VH-ebook Project (VH-eP) xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc chế bản ebook FRANZ VÀ CLARA của tác giả PHILIPPE LABRO
Đây là một trong những dự án chế bản ebook mà VH-Project (VH-P) muốn gửi đến tất cả những bạn yêu thích sách, đặc biệt là những người không có điều kiện đọc những ấn phẩm sách thông thuờng. Tuy nhiên trong khả năng có thể, hãy mua và thưởng thức sách như một sự tôn trọng với các nhà xuất bản.
Ebook được thực hiện bởi thành viên VH-P, với mong muốn mang đến những tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật, nhân văn và giải trí cho tất cả những người yêu sách.
VH-ebook project là nhóm chế bản ebook của VH-P, hoạt động hoàn toàn phi lợi nhuận, mục đích muốn chia sẻ niềm đam mê sách với tất cả những người cùng sở thích. Với Tính mở rộng và tương tác cao, hoạt động trên nguyên tắc: Khi bạn là thành viên của VH-eP bạn sẽ làm chủ cho dự án sách riêng của mình với sự góp sức chế bản của tất cả các thành viên trong nhóm. Chỉ cần bạn có nguồn sách hãy tham gia với chúng tôi.
Ebook này sẽ được VH-P đăng tải trên các diễn đàn văn học mạng. Bất kỳ hình thức sao lưu, sử dụng làm bài viết, tư liệu hay đăng trên các diễn đàn, yêu cầu giữ nguyên nội dung cũng như ghi rõ nguồn cung cấp và nhóm chế bản ebook như một sự tôn trọng đối với những người thực hiện.
VH-Project rất mong các bạn tham gia và đóng góp ý kiến để chúng tôi có hoàn thiện hơn trong các dự án tiếp theo. VH-Project luôn luôn chào đón bạn gia nhập thành viên, để cùng nhau mang đến những chế bản ebook hay cho mọi người.
VH-Project
DỰ ÁN EBOOK 16: FRANZ VÀ CLARA
Ebook được thực hiện bởi các thành viên VH-Project:
Chụp ảnh: Hai An
Đánh máy: Iris, PoloPaLa, Kaim184, Tyty1803, Đậu Linh, Trang Phan, thanhhoa_matgau, Nerissa, Biu Rua, minh_trang2905, apple-socola, Duyen Vo.
Soát lỗi & Chế bản ebook: Hai An
Ngày hoàn thành: 27/4/2010
http://www.facebook.com/vhproject
Tiểu thuyết: FRANZ VÀ CLARA
Tác giả: PHILIPPE LABRO
Dịch giả: Huy Minh
Nhã
Số trang: 236
Hình thức: Bìa mềm
Kích thước: 12×20 cm
Ngày xuất bản: 12 – 2009
Trọng lượng: 240 gram
Giá bán: 38.000 VNĐ
Giới thiệu nội dung:
Một cậu bé lên tám đem lòng yêu một nữ nhạc công hai mươi tuổi. Thứ tình cảm tưởng chừng như trẻ con và vô lý ấy đã khiến Clara, nữ nhạc công, chọn giải pháp bỏ đi. Nhưng cô chẳng thể ngờ, sự đoạn tuyệt của ngày hôm qua đó lại là điểm khởi đầu cho một tình yêu thực sự trong cô mười năm sau…
Câu chuyện về Franz và Clara đã được Philippe Labro kể trên nền nhạc cổ điển lúc êm dịu, khi dằn vặt, lúc bùng nổ, khi bay bổng – như chính những sự kiện, những khoảnh khắc, nhưng xúc cảm làm nên cuộc tình kỳ lạ giữa hai nhân vật chính. Với Franz và Clara, tình yêu có cơ hội để hiện lên rõ rệt hơn: một sự kết hợp không thể tách rời giữa cảm xúc đồng điệu, và bên bỉ. Sự kết hợp một khi đã thành hình sẽ phá tan mọi rào cản, khoảng cách, tháng năm – trở thành một điều kỳ diệu vượt ra ngoài biên giới của ngôn từ.
Những đánh giá về tác phẩm:
"Franz và Clara là bằng chứng sinh động cho khả năng khai thác thành công các đề tài phong phú và thú vị của Philippe Labro – một trong những nhà văn có nhiều sách xuất bản nhất nước Pháp hiện nay."
- Le Figaro
"Với Franz và Clara, Labro đã dệt nên một thiên tình sử kỳ diệu, làm hài lòng những ai vẫn luôn đấu tranh để thoát khỏi cuộc sống cam chịu và buồn tẻ."
- Lire
"Một cuốn tiểu thuyết êm dịu, đậm chất trữ tình và cảm động sâu sắc."
"Franz và Clara là câu chuyện tình tuyệt đẹp, nó diễn ra đúng như người ta hẳn sẽ mong nó diễn ra."
- http://www.critiquesdelivres.com
Philippe Labro sinh năm 1936 tại Montauban, là nhà văn, nhà báo, ngoài ra ông còn làm truyền hình, đạo diễn phim và viết lời bài hát. Năm mười tám tuổi, Philippe Labro lên đường sang tiểu bang
Được khơi nguồn cảm hứng từ vốn kinh nghiệm cùng những quan sát của mình, Philippe Labro viết nhiều tác phẩm mang tính chất tự truyện. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự tại Angérie, năm 1967, ông viết Des feux mal éteints ( Những ngọn lửa chưa dập tắt), năm 1986, ông giành giải thưởng Interallié với cuốn L'Étudiants étranger (Sinh viên nước ngoài) viết về thời đi học tại Mỹ. Thành công nối tiếp thành công, Um été dans l'Ouest (Một mùa hè ở miền Tây) viết năm 1988 được nhận giải thưởng Gutenberg. Trong số các tác phẩm của Philippe Labro, phải kể đến bộ ba tiểu thuyết rất thành công, Dưa chuột bao tử trộn sô cô la, Manuella và Franz và Clara. Đây được coi là bộ tiểu thuyết dành cho tuổi niên thiếu với những cảm xúc, suy tư, khúc mắc đầu đời đầy phức tạp nhưng cũng hết sức đáng yêu, sâu sắc.
Tặng Franҫoise
"Tình yêu là điều diễn ra
giữa hai người yêu nhau."
Roger VAILLAND
MỞ ĐẦU
Vừa mới đây, khi đưa mắt khỏi cuốn sách đang đọc, qua ô cửa kính mở về phía rừng, tôi thấy một cánh bướm trắng thoảng qua không gian. Nó xoay tít.
Bướm không bao giờ bay thẳng; vì quá nhẹ, nó không thể duy trì một đường liên tục. Thế là nó làm bất cứ gì, như tất cả những con bướm khác, tức là dập dờn từ trên xuống dưới, từ trái sang phải. Tuy nhiên, chúng ta biết rõ rằng chẳng loài nào, dù bay hay không, thực sự "làm bất cứ gì" bao giờ. Mỗi loài tiến hóa theo một hành trình định trước và tuân thủ theo một dự định, con bướm này cũng có một dự định như thế: thực ra, liệu có phải nó bay đi đâu đó, tìm kiếm cái gì đó? Nhưng cũng có thể nó chẳng kiếm tìm điều gì, và chỉ thoảng qua, nó là hiện thân hoàn hảo cho sự phù du của vạn vật.
Không kém phần mỏng manh hơn một bông tuyết rơi trên tuyết, hay một cánh hoa anh đào chao lượn trước gió, phía trên một lòng sông. Không kém phần mỏng manh hơn, nhưng cũng không kém phần rõ ràng hơn: mỗi khoảnh khắc của cuộc sống để lại dấu ấn trong chúng ta, vào thời điểm nó lướt qua ta.
Tôi tự hỏi liệu cái tạo vật màu trắng trên nền rừng xanh lá ấy có thể xuất hiện lần nữa không, liệu cánh bướm có trở lại trong tầm nhìn của tôi không, liệu nó có vuốt ve làn không khí thêm lần thứ hai không. Nó đã không làm thế. Tôi nghĩ rằng chuyến ghé qua ngắn ngủi của nó giống như giai đoạn này trong cuộc đời tôi khi tôi gặp một người, trẻ hơn tôi, người ấy hoàn toàn không còn là một đứa trẻ, nhưng chắc chắn chưa phải một người đàn ông, và người ta chỉ có thể gọi là thiếu niên. Franz, cậu bé trên ghế băng, với một chiếc túi giấy mồi nhỏ đặt bên cạnh.
PHẦN ĐẦU
1
Cậu ấy bước vào cuộc đời tôi giữa một ngày giống bao ngày khác tôi đã trải qua kể từ khi trái tim tan vỡ.
Tôi nhớ từng chi tiết: cái sắc xám xịt nhưng lại khiến người ta yên lòng của mặt nước hồ, và cả bầu trời cũng như vậy; những cánh chim vút lên cùng tiếng kêu của chúng phía trên đám cây đoạn và cây keo bên lối đi dạo chạy dọc bờ sông; âm thanh vẳng lại từ phía xa, xa xôi và yên bình và càng tiến đến gần bến tàu càng nhè nhẹ lớn dần lên, đó là tiếng động cơ tuabin của chiếc tàu hơi nước cũ kỹ đưa dân ở đầu Nam hồ nước, nằm cách đây bốn mươi kilômét, tới trung tâm thành phố lớn – và tôi nhớ chuyện con tàu màu trắng vàng ấy mỗi lần cập bến, dù đều đặn và đúng giờ, gây nên cảnh tượng xáo động có tổ chức cùng vẻ bồn chồn có chừng mực trên bến tàu như thế nào. Đám người đang chờ đợi những người mới đến đan cài vào dòng người bước xuống tàu để đi theo chiều ngược lại; một cặp nhân viên giữ hành lý trong bộ đồng phục xanh lam pha đỏ, tôi như thấy lại cái viền trắng trên chiếc mũ vải thủy thủ cả họ; những người bán kẹo, cô gái hàng hoa, anh bán dạo và, trên tất cả là những hồi còi kéo dài không ngớt của chiếc tàu chở khách. Cùng với âm thanh xưa cũ và quen thuộc, thứ âm thanh không quá chói tai, không quá trầm lặng ấy, những hồi còi mang theo mình mọi hoạt động, thói quen và chuyển động khác của thành phố.
Giống như một chiếc đồng hồ công cộng đổ chuông báo giờ trên quảng trường, tiếng còi của chiếc tàu hơi nước cũ kỹ ghi dấu bước đi của thời gian và chuyển động của ngày. Tôi không bao giờ thấy lại chính xác âm thanh của hồi còi ấy. Nó khắc sâu vào tôi như tiếng vĩ lướt trên dây đàn violon đầu tiên mà bố tặng tôi khi tôi mới chỉ là một cô bé.
Đó là một ngày mùa xuân đẹp trời, bầu trời xanh thẳm điểm vài gợn mây xám, những gợn mây vô hại. Chúng chắc hẳn chẳng làm ngày thay đổi gì, cũng không che lấp được mặt trời đang khiến những tấm đá bảnh trên các mái nhà lấp lánh và làm những máng kim loại màu sữa ánh lên, những máng nước ấy chạy dọc các ngôi nhà lâu đời trong khu phố cổ của thành phố, nằm phía bên kia đường tàu điện. Bầu không khí thật êm dịu, không chút ẩm ướt, một làn gió nhẹ mơn man thổi xuống từ trên núi, nơi người ta có thể thấy rõ những khúc uốn lượn, đám cây lãnh sam và những đỉnh núi trắng xóa.
Từ khi trái tim tan vỡ, tôi không còn chịu nổi giờ ăn trưa trong căngtin dành cho các thành viên dàn nhạc gồm nhạc công, phụ tá, trợ lý đạo diễn, kỹ thuật viên. Tôi vẫn có thể làm việc được giữa họ chẳng khó khăn gì ngay từ lúc ngồi vào chỗ, đặt hộp đàn violon màu đen dưới chân, ở giá nhạc thứ ba hàng thứ ba của cung vòng tròn bao quanh cái bục nơi nhạc trưởng đứng chỉ huy. Diễn tập, chơi lại, nghe, hòa âm, chỉnh sửa, trở đi trở lại một khuôn nhịp hay một đoạn nào đó chừng nào còn cần thiết, rồi ít nhất một lần trong các buổi diễn tập, biểu diễn một mạch từ chương đầu tiên cho đến chương cuối cùng, một lần duyệt tổng thể, tất cả những điều này đều ổn với tôi. Chúng giúp tôi quên đi. Nhưng, quay lại với nhịp sống hàng ngày, bên ngoài phòng nhạc, tôi khó mà che giấu được nỗi buồn của mình. Tôi tưởng tượng ra rằng các bạn đồng nghiệp nhận thấy điều đó và đang nhìn tôi. Có lẽ họ đang bàn tán hay cười cợt về chuyện ấy. Tôi tự cô lập mình. Vì thế, ngay khi có thời gian rảnh, tôi liền ra ngoài. Phòng hòa nhạc trong tòa nhà dành cho dàn nhạc nằm bên bờ hồ. Chỉ cần đi khoảng một trăm mét là tới được đó.
Tôi thường tới ngồi trên chiếc ghế băng gần hồ nhất. Tôi luôn chọn cùng chiếc ghế ấy, như thể việc tìm lại được vẫn khung cảnh mặt hồ ấy, đưa mắt nhìn vẫn chuyến tàu có động cơ tua bin đến từ Vitznau ấy, chặng đường cuối cùng trong hành trình chậm chạp của nó, có thể là phương thuốc cho sự yếu đuối trong tôi. Tôi ngồi ở đầu phải băng ghế, đối diện mặt nước, thưởng thức một trái táo hay một quả chuối, đôi khi là những chiếc bánh quy mà tôi mang theo cùng một chai nước khoáng nhỏ. Lúc đó khoảng mười hai giờ rưỡi trưa, tôi biết mình có một giờ đồng hồ, có thể là hơn thế một chút, trước khi phải quay lại phòng nhạc. Quãng thời gian được ở một mình, không phải suy nghĩ và tránh né ánh mắt của những người khác.
Cũng như thế, vào một ngày đầu xuân đẹp trời, khi tiến về nơi mà cuối cùng tôi cũng đã coi như "chiếc ghế băng của mình", tôi nhận ra có ai đó đã ngồi đấy rồi, không phải vào chỗ của tôi – tôi luôn ngồi ở cũng một đầu ghế – mà vào đầu bên kia, đầu bên trái.
Điều ấy làm tôi ngạc nhiên và có phần nổi cáu. Người ta đã xâm chiếm lãnh thổ bí mật của tôi. Tôi định đi tìm một chiếc ghế khác còn trống, nhưng tôi đã quá quen với nơi ấy, nơi mà dù không nhận ra song tôi đã biến nó thành một điểm thân thuộc, nơi tôi lãng quên mọi thứ trong hiện tại, đến mức tôi không thể quyết định quay bước. Khi ngồi ở đó, tôi mở ra cánh cửa vô hình của một căn phòng vô hình, bên trong tôi tìm thấy một chút gọi là thanh thản. Chỉ vài giây là đủ để sau khi ngồi xuống, đưa mắt nhìn chuyển động yên bình của làm nước yên bình nơi mặt hồ yên bình ấy, tôi có thể quên đi rằng trái tim mình đang tan vỡ, quên đi người đã làm tan vỡ trái tim tôi.
Khi lại gần băng ghế, tôi nhận ra bóng dánh mà từ xa tôi tưởng là của một người lớn gần với bóng dáng một thanh niên hơn. Tôi càng tiến lại gần bóng dáng ấy càng trẻ ra, giảm dần cả về chiều cao lẫn bề ngang. Đó là một cậu bé. Cơn tức tối trong tôi dịu dần, rồi mất hẳn. Tuy nhiên, vì muốn chứng tỏ sự xa cách của mình với người mà tôi coi là kẻ không mời mà đến, tôi ngồi xuống không cố ý nhìn mặt cậu ta, hướng ánh mắt về phía hồ nước. Tôi có cảm tưởng, từ phía bên kia, cậu bé không cử động và cũng đang lặng ngắm mặt nước sẫm màu mênh mông. Hẳn cả hai chúng tôi đều có vẻ tinh quái, bất động trong bầu không khí im lặng giả tạo, nhưng chuyện đó chỉ kéo dài vài giây. Tôi cảm thấy cậu ấy nói bằng một giọng trong sáng, không phải giọng của một đứa trẻ, nhưng cũng chưa phải giọng của một người lớn:
- Tôi hy vọng không làm phiền chị nếu cùng chia sẻ khoảng không gian của chị. Rõ ràng là hôm nay tôi đến đây trước chị, nhưng tố biết rất rõ cái ghế này thuộc về chị. Tôi hy vọng điều đó không làm phiền chị.
Tôi quay sang phía cậu ta.
- Dĩ nhiên là không, tôi nói, nhưng làm sao mà câu biết được điều ấy?
Cậu không trả lời mà mỉm cười. Phải một thời gian sau tôi mới hiểu ra rằng cậu không bao giờ trả lời trực tiếp vào câu hỏi mà người ta đặt cho cậu. Chúng tôi nhìn nhau, tôi một thiếu nữ, cậu ấy một cậu bé, cậu hẳn mới mười hai tuổi, không hơn – còn tôi hai mươi.
- Tôi chuẩn bị ăn trưa, tôi nói với cậu. Tôi nghĩ cậu cũng thế.
2
Cậu ấy có nụ cười cũng trong sáng như giọng nói. Cậu lại cười một lần nữa như để cho chính mình và chìa ra trong bàn tay trái một túi giấy nhỏ màu nâu, rồi lấy từ đó ra hai chiếc sandwich được bọc giấy nhôm cẩn thận.
- Chúc ngon miệng, cậu nói với tôi.
Điều đó khiến tôi buộc phải lôi từ túi xách tay ra một quả táo và những thứ làm nên bữa trưa đạm bạc của mình. Và việc này giống như thể chính cậu nhóc ấy đã quyết định thời gian thảnh thơi của chúng tôi diễn ra như thế nào và chúng tôi sẽ cùng nhau chia sẻ nó, bên hồ nước.
Giờ thì tôi có thể nhìn kỹ cậu ấy. Cậu có khuôn mặt đăm chiêu, với cảm giác mâu thuẫn vừa ngây thơ vừa hiểu biết mà bọn trẻ đôi khi vẫn gợi ra. Vầng trán rộng, đôi mắt xanh ngả vàng dưới cặp mắt đen, mọc lộn xộn, gò má khá cao, chiếc mũi thẳng, bầu ám phẳng phiu bị nụ cười làm cho nhăn lại khi cậu quyết định cười, và thế là, mỗi bên mặt dãn ra, khiến một vẻ gì đấy như là nghiêm trang biến mất, nhường chỗ cho một thứ ánh sáng bừng lên và cho một trực cảm: người ta có thể tưởng tượng được ngay cậu bé này sẽ trở thành một thiếu niên rồi một người đàn ông thế nào, và khuôn mặt kia sẽ giúp cậu dễ dàng quyến rũ bất kỳ ai cậu gặp một ngày nào đó ra sao mà chẳng phải tốn công thuyết phục hay khơi gợi ở họ sự tò mò hoặc mối quan tâm. Lúc ấy, chưa hề có chút năng khiếu nào trong việc tiên đoán tương lai của một người xa lạ. Chính cuộc sống đã dạy cho tôi và giúp tôi biết đọc, biết lắng nghe ngôn ngữ của cơ thể, của khuôn mặt, và thấy được ở đó sự đáng tin cậy, hoặc sự lừa phỉnh, hay chính sự thật. Còn lúc bấy giờ, tôi chỉ chủ yếu quan tâm đến việc chữa lành nỗi đau cho mình và nếu giờ đây ít ra tôi cũng có thể phác lại rõ nét hơn bức chân dung của người ngồi cạnh tôi trên băng ghế thì chắc chắn trí nhớ đã làm công việc của nó. Trí nhớ làm méo mó, phá huỷ, rồi gây dựng lại. Tôi không biết liệu lúc đó cậu có giống với miêu tả của tôi bây giờ không. Tôi nhớ rất rõ mình đã ngạc nhiên trước khuôn mặt ấy và điều đó đã cuốn đi gần hết cơn tức giận c�! ��a tôi trước một kẻ không mời mà tới, kẻ đã khuấy động thời khắc tôi tách mình khỏi phần còn lại của thế giới.
Sau đó, tôi tự nhủ cậu bé này chỉ tình cờ tới đây ngồi và chỉ một ngày thôi, rồi mai mình sẽ tìm lại được sự thanh bình và tĩnh lặng. Cậu mặc một kiểu đồng phục màu xanh lơ cùng chiếc áo khoác có cúc kim loại màu trắng và chiếc quần vải cùng màu. Trông cậu như một thuỷ thủ nhó, tôi không biết chàng thuỷ thủ trẻ nào vừa bất chợt cập bến từ con tàu nào nữa. Đôi chân cậu gần chạm mặt đất. Cậu khẽ đung đưa chân. Cậu mang đôi giày màu đen thấp cổ có khoá kim loại mạ bạc. Cậu kết thúc bữa ăn nhanh của mình và nói:
- Chị không buộc phải nói, nhưng sẽ là không tôn trọng các quy tắc lịch sự nếu tôi không nói với chị rằng tôi tên là Franz-Xavier và mọi người gọi tôi là Franz.
Giọng điệu này, cách diễn đạt gần như quá người lớn này làm tôi bật cười. Cậu ta đang diễn hài kịch à? Cậu ta đang bắt chước ai vậy ? Đồng thời, lần này, khi nhìn mặt cậu lâu hơn, tôi thấy rõ cậu không làm trò hề. Đó là cách cậu nói, và tôi tham gia trò chơi của cậu :
- Quả nhiên, tôi không buộc phải trả lời cậu. Nhưng tôi lại muốn đặt câu hỏi : Cậu làm gì ở đây? Cậu không phải tới trường hay tới đâu đó à ? Hoặc là ở nhà với bố mẹ ?
Cậu không trả lời mà chỉ thay đổi ngữ điệu :
- Chị không cần phải xưng hô lịch sự với tôi, cậu nói. Nếu chị xưng hô thân mật, tôi cũng sẽ làm thế.
- Được thôi, tôi nói. Em từ đâu tới ?
Cậu đưa tay chỉ về phía thành phố, ở bên kia cây cầu. Cậu đứng dậy.
- Tôi nghĩ là đến giờ rồi. Người ta đang đợi tôi. Có lẽ với chị cũng vậy.
- Không, tôi còn thời gian.
- Được thôi, thế thì tôi sẽ phải tạm biệt chị.
- Tạm biệt, tôi trả lời.
Cậu đứng dậy, nghiêng đầu lịch sự chào tôi. Cậu bỏ cái túi giấy đã vo tròn vào một thùng rác công cộng. Rồi cậu bắt đầu chạy, băng qua bờ kè để tới đại lộ nơi có đường tàu điện chạy qua và cuối cùng mất hút trên cầu, về phía những con hẻm của thành phố cổ, cái bong dáng nhỏ bé xanh lơ và khó hiểu ấy.
Thường thường, sau khi ngồi xuống băng ghế, tôi cần một chút thời gian để quên đi sự hiện diện của một kiểu rào chắn trong lồng ngực, phía bên trái. Thực ra, trong suốt thời gian tôi ngồi một mình bên hồ, rào chắn ấy không bao giờ hoàn toàn biến mất. Nhưng ngày hôm đó, mọi chuyện không còn như cũ. Franz đi rồi, tôi nhận thấy rằng nỗi tò mò mà sự xuất hiện bất ngờ của cậu gây ra đã thoảng xoá đi nỗi đau trong tôi.
3
Hôm sau, thời tiết gần như chẳng đổi khác gì so với hôm trước. Vẫn bầu trời ấy, với những ánh phản chiếu trắng pha vàng trên mặt nước hồ, và dãy Alpes lấp lánh phía xa xa nơi chân trời.
Tôi vừa bước về phía chiếc ghế băng vừa cố xoá đi ký ức mới đây về buổi tập ban sáng, nhưng thật khó. Ta thu mình lại, tìm kiếm nỗi cô đơn nội tâm, song vô ích, thái độ và ánh mắt của những ngừơi khác không tan biến đi như thế. Bạn cho rằng người ta đang nhìn bạn, thậm chí ngay cả khi người ta không nhìn.
Những nụ cười mỉm ngọt ngào, những bàn tay chìa ra, quả có thế, và những nụ hôn lên má từ những người mà tôi quen thân, những đồng nghiệp cùng hàng gần gũi với tôi nhất, nhưng, hơn cả hôm qua, không hiểu tại sao tôi lại có cảm giác mình bị đánh giá, dò xét, cân đong đo đếm như ở nơi bày hàng hoá. Bởi lúc nào tôi cũng tưởng như nghe thấy những điều họ thì thầm:
"Nhìn xem, cô ta khó mà gượng dậy nổi. Thử nghĩ lại dáng vẻ hân hoan của cô ta khi mọi chuyện với cô ta còn đang đẹp đẽ. Và cô ta từng xuất hiện thế nào nhỉ, dáng thẳng, ngực ưỡn, hông lắc, toàn thân phô bày ra rằng cô ta đã làm tình suốt cả đêm, rằng người đàn ông của cô ta đã mang lại cho cô ta khoái cảm và cô ta cảm thấy bao mãn nguyện, bao hạnh phúc, và có lẽ điều đó đã kéo dài hàng giờ, hàng giờ, và cô ta từng muốn nói với chúng ta chuyện ấy thế nào, từng muốn hét lên chuyện ấy trước công đồng nhỏ bé của chúng ta ra sao, qua vẻ thõa mãn lặng lẽ và khoan khoái trên bầu má, dưới đôi mắt, trong vành cung dưới hàng mi, qua cái cách cô ta uyển chuyển gợi cảm và uể oải bình thản lách thân mình ra sau giá nhạc, rồi khéo léo đặt bản dàn bè lên với nụ cười không ưa nổi trên đôi môi sưng phồng, vì đã hôn quá nhiều."
"Còn hôm nay, nhìn cô ta đi: người còng xuống, khuôn mặt hõm sâu, nước da nhợt nhạt, chẳng hề có chút sức sống cùng vui thú nào trong hành động cũng như lời nói, một ngọn đèn đã tắt, như một kẻ bại trận."
Khắp người bạn chỗ nào cũng bầm dập, họ khiến bạn trật khớp giống như một võ sĩ quyền Anh no đòn của đối phương, họ lạnh lùng chua cay. Tôi chưa bao giờ cảm thấy điều gì dữ dội đến vậy, như buổi sáng hôm ấy. Tuy nhiên, chẳng có gì được gọi là đặc biệt diễn ra trong phòng thay quần áo hay trong lúc mọi người vào chỗ của mình tại từng hàng ở dàn nhạc cả, và cũng giống như ngày hôm trước, tôi không nhượng bộ trước những dòng nước mắt chực trào ra. Tôi cố giữ mình ngồi thẳng, tập trung hết mức. Cố không nghĩ điều gì ngoài những chi dẫn, những đoạn lặp lại, những đoạn chơi tiếp. Nghệ sĩ độc tấu thật may mắn: họ không có quyền cũng chẳng có thời gian để nghĩ đến gì khác ngoài việc họ làm vào lúc họ đang làm nó. Một nhạc công dàn nhạc, nếu nhạc trưởng không truyền được cảm hứng cho họ, có thể sao lãng tập trung và để tâm hồn mình vơ vẩn trong vài giây. Nhưng chỉ một sự chuệch choạng nhỏ nhất cũng có thể gây hại. Một lần còn chấp nhận được. Hai hoặc ba lần là lệch nhịp, dàn nhạc sẽ dừng chơi và bầu không khí nghi vấn sẽ trỗi dậy, vài cái đầu quay lại, có gì đó không ổn chăng? – đũa chỉ huy gõ trên giá nhạc, ánh mắt sắc lẹm của nhạc trưởng hướng về phía người chơi lạc nhịp, ấy là nỗi tức giận khó nhận thấy của vị nhạc trưởng, nào, không có gì quá khó cả, chúng ta hãy chơi lại, và tôi cảm thấy đó giống như lời trách móc thầm lặng của tập thể, như thái độ nóng lòng sốt ruột. Cúi đầu, quay lại nếp cũ, đưa cây vĩ lên đàn. Từ bỏ cái thiên hướng hợm ! hĩnh tự tưởng tượng ra rằng cả thế giới đang để mắt đến tâm trạng của bạn. Tìm kiếm trong thứ công việc nhạc nhẽo đòi hỏi sự tỉ mỉ và luôn khiến người ta đắm chìm trong sự lãng quên chính mình, sự nhún nhường, và sự thanh tĩnh. Hoà mình vào dàn nhạc.
Thế là tôi chơi lại nốt nhạc cần chơi theo đúng cung cách, và chúng tôi đã tập luyện nhiều đoạn, bản phối hợp được chỉnh sửa và tất cả những hình ảnh xa lạ với âm nhạc, tất cả những kỷ niệm gây tổn thương biến mất trong chốc lát. Nhưng vẫn còn lại trong tôi cảm giác khó chịu ấy, vị đắng trong miệng ấy, và nó ở đó suốt cả buổi sáng.
Câu bé tuyên bố với tôi mình tên Franz đã ngồi sẵn ở chỗ của cậu trên băng ghế. Vẫn bộ đồng phục ấy, vẫn chiếc túi giấy nhỏ màu hạt dẻ đặt bên sườn phải ấy, vẫn ánh mắt xa xăm nhìn mặt hồ và nụ cười rạng rỡ khi quay về phái tôi ấy, vẫn giọng nói cửa rắn rỏi nửa yếu ớt ấy:
- Tôi không đợi chị đến sớm thế.
Tôi cười.
- Nhưng chúng ta có hẹn nhau đâu.
- Dù vậy tôi vẫn đợi chị. Chị đi chậm hơn.
- Tôi đi thế nào mặc tôi. Cậu dừng để tâm đến tôi.
Tới lượt câu ta cười.
- Chị không thể ngăn tôi quan tâm đến chị. Nếu điều đó làm chị cáu, hãy nói với tôi, tôi sẽ đi khỏi ghế băng. Nếu cần, tôi sẽ không quay lại đây nữa.
- Chị không nói với em như vậy, Franz.
- Khi chị xưng hô thân mật với tôi, thế đã là tốt lắm rồi.
- Chị cũng không nói với em là chị khó chịu.
- Chị không cần phải nói ra, điều ấy hiển hiện rõ rồi, thậm chí từ đằng xa kia.
- Em chọc chị cười à, làm sao người ta có thể thấy được một người có thoải mái hay không từ đằng xa ?
- Đến giờ ăn trưa rồi, Franz nói. Dù sao chăng nữa cũng là giờ ăn của tôi.
Cậu mở túi giấy ra. Tôi nắm lấy cẳng tay để ngăn cậu lại.
- Khoan đã, tôi nói, không bao giờ trả lời vào câu hỏi thì quá dễ dàng. Quá đơn giản. Hãy nói cho chị biết, em theo dõi chị hay là gì chứ ?
Cậu bé rút cánh tay khỏi bàn tay tôi một cách duyên dáng và nhẹ nhàng tới mức khiến tôi thấy hối tiếc vì hành động thô bạo của mình.
- À phải, đúng thế, tôi quay về phía cửa phòng hoà nhạc để xem xem chị đi ra từ cửa nào. Thực ra, vào giờ này trong ngày, chỉ có một cửa mở, phải thế không ?
- Chắc chắn thế.
- Vì vậy, tôi thấy chị đi ra. Ngồi ở đây hơi xa một chút, nhưng người ta luôn dễ dàng nhận ra dáng đi của người đã ngồi cùng mình.
- Thẳng thắn mà nói thì chúng ta ngồi với nhau đâu lấy gì làm lâu lắm. Một giờ trên chiếc ghế băng này, ngày hôm qua, gần một giờ.
- Như thế là đủ để đoán ra mọi thứ.
Thái độ tin chắc của cậu ta thật khiến người khác phát cáu. Tôi đã muốn khiến cậu nhóc luôn làm ra vẻ trịnh trọng này chưng hửng, nhưng cậu ta nói một cách bình tĩnh, không cười cợt, và nhẹ nhàng đến độ khiến người ta quyên đi ý đồ của mình.
- Thế em đoán ra chuyện gì về chị ?
- Có gì đấy không ổn, chị bước đi không hạnh phúc, chị cần thoát khỏi điều đó.
Tôi nhớ lại buổi diễn tập lúc sáng, nhớ lại cơn cuồng ám đã vô cớ xâm chiếm mình, nhớ lại cái ý nghĩ ám ảnh rằng ”những người khác” đang nhìn mình mỉa mai trong khi họ chẳng nhìn gì cả – nếu có thì cũng chĩ là nỗi lo lắng hay niềm hạnh phúc của riêng họ. Nếu có thì cũng chỉ là bản dàn bè đặt trên giá nhạc trước mặt họ.
- Em có lý, tôi nói, nhưng chị sẽ thoát khỏi điều đó.
Cậu ta nở một nụ cười vừa ý, vẻ nhẹ lòng.
- Được, tốt, thế thì chúng ta ăn thôi. Chúc chị ngon miệng.
Tôi lấy táo và bánh quy của mình, còn cậu ta lôi mấy chiếc sandwich từ trong túi ra. Đó là những chiếc bánh ruột trắng cắt hình tam giác, giống loại bánh người ta phục vụ tại phòng trà lớn của khách sạn Dorchester, London, cái hồi mà, để thưởng tôi vì đã học tốt piano và vì thầy giáo tôi nói rằng ông đặc biệt hài lòng về những gì tôi thể hiện, bố tôi tuyên bố : 'Đi thôi, bố dẫn con tới Dorchester. Đã đến giờ uống trà.'([1])
Hình ảnh chúng tôi khi ấy vẫn còn in trong ký ức. Bố một tay cầm hộp đàn cho tôi, tay kia nắm tay tôi và giục tôi băng qua công viên, giữa những chiếc diều, những quả bóng bay màu tím hoa cà và màu đỏ lẫn vào nhau, giữa những người đi xe đạp và những người cưỡi ngựa. Một nhóm nhạc khi đang chơi ở quán nhạc, bầu không khí mát mẻ, cỏ vẫn giữ được cái mùi hăng hắc từ giữa ngày, vài giờ nữa mọi thứ sẽ trở nên ẩm ướt hơn. Hình ảnh hai bố con sóng bước bên nhau hiện lên trong đầu tôi giống như thể tôi đã dựng lại một hình ảnh mà tôi chẳng bao giờ có thể thấy trọn vẹn, bởi tôi là một phần trong hình ảnh ấy, tôi ở chính giữa hình ảnh ấy.
- Tâm trí bạn hoàn toàn không ở đây nữa. Bạn nghĩ đi đâu thế ?
Giọng nói của Franz đưa tôi ra khỏi quá khứ của mình. Chỉ trước sự hiện diện của cậu, tôi mới có thể quay lại đó. Vậy là, tôi nhìn cậu khác đi, tôi hiểu rằng cậu sẽ giữ một vai trò trong cuộc đời tôi, nếu cho đến giờ chưa phải là như thế. Tôi đáp :
- Phải, chị đã đi như em nói, đi về cái thời có lẽ chị bằng tuổi em bây giờ. Chị đi gặp bố chị, trong một công viên, ở một đất nước khác.
Bỗng nhiên ông ngã quỵ xuống, ngay giữa công viên Hyde, trong một lần tôi đi học về. Tay ông buông rơi tay tôi. Tôi cảm thấy khối cơ thể ông ngã xuống cỏ tạo ra một âm thanh nghe như tiếng gió. Hộp đàn gần như nảy lên trên mặt đất. Tôi quỳ gối mà chẳng hề gào thét, ít nhất tôi cho rằng mình đã không gào thét.
"Bố ơi, bố, có chuyện gì thế, bố ơi ?" tôi thì thầm.
Mắt ông mở tròn, bất động, như những hòn bi, và ông không trả lời. Ông chỉ khẽ rùng mình trong thoáng chốc, rồi cả thân mình ông bất động. Phải mất nhiều phút sau tôi mới hiểu rằng ông đã chết, trong khoảng thời gian ấy có mấy người lớn, một người đàn ông, hai người phụ nữ đến giúp tôi sau khi tôi gượng dậy được và kêu cứu, cũng trong khi ấy một người xa lạ lịch sự hỏi tôi :
"Đây là bố cháu à ?"
"Vâng."
Rồi ông ấy nói với tôi :
"Hãy dũng cảm lên, cháu gái, bác e rằng bố cháu không còn ở với chúng ta nữa. "
Tôi vẫn còn quỳ gối trên cỏ, bên cơ thể to lớn nặng nề mà tôi không thể ôm trọn trong vòng tay, và tôi thấy bao bàn chân, bao đôi chân bắt đầu vây quanh chúng tôi tạo thành một đám đông, trong sự im lặng thỉnh thoảng bị ngắt quãng bởi những lời nói, những câu từ rời rạc, vài lời thì thầm, vài lời lặp đi lặp lại, vài lời ấp úng cất lên từ những giọng nói xa lạ : "Chuyện gì thế – anh thấy không - việc đã rồi, cấp cứu đang đến – ai thế – tránh ra nào – đừng đứng ở đây – tội nghiệp con bé – ai đấy – gì thế – chuyện thế nào – cẩn thận – đừng nói nữa…"
Nhưng với tôi chỉ có lời nói của người đàn ông lịch sự mà tôi không thể quên khuôn mặt đó là quan trọng. Ông ấy xuất hiện chỉ vài giây sau khi bố tôi ngã xuống, ông cúi xuống người bố, đặt hai ngón tay lên vị trí xác định trên cổ bố, rồi sờ ngực bố tôi qua lần áo vest. Đôi tay lão luyện, động tác chuẩn xác, am hiểu, thành thục. Vừa mới ngồi xổm xuống cạnh tôi, ông đã nói:
"Để bác xem nào, bác là bác sĩ đấy."
Tôi bảo:
"Giúp cháu với, bác ơi giúp cháu với."
Ông đáp:
"Để bác xem nào."
Một lát sau, sau khi đã làm ba hoặc bốn động tác, tôi nghe thấy ông hỏi:
"Đây là bố cháu à"
Và cuối cùng là điệu bộ hết sức nhã nhặn của ông:
"Bác e rằng bố cháu không còn ở với chúng ta nữa."
Không khí đầy ắp hương vị mùa hè. Bởi vì người đàn ông mà sự thành thục và lịch sự đã làm tôi yên lòng và khiến tôi hy vọng rằng mọi chuyện sẽ ổn và rằng, nhờ vào một may mắn đặc biệt, người đầu tiên đến giúp tôi lại là một bác sĩ, bởi vì người đàn ông ấy, chính ông ấy, đã nói rằng thế là hết, nên tôi thấy không phải hét lên, vùng vẫy, kêu gào, đứng dậy, bỏ lại bãi cỏ và thân thể này, mà tôi muốn nằm xuống bên cạnh đó, nhắm mắt lại, và muốn rằng tất cả mọi thứ ngừng hoạt động trong buổi chiều tà ấy, vào giờ uống trà và giờ của những chiếc sandwich ruột trắng mà chúng tôi chẳng bao giờ còn được ăn cùng nhau nữa.
4
– Nhưng không phải chị nghĩ về chuyện này khi chị đi đến chỗ ghế băng.
- Chị thường nghĩ về cái chết của bố chị, nhưng quả thật, Franz ạ, đúng là không phải chuyện này đeo đuổi chị.
- Là một chuyện bất hạnh khác à?
- Một bất hạnh khác, nhưng ít đau đớn hơn nhiều.
Tôi ngạc nhiên khi nghe mình trả lời như vậy. Phải chăng chỉ cần kể với cậu bé này về chuyện bố tôi ngã xuống trên bãi cỏ ở công viên Hyde là đã đủ để tôi cao giọng nói rằng tổn thương tình cảm mới nhất của mình không đau đớn? Franz không đợi để tôi nghĩ quá nhiều về điều này.
- Nếu như nó ít đau đớn, nỗi bất hạnh mà bạn nói tới ấy, thì bạn có thể bỏ nó qua đi.
- Thế à, làm sao để được như vậy?
- Tôi ấy à, Franz nói, khi buồn, tôi cố gắng bỏ qua mọi thứ. Tôi tập trung suy nghĩ vào duy nhất một thứ, để quét sạch tất cả và đến với một đại dương yên tĩnh.
- Một gì cơ?
- Một mặt nước tĩnh lặng. Tôi ấy à, cách của tôi là ngưng suy nghĩ ở một thứ duy nhất và không rời bỏ nó nữa, dù chỉ trong giây lát: một cánh chim, một cây dương xỉ, một hòn đá, một gương mặt cũng được, nhưng chỉ duy nhất một thứ thôi! Và như thế chúng ta chìm sâu vào tĩnh lặng. Để đến với khoảng trống. Hoàn toàn có thể làm được điều ấy, tôi nghĩ ở thành phố làm việc này sẽ khó hơn là giữa thiên nhiên, nhưng vẫn có thể làm được.
cậu nín lặng, như để ngẫm nghĩ, rồi lại tiếp:
- Đến với khoảng trống tuyệt đối. Nếu bạn muốn, hôm nào đó, chúng ta có thể thử nói về khoảng trống trước mặt, xung quanh chúng ta. Nhiều người sợ khi nói về khoảng trống, nhưng không phải tôi. Tôi hy vọng bạn cũng thế.
- Đó chính là thứ em tìm kiếm trên chiếc ghế băng này đúng không, tôi hỏi, sự tĩnh lặng tuyệt đối ấy?
Cậu không trả lời. Tôi cố nài:
- Em vừa nói với chị: "Khi buồn".
Cậu trả lời sau một hồi chờ đợi:
- Phải.
- Điều gì làm em buồn vậy, Franz?
Cậu nín lặng.
- Nghe này, tôi nói với cậu, chị không biết tại sao với lại thế nào mà chị lại kể với em một phần quá khứ của chị như vậy, chẳng có lý do gì cả, có lẽ chỉ bởi em khiến chị thấy tin tưởng. Bởi em không như những người khác. Cũng có thể chị thấy dễ dàng hơn khi nói với một cậu bé không quen biết…
Cậu xẵng giọng cắt lời tôi:
- Đừng coi tôi là một đứa trẻ, xin chị đấy.
- Chị xin lỗi, nhưng em phải hiểu chị: chị đã chia sẻ với em một thời điểm trong đời chị, một thời điểm khủng khiếp. Đổi lại em không thể nín lặng được. Như thế không đúng luật. Nếu em muốn chuyện trò, thì cả em nữa, em cũng phải chia sẻ và giãi bày.
- Có thể. Vấn đề của tôi là tôi không có khả năng trả lời trực tiếp vào một câu hỏi trực tiếp. Tôi không bày tỏ theo cách đó. Hơn nữa, tôi cũng có bắt chị chia sẻ cuộc sống của chị với tôi đâu, như chị vừa nói đấy. Chính chị muốn điều đó đấy chứ.
- À, không, tốt thôi, như thế thì tốt thôi, chuyện này xảy ra ngoài ý muốn của chị và chị cũng không biết nó từ đâu tới.
Cậu lắc lư cái đầu, vẻ mặt hoan hỉ.
- Còn tôi, tôi biết nó từ đâu tới.
Cậu chỉ một ngón tay về phía chiếc túi giấy nhỏ màu nâu xám của mình.
- Bánh mì kẹp ruột trắng, có thế thôi, đơn giản thế thôi, không phải vậy sao? Chính nó đã khơi dậy tất cả. Một cái gì đó cụ thể, rất tầm thường, tầm thường với tất cả mọi người, trừ bạn, và nó đã làm nảy sinh một hình ảnh, hình ảnh ấy gợi nên một kỷ niệm, và giờ, bạn sẽ làm gì với kỷ niệm này?
Tôi mất một lúc mới trả lời được:
- Làm điều chị vừa làm. Làm sống dậy nỗi đau của một kỷ niệm khác gần hơn.
Cậu xoa xoa tay như một nhà buôn vừa kết thúc một vụ làm ăn béo bở.
- Hoan hô! Tốt lắm! Tôi đến đây thật không vô ích!
Cậu có vẻ hạnh phúc, cậu bé ấy, cậu đứng dậy và, trong bộ đồng phục học sinh xanh lơ – trông vừa giống thủy thủ vừa giông quân nhân – cậu tặng cho tôi nụ cười của mình, nụ cười làm xuất hiện một nếp nhăn trên khuôn mặt khiến cậu có vẻ người lớn trong chốc lát và cậu nghiêng mình về phía tôi, khẽ đặt lên trán tôi một nụ hôn nhẹ, rồi, cũng như ngày hôm trước, cậu chạy biến đi, không quên hoàn thành nghi lễ quen thuộc: vo viên cái túi giấy lại rồi ném vào thùng rác công cộng. Lúc ấy, tôi không cảm thấy bước đi của thời gian và tự nhủ ngày mai, cuối cùng tôi cũng sẽ biết được nhiều hơn về cậu.
Nhưng ngày hôm sau, Franz không xuất hiện. Băng ghế trống trơn.
5
Tôi hơi thất vọng. Tôi nhớ lại phần kết cuộc trò chuyện giữa chúng tôi: cậu ấy đã không chào tạm biệt tôi, giống như lần đầu chúng tôi gặp nhau. Tôi rảo bước rời nơi tập luyện và dù tôi không nhận thấy, nhưng điều đó có nghĩa là tôi đang muốn gặp lại Franz. Cậu ấy đã dần tạo ra trong tôi sự khởi đầu của cái gì đó như là một thói quen – ít nhất thì cũng mong muốn có được thói quen ấy.
Hơn nữa, tôi không nhận được bất kỳ lời đáp nào cho những câu hỏi về sự xuất hiện của cậu bé tốt bụng ấy trong cuộc sống của mình.
Cậu từ đâu tới? Bộ đồng phục ấy là thế nào? Cậu học ở đâu? Tại sao cậu lại dành thời gian rãnh để ở một mình, để ngồi ăn nhẹ trên một chiếc ghế băng? Vả lại, ai đã chuẩn bị đồ ăn cho cậu? Rồi còn thứ ngôn từ và cách nói chuyện già trước tôi của cậu, sự khôn ngoan xen lẫn vẻ ngây thơ ở cậu, rồi cái cảm giác cậu ấy đoán biết được bạn, hay thú vị hơn nữa là cảm giác kỳ lạ rằng cậu ấy biết về bạn nhiều hơn là bạn biết về cậu ấy và rằng cậu ấy đã tìm hiểu về bạn, quan sát bạn mà bạn chẳng hề hay biết, tất cả những thứ này là thế nào?
Ngồi trước hồ nước, trong tiết trời mát mẻ và hơi âm u hơn những ngày trước, tôi đã thôi tự hỏi mình. Những điều về nhân thân của Franz liệu có thực sự có ý nghĩa với tôi không? Những câu hỏi này gần như chẳng có gì quan trọng cả. Điều khiến tôi quan tâm, đó là cậu ấy lại đến, để chúng tôi tiếp tục chuyện trò.
Tôi đã đọc được rằng ở một độ tuổi nào đó, trẻ em, dù là trai hay gái, đều có một kiểu tài năng thiên bẩm, một ý niệm về cuộc sống, một cái nhìn hướng đến vô tận, và điều này sẽ biến mất ngay khi tuổi niên thiếu bắt đầu. Liệu Franz có nắm giữ loại tài năng này không?
Trong hai lần gặp gỡ trên băng ghế, cậu bé đã khiến những suy nghĩ của tôi trở nên nhẹ nhàng. Tôi đã nhanh chóng quen với việc có cậu ở bên, quen với sự hiện diện của cậu, như thể đó là sự hiện diện của một cậu em trai, một cậu em trai mà tôi không có.
Mẹ tôi không còn khi tôi chào đời. Người con đầu lòng của mẹ, một bé trai, đã chết ngay lúc sinh. Tôi chào đời một năm sau đó. Mẹ ra đi khi tôi đến. Với sự giúp đỡ của một vú em rồi một loạt các cô gia sư, các cô giữ trẻ đổi công hay những trợ lý riêng khác, bố nuôi dạy tôi tại
Khi kể tóm tắt hai mươi năm đầu cuộc đời mình như vậy, tôi nhận thấy mình thường xuyên sử dụng những động từ đi, đến, ra đi, tới. Anh trai tôi đã ra đi ngay trước cả khi tới. Tôi đã đến để rồi mẹ tôi rời đi. Bố tôi đã ra đi. Tôi đi và tôi tới một chiếc ghế băng. Franz đã tới từ một nơi nào đó. Kể từ đầu câu chuyện này đến giờ, tôi đã dùng những từ ấy nhiều lần. Tại sao lại phải ngạc nhiên về điều đó chứ, mọi thứ đều vận động kia mà. Thậm chí suy nghĩ của tôi cũng là một vận động và nếu đôi khi không thể lý giải nổi, không thể hiểu nổi vận động này thì nó vẫn là điều cứu vớt chúng ta, nó là cuộc sống bởi sự bất động chính là chết.
Tôi hiếm khi khóc nhưng đã khóc thì thật dữ dội. Tôi đã không khóc bên thi thể cha tôi trên bãi cỏ ở công viên Hyde, tôi cũng không khóc tại đám tang. Nước mắt đã chờ đợi và khi nó vỡ òa thì kéo dài suốt hai ngày hai đêm, hai đêm hai ngày.
Những người bạn của bố rồi cả gia đình cùng bà trợ lý và vú em thay nhau túc trực đầu giường tôi để cố ngăn những cơn nức nở, thổn thức, cái dòng chất lỏng mằn mặn không ngừng tuôn ra mà tôi dùng đầu lưỡi liếm khi nằm bẹp trên giường. Có lẽ tôi tưởng rằng chỉ cần uống nước mắt như thế là đủ để nó có thể lại sản sinh và không bao giờ ngừng. Tôi yêu nước mắt của mình. Có những quãng ngừng ngắn, thế là tất cả người lớn vây quanh tôi trao nhau những ánh mắt yên tâm, rồi mọi thứ sẽ dịu đi, chẳng phải vậy sao, thế là đủ rồi, con bé đã khóc như thế khá lâu rồi. Nhưng tôi chỉ lấy lại hơi. Thực ra, tôi tập trung năng lượng và tìm lại nguồn cơn để nỗi đau của mình tiếp tục được vỡ òa. Việc này cứ thế tiếp diễn đến mức người ta đã phải gọi bác sĩ nhi khoa tới, chính là vị bác sĩ đã chăm sóc tôi khi tôi chào đời. Ông thử nói lý lẽ với tôi, thử làm tôi mở lời, ông đã mắng tôi bằng những lời lẽ có chút thô bạo nhằm làm tôi bị sốc, ông kiểm tra mạch, nghe nhịp tim, khám họng tôi và vừa giơ hai tay về phía trần phòng ngủ của tôi ra chiều bất lực vừa nói:"Để kệ cô bé thôi. Cơ thể sẽ quyết định cho cô bé."
Đó là người đàn ông có khuôn mặt cau có, bất mãn, ria mép của ông màu hung và toát lên mùi bạc hà. Khi cơ thể tôi đã ra quyết định, nước mắt rơi chậm dần, tôi không thấy muốn và thấy cần nữa, vẫn còn nấc vài cái, rồi tôi thấy dịu bẫng đi ở phía trên trán, xoang trán và mí mắt. Tất cả ngừng lại.
Có thể nói rằng tôi đã khóc cạn hết lượng nước mắt mà cơ thể tôi dự trữ ở độ tuổi này (khi ấy tôi mười hai tuổi). Theo cô tôi sang Thụy Sĩ là một cơ thể khô cạn nước mắt, và chắc chắn là phải mất nhiều năm sau lượng dự trữ đó mới được khôi phục. Nhiều năm dài không tình yêu, không một chút yêu thương, không một chút trìu mến. Điều tốt nhất mà tôi nhận được là sự chăm sóc và theo dõi chặt chẽ chuyện học tập, các bước tiến bộ cùng tình hình sức khỏe của tôi từ phía cô tôi.
Tôi yêu bố bằng tất cả tình yêu của mình. Tôi chẳng dành tình yêu như thế cho bất kỳ ai. Thế nên khi bố ra đi, cơ thể tôi dốc hết cho ông lượng nước mắt nó có là chuyện bình thường, bình thường về mặt thể chất. Tôi chỉ tìm lại được nước mắt khi hai mươi tuổi, khi ấy, lần thứ hai trong đời mình, trái tim tôi tan vỡ.
6
Sáng hôm ấy, vừa rời sảnh nhạc tôi lập tức đưa mắt tìm kiếm chiếc ghế băng và nhận thấy Franz đã lại ngồi vào chỗ của cậu. Điều ấy khiến tôi vui, một cảm giác hài lòng xâm chiếm tôi, một cảm giác khuây khỏa khi nhìn thấy, từ phía sau lưng, bức tượng mảnh khảnh màu xanh đang bất động và chờ đợi tôi. Tôi rảo bước. Suýt nữa thì đã chạy.
- Thứ lỗi cho tôi vì hôm qua đã vắng mặt – cậu nói, ngay khi tôi vừa ngồi xuống, thậm chí trước cả khi tôi kịp chào cậu.
Cậu tiếp tục:
- Thứ lỗi cho tôi, một số chuyện đã khiến tôi bỏ rơi chị. Nhưng tôi muốn nói với chị rằng tôi nhớ chị.
Tôi nhận thấy rằng Franz lưỡng lự giữa cách gọi tôi là "bạn" và "chị", nhưng tôi không phân biệt được thời điểm và tâm trạng giải thích cho cách lựa chọn của cậu. Tuy nhiên, tôi cảm tưởng có một sự tinh tế nào đó, một bước chuyển thái độ rất nhỏ, như thể từ "chị" được dùng khi cậu nói với người phụ nữ hơn tuổi mình, trong khi từ "bạn" sẽ thắng thế khi, vì lý do này hay lý do khác, cậu cảm thấy ngang hàng với tôi, thậm chí trên hàng tôi.
- Chị cũng thế, chị nhớ em, tôi đáp.
- À đấy, chuyện tự nhiên thôi, phải thế không? Nhưng tôi hy vọng là bạn đã tận dụng thời gian để suy nghĩ về khoảng trống.
- Không, không hẳn thế, tôi vừa nói vừa cười. Vì chị không hiểu rõ em muốn định nghĩa khoảng trống thế nào.
Cậu sôi nổi hẳn lên:
- À đấy, chính xác, không thể định nghĩa được nó. Giữa chiếc ghế băng này và cái hồ, ở kia, cách chúng ta vài mét, có khoảng trống.
- Không, đó là không khí.
- Phải, nhưng không khí, đấy là một định nghĩa cụ thể, do đó chẳng thú vị. Đó là lĩnh vực khoa học. Tôi biết chứ. Nó đong đếm được. Nó nghiên cứu được. Tôi biết tất cả những điều này. Người ta biết không khí là cái gì, nhưng khoảng trống thì người ta lại không biêt.
Cậu bực bội:
- Khoảng trống, đó là cái trừu tượng, và cái đó thì tôi không biết. Khoảng trống có ở khắp mọi nơi: tôi chạy đi sau ki tạm biệt bạn, vì tôi bị muộn buổi học thực hành, đó là lúc tôi chạy trong khoảng trống. Bạn đã bao giờ chỉ suy nghĩ về mọi khoảng trồng tồn tại xung quanh chúng ta chưa.
Cậu dang hai tay, chỉ bằng một động tác, ôm gọn cả bầu trời, những đám mây, mặt trời, mặt đất, và gì nữa nhỉ, cái vô tận!
- Nghe này, Franz, chị không hiểu em. Với chị, mọi vật gắn liền và nối tiếp nhau.
- À, điều này, tôi đồng ý, hoàn toàn đồng ý. Thậm chí tôi còn cho rằng mọi vật giao tiếp với nhau, nhưng không phải vì thế mà khoảng trống không tồn tại. Những người không muốn nghĩ về khoảng trống là những người lười nhác. Hoặc là họ lo sợ. Nhưng sợ hãi hay lười nhác thì cũng đồng nghĩa với nhau. Còn tôi, tôi không sợ khoảng trống, tôi không thể ngăn mình nghĩ về nó. Đó là ý nghĩ cuối cùng của tôi trước khi chìm vào giấc ngủ. Đó là một trong nhiều lý do khiến tôi luôn khó ngủ.
Cậu nín lặng, nghiên đầu về phía trước, hai bàn tay đỡ lấy má, khuỷu tay chống lên đùi, và tôi nhận ra rằng hiếm khi câu có cái vẻ của một đứa trẻ. Một chút dỗi hờn, một chút bướng bỉnh, cùng một ánh sáng mất hút đâu đó ngoài mặt hồ. Cậu đứng thẳng dậy và thở dài:
- Thôi, chúng ta sẽ lại nói về chuyện này vào một ngày khác. Nhưng không phải ngày mai, tôi e là thế, bởi mai là thứ Bảy cũng như Chủ nhật.
- Em nhầm rồi, sẽ có hai buổi hòa nhạc. Tại sao em lại nghĩ bọn chị cứ tập luyện như thế suốt cả tuần?
- Dĩ nhiên, tôi thật ngốc. Thực ra, chính tôi mới là người sẽ vắng mặt.
Cuối cùng, cậu cũng để lộ cho tôi một thông tin cụ thể:
- Tôi học nội trú tại trường Kurslar, cách đây mấy phố liền, ở đầu bên kia cây cầu có mái che. Người giám hộ cho gia đình chỉ định (cậu nhấn mạnh ở từ "gia đình") sẽ đến đón tôi và trưa thứ Bảy, và tôi sẽ ở lại nhà ông ta hai ngày. Ông ta có một ngôi nhà ở ngoại ô.
Cậu thở dài:
- Tôi thực sự lấy làm tiếc. Tôi rất thích tới nghe chị chơi trong buổi hòa nhạc.
- Em chẳng bỏ lỡ gì đâu, Franz ạ. Chị chỉ là một người chơi violon nhỏ bé ngồi ở hàng thứ ba, chính là em nghe cả dàn nhạc chơi, chứ không phải mình chị. Chỉ chỉ là người thứ sáu mươi trong dàn nhạc. Bất kỳ ai cũng có thể thay thế chị.
Cậu tiến lại gần tôi trên ghế và lắc mạnh tay tôi. Tôi buộc phải nhẹ nhàng đẩy cậu ra. Cậu lùi lại, chỗ tóc trên trán rối tung.
- Chị đừng nói thế! Chị đừng nói thế!
Đừng bao giờ nói thế. Không bao giờ được tự ti, không bao giờ! Hơn nữa, tôi, đứng giữa căn phòng, dù cho chị là người chơi violon ở hàng thứ ba hay không, tôi vẫn tin chắc mình sẽ nghe thấy âm thanh từ nhạc cụ của chị, của chị chứ không phải của ai khác. Tôi chắc chắn rằng khi tập trung cao độ, người ta có thể chỉ nghe thấy tiếng của một cây violon nếu người ta thực sự muốn làm điều đó. Và tiếng chỉ của một cây sáo hay một cây đại hồ cầm. Tất cả những gì phải làm, đó là tập trung, là tập hợp năng lượng của mình vào một điểm duy nhất, một thứ duy nhất. Đó là chìa khóa của cuộc sống.
Tôi chưa bao giờ nghe thấy cậu ấy liến thoắng như vậy, hùng hồn như vậy, nhưng tôi không ưa lắm cái điều cậu ấy đang nói. Nó gợi nhắc trong tôi những kỷ niệm buồi. Tôi nói:
- Điều đó, chị không nhắc là nó có thể xảy ra.
Cậu lại một lần nữa tiến đến gần tôi, được niềm tin mạnh mẽ trong chính mình thôi thúc, đôi mắt xanh vàng của cậu vẫn ánh lên một tia sáng dai dẳng.
- Điều đó có thể xảy ra nếu tồn tại một mối liên hệ giữa người chơi nhạc và người nghe nhạc. Chị đã nói với tôi rằng chị nhớ tôi, và tôi cũng vậy, tôi nhớ chị và tôi đã nói điều đó với chị. Như thế nghĩa là ít nhất một lần, ngày hôm qua, cả hai chúng ta đều đã nghĩ rất nhiều về nhau, đúng không?
- Đúng, như em nói.
- Được. Và thế, nếu chị đang chơi giữa giàn nhạc, và chị nghĩ đến người đang nghe chị, lẫn trong đám khán giả – thực ra, có bao nhiêu chỗ ngồi trong khán phòng?
- Ồ, hẳn phải có một nghìn năm trăm đến một nghìn tám trăm người xem.
- Tốt lắm, tuyệt vời, như vậy hợp với tôi. Và thế, nếu trong khi chơi đàn, chị nghĩ đến người đang nghe cả dàn nhạc giữa một nghìn tám trăm khán giả, người này chắc chắn – tôi nói rõ là chắc chắn! – có thể phân biệt được tiếng đàn violon của chị với âm thanh của các nhạc cụ khác và người này sẽ chỉ nghe thấy chị.
Vì một lý do mà tôi không muốn nêu lên, câu nói của cậu làm tôi thấy bực tức. Kỷ niệm về những lời nói tương tự lại hiện về. Tôi quanh co và muốn giăng bẫy cậu:
- Franz, giữa cây đàn violon và người xem trong khán phòng ấy, có một khoảng trống đúng không? Có cái khoảng trống trứ danh của em. Vì em nói với chị là khoảng trống có ở khắp mọi nơi.
Cậu hét lên với vẻ vui mừng hớn hở trong giọng nói:
- Hoàn toàn không! Đúng thế, hoàn toàn không! Không tồn tại khoảng trống khi có cảm xúc. Rồi âm nhạc. Rồi cả một mối liên hệ giữa hai con người đang…
Cậu không nói hết câu. Dường như cậu lơ lửng, trong trạng thái dừng. Cậu đã hoàn toàn quên mất cái túi giấy bên cạnh mình.
- Hôm nay, em không ăn trưa sao? tôi hỏi cậu.
- Không, không cần. Quá nhiều cảm xúc, chắc chắn thế.
- Đây là lần thứ hai em sử dụng từ ấy trong vòng vài giây: cảm xúc.
Franz lại quyết định nói. Sau nhiều lần liên tiếp, cậu khiến tôi có cảm giác cậu đã đoán được điều gì đang vẩn vơ trong tôi. Tôi vừa nghĩ đến một vết thương, cậu liền nói với tôi về điều gây đau đớn. Cậu tiếp tục:
- Dĩ nhiên, người ta cũng có thể quen với nó. Dường như con người quen với mọi thứ. Nhưng đôi khi nó mạnh mẽ, dữ dội, bạn đã biết cảm giác ấy khi bố bạn mất, còn tôi, tôi cũng đã biết, theo cách của tôi. Dĩ nhiên là khác với bạn, nhưng nó cũng xảy ra rồi.
Bởi vì, như cậu đã khẳng định, cậu không thể trả lời trực tiếp vào một câu hỏi trực tiếp, thế nên tôi không cố hỏi cậu đang ám chỉ điều gì. "Người giám hộ do gia đình chỉ định", cậu đã nói thế – gia đình nào? Cậu đưa một ngón tay chỉ về phía hồ.
- Lúc nãy tôi đã nhìn thấy những chú mòng biển bay qua khi ngồi đợi bạn trên ghế băng. Những chú mòng biển trắng trên mặt hồ xanh, ở trên kia, thật đẹp và thư thái. Đó là cách thư giãn tốt nhất, bạn không thấy thế sao, vẻ đẹp một khoảng khắc ấy? Lúc nào cũng cần phải nắm bắt được vẻ đẹp của một khoảng khắc.
Cậu đã lấy lại được giọng nói vui vẻ hơn. Tôi đáp:
- Đây là điều mà chị từng rất khó mới có thể làm được trong một thời gian dài, đặc biệt sau chuyến đi đến
- Tại sao?
- Bởi vì nó không kéo dài, thế đấy.
- Đừng bực tức, chị không buộc phải kể cho tôi nghe dù đó là chuyện gì.
- Chị không bực tức, Franz ạ. Trái tim chị tan vỡ lần thứ hai, thế thôi.
- Giải thích cho tôi thế nghĩa là thế nào, trái tim tan vỡ ấy.
- Chị rất tiếc, Franz, nhưng điều đó không lý giải được.
7
Tôi sắp bước sang tuổi hai mươi, đôi mắt đen láy, mái tóc dài sáng màu. Chưa bao giờ có ai nói với tôi rằng tôi đẹp. Một tối, một người đàn ông tiến về phía tôi sau khi buổi hòa nhạc kết thúc.
- Tôi tên là Luca Barzoni, ông ta nói. Em thật đẹp.
Ông ta bắt chuyện với tôi ở cửa sau mặt phía Đông của phòng hòa nhạc, những khán giả đến xin chữ ký của các nghệ sĩ độc tấu lớn hoặc một nhạc trưởng nổi tiếng thường tụ tập ở lối ra đó. Chúng tôi thường ra trước các nhân vật nổi tiếng, những người có quyền được nhận những tràng vỗ tay mời quay lại sân khấu, những người mà vì họ, chúng tôi thường hay gõ cây vĩ cầm của mình lên giá nhạc để chia sẽ với họ vào thời khắc duy nhất khi tiếng vỗ tay nổ ra, nhưng trên hết là để chuyển đến họ lòng mến phục và sự biết ơn của chúng tôi: nhờ họ, chúng tôi đã có tài năng. Đôi khi, một số người nói với chúng tôi điều tương tự: chúng ta đã cùng nhau làm nên tài năng. Cùng với họ, nhờ có họ, chúng tôi đã mang đến, đã chuyển tải đến khán giả những gì được viết ra dưới bàn tay của Mozart, Mahler, Beethoven, Wagner, những thiên tài sáng tạo còn chúng tôi đơn giản chỉ là người diễn tấu lại các tác phẩm của họ. Chỉ duy việc trải qua khoảng thời gian này, vào đúng lúc buổi hòa nhạc kết thúc, vào đúng lúc khoảng khắc im lặng khi hai cánh tay người nhạc trưởng buông xuống dọc cơ thể – chắc hẳn ông muốn, và chúng tôi cũng như ông, rằng khán giả tôn trọng sự im lặng này lâu hơn nữa, nhưng công chúng không thể chờ đợi và hét lên với chúng tôi lời cảm tạ cùng niềm vui sướng vui của họ – chỉ việc ấy, vào khoảng khắc duy nhất ấy, đã mang trọn vẹn ý nghĩa của nó tới cho niềm yêu thích của tôi, cho công việc của tôi, vả lại, nó cũng trống rỗng như chính sự tồn tại thường nhật ! của tôi.
Vậy là người đàn ông ấy tiến lên trong bóng tôi, dưới ánh sáng vàng vọt từ chiếc đèn bên ngoài gắn phía trên cửa kim loại, còn tôi thì thấy sợ, bởi con người xa lạ, hoàn toàn xa lạ ấy khiến tôi thấy sợ. Cả đời mình, cho đến lúc này, tôi luôn bảo vệ mình khỏi mọi cảm xúc, mọi điều bất ngời, mọi biến cố. Tuy nhiên, ông ta lịch sự, giữ khoảng cách vài bước, đưa tay ngang ngực và nói tiếp sau câu đầu tiên:
- Đừng sợ, tôi là người đàng hoàng, tôi không muốn điều gì xấu cho
Tôi không trả lời. Vừa mới nở nụ cười vì hài lòng, tôi chuẩn bị nói nhưng chẳng biết nói gì. Chính ông ta lại tự lẩn tránh, gật đầu ra hiệu chào tạm biệt, và nói:
- Đừng coi tôi là kẻ cuồng tưởng như em. Em thật đẹp. Thế thôi. Tôi không hiểu tại sao người ta lại không nói với em điều đó.Tôi không hay đi nghe nhạc, nói đúng ra tôi không phải là người mê nhạc, nhưng các bạn tôi đã cho tôi tấm vé họ không dùng đến, và thế là, vì thấy phần đầu của buổi hòa nhạc chán ngắt nên tôi đưa mắt lơ đễnh nhìn phía các nhạc công, và hết sức kinh ngạc trước vẻ đẹp của em. Tôi muốn nói với em điều ấy. Xin chào.
Ông ta quay lưng lại và đi xa dần đến nhập hội với một nhóm nhỏ, có vài đôi, những người đàn ông và phụ nữ, mặc đồ sẫm màu giống
Tôi cảm thấy nhục nhã và ghét chính bản thân mình, bởi lời nói và kiểu cách của Luca Barzoni đã đánh thức lòng kiêu hãnh trong tôi. Từ người đàn ông ấy, một vẻ bình thản, một sự hài hòa giữa cử chỉ và giọng nói toát ra, khiến tôi bị quyến rũ ngay lập tức. Tôi tự trách mình đã rơi vào cái bẫy lấy lòng hết sức tầm thường ấy. Tôi sắp hai mươi. Kể từ khi đến Lucerne, tôi chỉ mới biết vài ba trò cưa cẩm tán tỉnh, những mối quan hện chớm nở chẳng đi đến đâu, đôi ba chàng trai cùng độ tuổi, những lần đi chơi, những cuộc gặp gỡ, những điều vớ vẩn, vô nghĩa. Và tôi luôn lùi ra xa, tự cấm đóan mình mọi mối quan hệ với đàn ông.
Luca Barzoni, dáng người cao lớn trong chiếc măng tô đen, cách cư xử lịch thiệp, vẻ dịu dàng chín chắn trong giọng nói và nụ cười, thuộc kiểu người dễ nhận ra được giữa đám đông. Lời khen của ông ta đã làm tôi xúc động. Những tràng cười kia xúc phạm đến tôi và tôi cố quên đi. Nhưng không lâu sau, bởi đúng như ông ta báo trước, ông ta xuất hiện ở hàng ghế khán giả đầu tiên vào buổi hòa nhạc tiếp theo. Điều ấy đã không làm tôi bực mình.
Khi bước lên sân khấu, theo thứ tự hoặc tình trạng lộn xộn, đôi khi bộ kèn đi trước bộ dây, đôi khi là bộ sáo, mọi người nói với nhau đôi ba câu, ngồi vào chỗ đợi cây violon một đến, bạn sẽ có vài phút để liếc mắt về phía khán phòng. Thường thường, đa số nhạc công không quen biết khán giả. Những khuôn mặt vô danh, những đôi nam nữ đang truyện trò, những dãy tóc dài tóc ngắn, váy vóc quần áo, cùng tấm màn những lời rì rầm trôi nổi phía trên đầu, những tiếng ồn ào đoán này đoán nọ sẽ tắt lịm trong vài phút nữa. Trước hết bạn ở đây là vì họ, chắc chắn rồi – nhưng bạn ở đây cũng là vì chính bản thân mình, vì dàn nhạc và vì nhạc trưởng, và bạn gần như chẳng chú ý tới đám đông này, tới toàn bộ cái đám lộn xộn những khuôn mặt trái xoan hay tròn trĩnh, những gương mặt mơ mộng và được trang điểm kỹ lưỡng này. Tuy nhiên, tôi không thể ngăn mình chăm chú nhìn hàng ghế đầu tiên. Luca Barzoni ngồi ở đó, lịch thiệp và có đeo cà vạt. Tôi lẩn tránh ánh mắt
Khi ấy đang là cuối xuân. Ngày dài hơn khiến các nhạc công tận dụng giờ nghỉ chuyển hồi để ra khỏi tòa nhà hút một điếu thuốc hay đơn giản là dạo vài bước bên bờ hồ. Ánh ngày tháng Sáu, thứ ánh sáng đẹp nhất trong năm, những cánh chim bay là là mặt nước dát bạc, làn gió nhẹ xô mặt nước bập bềnh rì rào, những mạn tàu neo nơi cầu cảng, ánh phản chiếu từ những đỉnh núi đầy băng tít trên cao, nổi trội giữa thung lũng, những ngọn thông đá sỏi và con người – và cái mong muốn thầm kín mà bản thân tôi cũng không biết. Dựa lưng vào bức tường mặt trước tòa nhà vẫn còn âm ấm vì ánh nắng ban ngày, tôi hít thở, mắt nhắm lại, tôi cảm thấy mình đang chờ đợi. Cơ thể tôi chỉ là như thế. Một sự chờ đợi. Tôi thoáng nhận thấy tiếng khách hàng của quán Seebar ngồi ở bàn ngoài hiên, đối diện bến số 1, tôi nghe thấy tiếng bước chân của vài du khách trên đê chắn sóng bằng gỗ màu tơ sống và tiếng ro ro xa xa của chiếc Stadt-Luzern cổ, niềm tự hào của Công ty vận tải trên hồ Quatre-Cantons, đang hú còi báo hiệu vào bến, và tôi tưởng tượng nó rẽ làn nước ngày càng nặng hơn và nhiều dầu hơn khi con tàu tiến gần đến điểm neo đậu của mình. Tôi nghe thấy giọng của Luca, rất gần:
- Tôi rất hy vọng sẽ thấy em đâu đó, ở phía này, vào giờ giải lao. Em khỏe không?
Tôi mở mắt. Người khán giả kiên nhẫn ở hàng ghế đầu này, ông ta vẫn có cái nụ cười độ lượng và chở che trên khuôn mặt đàn ông ấy. Ông ta đề nghị tôi đi ăn tối cùng ông ta sau buổi biểu diễn. Tôi trả lời với vẻ dữ dội vốn không thường thấy nơi mình:
- Để có thể cười nhạo tôi, một lần nữa, cùng với các bạn ông à?
- Em nói chuyện gì thế?
- Ông biết rõ tôi đang nói chuyện gì.
Tôi vô cùng tức giận – những lời đầu tiên tôi nói với người đàn ông mà một phần thầm kín trong trong đã mong muốn ông ta đi xa hơn cái buổi trò chuyện chóng vánh đầu tiên cứ phải là lời trách móc sao? Ông ta vẫn cười, nhưng tôi lại tiếp tục, như thể, từ một tháng nay, tôi đã dồn nén ham muốn mãnh liệt được khiêu khích ông ta – có lẽ để xuôi lòng trước sự tán tỉnh câm lặng và khéo léo của ông ta.
- Phải, tôi nhấn mạnh, lần đầu khi ông bắt chuyện với tôi, tôi đã thấy rõ ông đi tới chỗ vài người bạn để cười cợt về cái trò mà ông vừa diễn với tôi.
Tôi bỗng nhiên ngừng bặt. Tôi nhận ra mình đang ăn nói như một cô nàng khờ khạo – chỉ sau đó một lát tôi mới hiểu điều gì ẩn sau hình phạt của tôi – ông ta nói với tôi rằng tôi giống như một bà vợ già đang trách cứ ông chồng già của bà ta. Tôi dừng màn kịch của mình lại, chúng tôi phá lên cười; tối đó chúng tôi đã ăn tối cùng nhau, rồi tất cả những tối tiếp sau nữa. Chúng tôi nhanh chóng trở thành bạn tình.
Cảm giác ấy là cảm giác một người trở thành trung tâm của cả thế giới, trung tâm của thế giới của bạn, trung tâm của chính bản thân bạn. Từ đó, cuộc sống của tôi luôn viên mãn, mỗi giờ mỗi ngày mang một nhịp điệu khác, thời gian và không gian không còn mang những chiều kích như trước nữa, những gì có vẻ dài trở nên ngắn ngủi, những gì xa xôi lại thành gần gũi.
Sự đơn điệu và nề nếp, sắc màu của thói quen, sắc màu của sự cô đơn, những giờ giấc chính xác, bất biến, những khi thức giấc, những lúc đi ngủ, những lần diễn tập, những buổi hòa nhạc, những hành trình định trước và những địa điểm quen thuọc, những khi đối mặt trong im lặng với cô tôi, những sắc màu nhạt nhòa, thành phố xám xịt, những màu sắc không rõ nét, tất cả đã bị xóa sạch, bị cuốn đi, cái bình thường đã bị phá tan bởi cái bất thường.
Điều bất ngờ của lạc thú, sắc màu của khoái cảm, sắc màu từ việc không còn một mình, từ việc biết vào giờ nào, vào giây phút nào, và ở đâu được làm tình với anh và để anh làm tình với mình, tất cả hòa vào nhau, hồi sinh trong nhau, sắc màu của những đêm trắng, của những buổi sáng sớm xanh trong, ham muốn cơ thể người kia, thỏa mãn cái ham muốn ấy, những nụ cười và những điều giấu giếm, những nơi ẩn trốn, những phòng ngủ tạm bợ, những mật mã và dấu hiệu bí mật, những màu đỏ, màu mạnh, màu tím, những gam màu nóng và ngọt ngào và hiếm thấy, tất cả như một món qua bất ngờ, trao không đúng chỗ.
Những người vẫn nói về "kinh nghiệm ái tình đầu tiên" của họ liệu có ước lượng được hết sức nặng của cái cụm từ khuôn sao ấy? Họ ở đó, vững vàng giữa tuổi tác và thói quen những giác quan đã bị bào mòn bởi công việc của tháng năm, bởi sự chất chồng thất vọng, sự vá víu sau những lần tan vỡ, phản bội và thứ tha hay thủy chung qua bao thử thách, người ta rời bở nhau, người ta gặp lại nhau, bồi hồi xáo trộn ăn năn, sự thật và dối trá, cam chịu hay phục thù, và rồi nảy sinh những cuộc gặp gỡ khác hay những nỗi niềm đam mê khác, những giao ước khác, những cơ thể khác và những tâm hồn khác, và cả lời hứa rằng chẳng còn gì như trước nữa hay thậm chí, đôi khi, mọi thứ vẫn như ngày hôm qua. Chắc hẳn chẳng ai trong số họ quên được thứ ánh sáng của cú sốc điện đầu tiên, quên được sự kiện hoang dại ấy, quên được uy lực của chuyện phát hiện ra chuyện gì đó – tình dục, thịt da, tâm hồn, tình cảm – là không thể so sánh, bởi đó là lần đầu tiên.
Và tất nhiên, do vậy, khi tất cả chuyện này chấm dứt, nó làm trái tim bạn tan vỡ.
8
– Suy cho cùng, có lẽ kể ra cũng không có gì là khó và có lẽ việc này giúp chị thấy ổn hơn.
- Bạn thấy chưa, bạn hiểu rõ là bạn có thể.
- Tức là em yêu cầu chị giải thích, và việc đó thì chị không thể. Giải thích, thì không – kể, thì có. Nói mọi việc thế nào hay mọi việc đã thế nào thì được. Nhưng nói tại sao thì chị không thể.
- Vậy thì hãy nói cho tôi biết mọi việc thế nào. Trái tim tan vỡ là như thế nào?
- Nó giống như Nietzsche đã viết đâu đó trong Rạng đông, Nietzsche đã từng…
- Được rồi, được rồi, tôi biết rồi, tôi biết rất rõ Nietzsche là ai, vả lại không phải Nietzsche đã từng. Ông ấy vẫn đang! Rạng đông à? Quyển thứ tư, ngay trước Niềm vui của Tri thức.
- Franz, kể toàn bộ chuyện này ra là một việc khá tế nhị. Vì thế em làm ơn đừng khoe mẽ sự uyên bác của mình nữa đi.
- Được thôi, xin lỗi.
- Thế đấy, trái tim tan vỡ là thế nào ư? Đó là điều Nietzsche đã nói: "Rạn nứt như một chiếc cốc khi đột nhiên người ta đổ nước nóng rẫy vào đó." Em cảm thấy một đường rạn trên ngực trái của mình, bên phía trái tim, tất nhiên là thế. Em tự nhủ, mình sẽ ngủ, mình sẽ thở, mọi thứ sẽ dịu đi, mọi thứ sẽ được giải quyết, sẽ không còn đau xé lòng như thế này mãi, nhưng mọi thứ không dịu đi. Giá mà chỉ có phần đó trên cơ thể em, nhưng còn có mạn sườn, vùng thắt lưng, lồng ngực, phía bên phải cũng căng ra như bên trái. Thật nặng nề, rồi vỡ vụn, thế là hết, em vỡ vụn. Em mất hứng thú với mọi thứ.
- Những thứ gì?
- Mọi thứ. Em tự hỏi làm sao mình sống lại với điều mình tưởng đã lãng quên, tức là cái việc đơn giản là sống một mình. Sống với sự thiếu hụt. Và lúc đó thì thật cay đắng, phải, và còn chua chát nữa, sự chua chát ngấm qua cơ thể em. Cơ thể em trở nên khô khốc. Nó từ chối mọi thứ. Bước đi làm em đau, ăn uống thì đừng có nói đến, ngủ ngáy cũng tương tự.
- Còn chơi violon?
- Hỏi hay đấy, Franz. Chơi violon cứu vớt chị. Chị tự buộc mình không được bỏ lỡ dù chỉ một buổi làm việc trong khi mọi thứ xui khiến chị nằm dài trên giường, để đau khổ và chờ đợi, nhưng chờ đợi cái gì, chờ đợi điều gì đó biến đi ư? Thế nên chị ép mình đến đúng giờ, thậm chí đôi khi còn đến trước những người khác, bởi chị sợ ánh mắt của họ. Chị đã từng rất ngạo mạn, rất thờ ơ và kiêu căng khi có tình yêu ấy, điều đó đã tách chị khỏi dàn nhạc, khỏi những người bạn của chị, những đồng nghiệp thì đúng hơn. Sau mỗi buổi diễn, luôn có một khoảng thời gian, lúc ở trong hành lang của tầng hầm nằm phía dưới hậu trường, sau khi đám phụ nữ trút bỏ những bộ váy dài đen, nam giới cởi bỏ những chiếc áo khoác dài hẹp tà cùng sơ mi trắng, mọi người đều mặc thường phục. Thế là trông mọi người lại giống với tuổi thực của mình, mọi người cười đùa, hút thuốc, đôi khi còn ôm hôn nhau. Thỉnh thoảng, nhạc trưởng cũng ở đó, người thường đẫm mồ hôi. Ông ấy không có thời gian để trút sạch thứ âm nhạc đã được khoác lên người mình. Thực ra, ông ấy nhận những lời khen ngợi từ bạn bè, khách mời, đồng nghiệp mà không hề nghe thấy chúng vì ông vẫn còn bị mê hoặc bởi Mahler hay Brahms. Đó là một thời khắc đẹp, khi tình bạn, niềm vui được cùng nhau chia sẻ, thành công đã khiến mọi người xích lại gần nhau trước khi cả đội giải tán. Thế đấy, còn chị, suốt quãng thời gian yêu người đàn ông đó, chị đã bỏ qua khoảng thời gian ấy. Chị đã gạt bỏ v�! � coi thường nó. Thậm chí chị còn không thay trang phục biểu diễn để có thể ra về nhanh hơn, chạy nhanh hơn đến chỗ hẹn, đến với những thứ mà chị biết đang chờ đợi mình, những căn phòng, những chiếc giường, cảm giác ham muốn của bản thân được thỏa mãn trọn vẹn. Sau đó, chị đã rất khó khăn để tái hòa nhập vào bầu không khí sau buổi hòa nhạc. Chị tưởng như đã đọc thấy ở mọi nơi, trong mọi ánh mắt sự phán xét và mỉa mai của những con người mà chị từng xem thường cử chỉ và lời nói của họ. Đến nay, vì biết rằng chẳng cái gì cũng như chẳng còn ai đợi chờ chị ở bên ngoài vào giờ mà trên những con tàu của công ty vận tải, những bóng đèn to, đèn nhỏ đã được bật sáng, khi mà hồ nước lóng lánh dưới ánh đèn và ánh trăng, chị nán lại trong tầng hầm. Chị không đến mức tìm kiếm một nụ cười, một câu nói "Anh đưa em về nhé?", hay "Chúng ta cùng làm một cốc cà phê được không?". Chị tìm kiếm âm thanh, hơi ấm từ mọi người, một cảm giác cô đơn, chị để khoảnh khắc ấy kéo dài ra, bởi vì biết rằng khi trở về nhà bà cô già nua của chị, chị sẽ lại cảm thấy vết rạn trên chiếc cốc.
9
Điều tôi không thể kể với Franz là: một ngày, vào lúc 12h30, tại nhà hàng kiêm quán ba Montana nơi chúng tôi thường lui tới – nhân viên ở đây ít soi mói hơn tại các khách sạn ở thành phố dưới thung lũng, và Luca đã boa hậu hĩ để bản tính cả thẹn Thụy Sĩ nhắm mắt trước những lần đến rồi đi thoáng qua của một cô gái trẻ chừng hai ngươi tuổi cùng với một người đàn ông ngoài bốn mươi tuổi với một chiếc nhẫn cưới đeo trên ngón đeo nhẫn – một ngày, Luca đã nói:
- Kết thúc rồi.
Điều tôi không thể kể với Franz là tôi đã hiểu và không hiểu thế nào:
- Cái gì kết thúc?
- Hai chúng ta. Kết thúc rồi. Kể từ ngày hôm nay, kể từ giờ phút này, chấm dứt, chúng ta không gặp nhau nữa.
Điều tôi không thể kể với Franz là làm thế nào mà những "tại sao" của tôi chỉ nhận được lời đáp là vài câu sáo rỗng phát ra bằng giọng dửng dưng:
- Chuyện là thế đấy. Chúng ta chẳng thể làm gì được. Mọi thứ đều có kết thúc.
Và câu nói tàn nhẫn có thể gọi là khô khan, bằng một giọng vô cảm, như người ta thông báo giờ tàu:
- Nhọc lòng chẳng bõ công.
Chỉ sau đó rất lâu tôi mới hiểu được ý nghĩa ác độc trong câu nói ấy. Tôi cho rằng hẳn nó được buông ra theo ý muốn của Luca để tôi chỉ có cảm giác oán hận, thậm chí kinh tởm ông ta. Ông ta càng khiến tôi sửng sốt và làm tôi thương tổn, vết rạn trên chiếc cốc càng lớn, tôi lại càng đau đớn, dĩ nhiên, nhưng từ đó, tôi lại càng lên án ông ta. Đó là một thủ đoạn của kẻ trưởng thành, bước tính toán của một gã xảo quyệt. Chắc chắn đây không phải lần đầu, trong cuộc đời chinh phục không bao giờ thỏa mãn của mình, ông ta sử dụng phương pháp này. Chắc chắn là những lời lẽ, cử chỉ yêu đương mà ông ta khai tâm cho tôi, với ông ta, là vở hài kịch Don Juan bất tận của những gã đàn không không bao giờ thỏa thuê, bị ám ảnh bởi sự thất bại cũng như sự chinh phục, những gã mà việc tìm kiếm chóng vánh một tình yêu mới mẻ sẽ giúp che lấp đi nỗi sợ hãi thời gian vì thời gian đang vuột khỏi bàn tay họ và cái chết đang bắt kịp họ. Nhưng làm thế nào tôi có thể biết được hay hiểu được điều đó, khi mà tôi đã quá dễ dàng ngã lòng trước những lời tán tỉnh của ông ta, khi mà tôi quá trong trắng chưa hề có chút kinh nghiệm, khi mà cho tới tận ngày gặp Luca tôi chẳng biết gì ngoài cảm giác thiếu vắng, chờ đợi, đời sống tình cảm trống trải và ước mong một tình yêu. Bởi giờ đây với tôi thật đơn giản để xác nhận ra những gã đó nên tôi mới có thể chắc chắn nhận ra! Những gã đó đều giống nhau, với cái quầng sạm đen quanh mí mắt ấy, cái nếp nhăn trễ nải ấy và hấp dẫn nơ! i bờ môi ấy, cơn cuồng nhiệt ham muốn tục tĩu ấy, những điếu xì gà ấy, những ngón tay thô tục ấy, những cái gáy nần nẫn ấy, cái tính ngờ vực đa nghi đã ăn sâu vào đầu óc trước tất cả những gì liên quan đến trẻ con ấy, cái niềm ham thích nực cười và khiến người ta động lòng với cuộc chơi, với trò mỉa mai phông trương ấy, mối quảng giao ấy, sự thường xuyên trối bỏ lối tư duy trừu tượng ấy, sự yếu ớt đằng sau vẻ mạnh mẽ bề ngoài ấy: những kẻ "săn gái".
Ngày hôm đó, Luca vẫn mặc một trong những chiếc áo sơ mi xanh nhạt quen thuộc với cái cà vạt dệt kim đen, vẫn mặc bộ vest sẫm màu sọc xám nhỏ quen thuộc và đi đôi giày da mộc đen đánh xi kỹ càng. Ông ta luôn đi những đôi giày đánh xi bóng lộn.
10
Tôi nín lặng, tôi nghĩ về những tháng ngày cô đơn tuyệt vọng và khắc nghiệt ấy. Franz cũng nín lặng, như thể cậu chờ đợi tôi đi xa hơn trong câu chuyện của mình. Trên mặt hồ, vài chú thiên nga đang lặng lẽ bơi lội, kiếm chút thức ăn.
Khi đó, chúng tôi thấy một người đàn ông lại gần chiếc ghế nơi chúng tôi đang ngồi. Mũi ông ta nhọn, ửng đỏ, mái tóc màu hoe nhạt, ông ta có vẻ bình thản, ngoan cố. Hẳn ông ta phải ngoài bốn mươi. Tầm vóc nhỏ bé, hông hẹp, một người đàn ông bình thường có vẻ ngoài không mấy hấp dẫn. Ông ta nhìn tôi bằng ánh mắt lờ đờ.
- Tôi có thể ngồi không, thưa cô? Ông ta hỏi tôi.
Tôi chưa kịp phản ứng gì thì Franz đã đáp lời ông ta với vẻ dữ dội khiến tôi ngạc nhiên:
- Không thưa ông, ông không thể ngồi được. Ông thấy rõ rằng cô gái trẻ này và tôi, chúng tôi ngồi hết chỗ rồi và ngoài ra, chúng tôi đang có một cuộc chuyện trò, một cuộc chuyện trò hẳn sẽ không chấp nhận sự cắt ngang giữa chừng của một người như ông.
Người đàn ông lùi lại, sửng sốt, phật ý:
- Nhưng… nhưng… ghế này là dành cho tất cả mọi người trong thành phố, cậu bé của tôi ạ.
Franz đáp:
- Có thể chúng được dành cho tất cả mọi người nhưng không phải chiếc này, ông thấy đấy. Cô gái trẻ này và tôi đã được nhượng quyền tuyệt đối rồi.
- Vậy à?
- Phải, hoàn toàn. Hơn nữa, đừng gọi tôi là "cậu bé của tôi", nếu không, để đáp lại ông, tôi sẽ dùng những tính từ có thể khiến ông mếch lòng, thậm chí dập tắt những suy nghĩ viển vông của ông về chính bản thân mình đấy.
Sự táo tợn của cậu bé khiến người đàn ông đờ ra. Khuôn mặt ông ta căng phồng, đỏ ửng. Bị bất ngờ vì ngạc nhiên và cố kìm nén cơn giận, giọng nói mang âm điệu Thụy Sĩ nặng nề của ông ta chậm chạp lắp bắp điều gì đó thật nực cười.
- Nhưng tóm lại, nhưng tóm lại, điều đó đáng, điều đó đáng…
Franz không buông tha ông ta:
- Ông hãy giải thích đi, thưa ông. Điều đó chính xác là cái gì, thưa ông?
- Ờ… ờ… điều đó đáng ăn tát.
Franz cười khẩy:
- Ô này! Cẩn thận đấy! Chúng ta đang bước vào vùng nguy hiểm. Ông không tưởng tượng được, ông không có chút ý niệm nào về điều mình sẽ gây ra nếu ông dám đặt tay lên người tôi đâu. Tôi thông hiểu sâu sắc nghệ thuật chiến đấu đường phố và nhờ sự giáo dục của một vài quân sư đến từ phương Đông, tôi tích lũy được những đòn trả đũa có thể khiến ông phải ăn đất.
Cậu thao thao bất tuyệt. Tôi vừa kinh ngạc vừa không ngăn nổi mình muốn cười trước màn trình diễn của cậu bé đang căng thẳng và mỉa mai, đang thắng thế trước người đàn ông trưởng thành, người vẫn mở to hai mắt và lùi lại trước điều không ngờ tới. Ông ta thử lần cuối:
- Nhưng… nhưng, ở thành phố này người ta không ăn nói như vậy.
- Dĩ nhiên, bởi vì tôi không phải người thành phố này. Tôi đến từ nơi khác, thưa ông, và thành phố của ông chẳng làm tôi bận lòng. Với lại, thêm vào đó, ông là ai mà dám quyết định cách nói năng phải chiếm ưu thế tại một thành phố cho dù đó có là thành phố nào đi nữa.
Tôi thấy Franz đang làm quá, tôi nghĩ đã cảm thấy dấu hiệu của bạo lực, và tôi sợ cho cậu. Nhưng người đàn ông từ bỏ. Ông ta khoát tay, như thể chấp nhận thất bại, chấp nhận mình không thể đối đầu với miệng lưỡi như vậy, và nhất là không thể đối đầu với việc bỏ qua rào chắn về tuổi tác và ước lệ theo đó trẻ con không thể nói chuyện với người lớn như thể bản thân chúng cũng là những người lớn.
- Thôi được, thôi được, tôi đi, ông ta nói.
Ông ta quay lưng. Đằng sau bờ vai đung đưa, bước đi đánh hông thiếu duyên dáng kia, người ta có thể đoán ra sự bối rối vì bị xúc phạm của ông ta. Tôi đợi ông ta đi xa hơn một chút rồi mới bắt đầu cười không ngừng nổi.
- Bạn thấy đấy, bạn có thể cười mà, Franz nói với tôi.
- Em thậm chí còn phùng mang trợn má. Suýt nữa thì em để ông ta cho em một cái tát thực sự.
- Tôi biết những chuyện còn tồi tệ hơn thế.
Tôi lại tiếp tục cười. Rồi, tôi bình tĩnh lại.
- Chị không cười như thế này từ khi… chị không biết nữa.
- Nhìn bạn xem, bạn chảy nước mắt, bạn cười chảy cả nước mắt.
- Đây là lần đầu tiên kể từ khi trái tim chị…
- Hãy quên cái đó đi, được không? Trái tim tan vỡ, trái tim tan vỡ, được rồi, hết rồi, trái tim bạn không còn tan vỡ nữa, bạn thấy rõ rồi mà, vì bạn có thể cười.
- Chị không biết. Vẫn còn quá sớm để nói như vậy.
- Nhưng tôi thì tôi biết, Franz nói bằng giọng kiên quyết mà người ta có thể dung thứ được bởi nó quá trong trắng.
Tôi hôn lên một bên má cậu.
- Cảm ơn em, tôi nói với cậu.
Cậu vội vàng đứng dậy.
- Tôi bị muộn rồi, tôi phải đến đó, nhanh lên, nhanh thôi!
Cậu lao đi hết tốc lực. Tôi đã nắm được một vài thông tin. Tôi biết ký túc xá của cậu nằm ở khu Vikturia Platz. Vậy là, để đi đường ngắn nhất, cậu phải qua cầu Kappell khi đó chưa bị cháy, và tôi tưởng tượng ra những bóng dáng nhỏ bé hoạt bát của cậu hăm hở trong khoảng không gian trên những tấm mè gỗ, tránh người qua lại và khách du lịch, đôi giày làm vang lên những tiếng táp-táp-táp-táp, tiếng động dội qua lại thành bên trong cây cầu có mái che, và tôi muốn cảm ơn cậu lần thứ hai. Nhưng cậu đã chạy đi rồi, chắc hẳn cậu đã tìm đến được chỗ cây cầu. Tôi hình dung ra cậu vừa chạy vừa mỉm cười.
11
Ngày hôm sau, trời rất đẹp. Từ xa, người ta có thể lẫn lộn thiên nga với mòng biển. Còn có cả những chú chim mỏ đỏ rực với bộ lông đen ánh đồng. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy giống vịt này. Tôi nghĩ chúng đề từ rất xa – có lẽ từ Fruschen, nơi bắt đầu hồ nước, người ta từng nói với tôi rằng tất cả vùng châu thổ tràn ngập chim di trú, nào là chim cốc, cò nhỏ, rồi chim cổ đỏ và chim choi choi. Người ta thường nhắc đến vùng này của bang như một góc thiên đường.
Franz tới sau tôi một lát và hôn lên má tôi. Người cậu phảng phất mùi mực cùng mùi phấn của một lớp học.
- Hôm qua chị nói cảm ơn em, tôi bắt đầu, vì em đã làm cho chị cười. Và bởi vì, có em và nhớ em, từ khi chúng ta chuyện trò cùng nhau trên băng ghế này, chị đã có thể kể ra được phần nào mọi chuyện, kể ra được điều mà chị từng tưởng là tình yêu đã mất đi như thế nào. Kể chuyện đó với em đã giúp ích cho chị.
- Bạn chưa kể hết tất cả với tôi.
- Làm điều đó khó lắm, thậm chí là không thể được. Em biết rõ người ta chẳng bao giờ có thể "kể hết mọi chuyện". Vả lại, cũng không cần phải thế. Điều quan trọng là em đã giúp chị.
Cậu nhíu mày.
- Tại sao lại nói "em đã giúp chị"? Tại sao lại phải nói ở thời quá khứ. Tôi giúp bạn. Và bạn cũng thế, bạn giúp tôi.
- Làm sao mà được như thế, Franz? Chị có thể giúp được em điều gì khi em chẳng nói cho chị biết bao nhiêu về em cả. Thực ra, chị chẳng biết gì về em. Em khiến chị có thể nói và chị thích chuyện trò với em, và điều ấy giúp ích cho chị, nhưng còn chị, chị có thể giúp gì cho em đây?
Im lặng. Rồi câu trả lời của cậu, ung dung, như thể cậu đã suy nghĩ rất lâu, đắn đo từng câu từng chữ, như thể cậu đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần:
- Bạn giúp tôi đơn giản vì bạn ở đây. Vì ngày nào tôi cũng gặp bạn vào cùng một giờ, và khi từ biệt bạn, tôi biết sẽ gặp lại bạn vào ngày hôm sau, chỉ thế thôi cũng đủ khiến tôi hạnh phúc rồi. Tôi chẳng dành tình cảm tương tự cho bất kỳ ai khác trong cuộc sống thường nhật của mình.
Giữa chúng tôi đã hình thành nhiều thói quen. Chúng tôi bày bữa trưa của mình – hoa quả, bánh bích quy, sandwich – lên trên ghế băng và quay mặt vào nhau. Franz co chân lại còn tôi xoay người để đối diện với cậu và theo dõi được nét mặt cậu. Cậu chuyển từ vẻ ngây thơ sang tinh tường, từ một nụ cười tự phụ đầy tin tưởng sang vẻ bẽn lẽn lặng thinh, từ cơn cáu giận trẻ con bướng bỉnh sang vẻ bình tâm của một chiến binh chán ngán mọi thứ. Tôi thấy trong mắt cậu một tia sáng khác trước. Cậu nói với tôi:
- Bạn đã từng thiếu vắng tình yêu suốt những năm tháng qua. Bạn bị bỏ rơi hai lần. Lần đầu tiên là bố bạn bởi ông đã mất, và sau đó là người đàn ông ấy, bởi ông ta đã rời bỏ bạn. Với lại, bạn chưa bao giờ tự hỏi phải chăng người đàn ông ấy, theo cách của ông ta, đã trở thành hiện thân cho hình ảnh của bố bạn trong bạn sao? Một kiểu người thay thế ấy?
Tôi ngắt lời cậu. Điều đó khiến tôi khó chịu, có thể bởi cậu đã nói đúng. Nhưng tôi đã cắt ngang lời cậu, như một cô giáo với học sinh của mình:
- Làm ơn, Franz, đừng có phân tích tâm lý nữa.
Cậu cười.
- Giá mà chỉ cần nói những điều hiển nhiên để có thể được coi là một nhà tâm lý học thì được thôi, đồng ý!
Cậu cầm lấy tay tôi rồi chuyển giọng, nhẹ nhàng và kín đáo hơn:
- Rất tiếc, nhưng tôi sẽ kể về mình cho bạn nghe.
- Rốt cuộc!
- Rốt cuộc, rốt cuộc… tôi thiếu thốn điều gì nhất? Cũng giống như bạn. Bố mẹ tôi không yêu tôi, họ không muốn có tôi, tôi là một tai nạn bất ngờ trong cuộc sống ích kỷ của họ. Tôi đã chứng kiến họ xâu xé nhau, lừa dối nhau, lường gạt nhau và đánh đập nhau, gào thét lên lòng căm hận lẫn nhau. Tôi đã thấy họ sẵn sàng giết nhau, tôi đã thấy họ làm mọi thứ và làm mọi thứ với nhau – thế đấy! Tất cả mọi thứ. Lẽ ra người ta phải đưa tôi tránh xa khỏi họ trước khi chuyện đó nổ ra. Những người giám hộ, bạn biết đấy, vào mỗi dịp cuối tuần, thật là tử tế, nhưng điều đó không mang lại cho bạn thứ bạn thiếu thốn nhất.
- Là thứ gì vậy?
- Sao lại muốn tôi phải nhắc lại những gì tôi vừa mới nói với bạn? Thứ gì đó người ta có thể chia sẻ mà không ai khác can dự được vào. Nó diễn ra giữa hai người với nhau và nó là điều gì đó bí mật. Huyền bí.
Bàn tay cậu siết chặt tay tôi, nhưng trong chốc lát cậu không còn chú ý đến tôi nữa. Cậu quay mặt nhìn sang hướng khác, và tôi tưởng tượng cậu đang nghĩ đến điều mà tôi không thể biết hoặc không hiểu nổi: điều gì đó đã "nổ ra". Cậu đã nhắc đến từ "huyền bí". Tôi bị kích thích, tò mò muốn biết nhiều hơn về cậu bé dường như chẳng đến từ nơi nào này, cậu đến để đồng hành cùng tôi, để khởi đầu cho một cuộc đối thoại chấm dứt sự đơn độc nơi tôi. Giờ đây, tôi chẳng còn chút ham muốn tìm kiếm lời đáp thay cho những câu hỏi đã tự đặt ra cho mình, thay vào đó một cảm giác gần giống với tình cảm trìu mến mà Franz đã thiếu vắng trong cuộc đời dâng lên trong tôi. Cậu bé luôn làm cho mình dạn dày bằng sự khôn ngoan trước tuổi và uy quyền người lớn giả tạo bỗng nhiên lại có vẻ yếu đuối, đắm mình trong hoài niệm về quá khứ.
- "Lẽ ra người ta phải đưa tôi tránh xa khỏi họ trước khi chuyện đó nổ ra"? Chuyện gì đã nổ ra vậy? "Lẽ ra người ta", vậy có nghĩa là người ta đã không làm thế sao?
Cậu lại hướng ánh nhìn về phía tôi.
- Bạn cũng đặt ra những câu hỏi hay nhỉ, cậu nói. Rõ rang chúng ta được sinh ra là để hiểu nhau.
- Có thể, nhưng em vẫn chưa trả lời chị.
- Tôi không buộc phải trả lời.
- Phải, nhưng trong trường hợp này, như thế có nghĩa là em không tin tưởng chị.
Cậu cúi đầu và đưa mắt ra chỗ khác, rút tay khỏi bàn tay tôi rồi thì thầm:
- Dĩ nhiên là tôi tin tưởng bạn và còn hơn thế nữa. Tôi đã nói với bạn điều bạn không muốn nghe: bạn là người mà ngày nào tôi cũng chờ đợi để được gặp trong hạnh phúc. Tôi không ngừng nghĩ tới biết bao điều và tôi luôn cố gắng thấu hiểu chúng: khoảng trống, thời gian, cái vô hạn. Tôi sẽ phải mất cả cuộc đời để làm được như thế. Nhưng điều tôi hiểu ngay tức thì, tại đây, trên băng ghế nằm trước hồ nước này, đó là niềm hạnh phúc mà bạn mang tới.
Cậu thở dài, như thể bỗng nhiên cảm thấy mệt mỏi.
- Với những điều còn lại, tôi sẽ trả lời bạn sau, nếu tôi có thể. Rồi mọi chuyện sẽ đến, như nước cứ trôi đi vậy. Không cần phải gắng sức đẩy cửa nhanh hơn mức cần thiết. Đột nhiên, bạn thấy tôi ở đây trong tình trạng mệt đứt hơi. Tuy nhiên, tôi lại phải đi và phải chạy nếu không muốn bị muộn.
- Nhưng ít nhất cũng nói cho chị một chuyện: làm thế nào mà trường nội trú lại cho phép em ra ngoài vào giờ ăn trưa thế này trong khi vận mặc đồng phục? Chỉ mình em có thể làm thế thôi à?
Cậu bĩu môi kiêu ngạo, có lẽ còn có vẻ khoe khoang.
- Với một chỉ số thông minh cao – và thậm chí cao một cách bất thường, theo những thống kê của họ – thì họ chắc chắn có thể dành ra vài quyền ưu tiên chứ. Nhưng bạn biết đấy, việc xé rào chỉ có hiệu lực vào những ngày đẹp trời… Chúng ta sẽ làm gì vào mùa đông này nhỉ? Làm thế nào chúng ta có thể gặp nhau, và ở đâu đây?
Tôi mỉm cười.
- Vẫn chưa đến lúc đó mà , Franz, mùa đông còn xa lắm.
- Tôi yêu bạn, cậu thì thầm.
Buổi tối hôm ấy, một điều đặc biệt đã xảy đến với tôi.
12
Buổi tối hôm ấy, chúng tôi chơi đệm cho một trong những giọng nữ cao xuất sắc nhất thế giới.
- Cô ấy đã thể hiện những khúc lied ([2]) của Schubert. Đương nhiên, đây không phải lần đầu tiên bọn chị chơi đệm cho một nghệ sĩ nổi tiếng tầm cỡ đó. Tất nhiên là buổi chiều cô ấy cũng đã luyện tập cùng dàn nhạc, để điều chỉnh giọng cho phù hợp với bọn chị, hay đúng hơn là để bọn chị điều chỉnh cho hợp với giọng cô ấy. Bọn chị hiểu là cô ấy chỉ lướt qua giai điệu thôi, còn để dành mọi thứ cho buổi tối. Tuy nhiên, chị cũng không ngờ rằng mình lại xáo động đến vậy. Chị biết là một giọng solo không bao giờ thể hiện hết mình khi luyện tập và chị biết, chị biết rất rõ rằng giọng nữ cao này được xem như một trong những giọng ca đẹp nhất vào thời điểm hiện nay. Cô ấy được ca tụng, được tâng bốc, cô ấy lưu diễn vòng quanh thế giới và ở bất cứ đâu trong các khán phòng, luôn là niềm vui sướng và biết ơn ấy bùng nổ, luôn là tiếng vỗ tay mời ra lại sân khấu ấy, những đóa hoa ấy, những hàng khán giả đứng vỗ tay không dứt ấy. Bọn chị thì gõ cây vĩ lên giá nhạc, như vẫn thường làm để tập trung mọi người trước tiếng la hét và vỗ tay của khán giả, và nói chung, khi mọi chuyện kết thúc, giữa hai lần đi ra đi vào của nghệ sĩ solo, các nhạc công chuyện trò với nhau và rồi cây solo quay trở lại và mọi người lại bày tỏ lòng cảm phục với anh ta. Một số người còn giậm chân. Tối qua, v�! �i giọng nữ cao ấy, bọn chị đã không thể trò chuyện cùng nhau, dù sao thì cũng không phải chị. Chị đã rất xúc dộng, ngất ngây, say đắm. Chị cảm thấy như có cái gì đó chạy qua mình khi cô ấy bắt đầu cất lời ca khúc Nacht und Traüme ([3]), và đến giữa bài hát, chị đã khóc.
- Trong lúc bạn đang chơi à?
- Em biết đấy, với một khúc lied thì người ta chẳng có nhiều việc để làm. Dàn nhạc chơi rất ít. Mọi thứ được tiến hành đều để đệm cho giọng hát, thậm chí đơn giản là sự im lặng. Chị có cảm giác rằng cô ấy đã giúp chị thực sự xóa đi những tổn thương, những ruồng bỏ, xóa đi nỗi phiền muộn từng ở trong chị. Như thể vẻ đẹp ấy đã xóa sạch mọi thứ.
Franz hấp tấp.
- Vẻ đẹp nào ? Bạn định nghĩa thế nào là cái đẹp? Cái đẹp là gì?
- À, Franz, cái đẹp là… Chị khâm phục mục đích của em khi em nói với chị rằng em muốn gắng sức hiểu được khoảng trống và cái vô hạn, nhưng còn cái đẹp, chị ko nghĩ là người ta phải gắng sức hiểu nó. Chị tiếp nhận nó, chỉ thế thôi, chẳng việc gì phải hiểu xem cái gì là đẹp.
- Nhưng nếu thế, bạn đã làm gì, nói cho tôi biết đi, tôi muốn biết, bạn đã cảm thấy điều gì?
- Chị cảm thấy bất hạnh đã ở phía sau mình.
- Chắc chắn?
- Chị không biết.
Điều mà tôi biết khá đơn giản, nhưng vào chính thời điểm tôi nói với Franz, tôi vẫn còn chưa thể diễn đạt nổi. Tôi không giỏi mô tả mọi thứ. Có lẽ tôi thiếu vốn từ. Được nuôi dạy trong môi trường âm nhạc, tôi không lĩnh hội được sức mạnh của ngôn từ. Kỳ lạ thay, điều ấy lại chẳng hề làm tôi cảm thấy phiền lòng. Với tôi âm nhạc là đủ.
Tối hôm ấy, sau buổi hòa nhạc, bên ngoài trời đổ mưa. Mọi thứ lấp lánh trên quảng trường vẫn còn ấm ướt và trên mặt hồ nước đặc sệt và tối sẫm, dường như có một làn bụi xanh lơ lơ lửng lửng xung quanh những bóng đèn nhỏ trên mấy con tàu của công ty vận chuyển đang sắp khởi hành chuyến chở khách cuối cùng trong ngày. Tôi yêu biết mấy màn đêm này, tôi cảm thấy trong mình một sự đổi thay sâu sắc. Tất cả lòng kiêu ngạo mà tôi đã đặt không đúng chỗ để tự bảo vệ mình và để thoát khỏi việc Luca dứt khoát cắt đứt quan hệ, những thành kiến của tôi với các thành viên trong dàn nhạc, rồi nỗi cô đơn và cảnh tôi sống khép mình, tất cả đã bị cuốn sạch nhờ vào tài năng có một không hai của giọng nữ cao và lời ca đau xé lòng của Schubert: Đêm và những giấc mơ. Tôi cảm thấy mình tách khỏi những hàng ghế. Bởi âm nhạc có thể là một sự cứu rỗi như thế, nó đưa tôi thoát khỏi số phận, nâng tôi lên cao hơn chính bản thân mình. Vượt qua uy lực của vạn vật. Vượt qua cái mà tôi vẫn nhầm lẫn cho là định mệnh. Đêm hôm ấy, số phận phải trở thành một nghệ sĩ độc tấu của tôi đã được quyết định. Ý nghĩ tự phụ này cứ dai dẳng đeo đuổi tôi: từ giờ trở đi, tôi phải làm gì đó để thoát khỏi tình trạng vô danh, khỏi sự tầm thường, khỏi sự phụ thuộc vào một ông nhạc trưởng và một dàn nhạc. Chính bản thân tôi, một ngày nào đó, tôi cũng có thể một mình đứng trước họ, bên cạnh một nhạc trưởng để, cùng với nhạc cụ của mình, dâng tặng vẻ đẹp mà người phụ! nữ ấy đã làm được bằng giọng hát của cô. Tôi muốn nhìn thấy một vết hằn nằm phía dưới cằm trên cổ mình, cái vết hằn trên da các nghệ sĩ solo chứng thực hàng giờ chơi violon, một mình, đơn độc và miệt mài, chứng thực bạn đã vượt qua một mức độ nào đó. Tôi biết rằng sẽ rất gian nan để làm được điều ấy. Lẽ ra tôi phải khởi đầu với một hoài bão như thế cho cuộc sống và vượt qua những thử thách nhập môn tất yếu trên con đường này, phải cố gắng tuân thủ kỷ luật, và có lẽ tôi sẽ phải xem lại mọi quyết định bước ngoặt, kiếm tìm mọi hình mẫu, nắm bắt mọi cơ hội, chứ không thể cứ tiếp tục hài lòng với việc gõ cây vĩ lên giá nhạc của mình trước màn phô diễn tài năng của những người khác. Một ngày nào đó, họ sẽ làm việc ấy vì tôi.
- Đó phải chăng là lòng tự kiêu, tất cả chuyện này, phải chăng là cuộc kiếm tìm sự thỏa mãn cái tôi của bạn?
Không hề, chị không nghĩ vậy, chị không cho là như vậy. Hẳn là chị khó có thể tự lý giải được nhưng điều ấy mạnh hơn thế, thuần khiết hơn thế. Điều ấy chính là sự tin tưởng rằng cảm xúc mà âm nhạc đã mang đến cho chị và bản thân chị có thể mang đến cho người khác sẽ giúp chị thoát khỏi tình trạng mà chị vẫn đắm chìm trong đó từ quá lâu rồi. Em biết không, chị rất ghét một từ vẫn được dùng giữa nhạc công bọn chị với nhau. Người ta gọi hàng ghế mà những nghệ sĩ violon trình độ như chị vẫn ngồi là "vũng bùn". Chị ghét từ này. Chị muốn thoát khỏi vùng bùn ấy bằng tất cả sức lực của mình. Chị không giỏi diễn đạt lắm, chị rất tiếc, nhưng là thế đó.
- Bạn diễn đạt rất tuyệt, đừng tự đánh giá mình thấp nữa.
Tôi nhìn Franz. Khi cậu đưa ra, với vẻ cao ngạo trẻ con, những đánh giá chắc nịch khiến người khác yên lòng bằng giọng của một ông chú nhiều tuổi hay một giáo sư đạo đức như vây, người ta thấy xuất hiện trong mình mong muốn đưa tay lên vuốt dọc má cậu, điều ấy khiến bạn giống như một bà mẹ.
- Franz, chị ngưỡng mộ em lắm.
Cậu giãy nảy lên.
- Không, nhất định không được nói như thế, bởi vì tôi thì tôi yêu bạn. Chứ còn "chị ngưỡng mộ em lắm" kiểu vậy thì thật là phóng đại, và do đó chẳng có ý nghĩa gì.
Cậu tiếp tục :
- Nói với ai đó rằng "chị ngưỡng mộ em" tức là ta không thực sự yêu người đó.
- Nhưng dĩ nhiên là thế mà, chị yêu em, Franz ạ.
Cậu đứng dậy, trịnh trọng. Cậu bắt đầu tiến một bước về phía hồ, quay lưng lại với tôi, rồi cậu trở lại ngồi đối diện tôi trên băng ghế. Cậu có cái dáng vẻ thẳng đơ mà người ta thường thấy ở những nhân chứng trong các phiên tòa, ngay trước khi họ buộc phải thề "chỉ nói sự thật".
- Tôi có điều này muốn bày tỏ cùng bạn, cậu nói.
Cậu hít một hơi dài, căng tràn lồng ngực, nhắm nghiền hai mắt.
- Chuyện là thế này. Thoạt tiên, bạn bước vào cuộc đời tôi như một bóng hình cô đơn ngồi trên ghế băng. Tôi đã quan sát bạn rất lâu trước khi quyết định tới chỗ bạn. Tôi vừa được hiệu trưởng trường nội trú đồng ý cho vắng mặt vào giờ ăn trưa ngay khi thời tiết thuận lợi, vào đầu mùa xuân, và tránh phải ngồi cùng với những học sinh khác tại căngtin. Vị thế đặc biệt mà tôi có được ở trường ấy đã cho tôi đặc quyền này: chạy qua các con phố trong thành phố để tới ngắm nhìn lũ vịt trên hồ nước, ngắm nhìn dãy núi phía bên kia hồ, ngắm nhìn bầu trời phía trên những rặng núi, và vừa suy nghĩ về cái vô tận vừa ăn bánh sandwich do Frau Schneider chuẩn bị.
- Frau Schneider là ai?
- Làm ơn đừng ngắt lời tôi. Đấy là vợ người gác cổng trường, bà ấy phụ trách việc ăn uống, khu nội trú và căngtin. Nhưng làm ơn đừng ngắt lời tôi nữa, hãy để tôi nói đến hết điều tôi muốn bày tỏ.
Cậu lại hít một hơi dài, lần này hai con mắt đã mở ra.
- Thay vì dõi theo cánh chim thiên nga và lũ vịt trời đến rồi đi, ngay từ ngày đầu tiên, tôi đã bị thu hút bởi bóng hình một cô gái trẻ mà dáng đi lộ rõ sự cô đơn. Và không chỉ có dáng đi, mà ngay cả cách cô ấy gặm một quả táo hay ăn ngon lành một cái bánh quy với mái đầu nghiêng nghiêng, tấm lưng còng xuống, ánh mắt xa xăm, và tôi ngay lập tức cảm thấy gắn bó với cô ấy. Trí tò mò của tôi tăng lên gấp đôi khi ngày hôm sau, cũng vào giờ ấy, và cả những ngày tiếp sau vào cùng một giờ, tôi lại nhìn thấy cô gái trẻ dường như luôn khép mình trong nỗi cô đơn ấy và cô ấy, theo một cách nào đó, có vẻ như lại yêu thích nó, yêu thích sự lẻ loi ấy. Tôi tự nhủ: như vậy có thể người ta cũng cô đơn giống mình, cũng thiếu thốn bạn bè và người thân giống mình. Cô ấy lặp đi lặp lại vẫn những hành động ấy, như thể một nghi lễ. Điều đó kích thích trí tò mò của tôi, khiến tôi xúc động. Tôi đã quyết định mua một chiếc ống nhòm nhỏ chuyên dùng để đi xem kịch.
- Cái gì?
- Phải, đừng trách tôi, đừng coi đó là việc xấu, làm ơn đi, tôi không phải là một kẻ rình mò, tôi chỉ muốn biết chắc chắn những gì bạn đang làm, những gì thể hiện trên khuôn mặt bạn.
- Em muốn nói rằng em đã theo dõi chị?
- Không, không phải thế, vả lại làm ơn đi, tôi đã yêu cầu bạn đừng ngắt lời tôi cơ mà. Tôi đang đứng đây, trước mặt bạn, và như thế đã là thật khó cho tôi khi nói ra những tình cảm tôi dành cho bạn. Thế nên, đừng nói với tôi về chuyện dò xét, làm ơn đi. Tôi đã nhìn bạn bằng ống nhòm, điều ấy chỉ xảy ra có một lần. Bạn thấy không, tôi đâu có mang nó theo mình. Cho đến ngày tôi hiểu ra rằng bạn thuộc về cùng một gia đình với tôi, tôi đã bỏ cái dụng cụ ấy đi, hiện nó đang nằm trong ngăn kéo bàn đầu giường của tôi.
- Em đang nói về gia đình nào thế?
- À phải, có lẽ ta có thể gọi đó là gia đình của những người thiếu thốn. Ờ, những người thiếu thốn tình cảm trìu mến chẳng hạn.
- Tiếp đi.
- À, thế đấy.
- Cái gì?
- Tôi muốn đến gặp bạn. Và tôi đã làm thế. Chúng ta đã trò chuyện cùng nhau và dần dần bạn đã trở nên quan trọng với tôi, ừm…
Lần đầu tiên kể từ khi tôi gặp cậu, Franz có vẻ như phải tìm từ để nói. Sự ngạo mạn đầy lỹ lẽ đáng yêu của cậu, cách ăn nói không phù hợp với lứa tuổi của cậu đã biến mất nhường chỗ cho những "à", "ừ", "ừm", cho sự rụt rè, vụng về, nhưng chúng không cản được cậu, như cậu đã nói với tôi, là phải nói đến cùng điều cậu muốn "bày tỏ":
- Và dần dà tôi đã yêu bạn, nhưng suy cho cùng thì cũng khá nhanh. Và vì, về phía bạn, bạn là một người đã từng ít nhất hai lần bị bỏ rơi và chẳng còn tình yêu trong cuộc sống của bạn nữa, nên tôi rút ra rằng chúng ta, hai chúng ta có thể yêu nhau. Chúng ta yêu nhau vì tình yêu. Không những là có thể yêu nhau mà còn nên yêu nhau. Điều ấy đối với tôi, biết nói thế nào nhỉ, dường như là không thể thiếu được. Không thể tránh được. Một điều đán ao ước. Tôi mong muốn điều ấy bằng cả trái tim mình. Tôi muốn chúng ta yêu nhau, nhưng là như những đôi tình nhân. Tình yêu đôi lứa, không phải một kiểu tình yêu nào khác.
Cậu nín lặng. Tôi có thể đọc thấy trên nét mặt cậu một sự nhẹ nhõm vì đã dốc cạn tâm sự nhưng đồng thời cũng đầy âu lo. Cậu thật đẹp và khiến người ta mủi lòng, còn tôi không biết trả lời thế nào. Mỉm cười, như tôi vẫn làm từ khi cậu đứng dậy bắt đầu bài diễn thuyết ư? Mỉm cười, chắc rồi, bởi cậu khiến người ta phải mỉm cười, nhưng tôi cũng thấy rõ rằng cậu có thể sẽ coi đó là dấu hiệu của sự chế giễu, biểu hiện của sự trịch thượng, của lòng ban ơn ở tôi, và tôi lo sợ sẽ làm tổn thương cậu. Tôi không nói gì, đành chỉ nhìn cậu – giờ đang trong trạng thái bất động và cứng đờ trước lời tuyên bố hết sức nghiêm túc của mình. Tính chất quan trọng của nó đã làm tôi xúc động. Cậu bé này không còn là một cậu bé nữa, nhưng cậu cũng chưa phải một người đàn ông. Cậu đang ở vào giai đoạn mỏng manh, bấp bênh, khi người ta chấp chới bước sang tuổi niên thiếu. Chưa có gì ở cậu, từ dáng vẻ, giọng nói, những hành động, cho đến cái nắm tay đơn giản, để lộ ra những biểu hiện của tuổi dậy thì. Cậu vẫn là một cậu bé với những đường nét mờ nhạt, vả lại càng vô định hơn bởi tôi thực sự chẳng biết gì về cậu – ngoài những mẩu chyện, những lời bóng gió ám chỉ đến một sự kiện mà người ta lẽ ra phải mang cậu "tránh xa" khỏi nó, nhưng chẳng là gì cả. Cậu đã khiến tôi tò mò, quyến rũ tôi bằng sự lôi cuốn và nghiêm túc, bằng ngôn từ và những suy nghĩ chín chắn một cách lạ lùng, và trên hết, bằng cảm giác vững lòng ngày một lớn mà sự hi�! ��n diện hàng ngày của cậu mang đến cho tôi. Cậu đã nhẹ nhàng, nhanh chóng chiếm giữ một chỗ trong cuộc sống thường nhật của tôi. Tôi luôn chờ đợi cuộc gặp giữa chúng tôi. Nó phần nào đã giúp tôi quên đi những thất bại của mình, quên đi trái tim rạn vỡ, quên đi cơ thể bị bỏ rơi cho số phận, quên đi sự tuyệt vọng. Bởi tôi vẫn im lặng nên cậu lại cất lời:
- Bạn chẳng nói gì. Được thôi. Tôi không yêu cầu bạn phải trả lời ngay lập tức.
Sự ngây thơ nuôi dưỡng giấc mơ trong cậu. Tuy nhiên, cậu đã tìm lại được vẻ điềm tĩnh của mình và tiếp tục đóng vai người đàn ông trưởng thành. Cắt đặt, dẫn dắt, kiểm soát tình hình, hoặc là tin rằng mình kiểm soát tình hình.
- Hãy suy nghĩ về những gì tôi vừa nói. Chúng ta sẽ bàn đến nó vào ngày mai. Chuyện quan trọng đấy.
Cậu nhắc lại:
- Chuyện quan trọng đấy.
Vừa nhắc đến cái tầm quan trọng đang làm lồng ngực cậu căng lên và ánh mắt cậu lấp lánh, cậu đã vụt biến đi về phía đại lộ. Tôi thấy cậu tránh một người đi xe đạp, rồi một chiếc mô tô, vòng qua một xe điện và biến mất về phía cây cầu lịch sử, và tôi ước mong không có bất cứ điều bất hạnh nào xảy đến với cậu.
13
– Franz, thật là chị rất mến em và em là điều quý giá trong cuộc sống của chị, em đã trở thành một người bạn, chúng ta là hai người bạn, không có gì phải nghi ngờ điều ấy. Và bạn bè thì yêu mến nhau, chẳng có sự khác biệt lớn giữa tình bạn và tình yêu đâu.
- Có đấy, cho tôi được ngắt lời bạn. Tôi hiểu rõ là có đấy. Mọi người đều hiểu điều ấy. Và bạn, chính bạn cũng hiểu thế: có một sự khác biệt.
- Thôi nào, Franz, chúng ta hãy nghiêm túc.
- Chẳng lẽ tôi đang không nghiêm túc sao…
- Dĩ nhiên. Điều chị muốn nói với em là em đang tìm kiếm và đang yêu cầu một điều không thể có được. Hãy nhìn em đi, rồi nhìn chị nữa, chúng ta không cùng lứa tuổi, cơ thể chúng ta không cùng tuổi. Chị là một phụ nữ, còn em, em vẫn chưa trở thành một người đàn ông. Thứ "tình yêu đôi lứa" em nhắc đến hôm qua ấy, em phải hiểu rằng nó không thể có được. Ngay cả khi chúng ta bằng tuổi nhau đi chăng nữa, những chuyện ấy cũng không thể được tuyên bố, được quyết định như thể một dự án, trên một băng ghế gần hồ nước. Em thừa thông minh để hiểu những gì chị đang nói với em.
- Tôi không đồng ý với bạn. Hoàn toàn không đồng ý!
Tôi cười, lần này chẳng cần kìm giữ gì nữa. Ngay cả khi tôi xúc phạm cậu ấy, thì cậu ấy cũng cần phải nghe thấy tiếng cười này. Nó chẳng làm cậu ấy lúng túng. Cậu vẫn giữ vẻ kiên quyết ấy, vẫn ánh mắt tự tin và cái ý muốn gần như ngoan cố ấy.
- Tôi sẽ nói cho bạn biết tại sao tôi lại không đồng ý với bạn.
- Nói đi nào, Franz, nói đi.
- Với tôi, tuổi tác chẳng có gì quan trọng. Có thể với bạn tôi hơi khô khan, nhưng về phía bạn, tôi thấy rằng có lẽ thật không đúng chỗ, thật hấp tấp và nông cạn khi bạn đem tuổi tác ra làm cái cớ để tránh một cuộc phiêu lưu tình ái. Từ thời xa xưa, con người đã yêu nhau vì tình yêu đôi lứa, bất chấp mọi khác biệt. Tình yêu không có tuổi tác. Chẳng có tình yêu nào là không thể cả. Dù cho tình yêu đó thế nào thì cũng tốt hơn là thiếu vắng tình yêu.
- Đó chỉ là những lời lẽ khuôn sáo. Giữa chị và em có một rào cản mà em vẫn chưa vượt qua được. Đừng trách chị vì đã nói thế với em. Thật khó cho chị khi phải diễn tả điều ấy theo cách khác. Đừng bắt chị phải làm thế.
- Tôi không bắt bạn làm gì cả. Tôi sẵn sàng chờ đợi để cái rào cản mà bạn nói tới được loại bỏ. Tôi sẵn sàng yêu bạn mà không cần được đáp lại. Tất cả những gì tôi yêu cầu bạn, đó là đừng làm trái tim tôi tan vỡ.
Một cơn giông nổ ra. Nó đến từ phía xa, từ rặng núi phía Đông. Cái sắc xám xịt rồi đen kịt xâm chiếm bầu trời từ một lúc rồi nhưng tôi chẳng hề để ý tới; những đám mây bất chợt kéo ùn ùn và không khí phía trên hồ bỗng trở lạnh đột ngột. Trong vài giây, cơn mưa rào dày hạt đổ ập xuống đầu chúng tôi, rồi vô vàn những viên đá nhỏ cứng ngắc liên tiếp rơi xuống lạo xạo trên quần áo và lốc cốc trên băng ghế, rồi đập lên cánh tay, mặt mũi. Nó khiến người ta gần như đau rát. Franz hét lên:
- Đi trú thôi, ở đó, phía bên kia kìa.
Những người qua đường, những người đang ngồi trên các băng ghế khác, các bậc phụ huynh cùng con cái họ, những người bán kẹo và bưu ảnh, cả cái cộng đồng bé nhỏ ấy chạy tản mát trên kè và bờ hồ. Cơn giông dữ dội đã phá tan bầu không khí tĩnh lặng và nhịp điệu chầm chậm của thời khắc mà ở đó, thành phố vẫn dịu dàng ngắm nhìn giấc ngủ thôn dã quen thuộc của mình. Những vũng nước gần như lập tức xuất hiện dọc các vỉa hè và đường ray xe điện, ánh ngày biến mất, trời tối sầm. Chúng tôi chạy, tay trong tay, giữa tiếng ầm ì và ánh chớp lóe sáng, về phía nơi đầu tiên có thể trú ẩn – cổng xe vào của một tiệm đồng hồ . Franz cởi chiếc áo vest đồng phục xanh lơ của mình và chìa ra để choàng lên vai tôi. Tôi bật cười sau khi mặc thử.
- Nó quá nhỏ với chị, Franz ạ, quá nhỏ.
Thế là cậu liền đưa mắt liếc nhanh sắc lẹm, tiếp theo đó là một cái nhăn mặt buồn bã, như người ta vẫn thấy trên khuôn mặt các kỵ sĩ đua ngựa sau một cuộc đua thất bại. Tôi đã thấy vẻ tổn thương ấy lướt qua, nhưng đồng thời với nó là thái độ coi thường, là việc đột nhiên ý thức được một thực tế dữ dội hơn những giấc mơ ngây thơ của cậu. Cậu nói với tôi:
- Được rồi, tôi hiểu rồi. Đồng ý. "Quá nhỏ". Trả nó lại cho tôi.
Mọi hoạt động lưu thông trở nên tê liệt. Người ta chẳng nhìn thấy gì nữa, không một bóng người đi bộ, lũ vịt trời, thiên nga cùng mòng biển đã biến mất. Trời mưa ngày càng lớn. Những bờ kè, các lối đi dưới những hàng cây, bến đỗ tàu thuyền và các con đường chạy quanh bờ hồ lay động trước những đợt sóng nặng nề, tất cả đều vắng tanh. Nước vỗ bờ đen xạm, hai chiếc tàu hơi nước cũ dập dềnh lắc lư và có vẻ như không theo nổi hành trình xoay vần quen thuộc của những dây chão nữa. Tôi nghiêng người về phía Franz, khuỵu gối để đứng ngang tầm với cậu, khuôn mặt tôi kề sát mặt cậu. Nước mưa chảy ròng ròng trên gò má, mái tóc và vầng trán cậu, và tôi không thể phân biệt nổi liệu có những giọt nước mắt dưới mi mắt cậu không hay đó chỉ là nước mưa. Trong khi đó, cậu vẫn tiếp tục mỉm cười. Cậu thật đẹp. Đây là lần đầu tiên, kể từ khi tôi biết cậu, chúng tôi ở vào hoàn cảnh hai cơ thể đối diện nhau, má kề má, và tôi đã ôm cậu trong vòng tay mình cùng lúc cậu đưa tay choàng qua cổ tôi. Chúng tôi cứ đứng ôm ghì nhau như thế trong vòng vài giây, chẳng ai nói gì, chẳng ai có bất kỳ cử chỉ nào khác. Rồi Franz tách ra. Tôi đứng thẳng dậy. Cậu ngẩng đầu lên phía tôi.
-Tôi đi đây.
- Trời vẫn còn mưa mà. Hãy đợi thêm chút nữa, em sẽ ướt hết mất.
- Không, không, tôi không muốn đến quá muộn. Tạm biệt. Hẹn ngày mai. Tôi hy vọng ít ra là thế.
Khi trả lại áo cho cậu, tôi nhìn thấy trên lớp lót áo, mặt trong cổ áo, bốn chữ cái đầu thêu tay bằng chỉ đỏ trên nền xanh: F.X.V.H.
14
Chẳng mấy chốc trời đã tạnh. Những cơn gió mạnh cuốn đi không khí phía trên hồ nước và những mái ngói xám xịt. Những hoạt động bình thường dường như lại bắt đầu, thoạt tiên còn chầm chậm, sau đó đã lấy lại nhịp điệu quen thuộc. Ánh ngày quay trở lại nhanh như khi nó biến đi trước bóng tối dày đặc của cơn giông. Tôi lại nghe thấy tiếng kêu của vài chú mòng biển, tiếng còi tàu Stadt-Luzern rúc lên mời gọi hành khách. Đã đến lúc tôi trở lại phòng hòa nhạc.
Nếu như không có những vũng nước lớn buộc người qua đường phải tránh bằng mọi cách, không có những tia bùn do xe cộ đi qua làm bắn lên, những tia chất lỏng màu xanh lục tóe lên vỉa hè ấy, và nhất là nếu, trên mặt đường ướt sũng, không có hàng nghìn viên đá trắng nhỏ đang tan ra theo đủ mọi hình dạng, thì có lẽ người ta khó mà tin được rằng, vài phút trước đây, cơn giông đã tràn qua, thống trị mọi thứ, chi phối mọi thứ, với sự dữ dội của mình và với cái quyền lực khách quan thúc đẩy bước xoay vần của vạn vật. Như thể một sức mạnh xa lạ đã đến, rời rạc chuyển tới chúng ta những dấu hiệu của sự đổi thay, những chuyển động bất ngờ trong sự tồn tại của chúng ta.
Khi tôi quay lại chỗ các bạn đồng nghiệp, một người trong số họ đã bảo tôi qua gặp người phụ trách nhạc công – một dạng quản lý chung coi sóc hoạt động của toàn bộ dàn nhạc -, một người đàn ông ưa nhìn, với giọng nói chậm rãi, nhẹ nhàng. Ông luôn có một thái độ khoan dung đối với tôi. Ông đã thông báo với tôi rằng dàn nhạc sẽ đi lưu diễn nước ngoài và tôi cũng cùng đi. Ngoài ra, ông còn nói trong những ngày chúng tôi lưu lại
- Cô này, cô biết đấy – người đàn ông tử tế ấy nói với tôi bằng âm điệu chậm rãi điển hình của đất nước ông – cô biết đấy, những gì cô đang dự định khá là đặc biệt. Có thể nói rằng chẳng bao giờ một nhạc công dàn nhạc vượt được trình độ của mình để đạt đến trình độ của một nghệ sĩ độc tấu. Cô biết rõ điều này, phải không?
- Tôi biết, tôi đáp.
- Dĩ nhiên điều này không ngăn trở cô cố gắng. Nhưng rốt cuộc, thiên hướng chẳng phải cũng là vấn đề liên quan đến tư chất và tài năng sao? Nếu như cô đã không sớm rời bỏ được vị trí của mình trong dàn nhạc, hoặc thậm chí cô không bao giờ rời bỏ được, thì cũng có cái lý của nó. Người ta làm những gì mình có thể trong cuộc sống, và nếu người ta không thể làm hơn nữa, thì thế, người ta không làm nữa.
Tôi không muốn trả lời. Tôi không cho rằng ông ta đang thử can ngăn hay chỉ trích lựa chọn của tôi. Tôi chẳng hề muốn kể cho ông ta nghe những gì mà khi mới mười hai tuổi tôi đã bị tước đoạt, bị hãm hại, kìm nén. Quả thật, điều này cũng có những lý do, nhưng tôi muốn giữ chúng lại cho riêng mình.
Tôi nhớ về
- Chúc cô may mắn và thuận buồm xuôi gió.
Tối ấy, tôi báo với cô tôi. Chuyến đi sẽ khởi hành trong bốn mươi tám giờ nữa.
Tôi sửa soạn rời
Franz, người mà tôi chợt cảm thấy sợ phải thông báo sự kết thúc của một điều gì đó.
15
Trời đã vào hè. Tôi quen biết Franz vào những ngày cuối xuân. Giờ đây ngày dài hơn và cũng nóng hơn, các quý ông chuyển sang mặc áo sơ mi còn các bà các cô đã diện những chiếc váy mỏng nhẹ nhàng, hai ông hàng kem mới đã dọn xe hàng của họ ra giữa bãi đất trống ngay trước bến tàu. Trong không khí thoảng mùi táo hay mùi mận tôi cũng không rõ – thường thường, mùi quả hay mùi cây cối cứ bay từ hồ nước hay từ những ngọn núi tới, lảng vảng quanh bạn như thế rồi đột nhiên biến mất mà bạn chẳng kịp nhận ra đích xác đó là loại mùi gì.
- Franz, chị sẽ rời khỏi thành phố.
- Thế là thế nào?
Cậu đã tới trước tôi. Tôi nhận ra dáng cậu từ sau lưng khi bước ra khỏi phòng hòa nhạc, và cái sự hiện diện từng chọc tức tôi vào lần đầu tiên tôi thấy câu, dường như lúc này đây lại trở nên thân thuộc với tôi, gợi cho tôi cảm giác mong ngóng, và khiến tôi mỉm cười. Và đó, đó làm một trong những khả năng của Franz: cậu đã giúp tôi tìm lại nụ cười, niềm yêu thích và mong muốn được cười. Cậu đã mang lại cho tôi khát khao sống. Kỳ lạ thay, kể từ lần gặp gỡ giữa chúng tôi, thời gian, thời gian của tôi, đã biến đổi. Mọi sự lựa chọn như đã được định trước, mà tôi chẳng hề nhận thấy. Franz có lẽ không liên quan chút gì đến chuyện này, có lẽ không. Franz là bước ngoặt của đời tôi.
Vẻ duyên dáng, mong manh ẩn sau những lời lẽ già dặn trước tuổi, sự lôi cuốn toát ra từ cử chỉ và con người cậu, những câu hỏi của cậu, của tôi với cậu đã làm nốt phần việc còn lại, và tôi yêu cậu theo một cách nào đó, tôi yêu cậu bằng một thứ tình yêu kỳ lạ. Hòa quyện trong tình yêu ấy có sự cảm thông, sự thấu hiểu được tô điểm bởi tình cảm mến thương và khiếu hài hước, có cảm giác cùng sẻ chia nỗi cô đơn, có niềm tin thầm lặng rằng không một nỗi đau hay mâu thuẫn nào len lỏi được vào. Đó là một tình yêu không nguy cơ, không giao ước cũng chẳng đòi hỏi, không ngày mai, một tình yêu thoáng qua, chuyển tiếp, siêu thực và gần như trừu tượng, không biểu hiện cụ thể, nó là cánh bướm cất lên giữa hai tâm hồn của bầu trời.
Hàng ngày, một giờ trước khi kết thúc công việc buổi sáng hay gần như trước đó, tôi đều hình dung ra cuộc gặp gỡ của mình với Franz, và tôi hình dung bản thân cậu, khi kết thúc giờ học, cậu cũng nghĩ đến những gì chúng tôi sẽ chuyện trò cùng nhau trên băng ghế của chúng tôi. Nhưng đột nhiên, tất cả thay đổi. Kể từ lúc người quản lý thông báo với tôi về chuyến lưu diễn nước ngoài của dàn nhạc, tôi cảm thấy mình như bị điều chưa biết ngoạm lấy, cảm giác kích động xuyên qua tôi, nỗi tò mò về một trang đời sắp lật xâm chiếm tôi. Như đa số mọi người, tôi hoàn toàn chưa biết gì về tương lai. Tôi biết mình sẽ rời bờ hồ này để đi về phí một đại dương xa lạ, và điều ấy làm tôi run sợ. Cảm giác đó mạnh mẽ đến nỗi tôi những muốn chia sẻ với Franz, nhưng tôi lại sợ làm cậu buồn lòng. Tôi nên thông báo với cậu về chuyến đi của mình mà chẳng cần dè dặt – hay cứ đóng kịch, chờ đợi một cơ hội thuận lợi?
Cậu gần như chẳng để tôi có cơ hội. Lúc nào cậu cũng liến thoắng, như thể để ngăn tôi ngắt lời. Như thể, với khả năng tiên đoán sự việc kỳ lạ của mình, cậu ta đã đoán biết được tôi dang có điều gì đó quan trọng muốn nói với cậu – hay có lẽ cậu đã đọc thấy điều ấy trên gương mặt tôi?
- Dĩ nhiên, dĩ nhiên, cậu bắt đầu ngay khi chúng tôi gặp nhau mà chẳng hề mào đầu – không cả chào hỏi, không hôn lên má, cái túi giấy đựng sandwich chỉ vừa đặt lên ghế-, dĩ nhiên, người ta có thể đặt đủ mọi loại câu hỏi về điều khiến hai người yêu nhau. Thực ra, người ta có thể tự hỏi về mọi thứ, vả lại đó cũng chính là vấn đề của tôi, chính là điều khiến chúng tôi khác biệt những người khác.
- Chúng tôi ư?
- Chúng tôi, những người trưởng thành sớm. Bao lâu nay, người ta vẫn gọi hiện tượng này là gì ấy nhỉ? Những người có năng khiếu đặc biệt. Họ đã tìm ra từ ấy: đó là một từ chính xác. Những người có năng khiếu đặc biệt. Thế đấy, tôi là một người có năng khiếu đặc biệt. Ở trường nội trú không có nhiều người như vậy lắm và người ta cũng đủ thông minh để không cho chúng tôi ở chung với nhau, họ tách chúng tôi ra, để chúng tôi ở giữa những học sinh thường là nhiều tuổi hơn. Nhưng thật phức tạp, bạn biết đấy, dù thế nào, dù môi trường xung quanh có ra sao, thì ngay cả khi bị chia tách, chúng tôi vẫn luôn làm phiền mọi người với những câu hỏi tại sao. Tại sao lại có các hành tinh, tại sao lại có vũ trụ, tại sao lại có khoảng trống và tại sao lại có cái vô hạn? Thế rồi, vào một lúc, chúng tôi ngừng lớn tiếng đặt ra những câu hỏi. Nhưng vẫn tiếp tục trong yên lặng. Khi mọi người giảng giải cho tôi rằng có một vụ nổ và từ vụ nổ đó, mọi thứ được sinh ra, tất cả được kiến tạo nên, vũ trụ được hình thành, tôi không phản đối. Nhưng trước vụ nổ thì đã từng có cái gì? Khoảng trống chăng? Tôi hỏi bạn, liệu từ thời xa xưa kia có thể đã từng tồn tại khoảng trốn, tồn tại cái không gì cả? Cái không gì cả trước khi khởi đầu vũ trụ ấy, liệu nó có thể tồn tại? Liệu có thể tưởng tượng rằng vào một thời điểm nào đó trong lịch sử của vũ trụ, đã từng không có lịch sử? Và người ta có thể tưởng tượng ra cái không gì cả?
- Em muốn chị trả lời em thế nào đây? Tôi hỏi.
- Thế là, bởi vì không có câu trả lời thỏa đáng cho điều này – vả lại, liệu có nhiều câu trả lời cho những câu hỏi quan trọng không? Không hề. Thế là, như bạn thấy đấy, chúng tội tự hỏi về mình. Tại sao tôi lại như thế? Tại sao tôi lại nhận được quá nhiều năng khiếu bẩm sinh như vậy, tại sao chẳng ai nhận ra điều đó? Lẽ nào phải đợi đến khi một sự kiện khủng khiếp xảy ra trong đời tôi thì người ta mới hiểu dược rằng tôi không như những người khác – hay chính cái sự kiện ấy đã khiến tôi trở thành như bây giờ?
- Em đang nói đến sự kiện nào thế? Chuyện gì đã xảy ra với em? Bố mẹ em đâu? Họ là ai?
Tôi không trông chờ cậu sẽ trả lời. Quả vậy, cậu nín lặng. Rồi cậu có một hành động như lũ trẻ con lúc buổi tối, trước khi đi ngủ, chúng thường tìm kiếm cơ thể người lớn, tìm kiếm một bờ vai, một cánh tay, một khuôn ngực, tìm kiếm sự âu yếm và hơi ấm. Cậu ngả người vào cánh tay tôi, hai mắt nhắm lại. Tôi đưa tay vuốt mái tóc đen ánh của cậu. Cứ như thế nhiều phút liền trước khi cậu tách khỏi tôi và ngồi lại vào chỗ của mình cạnh tôi. Đây chính là lúc nói với cậu tất cả:
- Franz, chị sẽ rời khỏi thành phố.
- Thế là thế nào?
- Chị sẽ đi. Chị ra đi. Đây là một cơ hội, một điều bắt buộc, một việc cần thiết.
- Thế tức là?
Tôi kể lại cho cậu mọi chuyện. Cậu nghe tôi chăm chú tới mức một chút biểu hiện dù là nhỏ nhất trong thái độ của cậu cũng cho thấy điều ấy, và tôi càng kể, nụ cười của cậu càng rạng rỡ, nó làm khuôn mặt câu bừng lên, từ đó toát ra thứ ánh sáng đã làm tôi mê mẩn ngay từ buổi gặp gỡ đầu tiên.
- Tôi thấy hạnh phúc cho bạn, cậu nói, thực sự rất hạnh phúc. Còn tôi lại thấy mình bất hạnh, nhưng có lẽ hạnh phúc, đó chính là bất hạnh được người ta chấp nhận.
- Chị không biết. Tất cả những việc đó chẳng liên quan gì đến em cả. Chính là cuộc sống của chị đảo lộn, thế thôi.
Franz thôi không cười nữa.
- Tôi biết rõ điều ấy. Tôi cũng biết rốt cuộc mình sẽ hiểu trái tim tan vỡ là thế nào.
Cậu đứng dậy, đôi mắt ánh lên vẻ khẩn thiết và cuống quýt. Cậu luống cuống đứng trước mặt tôi, như thể lo sợ điều gì đó.
- Tôi phải đi thôi, tôi phải đi thôi, nếu không tôi sẽ khóc mất, và tôi thì không muốn bạn nhìn thấy tôi khóc.
Rồi cũng đột nhiên như thế, cậu trở nên bất động. Một sự chuyển biến lạ lùng bất chợt làm khuôn mặt cậu trở lại với vẻ bình thản.
- Xin lỗi, tôi thật vô lý và cảm tính. Xin lỗi. Cơn kích động quá mức thoáng qua. Nhưng nó đã nhanh chóng được kiểm soát. Tôi sẽ không làm bạn khó xử đâu. Mọi chuyện đều ổn. Tôi hoàn toàn làm chủ được mình. Khi nào bạn khởi hành?
- Ngày mai.
- Vậy đây là lần cuối chúng ta gặp gỡ và trò chuyện cùng nhau.
- Hẳn rồi, Franz.
Cậu phá lên cười.
- Đừng có nói bằng cái giọng buồn bã ấy chứ. Điều xảy đến với bạn là hoàn toàn may mắn. Bạn sẽ thoát khỏi nề nếp thường nhật, những hoạt động làm bạn uể oải để miệt mài hơn nữa với điều đã cứu rỗi bạn, âm nhạc ấy. Tôi vẫn từng mong muốn được nhìn thấy bạn ít nhất một lần chơi trong buổi hòa nhạc. Nhưng tôi đã nghĩ lại. Ngược với điều tôi từng khẳng định, tôi không chắc liệu mình có thể gửi đến bạn những xao động trong không khí phát đi từ sự hiện diện của tôi ở khán phòng. Tôi đã phân tích kỹ những gì bạn nói với tôi hôm trước: khi chơi nhạc, người ta chỉ có thể làm điều đó thôi, không phải vậy sao? Chỉ chơi thôi! Tập trung vào nhạc cụ của mình, vào bản dàn bè của mình, vào cách đi bè của bản giao hưởng, vào dàn nhạc. Các bạn, những nhạc công, các bạn thật may mắn làm sao khi có thể chẳng nghĩ đến bất cứ điều gì, chẳng điều gì khác ngoài việc mình đang làm vào chính thời điểm đang làm nó! Thật là đặc biệt.
- Em có thể hiểu được mọi điều. Trí tuệ và trực giác của em luôn khiến chị ngạc nhiên. Em nắm bắt được chân lý mà thậm chí không cần suy luận, đôi khi điều ấy khiến người ta bối rối.
Cậu lắc đầu. Đột nhiên, cậu có vẻ già dặn hơn. Tôi thấy khuôn mặt cậu trở nên suy tư, u buồn.
- Mặc nó, chúng ta sẽ xem xem điều đó có tồn tại lâu không, chúng ta sẽ xem xem liệu bước chuyển tất yếu sang tuổi niên thiếu, rồi tiếp đó là sang độ tuổi mà người ta gọi là trưởng thành, có cho phép tôi giữ lại những khả năng đang đè nặng lên tôi không. Bạn biết đấy, thật quá nặng nề khi khác biệt mọi người đến vậy! Thật đáng sợ! Và rồi, ta chỉ dành thời gian để tự giày vò mình. Ta chẳng ngủ được. Ta gặp ác mộng. Băng ghế, hồ nước, tất cả những ngày bên bạn, đó là những điều tôi cần hơn hết thảy. Thật buồn khi trong tương lai, những điều đó không còn nữa vào mỗi sáng ta thức giấc.
- Nhưng có phải lúc nào em cũng có chúng đâu.
- Phải, nhưng kể từ khi tôi phát hiện ra khung cảnh này rồi quen với nó, nó đã giúp tôi. Nó mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của tôi. Không có gì đáng cười đâu, một sợi dây mà ta đã khéo léo thêu dệt và tạo nên, rồi nó đứt đoạn như thế này, trong chớp mắt, đột ngột, không hề được báo trước.
Cậu vung tay ra phía trước như thể xua một con ruồi vo ve làm phiền cậu.
- Nhưng, rốt cuộc, như thế vẫn tốt hơn là không có gì, phải không nào? Bạn không muốn gọi đó là tình yêu, nhưng suy cho cùng, nó vẫn là như thế, những gì đã diễn ra ấy, phải không?
- Nếu em muốn vậy, Franz ạ.
- Đó là một dạng tình yêu. Nó vẫn tốt hơn là không có gì. Bạn từng nói rằng không thể tồn tại một tình yêu thực sự giữa hai chúng ta, nhưng làm gì có tình yêu nào là không thể, tôi nhắc lại với bận điều ấy. Dù thế nào chăng nữa thì không có tình yêu, con người sẽ chẳng là gì cả. Và đó là điều mà giờ đây tôi phải đương đầu.
- Em sẽ làm được, Franz. Em là người mạnh mẽ.
- Không mạnh mẽ hơn bạn đâu. Và cũng không yếu đuối hơn. Bạn có nhận thấy rằng tôi thậm chí còn không biết tên bạn?
- Em chẳng bao giờ hỏi chị điều đó cả. Chị tên là Clara.
Khuôn mặt cậu bừng sáng. Việc tên tôi vang lên dường như khiến cậu vui lòng. Cậu trấn tĩnh lại. Tôi nắm lấy tay cậu trong bàn tay mình.
- Hãy suy nghĩ một chút đi, tôi nói với cậu. Sẽ có những kỳ nghỉ ở trường học và rồi mùa hè kết thúc. Chúng ta sẽ không tiếp tục gặp nhau tại băng ghế này như hiện nay cả đời đâu.
Cậu rút tay mình ra để lại xua xua lần nữa. Lần này có vẻ gần như dữ dội.
- Tôi biết, tôi biết, dù thế nào thì bạn cũng sẽ không mang một câu khuôn sáo như kiểu chẳng có gì tồn tại mãi ra để dạy bảo tôi đấy chứ?
- Còn em, em sẽ không hung hăng như vậy với chị đấy chứ? Bây giờ, chúng ta sẽ chia tay, thế nên chúng ta ôm hôn nhau thôi nào!
- Không, không, không cần phải thế. Bây giờ, tôi thấy đã quá giờ mình phải về trường nội trú lâu rồi. Thôi kệ, tôi sẽ gánh chịu hậu quả sau. Vậy nên, không phải tôi là người sẽ ra đi đầu tiên. Đi đi nào, đi khỏi đây đi, tôi muốn nhìn bạn ra đi từ phía sau. Tôi luôn chỉ nhìn thấy bạn tới, chưa bao giờ thấy bạn đi. Đi đi nào!
Chúng tôi đứng dậy và dù sao tôi vẫn khẽ hôn lên má cậu. Chúng thật thơm mát. Tôi đi về phía phòng hòa nhạc và chỉ sau một trăm mét, tôi mới quay người lại. Cậu đứng thẳng trên băng ghế, nắm tay vào rồi lại xòe ra như những người Ý vẫn làm để nói lời tạm biệt, để chào nhau, bằng chuyển động nhỏ gọn của những ngón tay gập vào gan bàn tay, giống hình cái miệng. Bóng dáng nhỏ bé thẳng đứng màu xanh lam của cậu nổi rõ trong khoảng không. Tôi cho rằng Franz đang hét cái gì đó, nhưng tôi đã ở quá xa để có thể nghe thấy điều mà Franz còn muốn nói với tôi, vả lại giọng cậu đã bị tiếng còi ụ của chiếc tàu hơi nước đang vào bến át mất. Vậy là hai giờ chiều rồi.
Giống như thi sĩ người Anh, tôi cho rằng một khoảnh khắc của cái đẹp được cấu thành theo những quy tắc mạnh hơn tất cả những gì tâm hồn con người có thể cảm nhận thấy. Nhưng tôi cũng từng nói rằng tôi rất khó mà định nghĩa được cái đẹp. Mỗi một khoảnh khắc đều là duy nhất, mỗi ngày tôi phải nâng niu cuộc sống trong vũ trụ này như thể nó được dâng tặng cho tôi lần đầu tiên. Tôi giữ trọn giây phút đặc ân ấy, nó in đậm trong trí nhớ tôi, giây phút khi mà mọi thứ hòa quyện vào nhau một cách huyền bí, làn gió nhẹ thổi từ trên núi xuống cuốn những chiếc lá mộc lan vào vũ điệu của mình, những chú chim thiên nga cất cánh bay lên, đàn vịt trời khẽ rùng mình trên mặt nước đã được mặt trời nhuốm màu lục bảo, con tàu hơi nước cũ kỹ chuyển động chầm chậm, và, đứng trên một băng ghế, là cậu bé đang gửi đến tôi thông điệp nào đó của tình yêu mà tôi không rõ và dáng hình mảnh dẻ ấy, cái dáng hình chìm lấp trong toàn bộ khung cảnh, thực ra lại chính xác là điểm gặp gỡ với cái đẹp.
16
Một lần, tại London, khi trở về từ buổi học riêng ba tiếng mỗi ngày với người thầy đã chấp nhận thử thách biến một nhạc công dàn nhạc thành một cây độc tấu, tôi dừng bước trước một trong như quán trà sách, kiểu đang bắt đầu trở nên thịnh hành tại đất nước này. Người ta đến đây, uống thứ gì đó, ngồi bệt cả xuống sàn chúi mũi vào những quyển sách, tập san, tạp chí cũ. Mọi người đến rồi đi như đây là nhà họ, lũ trẻ thì chơi đùa trong góc dành riêng cho chúng, hầu như lúc nào trời cũng nóng bức, những chú chó to gà gật dưới chân mấy chiếc tràng kỷ rộng.
Tôi đã rời Lucerne được gần một năm. Sau khoảng thời gian lưu lại London, dàn nhạc bắt đầu lưu diễn vòng quanh các nước Bắc Âu và tôi đã quyết định rời bỏ dàn nhạc để một mình ở lại thành phố và dành toàn tâm toàn trí cho cái ý định điên rồ của mình.
"Con đã chơi trong dàn nhạc quá lâu rồi, thầy dạy nhạc nói với tôi. Con là một đứa trẻ có năng khiếu thiên bẩm. Những đổ vỡ trong cuộc đời con đã khiến con không thể đi theo nghiệp nghệ sĩ độc tấu và có thể thấy rằng con đã để mất đi tia sáng của mình, hoài bão của mình khi con gia nhập một dàn nhạc và ngồi vào hàng lối. Ta tin rằng ở khía cạnh nào đó, con đã chấp nhận để lãng phí tài năng của mình. Bởi con chắc chắn có được năng lực cần thiết để vượt ra khỏi hàng ghế ấy trong dàn nhạc. Nhưng con đã tự xem thường bản thân mà không hề biết, hoặc ngay cả khi con biết điều đó. Và rồi, con bỗng giật mình. Thật đáng khen!"
Ông tiếp tục:
"Con đã có một lựa chọn dũng cảm, kiêu hãnh và nghiêm khắc. Bởi điều con đang cố đạt được rất hiếm khi xảy ra trong giới âm nhạc. Nhưng nó vẫn có thể xảy ra. Con sẽ phải luyện tập rất nhiều, thậm chí hết sức miệt mài, nhưng thế chưa đủ. Con còn cần phải có may mắn, những cuộc gặp gỡ và các cơ hội, những thứ vốn là quà tặng của cuộc sống. Nếu cuộc sống mỉm cười với con, nếu ý chí của con không hao mòn, nếu con biết thu hút sự chú ý và thuyết phục được một nhạc trưởng hoặc một chuyên gia cố vấn giàu kinh nghiệm nào đó con gặp trên hành trình của mình, thì con sẽ đạt được điều ấy. Đừng bao giờ quên: may mắn và tư chất!"
May mắn đầu tiên của tôi là được gặp lại người đàn ông này, người thầy của tôi khi tôi còn là một cô bé, trước lúc bố tôi qua đời. Một may mắn khác là khi liên hệ với người đại diện của gia đình, tôi phát hiện ra rằng hàng tháng, tôi được hưởng một khoản tiền nhỏ cho phép tôi tiếp tục đi học lại mà không cần quá bận tâm đến việc kiếm sống, ít nhất là trong một khoảng thời gian.
Tôi ngồi trên một tấm thảm tại quán trà sách trên phố Old Compton và vô tình để mắt đến một tờ nguyệt san cũ, kiểu tạp chí kết hợp khéo léo giữa hình ảnh các ngôi sao, những bài điều tra về lối ăn chơi thượng lưu xa hoa phù phiếm khắp thế giới, ảnh chụp mẫu thời trang và các công thức nấu ăn – với giọng điệu và phong cách mà những năm về sau sẽ làm nên thành công của thể loại báo được người ta gọi là "báo ăn khách" này.
Sự chú ý của tôi dừng lại tại một bài viết dài về một cặp vợ chồng tai tiếng, choáng lộn, tự hủy hoại mình mà những hành động ngông cuồng, phản bội lẫn nhau cùng lối sống của họ đã trở thành trò cười cho thiên hạ tại xứ Bavaria vài năm trước khi bài báo này được công bố. Toàn bộ Munich từng bị quyến rũ, bị chinh phục và mê hoặc bởi những buổi dạ hội, tiệc hóa trang, những khoản chi xa hoa, thói quen vung tay của những kẻ nhà giàu suy đồi này. Rồi, sau nhiều phát hiện chẳng hay ho gì, sau nhiều lần xuất hiện của những kẻ vô danh tiểu tốt dị thường và đồi bại, những mảnh bát đĩa vỡ tại các nhà hàng, những màn túm tóc giật tai, tru tréo trong những giờ nghỉ giữa các buổi trình diễn opera, ma túy, những cuộc truy hoan và nhiều điều ghê tởm khác, giới thượng lưu thành phố đã tẩy chay hai kẻ tai tiếng ấy.
Rất nhiều ảnh – cả ảnh màu lẫn đen trắng – minh họa cho bài báo. Tôi không biết tại sao, nhưng hai nhân vật ấy dường như rất quen với tôi, có cái gì đó trên khuôn mặt họ kích thích trí tò mò nơi tôi. Cả hai người đều đẹp, người đàn ông với dáng vẻ trịch thượng, cao sang, cặp lông mày dày, tóc đen ánh, vầng trán rộng, nụ cười vẽ nên hai nếp nhăn dọc trên má với gò má cao. Người phụ nữ cũng có mái tóc sậm màu như chồng, dáng người cao lớn, mảnh khảnh, ngực nhỏ, nước da xanh nhợt, trang điểm khá đậm, hai mắt lấp lánh như những viên kim cương mà bà điểm trang trên dái tai cũng như trên đôi tay thon dài thanh mảnh với những chiếc móng được sơn màu đỏ son. Người ta thấy họ trong trang phục dạ tiệc, tại các cuộc đi săn, trong các hoạt động thể thao mùa đông, tại một lễ hội hoá trang, hay đang chuẩn bị bước vào đường dẫn lên máy bay riêng. Tôi chăm chăm tò mò nhìn những bức ảnh. Một trực cảm xui khiến tôi đọc cho đến hết bài báo.
"Klaus von Herzeghoern và vợ là Irina lẽ ra đã có thể và nên kết thúc chương trình điều trị thảm hại của họ tại một bệnh viên tâm thần, đoạn cuối cùng của bài báo kết luận. Chia tay, rồi hoà giải, sau đó kết hôn lại, trong khi vẫn liên miên truy đuổi nhau từ dinh thự mùa hè đến nhà nghỉ mùa đông trên núi, thái độ cư xử và những điều ô nhục mà họ gây ra rốt cuộc đã khiến hội đồng dòng họ Herzeghoern lo lắng. hội đồng đang vì lợi ích và tiếng tăm của dòng họ lừng danh này mà trong nom khối gia sản khổng lồ được gây dựng từ ngành sản xuất bia và luyện thép.
Nhưng hội đồng lại do một phụ nữ rất cao tuổi đứng đầu, bà cụ đã yếu lòng khi muốn một lần nữa hàn gắn hai vợ chồng bằng cách tạo cho họ một cơ may cuối cùng để xoá sạch những việc làm đáng xấu hổ và các vụ tai tiếng. song, thật không may cho bà. Đêm giao thừa, tại trang viên của họ nằm ở ngoại ô Munick, một cuộc cãi vã dữ dội lại nổ ra giữa Klaus và Irina. Cho tới giờ, giới thượng lưu
Tờ tạp chí được xuất bản cách đây đã bốn năm. Khi tôi gặp Franz, có lẽ cậu mười hai, không hơn. Tôi nhớ lại những chữ cái đầu mà mình đã nhìn thấy ở mặt trong chiếc áo jacket màu xanh lính thuỷ trong bộ đồng phục của cậu: F.X.V.H. tôi nhớ lại những câu chuyện của cậu, nhớ lại việc cậu không thể trả lời những câu hỏi của tôi về nguồn gốc gia đình và thảm kịch mà cậu gợi lên nhưng không dám kể tường tận. tôi so sánh gương mặt thiên thần của cậu bé trong ký ức mình với gương mặt người đàn ông mà bức ảnh chân dung choán trọn một trang tờ nguyệt san.
Cũng nụ cười ấy, cũng đường nét hoàn hảo trên gương mặt ấy. và nếu để xoá tan điều nghi ngờ cuối cùng trong tôi, thì cái nhìn sắc lẹm trên một trong những bức ảnh chụp đôi vợ chồng có lẽ đã là đủ. Trong bức ảnh, người ta có thể thấy Klaus và Irina ngồi trên những chiếc phôtơi phủ nhung tía, bên cạnh là hai chú chó giống Afganistan trông đến nực cười, cả hai đang nở nụ cười giả tạo trước ống kính và ở nền bối cảnh, trên chiếc bàn một chân chất đầy hoa và mứt kẹo, là bức chân dung chạm khắc nổi cậu bé mặc đồ lính thuỷ. Đó đúng là cậu.
Vậy là, tôi tự trách mình đã không tạo được cho cậu bé đang ở ngưỡng cửa của tuôi niên thiếu ấy ít nhất cái ảo tưởng rằng dù sao thì quả thật chúng tôi cũng có thể yêu nhau bằng tình yêu người lớn, cậu, người đang tìm kiếm trong tuyệt vọng thứ gì đó để lấp đầy cái "không gì cả" trong cuộc sống của mình. Tôi giày vò bản thân. Thậm chí, khi đó vẫn đang ngổi trên thảm trải sàn của tiệm trà sách, tôi đã muốn khóc. Kể từ khi tới
Cảm giác cay đắng, và hối tiếc xâm chiếm lấy tôi, như một cơn chóng mặt, buồn nôn. Và cả nỗi buồn nữa, một nỗi buồn man mác. Tôi cảm thấy như mình là kẻ có tội. lẽ ra tôi phải nói dối cậu nhiều hơn, yêu thương cậu nhiều hơn, nói với cậu rằng tôi yêu cậu. và rồi, cùng với thói ích kỷ ác ý của người nghệ sĩ, thói ích kỷ vốn thúc đẩy tôi từ nay phải sống hết mình với niềm đam mê, tôi đặt tờ tạp chí xuống sàn và rời khỏi phòng trà, nhưng tôi không bao giờ quên cậu bé trên băng ghé trên bờ hồ ấy nữa, cậu bé đã tin rằng một tình yêu không thể không phải là không thể.
PHẦN HAI
17
Mười năm sau, tại
Trên sân khấu nhà hát giao hưởng
Các thành viên của bộ tứ đàn dây và nghệ sĩ thổi clarinet vừa trình bày Bản nhạc viết cho bộ tứ đàn dây và clarinet cung la trưởng K581 của Mozart bước lên chào khán giả, nhạc cụ vẫn cầm trên tay. Họ mỉm cười và nghiêng mình, đi về phía hậu trường rồi lại quay ra, cây violoncelle, người thổi clarinet, tiếp đến là người chơi alto và hai nghệ sĩ violon, một người đàn ông rồi đến người phụ nữ, Clara. Tối nay, chính cô là cây violon một, chính cô là người dẫn dắt các tiết nhạc, bởi cây violon thứ hai giữ vai trò hoà âm.
Nghệ sĩ thổi clarinet là một tài năng hiển hách. Đó là cây độc tấu đã thành danh. Anh chơi violoncelle thì trẻ trung, nhiệt tình, đôi khi hay đùa và khá chăm chỉ. Còn giữa Clara và người chơi violon thứ hai, một người đàn ông đầy thần cảm và khiêm nhường, thì mọi thứ đều nhịp nhàng. Nhưng chính tay chơi alto, ở khúc biến tấu nhanh vừa thứ ba, đã bắt đầu hơi quá sớm, chỉ khoảng một tích tắc, khiến Clara ngập ngừng đôi chút, cũng chỉ chớp nhoáng như vậy, trong một tích tắc. mọi chuyện diễn ra như thế. Cũng không có gì quá nghiêm trọng. nhưng ngay khi họ bước vào hậu trường, sau tràng vỗ tay đầu tiên, người chơi alto đã quay lại phía Clara.
- Em rất tiếc, chúng ta từng phối hợp rất tốt với nhau, em không biết chuyện gì đã diễn ra. Em hi vọng là chị không trách em.
Đó là một anh chàng người Ý, trẻ nhất hội, một hàng ria mép mỏng viền trên môi không giúp cậu trông già hơn. Nhìn cậu giống như một cậu bé dùng bút vẽ một đường đen đậm lên mặt mình để trông có vẻ già dặn và đàn ông. Clara nhẹ nhàng cầm lấy cánh tay cậu:
- Xin cậu đấy, Giovanni, cô đáp, có sao đâu. Bọn tôi vẫn bắt kịp mà. Mọi việc đều ổn cả.
Và rồi, cô quay lại ôm hôn người thổi clarinet một cách nồng nhiệt.
- Anh đã chơi hết mình. Xin chúc mừng. anh tuyệt vời thật đấy.
Các nghệ sĩ tiếp tục cảm ơn lẫn nhau. Một người trong số họ châm một điếu thuốc, lại đến lúc phải quay ra sân khấu, tiếng vỗ tay tán thưởng mời các nghệ sĩ ra chào khán giả vẫn vang giòn giã và rốt cuộc thành công cùng cảm giác sảng khoái vì đã kết thúc buổi diễn đã xoá đi trục trặc nhỏ đó. Trong khi ấy, dù vẫn tươi cười trước khán giả, và như thường lệ đang nhận một bó lớn gồm cả những bông hoa màu trắng và màu hồng bởi là người phụ nữ duy nhất trong nhóm. Clara vẫn không tài nào thoát khỏi cảm giác không trọn vẹn đã làm cô phiền lòng kể từ sơ suất nhỏ đó cho đến tận nốt nhạc cuối cùng. Cô thầm trách cứ mình.
Bản tính cầu toàn của mình chỉ nảy sinh từ thói gàn dở ám ảnh trong mình thôi. Mọi chuyện kết thúc rồi, hãy quên nó đi, cô tự nhủ. Hãy hạnh phúc đi. Đó chẳng phải là điều âm nhạc đựơc xem như mang đến cho mình hay sao: hạnh phúc.
Một lần nữa, Clara lại đi về phía người thổi kèn clariner và chìa cho anh một nhanh hoa cô đã tách từ bó hoa của mình ra.
- Anh đã tạo cảm hứng cho tất cả bọn tôi, cô nói với người nhạc công. Thật ngoài sức tưởng tượng. anh sẽ còn tiến xa hơn nữa.
Anh ta cảm ơn cô. Tiếng vỗ tay dịu lắng dần. các nhạc công không quay lại sân khấu nữa. cả nhóm giải tán. Cậu chàng chơi alto quay sang ôm hôn người phụ nữ trẻ.
Một lần nữa em rất lấy làm tiếc, chị Clara.
Cô dang tay đáp lại cái ôm của chàng trai.
Thôi nào, xin cậu đấy, mọi việc xong xuôi rồi!
Nhưng một ý nghĩ chợt loé lên trong cô. Thực ra, Giovanni có lẽ không phải là người chịu trách nhiệm về việc đã bắt đầu hơi sớm. có thể chính cô cũng có lỗi. cùng với thời gian, Clara Newman đã tạo cho mình một thói quen kỉ luật là phân tích tỉ mỉ từng phút trong mỗi lần cô biểu diễn. một lúc nào đó vào buổi tối sau buổi hoà nhạc, bất kể đó là buổi hoà nhạc kiểu nào, độc tấu, bộ đôi , bộ tứ, bộ tứ cùng cả dàn nhạc, cô cũng cần tự tách mình ra để nhẩm lại trong đầu tuần tự những diễn biến dù là nhỏ nhất trong phần trình diễn của mình. Thông thường, cô hay thực hiện màn duyệt lại này, cú "tua ngược" này, trên giường mình, khi màn đêm đã buông xuống, trước khi bắt đầu tìm kiếm giấc ngủ mà lúc nào cũng khó khăn lắm mới bắt gặp. Nó gần giống như cách thức của các vận động viên trượt tuyết đẳng cấp cao trước một cuộc đua: hai mắt khép lại, họ hồi tưởng trong đầu từng khúc quanh, từng ụ tuyết, từng con dốc trong khi hai cánh tay làm những động tác y như đang vựơt qua chặng đường nguy hiểm mà họ sắp bắt đầu. Clara cũng làm theo cách đó, nhưng là sau cuộc đua, nếu có thể nói như vậy. Sau mỗi buổi biểu diễn cô cần phải tháo gỡ từng nút dệt ra một. Đó là một kiểu luyện tập, nhưng theo chiều ngược lại. Với cô, chỉ hoàn thành công việc thôi thì chưa đủ.. cô miệt mài tìm hiểu tại sao và làm thế nào mà minh không đạt đến điểm, đến trình độ đã tự đặt ra. Tại sao và làm thế nào mà cô vẫn chưa tiến thêm được nấc nữa.
Một nhạc trưởng có tên tuổi đã nhận bảo trợ cho cô từ một đến hai năm nay. Một ngày, ông đã nói với cô:
"Em quá cứng nhắc. Em suy nghĩ quá nhiều. Vì muốn làm quá tốt mọi thứ, em không còn thả hồn mình bay bổng nữa, em chỉ tuân theo kỹ thuật thôi. Cứ như thể người ta có thể phát điên đấy. Niềm vui thích của em ở đâu rồi? Nếu như em không có cái đó trong bản thân mình thì tại sao em lại muốn khán giả đón nhận nó?"
Clara đẹp, thân hình cô thanh thoát, bộ ngực căng tròn, đôi chân thon dài linh hoạt. Dáng đầu cô, mái tóc lúc nào cũng búi gọn khi chơi đàn, đôi mắt đen sáng lấp lánh và cái bĩu môi hờn dỗi đầy lôi cuốn có lẽ cũng góp phần quan trọng trong bước thăng tiến sự nghiệp của Clara. Cô ý thức được điều đó. Người ta có thể hình dung rằng cô ngang qua cuộc đời như một nàng công chúa, tự tin, hồ hởi. nhưng chẳng điều gì là có vẻ như vậy. đằng sau khuôn mặt xinh đẹp ấp ẩn chứa một tâm trạng rối bời triền miên, một sự ngờ vực, hồ nghi. Nhạc trưởng giữ một vai trong quyết định trong nghiệp nghệ sĩ của cô. Ông ta chính là chuyên gia tư vấn giàu kinh nghiệm" mà người thầy giáo già tại
Cô cho rằng mình đã thấy một hướng lý giải: đó là lỗi của cô. Cô đã không nhìn người chơi alto vào đúng cái lúc phải làm việc ấy. chính vì thế mà cậu ta đã vào khúc biến tấu thứ ba không chuẩn. và nếu cô không nhìn cậu ta thì là bởi vì vài tích tắc trước đó, trong lúc nghe người thổi clarinet, cô vừa vén một món tóc trước trán vừa nhìn xuống khán phòng rồi điều gì đó đã khiến cô bối rối. cô ngay lập tức quay lại với buổi diễn nhưng không có đủ thời gian để đưa mắt bắt nhịp với cậu thanh niên chơi alto. Bởi vậy, cậu đã bị lệch nhịp và bắt đầu khúc chủ đề không hoàn toàn đúng như dự kiến. Clara cảm thấy nhẹ nhõm: thế là xong, cô đã biết! cô tin mình đã nắm được lý do dẫn đến thiếu sót không đáng kể của họ tối nay. Điều này làm cô dịu lại. đó là lỗi của bản thân cô. Thật không chê vào đâu được: nó hoàn toàn phù hợp với cảm giác không vừa lòng cứ bám riết ám ảnh cô – nó làm thoả mãn sự khó chịu không thoả mãn trong cô. Giờ đây, trong không khí yên ắng êm dịu của phòng thay đồ, thảng hoặc mới bị khuấy động bởi tiếng động quen thuộc từ hành lang, những âm thanh sau buổi hoà nhạc, cô tự hỏi: điều gì đã khiến cô xáo trộn? điều cô đã nhận thấy, nghe thấy, cảm thấy, đoán nhận thấy, điều đã làm xao động khoảnh khắc ngắn ngủi nhưng cần có để khúc nhanh vừa cất lên nhịp nhàng là gì? Cô tìm kiếm, tìm kiếm, nhưng không thấy.
Tuy nhiên, cô biết chắc rằng cô điều gì đó vô hình đã được truyền đến mình. Tối nay, trong khán phòng này, một phân tử khác lạ đã làm lay chuyển thứ mà nhạc trường vẫn gọi là "cơ chế" của cô. Ấy là điều gì?
18
Nó không chút thù nghịch, gây hại hay khó chịu, phá huỷ.
Nó giống như một làn sóng xao động thoảng qua, đến từ đâu đó trong khán phòng, nhưng cô khó mà xác định nổi đó là từ hàng ghế đầu tiên hay hàng ghế cuối cùng, từ bên trái hay bên phải, từ lô phía trên hay dãy ghế phía dưới. Nếu muốn so sánh cảm giác này với thứ cảm giác mà cô hiểu rõ nhất trên thế gian, tức là âm nhạc, thì Clara có lẽ sẽ nói rằng điều ấy giống với điều sẽ xảy đến với bạn khi một giọng ca cất lên, khi âm thanh đầu tiên phát ra từ một nhạc cụ, ngay lúc vừa mở màn. Đột nhiên và chẳng hề có lý do gì, nó khiến bạn khẽ rùng mình. Điều này có thể kéo dài vài phút, và thế là nó cuốn bạn vào bản nhạc rồi không để bạn thoát ra nữa, đó là một đặc ân. Như thế tức là bạn nhận được một thứ may mắn của nhân loại mà âm nhạc có thể vượt lên trên. Bất kỳ thể loại âm nhạc nào. Cũng không cần đó phải là nhạc "cổ điển". Một khúc ghi ta cũng có thể khiến bạn hứng khởi nhiều đến vậy. Kể cả khúc romance tầm thường nhất và đoạn điệp khúc ngắn gọn nhất cũng vẫn luôn đầy thi vị.
Nhưng làn sóng ấy cũng có thể chỉ diễn ra trong chớp mắt – khoảng thời gian được các nhà khoa học và máy tính ước định bằng những con số mà những chiếc đồng hồ bấm giờ siêu việt nhất cũng không thể đạt tới. Đó thậm chí không phải là một phần nghìn giây trong cuộc đua một trăm mét tại các kỳ Thế vận hội. Nó là một khoảng khắc vô cùng ngắn ngủi. Chỉ một chao động.
Clara là một phụ nữ nhạy cảm. Thật nghịch lý: cái cô kỹ thuật viên violon máy móc, cái cô mà đôi khi nhạc trưởng vẫn cho là quá khổ công, lại được thiên phú một độ nhạy cảm tuyệt vời. Hẳn là cá tính kép này, vẻ bề ngoài mâu thuẫn này một ngày nào đó sẽ giúp cô đạt đến độ biểu đạt hoàn hảo trong môn nghệ thuật của mình, đạt đến trình độ cao nhất trong thiên hướng của mình. Một tâm hồn nhạy cảm luôn rung động trước sự thoảng qua của những mùi hương, của những đàn chim cất cánh, của những tia nắng phản chiếu trên mặt nước, hay làn bụi từ luồng sáng ban mai nơi đỉnh núi. Cô cho rằng mỗi sinh linh dù ít dù nhiều đều mang trong mình khả năng cảm nhận những yếu tố huyền bí, mong manh và kết tinh như vậy.
Cô cũng tin rằng không phải mọi rung động đều dành cho tất cả mọi người và cô là người duy nhất, tối hôm nay, trong khán phòng này, bắt nhận được làn sóng ấy.
Ngồi trên ghế trước tấm gương xung quanh viền bóng điện, trong lúc tẩy trang như thường lệ – dù không phải là diễn viên kịch nhưng cô vẫn trang điểm mỗi khi lên sân khấu – Clara phát hiện ra một vết chân chim nhỏ nơi khóe mắt cùng một quầng mờ mờ dưới một bên mi mắt – những dấu hiệu tinh tế của thời gian mà cho đến giờ vẫn chưa chạm tới cô. Vào đúng lúc ấy, Clara cảm thấy một điều gì đó bất ngờ sắp xảy đến với mình.
Vì thế, cô cũng chỉ hơi ngạc nhiên khi có người gõ cửa gian thay quần áo, rồi sau khi nói: "Mời vào", cô thấy một thanh niên cao lớn xuất hiện, anh cao đến mức phải hơi khom người để bước vào căn phòng. Và cô cũng thậm chí không hề thấy ngạc nhiên hơn khi nhận ra anh vào đúng khoảng khắc cô tưởng mình không quen biết con người này.
- Vậy ra đó là cậu, cô nói.
- Phải, là tôi. Chị vẫn còn nhớ.
- Dĩ nhiên rồi, Franz.
19
Sau đó, họ nín lặng.
Cô có hai phản ứng tức thời, những phản ứng rất phụ nữ. Cô khép hai vạt áo choàng trên ngực lại, và đưa một tay ra sau gáy gỡ búi tóc bằng một cái lắc đầu để mái tóc gợn sóng mềm mại buông xuống bờ vai. Rồi cô quan sát người thanh niên trong khi vẫn không phá tan bầu không khí yên lặng.
Franz giống hệt những gì cô đã hình dung ra khi thấy anh trên băng ghế bên hồ nước, mười năm trước đây – hình dung ra mẫu người đàn ông một ngày nào đó anh sẽ trở thành. Cặp lông mày dày dặn, gò má cao, sống mũi thẳng, và nụ cười bừng sáng khuôn mặt dưới vầng trán rộng cùng cái nhìn kỳ lạ, với sắc xanh ngả vàng trong đôi mắt. Tất cả những nét ấy, từ nay đã lớn hơn, được tôn thêm, như để phù hợp với quá trình trưởng thành ở anh, với giai đoạn anh bước vào tuổi trưởng thành, và vẻ nghiêm nghị đôi khi quá mức ở cậu bé có năng khiếu đặc biệt dường như đã nhường chỗ cho một vẻ bình thản, tĩnh lặng cao quý. Anh nhã nhặn, ung dung, bước tới thận trọng, giống như đang đi trên lớp băng mỏng dễ vỡ vụn.
Anh ăn mặc khá giản dị, kiểu sinh viên các nước phía Đông: áo sơ mi mở cúc cổ hiện đang là mốt, áo vest nhung tối màu ngả màu hạt dẻ sẫm, quần flanen màu xám chì. Giờ đang là mùa đông, nên anh mang một đôi giày khá ấm áp, đế dày và cầm ở tay một chiếc áo khoác chần bông cùng tông màu áo vest. Có thể nói rằng, ý thức được sức lôi cuốn toát ra từ từng cử chỉ của mình, Franz không chấp nhận bất kỳ thứ quần áo lố lăng nào, bất kỳ sự lựa chọn nào có thể biến anh thành một gã công tử bột, một gã lòe loẹt, một kẻ tự mê bản thân mình. Và về mặt này thì Franz chẳng hề thừa hưởng gì từ vẻ kiêu căng quý tộc mà Clara từng nhận thấy trên tấm ảnh chụp người bố tự vẫn – đồng thời là kẻ phạm tội – trên tờ tạp chí ngày trước, tờ tạp chí tiết lộ với cô tất cả những điều cậu bé đã không bao giờ dám thổ lộ cùng cô.
Về phần mình, Franz nhìn Clara. Nhưng vì cô đang mặc áo choàng, khuôn mặt vẫn còn bóng loáng lớp kem tẩy trang chưa kịp lau hết, anh cảm thấy nhìn như thế có thể khiến cô bối rối nên cụp mắt xuống.
Cuối cùng cô cũng lên tiếng:
- Cho tôi vài phút để mặc quần áo. Nếu muốn cậu có thể đợi tôi ở bên ngoài.
Anh quay người ngay lập tức, như thể đã chờ đợi mệnh lệnh này. Cô liền nói với anh:
- Nhưng trước đó, hãy xác nhận với tôi rằng cậu đã có mặt trong khán phòng, phải thế không, đúng là cậu chứ?
Anh tiến lại phía cô. Cô nhận thấy anh dường như đang khiêu vũ trong những bước đi ấy. Có gì đó thật uyển chuyển trong dáng đi của anh và cô nhận ra vẻ duyên dáng đã từng thấy khi anh rời ghế băng, vừa đi vừa chạy về trường nội trú. Khi ấy, cô không quá chú ý đến vẻ thanh lịch toát ra từ cơ thể anh, cách anh cử động giống như cánh buồm căng lên trước cơn gió vù qua.
- Đúng vậy, anh vừa khẳng định vừa mỉm cười, giờ thì chị đã thấy rõ khi ở giữa toàn bộ khán giả, ta có thể cảm thấy rằng một người và chỉ một người duy nhất không nghĩ về ta như nghĩ về một nghệ sĩ diễn tấu thuần túy. Chị nhớ không, chúng ta đã từng tranh luận về chuyện này rồi, tôi nói với chị rằng tôi tin vào điều đó nhưng rồi tôi lại không tin thế nữa. Còn chị dù thế nào thì chị cũng không tán đồng.
- Đúng thế, đúng thế, tôi vẫn còn nhớ.
- Vả lại, bản thân chị, chị cũng cảm nhận rất rõ mọi thứ. Bởi đã có một trục trặc nhỏ, đúng không, một chút lệch nhịp ở đoạn biến tấu thứ ba, không phải vậy sao?
Cô ngạc nhiên. Rồi cao giọng. Chuyện này kích thích cô.
- Làm thế nào mà cậu cũng nhận thấy điều đó? Phải là một người thực sự rất, rất tinh thông mới nắm bắt được trục trặc này, cậu đã trở thành nhạc công rồi à?
Cô cảm thấy hết sức phật ý, tổn thương. Cô siết chặt các ngón tay.
- Hay, cô tiếp tục, như thế tức là lỗi lầm của tôi rõ ràng, trầm trọng, hiển nhiên đến mức đó sao?
Anh bật ra một tiếng cười trấn an, giọng nói của anh thật êm dịu. Giọng nói của anh… Chính điều ấy cũng tác động đến Clara. Dĩ nhiên là anh đã thay đổi, lớn hơn, mạnh mẽ hơn, những vệt râu chạy dài trên khuôn mặt vuông vắn, vóc dáng anh thật ấn tượng. Nếu như cô vẫn dễ dàng thấy lại những nét của cậu bé còn chưa là một người đàn ông ở người thanh niên không còn là một cậu bé này nữa, thì ngược lại, giọng nói của anh đã biến đổi, trầm, sâu lắng, khàn khàn, đôi khi ồm ồm. Trước kia, anh từng nói như một người trưởng thành, nhưng chưa có âm sắc trầm trầm này trong giọng. Giờ đây, có thể nói rằng mọi thứ đã ở đúng vị trí của mình.
- Không đâu, chị yên tâm, anh lại tiếp tục, tôi chỉ đoán vậy, thế thôi. Đó là một trong nhiều khả năng còn sót lại từ những "năng khiếu đặc biệt" ở tôi. Tôi thấy được những điều mà người khác không thấy.
Giải thích như thế không đủ thỏa mãn Clara, anh cảm thấy điều ấy. Vì vậy mà giọng anh mang vẻ tạ lỗi. Cô bỏ qua.
- Thôi được, thôi được, cô nói, yên tâm đôi chút. Nghe này, có một tiệm cà phê ở góc bên tòa nhà, ra khỏi sảnh là thấy ngay. Tôi sẽ gặp cậu ở đó trong vài phút nữa.
Anh bước ra khỏi gian thay đồ. Cô nhấc điện thoại lên, bấm số.
- Giovanni à? Clara đây. Tôi biết cậu và mọi người đang đợi tôi tới ăn tối, nhưng tôi không thể tới được, các bạn hãy ăn mà không có tôi. Tất nhiên là cậu gửi lời xin lỗi của tôi đến Peter và những người khác nhé. Chúng ta sẽ gặp lại nhau vào sáng mai tại sân bay.
Cô bắt đầu trang điểm lại. Nhưng không phải là trang điểm để lên sân khấu, để chuẩn bị cho một buổi diễn. Cô chọn màu sắc khác, loại phấn khác, tông màu khác, những thứ mà một phụ nữ dùng khi bước vào cuộc sống thực.
20
Tại Lucerne, trên băng ghế, họ từng trò chuyện với nhau bằng tiếng Pháp và đã dùng cả đến cách xưng hô thân mật gần gũi lẫn lịch sự xa cách. Còn ở Boston, họ nói bằng tiếng Anh, và đại từ nhân xưng ngôi thứ hai duy nhất "you" trong ngôn ngữ này hợp với cô. Cô nghĩ rằng có lẽ mình sẽ thấy bối rối khó xử khi xưng hô chị em với người thanh niên hai mươi hai tuổi cao lớn đang ngồi trước mặt cô. Lúc này, cô ngồi trên một chiếc ghế nệm dài trong tiệm cà phê, còn anh ngồi vào một chiếc ghế tựa ở phía bên kia mặt bàn formica, trên đó đặt hai tách cà phê nóng, không thêm bất kỳ vị gì, màu nâu nhạt, giống như loại cà phê người ta vẫn phục vụ ở khắp nơi trên đất Mỹ.
Cô có cảm giác như đang ngồi trước một người vừa xa lạ, vừa rất thân quen, gần gũi với cô. Điều ấy không làm cô khó chịu, nhưng cô tìm cách tạo cho mình thái độ phù hợp và cô sợ mình sẽ không tự nhiên, mình sẽ đóng kịch – bởi, cô nghĩ giữa hai người trưởng thành, người ta thường cư xử với nhau khá kịch, và đó không phải cách để nói chuyện với cậu bé trên băng ghế. Cô nói:
- Một lần gần như tình cờ, khi đọc một tờ tạp chí cũ, tôi đã biết được chuyện từng xảy ra với cậu khi cậu còn nhỏ.
- Tôi đã không bao giờ có thể kể được với chị chuyện ấy.
- Tại sao?
- Nó quá dữ dội, đó là một chấn động về mặt tinh thần, có lẽ tôi sẽ òa khóc nức nở mất. Vả lại, tôi rất muốn là một người đàn ông trước mặt chị.
- Cậu thật là, cô nói với cậu, kỳ lạ… Tôi chưa bao giờ gặp cậu bé nào giống như cậu.
Họ cùng nhau hồi tưởng lại những lần chuyện trò giữa hai người. Anh hỏi cô về trải nghiệm của cô tại
- Tôi cảm thấy mình chẳng phải người Đức, chẳng phải người Thụy Sĩ, cũng chẳng phải người Mỹ. Tôi không thuộc về câu chuyện ấy, gia đình ấy, quá khứ ấy.
- Cậu sẽ làm gì với cuộc đời mình?
- Tôi chẳng hề có dự định nào và tôi lại có cả nghìn dự định. Tôi muốn thấy thế giới. Tôi chẳng biết gì về thế giới cả.
- Tức là vẫn luôn là những câu hỏi, vẫn luôn là những câu hỏi tại sao à?
- Tôi không thay đổi nhiều đến mức thế đâu. Hẳn nhiên là bớt đi một chút năng khiếu đặc biệt, nhưng tôi vẫn luôn tin rằng người hay đặt ra các câu nghi vấn là người sống đích thực.
Một khoảng lặng.
- Và cả người hành động nữa, sau khi đã tự đặt câu hỏi cho chính mình. Thậm chí ngay cả khi họ chẳng tìm được câu trả lời nào cả.
Anh cụp mắt xuống, rồi lại ngước lên, nghịch nghịch tách cà phê, và nhìn cô.
- Tối nay không phải tình cờ mà tôi có mặt tại đây. Cách đây ít lâu tôi đã tìm lại được tin tức của chị, tôi theo dõi lịch diễn và những bước đi trong sự nghiệp của chị. Khi biết chị sẽ diễn ở
- Nhưng tôi có hẹn gì với cậu đâu, Franz.
- Dĩ nhiên là có chứ, Clara. Trước đây em không biết điều đó, nhưng giờ thì em biết rồi.
Anh bắt đầu chuyển sang xưng hô thân mật bằng tiếng Pháp. Cô ngập ngừng, rồi cũng làm theo anh:
- Ý anh là thế nào?
- Lúc nào tôi cũng nghĩ đến em. Tôi luôn lưu giữ kỷ niệm về một thiếu nữ hai mươi tuổi xinh đẹp với trái tim tan vỡ. Tôi yêu cô ấy mà không ham muốn cô ấy nhưng lại vẫn luôn ham muốn cô ấy, bởi tôi không thể vượt qua ham muốn đó, song dù sao tôi vẫn có thể nói với em điều này, tôi luôn mơ về em. Khi tôi mười hai tuổi, chẳng phải em đã luôn nhồi nhét vào đầu tôi rằng tôi còn là một đứa trẻ, rằng tôi vẫn chưa phải là một người đàn ông, và em đã nói thế với tôi nhiều lần, nhưng người ta chẳng thể nào tránh khỏi những giấc mơ – cũng như cách để thỏa mãn những giấc mơ ấy. Cả ham muốn ẩn chứa sau chúng nữa và rồi rốt cuộc người ta được thỏa mãn, một mình, trong đêm tối. Tôi vẫn luôn lưu giữ kỷ niệm về một thiếu nữ không thể chạm tới được. Và giờ đây, tôi đang ngồi trước mặt một phụ nữ ba mươi tuổi thật xinh đẹp.
- Và "có thể chạm tới được", anh muốn nói thế đúng không?
- Không, chính em là người vừa nói ra mấy từ ấy đấy chứ, đâu phải tôi.
Cô đỏ mặt ngượng ngùng. Kể từ khi cô đặt chân vào tiệm cà phê và anh đứng lên mỉm cười chào đón cô, cô hoàn toàn không kiểm soát nổi thái độ mà cô cho là mình cần có với Franz nữa. Cô tự hỏi tại sao mình lại quyết định gọi cho Giovanni để hủy bữa tối với các nhạc công trong bộ năm nhanh chóng đến vậy. Điều gì đã bột phát thôi thúc cô hủy hẹn để buổi tối rảnh rỗi như thế? Dĩ nhiên, đó là lòng hiếu kỳ, đó là quá khứ trỗi dậy: anh đã trở thành người thế nào, anh đã làm những gì, anh đã lớn lên ra sao? – dĩ nhiên, có tất cả những chuyện ấy. Nhưng Clara cũng cảm thấy rằng "cảm xúc" mà Franz từng nhắc đến hồi anh ngồi cạnh cô trên băng ghế, bởi khi ấy anh không muốn sử dụng một từ nào khác, đã nảy sinh trong cô ngay từ lúc cô nhận ra người đàn ông nay anh trở thành. Cô có những cử chỉ làm dáng, một cái bĩu môi, những động tác lôi cuốn vô thức, đôi bàn tay cứ vô cớ lóng ngóng, rồi những khoảng lặng, đôi mắt cô lẩn tránh rồi lại hướng về đôi mắt người kia.
- Có lẽ thế, nhưng dù sao chúng ta cũng đã chẳng hề hẹn hò gì.
- Có chứ, Franz nói. Đừng nói với tôi rằng em chưa bao giờ suy nghĩ về lời đề nghị của tôi với em đấy nhé.
- Có lẽ thế.
Dường như họ đã quyết định cứ xưng hô thân mật bằng tiếng Pháp – vậy nên một vài người ngồi các bàn bên cạnh không thể hiểu nổi họ đang nói gì. Điều ấy cũng có nghĩa là họ đã tìm lại được sự thân mật trong lối trò chuyện xưa kia.
Franz:
- Cho tôi hỏi em câu này: em đã có ai cho cuộc đời mình chưa?
- Chưa. À mà, rồi và chưa.
- Thế có nghĩa là em chưa hoàn toàn gắn bó với người đàn ông đó, người nhạc trưởng ấy, giữa hai người chưa có ràng buộc gì về pháp lý.
Một lần nữa, cô lại nổi cáu, cảm thấy lòng kiêu hãnh bị đụng chạm.
- Anh nói về cái gì thế? Anh thì biết gì về cuộc sống của tôi chứ, Franz?
- Không gì cả, tôi chỉ đoán, thế thôi.
- Anh đoán ra điều gì nào? Anh đã nói chuyện với những ai rồi? Anh đọc được những gì trên báo chí? Người ta đã nói gì với anh thế?
- Người ta chẳng nói gì với tôi cả, tôi chỉ đơn giản hình dung ra thôi: những người đàn ông duy nhất quan trọng với em, bố em rồi Luca, đều già hơn em và tôi nghĩ cả ông nhạc trưởng nổi tiếng, hào hiệp và tài ba ấy nữa. Em luôn tìm kiếm một người che chở cho mình. Điều đó bình thường thôi, mà gần như là tầm thường vậy.
Cô không nén nổi cười. Vẻ tự tin này, tính ngạo mạn này, cái lối cứ khăng khăng tin rằng mình biết mọi thứ và dự cảm được mọi thứ – rõ ràng là anh chẳng hề thay đổi. Thực ra, việc anh nhìn nhận sai như thế lại tiện cho cô, nó giúp cô ít nhiều làm chủ lại tình hình, quên đi sức lôi cuốn từ anh, thiết lập một mối tương quan khác, thoát ra khỏi sức hút của anh đối với cô.
- Franz tội nghiệp của tôi, nhưng anh thì biết gì về mọi người chứ, và làm thế nào mà anh lại tự cho phép mình đánh giá họ như vậy?
- Xin lỗi, tôi đã nói một điều thực sự ngu ngốc.
Anh muốn chìa tay về phía tay cô, cô không rút tay mình lại. Cho đến giờ, anh chưa hề phác một cử chỉ nhỏ nhất nào, thậm chí không cả một nụ hôn lên má, dấu hiệu của một cuộc gặp mặt sau bao năm bặt tin. Anh thì thầm:
- Em lúc nào cũng nắm tay tôi, ở trước hồ nước ấy. Em luôn đặt bàn tay mình lên cánh tay tôi.
- Franz, tôi xin anh đấy, khi ấy anh vẫn là một cậu bé.
Anh rút tay về rồi ngồi lùi lại trên ghế của mình. Cơ thể anh hoàn toàn thoải mái, anh không hề căng thẳng, giả điệu giả bộ hay đóng kịch chút nào. Franz không đeo mặt nạ.
- Chính xác là tôi không còn như thế nữa. Tám tuổi cách biệt, giờ đây điều đó chẳng có nghĩa lý gì giữa một người đàn ông và một phụ nữ, giữa hai con người.
Cô biết rằng điều này rồi cũng sẽ xảy ra. Cô chờ đợi nó. Liệu cô có mong muốn nó không?
- Còn anh, cô nói, anh đã có ai cho cuộc đời mình chưa?
Anh khẽ nhăn mặt cười nhạo chính mình.
- Nếu em muốn biết hết mọi chuyện thì điều đó chưa bao giờ, chưa bao giờ diễn ra tốt đẹp cả.
- Anh muốn nói…
- Phải, tôi muốn nói về mặt thể xác, phải, chưa hề cùng ai. Nếu em muốn biết rõ mọi chuyện, thì tôi chưa bao giờ thực sự có được điêu người ta có thể gọi là sự thỏa mãn trong tình yêu. Toàn những điều vờ vịt, dối trá, thậm chí đôi khi cũng chẳng thành chuyện.
- Tại sao vậy? Phải chăng anh lo sợ những điều cha mẹ mình đã làm?
- Tôi không rõ nữa. Có lẽ là tôi chờ được gặp lại em.
Cô phản kháng. Anh không hề úp mở, quá rõ ràng, quá thẳng thừng. Nhưng anh vẫn luôn như thế. Cô tưởng như gặp lại Franz bên hồ nước. Cuộc chơi không còn như trước nữa. Vậy nên cô quay lại với tiếng Anh – với ngôi "you" với thái độ xa cách.
- You are being silly. Cậu lại nói những điều ngu ngốc rồi.
- Không đâu, không hề đâu, Clara, tại sao lại không phải như vậy chứ? Em sẽ ở lại
Cô chìa cổ tay ra để nhìn đồng hồ, một hành động đánh trống lảng để giấu đi sự bối rối trong cô.
- Ngày mai chúng tôi đi
- Với cả dàn nhạc à?
- Đúng thế.
Và bất chợt, nước mắt dâng lên trong đôi mắt cô. Cô không hiểu tại sao. Cố biết rằng chẳng cần phải có gì to tát thì những lớp rào chắn bảo vệ trong cô mới sụp đổ, như thể toàn bộ cường độ của buổi hòa nhạc, những khó khăn của cô khi phải giữ vị trí hàng đầu trước sức ép về tài năng của cây clarinet, sự vụng về của cậu thanh niên chơi alto và cảm giác tội lỗi đè nặng lên cô khi tự cho rằng tất cả đều là lỗi ở cô, cảm giác thất vọng mãnh liệt về chính bản thân mình, là tôi, là tôi, đó là những sai lầm của tôi – như thể sự hiện diện vô hình đã làm cô xáo trộn ở khúc biến tấu thứ ba ấy, tất cả những dằn vặt hối hận mà người ta không thể kiểm soát nổi và chúng đã phá hỏng những gì cô hình dung về một buổi tối hoàn hảo ở đó cô là ngôi sao, như thể sự ngạc nhiên và cú sốc mà cô vẫn không chịu thừa nhận là cú sốc nhưng nó vẫn là như vậy, cú sốc trước sự xuất hiện của Franz, một hình hài cao lớn với ánh mắt kỳ lạ hiện ra như đóng khung trong khuôn cửa – như thể tất cả những điều này đổ ập lên cô. Và chúng làm mọi thứ quay trở lại trong cô: chí tiến thủ ở cô, rồi những tính toán, những trù liệu, và ý chí của cô, cuộc chiến đấu không ngừng nghỉ để trèo lên từng nấc thang tháp lầu, thời gian biểu của những chuyến lưu diễn, những lịch làm việc dày đặc, máy bay rồi tàu xe, những xun xoe nịnh bợ, vẻ bề ngoài và trò đóng kịch giả dối trước đám đông, công việc vắt kiệt sức lực, những thành côn! g và thất bại, những mối tình thoảng qua và những mối tình tan vỡ, như thể tất cả những điều này đều trở lên phi lý, đều hạ thấp cô, như thể chỉ sự hiện diện của người thanh niên kia, người vừa bình thản thú nhận với cô rằng trước đây một mình trong đêm tối anh đã thoả mãn được ham muốn của mình dành cho cô – như thể tất cả những điều này có thể kết thúc hoặc được quyết định chỉ trong một giọt nước mắt, lối thoát duy nhất của cô trước khó khăn, giải pháp duy nhất để không phải tiếp tục vượt qua cái ngưỡng cửa luôn lôi cuốn cô nhưng cũng làm cô sợ hãi.
Quả thực, cô đã khóc – nhưng không lâu. Anh đứng dậy, đi vòng qua bàn và ôm cô trong vòng tay. Cô để anh làm vậy. Thời gian trôi đi. Rồi cô ngồi thẳng dậy.
- Mong cậu thứ lỗi, cô nói, nhưng đột nhiên tôi thấy mệt quá. Tôi phải về khách sạn.
- Để tôi đưa chị về, anh đáp.
- Tuỳ cậu thôi.
Cô có vẻ khó đứng dậy nổi khỏi băng ghế trong tiệm cà phê. Một cảm giác kỳ lạ gần như bị tê liệt, đôi chân không nghe lời. Franz đỡ cô dậy và dìu cô từng bước nhỏ, thận trọng, như thể anh đang giúp đỡ một người tàn phế. Anh cầm lấy hộp đàn màu đen cô để cạnh mình, trên băng ghế. Họ đi ra với đêm tối. Cô bỗng dừng lại bất động và nói:
- Xin lỗi, tôi phải quay vào một lát, tôi quên làm việc này.
- Chị có muốn tôi đưa chị vào không?
- Không cần đâu, tôi vào không lâu đâu, mọi việc sẽ ổn thôi.
- Tốt lắm, tôi sẽ giữ hộp đàn cho chị.
Nhìn thấy cô bước vào, người phục vụ tiệm cà phê nhẹ nhàng nói với cô:
- Chúng tôi sẽ đóng cửa trong mười lăm phút nữa.
Clara tiến về phía khu vệ sinh, đẩy cửa và đi thẳng tới trước chậu rửa và gương treo tường. Cô nhìn mình. Cô mở chiếc túi nhỏ bằng da ra, bên tròn đựng chìa khoá, một ít tiền lẻ, vài dụng cụ trang điểm. Cô tiến sát tới trước gương, đến mức bụng cô tì sâu vào thành chậu rửa, nó khiến cô hơi lạnh nhưng lại giữ cho cô đứng thẳng, nếu không cô sợ rằng mình sẽ đổ sụp xuống sàn. Cô đã từng bị như vậy rồi. Thường thường, điều ấy xảy ra sau các buổi hoà nhạc hay sau một buổi tập luyện quá dài. Bác sĩ của cô cho rằng tình trạng này là do một chứng mất năng lượng, chứng hạ đường huyết. Ông nói với cô: "Cô đã cho đi quá nhiều, thế nên chẳng còn lại gì khi cô kết thúc, cô đã hao tổn, kiệt sức."
Và bởi vị bác sĩ này có chút gì đó của bác sĩ tâm lý, nên ông đã nói thêm: "Có lẽ cô đã quá tôn thờ môn nghệ thuật của mình."
Cô đáp: "Không, điều ấy mang lại cho tôi niềm tự hào, và điều ấy chẳng bao giờ là quá nhiều cả."
Nhưng giờ đây, đứng trước gương ở tiệm cà phê, Clara thấy rõ rằng tối nay, chính sự xuất hiện của Franz đã làm cô "hao tổn", đã đảo lộn điều cô vẫn cho là ngăn nắp trong cuộc đời mình. Cô lấy ra một hộp phấn, một chiếc hộp nhựa nhỏ màu đen, cùng cây cọ đi kèm, một thỏi son bóng màu, một chiếc lược nhỏ xíu, một lọ mascara với chổi tròn. Cô để mấy thứ lên trên phần mặt phẳng trắng đục của chậu rửa, rồi lẳng lặng ngắm gương mặt mình.
Nhìn mi đi, cô tự nhủ, mi đã khóc cơ đấy, mi thật là tồi tệ, cô gái tội nghiệp ơi! Nước mắt đã chảy trên má mi, thế nên cần phải vẽ lại mi mắt, đánh phấn lại, nhưng trước hết, rửa mặt đi nào, lau sạch mọi thứ đi, và rốt cuộc, hãy thử đối diện với một người đàn ông trong bộ mặt thật! Tại sao mi lại khóc chứ? Vì những sai sót của mi ư? Đừng nghĩ đến chúng nữa, hãy từ bỏ một chút, mi muốn thế không?
Cô làm những động tác để xoá đi vầng hào quang mà người ta vẫn gán cho cô quá thường xuyên, trong khi bản thân cô lại không tin vào nó. Nghiêng mình về phía tấm gương, bụng dưới tì vào thành chậu rửa, Clara cảm thấy mong muốn được người khác chiếm hữu và được chiếm hữu người khác. Cô mỉm cười với chính mình. Lần đầu tiên kể từ lâu lắm rồi, vẻ mặt mà cô thấy trong tấm gương ở phòng vệ sinh tiệm cà phê không khiến cô quá chán ghét. Cô lôi từ chiếc túi nhỏ bằng da ra một vật cuối cùng, một hộp kim loại đựng kẹo Altoid, những viên ngậm nhỏ xíu có vị rượu bạc hà giúp miệng và hơi thở thơm mát. Cô lùa một hai viên dưới lưỡi của mình và hành động vô nghĩa này khiến cô thấy yên lòng.
21
Bên ngoài, Franz đặt hộp đàn trên đá lát vỉa hè, ngay cạnh cửa vào tiệm cà phê. Anh thích ý nghĩ rằng nằm dưới chân mình, bên trong chiếc hộp đen với hình dạng dễ nhận ra này, là nhạc cụ bé nhỏ mỏng manh bằng gỗ phong hay gỗ vân sam, cùng với nó, mới đây thôi, Clara đã dâng tặng cái đẹp cho khán giả, và nhờ vào nó mà anh cảm thấy đồng điệu với sự sống.
Anh chưa bao giờ được nhìn thấy hay nghe cô chơi đàn. Và cô đã không hề làm anh thất vọng. Anh ngước mắt lên bầu trời vắng bóng những vì sao, bầu trời bao phủ thứ sương mù vàng nhạt, có lẽ là dấu hiệu báo trước một đợt tuyết sắp rơi. Chờ đợi người phụ nữ trẻ trong cái lạnh thế này hoàn toàn phù hợp với anh. Anh nhận thấy thật dễ chịu khi không nghĩ đến gì khác ngoài cây đàn violon kia và người phụ nữ điều khiển nó một cách điêu luyện. Từ lâu lắm rồi anh không cảm thấy trong mình một cảm giác tĩnh lặng thế này. Anh liền nghĩ tới Lunax.
Vào một kỳ học, khi đó anh mười tám tuổi và đang học năm thứ nhất tại Harvard, Franz có trao đổi thư từ với một thiếu nữ cũng có năng khiếu đặc biệt giống mình, Anna-Bethana thường được gọi là Lunax. Anh đã phát hiện ra trang web của cô trên Internet. Tại đây, cô tuyên bố rằng không có gì có thể làm nguôi ngoai được nỗi cô đơn của một người có năng khiếu đặc biệt, không gì cả ngoại trừ việc kết hợp với những con "quái vật" khác giống cô. Franz bắt đầu thư từ với cô khi chỉ rõ ngay từ tin nhắn đầu tiên rằng: "Chúng ta không phải là những con quái vật. Bạn đã mắc một sai lầm nghiêm trọng."
Trang web của Lunax là một trong những trang web được nhiều người ghé qua nhất trong số tất cả các trang web của cộng đồng nhỏ bé nhưng rất tích cực này – cộng đồng bao gồm những thanh niên có chỉ số IQ đặc biệt phát triển, họ thường xuyên trao đổi những suy tư, mơ mộng, những phát hiện, bực tức và ảo tưởng của mình qua không gian điện tử tại Mỹ. Lunax đã nhanh chóng phát hiện ra cá tính của Franz giữa bao người sử dụng Internet khác, những người ít nhiều đều đang tán tỉnh cô qua mạng. Cô quyết định gửi địa chỉ cá nhân của mình để thu hẹp phạm vi đối thoại, chỉ còn giữ liên lạc với một mình Franz. Họ trao đổi ảnh với nhau. Anna-Bethana sống tại
- Anh chẳng hề tin một lời trong câu chuyện của em, Franz đáp. Sư tử núi không tấn công con người.
- Có thể, nhưng em không phải "con người", Lunax nói.
- Nói cho anh sự thật đi, chính em đã tự rạch mặt mình khi còn nhỏ. Anh biết thừa những ham muốn tự huỷ hoại của em. Em là một kẻ quen thói bịa chuyện.
- Em hy vọng rằng anh chỉ nói đùa thôi, cô đáp.
- Anh rất muốn xem cánh rừng của em giống với cái gì, Franz đáp trả.
Cuối cùng thì họ chuyển sang trò chuyện qua điện thoại. Lunax rất khác thường, cô nói với một tốc độ khiến người khác phải ngạc nhiên và đôi khi chẳng thể hiểu nổi. Cô đã mời Franz đến nghỉ cuối tuần tại nhà bố mẹ cô, ở Provo, nơi trước đây cô học chơi piano, học tiếng Trung, khoa học chính trị, toán học và đạo diễn điện ảnh. Một tối thứ Sáu, Franz tới sân bay
Đột nhiên, mọi thứ trở nên rõ ràng: anh từ chối đi gặp một con "quái vật". Lunax có thể mang lại cho anh điều gì cơ chứ? Anh đã biết khá rõ, đủ để chính bản thân mình trải qua được những khó khăn ấy, những khó khăn khi ở vào địa vị của họ: không giống những người khác. Anh không muốn tự khép mình trong cái bẫy này. Vả lại, bị thúc đẩy bnởi một trực giác mà anh không cố để hiểu, Franz dự cảm rằng chuyến bay OW 617, Boston-Salt Lake không bao giờ đến đích. Chẳng có gì là có vẻ như thế cả. Khi trở về học xá vào buổi đêm, anh chờ đợi vài giờ trôi qua rồi mới kiểm tra xem liệu có gì xảy ra với chuyến bay đó không. Không hề xảy ra điều gì bất thường. Máy bay đã cất cánh, sau đó hạ cánh mà không gặp trục trặc nào, vào đúng giờ dự kiến. Anh tự nhủ: "Nếu mình lên đó, chiếc máy bay sẽ vỡ vụn."
Sau đó, anh quyết định cười nhạo những sợ hãi của mình và điều rủi ro này, nhưng ngừng tất cả mọi liên hệ với Lunax và quyết tâm, dù ít dù nhiều, tuân theo những thông lệ và quy định của cuộc sống sinh viên. Trong tâm trí anh lúc nào cũng luẩn quẩn ý nghĩ rằng một mối nguy hiểm bất ngờ có thể xảy đến phá vỡ cuộc xoay vần của vạn vật bất cứ lúc nào. Kể từ ngày đó, trong những chuyến đi, những lựa chọn, thậm chí cả trong cách bước đi của mình, Franz đều gắng tìm kiếm điều gì đấy như là sự cẩn trọng, hướng đến một sự cân bằng.
Vậy nên anh đã nghĩ tới Clara. Thực ra, từ
Giờ đây, đứng giữa màn đêm giá lạnh của
- Xong rồi, xin lỗi vì đã lâu như vậy.
- Không sao, Franz nói với cô.
Anh nhìn cô chằm chằm:
- Em đẹp quá.
Cô mỉm cười.
22
Trời ngày càng lạnh hơn. Khách sạn ở khá gần, nhưng, vì Clara khẳng định cô không thể đi bộ về tận khách sạn, nên Franz vẫy một chiếc taxi.
Một cuộc trao đổi ngắn gọn với người tài xế bắt đầu. Ông ta không hiểu sao mình phải chấp nhận một cuốc ngắn như vậy. Franz gợi ý với ông ta xuôi xuống rồi lại ngược lên Đại lộ
- Như cậu muốn thôi, cậu bạn thân mến, nếu làm vậy là ổn với cậu thì cũng ổn với tôi. Thậm chí, chúng ta có thể làm một vòng quanh thành phố miễn là cậu thích.
Franz đáp:
- À phải, một ý rất hay đấy, hãy làm thế đi, chúng ta cùng làm một vòng quanh thành phố.
- Cậu nghiêm túc đấy chứ?
- Dĩ nhiên rồi, bác làm thế đi!
Trong taxi, cô ngả đầu lên vai anh. Chính Franz là người cất lời trước:
- Tôi đã thật vất vả mới lớn lên được. Mang trí tuệ của người trưởng thành trong cơ thể một đứa trẻ, tôi chưa bao giờ thực sự mô tả được cho em thấy hết những thử thách phát sinh từ việc đó. Một trong những đặc điểm của người có chỉ số IQ rất phát triển – tôi từng đạt từ160 đến 174 điểm, số điểm này, theo các chuyên gia trường nội trú, đã khiến tôi bị xếp vào loại hết sức hiếm hoi – đó là một dạng dị ứng với những đứa trẻ khác. Tại sao em lại cho rằng tôi tìm kiếm em trong sự cô đơn của em trong băng ghế ấy? Càng lớn, tình trạng cô lập ngày càng tăng dần. Vì thế mà rất nhiều trong số những người có năng khiếu đặc biệt bị suy sụp tinh thần. Việc tự sát chẳng xa xôi gì. Người ta bỏ mặc những người chết giữa đường đời. Tôi gặp bao nhiêu khó khăn mới vượt qua được chướng ngại vật ấy. Bởi tôi cũng không phải ngoại lệ.
Clara:
- Đôi khi, nghe anh nói, tôi từng nghĩ rằng anh mang trong mình sự khôn ngoan của một người đàn ông có tuổi và rồi, trong ngay một giây tiếp theo, anh lại trở lại là một cậu bé. Tôi chưa bao giờ hoàn toàn xác định nổi anh ở đâu giữa hai trạng thái đó và tôi mong anh thứ lỗi.
- Khi tới Harvard, tôi đắm chìm trong mọi thứ: khoa học, sinh học – đặc biệt là sinh học – nhưng đồng thời còn có cả tài chính, khảo cổ học, tin học, âm nhạc. Tôi khó mà tìm nổi bạn bởi tôi luôn tiến quá nhanh so với họ. Tôi đã phải đi chậm lại để không tự gạt mình ra ngoài lề, tôi đã phải cố gắng để trở nên tầm thường một chút. Cũng đã có một hoặc hai chuyện tình cảm, nhưng tôi không thể nào nói rằng mình thực sự yêu cô gái này hay cô gái khác. Tôi không thể nào nói rằng họ đã cảm thấy thoải mái với tôi. Tôi luôn không khéo léo với phụ nữ.
Cô khẽ bật ra một tiếng cười tinh ranh, đỏm dáng.
- Có chứ, anh đã rất khéo léo với tôi kể từ lúc anh gõ cửa phòng thay đồ của tôi. Rất, rất khéo léo đấy.
- Với em, đó không phải sự khéo léo, mà là tôi cảm thấy mình tự do.
Cô nói không hề cảm thấy thời gian trôi đi:
- Tôi đã làm việc như điên. Giống như những nhạc công Trung Quốc: chín đến mười tiếng mỗi ngày. Tôi đã hiểu rõ hơn điều gì có lẽ làm nên tính cách mình: tôi chưa bao giờ có mẹ. Một ngày, điều ấy ập xuống tôi khi tôi mang hoa tới đặt trên mộ bố mình – nó giống như một giọng nói phát ra từ sâu thẳm trong tôi: còn mẹ mi đâu? Con người xa lạ đã ra đi vào ngày tôi chào đời ấy, sự tước đoạt hoàn toàn những ngọt ngào và hơi ấm áp, tôi không bao giờ biết được thế nào là một người mẹ, tôi chưa bao giờ được hét lên gọi "Mẹ ơi". Tôi chưa bao giờ được người đàn bà đã hạ sinh ra tôi ôm vào lòng. Khi nghĩ đến chuyện này, vào lúc tôi nói với anh điều ấy, tôi nhận thấy chắc chắn anh cũng chẳng biết về nó nhiều hơn tôi. Có lẽ đó là lý do giải thích tại sao chúng ta lại giống nhau một cách bí hiểm như vậy – bởi vì, tôi vẫn còn nhớ, anh đã từng nói về sự bí hiểm. Nhưng tôi đã không tiến lại gần anh. Quả thực là như vậy, tôi đã gạt bỏ anh khỏi ký ức của mình, bởi tôi bị ám ảnh bởi câu nói sáo rỗng về việc bước sang một trang mới – cần phải lật sang trang mới: "Xóa sạch, và tiếp tục." Tôi đã làm việc mà chẳng hề suy nghĩ, làm việc một cách điên cuồng. Tôi đã chẳng hề thấy cuộc sống. À, tôi làm vậy để có được nó, cái dấu hằn của mảnh tựa cằm cằm dưới hàm ấy, và tôi có nó! Anh thấy không, đây này, đây, nắm lấy tay tôi.
Cô đưa ngón tay Franz lướt trên khuôn mặt mình. Anh chạm đến vùng da nơi một nghệ sĩ violon có thể có một vết hằn, trên cổ, phía bên trái, dưới hàm. Anh vuốt ve làn da ở nơi cô thường xuyên tì lên đàn violon, làn da mềm mại, mịn màng, dưới đó lớp thịt hơi chai lại và xốp xốp. Anh muốn ôm cô vào lòng nhưng có điều gì đó giữ anh lại, anh rút tay về. Cô lại nắm lấy bàn tay ấy và đặt lại vào nơi có vết hằn.
Franz:
- Được vuốt ve làn da em thật là tuyệt. Trước đây, tôi gần như chẳng dám lại gần em, em quá xa vời, không chạm tới được. Tôi thực sự ngỡ rằng trái tim mình sẽ tan vỡ sau ngày em ra đi. Tôi đã bắt đầu cảm thấy vết rạn nứt mà em từng nói với tôi, vết rạn nứt khiến người ta thấy nhói đau trong lồng ngực. Vậy nên tôi quyết định không trở lại bên hồ nước nữa. Tôi đã tới một đất nước khác. Tôi lao vào học đủ mọi thứ, nhiều ngành đến mức giờ đây tôi có thể làm bác sĩ, nhà nghiên cứu, chủ ngân hàng hay giáo viên lịch sử, bất cứ làm gì thì tôi cũng có thể làm tốt như nhau!
- Vậy ư, vậy anh muốn mình thành người thế nào?
- Còn em thì sao?
- Tôi ư, tôi vẫn chưa đạt được giai đọan mà công việc của tôi có thể xóa đi mọi dấu vết lao động.
Cay đắng, cô thú nhận bằng một giọng trầm trầm:
- Tôi biết rất rõ rằng có tồn tại một tầm vóc khác nhưng tôi không thể chạm tới được.
- Chính điều đó làm em bực bội khi em chơi đàn phải không?
- Làm thế nào mà anh nhận ra được điều ấy?
- Tôi đã nhìn em chơi mà, Clara, và tôi đã nhìn em nhiều hơn là nghe em chơi đàn. Tôi đã chỉ làm việc ấy, và tôi cho rằng một ngày nào đó em sẽ đạt được điều này, rằng em chưa hoàn toàn ở trạng thái được nhận ân huệ.
- Không, không, tôi chẳng bao giờ được như thế cả.
Nước mắt lại dâng lên trong mắt cô.
- Không bao giờ! Tôi chẳng biết thế nào gọi là ân huệ cả.
- Thôi nào, rồi em sẽ đạt được điều đó.
Anh ôm chặt cô vào ngực mình, cánh tay vòng qua vai cô. Anh thầm thì:
- Em có biết bao nhiêu ân huệ, thật đáng xấu hổ nếu không thừa nhận điều ấy. Em luôn mang theo nó bên mình, em xinh đẹp, tôi có thể đọc được mọi thứ trên vầng trán nghiêng nghiêng của em, trên những ngón tay em. Tôi có thể nhận thấy sự cô đơn nơi em, gánh nặng quá khứ của em, công việc đầy nghị lực của em, lựa chọn của em, và kết quả của lựa chọn ấy.
Bầu không khí trở nên yên lặng. Chiếc taxi lướt đi trong đêm. Họ phóng qua trước những tòa nhà cao ngất bằng kính và thép, với những tầng dùng làm văn phòng vắng ngắt, sáng rực ánh đèn, và đôi khi, thấp thóang một bóng dáng mảnh khảnh, có lẽ là người gác đêm nào đó đang đi tuần ở những nơi mang sắc bạc chẳng hề có sự hiện diện nào của con người này. Họ cũng đi qua những khu phố nghèo nàn, những khung cảnh thê thảm, họ dừng lại ở những chỗ có đèn giao thông, chẳng có nhiều người trên phố. Franz tiếp tục:
- Em xứng đáng được mọi người yêu mến biết bao! Đừng phản đối, tôi chỉ nói lại những gì đã nói trước đây thôi, phải thế không?
Chiếc taxi đi một vòng xuyên qua thành phố. Nó ngược lên Huntington, Massachusetts, Đại lộ Baverley nhiều lần, và cố tình lòng vòng trên nhiều đại lộ trước khi quay lại khu trung tâm. Họ chẳng hề dõi theo hành trình của nó.
Franz:
- Vậy đấy, phải, tôi chẳng thay đổi gì. Tôi nắm trong tay năng khiếu đặc biệt, nhưng tôi cũng dễ bị tổn thương, bất chấp dáng vẻ bề ngoài của mình – à phải, đương nhiên, tôi to con và tôi chơi thể thao, luyện tập cơ bắp, và tôi lớn lên, phải rồi, thế đấy, tôi khỏe thêm, tôi vỡ tiếng, tôi là một anh chàng bảnh bao, phải thế không? Nhưng tôi không hề mất đi điều gì thuộc về thời thơ ấu của mình, không gì cả. Đặc biệt là mong muốn yêu và được yêu.
Cô nhớ lại cái ngày mà khi nhìn anh chạy xa dần khỏi băng ghế và hồ nước, cô đã mong ước không có điều gì bất hạnh xảy đến với anh. Cô ý thức được rằng Franz thuộc kiểu người mà người ta lo sợ họ chỉ được thỏang ở bên trong một cuộc đời. Cô nói:
- Anh xứng đáng được hạnh phúc.
- Điều ấy không khó đến mức thế đâu.
Cô nhắc lại câu hỏi của mình:
- Anh muốn mình thành người thế nào?
- Thành người mà em muốn biến tôi thành.
Cuối cùng, chiếc taxi cũng đưa họ tới đích. Khi bước xuống xe, Clara lại cảm thấy đôi chân anh, cơ thể anh, sức sống trong đôi tay, lồng ngực và hai bên hông anh. Cái lạnh quất vào mặt cô, cô mỉm cười với nó và quay về phía Franz, anh cũng đang gửi đến cô nụ cười ấy. Giờ đây giữa họ, tâm trạng lưỡng lự đã nhường chỗ cho khát khao, hy vọng, cho niềm vui sướng câm lặng. Khi hai người bước vào khách sạn, họ có vẻ đã là một đôi.
23
Là một thành viên của chuỗi Wolcott, khách sạn ba sao Brixton nằm trên phố West Newton, không quá xa Đại lộ Massachusetts nơi nhà hát giao hưởng tọa lạc. Đó là một tòa nhà mười một tầng xây từ loại đá địa phương, màu nâu. Ban đêm, sảnh vào được chiếu sáng lờ mờ nhờ những chiếc đèn thấp có chao màu xanh thẫm đặt trên mấy cái bàn gỗ gụ tròn. Nhân viên lễ tân trực đêm tên là
Tọa lạc trên tầng năm, cánh bên phải, căn phòng số 484 là một phòng nằm ở góc. Clara đứng trước cánh cửa và đưa chìa khóa cho Franz. Đó là một chiếc thẻ từ mà người ta phải nhanh tay quẹt từ trên xuống dưới vào khe của một thứ giống như cái ụ bằng kim lọai để đèn xanh sáng lên báo hiệu cửa đã được mở. Thường ngày, Clara phải thử đi thử lại nhiều lần mới mở được cửa. Nó làm cô phát cáu, thậm chí nhiều khi cô chẳng thể nào mở nổi. Khi ấy, cô thường buộc phải quay xuống quầy lễ tân để nhờ ai đó lên giúp mình. Franz mở ngay được cửa. Cô ra hiệu cho anh vào phòng. Anh có một cử chỉ rất nhỏ câm lặng, như muốn nói, em có chắc tôi có thể vào không, cô cũng phác một cử chỉ đáp lại, một nụ cười duyên dáng bình thản, chắc chắn chứ, anh có thể vào, đương nhiên rồi. Anh lách mình vào phía sau cô.
Từ một trong những ô cửa sổ, người ta có thể thấy một khỏang sân bên trong được khéo léo chiếc sáng bởi những bóng đèn giấu kín dưới mấy lùm cây và đám cây con. Một bồn nước nhỏ bằng sỏi xám pha trắng nằm chính giữa sân.
Người ta không biết liệu họ có làm tình hay không. Và nếu họ làm thế, người ta cũng chẳng thể biết được điều ấy có lặp lại nhiều lần trong đêm hay không. Cũng có thể chẳng có chuyện gì xảy ra giữa họ. Nhưng hòan tòan có thể nghi ngờ điều ấy.
Trong tình yêu, chắc chắn sẽ xảy ra điều gì đó. Mà giữa hai người ấy, đã từng có tình yêu, và đang có tình yêu.
Người này bị hút về phía người kia, tình cảm yêu thương trìu mến như những đợt sóng liên tiếp phủ lên họ mà khó nhận thấy được, niềm ham muốn cuốn họ vượt lên những ngại ngùng e ấp, điều ấy gắn kết họ lại với nhau mà không cần phải nói quá nhiều – sự im lặng chiến thắng ngôn từ – anh cần có cô như một người tình, một người mẹ, cô cần đến anh như một người tình, như bóng hình đầu tiên gợi nhớ đến người cha mà luôn kiếm tìm, điều ấy đã biến khác biệt về tuổi tác giữa họ thành một lợi thế chứ không còn là một vật cản. Điều đã từng là "bất khả" cách đây mười năm giờ lại hoàn toàn có khả năng xảy ra đến mức người ta có thể đánh cược mà không hề mạo hiểm chút nào rằng: họ sẽ yêu nhau.
Nếu không, họ sẽ chẳng là gì. Không có tình yêu, con người ta hoàn toàn chẳng là gì.
ĐOẠN KẾT
Tôi gập sách vào và một lần nữa lại nhìn ngắm khung cảnh nằm giữa tấm màn cây cối ở phía bên ngôi nhà và ô cửa kính tôi đang ngồi đọc sau đó. Tôi không thấy cánh bướm xuất hiện trở lại. Có lẽ giờ không còn là khoảng thời gian dành cho nó nữa, màn đêm buông xuống và chẳng mấy chốc những cách chim sẽ vút lao lên từ sát mặt cỏ, mặt hồ nước. Đó là những chú chim chích, chim én, đôi khi là những cánh kim oanh, đôi khi lại là những chú bách thanh. Tôi biết rằng việc chúng lượn qua như vậy có nghĩ là trời sắp mưa. Đó là một thời khắc tôi yêu mến, bao năm tháng trôi qua cũng sẽ không thay đổi được điều này, tôi yêu cái khoảnh khắc ánh ngày chao đi nhường chỗ cho bóng đêm đang tới. Và thế rồi, tôi biết mình đang chờ đợi điều gì, tôi biết mình đang nghe thấy gì.
Đã sáu giờ tối. Tôi phải chuẩn bị va li để khởi hành sắm vào sáng mai cho buổi hòa nhạc sắp tới. Giờ đây, khi nhắc đến tôi, người ta cho rằng cuối cùng thì tôi cũng đã trở thành một nghệ sĩ lớn, điêu luyện. Xong rồi, cô ấy đã đạt được điều đó, họ viết như thế. Phải mấy rất nhiều thời gian tôi mới được thừa nhận như vậy, nhưng tôi có thể xác định chính xác thời điểm và người đàn ông đã giúp tôi giải phóng tài năng của mình, giúp tôi tìm ra chìa khóa thành công. Tôi đi lưu diễn đây đó thường xuyên nhưng vẫn luôn sắp xếp để có thể thường xuyên trở về ngôi nhà của mình bên hồ nước, giữa bạt ngàn cây cối, bởi chính ở nơi đây tôi được nghe bản hòa âm đẹp nhất trên đời.
Tôi nghe thấy tiếng bước chân trẻ con lạo xạo trên đám đá giăm ở lối vào. Những bước chân ngày càng nhanh hơn. Phía sau lưng tôi, tiếng cửa ra vào mở ra, âm thanh tạo nên hạnh phúc của tôi, khúc hát của cuộc đời tôi, những bước chân nhỏ vui nhộn đang tiến nhanh lại phía tôi. Chúng ngân lên: táp-táp-táp-táp, và điều ấy luôn luôn, luôn luôn, luôn luôn gợi tôi nghĩ đến nhịp điệu mà tôi đã hình dung ra khi, để tôi lại một mình trên băng ghế bên hồ nước, cậu bé mặc đồng phục màu xanh lơ chạy trên những tấm gỗ lát cây cầu có mái che ở Lucerne. Đó là những bước chân của đứa con mà Franz đã có với tôi, một thời gian trước khi anh ra đi mãi mãi.
CẢM ƠN
Renaud Capuҫon, Baїba Skride, Paul Meyer, Gautier Capuҫon, Aki Saulière, Béatrice Muthelet.
Claudio Abbado và Renée Fleming.
[1] Trong nguyên bản, câu này viết bằng tiếng Anh
[2]. Lied (tiếng Đức): khúc dân ca.
[3]. Tiếng Đức: Đêm và những giấc mơ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét