí của cô nàng. Không lâu sau, cô ả nghe tiếng chân lạch bạch của ai đó chạy qua dinh trại, hướng về phía căn lều bướm nhộng cách xếp đỏ của Nasuada. Saphira không chú tâm tới âm thanh này; đám người truyền tin lúc nào cũng luôn gấp rút đi tới đi lui. Vừa khi tính chợp mắt, Saphira nghe tiếng một người nữa chạy nhanh qua, rồi sau một chút, thêm hai người nữa. Không cần mở mắt, cô nàng thò lưỡi ra nếm không khí. Không phát hiện được mùi lạ nào. Quyết định rằng lần náo động này không đáng điều tra, cô nàng thiếp đi mơ đến nhảy xuống bắt cá ở một hồ nước lạnh trong xanh. Tiếng la hét tức giận đánh thức Saphira. Cô nàng không nhúc nhích nằm lắng nghe một đám người hai giò tai tròn cãi lộn với nhau. Bọn họ quá xa để có thể nghe được chuyện gì, nhưng từ âm điệu có thể thấy bọn họ giận đến mức sẵn sàng giết người. Tranh chấp đôi khi xảy ra giữa người Varden, giống như bất cứ tộc lớn nào, nhưng chưa bao giờ cô nàng nghe kể đám hai chân này cãi dai với nhiều cảm xúc như vậy. Mạch máu đập nhè nhẹ ở gáy Saphira khi đám hai ! chân ca�! �ng lúc càng hò hét lớn hơn. Cô nàng co vuốt trên mặt đá và sau tiếng rạn, từng mảng đá thạch anh văng ra dưới móng vuốt cô nàng. “Ta sẽ đến ba mươi ba,” cô nàng nghĩ, “và nếu bọn họ còn không dừng thì họ nên hy vọng là chuyện gì khiến họ nổi giận đáng phá ngang giấc nghỉ ngơi của người con của gió này.” Khi đếm đến bảy hai mươi, bọn hai chân đã yên lặng trở lại. “Cuối cùng cũng xong!” nhích người sang tư thế thoải mái hơn, cô nàng chuẩn bị quay về giấc ngủ vốn đang rất cần thiết. Tiết sắt thép leng keng, tiếng cỏ vải da sột xoạt, tiếng móng bọc nện xuống đất, lại còn mùi không thể lầm lẫn của chiến sĩ da đen Nasuada thoảng qua phía Saphira. “Gì đây?” cô nàng ngạc nhiên rồi một ý nghĩ muốn gầm lên một tiếng cho mọi người hoảng sợ bỏ chạy để cô nàng được một mình yên tịnh thoáng qua đầu. Saphira mở một mắt và thấy Nasuada và sáu vệ sĩ sải bước tới chỗ cô nàng đang nằm. Saphira hạ lệnh cho vệ sĩ dừng chân ở phía đầu thấp của phiến đá coi chừng Blödhgarm và một số người lùn khác, lúc đó vẫn còn đang cãi nhau trên một dải cỏ nhỏ, rồi sau đó cô mới tự mình trèo lên phiến đá. “Xin chào Saphira,” Nasuada nói. Cô mặc một bộ áo đỏ, màu sắc tương phản với cành lá xanh tươi của cây táo phía sau lưng. Ánh sáng phản chiếu từ vảy của Saphira điểm lốm đốm lên mặt cô. Saphira nháy mắt đáp lễ, cảm thấy không cần thiết phải đáp lại bằng lời. Sau khi liếc nhìn xung ! quanh, Na! suada bước đến gần bên tai Saphira và thì thầm: “Saphira, ta cần nói chuyện riêng với cô. Cô có thể thăm dò ý nghĩ trong đầu ta nhưng ta lại không thể thăm dò. Vậy cô có thể ở trong đầu ta để ta có thể truyền đạt những thứ ta muốn nói và cô có thể nghe được?” Saphira vươn người về phía cô gái đang mệt mỏi căng thẳng này, truyền đạt tới cô ấy sự bực bội vì không ngủ được rồi nói: “Ta có thể thăm dò cô được nhưng ta cũng không bao giờ làm vậy khi không được cô cho phép.” “Đương nhiên,” Nasuada trả lời. “Ta hiểu mà.” Lúc đầu, Nasuada chỉ nhận được những hình ảnh và cảm nhận rời rạc của nàng: một thòng lọng treo cổ trống không, máu ở dưới đất, những khuôn mặt gầm gừ, khiếp sợ, mệt mỏi, định lực nhẫn tâm ngấm ngầm. “Tha thứ cho ta,” Nasuada nói, “hôm nay ta đã ráng hết sức rồi. Nếu ý tưởng của ta trải quá nhiều nơi, thì xin hãy chịu đựng với ta một chút.” Saphira lại nháy mắt. “Chuyện gì mà làm khuấy động người Varden vậy? Một nhóm đàn ông nóng tính cãi lộn đánh thức ta trong giấc ngủ, và trước đó, ta có nghe một số người truyền tin chạy qua doanh trại. Nasuada mím môi quay lưng lại Saphira khoanh hai tay, gác cánh tay còn bàn tay thì nắm lại. Màu sắc trong ý tưởng của cô trở nên đen nhứ mây đêm, đầy vẻ chết chóc và bạo lực. Sau khi ngưng một lúc lâu trái với bản sắc hàng ngày, cô nói: “Một người đàn ông Varden tên Othmund, lén vào doanh trại Urgals tố! i qua va�! � giết chết ba tên trong lúc bọn chúng đang say ngủ bên lửa trại. Đám Urgals không có bắt được Othmund lúc đó, nhưng sáng nay hắn ta tự nhận chiến tích cho vụ này và khoe khoang khắp quân đội. “Tại sao hắn ta làm như vậy?” Saphira hỏi, “bộ đám Urgals giết gia đình của hắn ta à?” Nasuada lắc đầu: “Ta thật gần mưốn là như vậy, nếu vậy thì đám Urgals đâu có giận dữ như vậy; trả thù, ít nhất bọn họ hiểu điều này. Không phải, đây là phần lạ trong vụ việc này; Othmund ghét đám Urgals không ngoài nguyên do gì khác chính là vì họ là Urgals. Họ chưa bao giờ có gì sai trái với hắn, hoặc với người thân hắn, vậy mà hắn vẫn thù ghét người Urgals với từng thớ thịt của hắn. Ta chỉ biết có vậy sau khi nói chuyện với hắn mà thôi.” “Cô tính xử hắn ta cách nào đây?” Nasuada nhìn Saphira một lần nữa, một nét buồn sâu thẳm lộ ra trong mắt nàng. “Hắn ta sẽ bị treo cổ vì tội ác này. Khi ta chấp nhận xác nhập Urgals vào với người Varden, ta đã ra sắc lệnh bất kỳ ai tấn công Urgals sẽ bị trừng phạt như thể hắn ta tấn công một người bình thường khác. Ta không thể lật ngược lời nói của mình.”

“Cô có hối hận vì lời hứa hẹn này không?” “Không. Mọi người cần biết rằng ta không tha thứ những hành động như vậy. Nếu không, bọn họ đã trở mặt với tụi Urgals ngay ngày Nar Garzhvog và ta có hiệp định. Bây giờ, ta lại phải cho bọn họ thấy đã hứa là làm. Nếu không làm vậy thì sẽ có nhiều vụ giết chóc, rồi sau đó giống Urgals sẽ tự làm chủ lấy vấn đề này, rồi cả hai giống sẽ lại đòi bẻ cổ nhau nữa. Việc Othmund sẽ bị chết là đáng lắm cho việc giết hại giống Urgals và cho việc chống lại mệnh lệnh của ta, nhưng ôi thôi, Saphira, người Varden sẽ không thích chuyện này. Ta đã phải hy sinh cả tính mạng để giành lấy sự trung thành của bọn họ, nhưng giờ đây, họ sẽ ghét ta vì đã mang Othmund đi treo cổ… Họ sẽ ghét ta vì đã đánh đồng sinh mạng của giống Urgals với của loài người.” Nasuada hạ hai tay xuống rồi nhét vào ống tay áo. “Và ta không thể nói là ta thích chuyện này hơn họ. Cho dù mọi cố gắng của ta về việc đối xử rộng mở, công bằng đối với họ, như chính cha ta mong muốn, ta cũng không tự kềm chế được nhớ lại những cảnh giống Urgals giết hại người Varden trong trận chiến Farthen Dûr. Ta không tự kềm chế được nhớ lại những câu truyện thiếu nhi về giống Urgals càn quét các đồi núi, giết người vô tội trong giấc ngủ. Ta không tự kềm chế được nhớ lại tất cả những việc này, Saphira, và ta tự hỏi có phải là mình đã quyết định đúng đắn hay không.” “Cô không kềm chế �! �ược là vì cô là loài người,” Saphira nói, cố gắng an ủi Nasuada. “Nhưng cô cũng không cần bị ràng buộc bởi những thứ người chung quanh tin tưởng. Cô có thể trưởng thành vượt quá giới hạc sắc tộc nếu cô có ý chí. Nếu những việc trong quá khứ có thể dạy chúng ta điều gì thì đó là các vua, hoàng hậu và các lãnh tụ có thể kéo gần các sắc dân lại với nhau là những người đạt được những điều tốt nhất cho Alagaësia. Xung đột và nóng giận là những thứ chúng ta luôn phải giới hạn, nhưng cũng không nên đào sâu mối quan hệ với những kẻ cựu thù. Nên ghi nhớ sự nghi ngờ đối với giống Urgals vì chính họ đáng bị vậy nhưng cũng nên ghi nhớ quan hệ giữa người lùn và rồng từng không khác gì giữa nhân loại và giống Urgals. Loài rồng chúng ta đã từng gây chiến tranh với người lùn và đã có thể diệt tộc bọn họ. Những việc này đã từng là sự thật nhưng nay đã không còn, vì có những người như cô, dám gạt căm thù sang một bên thắc chặc mối quan hệ bằng hữu mà xưa nay chưa hề có. Nasuada đẩy mạnh trán vào ngang một bên hàm của Saphira rồi nói: “Cô rất là uyên bác, Saphira.” Saphira lấy làm buồn cười, ngẩng đầu lên và lấy mũi cọ vào trán của Nasuada: “Ta chỉ nói lên sự thật mà ta cảm nhận được, không hơn không kém. Nếu cô cho đó là khôn ngoan thì thật là hoan ngênh; nhưng mà ta tin cô có đủ trí khôn ngoan cần thiết. Xử tử Othmund có lẽ sẽ phật lòng người Varden, nhưng phải cộng thêm nhiều v! iệc kh! ác nữa để có thể phá vỡ lòng sùng bái của người Varden đối với cô. Hơn nữa ta tin chắc cô có thể tìm ra cách để xoa dịu bọn họ. “Ài,” Nasuada vừa nói vừa chùi khoé mắt: “Đương nhiên rồi.” Sau đó cô mỉm cười, vẻ mặt đã hoàn toàn thay đổi. “Nhưng Othmund không phải là lý do ta đến tìm cô. Eragon vừa liên lạc với ta và yêu cầu cho cô gia nhập hành động với anh ta tại Farthen Dûr. Mấy người lùn…” Saphira ngửa cổ hống một tiếng lớn lên trời, lửa từ trong bụng khè ra khỏi miệng từng mảng bập bùng. Nasuada lảo đảo bước ra sau trong khi mọi người chung quanh đứng lặng đó nhìn chằm chằm tới Saphira. Saphira nhỏm lên lắc một cái từ đầu tới đuôi, lúc này cô đã hoàn toàn quên đi sự mệt nhọc, cánh giang rộng ra chuẩn bị phi hành. Đám vệ sĩ của Nasuada tính đi về phía cô nhưng cô ra dấu cản bọn họ lại. Một màn khói thổi qua ngưòi khiến cô phải lấy dải áo vừa che mũi vừa ho. “Sự hăng hái của cô thật đáng tuyên dương Saphira, nhưng…” “Eragon có bị thương tích hay không?” Saphira hỏi. Cô ả hơi hoảng khi thấy Nasuada ngập ngừng. “Anh ta khỏe như mọi khi,” Nasuada trả lời. “Nhưng, có một chuyện… xảy ra… hôm qua.” “Chuyện gì?” “Anh ta và đám vệ sĩ bị tập kích.” Cả người Saphira đều không nhúc nhích trong lúc Nasuada kể lại cuộc đối thoại giữa cô và Eragon. Sau đó, Saphira nhe răng: “Dûrgrimst Az Sweldn rak Anhûin nên biết ơn là ta không có ở đó với Eragon; Ta sẽ không để bọn c! húng tr! ốn thoát dễ dàng như vậy sau khi muốn giết anh ấy.” Nasuada cười mỉm nói: “Vì thế cho nên cô ở đây có lẽ là tốt hơn.” “Có lẽ vậy,” Saphira cũng đồng ý rồi hà ra một đám khói nóng bỏng trong lúc cái đuôi lúc lắc. “Tuy vậy huyện này không làm ta ngạc nhiên. Mỗi lần Eragon và ta rời nhau, thể nào cũng có người tập kích anh ấy. Thật khiến vảy toàn thân ta ngứa ngáy mỗi khi để anh ấy rời khỏi tầm mắt hơn vài tiếng đồng hồ.” “Anh ta có thừa khả năng để tự bảo vệ mà.” “Đúng vậy, nhưng đám kẻ thù của chúng ta cũng không tệ.” Saphira nôn nóng, cả người dịch chuyển, giơ cánh càng cao hơn. “Nasuada, ta thật muốn rời khỏi đây. Còn chuyện gì khác ta cần biết không?” “Không,” Nasuada nói. “Bay nhanh tới nơi Saphira, đừng chậm trễ tới ngay Farthen Dûr. Ngay khi cô rời khỏi đây, chúng tôi chỉ còn vài ngày ngắn ngủi trước khi triều đình nhận ra là ta đã không còn gởi cô và Eragon đi trinh sát trên không nữa. Galbatorix có thể quyết định tấn công chúng tôi trong lúc cô bỏ đi, nhưng mỗi giờ cô vắng mặt khả năng sẽ càng tăng lên. Còn nữa, ta thích có cả hai người bọn cô với chúng tôi khi tập kích Feinster. Chúng tôi có thể lấy được thành này không cần cô, nhưng sẽ tốn thêm nhiều sinh mạng lắm. Nói ngắn gọn một chút, vận mạng của toàn dân Varden tùy thuộc vào tốc độ của cô.” “Chúng ta sẽ nhanh như gió bão.” Saphira đảm bảo. Sau khi Nasuada chào tạm biệt và cất bước đi k! hỏi phi! ến đá, Blödhgarm và các thần tiên khác đổ xô tới cạnh Saphira buộc yên ghế của Eragon lên lưng Saphira rồi chất một đống thực phẩm và dụng cụ cần thiết lên đó như thể cô nàng đang chuẩn bi bay với Eragon. Thật sự thì cô nàng không cần những thứ này cũng như không với ra sau được, nhưng để đánh lừa kẻ địch, cô ả bắt buộc phải mang theo những thứ này. Sau khi cô nàng đã sửa soạn xong, Blödhgarm chắp tay xéo ngực theo cử chỉ tôn kính của các thiên thần và nói bằng cổ ngữ: “Tạm biệt Saphira Vảy Sáng. Chúc cô và Eragon mau trở về với chúng ta mà không hề hấn gì.” “Tạm biệt, Blödhgarm” Saphira chờ cho các thần tiên tóc xanh đen như sói kia tạo ra một nhân ảnh ma nước của Eragon rồi bóng ma kia bước ra khỏi lều đạp lên chân trước rồi leo lên vai cô. Khi Blödhgarm gật đầu cho biết bóng ma Eragon kia đã yên vị, cô nàng vỗ cánh phóng lên khỏi phiến đá. Khi cả người rới xuống phía cái lều xám bên dưới, cô nàng phẩy cánh lần nữa đẩy người rời xa mặt đất cứng kia. Cô nàng quay về hướng Farthen Dûr và bắt đầu bay lên tần khí quyển lạnh bên trên, hy vọng tìm đước làn gió ổn định để trợ lực cho chuyến phi hành. Cô nàng bay một vòng quanh bờ sông đầy gỗ mà người Varden dừng chân hồi tối, toàn thân cảm thấy vui sướng mãnh liệt. Không còn phải chờ trong lúc Eragon đi phiêu lưu mà không có cô. Không còn phải tốn cả đêm bay qua bay lại một chỗ. Và cũng không còn phải để cho đám người dám khiến cho người bạn đồng t�! �m hợp! ý của cô trốn chạy khỏi sự phẫn nộ của cô! Saphira hả họng thiệt lớn thét tiếng vui mừng tự tin cho cả thế gìới hay, thách đố bất kỳ thánh thần nào dám thách thức cô ả, vì cô nàng chính là con của Iormûngr và Vervada, hai con rồng dũng mãnh nhất trong thế hệ của họ. Khi vừa đạt đến cao độ khoảng một dặm ở trên Varden và tìm được một cơn gió thuận hướng tây nam, Saphira xoay người nương theo chiều gió bay trên phất phới trên vùng đất đai đang thấm nhuần ánh mặt trời. Cô ả nghĩ trong đầu: “Em đang trên đường tới đây, tiểu ca!”

Chương 38 : Bốn nhịp trống đánh

Eragon nghiêng người về phía trước, từng bắp thịt trên cơ thể nó căng ra, khi phụ nữ người lùn tóc trắng Hadfala, tộc trưởng của bộ tộc Ebardac, đứng dậy khỏi cái bàn, nơi mà hội đồng thị tộc đang tụ họp, phát biểu một dòng ngắn bằng ngôn ngữ của bà ta.

Thì thầm vào tai trái của Eragon, Hûndfast dịch lại: “Thay mặt bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi.”

Eragon thở phào nhẹ nhõm. Một. Điều kiện để trở thành nhà cầm quyền trong tộc người lùn, là một tộc trưởng phải thắng đa số phiếu bầu từ các tộc trưởng khác. Nếu không ai đạt được, thì theo luật tộc người lùn, tộc trưởng nào với số phiếu bầu ít nhất sẽ bị loại ra khỏi vòng đấu và cuộc họp sẽ hoãn lại ba ngày trước khi tiếp tục cuộc bầu cử. Quá trình sẽ tiếp tục diễn ra đến khi nào một tộc trưởng chiếm được số phiếu bầu cần thiết, vào thời điểm đó, tất cả sẽ phải thề trung thành với ông ta hoặc bà ta như là người đứng đầu mới. Tính toán khoảng thời gian eo hẹp mà Varden cho phép, Eragon tràn trề hy vọng rằng cuộc bầu cử này sẽ không kéo dài quá một vòng, và nếu sự việc diễn ra như thế, người lùn sẽ không tốn nhiều thời gian hơn vài giờ. Nếu việc đó xảy ra, nó nghĩ chắc nó sẽ đập vỡ cái bàn đá ở giữa phòng ra vì thất vọng.

Hadfala đó, tộc trưởng đầu tiên bỏ phiếu, đã cho thấy cảm tình của bà ta đối với Orik. Hadfala, theo như Eragon biết, đã từng theo phe Gannel của bộ tộc Quan trước khi cuộc ám sát Eragon xảy ra. Nếu lòng trung thành của Hadfala thay đổi, thì rất có thế những thành viên còn lại trong liên minh của Gannel, Tộc trưởng Ûndin—có thể sẽ bỏ phiếu bầu của ông ta cho Orik.

Tiếp theo, Gálhiem của bộ tộc Feldûnost đứng dậy khỏi bàn, mặc dù ông ta rất là lùn, ông ta vẫn cao khi ngồi hơn là khi đứng dậy. “Thay mặt bộ tộc của tôi,” ông ta tuyên bố, “Tôi bầu cho Tộc trưởng Nado như là vị vua mới của chúng tôi.”

Nghiêng đầu về một phía, Orik nhìn qua Eragon và nói với nó bằng một giọng rất nhỏ, “Đúng như những gì chúng ta dự đoán.”

Eragon gật đầu và nhìn về phía Nado. Ông lùn mặt tròn đang vuốt chòm râu vàng của ông ta, vẻ mặt rất hài lòng.

Sau đó Manndrâth của bộ tộc Ledwonnû nói, “Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi.” Orik gật đầu cảm ơn, và Manndrâth gật đầu đáp trả, chóp mũi dài của ông ta lắc lư.

Khi Manndrâth ngồi xuống, Eragon và mọi người khác đều nhìn về phía Gannel, và căn phòng trở nên cực kỳ im lặng, Eragon còn không nghe tiếng thở của các ông lùn. Như là tộc trưởng của bộ tộc tôn giáo, Quan, và là vị pháp sư cao nhất của Gûntera, vua của các thần linh người lùn, Gannel chiếm một vị trí quan trọng trong chủng tộc; Bất cứ gì ông ta chọn, đám đông đều vui lòng theo sau.

“Thay mặt cho bộ tộc của tôi,” Gannel nói, “Tôi bầu cho Tộc trưởng Nado như là vị vua mới của chúng tôi.”

Một làn sóng xầm xì nổ ra từ những người lùn đang đứng xem ở ngoài vòng họp của căn phòng tròn, và vẻ mặt hài lòng của Nado càng lộ ra hơn. Nắm chặt tay lại, Eragon im lặng nguyền rủa.

“Đừng từ bỏ hy vọng ngay bây giờ, chàng trai trẻ à,” Orik thì thầm. “Chúng ta chỉ mới chưa biết hết. Việc này đã từng xảy ra khi tộc trưởng của Quan mất phiếu bầu.”

“Vậy việc này có thường xuyên xảy ra không?” Eragon thầm thì.

“Vừa đủ.”

“Vậy lần cuối xảy ra là khi nào?”

Orik chuyển hướng nhìn sang chỗ khác. “Tám trăm hai mươi bốn năm về trước, khi mà Nữ hoàng—”

Ông ta đột nhiên im lặng khi Ûndin của bộ tộc Ragni Hefthyn tuyên bố, “Thay mặt cho tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Nado như là vị vua mới của chúng tôi.”

Orik khoanh tay lại. Eragon chỉ có thể thấy mặt ông ta từ một phía, nhưng chắc chắn là Orik đang giận dữ.

Cắn mặt trong của má, Eragon nhìn chằm chằm xuống sàn nhà đầy hoa văn, đếm số phiếu đã bầu, cũng như số phiếu còn lại, cố gắng xác định xem liệu Orik vẫn còn có thể thắng cuộc bầu cử này. Cho dù trong tình huống tốt nhất, thì việc vẫn rất cần thiết. Eragon càng nắm chặt tay lại, móng tay của nó cắm sâu vào mặt trong của tay nó.

Thordris của bộ tộc Nagra đứng lên và vén dải viền áo dài, mỏng của bà ta lên một tay. “Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi.”

“Vậy là ba phiếu so với ba.” Eragon nói trong giọng hạ thấp. Orik gật đầu.

Tới lượt Nado nói. Vuốt thẳng chòm râu bằng một tay, vị tộc trưởng của bộ tộc Knurlcarathn cười với nhóm người của ông ta, một tia nhìn tà đạo trong mắt ông loé lên. “Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho chính bản thân tôi như là vị vua mới của chúng tôi. Nếu các bạn có tôi, tôi hứa sẽ loại bỏ quốc gia chúng ta khỏi lũ ngoại tộc làm ô nhiễm quốc gia, và tôi hứa sẽ mang lại vàng và các chiến binh để bảo vệ mọi người, và không phải bảo vệ cổ của lũ thần tiên, lũ người, và lũ Urgal. Điều này tôi thề trước danh dự của dòng họ tôi.”

“Bốn trên ba,” Eragon lưu ý.

“Đúng thế,” Orik nói. “Tôi biết thế nào thì Nado cũng sẽ không bầu cho ai cả ngoại trừ chính hắn ta.”

Đặt dao và gậy qua một bên, Freowin của bộ tộc Gedthrall nhấc thân hình nặng nề của ông ta ra khỏi cái ghế, và giữ góc nhìn xuống, nói trong một giọng trầm thầm thì, “Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Nado như là vị vua mới của chúng tôi.” Sau đó, ông ta hạ mình xuống chỗ ngồi của ông và tiếp tục khắc con quạ, mặc kệ bầu khí ngạc nhiên đang quét qua căn phòng. Vẻ mặt của Nado thay đổi từ hài lòng sang tự mãn.

“Chết tiệt,” Orik gầm gừ, cơn giận của ông tăng thêm. Cái ghế của ông ta kêu cọt kẹt khi ông ép cẳng tay xuống tay dựa, gân tay nổi lên và căng ra. “Tên giả vờ phản bội. Hắn ta hứa sẽ bỏ phiếu của hắn cho tôi!”

Bao tử của Eragon kêu la. “Tại sao ông ta lại phản bội anh?”

“Hắn ta đến thăm đền Sindri hai lần trong ngày. Đáng lẽ ra tôi phải biết là hắn sẽ không đi ngược lại ý muốn của Gannel chứ. Chết tiệt! Tên khốn Gannel đang chơi tôi hầu hết thời gian. Tôi—” Vào lúc đó, sự quan tâm của hội đồng thị tộc đổ về phía Orik. Che dấu nỗi tức giận của mình, Orik để chân xuống và nhìn chung quanh bàn tới mỗi tộc trưởng khác, và với ngôn ngữ riêng của mình, ông ta nói, “Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho chính mình như là vị vua mới của chúng tôi. Nếu các bạn có tôi, tôi hứa sẽ mang lại vàng và sự tự do để sống ở trên mặt đất mà không phải sợ Galbatorix phá huỷ nhà của chúng ta. Điều này tôi thề trước danh dự dòng họ tôi.”

“Năm trên bốn,” Eragon nói với Orik khi ông ta trở về chỗ ngồi. “Và không phải có sự ủng hộ nào.”

Orik càu nhàu. “Tôi có thể đếm, Eragon.”

Eragon đặt khuỷu tay lên đầu gối, mắt nó ném từ người lùn này tới người lùn khác. Lòng thèm muốn hành động đang gặm nhấm trong nó. Bằng cách nào, nó không biết, nhưng với nhiều cách, nó cảm thấy là nó phải tìm một cách để đảm bảo Orik sẽ trở thành vua và, vì thế, tộc người lùn sẽ tiếp tục viện trợ cho Varden trong công cuộc đấu tranh chống lại Đế quốc. Đối với tất cả những việc mà nó đang cố gắng, tuy nhiên, Eragon chỉ có thể nghĩ không có gì để làm bằng việc ngồi và đợi.

Người lùn tiếp theo đứng dậy là Havard của bộ tộc Fanhur. Với cái cằm gấp chống vào xương ức, Havard đẩy môi ra và gõ nhẹ vào bàn với hai ngón tay mà ông ta còn trên bàn tay phải, xuất hiện chỉnh chu. Eragon nhích tới trước trên chỗ ngồi của nó, tim nó đập thình thịch. Liệu ông ta có giữ nguyên thoả thuận với Orik không? Eragon tự hỏi.

Havard gõ bàn lần nữa, rồi đập lên đá với tay của ông. Nhấc cằm lên, ông ta nói, “Thay mặt cho bộ tộc tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi.”

Việc này làm cho Eragon cảm giác hài lòng khi nhìn vào đôi mắt to rộng của Nado, và sau đó ông lùn nghiến răng mình, cơ bắp trong má của ông ta giật giật. “Hà!” Orik thì thầm.” Việc này như đặt gai trong râu hắn ta.”

Chỉ còn hai tộc trưởng chưa bỏ phiếu là Hreidamar và Íorûnn. Hreidamar, tộc trưởng đầy cơ bắp vạm vỡ của bộ tộc Urzhad, xuất hiện không dễ dàng với tình trạng thế này, trong khi Íorûnn—bà ta thuộc bộ tộc Vrenshrrgn, các con sói chiến—vạch ra vết sẹo hình trăng lưỡi liềm trên má trái của bà ta, với đầu của móng tay và nụ cười như con mèo tự mãn.

Eragon giữ hơi thở của nó và chờ nghe những gì mà hai người họ nói. Nếu Íorûnn bầu cho chính bà ta, nó nghĩ, và nếu Hreidamar vẫn còn trung thành với bà ta, thì cuộc bầu cử này sẽ phải diễn ra vòng hai. Không có lý do gì cho bà ta làm thế cả, tuy nhiên, ngoại trừ muốn sự kiện này chậm trễ, và theo xa nhất mà mình biết, bà ta sẽ không được lợi ích gì từ sự chậm trễ này. Bà ta cũng không hy vọng trở thành nữ hoàng trong thời điểm này; tên của bà ta sẽ bị loại bỏ trước khi bắt đầu vòng hai, và mình đoán là ba ta sẽ không ngu ngốc đến nỗi lãng phí quyền lực mà bà ta có bây giờ để chỉ khoe khoan cho con cháu là bà ta đã một lần làm ứng cử viên cho ngôi vua. Nhưng nếu Hreidamar theo bà ta, như thế thì cuộc bầu cử này vẫn phải tiếp tục diễn ra và liệu chúng ta sẽ tiếp tục vào vòng thứ hai hay không… Argh! Ước gì mình có thể nhìn thấu tương lai được! Chuyện gì sẽ xảy ra nếu Orik thua? Mình có nên bắt lấy cơ hội này mà điều khiển hội đồng thị tộc? Mình có thể niêm phong căn phòng lại để không ai có thể vào cũng như ra, và rồi… Nhưng không, mà có thể— ́orûnn làm gián đoạn suy nghĩ của Eragon bằng cách gật đầu với Hreidamar và rồi chiếu tia nhìn nặng nề về hướng Eragon, làm cho nó cảm thấy như nó là phần thưởng mà bà ta đang kiểm tra. Cái vòng của cái áo giáp của ông ta kêu lẻng kẻng, Hreidamar đứng thẳng lên và nói, “Thay mặt bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới củ! a chúng tôi.”

Cổ họng của Eragon siết lại.

Đôi môi đỏ của bà ta cong lên như trò đùa, Íorûnn đứng dậy khỏi ghế với một động tác uyển chuyển và nói với một giọng thấp, khàn khàn, “Dường như đổ hết lên tôi để quyết định kết quả của cuộc họp ngày hôm nay. Tôi đã lắng nghe rất kỹ lý lẽ của ông, Nado, và lý lẽ của ông, Orik. Trong khi cả hai đã nêu lên những điểm mà tôi đồng ý với một số các chủ đề, vấn đề quan trọng nhất là chúng ta phải quyết định có hay không cam kết với chiến dịch của Varden để chống lại Đế quốc. Nếu chỉ là cuộc chiến tranh giữa các bộ tộc, thì sẽ không thành vấn đề cho tôi nếu bên nào thắng, và tôi chắc chắn sẽ không cân nhắc để các chiến binh của bộ tộc chúng tôi cho lợi ích của người ngoài. Tuy nhiên, trường hợp này không phải như thế. Tính xa hơn. Nếu Galbatorix xuất hiện chiến thắng từ cuộc chiến tranh này, thì ngay cả Núi Beor cũng không thể bảo vệ chúng ta khỏi sự tức giận của hắn ta. Nếu chúng ta muốn sống sót, chúng ta phải chứng kiến Galbatorix bị lật đổ. Hơn thế nữa, điều đó thúc đẩy tôi rằng trốn tránh trong hang động và các hầm thế này trong khi những người khác quyết định số phận của Alagaësia là không thích hợp cho một chủng tộc vừa già vừa mạnh như chủng tộc ta. Khi sử biên niên của thời đại ghi chép, thì họ có viết về chúng ta chiến đấu cùng với tộc người và tộc thần tiên, như là các đấng anh hùng già dặn, hay viết là chúng ta ngồi co rúm, sợ hãi trong khi một trận chiến đan! g diễn ra phía bên ngoài? Tôi, vì một điều, tôi biết câu trả lời của riêng tôi.” Íorûnn hất mái tóc của bà ta về phía sau, rồi nói, “Thay mặt cho bộ tộc của tôi, tôi bầu cho Tộc trưởng Orik như là vị vua mới của chúng tôi!”

Các bô lão của năm nhà luật học đang đứng tựa vào bức tường tròn bước lên phía trước và dọng đầu cuối của cây gậy bóng láng vào sàn đá và tuyên bố, “Tất cả hãy hoan nghênh Vua Orik, vị vua thứ bốn mươi ba của Tronjheim, Farthen Dûr, và tất cả các knurla ở trên và dưới của Núi Beor!”

“Tất cả hãy hoan nghênh Vua Orik!” hội đồng thị tộc gầm lên, giơ cao chân họ lên với một tiếng sột soạt ầm ỹ của quần áo và áo giáp. Đầu nó như đang bơi, Eragon cũng làm tương tự, nhận thức được ràng nó đang có mặt trong hoàng tộc. Nó nhìn về phía Nado, nhưng mặt của ông lùn là một cái mặt nạ mù.

Chòm râu trắng của các nhà luật học dọng cây gậy xuống sàn một lần nữa. “Hãy để các nhà ghi chép cùng lúc quyết định của hội đồng thị tộc, và hãy để cho tin tức này lan truyền cho từng người trong vương quốc. Sứ giả đâu! Thông báo cho các pháp sư với gương bói của họ tiết lộ việc gì xảy ra vào hôm nay, và sau đó tìm người giám sát của núi và nói với họ, ‘Bốn nhịp trống. Bốn nhịp, và lắc cái vồ của nhà ngươi như ngươi chưa bao giờ lắc trước đây trong đời, bởi vì chúng ta có vị vua mới. Bốn nhịp với hết sức mạnh, Farthen Dûr chính nó sẽ phải rung chuyển vì tin này.’ Nói với họ như thế, tôi giao nhiệm vụ cho các anh đó. Đi!”

Sau khi các sứ giả rời khỏi, Orik đẩy mình ra khỏi ghế và đứng dậy nhìn khắp xung quanh. Vẻ mặt của ông ta, theo Eragon, dường như là vẫn đang sững sờ, như là ông ta không nghĩ là có thể giành được ngôi vua. “Đối với trách nhiệm tuyệt vời này,” ông ta nói, “Tôi rất cảm ơn mọi người.” Ông ta dừng lại, rồi tiếp tục, “Ý nghĩ ngay bây giờ của tôi là sự cải thiện tốt hơn cho quốc gia chúng ta, và tôi sẽ theo đuổi mục đích đó mà không nao núng cho đến ngày tôi trở về thành đá.”

Sau đó các tộc trưởng bước lên trước, từng người một, và quỳ trước mặt Orik và thề lòng trung thành của họ cho ông ta. Khi đến lượt Nado thề, ông lùn biểu lộ ra không tình cảm gì ngoại trừ những từ ngữ mà lời thề bắt buộc với không chuyển giọng, những từ thốt ra từ của miệng ông ta như là thanh chì rơi xuống.Bầu không khí xuyên qua phòng họp có cảm giác nhẹ hẳn khi ông ta kết thúc lời thề.

Sau khi nghi thức thề trung thành kết thúc, Orik ra lệnh rằng lễ đăng quang của ông sẽ diễn ra vào sáng ngày hôm sau, và rồi ông ta và nhóm người của ông rút qua phòng kế bên. Ở đây Eragon nhìn Orik, và Orik nhìn Eragon, và không ai nói gì cho tới khi một nụ cười rộng xuất hiện trên mặt Orik và ông ta cười thật lớn, má ông ta chuyển sang màu đỏ. Cười với ông ta, Eragon túm lấy ông ta bằng cẳng tay và ôm chặt ông ta. Vệ sĩ và cố vấn của Orik tập hợp xung quanh, vỗ vai Orik và chúc mừng ông với những lời thật tâm.

Eragon thả Orik ra, nói, “Tôi không nghĩ là Íorûnn sẽ ở bên phe chúng ta.”

“Đúng vậy. Tôi mừng là bà ta ở bên phe ta, nhưng việc này làm cho vấn đề thêm phức tạp, đúng thế.” Orik nhăn mặt. “Tôi nghĩ là tôi sẽ phải thưởng cho sự trợ giúp của bà ta bằng một vị trí trong hội đồng của tôi, chắc là phải thế thôi.”

“Nếu thế thì tốt nhất là vậy!” Eragon nói, căng thẳng làm nó nghe như có cơn chấn động. “Nếu các con sói chiến giống nhau về tên của chúng, chúng ta rất cần chúng trước khi chúng tới các cánh cửa của Urû’baen.”

Orik bắt đầu trả lời, nhưng rồi một nốt nhạc dài, trầm của âm thanh kỳ lạ vang dội khắp các sàn và trần và không khí của các phòng, làm xương của Eragon rung chuyển với mức năng lượng của chính nó. “Lắng nghe!” Orik la lên, và giơ một tay lên. Tất cả rơi vào im lặng.

Bốn lần trong tổng số nốt bass vang lên, làm rung động các phòng với từng âm thanh cứ lập lại, như là một gã khổng lồ đang đập mạnh vào bên hông của Tronjheim. Sau đó, Orik cho biết, “Tôi chưa từng nghĩ sẽ nghe tiếng trống của Derva thông báo lễ lên ngôi vua của tôi.”

“Cái trống này lớn thế nào?” Eragon hỏi, run sợ.

“Khoảng năm mươi feet, nếu tôi nhớ đúng.”

Một ý nghĩ loé lên trong đầu Eragon là mặc dù người lùn thấp nhất trong các chủng tộc, họ đã xây dựng lên cấu trúc lớn nhất ở Alagaësia, mà dường như điều đó là kỳ lạ đối với nó. Có lẽ, nó nghĩ, bằng cách làm những vật khổng lồ như thế, họ không cảm thấy họ bé nhỏ. Nó đã định đề cập giả thuyết của nó cho Orik nhưng quyết định là điều đó có thể xúc phạm đến ông lùn, do đó nó giữ lưỡi lại.

Bao vây xung quanh, nhóm người của Orik bắt đầu hỏi ý kiến ông về tương lai của tộc người lùn, thường xuyên khi người này đang nói người khác xen ngang với giọng lớn, và Eragon, nó đang muốn hỏi Orik một câu khác, nhận ra nó đang bị bỏ rơi vào một góc. Nó cố gắng kiên nhẫn chờ đợi để có một cuộc trò chuyện im ắng, nhưng sau vài phút, có vẻ nhóm người lùn này không ngừng tiếp tục chất vấn Orik với hàng ngàn câu hỏi và lời khuyên, vì thế, nó cho rằng, đó là bản chất của họ.

Vì vậy, Eragon nói, “Orik Könungr (Tâu vua Orik),” và nó nhúng ngôn ngữ cổ vào, chia một phần năng lượng, như vậy nó có thể thu hút được sự quan tâm của tất cả mọi người hiện tại. Căn phòng trở nên im lặng, và Orik nhìn về phía Eragon và nhướng một lông mày lên. “Tâu bệ hạ, tôi có thể có sự cho phép của ngài để lui ra không? Có một số . . . vấn đề mà tôi muốn tham gia vào, nếu như không quá trễ.”

Lông mày của Orik sáng ra. “Bằng mọi cách, nhanh lên! Nhưng cậu cũng không cần phải gọi tôi bằng bệ hạ, Eragon, cũng không gọi bằng ngài, cũng không gọi bằng các danh hiệu khác. Dù gì, chúng ta là bạn bè và cũng là anh em kết nghĩa.”

“Vâng, thưa bệ hạ.” Eragon trả lời, “nhưng với thời gian sắp tới, tôi tin chắc điều này thích hợp hơn khi tôi nên gọi giống mọi người khác. Anh là vua của chủng tộc anh bây giờ rồi, và cũng là vua của tôi, vì tôi là một thành viên của bộ tộc Ingeitum, và điều này tôi không thể không để ý.”

Orik suy ngẫm một chút, như là một khoảng cách xa xăm, và sau đó gật đầu và nói, “Theo ý cậu vậy, Kỵ sĩ rồng.”

Eragon cúi chào và rời khỏi phòng. Theo sau là bốn vệ sĩ, nó đi xuyên qua đường hầm và lên cầu thang dẫn tới tầng mặt đất của Tronjheim. Khi bọn nó tới nhánh phía nam của bốn hành lang chính chia thành-phố-núi, Eragon quay qua Thrand, đội trưởng đội cận vệ của nó, và nói, “Tôi muốn chạy hết con đường còn lại. Vì ông sẽ không thể theo kịp tôi, tôi nghĩ ông nên dừng lại và đi tới cửa nam của Tronjheim và chờ tôi trở lại.”

Thrand trả lời, “Bàn-Tay-Bạc à, xin ngài đừng đi một mình. Tôi không thể thuyết phục ngài giảm tốc độ để chúng tôi có thể theo ngài sao? Chúng tôi có lẽ không nhanh như thần tiên, nhưng chúng tôi có thể chạy từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, và trong lúc áo giáp vẫn còn trên người.”

“Tôi hiểu sự quan tâm của ông.” Eragon nói, “nhưng tôi sẽ không chần chừ lâu hơn một phút, ngay cả khi nếu tôi biết có kẻ ám sát đang ẩn mình đằng sau mỗi cột đá. Tạm biệt!”

Và ngay lập tức, nó chạy xuống hành lang rộng, lắt léo né các người lùn đang cản đường nó.

Chương 39 : Tái Hợp

Từ nơi Eragon bắt đầu cách cổng nam của Tronjheim chừng một dặm, nó chạy đoạn này chỉ mất vài phút, tiếng bước chân vang lên trên nền đá. Vừa chạy nó vừa thấy những tấm thảm lộng lẫy treo trên lối vào các hành lang hai bên, cũng đồng thời thấy những tượng đá kỳ dị củ các mãnh thú, quái vật ẩn hiện giữa các cột đá bằng huyết ngọc thạch dựng dọc theo một đại lộ có mái che. Thông đạo bốn tầng này thật lớn quá, Eragon dễ dàng tránh né đám người lùn cư trú ở đây, tuy vậy có một lần một đám người lùn Knurlcarathn bước tới ngay trước mặt của nó và nó không còn chọn lựa nào khác ngoại trừ phóng qua đầu bọn họ lúc đó vừa cúi người né vừa la hét kinh hãi. Eragon thích thấy cái nhìn ngạc nhiên của bọn họ khi nó phóng qua đầu người ta. Eragon chạy nhẹ nhàng từng bước dài dưới cánh cổng gỗ khổng lồ bảo vệ cửa nam của thành núi này, lại nghe tiếng thị vệ canh cổng hét lên: “Dừng lại, Argetlam!” khi nó vừa lướt qua. Ra khỏi được độ hai mươi thước, thì cánh cửa gỗ đóng sầm xuống nền móng của Tronjheim, nó lúc này chạy hết lực giữa hai tượng quái vật sư tử đầu chim đúc bằng vàng khổng lồ đang dõi mắt nhìn xa xăm về phía chân trời, vùng đất rộng mở đã hiện ra trước mặt. Không khí ẩm uớt lạnh mang theo mùi mưa vừa rơi. Mặc dù vẫn còn là buổi sáng, ánh hoàng hôn xám đã phủ lấy khu đất bằng hình dĩa bao quanh Tronjheim, vùng đất mà cỏ không lên nổi, chỉ có rêu, địa y và! vài khoảnh nấm mũ độc sộc mùi là có thể mọc được. Ở phía trước, Farthen Dûr cao sừng sững mười dặm với lối vào hẹp, chỉ có ánh sáng phản chiếu yếu ớt lọt vào miệng núi lửa khổng lồ này. Eragon khó khăn lắm mới nhận biết được mức độ to lớn của trái núi này khi nó ngước nhìn lên. Vừa chạy, nó vừa lắng nghe tiếng đơn điệu đều đặn của từng nhịp thở cũng như tiếng từng bước chân vang vọng xuống đường. Ngoại trừ một con dơi tò mò đang từ trên cao nhào xuống phát ra những tiếng chít chít lanh lãnh thì nó chỉ có một mình. Trạng thái yên tĩnh bao trùm khu núi rỗng này khiến nó thoải mái, giải trừ mọi ưu phiền thường ngày của nó. Eragon đi theo con đường lát đá trải dài từ cửa nam Tronjheim tới tận hai cánh cổng đen cao ba mươi bộ phía nam chân núi Farthen Dûr. Lúc nó dừng lại, hai người lùn hiện ra từ một trạm gác bí mật lanh lẹ mở cổng, để lộ ra một đường hầm giường như vô tận ở phía trước. Eragon tiếp tục đi tới. Những cột đá hoa dát ngọc rubi đỏ và đá thạch anh tím xếp dọc suốt năm chục bộ đầu của đường hầm. Qua khỏi đoạn đó, đường hầm trở nên trống trải hoang vắng, tường xung quanh trơn tru cách mỗi hai chục thước có treo một ngọn đèn lồng không lửa, và cách một khoảng không cố định lại có một cổng bị đóng lại hay một cánh cửa. “Không biết lối này dẫn đến đâu nữa đây,” Eragon nghĩ thầm. Và nói lại tưởng tượng ra cảnh đá trên đầu dồn xuống đè nó khi�! �́n lú! c đó đường hầm tạo nên áp lực nặng nề không chịu được. Nó nhanh chóng xóa hình ảnh đó ra khỏi đầu. Đi được nửa đường hầm, nó cảm giác được cô nàng. “Saphira!” nó hét lên, bằng cả giọng nói lẫn ý nghĩ, tên của cô nàng dội lại từ những tường đá xung quanh như cả tá tiếng la hét. “Eragon!” Một lúc sau, thanh âm ầm ĩ yếu ớt từ xa vọng tới kéo nó đi về hướng cuối đường hầm. Eragon tăng tốc gấp đôi, mở rộng tâm ý đón Saphira, gỡ đi mọi cấm chế quanh người để cả hai có thể liên thông với nhau không hạn chế. Như một giòng nước lũ ấm áp, ý thức của Saphira tràn tới nó cũng như của nó tràn tới cô nàng. Eragon thở hổn hển vấp và xuýt nữa thì bị ngã. Cả hai quấn lấy nhau trong tư tưởng, xiết chặc lấy nhau còn hơn những đụng chạm thực thụ, khiến thân phận cả hai lại lần nữa trở nên đồng nhất. Niềm an ủi lớn nhất đối với bọn họ rất đơn giản: họ không còn bị lẻ lỏi nữa. Biết được bạn đang ở bên người luôn lo lắng cho bạn, luôn hiểu cả con người bạn, và sẽ không bao giờ bỏ bạn ngay cả trong tình huống tuyệt vọng nhất, đó là mối quan hệ trân quý nhất mà một người có thể có được, và cả Eragon lẫn Saphira đều quý mến điều này. Không lâu sau Eragon thấy Saphira từ xa vội vàng tiến về phía nó ráng không để đầu bị đụng lên trần hay cánh quẹt lên các bức tường xung quanh. Móng vuốt của cô nàng cạ xuống nền đá xẹt lửa khi lướt tới trước mặt Eragon. Eragon vui mừng he! ́t lên,! nhảy tới trước cô ả, mặc kệ lớp vảy bén, mở rộng vòng tay hết sức xiết chặt lấy cô nàng, hai chân của nó đung đưa cách mặt đất vài gang tay. “Tiểu ca,” Saphira nói, giọng cô nàng ấm áp. Cô nàng từ từ hạ nó xuống sàn, khịt một tiếng rồi nói: “Tiểu ca, trừ khi là anh muốn xiết cổ em, anh phải thả tay ra một chút.” “Xin lỗi,” nó toét miệng cười lui ra sau một chút rồi lấy trán ịn vào mũi cô nàng rồi bắt đầu gãi gãi hai bên hàm của ả. Tiếng ầm ừ của Saphira vang dội cả đường hầm. “Em mệt rồi,” nó nói. “Em chưa bao giờ bay xa mà nhanh như vậy. Em chỉ dừng lại một lần từ lúc rời khỏi Varden, và em đáng lẽ cũng không dừng lại nếu không phải vì khát nước quá.” “Em nói là cả ba hôm nay em chưa ăn chưa ngủ gì cả à?” Cô nàng đá mắt với nó một cái, che đậy cặp mắt trong xanh như ngọc xaphia trong một khoảnh khắc. “Chắc em đói lắm rồi!” Eragon lo lắng la lên. Nó nhìn khắp thân cô nàng xem có vết thương tích gì hay không. Cũng may là nó không tìm thấy gì. “Em mệt lắm.” Cô nàng thừa nhận. “Nhưng không có đói. Chưa tới lúc. Khi nghỉ ngơi xong, thì em mới ăn. Hiện giờ, em không nghĩ là em có thể ăn ngay cả chỉ một con thỏ… Mặt đất dưới chân thấy không chắc chắn tí nào, em cứ tưởng như vẫn còn đang bay. Nếu bọn họ không có bị cách xa bấy lâu, Eragon có lẽ sẽ trách cô ả vì thiếu thận trọng như vậy, nhưng như vầy, nó lại cảm thấy cảm động và dễ chịu ! khi thâ�! �y cô nàng cố gắng như vậy. “Cảm ơn em,” nó nói, “I thiệt bực nếu còn phải đợi thêm một ngày nữa để chúng ta được gặp nhau.” “Em cũng vậy,” cô nàng nhắm mắt cạ đầu vào bàn tay nó trong lúc nó vẫn đang tiếp tục gãi gãi nơi quai hàm. “Ngoài ra, em cũng không nên đến trễ lễ đăng quang chứ hả? Ai sẽ là người…” Trước khi cô nàng hỏi xong, Eragon đã truyền hình ảnh của Orik sang. “A!” cô nàng thở phào, lộ rõ vẻ hài lòng. “Ông ta sẽ là một vì vua tốt.” “Anh cũng hy vọng vậy.” “Đã chuẩn bị Tảng ngọc Hình Sao cho em tu bổ chưa?” “Nếu người lùn còn chưa nối cái miếng nhỏ lại với nhau, anh chắc là ngày mai họ sẽ làm xong.” “Vậy là tốt rồi.” Cô nàng mở một mí mắt ra nhìn thẳng vào mắt nó. “Nasuada nói với em về âm mưu của Az Sweldn rak Anhûin. Anh lúc nào cũng đụng phải rắc rối lúc em không có ở đó.” Nó toét miệng cười, “còn lúc em ở đó thì sao?” “Em ăn thịt phiền phức trước khi phiền phức ăn thịt anh.” “Thiệt vậy sao. Vậy còn lần đám quái Urgals phục kích chúng ta ở Gil'ead rồi bắt giữ anh thì sao?” Một làn khói xả ra từ giữa hàm răng nanh của Saphira. “Lần đó không tính. Em lúc đó còn nhỏ, thiếu kinh nghiệm. Bây giờ thì không thể nào. Với lại anh bây giờ cũng không vô dụng như vậy.” “Anh có bao giờ vô dụng đâu,” nó phản đối. “Anh chỉ có địch thủ mạnh thôi.” Vì lý do gì đó, Saphira cảm t! hấy c�! �u cuối của nó rất buồn cười; cô nàng bắt đầu cười sằng sặc khiến Eragon cũng phá ra cười. Cả hai không thể dừng cười được cho tới khi Eragon nằm lăn ra đất hả họng ra lấy hơi, còn Saphira thì phải ráng kềm lại những tia lữa đang khịt ra từ lỗ mũi. Sau đó Saphira đánh ra một tiếng lạ mà Eragon chưa nghe bao giờ, một tiếng gầm gừ dựng lên kỳ cục, và nó cảm nhận được một cảm giác lạ lùng qua đường liên hệ của hai bên. Saphira lại làm ra tiếng đó một lần nữa, rồi lắc đầu một cái như muốn dẹp bỏ đi cái cảm giác bồn chồn trong bụng đó. “Trời ạ,” cô nàng nói. “Hình như em bị nấc cục rồi.” Eragon há họng ra giữ nguyên tướng đó một hồi rồi mới trở mình cười dữ hơn, nước mắt chảy ra luôn trên mặt. Mỗi khi sắp nín được, Saphira lại nấc một cái, đầu cô nàng gục gặc như quả lắc khiến nó lại cười đến thắt ruột. Cuối cùng nó đành lấy ngón tay bịt hai tai, ráng nhìn lên nóc và lặp lại tên các kim loại, đá quý mà nó có thể nhớ được. Sau khi đọc xong, nó mới hít một hơi dài rồi đứng dậy. “Đỡ chưa?” Saphira hỏi. Hai vai cô nàng rung lên vì một cơn nấc cục nữa. Eragon ráng cắn lười trả lời, “Đỡ rồi… Thôi đi, chúng ta đi tới Tronjheim. Em cũng cần uống chút nước rồi. Có lẽ sẽ giúp đõ được một chút. Rồi sau đó đi ngủ đi.” “Anh không chữa nấc cục bằng thần chú được à?” “Có thể được. Có lẽ được. Nhưng cả sư phụ Brom lẫn Oromis cũng chưa co! ́ chỉ ! anh thế nào.” Saphira lẩm bẩm ra vẻ hiểu, rồi lại tiếp tục bị nấc. Eragon càng phải cắn lưỡi chặt hơn chỉ đành nhìn xuống đôi ủng, “Thôi đi chứ?” Saphira đưa chân trước bên phải ra mời, Eragon lanh lẹ trèo lên lưng cô nàng rồi leo lên yên ghết ở ngay dưới cổ. Cả hai bay qua đường hầm về hướng Tronjheim, cả hai đều cảm thấy vui vẻ hạnh phúc vì được chia xẻ niềm vui bên nhau.

Chương 40 : Đăng quang

Tiếng trống của Derva vang lên, triệu tập tất cả người lùn của Tronjheim có mặt để tham dự lễ đăng quang của nhà vua mới. "Như thường lệ " Orik đã nói với Eragon vào đêm hôm trước " Khi các bộ tộc chọn ra một vị vua hoặc một nữ hoàng, hoàng thân này ngay lập tức thi hành quyết định, nhưng chúng tôi không tổ chức lễ lên ngôi trong ít nhất là ba tháng, bởi muốn để tất cả những ai muốn tham dự nghi lễ có thời gian để sắp xếp,hoàn thành công việc và hành hương về Farthen Dur từ những vùng xa xôi nhất nhất của vương quốc Chúng tôi không thường tập hợp tất cả thần dân trong vương quốc, nhưng khi chúng tôi làm vậy, những người hành hương này tổ chức rất nhiều sự kiện , các buổi yến tiệc và ca nhạc trong hàng tuần lễ, và với các trò câu đó, thi sức mạnh và các cuộc thi tài luyện kim, điêu khắc, cũng như các loại hình nghệ thuật khác … tuy nhiên nó khó hơn bình thường rất nhiều. Eragon đứng cạnh Saphira bên ngoài căn phònglớn ở trung tâm của Tronjhem, cố lờ đi tiếng trống ầm ĩ kinh khủng. Ở khu khác của đại sảnh rộng hàng dặm, cả trăm người lùn đang tụ tập ở cổng vòm của các tầng,nhìn săm soi vào Eragon và Sophira bằng những cặp mắt đen hình viên đạn. Cái lưỡi có ghạnh của Saphira tương phản hoàn toàn với những chiếc vẩy khi cô ả liếm mép. Đó là việc cô ả vẫn làm từ khi ngấu nghiến xong 5 con cừu to hết cỡ sáng sớm nay. Rồi ả giơ chân trái trước lên và bịt miệng. Mùi lông cừu cháy ám khắp ngươ! ̀i. Đừng sốt ruột nữa, Eragon nói, họ đang nhìn chúng ta kìa. Tiếng gầm khẽ phát ra từ Saphira. Em không thể làm được. Có lông dính ở kẽ răng của em. Bây giờ thì em nhớ ra là tại sao mình lại ghét ăn thịt cừu rồi. Thật kinh khủng, những thứ lông lá này tạo cho em mấy quả bóng bằng bông khó tiêu hóa. Anh sẽ giúp em làm sạch kẽ răng khi chúng ta xong chuyện ở đây. Chỉ cần giữ yên được đến lúc đó Hmph Có phải Blodhgarm đã đeo rong lửa trong mấy cái túi trên yên ngựa không? Nó sẽ làm cho dạ dày của em khá hơn. Em không biết Mmm. Eragon nghĩ một lát. Nếu không anh sẽ hỏi Orik nếu họ có tích trữ chúng trong kho ở Tronjhem, chúng ta nên … Nó tự ngừng lại khi nhịp cuối cùng của tiếng trống vừa dừng. Đám đông đã di chuyển và nó nghe thấy tiếng sột soạt khẽ khàng của quần áo và thỉnh thoảng tiếng xì xầm của vài nhóm người lùn. Hàng tá kèn lệnh trumpet vọng ra, vang khắp thành phố trong lòng núi với tiếng triệu tập háo hức, và ở đâu đó một đội hợp xướng người lùn bắt đầu cất giọng trầm bổng. Âm nhạc làm da đầu Eragon ngứa ran và nổi da gà , máu thì chảy nhanh hơn, như khi người ta dấn thân vào một cuộc đi săn cổ xưa. Saphira quét đuôi từ bên này sang bên khác, và nó biết rằng cô ả cũng có cùng cảm giác như vậy. Chúng ta đi thôi, nó nghĩ trong đầu. Cả hai, nó và Saphira tham gia vào cuộc khám phá căn phòng trung tâm của thành phố núi hòa mình giữa các tộc trưởng, những thủ lĩnh, và những nhân vật đáng kể khác bao quanh, trong c! ăn phò! ng cao chót vót Tại chính giữa của căn phòng, ngôi sao sapphire đang được tu sửa vẫn tọa lạc , bao quanh bởi bộ khung bằng cột gỗ . một giờ trước lễ đăng quang, Skeg đã gửi một lời nhắn đến Eragon nói rằng đội thợ thủ công của ông ta đã hoàn thành lắp ráp mảnh vỡ cuối cùng của viên ngọc lại với nhau và rằng Mitthrim đã sẵn sàng cho Saphira biến nó trở lại hoàn toàn như trước đây.

Ngai vàng bằng đá granite đen của người lùn đã được chuyển đến, từ vùng đất cổ đã chết sâu trong lòng đất Tronlhem và được đặt trên một chiếc bục bên cạnh ngôi sao sapphire, đối diện với nhánh phía đông của bốn con đường dẫn vào đại sảnh để phân biệt địa vị ở Tronjhem, hướng đông bởi vì đó là phương mặt trời mọc và biểu tượng cho bình minh của một thời đại mới, Hàng nghàn chiến binh người lùn ăn mặc những bộ giáp sắt sáng bóng đứng thành hai đạo lớn trước ngai vàng. Tương tự với thành hai dài hàng quanh cổng vào phía đông của đại sảnh và dọc mọi con đường dẫn tới cánh cổng phía đông Tronjhem cách đó 1 dặm. Rất nhiều chiến binh mag giáo cưỡi ngựa cầm cờ hiệu. Hvedra, vợ của Orik đứng đầu đám đông, sau buổi họp bộ tộc quyết định trục xuất Grimstborith Vermund được đưa ra. Orik đưa bà ta đi để đảm bảo cho việc đăng quang. Bà ta chỉ được ở lại Tronjhem vào sáng hôm đó. Trong nửa giờ đồng hồ, những người chơi kèn trumpet cứ mặc nhiên thổi mà không quan tâm đến tiếng hát của dàn hợp xướng. Thận trọng từng bước một, Orik tiến lại từ cổng Đông tới khu trung tâm của Tronjhem. Bộ râu của ông ta được chảy chuốt và uốn cong, ông đi một đôi ủng da thanh lich và cầu kì nhất với gót ủng như hai mũi giáo bạc, chiếc xà cạp lông màu xám, một chiếc áo sơ mi lụa tím sáng mờ ảo trong ánh đèn lồng, và khoác bên ngoài chiếc sơ mi là một bộ giáp dài, mỗi chi tiết đều được trang trí bằng bạch k! im nguyên chất. Một chiếc áo lông chồn được thêu gia huy của Durgrimst Ingeitum chảy dài sau lưng Orik và lết trên sàn nhà phía sau ông. Volund, cây búa chiến đấu của Korgan, vị vua đầu tiên của người lùn,đã được rèn lại , đeo bên eo , thắt lưng đính ngọc ruby. Bởi vì y phục quá cầu kì và bộ áo giáp của ông lộng lẫy, xung quanh Orik nom như đang phát sáng làm Ergon nhìn lóa cả mắt. Mười hai đứa trẻ người lùn đi theo sau Orik, sáu bé trai và sáu bé gái, hoặc cũng không hẳn vậy bới Eragon chỉ căn cứ vào kiểu tóc của chúng để đoán.Bon trẻ mặc những bộ quần áo chùng đỏ và nâu dát vàng,Mỗi đứa bưng trong lòng bàn tay một quả cầu bóng láng tinh tế đường kính khoảng 6 inche, mỗi quả cầu được làm từ một loại đá quý khác nhau. Khi Orik đến được tới trung tâm của thành phố, căn phòng được thắp sáng và bóng những chiếc đèn có hoa văn trang trí xuất hiện trên khắp mọi vật. Hơi lúng túng, Eragon liếc nhìn lên và kinh ngạc bắt gặp những cánh hoa hồng rơi lác đác từ đỉnh Tronjhem. Thật nhẹ nhàng,như một trận tuyết dày đặc, những cánh hoa mượt như nhung vương trên đầu và vai của tất cả mọi người tham dự, và dĩ nhiên phủ khắp mặt sàn, tràn ngập trong không trung với hương thơm ngào ngạt. Tiếng trumpet và dàn hợp xướng ngưng bặt khi Orik quỳ trước chiếc ngai vàng đen và cúi đầu . Đằng sau ông, mười hai đứa trẻ cũng dừng lại và đứng bất động. Eragon đặt bàn tay lên lớp da ấm áp của Sophira, chia sẻ với cô ả biết về mối quan tâ! m và th! ích thú của mình. Nó không đoán được việc gì sẽ diễn ra tiếp theo, vì Orik đã từ chối kể cho nó nghe về những phần nghi lễ về sau Nâng cây quyền trượng cao quá đầu bằng hai tay, Gannel nện nó xuống trên sàn đá tạo nên một tiếng động vang rền. "Hwatum il skilfz gerdûmn!" Ông ta hét lên, và tiếp tục nói bằng ngôn ngữ của những người lùn trong vài phút,Eragon khó mà nghe hiểu được toàn bộ, bởi nó ko đi cùng người lùn phiên dịch. Nhưng ngay sau đó, tông giọng tenor cao vút của Gannel thay đổi, và Eragon phát hiện ra rằng những gì ông ta đang nói thuộc về một loại ngôn ngữ cổ xưa, và nó nhận ra Gannel đang cố tạo một câu thần chú, nhưng không phải một câu thần chú mà Eragon quen thuộc. thay vì điều khiển bùa phép với đối tượng hoặc một nguyên tố của thế giới quanh chúng, người chủ tế đã nói bằng một thứ ngôn ngữ thần bí và đầy quyền lực: "Gûntera, Người sáng tạo ra thiên đường và trái đất và sự vô tận của đại dương, hãy lắng nghe tiếng khóc của bày tôi chân thành tận tụy của Ngài! Chúng tôi cảm ơn Người bởi lòng hào hiệp của Người, Nòi giống chúng con phát triển thịnh vượng.Hằng năm , chúng con vẫn thờ phụng Người hiến tế những con cừu đực khỏe mạnh nhất trong bày, và cả những hũ rượu mật ong thơm ngon cùng phần hoa màu thu hoạch, trái cây, rau tươi và ngũ cốc. Đền thờ của Người được xây dựng tráng lệ nhất trên vùng đất này, và không một kẻ nào có thể cạnh tranh được với sự vinh quang của Ng�! �ời. �! �i, Guntera hùng mạnh, vua của những vị chúa trời, hãy nghe lời cầu khẩn của con và chấp nhận thỉnh cầu của kẻ tiểu nhân này: xin hãy dành thì gian để bổ nhiệm cho một người lùn vĩ đại cai quản những vấn đề trần tục của chúng con. Người sẽ rủ lòng nhân từ để để ban tặng lời chúc phúc cho Orik, con trai của Thrifk, và để ủng hộ sự nối ngôi của ông?" Đầu tiên Eragon nghĩ, lời thỉnh cầu của Gannel sẽ không được hồi âm, nó cảm thấy không hứng thú với phép thuật của người lùn khi ông ta khấn xong. Tuy nhiên, ngay sau đó Saphira lại huých nó một phát và nói. Nhìn xem kìa. Eragon nhìn theo ánh mắt chăm chú của cô ả và , trên cao 30 feet, nó thấy một luồng không khí bao quanh những cánh hoa đang rơi: một lỗ hổng, có một khoảng chân không tại nơi những cánh hoa bị giữ yên trong không khí, như có một thứ gì đó vô hình chiếm lĩnh không gian. Lỗ hổng căng ra, vươn theo mọi hướng xuống sàn nhà, và chỉ có thể trông thấy được nhờ sự đinh hình của những cánh hoa như những đường nét của một sinh có cánh tay và đôi chân giống như một người lùn hay một con người hoặc một elf hay Urgal, nhưng với một tỷ lệ khác thường hơn bất cứ loài nào mà Eragon được biết. Khuôn mặt sát với bả vai, đôi tay đồ sộ giơ lủng lẳng quá đầu ngối và trong khi thân hình kềnh càng thì đôi chân lại ngắn và xiêu vẹo. Vị thánh sau đó nói, và giọng của ông ta như là tiếng nghiến của những phiến đá và như tiếng lướt của gió qua đỉnh núi khô cằn như tiến! g vỗ c! ủa sóng biển vào hang đá. Vị thần nói bằng thứ ngôn ngữ của người lùn, và Eragon không biết những gì đang được nói, nó bỡn cợt với sức mạnh trong những lời nói của vị thần này. Ba lần vị thần hỏi Orik, và ba lần Orik đáp lại, giọng nói của ông yếu ớt so với vị thần kia. Có vẻ, rất hài lòng với những câu trả lời của Orik, Vị thần quỷ quái mở rộng vòng tay trông rất sống động của mình và đặt ngón trỏ lên đỉnh đầu Orik. Không gian giữa các ngón tay của vị thần gợn sóng, và đỉnh trán Orik hiện lên chiếc mũ miệm dát vàng mà Hrothgar đã từng đội. Vị thần vỗ vào bụng mình và phát ra tiếng cười ồm ồm vang vọng rồi biến mất dần trong hư không. Những cánh hoa hồng tiếp tục rơi. "Ûn qroth Gûntera!" Gannel tuyên bố. Ồn ào và vô lối, tiếng trunpet lại vang lên. Từ từ đúng dậy, Orik bước lên bục, quay mặt lại với đám đông và sau đó ngồi chìm nghỉm trên chiếc ngai vàng đen bóng. "Nal, Grimstnzborith Orik!" Những người hô vang, vỗ những chiếc rùi vào tấm khiên và những cây giáo được gõ mạnh xuống sàn nhà "Nal, Grimstnzborith Orik! Nal, Grimstnzborith Orik!" " Xin được gửi lời chào tới vua Orik" Eragon hét lên. Căng ngực lên, Saphira rống to tỏ lòng tôn kính và phóng ra 1 cụm khói đen sì qua đầu mấy người lùn,thiêu rụi một vệt những cánh hoa hồng. Mắt Eragon nhòe đi khi luồng khói nóng phả vào người. Sau đó Gannel quỳ gối trước Orik và nói thêm một số điều bằng tiếng người lùn. Khi kết thúc, Orik đặt tay vào mái tóc cu�! �a ông t! a và rồi Gannel quay trở lại vị trí của mình trong gian phòng. Nado tiến lại gần ngai vàng và cũng nói cùng một điều tương tự, sau ông, dĩ nhiên là Manndrâth và Hadfala cùng tất cả các tộc trưởng khác, duy chỉ thiếu Grimstborith Vermûnd người đã bị trục xuất từ lễ đăng quang. Họ phải lấy chính mình ra để thề sẽ phục vụ Orik. Eragon nói với Saphira. Họ có tự nguyện nói những lời đó không? Aye, không hẳn là đa số. Eragon nhìn Thordis tiến về phía ngai vàng trước khi cất tiếng. Saphira, em có nghĩ là chúng ta đã trông thấy không? Đó có thể thực sư là Guntera hay chỉ là một ảo giác? Khả năng của ông ta dường như rất thật, và anh không biết làm cách nào mà có thể giả mạo được như vậy, nhưng … Đó có thể chỉ là ảo giác, cô ả nói. Những vị thần của người lùn không bao giờ giúp sức cho họ trên chiến trường hay bất kì sự trợ lực nào khác. Em dám chắc điều đó, Hoặc em không tin rằng một vị thần thực sự sẽ chạy đến vì lời triệu tập của Gannel như một con chó săn được huấn luyện . em không tin và có thể có vị thần nào vĩ đại hơn một con rồng chứ? … nhưng rốt cục, có rất nhiều điều khó lí giải ở Alagaësia. Có thể là chúng ta đã thấy cái bóng từ một thời đại rất xa xôi bị quên lãng, một tàn dư lờ mờ còn ám ảnh trên mảnh đất này, mong chờ sức mạnh quay lại với nó. Ai mà biết chắc được? Sau khi tộc trưởng cuối cùng trao lời thề cho Orik, các thủ lĩnh bộ lạc cũng tiếp tục như vậy, rồi Orik ra hiệu cho E! ragon. Th! ật chậm rãi và cẩn trọng, Eragon bước ra giữa hàng ghế các chiến binh người lùn đang ngồi, tiến tới thềm của ngai vàng và quỳ xuống, như một thành viên bộ tộc Durgrimst Ingeitum, thừa nhận Orik là vị vua của mình và thề sẽ phục vụ cũng như bảo vệ ông. Sau đó hành động như một sứ giả của Nasuada, Eragon chúc mừng Orik thay mặt Nasuada và Varden cũng như hứa hẹn với ông ta về tình hữu hảo của Varden. Một vài người khác bước tới và nói với Orik khi Eragon đã rút xuống, đó là một chuỗi liên miên dường như không dứt của những người lùn tha thiết bày tỏ lòng trung thành của mình với vị hoàng đế mới. Quá trình đó cứ tiếp diến đến vài giờ đồng hồ, và sau đó bắt đầu đến phần tặng lễ vật. Mỗi người lùn mang đến cho Orik một tặng phẩm của bộ tộc hay bộ lạc của mình: một chiếc ly có chân đế làm bằng vàng đựng đầy những viên ngọc ruby và kim cương, một bộ áo giáp được bỏ bùa để không thanh kiếm nào có thể xuyên thủng, một tấm thảm dài hai mươi feet được dệt bằng thứ lông mềm mại mà người lùn chọn lựa từ râu của những con dê sống ở Feldunost, một phiến đá mã não khắc tên tất cả tổ tiên của Orik, một con dao găm làm từ răng rồng,và rất nhiều bảo vật khác. Để đáp lại, Orik ban những chiếc nhẫn cho người lùn để biểu hiện sự cảm ơn. Eragon và Sahira là những người cuối cùng tiến đến trước Orik, Một lần nữa quỳ gối ở bậc thềm của ngai vàng, Eragon rút ra từ áo, một chiếc vòng ! đeo cô�! � tay mà nó luôn cất giữu cẩn thận từ cái đêm hôm những người lùn đã tặng nó. Nó nâng lên cao trước mặt Orik và nói " Đây là lễ vật của tôi thưa vua Orik. Tôi đã không làm ra đồ vật này nhưng tôi đã đặt vào đó một câu thần chú để bảo vệ ngài bất cứ khi ngài còn măc nó trên người, ngài sẽ không phải lo sợ bị hành thích. Nếu một kẻ ám sát dám đập hay chém ngài hoặc dùng bất cứ thứ gì đâm ngài, vũ khí đó sẽ bị trệch mục tiêu, Những thứ này thậm chí sẽ che chở cho ngài khỏi ma thuật của kẻ thù. Và nó sẽ là vật rất có ích mà ngài cần đến khi gặp nguy hiểm. Cúi đầu xuống , Orik nhận lấy từ Eragon và nói " Món quà của cậu là thứ đáng giá nhất, Eragon Khắc tinh của tà thần" Mọi cặp mắt đổ dồn về họ, Orik luồn nhẹ chiếc vòng vào tay trái. Saphira nói tiếp sau, để mở suy nghĩ của mình cho tất cả mọi người đang chứng kiến. Đây là món quà của tôi, Orik. Cô ả bước ra đằng sau ngai vàng, những móng vuốt cắm mạnh trên sàn nhà tạo thành tiếng lách cách, ngẩng đầu lên và chân trước vươn tới mép dàn giáo chống quanh ngôi sao sapphire. Cây gỗ xà gỗ chắc chắn oẳn lên dưới sức nặng của cô ả, nhưng vẫn còn chống được. Vài phút trôi qua không có chuyện gì xảy ra nhưng Sarphira vẫn đứng y nguyên tại chỗ, nhìn chằm chằm vào khối đá quý. Những người lùn dõi theo ả không hề chớp mắt, thở sâu khó nhọc. Em có chắc là mình làm được không? Eragon hỏi, bất tắc dĩ phá tan sự tập trung của cô! em rồ! ng. Em không biết. Em đã dùng phép thuật đến vài lần rồi, em không hề dừng để coi xem mình có đang tạo ra một câu thần chú hoặc là không. Em chỉ dồn toàn bộ ý chí để biến đổi nó, và em đã làm thế. Không sai một bước nào .. em chắc , em sẽ phải đợi cho đến lúc mình cảm nhận được nó để sửa lại Isidar Mithrim Để anh giúp. Hãy để anh sử dụng một câu thần chú qua em. Không, không được chút nào. Đây là việc của em, không phải của anh. Một âm thanh cất lên, nhỏ và trong trẻo, thoảng qua gian sảnh, khúc ca chậm rãi, một giai điệu buồn bã. Từng người một, những thành viên khác của đội hợp xướng dấu mặt cũng tham gia vào bài hát, Tronjham tràn ngập trong sự đau buồn của âm nhạc. Eragon sẽ đề nghị họ giữ im lặng nhưng Saphira nói. Cũng được thôi, hãy để họ như thế.

Mặc dù không hiểu dàn hợp xướng này hát những gì, Eragon có thể nói từ sắc thái của mình âm thanh đó đang than khóc cho những gì đã từng tồn tại và giờ không còn nữa, như ngôi sao sapphire. Khi bài hát đã đến phần kết, nó tự như thấy những suy nghĩ của chính mình về cuộc sống đã mất ở Palancar Valley, và những giọt nước mắt trào ra nơi khóe mắt. Thật kinh ngạc, nó cảm nhận thấy được giọng nói quen thuộc trầm ngâm u sầu từ phía Saphira. không đau khổ hay hay ân hận là một phần tính cách thường ngày của cô rồng này.bởi vậy nó ngỡ ngàng và không hề đạt câu hỏi với cô ả. Mặc dù nó nhận thấy sự kích động nào đó sâu sắc từ phía ả, như một sự thức tỉnh của phần nào đó lâu đời, cổ xưa có trong cô nàng. Bài hát kết thúc ở một quãng dài, nốt nhạc luyến cao, và nó như sự héo tàn của quên lãng. Một dòng năng lượng đang tràn lên phóng ra từ phía Saphira- rất nhiều năng lượng. Eragon há hốc mồm kinh ngạc trước cường độ của nó và cô ả vươn tới, chạm vào ngôi sao sapphire bằng chóp mũi. Các đường nứt trên phiến đá quý khổng lồ bừng lóe sáng rực rỡ như ánh chớp của tia sét, và sau đó dàn giáo cỡ tan và rơi xuống đất, để lộ ra Isidar Mithrim hoàn toàn và vẹn nguyên như cũ. Nhưng không hẳn là như cũ. Màu sắc của viên ngọc thắm hơn, nhiều sắc đỏ hơn trước , và những vân của cánh hoa hồng là những đường ngân bằng vàng tối màu. Những người lùn nhìn chằm chằm kinh ngạc trước Isidar Mithrim,! rồi họ dậm chân, phấn khởi và vẫy ta ca ngợi Saphira một cách hăng hái, tiếng người la hét rầm rập như một thác nước. Cô ả rồng quay đầu về phái đám đông rồi tiến lại Eragon, dẫm nát những cánh hoa hồng dưới chân. Cảm ơn, cô ả nói với nó. Vì điều gì? Vì đã giúp em. Sự xúc động của anh đã chỉ cách cho em, nếu không có chúng, em có thể sẽ phải ở đây vài tuần trước khi thấy đủ cảm hứng cho việc sửa chữa Isidar Mithrim Giơ hai tay lên, Orik chấn áp đám đông, rồi nói " Thay mặc cho toàn thể nòi giống của ta, ta xin cảm ơn ngươi về món quà, Saphira. Hôm nay ngươi đã khôi phục lại được niềm tự hào của vương quốc chúng ta. Chúng ta sẽ không bao giờ quên kì tích này. Không thể nói rằng hoàng thân này là người vô ơn, từ bây giờ và mãi mãi về sau, tên ngươi sẽ được truyền tụng trong thơ ca của lễ hội mùa đông, nằm cùng tên của những đấng sáng tạo, và khi Isidar Mithrim được trở lại về là viên ngọc của Tronohem, tên tuổi của ngươi dẽ được khắc lên vành đai của ngôi sao hoa hồng Star Rose cùng với Dûrok Ornthrond, người lùn đầu tiên tạc nên khối đá quý. Orik nói với cả Eragon và Saphira, " Một lần nữa các ngươi đã chứng tỏ tình hữu nghị của mình tới thần dân của ta. Nó làm ta hài lòng, bằng hành động của mình, các ngươi đã chứng minh cho quyết định của cha nuôi là đúng đắn khi nhận ngươi là con của Dûrgrimst Ingeitum." cuối cùng, sau vô số lễ hội tiếp theo sau lễ đăng quang, và sau khi Eragon giúp lấy những mớ lông mắ! c trong r! ăng của Saphira – một nhiệm vụ trơn tuột, nhày nhụa, và nặng mùi làm cho nó cần phải đi tắm ngay- Cả hai đứa đều được mời bữa yến tiệc danh dự của Orik. Một bữa ăn ồn ào, huyên náo và kéo dài suốt đêm. Những nghệ sĩ tung hứng và uốn dẻo mua vui cho khách mời, cùng với một đoàn kịch với những diễn viên nhảy một điệu gọi là Az Sartosvrenht rak Balmung, Grimstnzborith rak Kvisagûr, điệu mà Hûndfast đã nói cho Eragon biết có nghĩa là Chiến công của vua Balmung xứ Kvisagûr. Khi tiệc ăn mừng đã tàn vài và hầu hết những người lùn đã say bí tỉ, Eragon đi vòng về phía Orik, đang ngồi ở góc đầu chiếc bàn bằng đá và nói " Tâu bệ hạ" Orik vẫy một tay :" đừng gọi tôi như thế, cứ tâu bẩm bệ hạ suốt ngày, Eragon à, đừng có làm như thế, nếu như không cần thiết. gọi tên của tôi là được rồi, như kiểu cậu vẫn dùng ấy, đấy là 1 lời đề nghị " Ông ta với lấy chiếc ly rượu của mình nhưng bị trượt, và gần như đánh phăng chiếc cốc ra xa. Ông ta cười. Eragon cười nói" Orik, tôi phải hỏi, Gûntera, người đã làm lễ trao vương miện cho ông, ông ta thật ra là người thế nào?" Cằm của Orik cắm cả xuống ngực, và các ngón tay chặn chiếc cốc, nét mặt trở nên nghiêm túc "Gûntera gần như là thứ mà chúng ta chưa bao giờ từng thấy trên trái đất này. Đó có phải là câu hỏi của cậu không Eragon?" " Tôi … tôi nghĩ rằng, Có phải ông ta luôn đáp lại khi được thỉnh cầu không? Ông ta đã bao giờ từng cự tuyệt đăng quang cho một trong! những! người cai trị?" Một cái nhíu mày rất hẹp của Orik " Cậu đã từng nghe về những vị vua và nữ hoàng của Heretic trước đây chưa?" Eragon lắc đầu. "Họ là những thân vương không có được lời ban phúc của Gûntera với tư cách là người kế vị tiếp theo mà vẫn khư khư ôm lấy ngai vàng," Môi Orik cong lên " Không có ngoại lệ, triều đại của họ đều rất ngắn và bất hạnh" Ngực Eragon dường như thắt lại "vậy, thậm chí cuộc họp các bộ tộc chọn được người lãnh đạo, nếu Gûntera không trao vương miện cho ông thì giờ ông sẽ không phải là vua?" "Là như thế hoặc tôi sẽ là một ông vua của những cuộc xung đột nội bộ" Orik rụt vai " Tôi không lo lắng về chuyện đó. Cùng với Varden chống sự xâm lược của Hoàng đế, chỉ có một tên điên mới mạo hiểm phá hủy bình yên của đất nước mình chỉ để đơn thuần là đưa mình lên ngai vàng, và Gûntera có thể là rất nhiều thứ,nhưng ông ta không phải người điên" "Nhưng ông không biết chắc" Eragon nói. Orik lắc đầu " Không cho tới khi ông ấy trao quyền lãnh đạo đặt lên đầu tôi"

Chương 41 : Những Lời Vàng Son

“Xin lỗi,” Eragon nói vừa lúc đụng tới bồn nước. Nasuada cau mày, mặt nhăn lại dài ra như một gợn nước đánh trên mặt hồ. “Vì chuyện gì chứ?” cô hỏi. “Tôi tưởng phải nên chúc mừng anh mới đúng. Anh đã làm được nhiều hơn chuyện mà tôi nhờ anh đi làm.” “Không, tôi…” Eragon khựng lại vì nhận thấy cô không thấy được những khuấy động trong nước. Thần chú khiến tấm kiếng của Nasuada có thể nhìn rõ ràng nó và Saphira nhưng không rõ những vật khác. “Tôi dùng tay đụng phải bồn nước rồi, có vậy thôi.” “Ồ. Nếu vậy, để tôi chính thức chúc mừng anh, Eragon. Bằng cách bảo đảm ông Orik trở thành vua…” “Cho dù là bản thân tôi bị tập kích?” Nasuada mỉm cười. “Đúng vậy, cho dù khiến bản thân anh bị tập kích, anh vẫn phải giữ quan hệ với người lùn, và điều này chính là yếu tố quyết định thành bại. Câu hỏi hiện giờ là, bao lâu thì số quân còn lại của người lùn có thể tham chiến với chúng ta?” “Ông Orik đã ra lệnh cho quân sĩ chuẩn bị xuất binh,” Eragon nói. “Họ có lẽ cần vài ngày để tập họp toàn quân, nhưng một khi xong, họ sẽ hành quân ngay lập tức.” “Vậy cũng tốt. Chúng ta cần sự giúp đỡ của họ càng sớm càng tốt. Nhắc tới mới nhớ, khi nào thì bọn anh quay về với chúng tôi? Ba ngày? Bốn ngày?” Saphira vẫy vẫy cánh, hơi thở nóng thổi ngay sau gáy của Eragon. Eragon liếc nhìn cô nàng rồi cẩn thận nói: “Tùy thuộc. Cô còn nh�! �́ cuộc bàn thảo trước khi tôi ra đi không?” Nasuada mím môi. “Dĩ nhiên nhớ, Eragon, tôi…” Cô nhìn sang hình ảnh bên cạnh lắng nghe lời của một người đàn ông khác, giọng của ông ta thầm thì nhỏ khiến Eragon và Saphira không nghe được. Quay trở lại bọn họ, Nasuada nói: “Đoàn quân của chỉ huy trưởng Edric đã trở về. Bọn họ bị tử thương nghiêm trọng, nhưng lính gác cho hay Roran vẫn còn sống.” “Anh ta có bị thương hay không?” Eragon hỏi. “Tôi sẽ cho anh biết khi hay tin mới. Hiện giờ thì cũng không nên lo lắng quá. Roran có vận may của…” Lại một lần nữa, một tiếng nói khác khiến Nasuada lo ra, rồi cô bước ra khỏi tầm nhìn. Eragon có chút bồn chồn trong lúc chờ. “Cho tôi xin lỗi,” Nasuada nói, vẻ mặt của nàng lại hiện lên trên bồn nước. “Chúng ta đã tới gần Feinster, hiện giờ đang phải chống chọi với đám lính cướp bóc do phu nhân Lorana gởi đến từ thành thị để làm khó dễ chúng tôi… Eragon, Saphira, chúng tôi cần các vị cho cuộc chiến này. Nếu người dân Feinster chỉ thấy có chúng tôi, người lùn, giống Urgals tụ binh ngoài thành, bọn họ vẫn còn có niềm tin sẽ giữ vững được thành và sẽ chiến đấu dũng mãnh hơn. Đương nhiên là họ sẽ không giữ được điều mà đến giờ họ vẫn chưa nhận thức được. Nếu họ thấy một con rồng và một Kỵ Sĩ cầm đầu ba quân tấn công, đương nhiên là họ sẽ mất hết ý chí.” “Nhưng…” Nasuada giơ tay lên ngắt ngang nó. “Còn có lý do khác để cho các vị ! quay vê�! � nữa.. Vì các vết thương từ sau vụ thử Trường Kiếm, tôi không thể lên ngựa ra trận với người Varden như trước. Tôi cần các vị ngồi vào chỗ của tôi, Eragon, để có thể đem mệnh lệnh của tôi ban ra và cũng đồng thời nâng cao sĩ khí. Còn nữa, tin đồn các vị vắng mặt đã lan tràn khắp trại, cho dù chúng tôi có gắng bưng bít cách nào đi nữa. Nếu Murtagh và Thorn trực tiếp tấn công vì việc này, hoặc nếu Galbatorix gởi quân chi viện cho Feinster… chỉ sợ, ngay cả có các thần tiên bên cạnh, tôi nghi ngờ khả năng chống giữ bọn họ. Tôi xin lỗi, Eragon, nhưng tôi không thể cho phép anh quay lại Ellesméra bây giờ. Hiện giờ tình thế nguy hiểm quá.” Nhấn tay lên bàn đá lạnh buốt đang giữ cái bồn nước, Eragon nói, “Nasuada, làm ơn đi. Nếu không bây giờ thì khi nào?” “Sớm lắm. Anh phải kiên nhẫn một chút.” “Sớm lắm.” Eragon hít một hơi dài, xiết chặc nắm tay trên bàn. “Sớm cỡ nào?” Nasuada cau mày nhìn nó. “Anh biết là tôi không biết mà. Trước tiên chúng ta phải lấy được Feinster, sau đó khoá chặc vùng nông thôn, rồi…” “Rồi sau đó cô sẽ tấn công Belatona hay Dras-Leona rồi tới Urû'baen.” Eragon nói. Nasuada muốn trả lời nhưng nó không cho cô ta cơ hội. “Càng tới gần Galbatorix thì cơ hội bị Murtagh và Thorn tấn công cao hơn hoặc ngay cả vua cũng sẽ tham chiến, đến lúc đó thì cô lại càng khó lòng để chúng tôi đi… Nasuada, Saphira và tôi không có đủ pháp thuật, trí tuệ và sức lực để giết Galbatorix. ! Cô biế! t điều này mà! Galbatorix có thể chấm dứt cuộc chiến bất cứ lúc nào nếu hắn chịu rời lâu đài của hắn và tấn công trực tiếp người Varden. Chúng tôi cần phải nói chuyện với các vị sư phụ lại. Họ có thể cho chúng tôi biết pháp lực của Galbatorix là từ đâu mà ra, và họ có thể chỉ thêm một hai chiêu cho chúng tôi để có thể đánh bại hắn.” Nasuada nhìn xuống đất, ngắm ngía hai bàn tay. “Thorn và Murtagh có thể tiêu diệt chúng tôi lúc hai người bỏ đi.” “Nếu chúng tôi không bỏ đi, Galbatorix sẽ tiêu diệt chúng ta khi tới Urû'bae… Cô có thể chờ vài ngày trước khi tấn công Feinster không?” “Được, nhưng mỗi ngày chúng tôi còn cắm trại ngoài thành sẽ tốn nhiều nhân sĩ lắm.” Nasuada dùng gót bàn tay xoa xoa hai bên thái dương. “Điều anh muốn sẽ rất hao tốn cho một giải pháp không chắc chắn đó Eragon.” “Giải pháp này có thể không chắc chắn,” nó nói, “nhưng sự tận vong của chúng ta là không thể tránh khỏi nếu không thử.” “Thật không? Tôi không chắc lắm. Nhưng mà…” Một khoảng thời gian dài khó chịu trôi qua mà Nasuada vẫn im lặng nhìn quá khỏi hình ảnh trước mặt. Cuối cùng cô cũng gật đầu một cái, như quyết định một việc gì rồi nói: “Tôi có thể trì hoãn việc tấn công Feinster khoảng hai hay ba ngày. Có vài thị trấn khác trong vùng mà chúng tôi có thể nắm giữ trước. Một khi tới được thành thị, thì có thể qua thêm hai ba ngày nữa chờ người Varden chế tạo các máy c! ông tha�! �nh và các công cụ trấn thủ. Chắc không có ai lấy làm lạ đâu. Sau đó thì tôi bắt buộc phải đánh Feinster, không lý do gì khác ngoại trừ chúng tôi cần kho lương thảo của bọn họ. Một đoàn quân vẫn còn trong lãnh thổ của kẻ thù là một đoàn quân đói. Cao nhất là tôi có thể cho anh sáu ngày, và có lẽ chỉ được bốn ngày thôi.” Cô ta vừa nói xong Eragon đã nhẩm tính lẹ trong đầu, “Bốn ngày thì không đủ,” nó nói, “sáu cũng có lẽ không xong. Saphira cần ba ngày không ngủ mà không phải chở tôi để bay tới Farthen Dûr. Nếu bản đồ tôi có là chính xác thì khoảng cách tới Ellesméra cũng cỡ đó hoặc hơn, tương tự như từ Ellesméra về lại Feinster. Nếu phải chở tôi, Saphira sẽ không có khả năng bay xa lẹ như vậy được.” “Không, em không làm được đâu,” Sophira nói với nó. Eragon tiếp tục: “Dưới tình huống tốt nhất, chúng tôi vẫn cần một tuần để gặp lại mọi ngưòi ở Feinster và đó là chỉ tính không ngừng lại phút nào tại Ellesméra.” Một vẻ mệt mỏi chán chường phủ lên mặt Nasuada. “Anh có cần phải bay tới tận Ellesméra không? Một khi qua khỏi cấm chế quanh Du Weldenvarden anh có đủ điều kiện để bói thủy tinh cầu với các vị sư phụ hay không? Bớt được chút thời gian nào rất là quan trọng.” “Tôi không biết nữa. Chúng tôi sẽ cố gắng.” Nasuada nhắm mắt một lúc lâu. Bằng giọng khàn khàn cô nói: “Chúng tôi có thể trì hoãn hành quân tới Feinster khoảng bốn ngày… Có đi Ellesméra hay không tôi ! sẽ đê! ̉ cho anh quyết định. Nếu phải đi thì nên ở đó cho đến khi xong chuyện. Anh nói đúng, trừ khi có cách đánh bại Galbatorix, còn không thì chúng ta không có hy vọng chiến thắng. Cho dù vậy, xin luôn nhớ về sự mạo hiểm kinh khủng mà chúng tôi đang lãnh, những mạng người Varden mà tôi phải hy sinh để giành thêm thời gian cho anh, và bao nhiêu nhân mạng Varden nữa sẽ chết nếu chúng tôi tấn công Feinster mà không có anh.” Eragon ủ rủ gật đầu. “Tôi sẽ không quên đâu.” “Tôi hy vọng là vậy. Thôi đi đi! Đừng chậm trễ nữa. Bay! Bay! Hãy bay lẹ hơn chim ưng lao đầu tìm mồi Saphira và đừng để bất cứ chuyện gì làm các vị chậm lại.” Nasuada lấy đầu ngón tay chạm vào môi rồi lại dùng ngón tay đó điểm lên mặt vô hình của tấm kiếng, nơi nó biết là đang giữ hình ảnh của nó và Saphira. “Chúc may mắn đến với cuộc hành trình của hai vị, Eragon, Saphira. Nếu chúng ta còn gặp mặt, lần sau sợ rằng là ở trên chiến trường rồi đó.” Rồi cô rời khỏi tầm nhìn của họ, sau đó Eragon giải bò thần chú và mặt bồn nưóc lại trở nên trong veo.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét