Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2013

DAZAI OSAMU.html

DAZAI OSAMU.html

Mục lục:

DAZAI  OSAMU

Phong Cảnh Hoàng Kim

JUDAS ĐI TỐ CÁO

Xe Lửa

Đồi Khỉ

Nói dối

Melos ơi,  chạy nhanh lên !

Cố Hương

DAZAI  OSAMU

TIỂU THUYẾT GIA HIỆN ĐẠI NHẬT BẢN

Phạm Vũ Thịnh

Tiểu thuyết gia, tiếng nói văn học Nhật Bản tiêu biểu của thời kỳ vừa chấm dứt Thế Chiến thứ hai, Dazai Osamu sống và viết “cùng một nghĩa như nhau“, thành thực mà bi đát.

Tên thật là Tsushima Shuji, ông sinh năm 1909 ở thành phố Tsugaru, huyện Aomori, phía bắc đảo Honshu. Thân phụ là một chính trị gia địa chủ có 11 người con. Mẹ yếu nên từ nhỏ ông được người cô nuôi nấng. Thuở nhỏ là học trò giỏi, những năm trung học cấp ba đã cùng bạn bè viết văn làm báo. Năm 1927, tin nhà văn Akutagawa Ryunosuke tự tử khởi đầu những thay đổi trong lối sống của ông. Lơ là việc học, phung phí vào áo quần, rượu chè, gái làng chơi, và tiếp cận với phái tả, lúc bấy giờ đang bị chính quyền đàn áp. Năm 1929, đêm trước kỳ thi tốt nghiệp mà ông không hy vọng qua được, ông tự tử bằng thuốc ngủ nhưng được cứu sống. Năm sau, ông lên Ðại học Tokyo học ngành Văn chương Pháp, bắt đầu tham gia hoạt động chính trị tả phái. Vì giao du đắm đuối với cô đầu (geisha), ông bị gia đình từ. Năm ngày sau, ông tự tử với một cô nhân tình khác 19 tuổi nhưng chỉ có cô ta chết. Gia đình ông hoảng sợ, chấp nhận trở lại và cho phép ông kết hôn với cô geisha.

Không lâu sau, ông bị bắt vì hoạt động chính trị, anh ông can thiệp với điều kiện phải chuyên chú vào việc học và tốt nghiệp. Những năm kế tiếp có hiệu quả tốt, ông sáng tác mạnh với bút danh Dazai Osamu, bắt đầu từ truyện ngắn “Ressha” (Xe Lửa, 1933) là tác phẩm đầu tiên ông thí nghiệm dùng lối viết tự-thuật về sau nầy trở thành sở trường và đặc tài của ông. Nhưng năm 1935, ông không tốt nghiệp được và rớt cả kỳ thi vào một toà báo ở Tokyo. Ông treo cổ tự tử, nhưng lại được cứu. Ba tuần sau, ông bị sưng ruột dư phải vào bệnh viện, và sau đó bị nghiện thuốc-giảm-đau-có-ma-tuý, đến nỗi bị đưa vào bệnh viện tâm thần để chữa trị suốt một tháng. Trở về, ông phát giác ra vợ ông ngoại tình với bạn ông nên ly dị và lấy vợ khác.

Nhật Bản tham gia Chiến tranh Thái Bình Dương tháng 12, 1941, nhưng Dazai được miễn đi lính vì đau phổi. Kiểm duyệt không có hảo cảm với văn chương của ông nhưng Dazai vẫn tìm cách xuất bản được nhiều tác phẩm trong thời chiến. Nhà ông bị dội bom hai lần nhưng gia đình ông thoát chết. Con gái thứ ba của ông, Satoko, sinh năm 1947, sau nầy trở thành nhà văn nổi tiếng, bút hiệu Tsushima Yuko.

Tháng 7 năm 1947, ông xuất bản “Shayô” (Tà Dương), tác phẩm đưa ông lên hàng tác gia danh tiếng nhất đương thời. Vốn ưa uống rượu, ông trở thành nghiện và sức khoẻ giảm sút dần. Gặp Yamazaki Tomie  goá chồng sau 10 ngày kết hôn, ông bỏ vợ con theo Tomie và viết tiểu thuyết tự thuật “Ningen Shikkaku” (Mất Tư Cách Làm Người) ở nơi nghỉ mát có suối nước nóng Atami. Tháng 6 năm 1948, ông cùng Tomie tự tử chết ở hồ chứa nước ngọt của sông Tamagawa, để lại tác phẩm dang dở tựa đề là “Goodbye” (Giã biệt).

Ðời viết văn chuyên nghiệp của Dazai chỉ có 15 năm, từ 1933 đến 1948, nhưng tác phẩm của ông còn được yêu thích mãi về sau nầy, nhất là trong giới độc giả trẻ, cảm thông với ông nỗi khắc khoải tìm kiếm ý nghĩa của nhân sinh và sự thật trong quan hệ giữa người đời, hay bị thu hút bởi cuộc đời pha lẩn bi kịch và sa đoạ, cùng với ý thức tự hủy và nổi loạn của ông.

Dazai dùng lối viết giản dị như câu nói thường ngày. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông đều dựa vào những sự kiện xảy ra trong đời ông, nên được xếp vào loại “shi-shosetsu” (tư-tiểu-thuyết, tự truyện, tiểu thuyết tự thuật)

Tác phẩm của Dazai hàm chứa một nỗi bi quan sâu đậm, điều không có gì lạ ở một người đã nhiều lần muốn tự chấm dứt đời mình. Các nhân vật tiểu thuyết của ông cũng quan niệm chuyện tự tử như phương cách duy nhất có thể thay thế cho đời sống địa ngục của họ, nhưng lại thường thất bại trong chuyện tự tử, chính vì tâm lý khinh bạc đối với đời sống, coi chuyện sống hay chết chẳng là điều gì hệ trọng.

Nhân vật chính của “Ningen Shikkaku” (Mất Tư Cách Làm Người) lao đầu vào lối sống tự hủy, bởi tuyệt vọng vì không thể thay đổi được đời mình, cuối cùng trở thành người tàn phế cô lập trong túp lều ở ngoại ô đô thị Tokyo. Ðược viết với giọng thành thực đến tàn nhẫn, không có chỗ trống cho tình cảm, tiểu thuyết nầy trở thành một trong những tác phẩm “cổ điển” (classic) của văn học Nhật Bản.

“Shayô” (Tà Dương), tác phẩm nổi tiếng nhất của Dazai, kể chuyện một gia đình quý tộc sa sút vì chiến tranh, một bi kịch hậu chiến Nhật Bản. Nhân vật chính là cô gái trẻ Kazuko phải cam phận rời bỏ quan niệm đạo đức truyền thống để thích ứng với hoàn cảnh mới trong cả cách phục sức lẫn ứng xử. Gia đình cô mong chờ người con trai trở về từ chiến trường Ðông Nam Á, anh ta trở về thật nhưng đã thành kẻ nghiện ngập. Truyền thống, nghi thức vốn được tôn trọng trong gia đình ấy dần dần bị thải bỏ. Rồi mẹ cô chết, người con trai tuyệt vọng trong thất bại của chính mình và của cả xã hội hậu chiến, đã tự tử. Kazuko quyết tâm có con với Uehara, người trí thức vỡ mộng vì thời thế, hy vọng đứa con sẽ là điểm tựa tinh thần và đạo đức cho mình.

“Hashire Merosu” (Melos ơi, chạy nhanh lên!, 1940) là một biệt lệ của lối viết bi quan ấy, vì là một câu chuyện có kết luận tích cực có hậu về mãnh lực của tình bạn, đã được viết thành kịch bản phim năm 1966 với đạo diễn Taniguchi Senkichi và các tài tử Mifune Toshiro, Nakamaru Tadao.

Nhiều tác phẩm của Dazai đã được dịch ra tiếng Anh, ngoài các tác phẩm tiêu biểu kể trên còn có:

“Fuyu no Hanabi” (Pháo bông mùa đông, 1946)

“Bijion no Tsuma” (Người vợ của Villon, 1947) 

……

Dazai Osamu là một khuôn mặt nổi bật trong nhóm tác-gia hậu chiến Nhật Bản gọi là Burai-ha (Phái Vô Lại), tự nhận là những kẻ phóng đãng, có khuynh hướng sáng tác chống lại quan niệm văn dĩ tải đạo đầy dụng ý luân lý, và có đời sống sa đoạ đi đến tự hủy. Xã hội Nhật Bản ngay sau chiến bại với những băng hoại về luân lý và giá-trị-quan truyền thống khi đối đầu với bản năng tranh sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt của đổ nát và túng thiếu, đã cung cấp cho nhóm tác-gia Burai-ha những điển hình văn học đặc biệt hậu chiến.

Dazai được độc giả cảm thông chia sẻ về những khổ nhọc cay đắng của kẻ chiến bại mà lại quen có hào khí của giai cấp kẻ sĩ có tinh thần quốc gia cực đoan Nhật Bản, nhưng ông bị cả quân phiệt Nhật lẫn quan quân chiếm đóng Mỹ xem là phần tử nguy hiểm vì khuynh-hướng khuynh-tả có nhiều phần vô-chính-phủ của ông. 

Cuộc đời bi kịch của Dazai đã được dựng thành phim truyện TV trình chiếu ở Nhật Bản trên đài Fuji TV tháng 6 năm 1992, với tài tử chính là Yakusho Koji có khuôn mặt và vóc dáng rất giống Dazai Osamu.

Phm Vũ Thnh

Sydney 12-2005

Tham khảo:

[1] Osamu Dazai 1909-1948, Books and Writers“, trang mạng http://www.kirjasto.sci.fi/dazai.htm

[2] “Osamu Dazai”, trang mạng http://www.f.waseda.jp/mjewel/jlit/authors_works/modernlit/dazai_osamu.html

[3] “Osamu Dazai”, Wikipedia, the free encyclopedia, trang mạng http://en.wikipedia.org/wiki/Dazai_Osamu

[4] Nguyễn Nam Trân: “Dazai Osamu”, trong Chương “Đoạn Đường Vượt Thoát Hậu Chiến, Kinh Nghiệm Các Nhà Văn Nhật Bản Thế Hệ 1945-1965″, biên khảo “Phác Thảo Văn Học Sử Nhật Bản” (chưa xuất bản).

Phong Cảnh Hoàng Kim

DAZAI OSAMU

Ogon Fukei

Phạm Vũ Thịnh dịch

Lời người dịch :  Truyện ngắn nầy đã đăng trên “Kokumin Shinbun” tháng 3 năm 1939, được dịch từ nguyên tác tiếng Nhật “Ogon Fukei” trong bản công khai trên mạng Aozora Bunko (Kho Sách Ngoài Trời) tháng 3 năm 2004.

 Thuở nhỏ, tôi không phải là đứa trẻ ngoan ngoãn gì mấy. Cứ hay hành-xách các chị người làm. Tôi ghét sự chậm chạp, cho nên các chị người làm chậm chạp thì thường bị tôi hành hạ nhiều nhất. Okei là một chị người làm chậm chạp ấy. Cho dù chỉ gọt vỏ quả táo, cũng vừa gọt vừa suy nghĩ gì đâu đâu, cứ ngưng tay mãi, những lúc như thế, nếu không bị la mắng thì một tay cầm quả táo, một tay cầm con dao, cứ thế mà ngồi thừ ra đấy suốt buổi. Khiến người ta nghĩ là thiếu đầu óc. Tôi thường thấy dáng chị ấy đứng đờ đẫn trong nhà bếp, chẳng làm gì cả, đến tâm tình trẻ con cũng thấy chẳng được mắt tí nào, khiến tôi bực bội mà quát lên “Ê, Okei! Ngày ngắn lắm đấy nhé!” những lời có vẻ người lớn như thế, bây giờ nghĩ lại thấy những lời ấy nghe tàn nhẫn đến lạnh cả sống lưng. Cũng đã vừa lòng đâu, có lần tôi còn gọi Okei đến bắt phải cắt từ sách hình ra cho tôi hàng trăm hình người trong cảnh xem diễn-binh, lúc nhúc đủ thứ binh lính, có cả những người cưỡi ngựa, người vác cờ, người bồng súng, …, phải lấy kéo cắt vòng theo hình từng người như thế, mà Okei vụng về cặm cụi cắt từ sáng đến chiều tối, bỏ cả cơm trưa, cũng chỉ được đâu chừng 30 hiønh người, mà hình đại tướng lại cắt đứt mất một bên ria mép, binh sĩ cầm súng thì tay to khiếp, cứ như là tay gấu, … nên bị tôi la mắng chầm chập từng chút một. Đúng vào mùa hè, Okei lại là người đổ mồ h! ôi nhiều nên bọn lính cắt ra đều ướt sủng mồ hôi tay của Okei, khiến tôi nổi nóng, đá cho Okei một phát. Ðúng ra là tôi đá nhắm vào vai đấy, nhưng Okei ôm má bên phải khóc nức nở, nước mắt ròng ròng, khóc gập người xuống, khóc mãi không dứt. Đến cha mẹ tôi … cũng chưa hề … đạp vào mặt … như thế. Tôi sẽ nhớ … suốt đời tôi …“. Okei rên rỉ đứt quãng như thế, làm đến tôi cũng cảm thấy khó ở. Vậy mà tôi còn ngược đãi Okei nhiều lần khác nữa, làm như đó là sứ mệnh trời giao cho tôi vậy. Mà cả bây giờ, tôi cũng vẫn không chịu nổi những kẻ đần độn ngu xuẩn.

Hai năm trước đây, tôi bị đuổi ra khỏi nhà, chỉ một đêm mà thành ra túng quẫn, lang thang đầu đường xó chợ, khóc kể cầu khẩn nơi nầy nơi nọ, kiếm sống qua ngày, rồi ngay lúc vừa thấy có thể viết văn mà bắt đầu sống sót được thiø lại ngã bệnh. Nhờ lòng thương xót của người nầy người khác mà đến mùa hè thì thuê được một căn nhà nhỏ gần bãi biển bùn lầy ở Funabashi thuộc huyện Chiba, tự mình nấu nướng bồi dưỡng được, đêm đêm phải đánh vật với giấc ngủ đầy mồ hôi đến vắt ra ròng ròng từ áo ngủ, dù vậy vẫn phải làm việc để sống, mỗi buổi sáng chỉ có một cốc sữa tươi, mà kỳ lạ thay, cũng cảm nhận được niềm vui mình đang sống, tuy đầu óc tôi đã đau đớn mệt mỏi quá đến nỗi nhiøn đám trúc đào nở ở góc vườn chỉ thấy những ngọn lửa phừng phực cháy đỏ.

Khoảng đó, có người cảnh sát gầy thấp gần 40 tuổi, đến kiểm hộ khẩu. Ở ngưỡng cửa nhà tôi, anh ta nhìn tên tôi trong cuốn sổ, rồi nhìn gương mặt râu ria lởm chởm lâu ngày không cạo của tôi, đối chiếu so sánh một hồi rồi nói:

_”Ủa, ông là … cậu nhà đây mà, phải không?“.

Giọng người cảnh sát nghe nặng phương-âm quê nhà, nên tôi xấc xược đáp:

_”Đúng đấy. Thế anh là ai?”

Khuôn mặt gầy gò của người cảnh sát ấy nở nụ cười tràn đầy.

_”Ôi, quả đúng là cậu rồi. Thế mà đã 20 năm qua rồi, có khi cậu quên đi mất, chứ tôi là người đánh xe ngựa ở K đây mà”.

K là ngôi làng nơi tôi đã sinh ra.

_”Anh thấy đấy”. Tôi nói, không buồn mỉm cười. _”Tôi bây giờ đã sa sút thế nầy …”

_”Cậu đừng nói thế”. Người cảnh sát vẫn cười vui mừng. _”Viết tiểu thuyết là thành công lắm đấy chứ”.

Tôi cười khổ sở.

_”Mà cậu nầy”. Người cảnh sát hạ giọng. _”Okei vẫn thường nhắc đến cậu mãi đấy”.

_”Okei nào?“. Tôi không nhớ ngay được là ai.

_”Thì Okei đấy, cậu quên rồi à? Người làm cho cậu ngày xưa đấy mà!“.

Tôi nhớ ra rồi. “Ôi”, tôi chợt than thầm, và ngồi xổm trên bậc thềm, đầu gục xuống, nhớ lại rõ ràng từng hành vi độc ác mà mình đã đối xử với chị người làm chậm chạp ấy, đến nỗi không sao ngồi yên chịu đựng nổi nữa.

_”Chị ấy hạnh phúc chứ?“. Bất chợt ngẩng đầu lên, thốt ra câu hỏi đột ngột như thế, tôi nhớ là khuôn mặt tôi lúc ấy hẳn đã có nụ cười sượng sùng của kẻ tội phạm, bị cáo.

_”Vâng, cũng nhờ phúc đức ông bà”. Người cảnh sát tươi tắn đáp lời thuần hậu như thế, rồi lấy khăn tay lau mồ hôi trán. _”Thưa, nếu cậu cho phép thiø lần sau sẽ đưa nó đến đây, xin được thong thả mà tạ ơn cậu một lần”.

Tôi sửng sốt đến nhảy đựng lên. Không, không nên, đừng làm thế. Tôi dãy nãy từ chối, trong lòng quằn quại một nỗi nhục nhã không tả được.

Thế nhưng người cảnh sát vẫn tươi cười.

_”Cậu nầy, con chúng tôi đã bắt đầu làm việc ở ga nầy đấy. Nó là trưởng nam. Rồi tiếp theo là trai, gái, gái, cháu út năm nay 8 tuổi, lên bậc tiểu học. Chúng tôi an tâm được rồi. Okei cũng đã chịu cực chịu khổ. Nói thế nào nhỉ? Những người được vào làm trong nhà quyền thế như nhà cậu, để tập tành lễ nghĩa, thì thế nào cũng có chỗ hơn người”. Mặt anh ta ửng đỏ một chút, và cười lớn. _”Nhờ hồng phúc nhà cậu đấy. Okei cứ trầm trồ chuyện cậu mãi. Lần nghỉ lễ tới, thế nào cũng xin cùng đến cảm ơn cậu”. Mặt chợt nghiêm lại. _”Thôi, tôi xin kiếu. Mong cậu giữ gìn sức khoẻ”.

Thế rồi ba ngày sau, tôi lo lắng chuyện túng thiếu, đến không làm việc gì được, ở nhà cũng không xong nên cầm cây gậy trúc định ra biển, vừa mở cổng trước rột roạt ra thì thấy trước cửa đã có ba người, bố mẹ khoác áo mùa hè với một cô bé mặc áo đầm màu đỏ, đứng sắp hàng ngang, trông đẹp như tranh vẽ. Gia điønh Okei đấy.

Tôi thốt lên giọng lớn kinh hoàng như quát, đến tôi cũng ngạc nhiên:

_”Đã đến đấy à? Hôm nay tôi có chuyện phải đi ngay. Tiếc quá, nhưng ngày khác hãy đến nhé”.

Okei đã trở thành một người vợ trung niên đoan trang. Cô bé 8 tuổi có khuôn mặt thật giống Okei thời còn là chị người làm trong nhà tôi, đôi mắt đục lờ đờ lơ đãng ngước nhìn tôi. Tôi buồn rầu bước như chạy trốn về phía bờ biển, không đợi Okei kịp nói một lời nào. Tôi vung cây gậy trúc vẹt đám cỏ dại trên bãi biển, xăm xăm bước đi, chẳng hề ngoái đầu lại, chân dậm thô bạo, bước thẳng dọc theo bờ biển về phía khu phố. Đến phố thì chẳng biết làm gì. Chỉ thơ thẩn ngước nhìn những tranh quảng cáo nhà hát, ngắm cửa sổ trưng bày của tiệm y phục Nhật Bản, miệng cứ “chậc, chậc” tắc lưỡi, mà trong lòng, từ chốn sâu kín nào đó, nghe có tiếng thầm thì “thua rồi, thua rồi“, nghĩ thầm thế nầy thì không được, nên lắc mạnh thân mình mà bước đi, cứ thế chừng 30 phút sau, tôi lại trở về trước cổng nhà mình.

Bước đến ven bờ biển, tôi dừng chân. Trông kiøa! trước mắt tôi là một cảnh tượng thanh bình. Gia đình Okei đang thư thái ném sỏi xuống biển và cười đùa thích thú. Tiếng cười nói vang vọng đến tận chỗ tôi đứng.

_”Cậu ấy thông thái lắm nhé”. Người cảnh sát vừa nói vừa dồn toàn lực ném viên sỏi ra biển. _”Thế nào cũng thành công cho mà xem”.

_”Thật thế đấy. Thật thế đấy”. Tiếng Okei cao vút, kiêu hãnh. _”Cậu ấy thuở bé đã đặc biệt thế rồi. Đối với người dưới thì tử tế, chịu khó hỏi han“.

Tôi đứng lặng, nước mắt chảy dài. Nỗi khích động u uất như đã hoà tan trong nước mắt mà biến mất.

Mình thua rồi. Vậy là tốt. Không thế thì không nên. Thắng lợi của gia đình ấy cũng sẽ chia ánh sáng đến cho ngày mai làm lại cuộc đời của tôi.

Phạm Vũ Thịnh dịch

Sydney 12-2005

JUDAS ĐI TỐ CÁO

Nguyên tác: "Kakekomi Uttae"

trích từ tập truyện ngắn "Hashire Merosu" của Dazai Osamu

Lê Ngọc Thảo dịch

Bẩm quan. Thưa quan. Ông ấy tàn nhẫn. Tàn nhẫn lắm. Dạ, nó là thằng đáng ghét. Con người xấu xa. Ôi thôi, không chịu nỗi. Không thể để nó sống được.

  Dạ, dạ. Để tôi lấy bình tĩnh bẩm với quan. Không thể để ông ấy sống được. Ông ấy là kẻ thù của thế gian. Dạ, bất cứ chuyện gì, tôi cũng nói hết, nói tất cả. Tôi biết chỗ ông ấy ở. Tôi sẽ dẫn đường. Băm vằm đi, giết ông ấy đi. Ông ấy là thầy của tôi. Là Đức Chúa. Nhưng cùng tuổi với tôi. Ba mươi bốn tuổi. Tôi chỉ sanh sau ông ấy có hai tháng. Không khác nhau bao nhiêu. Giữa con người với con người, làm sao có sự kì thị tàn nhẫn như thế đó được. Vậy mà, cho đến ngày hôm nay, ông ấy đã bắt tôi làm việc cực nhọc chẳng nương tay, thật là ác độc. Mỉa mai tôi, coi thường tôi hết cỡ. Ôi thôi, không chịu nổi. Tôi đã ráng chịu đến chỗ mà mình còn có thể chịu được. Khi cần phải giận mà không giận thì còn gì là con người nữa. Từ trước đến nay, tôi đã âm thầm bảo vệ ông ấy không biết bao nhiêu lần. Có ai biết đâu. Chính ông ấy, ông ấy cũng không biết. Không, nhất định ông ấy phải biết. Biết rõ ràng. Chính vì biết nên ông ấy càng tỏ ra cố tình khinh bỉ tôi. Ông ấy kiêu căng. Ông ấy nhờ tôi giúp quá nhiều nên ông ấy thấy tức mình. Ông ấy tự kiêu đến độ ngớ ngẩn. Ông ấy cứ đinh ninh việc được tôi giúp đỡ như là điều nói lên sự thấp kém tồi tệ của bản thân mình. Ông ấy muốn được mọi người nghĩ rằng ông ấy làm được mọi việc. Chuyện thật là khùng.Thế gian đâu phải như thế. Muốn sống được trong đời này, có lúc phải dập đầu như tế sao một người nào đó, có lúc không còn cách nào hơn là phải chịu khó lần hồi chèn ép người ta mà sống. Ông ấy làm được cái gì ! chứ? Không làm được cái gì ráo. Dưới mắt tôi, ông ấy chỉ là một đứa trẻ non nớt. Nếu không có tôi, ông ấy và đám đệ tử bất tài, ngờ nghệch chắc chắn đã chết bờ chết bụi ở đâu đó từ lâu rồi. "Cáo có hang, chim có tổ, nhưng con người ta thì không có chỗ để gối đầu". Câu đó, câu đó, câu đó đó. Thật là khó chịu khi phải kể hết mọi chuyện. Thằng Peter nó làm được cái gì chứ? James, John, Andrew, Thomas, toàn là bọn ngu đần, đi dài dài theo sau ông ấy, nói toàn chuyện nịnh bợ mùi mẫn nghe mà lạnh xương sống, nào là chuyện thiên đàng, bọn nó sốt sắng tin tưởng một cách say sưa mấy thứ tầm phào như thế, nếu tiến gần được đến thiên đàng, chắc bọn nó định trở thành nhiếp chính đại thần hết cả à, cái bọn ngu ngốc đó. Ngày ngày thiếu bánh mì, nếu không có sự xoay xở của tôi thì cả bọn chỉ còn cách chết đói thôi, phải không hả? Tôi cứ để cho ông ấy thuyết giáo, trong khi đó tôi lẩn mình đi thuyết phục quần chúng để thâu tiền cúng điếu, hoặc gom góp vật dụng từ những người giàu có trong làng, từ chuyện lo liệu nơi ăn chỗ ở đến chuyện đi mua quần áo hằng ngày, bất kể nhọc nhằn, điều gì tôi cũng làm hết, vậy mà ông ấy thì đã đành rồi, cả bọn đệ tử ngu ngốc kia không có ai nói một lời cám ơn với tôi. Không những không nói cám ơn, ông ấy còn giả vờ như không biết chuyện khổ nhọc thầm kín hằng ngày của tôi, lúc nào ông ấy cũng nói toàn những chuyện xa xỉ hết mức, ngay cả khi chỉ có hai con cá và năm ổ bánh mì, ông ấy đã ra lịnh cho tôi chuyện khó khăn động trời là chia thức ăn cho tất cả đám quần chúng trước mặt. S! au lưng ! ông ấy, tôi đã phải xoay xở hết sức cực nhọc, bằng cách này cách kia mới mua được đầy đủ thức ăn. Phải nói rằng, từ trước đến nay tôi đã nhiều lần giúp ông ấy tạo ra những phép lạ, làm những ảo thuật không chắc thành công cho lắm. Coi vậy chớ tôi đây nhất định không phải là người bủn xỉn đâu. Ngược lại, tui còn là người có sở thích rất thanh cao. Tôi nghĩ ông ấy là người tốt. Dưới mắt tôi, ông ấy giống như một đứa con nít, không tham lam, nên dẫu tôi có nhọc công dành dụm tiền bạc mỗi ngày để mua bánh mì, cũng liền bị ông ấy xài lãng phí không chừa một cắc nào, nhưng tôi không có hận ông ấy đâu. Ông ấy là người tốt. Tôi gốc là một lái buôn nghèo, nhưng tôi nghĩ mình hiểu được tâm tình của những người sống bằng tinh thần. Cho nên, dẫu ông ấy có tiêu phí tiền của mà tôi khổ tâm để dành từng chút vào những chuyện chẳng ra gì đi nữa, tôi cũng không để ý. Không để ý nhưng tôi nghĩ, vậy thì, đôi lúc có một vài câu nói êm ái với tôi thì cũng được chứ, đằng này, ông ấy lúc nào cũng tỏ vẻ xấu bụng với tôi. Một lần vào mùa xuân, trong lúc lang thang trên bãi biển, bất ngờ ông ấy gọi tôi đến bảo. "Tao được mày giúp đỡ nhiều. Tao hiểu cái buồn của mày. Nhưng, không nên làm mặt khó chịu mãi như vậy được. Lúc buồn làm ra mặt buồn, đó là cách làm của kẻ ngụy thiện. Đó chỉ là việc cố ý thay đổi sắc mặt cho người ta thấy, cho người ta biết cái buồn của mình. Nếu thực sự mầy tin ở thượng đế, dẫu trong lúc buồn, mày cần phải giả bộ như không biết, rửa mặt mày sạch sẽ, bôi dầu lên đầu, cứ mỉm cười là được.! Hiểu k! hông hả? Dẫu người khác không biết được cái buồn của mày, nhưng chỉ cần cha thật của mày, ở một nơi nào đó mà mắt mày không thấy, biết được lòng mày thì cũng đủ mãn nguyện rồi chứ. Không phải vậy sao? Buồn, người nào cũng có hết.". Ông ấy nói như vậy đó. Nghe vậy, không biết tại sao tôi lại muốn phát khóc, không phải vậy đâu thầy ơi, dẫu cha trên trời không hiểu được tôi, hoặc thế gian không biết tôi đi nữa, chỉ cần một mình thầy, nếu thầy hiểu tôi, vậy là được rồi. Tôi yêu thương thầy. Tôi yêu thương thầy tới độ, dẫu những đệ tử khác có yêu thương thầy sâu đậm thế nào đi nữa, cũng không thể so sánh với tôi được. Tôi yêu thương thầy hơn bất cứ ai. Tụi thằng Peter, James, tụi nó nghĩ rằng đi theo thầy chắc sẽ có điều hay, tụi nó chỉ nghĩ đến chuyện đó. Nhưng chỉ có một mình tôi biết được. Tôi biết dẫu có đi theo thầy đi chăng nữa cũng chẳng có lợi ích gì hết. Vậy mà, tôi không thể rời khỏi thầy. Tại sao vậy? Nếu thầy không còn ở thế gian này, tôi sẽ chết ngay lập tức. Không thể nào sống được. Lúc nào tôi cũng thầm kín nghĩ đến một điều. Đó là việc thầy từ bỏ bọn đệ tử chẳng ra gì, thôi giảng những điều gọi là lời dạy của cha trên trời, để thành một thường dân khiêm tốn, sống suốt một cuộc đời yên bình với mẹ Maria và tôi. Tôi còn giữ một ngôi nhà nhỏ ở trong làng. Còn có cha mẹ già. Cũng còn có một vườn đào khá rộng. Mùa xuân, lúc này hoa đào nở thật đẹp. Có thể sống nhàn nhã suốt đời được. Lúc nào tôi cũng sẽ ở bên cạnh thầy giúp thầy mọi việc. Mong thầy lấy được một người vợ tố! t . Khi t! ôi nói như vậy, ông ấy cười khỉnh. "Peter và Simon là bọn đánh cá. Tụi nó làm gì có vườn đào đẹp. James và John cũng là bọn đánh cá nghèo mạt. Bọn nó sao mà có được một mảnh đất để sống nhàn nhã suốt đời." Ông ấy nhỏ giọng lầm bầm một mình rồi tiếp tục lặng lẽ đi trên bãi biển. Chỉ có lần đó là tôi có dịp trao đổi chuyện tâm tình với ông ấy. Về sau, không bao giờ ông ấy thổ lộ với tôi một điều gì nữa. Tôi yêu thương ông ấy. Nếu ông ấy chết, tôi cũng sẽ chết theo. Ông ấy không là của ai hết. Ông ấy là của tôi. Nếu bắt buộc phải giao ông ấy cho người khác, trước khi giao, tôi sẽ giết ông ấy. Tôi đã bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ nơi chôn nhau cắt rún, để đi theo ông ấy cho đến bây giờ. Tôi không tin có thiên đàng. Cũng không tin có thượng đế. Chuyện ông ấy phục sinh, tôi cũng không tin. Tại sao ông ấy lại là vua của Israel. Bọn đệ tử ngu đần tin ông ấy là con của thượng đế, nghe ông ấy nói đến cái gọi là phúc âm của nước trời, cả bọn vui sướng lồng lộn đến độ xấu hổ. Tôi biết bây giờ cả bọn nó đều thất vọng. Ông ấy đã hứa sẽ làm cho kẻ để cái tôi lên cao phải xuống thấp, và sẽ nâng kẻ coi mình thấp lên cao, nhưng, trong đời làm gì có chuyện dễ dãi như vậy. Ông ấy là kẻ nói láo. Nói thật nhiều nhưng từ một đến mười đều là nói càn nói bậy. Từ đầu, tôi đã không tin những chuyện đó. Tôi chỉ tin vào cái lòng tốt của ông ấy. Trong đời này không có người nào tốt như vậy. Tôi thành thật yêu cái lòng tốt của ông ấy. Chỉ có vậy thôi. Tôi không nghĩ đến chuyện được trả ơn. Tôi cũng không có tâm tính hèn mọn ngh�! � rằng ! cứ đi theo ông ấy, sớm muộn rồi cũng sẽ được đến gần thiên đàng, chính lúc đó, mình sẽ vinh quang trở thành quan đại thần cho thiên hạ biết. Chỉ có điều là tôi không muốn rời ông ấy. Chỉ cần được ở bên cạnh ông ấy, được nghe ông ấy nói, được nhìn hình dáng của ông ấy, thế là đủ rồi. Và nếu được, kêu ông ấy bỏ chuyện thuyết giáo, cùng với tôi, chỉ hai người thôi, sống suốt đời mãi mãi bên nhau. Ôi, nếu được như vậy! Tôi sẽ hạnh phúc biết bao. Tôi chỉ tin cái vui của hiện thế, cái bây giờ, cái ngay đây. Chuyện phán quyết của đời sau, tôi không mảy may sợ sệt. Sao ông ấy không chịu tiếp nhận tình cảm chân thành, không vụ lợi của tôi. Thôi, giết ông ấy đi. Thưa quan. Tôi biết chỗ ông ấy ở. Tôi xin dẫn đường. Ông ấy khinh miệt tôi, ghét tôi. Tôi bị ghét bỏ. Tôi giúp ông ấy và bọn đệ tử ăn uống, ngày ngày cứu họ khỏi đói khát, thế tại sao ông ấy lại khinh bỉ, đối xử xấu xa với tôi như thế. Xin quan lắng nghe. Chuyện sáu ngày hôm trước. Lúc ông ấy dùng cơm trong nhà của Simon ở Bethany. Con em của con Martha ở trong xóm đó, tên là Mary mang một bình đá vôi đựng đầy dầu thơm cam-tùng, lén vào trong phòng tiệc, rồi bất ngờ đổ dầu lên đầu ông ấy, làm ướt đến chân. Vậy mà không những không xin lỗi, nó còn bình tĩnh khom lưng lấy tóc của mình kỹ lưỡng lau hai chân ướt của ông ấy. Mùi dầu thơm bốc lên đầy phòng, thật là một cảnh bất thường cho nên tôi cảm thấy hết sức tức giận, nạt đứa em gái đó là đồ vô lễ. Đây này, áo quần bị ướt hết như thế này, dầu quí đắt tiền bị đổ hết, mầy không thấy uổng hay sao? Mầy, t! hật là! dại dột hết sức. Số dầu đó, giá tới 300 dinarii[1] phải không, bán số dầu đó sẽ có được 300 dinarii, lấy số tiền đó cho dân nghèo, bọn chúng sẽ hết sức sung sướng. Sao lại hoang phí như vậy. Tôi đã rầy con bé dữ dội. Bởi vậy cho nên ông ấy đã quắc mắt nhìn tôi. "Không được rầy con đàn bà này. Con đàn bà này đã làm một việc thật tốt. Chuyện bố thí tiền bạc cho người nghèo, từ đây trở đi tụi bây còn có nhiều dịp để làm. Nhưng ta, ta không còn bố thí được nữa. Không cần phải nói lí do làm gì. Chỉ có một mình con đàn bà này biết được. Con đàn bà này rót dầu lên thân ta là để chuẩn bị cho đám táng của ta. Tụi bây cũng cần nên nhớ chuyện này. Trên thế giới, bất cứ nơi đâu, nếu có chỗ nói đến cuộc đời ngắn ngủi của ta, chắc chắn ở đó, hành động của con đàn bà này ngày hôm nay cũng sẽ được lưu truyền như một kỉ niệm." Nói xong, đôi má trắng xanh của ông ấy như lấy được sinh khí đỏ ửng lên. Tôi không tin lời ông ấy. Tôi nghĩ chẳng qua đây cũng chỉ là vở kịch khoác lác như mọi khi, nên đã có thể nghe suông không một chút ngần ngại. Nhưng, không phải chuyện đó mà là chuyện khác kìa. Lúc đó, tôi cảm thấy trong giọng nói, ánh mắt của ông ấy, có cái gì đó lạ thường mà từ trước đến nay không có. Tôi chợt bối rối, một lần nữa tôi đã chăm chú nhìn lại đôi má hơi ửng đỏ và đôi mắt rớm lệ của ông ấy, bất ngờ tôi đoán ra được một việc. Đúng rồi, thật là khả ố, làm sao mà nói ra được đây. Ông ấy, đã … yêu con đàn bà nhà quê nghèo nàn này rồi, không phải vậy đâu, làm gì có chuyện! đó, nh! ất định không có chuyện đó, nhưng … thế nhưng, nguy thật, ông ấy không có tình cảm ám muội như là yêu đương hay sao? Một người như ông ấy, nếu có tình cảm đặc biệt với con đàn bà có dáng điệu nhà quê dốt nát đó, thì đây đúng là một lầm lỡ đáng sợ. Một xì-căng-đan vô phương cứu chữa. Tôi, bẩm sinh là một tên đàn ông có tài đánh hơi được những tình cảm nhơ nhuốc của người khác. Tôi biết đó là cái khứu giác hạ tiện nên không thích nhưng tôi có biệt tài là chỉ cần nhìn liếc qua một lần, đã có thể đoán được trúng tẩy chỗ yếu của người khác. Chắc chắn nhất định ông ấy có tình cảm đặc biệt với con đàn bà nhà quê vô học đó. Con mắt của tôi nhất định không sai. Chắc chắn như vậy. Ôi, không chịu được. Không thể nào kiên nhẫn được. Tôi nghĩ với tình cảnh như thế nầy, giờ đây ông ấy đã trở thành vô dụng. Thật là vô cùng khó coi. Từ trước đến nay, dẫu có thật thích người đàn bà nào đó đi nữa, lúc nào ông ấy cũng đẹp, im lìm như mặt nước. Một chút rối loạn nhỏ cũng không có. Khôn quá đâm ra ngu. Không còn kìm hãm được mình. Dẫu sao ông ấy vẫn còn trẻ, nên cũng có thể nói đó là chuyện có lí, nhưng nếu vậy thì tôi đây, tôi cũng bằng tuổi ông ấy. Tôi lại sinh ra sau ông ấy hai tháng. Về mặt trẻ trung, nhất định không khác nhau. Dẫu thế tôi vẫn cam chịu. Tôi dâng tấm tình của tôi cho một mình ông ấy, từ trước đến nay tôi không hề động lòng với bất cứ người đàn bà nào. Con chị tên Martha là người đàn bà quê mùa, xương xẩu cứng cáp, to lớn như bò, tính tình thô lỗ, chỉ giỏi ở chỗ đi đứng lăng xăng, ngoài ra không ! có chỗ! nào coi được. Khác với chị mình, Mary em gái của Martha là người con gái kiêu kỳ đến độ mọi người trong xóm đều thấy lạ lùng, là người có xương xẩu nhỏ nhắn, da trắng xanh đến độ trong suốt, tay chân thon mềm, mắt to trong vắt như nước hồ sâu, lúc nào cũng chăm chăm nhìn xa xôi như đang mơ mộng. Ngay như tôi, tôi cũng đã thầm nghĩ. Mong rằng khi nào có dịp đi ra phố, mình sẽ lánh mặt mọi người tìm một vật gì đó chẳng hạn như lụa trắng, mua tặng cô ta. Ôi, thôi, bộ tôi phát điên rồi sao. Không biết mình đã nói cái gì. Đúng rồi, tôi bực mình. Lí do gì? Không biết. Tôi tức mình muốn dậm chân xuống đất. Ông ấy trẻ, tôi đây cũng trẻ. Tôi là một thanh niên đàng hoàng, có tài, có ruộng vườn nhà cửa. Dẫu vậy, tôi đã bỏ tất cả mọi đặc quyền của tôi để theo ông ấy. Tôi đã bị lừa. Ông ấy là tên dối trá. Thưa quan. Ông ấy đã cướp người yêu của tôi. Bậy, sai rồi! Con đàn bà đó đã cướp ông ấy khỏi tay tôi. À, cái đó cũng trật rồi. Chuyện tôi nói tất cả đều bậy bạ. Đừng tin tôi. Chắc tôi điên rồi. Cho tôi xin lỗi. Bất ngờ tôi đã nói toàn những chuyện vô căn cứ. Những chuyện nông nổi như vậy, một chút cũng không có. Tôi đã tiết lộ những chuyện khó coi. Nhưng tôi tức tối. Tức mình đến độ muốn cào ngực mình. Lí do gì, không biết được. Ôi, tính ganh tị thật là một tính xấu không chịu được. Cho đến hôm nay, tôi đã quyết bỏ cả sinh mạng của mình để đi theo, phục tùng ông ấy, thế mà ông ấy không có một lời êm ái đối với tôi, ngược lại ông ấy ra sức bảo vệ đến độ đỏ mặt hành động của con đàn bà nhà quê hèn mọn như th�! � đó. �! �i, đúng rồi, ông ấy không còn kìm hãm được mình. Khôn quá đâm ra ngu. Thôi, không còn hi vọng gì ở ông ấy . Đồ phàm phu. Chỉ là một người thường. Dẫu chết cũng không luyến tiếc. Cảm thấy như vậy, bất ngờ tôi bắt đầu nghĩ đến một điều đáng sợ. Chắc đã bị ma quái dụ dỗ. Từ lúc đó tôi đã quyết sẽ giết ông ấy bằng chính tay mình. Đằng nào, nhất định ông ấy sẽ bị giết. Chính ông ấy, đôi lúc có vẻ như ông ấy cố tình tạo điều kiện cho người ta giết mình. Tôi sẽ giết dùm cho bằng chính tay tôi. Tôi không muốn để cho người khác giết. Giết ông ấy, rồi tôi cũng chết theo. Thưa quan, khóc lóc như vầy thật mắc cỡ. Dạ, tôi không khóc lóc nữa. Dạ, dạ. Lấy lại bình tĩnh, tôi xin thưa. Ngày hôm sau, cuối cùng chúng tôi đã lên đường nhắm về hướng Jerusalem mà chúng tôi hằng ao ước. Đông đảo quần chúng, già có, trẻ có, nối đuôi đi theo ông ấy, khi đến gần điện Jerusalem, tìm được một con lừa già yếu bên vệ đường, ông ấy mỉm cười leo lên lưng lừa và với gương mặt tươi tắn, ông ấy đã nói với bọn đệ tử rằng việc nầy đã xảy ra đúng như đã được tiên tri. "Hỡi những nàng con gái của Sion[2]ơi! không nên sợ, hãy nhìn đây, vua của ngươi đang trên lưng lừa đến đấy." Nhưng chỉ có một mình tôi cảm thấy không vui. Thật là một tình cảnh đáng tội nghiệp. Lâu nay, ông ấy đã trông đợi dài cả cổ ngày lễ Passover[3] đến để đi vào điện Jerusalem. Đây là hình dáng đứa con của David[4] đấy à. Hình dáng đẹp đẽ mà ông mong ước suốt đời là quang cảnh! đáng t! hương ngồi trên lưng lừa già yếu, mệt mỏi lê chân như thế này à. Thôi, tôi không cảm được cái gì nữa cả, ngoài sự tội nghiệp. Tôi cảm thấy như đang nhìn một trò hề ngu ngốc, thật khổ sở. Ôi, ông ấy đang trên đường tàn. Sống dài thêm một ngày thì cũng chỉ để lộ ra vẻ khó coi nông cạn thêm một ngày thôi. Bông hoa khi chưa tàn héo thì mới là bông hoa. Phải cắt trong lúc còn tươi đẹp. Người yêu thương ông ấy nhất chính là tôi đây. Dẫu bị người khác ghét đến đâu đi nữa cũng được. Cuối cùng tôi chỉ còn cách là giữ vững cái quyết tâm đau khổ của mình, phải giết ông ấy càng sớm càng tốt. Quần chúng càng lúc càng đông ra, bọn họ chào đón, hoan hô vang vội, quăng quần áo đủ màu xanh đỏ, trắng vàng ra đường chỗ ông ấy đi qua, họ bẻ cành lá cọ lót đường cho ông ấy đi. Kẻ đi trước, người theo sau, từ phải, từ trái quấn quít ông ấy, sau cùng tựa như những làn sóng lớn lúc lắc con lừa, lúc lắc ông ấy. Bọn họ miệng nào cũng hăng say hát " Cứu thế, con của David, hãy tán dương, kẻ đến với danh của chúa, ở tận trời cao, cứu thế". Peter, John, Bartholomew, ngoài ra còn có tất cả bọn đệ tử, những thằng ngu tưởng chừng như thấy thiên đàng ở trước mắt, giống như đi theo một đại tướng khải hoàn, bọn nó ôm lấy nhau vui mừng tột đỉnh, cho nhau những cái hôn đầy nước mắt, tỉ dụ như cái thằng cứng đầu Peter, nó đã ôm chầm lấy John, nức nở lớn tiếng khóc ồ ồ vì vui thích. Nhìn tình cảnh đó, người như tôi chăng nữa, khi nhớ lại những ngày khốn khổ đi truyền đạo bất kể khó khăn cùng với bọn đệ tử này, bất giác, mi mắt tôi cũng nóng l! ên. Và ! như vậy, ông ấy đi vào trong cung thành, xuống lừa, rồi không biết nghĩ gì mà lại lượm lấy dây thừng quay quanh, đập ngả cả bàn ghế của bọn bán bồ câu, bọn đổi tiền, quất dây thừng vào lưng bò, lưng cừu đang được bày bán, đuổi tất cả ra khỏi thành, xong ông ấy quay mặt sang đám đông lái buôn ở trong thành, lớn tiếng quát tháo. "Tụi bây, tất cả hãy cút khỏi nơi đây, tụi bây không được dùng nhà của cha tao làm nơi buôn bán". Con người hiền lành như ông ấy sao lại có thể làm được những chuyện thô bạo chẳng ra gì, giống như một kẻ say rượu như thế. Chỉ có thể nghĩ là ông ấy phát khùng mà thôi. Bọn người kế cận tất cả đều sửng sốt, không biết tại sao, bèn hỏi lí do. Ông ấy hổn hển trả lời. "Bọn bây, phá tan cái thành này đi, vì chỉ cần ba ngày tao sẽ cất lại cái thành này cho tụi bây". Ngay như bọn đệ tử ngu đần cũng phải há hốc miệng mồm, không làm sao tin nổi lời nói liều lĩnh quá độ này. Nhưng tôi, tôi biết. Chẳng qua ông ấy muốn tỏ ra ta là kẻ mạnh, một cách ấu trĩ mà thôi. Đúng là ông ấy muốn cho mọi người thấy mức độ khí khái của mình rằng vạn sự khó thành cũng sẽ thành với tín ngưỡng của ông ấy. Thế nhưng, sao lại vung roi rượt đuổi bọn lái buôn yếu đuối, ôi, kẻ mạnh sao lại hẹp hòi như thế. Khả năng phản kháng lớn nhất của ông chỉ có chừng ấy hay sao, chỉ là đá đổ ghế ngồi của bọn bán bồ câu hay sao. Tôi muốn cười lên với lòng thương hại, hỏi thử ông ấy. Giờ đây con người này đã trở thành vô dụng. Hết hi vọng. Mất hết tự ái, tự trọng. Vì hình như dạo này ông ấy đã bắt đầu biết rằng mình khôn! g thể l! àm được việc gì hơn nữa với sức lực của mình, nên đã cố ý làm bậy để cho chưởng tế[5] bắt, để được từ giã cõi đời này trước khi bị lòi đuôi ra. Khi nghĩ đến điều đó, tôi đã có thể có quyết tâm rõ ràng bỏ rơi ông ấy. Và tôi cũng đã có thể dễ dàng cười cái ngu của chính mình từ trước đến nay đã một mực yêu thương một thằng con nít hợm hĩnh như thế đó. Đúng lúc đó, trước đám đông quần chúng tụ họp lại trong cung thành, ông ấy đã lớn tiếng tung ra những lời nói hung hăng, vô lễ, ngạo mạn, tàn tệ nhất trước nay chưa từng có. Đúng vậy, thật đáng ghê tởm. Tôi thấy trong cái hình dáng ấy có cái gì có vẻ quỉ quyệt. Như thể là ông ấy muốn bị người ta giết đến độ không chịu đựng được nữa. "Bây đúng là tai ương, bọn học giả ngụy thiện, Pharisees ơi, bọn bây lau sạch bên ngoài ly đĩa, nhưng bên trong lại chứa đầy tham lam và trụy lạc. Bây đúng là tai ương, bọn học giả ngụy thiện, Pharisees ơi, bọn bây giống như mồ được sơn trắng, bên ngoài trông đẹp đẽ, nhưng bên trong đầy đủ loại đồ ô uế và xương người chết. Bọn bây bề ngoài xem như rất đứng đắn, nhưng bên trong chỉ là ngụy thiện và bất chánh. Bọn rắn, con cháu của rắn độc ơi, bọn bây làm sao cũng không thể tránh khỏi hình phạt của Gehenna[6]. Ôi, Jerusalem, Jerusalem, hỡi bọn giết đấng tiên tri, dùng đá ném sứ giả ơi, nhiều lần bọn bây cần phải gom con cái của bọn bây lại như gà mái gom con dưới cánh, thế nhưng bọn bây lại không muốn". Câu nói ngu ngốc. Một trò hề. Nhái miệng không cũng đủ thấy ghét. ! Đồ nó! i chuyện động trời. Ông ấy điên rồi. Ngoài ra lại còn nói nào là sẽ có nạn đói, có động đất, có sao băng từ trời rớt xuống, nào là mặt trăng không phát ra ánh sáng, nào là diều hâu xúm quanh mổ tử thi nằm đầy trên mặt đất, lúc đó người ta sẽ phải nghiến răng than khóc, đúng là để mặc cho cái miệng của mình xổ ra toàn những chuyện lỗ mãng tào lao. Sao lại nói toàn những chuyện không có suy nghĩ cặn kẽ. Tự cao tự đại quá trớn. Đồ ngu. Không biết phận mình. Đồ kiêu căng. Sớm muộn sẽ không tránh khỏi tội vạ. Nhất định sẽ bị treo lên thập tự giá. Nhất định sẽ bị như vậy.

  Hôm nay tôi nghe bọn bán hàng trong xóm đồn rằng ngài chưởng tế và bọn trưởng lão đã lén họp trong sân nhà ngài đại tư giáo Caiaphas và đã quyết định giết ông ấy. Tôi cũng nghe nói rằng nếu bắt ông ấy trước mắt quần chúng thì sợ quần chúng sẽ gây bạo động cho nên đã treo thưởng 30 lạng bạc cho người nào tìm thấy và báo cho nhà cầm quyền biết chỗ ở của ông ấy và bọn đệ tử. Không phải là lúc phải chần chờ. Dẫu sao đi nữa ông ấy cũng phải chết. Thay vì để người khác giao ông ấy cho bọn công chức tầm thường, tôi sẽ làm điều đó. Đây là lời chào cuối cùng của tình yêu thương một lòng một dạ của tôi hiến dâng cho ông ấy từ trước đến nay. Đây là bổn phận của tôi. Tôi sẽ bán ông ấy. Thật là đau lòng. Không biết có ai hiểu được một cách đứng đắn hành vi hết lòng yêu thương của tôi không? Không, không cần ai hiểu dùm cả. Tình yêu thương của tôi là tình yêu trong trắng. Không phải là tình yêu để cho mọi người hiểu dùm. Không phải là tình yêu bẩn thỉu như thế đâu. Tôi sẽ vĩnh viễn bị ông ấy oán ghét. Thế nhưng, trước lòng khát khao của tình yêu trong trắng, không có hình phạt nào, cũng không có ngọn lửa của địa ngục nào thành vấn đề. Tôi sẽ sống bằng cách sống của tôi. Quyết tâm của tôi cứng rắn đến độ rợn người. Tôi đã âm thầm đợi dịp may. Cuối cùng đã đến ngày lễ. Bọn đệ tử chúng tôi mười ba người đã mướn một phòng mờ mờ tối ở lầu hai trong một tiệm ăn cũ trên đồi để mở tiệc lễ. Khi mọi người ngồi vào bàn tiệc, sắp bắt đầu ăn buổi cơm tối, bất ngờ! ông ấy đứng lên, lẳng lặng cởi áo ra. Trong lúc bọn tôi chưa biết được ông ấy muốn làm chuyện gì đây, ông ấy đưa tay lấy bình nước để trên bàn, đổ nước trong bình vào một cái chậu nhỏ đặt ở góc phòng, rồi lấy khăn lau trắng tinh buộc qua lưng, lấy nước trong chậu rửa từng bàn chân của bọn đệ tử. Bọn đệ tử không hiểu lí do nên lúng túng không biết phải làm sao. Nhưng với tôi, tôi cảm thấy hình như mình hiểu được suy tư thầm kín của ông ấy. Ông ấy cảm thấy cô đơn. Vì lo sợ đến cực độ cho nên chắc là có cảm giác muốn bám vào một cái gì đó, kể cả bọn đệ tử bướng bĩnh ngu muội của mình. Thật là tội nghiệp. Ông ấy biết vận mệnh không thể tránh khỏi của mình. Nhìn tình cảnh này bỗng dưng tôi muốn bật khóc. Bất ngờ tôi muốn ôm chầm ông ấy cùng nhau khóc. Tội nghiệp quá, làm sao gây ra tội lỗi đối với thầy được. Thầy lúc nào cũng dễ dãi. Thầy lúc nào cũng đúng. Thầy lúc nào cũng là kẻ đứng về phía người nghèo. Lúc nào thầy cũng tốt đẹp hào quang. Đúng thầy là con của thượng đế. Tôi biết điều đó. Xin thầy tha thứ cho. Hai ba ngày nay tôi đã lén lút chờ cơ hội để bán thầy. Bây giờ thì không. Trời ơi, tại sao tôi lại nghĩ đến chuyện tàn nhẫn là đi bán thầy tôi. Xin thầy hãy an tâm. Bây giờ dẫu có cả trăm quan chức, cả ngàn lính đến đây tôi cũng sẽ không cho họ đụng đến thầy dầu chỉ một ngón tay. Thầy đang bị theo dõi. Nguy lắm. Thầy nên trốn khỏi nơi này ngay bây giờ. Peter lại đây, James lại đây, John lại đây, tất cả lại đây. Tuy không thể nói ra miệng, nhưng sôi sục trong lòng ngực lời nói yêu thương từ tận đ�! �y lòng ! rằng hãy bảo vệ đức chúa hiền từ của chúng ta, cùng sống suốt đời với nhau. Cảm động với một cảm giác cao thượng từ trước đến nay không có nên nước mắt tạ tội nóng hổi sung sướng chảy qua gò má tôi. Đúng lúc ấy, ông ấy đã lẳng lặng, kỹ lưỡng rửa chân tôi rồi dùng khăn quấn ngang lưng nhè nhẹ lau, ôi, cái cảm giác lúc đó, làm sao quên được. Phải rồi, lúc đó có lẽ tôi đã nhìn thấy thiên đàng. Sau tôi là chân của Philip, đến chân của Andrew, và sau nữa đến lượt rửa chân cho Peter. Thằng Peter là kẻ ngu si thật thà như thể kia nên nó không dấu được lòng hoài nghi của mình, đã chu miệng hỏi với vẻ bất mãn "Chúa ơi, sao chúa lại rửa chân cho con như thế này". Ông ấy quì dưới chân Peter nhỏ nhẹ khuyên bảo "À, chuyện của ta làm, ngươi làm sao mà hiểu được. Sau nầy nghĩ lại, ngươi sẽ biết". Nhưng Peter vẫn cương ngạnh từ chối, hắn rút chân lại, khăng khăng một mực. "Không, không được. Con xin thầy đừng bao giờ rửa chân con, con có xứng đáng để cho thầy rửa chân đâu". Thấy thế, ông ấy hơi lớn giọng lên, mạnh mẽ nói như không biết sợ. "Nếu ngươi không cho ta rửa chân của ngươi, thì giữa ta và ngươi sẽ không còn có quan hệ gì với nhau nữa". Peter kinh hồn bạt vía, mọp đầu cầu xin. "Xin thầy tha thứ cho. Nếu vậy, không phải chỉ có chân con không, đầu con, tay con, ở đâu cũng được, xin thầy tự tiện rửa". Bất ngờ, tôi đã bật cười, những đệ tử khác cũng mỉm cười, có lẽ vì thế mà căn phòng đã vui ra. Ông ấy cũng cười nhẹ. "Peter ơi, chỉ cần rửa chân ngươi thôi, toàn thân ngươi cũng sẽ sạch ra. À, không chỉ một mình ngươi, James, Joh! n, thân ! thể của bọn ngươi đều được trong sạch, không một vết dơ. Thế nhưng…". Ông ấy dang thẳng lưng ra, ánh mắt thoáng buồn như không chịu đựng được nỗi khổ đau. Đang nói dang dở nhưng ông ấy đã khép chặt mắt lại, nói tiếp "Tất cả trong sạch là được rồi". Tôi thoáng rợn người. Trúng tẩy! Đúng là đang nói đến tôi. Ông ấy đã thấy rõ cảm giác buồn bả bấy lâu của tôi trước giây phút toan tính bán ông ấy. Thế nhưng, bây giờ chuyện đã khác rồi. Tôi đã hoàn toàn khác. Tôi đã biến thành trong trắng. Lòng tôi đã thay đổi. Ôi, ông ấy không biết chuyện đó à. Không biết chuyện đó à. Không phải vậy đâu. Không phải vậy đâu, tấm lòng yếu đuối đê tiện của tôi đã nuốt mất tiếng la thất thanh đang muốn tung ra khỏi cổ họng như người ta nuốt nước bọt. Không thể lên tiếng được. Không thể thốt lên điều gì cả. Bị ông ấy nói như thế, tấm lòng nhỏ nhoi của tôi ngóc đầu lên, yếu ớt khẳng định có lẽ đúng là tôi không trong sạch. Phản tỉnh đê hèn đó bỗng chốc đã phồng to lên, đen đủi khó coi, chạy khắp ruột gan nội tạng của tôi, niềm phẫn nộ ran ở lồng ngực, ngược lại, đã men mén bùng lửa. Ôi thôi, hết hi vọng. Tôi là thằng không ra gì. Tôi bị ông ấy ghét cay ghét đắng. Cứ đem bán. Đem bán. Giết ông ấy cho rồi. Đầu óc tôi gợi lại quyết tâm có từ trước rằng sau đó tôi sẽ chết theo, cho nên bây giờ tôi đã hoàn toàn trở thành con quỉ báo thù. Ông ấy có vẻ không biết được những hỗn loạn đảo điên tới lui trong lòng tôi. Khoác áo ngoài lên, sửa lại y phục cho chỉnh tề, chậm rãi ngồi xuống ghế, với gương mặt tái mét, ông ấy nói với g! iọng h�! ��t sức buồn rầu. "Bọn bây có biết sao ta lại đi rửa chân cho bọn bây không? Bọn bây gọi ta là chúa, lại gọi ta là thầy, việc đó không sai. Ta là chúa, là thầy của bọn bây, thế mà ta còn đi rửa chân cho bọn bây, cho nên từ nay trở đi, bọn bây cần phải thương yêu lẫn nhau, cùng rửa chân cho nhau. Có lẽ ta không thể ở cùng với bọn bây mãi được, cho nên hôm nay nhân cơ hội này, ta muốn nêu gương cho bọn bây. Bọn bây cần phải để ý làm y như ta đã làm. Thầy, nhất định phải giỏi hơn đệ tử cho nên cần nghe kĩ lời ta, không được quên". Ông ấy bắt đầu yên lặng dùng cơm, nhưng bất ngờ ông ấy cúi đầu xuống thì thầm nói với giọng khổ sở như đang tức tưởi. "Một người trong đám bọn bây sẽ bán ta". Cả bọn giật mình té ngửa, cùng nhau hất ghế đứng dậy bao quanh ông ấy, ai nấy đều nói, đều hỏi ồn ào, Chúa ơi, kẻ đó là con đấy à, Chúa ơi, người đó là con, phải không Chúa. Ông ấy như người sắp phải chết, khẽ lắc đầu nói nhưng với một giọng rõ ràng, hết sức bất ngờ. "Ngay bây giờ, ta sẽ cho người đó một mẩu bánh mì. Người đó là một thằng đàn ông hết sức bất hạnh. Tốt hơn là người đó không nên sinh ra ở cõi đời này". Ông ấy lấy một mẩu bánh mì rồi bất ngờ dang tay ra chụp vào miệng tôi. Tôi đây, nào có sợ đâu. Thay vì hổ thẹn, tôi đã chán ghét. Tôi chán ghét giờ đây mà ông ấy vẫn còn giở trò hiểm độc. Công nhiên làm nhục tôi trước mặt đám đệ tử, đó là cái thói trước nay của ông ấy. Lửa với nước. Vận mệnh tiền định nằm ở giữa tôi với thằng đó là không bao giờ hiểu được nhau. Nhét vô miệng tôi một miếng bánh m�! � vụn g! iống như cho bọn chó mèo là hành vi tấn công tôi để cho nó được hả cơn tức tối hay sao đây. Được rồi. Cái thằng ngu đần. Thưa quan. Nó đã nói với tôi rằng hãy làm nhanh lên điều mầy muốn làm đi. Tôi liền phóng ra khỏi phòng ăn, chạy một hơi trong đêm tối, bây giờ mới đến được nơi này. Sau đó, vội vã đến tố cáo như vừa rồi đấy. Xin quan hãy trừng phạt tên ấy, tự ý trừng phạt sao cũng được. Bắt nó, lấy cây đánh nó, lột trần nó ra rồi giết nó đi. Không, tôi không thể nào chịu đựng được nữa. Nó là thằng khốn kiếp. Đồ tàn nhẫn. Từ trước đến nay nó đã đối xử tàn tệ với tôi như thế đó. Hà hà, đồ súc sinh. Tên ấy bây giờ đang ở trong vườn Gethsemane, bên kia rạch Kidron. Giờ này, cơm tối ở căn phòng trên lầu hai chắc cũng xong rồi. Cùng bọn đệ tử xuống vườn Gethsemane, chắc bây giờ là lúc đang cầu nguyện thượng đế. Ngoài bọn đệ tử ra không có ai hết. Ngay bây giờ thì sẽ dễ dàng bắt được tên ấy. Ơ kìa, con chim chích kia, sao mà kêu chí chóe ồn ào như thế. Đêm nay, chim đêm sao lại kêu la điếc tai như thế này. Trên đường chạy qua rừng để đến đây, cũng có tiếng chim kêu chí chóe. Ban đêm mà chim kêu thì lạ thật. Với lòng hiếu kỳ giống như trẻ nít, tôi muốn xem thử con chim đó nó như thế nào. Tôi dừng lại ngẩng đầu lên nhìn những kẻ hở trên cành cây. Ớ sao, tôi lại nói chuyện bậy rồi. Xin quan tha cho. Bẩm quan, đã chuẩn bị xong chưa? Ôi, sao mà vui, sao mà sướng như thế này. Đêm nay cũng là đêm cuối cùng đối với tôi. Thưa quan, quan ơi, đêm nay từ bây giờ, xin quan hãy nhớ nhìn cảnh tôi ngang nhiên đứng xếp hàng sát vai với ông ấ! y. Đêm ! nay tôi sẽ đứng ngang vai ông ấy cho quan xem. Tôi không còn sợ ông ấy nữa. Không còn lòn cúi nữa. Tôi cùng một tuổi với ông ấy kia mà. Cùng là trai trẻ ngon lành kia mà. Ơ kìa, tiếng chim chích thật ồn ào. Muốn điếc tai. Tại sao chim chích lại bay lượn kêu la ồn ào như thế này. Chí chóe, chí chóe, kêu la cái gì vậy? Hả, tiền gì đó? Cho tôi đấy à, hả, cho tôi, ba mươi lạng bạc hả? Phải rồi, hà hà … Không, tôi xin từ chối. Cất tiền vô đi không ăn đòn bây giờ!. Không phải vì ham tiền mà tôi đến đây tố cáo đâu. Cất tiền ngay vào! … Không, không, xin lỗi, xin lỗi. Tôi xin nhận. Ờ, phải rồi, tôi là lái buôn kia mà. Hả, vì tiền mà tôi đã bị con người cao đẹp đó. Khinh miệt? Được rồi, tôi cứ nhận. Trước sau gì tôi cũng là lái buôn kia mà. Bằng đồng tiền dơ bẩn, tôi đã trả thù ông ấy một cách ngoạn mục. Với tôi, đây là thủ đoạn phục thù thích hợp nhất. Bõ ghét! Thằng đó bị bán với giá ba mươi lạng bạc. Tôi đâu có khóc chút nào đâu. Tôi nào có thương yêu gì ông ấy đâu. Từ đầu, hoàn toàn không có một chút nào. Dạ, thưa quan, tôi đã nói láo từ đầu đến cuối. Tôi đi theo ông ấy chỉ vì ham tiền. À, đúng như vậy. Đêm nay tôi đã quả quyết rằng ông ấy không làm cho tôi có lợi một chút nào hết. Đúng tôi là lái buôn, tôi đã nhanh nhẹn trở cờ. Tiền. Trong đời này, có tiền mua tiên cũng được. Ba mươi lạng bạc, thật là tuyệt diệu. Tôi xin nhận. Tôi là lái buôn bủn xỉn đây. Ham đến độ không nhịn được. Dạ, xin cám ơn. Dạ, dạ. Tôi quên thưa với quan rồi. Dạ, tôi là lái buôn tên Judas. Dạ Judas Iscariot ạ.

 

Kuala Lumpur, ngày 16 tháng 4 năm 2006

Lê ngọc Thảo dịch.

Nguyên tác: "Kakekomi Uttae" trích từ tập truyện ngắn "Hashire Merosu" của Dazai Osamu, bản in lần thứ 36, do nhà xuất bản "Kadogawa Bunko" phát hành ngày 10 tháng 6 năm 1988.

[1] Dinarii: đơn vị tiền đúc bằng bạc thời La Mã.

[2] Sion, tên môt ngọn đồi của thành phố Jersusalem. Ý nói các nàng con gái của kinh đô Jerusalem.

[3] Passover: Lễ Vượt Qua của dân Do Thái, kỉ niệm cuộc trốn thoát khỏi Ai Cập của tổ tiên họ.

[4] Vua David, ông vua anh hùng trong lịch sử dân Do Thái. Ở đây ý nói về chúa Jesus.

[5] Chưởng tế (thầy tu lo giữ đền thờ của đạo Do Thái).

[6] Gehenna, địa ngục theo kinh đạo Do Thái.

 

* Lê Ngọc Thảo :

Sinh quán: Quơn long, quận Chợ gạo, tỉnh Định Tường (tỉnh Tiền Giang nay). Tiểu học Chợ gạo, Trung học Nguyễn đình Chiểu (Mỹ tho) (1959-1966). Sang Nhật năm 1967, Đại học Tohoku, Cao học Công nghệ Thông tín. Hiện là Kỹ sư thiết kế hảng Sony EMCS Nhật bản. Sở thích: Săn lùng (&Tìm hiểu) Rau dại (Sansai) và Nấm (Kinoko) Nhật bản. Nghiệp dư: Dịch thuật dữ liệu văn hóa và văn học Nhật bản sang tiếng Việt. E-mail: lnthao@erct.com 

Xe Lửa

                    DAZAI OSAMU

Ressha

Phạm Vũ Thịnh dịch                            

             

Lời người dịch : Tác phẩm đầu tay dưới bút danh Dazai Osamu, đoạt giải “Sunday To-oku” năm 1933, được dịch từ nguyên tác tiếng Nhật “Ressha” trong bản công khai trên mạng Aozora Bunko (Kho Sách Ngoài Trời)  tháng 5 năm 2000.                                                                                                 

Ðầu máy xe lửa ấy kiểu C51 chế tạo năm 1925 tại công xưởng Umehachi, kéo theo ba toa hạng ba, toa phòng ăn, toa hành khách hạng nhì, toa phòng ngủ hạng nhì, đều chế tạo tại cùng một công xưởng ấy, ngoài ra, có thêm ba toa chở hàng dành cho bưu-kiện và hành lý các thứ, tổng cộng là chín cái hộp chất lên chừng hai trăm người khách và trên một trăm ngàn bưu-kiện kèm theo bao nhiêu là hệ-lụy đau lòng, bất chấp ngày mưa ngày gió, cứ đến 2 giờ rưỡi chiều là khởi động trục xe, bắt đầu chạy từ Ueno hướng đến Aomori. Tùy bữa mà được tống tiễn bằng tiếng hô vạn-tuế, hay lưu luyến trong khăn tay vẫy theo, hoặc chìm đắm trong tiếng nức-nở ly-biệt. Chiếc xe lửa mang số 103.

Con số ấy mang lại cảm giác khó chịu. Từ năm 1925 đến nay, đã 8 năm liền, con tàu nầy đã xé nát ái-tình của biết mấy vạn người rồi. Ngay cả tôi đây cũng đã vì con tàu nầy mà gặp chuyện cay đắng vô cùng. Ðó là lúc Shiota tiễn cô Tetsu về quê nhà, mới mùa đông năm ngoái đây.

Cô Tetsu và Shiota cùng quê, từ thời thơ ấu đã thân thiết với nhau, còn tôi và Shiota là bạn cùng thức ngủ chung phòng trong cư xá trung học cấp ba, thỉnh thoảng vẫn được nghe về mối tình của họ. Cô Tetsu là con nhà nghèo nên gia đình Shiota vốn là nhà khá giả, không chấp nhận cho hai người kết hôn, vì thế mà Shiota đã lắm lần cãi cọ kịch liệt với ông bố. Lần cãi lẫy đầu tiên, Shiota đã tức uất đến gần bất tỉnh, máu mũi trào ra ròng ròng. Chuyện ngây ngô đến thế mà cũng đã kích động lạ thường tâm tình non trẻ của tôi ngày ấy.

Thế rồi cả tôi lẫn Shiota xong trung học cấp ba, cùng vào đại học ở Tokyo. Ba năm trôi qua. Ðối với tôi đã là những năm tháng khổ-nhọc, nhưng có vẻ Shiota thì không thế, cứ sống thoải mái ngày nầy như ngày khác. Tôi thì lúc đầu phải ở nhà trọ nhưng nhờ sát ngay trường học nên Shiota khoảng mới vào học cũng có đến chơi hai, ba lần gì đấy, thế nhưng hoàn cảnh lẫn tư tưởng của cả hai đứa dần dần tách biệt hẵn ra, nên không còn mong gì có lại được tình bạn khắng khít như ngày trước nữa. Có thể chỉ vì thiên kiến thôi, nhưng tôi nghĩ nếu thời ấy mà không có chuyện cô Tetsu lên kinh đô nầy thì có lẽ Shiota hẳn đã định chia tay mãi mãi với tôi rồi.

Mùa đông ba năm sau khi ngưng giao du thân tình với tôi, đột nhiên, Shiota đến nhà tôi lúc ấy ở ngoại vi thành phố, cho biết là cô Tetsu đã lên Tokyo. Hẳn là cô ấy không còn chờ đợi đến khi Shiota tốt nghiệp được nữa, nên đã một mình trốn nhà lên Tokyo.

Khoảng ấy thì tôi cũng đã kết hôn với một cô gái quê thất học, đúng lúc đang mất dần cảm giác trẻ trung để có thể hưng phấn trong lòng về chuyện tình của Shiota như ngày xưa, nên khi Shiota đột nhiên đến chơi như thế, tôi đã có phần bối rối, tuy vậy tôi cũng đủ sáng suốt để nhìn thấu được đáy lòng Shiota về chuyến thăm viếng đột ngột ấy. Sự kiện một thiếu nữ yêu mình đến nỗi bỏ nhà đi theo ấy, đem nói tràn lan trong đám bạn thân của mình, thì hẳn đã làm thoả mãn được lòng tự hào của Shiota biết bao nhiêu! Tôi cảm thấy khó chịu vì vẻ mãn nguyện tột đỉnh của hắn, đến đâm ra nghi ngờ thực-tâm của hắn đối với cô Tetsu. Mà rồi niềm hoài nghi nầy của tôi đã được thực chứng một cách tàn nhẫn. Một lần, sau khi đã biểu lộ niềm vui cuồng nhiệt, niềm cảm kích cùng tột, Shiota nhíu mày hỏi nhỏ: “Bây giờ phải làm sao đây?“. Tức thì, chẳng hơi đâu mà đồng-tình với trò chơi của kẻ nhàn rỗi như thế, tôi nói thẳng, đúng như hắn đang suy tính: “Cậu khôn thật. Cậu đã không còn thấy thương yêu cô ấy như trước nữa, thì chỉ còn cách chia tay nhau thôi chứ gì nữa!“.

Rõ ràng là khoé miệng hắn nhếch một nụ cười, nhưng Shiota tỏ vẻ suy nghĩ lung lắm.

Bốn năm ngày sau, tôi nhận được một bưu thiếp giao gấp từ Shiota. Bưu thiếp ấy ghi vắn tắt đại ý rằng vì tương lai của cả hai, và cũng vì bạn bè khuyên nhủ, nên sẽ đưa trả cô Tetsu về lại quê nhà, cô ấy sẽ lên chuyến xe lửa 2 giờ rưỡi ngày mai. Tôi liền quyết định sẽ đến đưa cô Tetsu đi, mặc dù chẳng ai nhờ đến cả. Tôi có cái tật đáng buồn hay quyết định dễ dãi như thế.

Ngày hôm sau, mưa bắt đầu rơi từ sáng. Tôi thúc hối vợ tôi đang ngần ngừ, để đi chung ra ga Ueno.

Chiếc xe lửa số 103 ấy đang phun khói đen vào màn mưa lạnh buốt, chờ đến giờ khởi hành. Chúng tôi đến từng cửa sổ, nhìn vào trong, chăm chú tìm kiếm. Và thấy cô Tetsu ngồi trong toa hành khách hạng ba ngay sau đầu máy xe lửa. Ba, bốn năm trước, do Shiota giới thiệu nên tôi đã gặp cô một lần, nhưng so với thời đó, bây giờ cô có da mặt trắng hơn nhiều, và nơi cằm đã đẫy ra nhiều hơn. Cô cũng nhớ mặt tôi nên nhận ra ngay. Khi nghe tôi gọi, cô liền nhoài nửa người ra khỏi cửa sổ mà chào hỏi. Tôi kéo vợ tôi lại nói chuyện với cô. Sở dĩ tôi đặc biệt kéo vợ theo là vì tôi suy nghĩ độc đoán rằng vợ tôi cũng là người xuất thân bần hàn như cô Tetsu, nên chuyện an ủi cô thì hẳn là vợ tôi có thái độ và lời nói thích hợp hơn tôi. Thế nhưng, tôi đã bị phản thùng một cách trắng trợn. Cô Tetsu và vợ tôi chỉ trao đổi cử chỉ chào hỏi cứ như là hai bậc mệnh phụ phu nhân, mà chẳng nói gì với nhau cả. Tôi lúng túng lấy cán dù gõ cốc cốc vào hàng chữ “Su Ha Fu” viết theo hàng ngang kèm dãy số “134273” viết nhỏ bằng sơn trắng trên thân toa hành khách, mà chẳng hiểu là phù hiệu gì.

Rồi cô Tetsu và vợ tôi trao đổi hai, ba câu về chuyện thời tiết. Nhưng nói xong thì cả bọn lại chìm vào im lặng. Cô Tetsu có vẻ đăm đăm nhìn không chán một chỗ nào đấy, trong khi mười ngón tay tròn trịa đặt khép nép trên bệ cửa sổ cứ co vào duỗi ra không ngớt. Tôi chẳng làm sao mà đứng yên đấy ngắm mãi quang cảnh như thế, nên âm thầm rời chỗ cô Tetsu, đi lang thang trên sân đợi dài và rộng lớn ấy. Hơi nước phun ra từ dưới xe lửa biến thành khí lạnh phủ trắng gót chân tôi.

Tôi dừng chân đứng trước trụ đồng hồ điện mà ngắm chiếc xe lửa. Chiếc xe ướt đẫm nước mưa, loang loáng sáng ánh xanh đen.

Tôi chợt nhìn thấy một khuôn mặt đen sạm đang nhướng cổ ra ngoài cửa sổ hành khách hạng ba ở toa thứ ba, sụt sùi chào hỏi năm, sáu người đưa tiễn. Thời ấy, Nhật Bản vừa khai chiến với một nước khác, nên anh ta hẳn là đã bị động viên rồi. Tôi như đã nhìn thấy thứ không nên nhìn thấy, ngực tức như bị nghẹt thở.

Vài năm trước đây, tôi có chút quan hệ với một đoàn thể tư tưởng nọ, rồi không lâu sau, đã ly khai hẳn, với một lý do không đẹp đẽ gì mấy. Bây giờ, đứng nhìn không chớp mắt người lính ấy, rồi nhìn cô Tetsu đã chịu nhục, chịu vấy bẩn mà lủi thủi trở về quê, tôi cảm thấy lý do ấy của mình, dù có đứng vững hay không đứng vững, cũng chẳng đáng kể đến.

Tôi ngước nhìn lên đồng hồ điện. Còn ba phút nữa là đến giờ tàu chạy. Tôi cảm thấy không chịu nổi. Có lẽ ai cũng vậy, đối với người đưa tiễn, không có gì khó nói cho bằng ba phút cuối cùng nầy. Những điều cần nói thì đã nói ra hết rồi, chỉ còn biết nhìn nhau vô vọng mà thôi. Huống chi lúc nầy, tôi lại chẳng nghĩ ra được lời gì cần nói. Giá vợ tôi mà là một người đàn bà tài trí chút nữa, thì tôi đã thơ thới hơn rồi, thế nhưng nhìn xem! vợ tôi dù đứng bên cạnh cô Tetsu nhưng mặt mày sưng sỉa như không bằng lòng điều gì, từ nãy đến giờ cứ đứng yên như tượng ở đấy. Tôi đành phải bước lại song cửa của cô Tetsu.

Sắp đến giờ tàu chạy rồi. Con tàu phấn khích hẳn lên trước hành trình 450 dặm, sân đợi nhộn nhịp khắp nơi. Lòng tôi không còn dư giả gì để đoái tưởng đến thân phận người khác nữa, nên lúc an ủi cô Tetsu, đã thốt ra những chữ như “tai nạn” thật là vô trách nhiệm.

Trong khi đó, người vợ kém thông minh của tôi đứng nhìn hàng chữ bám đầy những hạt nước mưa trên tấm bản nhỏ màu xanh gắn trên thân tàu, lẩm nhẩm đọc nho nhỏ từng chữ mới học được dạo sau nầy: “FOR A-O-MO-RI” [1].  

Phạm Vũ Thịnh dịch

Sydney 12-2005

Cước chú:

[1] “For Aomori“: (chuyến xe lửa) Ði Aomori.

Đồi Khỉ

(Saruzuka)

Osamu Dazai

Người dịch : Cung Điền

Ở thành phố Dazai của xứ Chikuzen có 1 thương gia giàu tên là Tokuzaemon. Nhờ làm chủ một tiệm rượu lớn do tổ tiên truyền lại đã tự mấy đời nên ông ta giàu nhất tỉnh, lại còn nổi tiếng gần xa vì có 1 cô con gái rất đẹp. Cô ấy tên Ô-Lan, từ thuở mới sáu, bẩy đã được thiên hạ tấm tắc khen vì nhan sắc hơn người. Nhìn vẻ kiều diễm của Ô-Lan, lắm kẻ trong tỉnh có lúc thấy tủi thân khi đem ra so sánh với con gái của mình, và chỉ biết tìm đến men rượu để quên đi những niềm tuyệt vọng.

Ô-Lan năm nay vừa đến tuổi trăng tròn lẻ. Mỗi lần khoác lên tấm thân thanh mảnh của mình những chiếc áo Kimônô hoa gấm, vẻ đẹp lộng lẫy của nàng lại cứ như làm cho tất cả cỏ cây vạn vật chung quanh được rực rỡ hẳn ra. Nhìn nét mỹ miều sáng mơn mởn trong ánh nắng xuân, chính cả mẹ nàng cũng thấy ngẩn ngơ, quên khuấy đi không biết mình mới nói gì với con lúc nãy.Tiếng đồn về nhan sắc chim sa cá lặn bay xa, biết bao nhiêu tu mi nam tử chỉ mới tai nghe nhưng mắt chưa nhìn đã tơ tưởng yêu mê yêu mệt.

Gần vùng của nàng có 1 chàng trẻ tên Kuwamori Jiroemon, bố mẹ làm nghề cầm đồ nên gia đình cũng khá giả. Chàng này trông cũng không đến nỗi xấu trai lắm dù có khuôn mặt hơi bẹt với cái mũi lớn khổ, bộ râu rậm chổi xể, và đôi mắt thì quặp xuống. Nhưng anh chàng trông lương thiện, có hàm răng xinh xắn, nụ cười khá dễ thương. Có lẽ nhờ ở các điểm đó mà hai người có duyên với nhau chăng? Ai cũng biết tình yêu thường mù quáng, điên rồ, và ta không thể đánh giá ai qua hình dáng bên ngoài. Thực tế là Ô-Lan đã phải lòng chàng ta, câu chuyện bắt đầu từ khi anh chàng Jiroemon vào trong quán rượu để tránh một cơn dông. Mọi sự xảy ra sau đó chỉ là phần nối dài của buổi đầu từ khi anh chàng nhờ may mắn mà lọt vào được mắt xanh của người đẹp.

Trong khi cha mẹ đôi bên còn chưa rõ nếp tẻ, Jiroemon đã đem tâm tình thổ lộ cho Denroku, một người bán cá thường lui tới tiệm cầm đồ của nhà mình. Jiroemon nhờ Denroku tới gặp gia đình Tokuzaemon để bàn bạc việc xin cưới Ô-Lan . Dĩ nhiên là lão Denroku xớm xởi nhận ngay vì đang nợ thâm niên với tiệm cầm đồ, nay bỗng được nhờ vả 1 chuyện mà anh chàng Jiroemon không tự lo liệu được. Lão ta nghĩ : tiệm cầm đồ nằm ở khu phố này thì quán rượu lại ở ngay khu phố kế cận, nếu mọi sự suông sẻ thì mình có thể uống rượu thoả thích mà lại có thể xin khất chuyện trả lãi cho món nợ. Lão chọn ngay một bộ đồ sang trọng trong những bộ quần áo cầm nợ ở tiệm cầm đồ, thắng bộ vào đàng hoàng rồi đi thẳng tới nhà Tokuzaemon với 1 vẻ thực tự tin, đến nỗi nhìn thấy lão người ta cũng phải tự hỏi không hiểu đây là nhân vật nào vậy?

"Hì, hì" lão Denroku khoái trá cười thầm, hai bàn tay khép mở chiếc quạt nan kêu lách cách. Lão bắt đầu mở miệng khen những tảng đá trong khu vườn nhà Tokuzaemon. Phần lão Tokuzaemon, thoạt mới trông thấy Denroku đã muốn nổi gai ốc, nhưng lão trấn tĩnh cất tiếng hỏi:

-           Thưa ông đến có chuyện chi ?

-           À, cũng chẳng có chi !

Denroku trả lời bình tĩnh, lựa lời nói quanh co để đưa đến chuyện chàng Jiroemon nhờ vả : "Thưa ngài, ngài có quán bán rượu, họ đằng này có tiệm cầm đồ. Tuy hai công việc buôn bán khác nhau, nhưng quy lại cũng như là một. Để đến tiệm rượu, trước hết phải dừng tại tiệm cầm đồ; rời tiệm cầm đồ, sau đó đi tới quán rượu". Lão nói lảm nhảm, thuyết rằng hai chuyện buôn bán đi liền với nhau như thầy thuốc và nhà sư, hai gia đình mà hợp lại với nhau thì như hùm thêm vây, sẽ đè bẹp cả thành phố. Lão Denroku mang hết tài ăn nói chưa từng thấy, đến ngay cả lão Tokuzaemon cũng cảm thấy xiêu lòng.

-           Cậu Kuwamori là trưởng nam, là người thừa kế;  tôi không đòi hỏi gì thêm cả. Thế còn tôn giáo của cậu ta thì sao ?

-           À…có lẽ… lão Denroku ngập ngừng, rồi lão nói buột ra với vẻ tuyệt vọng: tôi không chắc cho lắm, nhưng họ chắc thuộc phái Tịnh Độ (1)

-           Như vậy thì tôi không chấp nhận   lão Tokuzaemon trả lời thẳng thừng, miệng chu lại với dáng dữ dằn –  Giòng họ nhà tôi theo phái Pháp Hoa (2) đã nhiều năm. Trong suốt đời tôi, chúng tôi tin vào ngài Nichiren (3), và sáng tối niệm phật theo kinh Pháp Hoa. Tôi nuôi con như vậy, và không gả con tôi cho người nào khác tôn giáo.  Lão hằn học tiếp theo : "Thật tình, đã đi làm mai, ít ra ông cũng phải dò hỏi chuyện đó trước đã !".

-           "Ờ..   tôi … "     lão Denroku toát mồ hôi lạnh sau lưng –   "họ nhà phía chúng tôi cũng theo phái Pháp Hoa từ nhiều năm.Chúng tôi cũng tụng niệm Phật, theo ngài Nichiren sáng tối. Tất cả đều cung cúc theo kinh Pháp Hoa. Thật tình là như vậy…"

-           Tokuzaemon vặn lại:  "Ông nói nhăng nói cuội gì vậy?  Tôi không gần biết cậu ta có bao nhiêu tiền của, hay cậu ta có tài giỏi hay kẻng trai chi nữa.  Sao?  Thật đúng như là chửi vào mặt ngài Nichiren không bằng! Này ông thử nói cho tôi biết những cái hay cái đẹp của cái phái Tịnh Độ tối tăm này đi. Dám cả gan đi hỏi cưới con tôi khi chúng tôi theo phái Pháp Hoa từ bao năm nay. Cứ nhìn đến cái mặt ông đã khiến tôi lộn cả ruột. Thôi , xin ông đi khỏi đây ngay!"

Denroku túng thế phải thối lui, mang tin buồn về cho Jiroemon.  Anh chàng bình thản, nói: "Chuyện tôn giáo thì có chi mà bực mình. Gia đình tôi có thể đổi đạo dễ dàng.  Từ mấy đời nay chúng tôi không có tín ngưỡng gì cả.  Pháp Hoa hay Tịnh Độ, với chúng tôi đều như nhau".  Rồi chẳng mất thì giờ, Jiroemon tay cầm tràng hạt, và bắt đầu tụng kinh sáng chiều. Khi chàng ta xin cha mẹ hãy làm như mình, ông bà cũng không hỏi lý do. Vì chiều con trai, cả hai tuy mắt cứ liếc dọc liếc ngang nhưng cũng bắt đầu vừa ngáp vừa tụng kinh Liên Hoa Diệu Pháp.

Sau đó ít lâu, Denroku lại đến nhà Tokuzaemon. Với vẻ mặt tươi rói, lão tuyên bố rằng chàng Kuwamori cùng toàn gia đã đổi sang phái Nichiren, và đã tụng kinh Pháp Hoa.  Nhưng Tokuzaemon là người khó tính, lão trả lời: "Không, đức tin mà thiếu cội rễ chỉ là hời hợt ngoài mặt. Ai cũng thấy ngay là anh chàng chỉ đổi tông phái để lấy Ô-Lan".  Lão còn thêm: "Thái độ như vậy thật xấu hổ, ngài Nichiren khó mà chấp nhận thái độ này, vì chỉ thoáng qua là ai cũng thấy rõ ngay cái kế này".  Lão đã quyết định trong đầu: "Không, ta sẽ gả con gái cho một gia đình quen biết, cùng theo phái Pháp Hoa".

Nghe được câu chuyện, Jiroemon kinh hoàng, vội viết thư cho Ô-Lan :    "Họ nói bố đòi gả em cho một người mà gia đình theo phái Pháp Hoa.  Ta tụng cái thứ kinh chán ngấy, đánh trống đến phồng cả tay để mong được em, thật là bực mình! Cái lão Denroku chẳng được tích sự gì cả. Chắc tên ta có cái gì trục trặc không ổn. Jiroemon nghe từa tựa như Jirozaemon (4), cái tên này làm ta thật khó chịu. Sano Jirozaemon, cái lão ở miền Đông đã bị hết người này đến người khác bỏ rơi. Nếu chuyện này xẩy ra với ta, ta sẽ tuốt gươm và lấy một trăm cái đầu, như lão đã làm. Một nam nhi như ta, chỉ có một lời. Đừng coi ta là ngốc".

Viết xong lá thư, Jiroemon gửi đi ngay, nước mắt chảy dài trên má.

Ô-Lan trả lời : "Thiếp không hiểu thư chàng muốn nói gì. Xin chàng đừng hành động nguy hiểm, tỉ như vung kiếm hay gì chăng nữa. Trước khi chàng lấy đầu một trăm người, ngay cả một người, thì đầu chàng đã bị cắt mất.  Nếu có chuyện chi xẩy ra tới cho chàng, thiếp sẽ ra sao? Xin đừng làm thiếp sợ như vậy nữa. Đậy là chàng cho biết chứ thiếp chưa từng nghe có ai cầu hôn cả. Chàng lúc nào cũng mặc cảm về cái mũi và đôi mắt quặp – chính vì vậy khiến chàng mất tự tín mà đâm ra nghi ngờ thiếp. Chuyện  thiếp lấy ai, xin chàng đừng lo lắng bây giờ.  Nếu phụ thân ép lấy người nào khác, thiếp sẽ chạy trốn. Khi đó dặm trường thân gái, không đi một mình được, thiếp sẽ tới với chàng. Xin chàng nhớ lấy điều này".

Đọc xong, Jiroemon có mỉm cười chút ít, nhưng vẫn chưa hoàn toàn bình tâm. Bây giờ chàng ta hoàn toàn tin vào phật Nichiren và kinh Pháp Hoa.  Nhăn mặt, nhíu mày, chàng ta bắt đầu hét to "Nam Mô diệu Pháp liên Hoa Kinh", tay đánh trống loạn xạ.

Ngày sau đó, Tokuzaemon gọi Ô-Lan tới phòng, và nghiêm nghị bảo – với ngài Nichiren sắp đặt, nàng sẽ được gả cho Hirosaku, một người buôn giấy tại phố Honmachi. Lão ta tiếp: mối liên hệ này sẽ bền chặt đời đời, và nàng phải hoan hỷ nghe theo.

Ô-Lan kinh hoàng, nhưng nén nỗi cảm xúc khi cúi đầu chào phụ thân và lui ra. Nàng tức khắc lên lầu hai, viết vội lời nhắn : "Thiếp phải vắn tắt. Ngày quyết định đã tới. Thiếp sẽ đi trốn. Thiếp van chàng, tối nay hãy tới đây gặp thiếp". Viết xong, Ô-Lan nhờ một người làm công tức tốc mang đi.

Jiroemon liếc nhìn lời nhắn, tứ chi run lẩy bẩy.  Anh ta đi tới bếp, uống một ngụm nước để trấn tĩnh rồi trở về phòng khách, ngồi xếp chân bằng tròn giữa phòng, nghĩ phải hành động tức khắc, nhưng  không biết phải làm sao. Lát sau đành đứng dậy, thay quần áo, đi tới phòng kế toán mở mấy cái ngăn kéo. Thấy người giúp việc đưa mắt dò hỏi, chàng lẩm bẩm: Ồ, cần  một món tiền nhỏ thôi !   Chàng ném vài đồng vào trong tay áo khoác ngoài, rồi nhắm mắt chạy ra khỏi tiệm.

Trên đường, Jiroemon mới hay là đôi guốc đang đi không tiện chút nào, nhưng lại không dám trở về, đành tới một tiêm gần đó mua một đôi dép rơm. Tất cả gia sản chỉ vỏn vẹn món tiền trong túi, vì vậy chàng phải chọn đôi dép rẻ tiền nhất,  đế dép mỏng dính đến nỗi chàng có cảm tưởng là đi chân không, vừa đi vừa lo lắng và ấm ức khóc. Khi tới sau nhà Tokuzaemon, Ô-Lan chạy ra, không thốt lời nào, cầm tay chàng và giục chạy ngay. Lê chân trên đôi dép rơm, miệng thổn thức, Jiroemon để nàng dắt đi như môt người mù.

(Ờ mà cái câu chuyện của một cặp trai gái ngu ngốc, trẻ người non dạ , đúng ra cũng chẳng có chi là quan trọng. Thật ra  đã xong đâu,  nỗi gian truân dường như còn đang chờ họ ở phía đằng trước.)

Đêm đó hai người đi được non ba mươi cây số, biển Hakata trải dài phía trái, họ nhìn mãi làn nước xám nhạt như trong một giấc mơ .  Đói và khát, lại lo bị đuổi theo, cả hai thấy thật sợ hãi,  bụng như thắt lại mỗi lần nghe có tiếng chân người phía sau. Khập khễnh bước đi như hai cái xác, họ đặt chân tới  một doi đất  tên là Kanegasaki – giống như địa danh Kanegasaki gắn liền với lời kinh nhà Phật thường dạy    "Thịnh tất suy, và Thị Sinh Diệt Pháp" (5). Sau đó cả hai băng qua cánh đồng dưới chân núi, tới nhà một người quen của Jiroemon. Người chủ có vẻ lạnh nhạt, nhưng Jiroemon cũng đã đoán được. Anh gói một ít tiền trong mảnh giấy, đưa cho người chủ và khẩn khoản: "Thật   quá quấy quả, xin ông…"

Ở trong một chỗ nhỏ như cái kho, Ô-Lan và Jiroemon bắt đầu hiểu là cuộc sống kham khổ đang chờ đợi họ.  Cả hai nhìn nhau, thở dài, hốc hác và tái mét.  Ô-Lan sụt sịt, cố giữ không cho nước mắt trào ra. Nàng vuốt ve bộ lông của Kichibei, con khỉ nàng nuôi từ lúc còn bé.  Kichibei quấn quýt với nàng đến nỗi có trực giác biết chạy theo khi thấy chủ vội vàng bỏ đi trong bóng đêm, với một người đàn ông mà nó chưa khi nào thấy. Lúc đó, đi đã được mấy dặm thì Ô-Lan mới biết có Kichibei đang theo.  Nàng mắng hét, và lấy cả  đá ném, nhưng Kichibei vẫn cứ lết theo cho đến khi Jiroemon động lòng thấy con vật đã chịu khó theo xa đến như vậy.  Jiroemon bàn nên để nó đi cùng.  Ô-Lan vẫy tay, con khỉ liền chạy gấp tới. Khi đã được ẵm trong tay,  chớp chớp mắt nhìn hai người với vẻ mặt thật là tội nghiệp.

Giờ đây Kichibei làm 1 kẻ hầu tin cẩn. Nó mang thức ăn lại cái nhà kho, và ngồi đuổi ruồi cho hai vợ chồng.  Nó biết cả việc cầm lược gỡ tóc rối cho cô chủ. Tuy chỉ là con vật, khỉ ta cũng cố an ủi hai người, khi thì làm cả những chuyện không cần thiết.

Dù đã chọn một cuộc đời lén lút, nhưng hai người không thể sống suốt đời trong cái kho chật hẹp. Jiroemon đưa tất cả tiền còn lại cho người bà con bạc bẽo để xin cất một cái nhà tranh gần đó. Nhà cất xong, cả hai bắt đầu trồng một mảnh vườn để tự cung cấp rau cỏ hàng ngày. Khi rảnh rỗi, Jiroemon đi ra ngoài hái thuốc lá, để Ô-Lan ở nhà đánh bông gòn thành cuộn chỉ.   Bây giờ cuộc sống khó khăn nên giấc mơ của  tuổi trẻ bắt đầu phai nhạt dần.

Thế rồi họ đi đến chuyện kình chống nhau, nghinh nhau trong cảnh gia đình nghèo khó. Mỗi lần có tiếng loảng xoảng từ trong nhà bếp, cả hai đều đứng phắt dậy với ánh mắt giận dữ.  Có thể đó chỉ là tiếng động gây ra của một con chuột nhắt? Hai người không tha thứ được những hạt đậu lại bị phân chuột lấm bẩn. Trong tình huống như thế, ngay cả mùa thu mầu đỏ cỏ lá và mùa xuân hoa tím ngàn nơi cũng chẳng khiến họ lưu tâm.

Kichibei nghĩ rằng đây   lúc phải đền ơn Jiroemon nên thường đến những ngọn đồi gần đó, lượm lặt những cành bách đã mục và những lá tùng rụng. Trở về nhà, con khỉ ngồi trước lò sưởi, mặt ngoảnh tránh làn khói, quạt lia lịa bằng cái quạt thô sơ. Sau một vài phút, khỉ ta có thể mang cho hai vợ chồng một chén trà ấm, với cung cách rất khôi hài mà họ thấy cũng dễ thương.  Dẫu không biết nói, Kichibei cũng lo lắng đến sự nghèo khó của gia đình. Khỉ ta có thể bỏ bữa cơm tối, chỉ ăn rất ít, va` lăn ra ngủ như thể đã no bụng. Mỗi khi Jiroemon xong bữa cơm, Kichibei tới bóp lưng và chân cho ông chủ. Sau đó khỉ ta chạy vào nhà bếp phụ Ô-Lan dọn dẹp. Mỗi lần lỡ đánh vỡ một cái đĩa,  trên mặt khỉ ta lại thoáng hiện vẻ xấu hổ. Được chú khỉ an ủi, hai vo chong dần dần quên được cảnh đời cực khổ.

Một năm trôi qua, mùa thu lại tới. Ô-Lan sinh một đứa trai, đặt tên là Kikunosuke. Lần đầu tiên sau bao tháng trời, lại có tiếng cười vang trong gian nhà tranh.  Một lần nữa , đột nhiên cả hai cảm thấy cuộc đời thật đáng sống. Họ vui đùa với đứa bé:  nhìn nó mở mắt này, nó đang ngáp này, và chú khỉ Kichibei nhẩy cỡn lên với tất cả niềm vui. Kichibei mang những hạt dẻ hoang để vào bàn tay đứa bé cho nó nắm. Dẫu bi. Ố-Lan mắng về chuyện này, Kichibei cũng không chịu để đứa trẻ một mình. Chú ta thường ở ngay bên cạnh tò mò xem xét.  Chú nhìn chòng chọc vào khuôn mặt khi đứa bé đang ngủ, chỉ giật mình hoảng hốt mỗi khi nghe tiếng nó thình lình khóc. Khi đó chú chạy ngay tới Ô-Lan, kéo váy nàng và lôi nàng về phía nôi, ra hiệu hãy cho bú.  Rồi khi Ô-Lan cho đứa bé bú, chú nép gần đó, say sưa quan sát.  Kichibei đúng là một người canh gác tuyệt vời .

Tuy hài lòng với sự chăm sóc của con khỉ, nhưng dẫu sao hai người cũng cảm thấy buồn cho Kikunosuke. Nếu ra đời vào năm ngoái tại nhà Kuwamori, đứa bé chắc đã nhận được cả chồng quần áo ấm từ những người thân, và ngủ trên tơ lụa, được cả mấy bà vú chăm sóc. Sẽ không có cả một con rận bò đến gần đứa bé, và da dẻ được giữ gìn như ngọc. Nhưng vì sinh ra một năm sau đó, nó phải ngủ trong chòi tranh, dãi dầu mưa gió, với đồ chơi là những quả cây và hạt dẻ, và được chỉ một con khỉ trông coi.

Ô-Lan và Jiroemon có bàn đến cảnh Kikunosuke khốn khó  chỉ vì cuộc tình liều lĩnh của họ, nhưng rồi cũng quên chuyện này khi nhìn thấy đứa trẻ thật đáng yêu. Hai người quyết định sẽ dành dụm chút gì cho Kinunosuke khi đứa trẻ đến tuổi hiểu biết. Nếu có chút của cải, hai người có thể trở về dàn xếp thẳng với cha mẹ hai bên. Do thương đứa trẻ, Jiroemon hỏi thăm người hàng xóm xem có việc gì làm để kiếm thêm chút tiền nong.

Kikunosuke lớn dần lên, mụ mẫm.  Lúc nào chú bé cũng nhoẻn miệng cười, đem nguồn sống về cho gian nhà tranh một thời đã vắng bóng cảnh nồng ấm. Đứa trẻ có tia mắt sáng ngời như bà mẹ. Kichibei thường mang những cỏ lá mùa thu từ ngoài đồng và đong đưa chơi đùa trước mặt đứa trẻ, để hai vợ chồng có thể đi ra ngoài vườn đào củ cải mà không lo lắng gì tới con.  Hai người cảm thấy như sống lại với niềm hy vọng.  Khi mùa thu gần đến, người láng giềng cho hay có mối làm ăn tốt nên một hôm đẹp trời, Ố-Lan và Jiroemon hoan hỉ tới thăm để muốn biết tường tận hơn.

Hai vợ chồng vừa rời nhà được một lát thì Kichibei đứng dậy, dáng mặt cứ như biết đã đến giờ tắm cho đứa trẻ.  Chú ta theo đúng cách thức như những lần nhìn thấy Ố-Lan đã làm. Thoạt tiên, nhúm lửa dưới lò, đun nước, và khi nước bắt đầu sủi bọt thì đổ nước nóng vào trong chậu đầy đến mép. Kichibei cởi quần áo đứa trẻ, nhìn mặt nó như Ố-Lan làm mỗi lần, nựng lên nựng xuống mấy lần, rồi bất chợt nhúng  ngay đứa bé vào trong nước.

Bé Kikunosuke hét lên một tiếng thất thanh, dãy dụa la thét rồi ngừng thở.

Nghe tiếng la khóc khác thường, hai vợ chồng nhìn nhau, vội vã trở về, thấy Kikunosuke chìm trong bồn nước, Kichibei thi` đang bồn chồn lo lắng. Ố-Lan vội lôi đứa con ra, nhưng đứa bé đã như con tôm luộc. Không kham nổi, nàng ngã ngay xuống, khóc thét lên như một người điên.  Ố-Lan muốn đổi mạng sống của mình để được nhìn đứa con thân yêu một lấn nữa.  Lát sau nàng đứng dậy, nắm ngay con khỉ đang đứng sững sờ, và dơ thanh củi lên định phang cho nó chết.

Jiroemon cũng điên cuồng vì đau khổ, nước mắt lã chã. Nhưng tuy đau khổ, anh nhận thấy nên tha thứ hơn là báo thù.  Anh dằng thanh củi khỏi tay Ố-Lan, cố gắng giảng giải:  Con mình đã chết rồi, cũng là số mạng của nó như thế. Em muốn giết con khỉ cũng phải, nhưng sát sinh bây giờ chỉ gây cho linh hồn của con mình khó được lên cực lạc. Đứa trẻ không thể trở lại được nữa, mà Kichibei cũng chỉ muốn giúp đỡ hai đứa mình mà thôi. Hơn nữa, khỉ có khôn mấy cũng chỉ là một con vật thôi, nó chẳng biết   hơn đâu . Giờ đây mọi sự đã quá trễ, không thể làm gì được nữa đâu.   Con khỉ nước mắt chẩy dài, đứng trong một góc phòng, nhìn Jiroemon vừa khóc vừa nói, chắp hai tay cảm ơn.   Hai vợ chồng nhìn con vật, càng cảm thấy đau khổ, cùng nghĩ không hiểu họ phạm phải nghiệp chướng   đời trước mà nay gặp phải nỗi đoạn trường này ?

Chôn cất Kikunosuke xong, cả hai người mất dần ý muốn sống, đâm ra bệnh nặng, nằm liệt giường. Kichibei nuôi nấng săn sóc họ tận tình, cả bao nhiêu đêm không ngủ. Con khỉ cũng không quên cả Kikunosuke. Cứ mỗi bẩy ngày sau khi đứa trẻ mất, chú ta đi thăm mộ, mang theo nhiều bông hoa để trang hoàng. Vào ngày thứ 100, khi sức khỏe của Ô-Lan và Jiroemon đã khá hơn, Kichibei buồn rầu tới thăm mộ, và yên lặng dâng nước.  Rồi, nó đâm thẳng đầu lao bằng tre vào cổ họng, tự tử.

Jiroemon và Ố-Lan thấy vắng mặt Kichibei, đâm ra lo âu.   Cả hai chống gậy, khập khiễng đi ra mộ. Ho. hiểu ra mọi chuyện khi thấy cái xác nằm chết thảm thương.  Hai vợ chồng càng thấm thía sầu  khổ nhiều hơn khi nghĩ ra rằng ít gì đi nữa chính Kichibei là kẻ muốn đem lại cho cõi đời một niềm an ủi.  

Hai người dựng thêm một ngôi mộ để chôn con vật, bên cạnh mộ của con mình.  Sau đó , Ố-Lan và Jiroemon dựng am bên cạnh mộ, sớm hôm hương khói, tu hành. (6)

Dịch xong ngày 19-1-06 sửa lại ngày 29-05-06.

……..

Chú thích

1- Tịnh độ: nguyên nghĩa Phạn ngữ là Phật độ, cõi Phật, cõi thanh tịnh. Trong Đại Thừa, người ta hiểu mỗi cõi Tịnh độ thuộc về một vị Phật và vì có vô số chư phật nên có vô số Tịnh độ. Được nhắc nhở nhiều nhất là cõi Cực lạc của Phật A-di-đà ở phương Tây.

Tịnh độ tông: Tông phái được lưu hành rộng rãi tại Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam do cao tăng Trung Quốc Huệ Viễn (334-416) sáng lập và được Pháp Nhiên (Hounen 1133-1212) phát triển tại Nhật. Phép tu của Tịnh độ tông chủ yếu là niệm danh hiệu Phật A-di-đà, với hy vọng sẽ được tái sinh trong Cực lạc Tịnh độ, nhờ sức cứu độ của Phật.

2- Pháp hoa tông : Pháp hoa tông  còn được gọi là Thiên Thai tông, do ngài Trí Giả (150-250 T.L ?) thành lập. Thiên Thai là tên ngọn núi ở Thái Châu, miền nam Trung Hoa., nhưng đúng tên là Pháp Hoa, đặt theo tên kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh căn bản của tông này.

3- Nhật Liên (Nichiren  1222-1282): người thành lập lại tông Pháp Hoa ở Nhật.  Giáo pháp của tông phái này đặt nền tảng trên bộ Diệu pháp liên hoa kinh (cũng được gọi tắt là kinh Pháp hoa) và danh hiệu phải niệm hàng ngày chính là tên của bộ kinh đó. Chỉ cần thọ trì 5 chữ này là thấy được toàn bộ những gì Phật thuyết và thấy đủ nhân hạnh quả đức của Phật mười phương. Tông này có tính chất quốc gia cực đoan, muốn xây dựng một nền Phật giáo Nhật Bản rồi bành trướng ra ngoài.

4- Sano Jirozaemon:  Một phú nông ở tỉnh Tochigi vào cuối thế kỷ 17.  Trong cuộc sát hại tình nhân (tên là Yatsuhashi) ở xóm lầu xanh Yoshiwara, ông này đã làm chết và bị thương cả trăm người, sau trở thành đề tài cho tuồng Kabuki, dưới tên Kagotsurube Sato no Eizame.

5- Thịnh giả tất suy, Thị sinh diệt pháp :( Giầu sang tất tới ngày lụn bại, tất cả chúng sinh rồi cũng chết) quan niệm vô thường của Phật giáo. Trong kinh Niết Bàn quyển 4, Phật nói về vô thường như sau :

Chư hành vô thường

Thị sinh diệt pháp

Sinh diệt diệt dĩ

Tịch diệt vi lạc.

(Các hành vô thường

Là Pháp sinh diệt

Sinh diệt hết rồi

Tịch diệt là vui)

Nhận thức được như thế để khỏi đau khổ, lo âu, sợ hãi khi vô thường đến.

6- Đoạn chót trong truyện, dịch giả tự ý để đoạn này trong phần chú thích :Thế nhưng, khi hạ bút như vậy, người viết có hơi kẹt vì không chắc họ đã khấn đức Phật A-Di-đà của phái Tịnh Độ hay tụng kinh Pháp Hoa. Theo nguyên bản, Saikaku tả rằng, trong cái am đó, tiếng tụng kinh Pháp Hoa không bao giờ ngừng. Tokuzaemon là một lão già ngoan cố theo kinh Pháp Hoa nhưng nếu để lão ta ló mặt ở đây thì thật là khốn khổ vì sẽ làm hỏng bét câu chuyện thương tâm của chúng ta. Nếu có sự thật còn lại thì ta chỉ có thể nói là Ô-Lan và Jiroemon, dù sống trong am mà nỗi buồn vẫn chưa nguôi lại vạch cỏ mùa thu đi ra ngoài, cất bước một lần nữa về phương trời vô định.

 

Nói dối

(Uso)

Dazai Osamu

Người dịch :  Đinh văn Phước

Chiến tranh mới hết, vậy mà thiên hạ đã đi diễn thuyết tứ tung, hô hào rùm beng hết chủ nghĩa này đến chủ nghĩa kia, tôi hết tin nổi thứ nào nữa. Tư tưởng chủ nghĩa, cần quái gì mấy thứ tào lao đó, chỉ cần con trai đừng nói dối, con gái đừng tham lam, thì cái nước Nhật này sẽ kiến thiết lại được thôi.

Nhà tôi cháy trụi lũi, phải dọn về Tsugaru ở nhờ nơi chỗ cha mẹ tôi, trong lòng lúc nào cũng buồn rười rượi, hôm nay bất ngờ được người bạn cùng lớp hồi tiểu học đến thăm, tôi liền đem hết những điều đang bực mình đổ lên đầu anh ấy. Anh bạn tôi đang có chức phận gì đó trong làng, nghe tôi nói, anh ta cười rồi lên tiếng phản đối thẳng thừng:

- Không đâu, tuy anh có lý nhưng như vậy là anh nói ngược, phải nói con trai hãy bỏ cái tính tham, còn con gái thì đừng dựng chứng nói dối, mới phải.

Tôi thấy chới với, bèn hỏi:

- Coi kìa, tại sao lại như vậy?

- Thì có gì đâu, trình bày cách nào cũng được thôi, nhưng đàn bà mà nói dối thì ghê lắm. Tết vừa rồi tôi có dính tới một chuyện làm tôi phát ớn, nổi da gà cùng mình. Từ đó trở đi, tôi hết dám tin mấy bả. Ngay cả vợ tôi tuy lem luốc vậy đó, nhưng không biết chừng bả cặp kè với anh chàng nào mà mình không hay. Thiệt đó, không ai ngờ nổi đâu.

Anh bạn tôi không hề nhích miệng cười, kể tiếp cho tôi nghe một câu chuyện bí mật mới xảy ra trong cái xóm nhà quê này. “Tôi” trong câu chuyện dưới đây chính là anh ấy, năm nay ba mươi bảy, đang giữ một chức gì đó trong làng.

“Chuyện này bây giờ mới dám kể, chớ hồi đó tôi phải giấu biệt. Biết được ít nhiều về vụ này chỉ có hai người trong làng, ông trưởng chi cảnh sát, một người thiệt tốt vậy mà chỉ ít lâu sau ông ta bị đổi đi đâu mất, và tôi thôi.”

“Tết vừa rồi, khắp nước Nhật từ mấy chục năm nay chưa bao giờ thấy tuyết rơi dữ như vậy. Ở đâu tuyết cũng rơi chất đống, cao đến nỗi muốn đụng tới dây điện giăng ngoài đường, tuyết đọng làm gãy cây cối ngoài vườn, áp ngả hàng rào, làm sập nát bét một số nhà cửa. Vùng này thiệt hại như bị lụt nặng, liên miên ngày nào tuyết cũng ào ào như bão, đường xá xe cộ kẹt hết, cả vùng mất liên lạc với bên ngoài ròng rã hai mươi ngày trời, tình hình hồi đó cực như vậy”.

“Hôm đó khoảng gần tới tám giờ tối thì phải, tôi đang chỉ cho đứa con gái lớn làm toán thì thấy ông trường chi cảnh sát đến, coi tướng ổng không khác gì tượng mấy người tuyết.”

“Tôi chắc có điều gì không hay đây, liền mời ông ta lên nhà trên, nhưng ổng nhất định không chịu vô. Ông ta rất khoái uống rượu, lâu nay là bạn nhậu của tôi, có phải khách khứa gì đâu, vậy mà tối hôm đó khác với mọi lần, ổng làm mặt lạ cứ đứng đó nhưng ổng đứng không yên như có điều gì rất lo.”

“- À, hôm nay tôi chỉ có chút việc tới nhờ anh thôi.”

“Chắc có chuyện gì không hay thiệt, tôi cũng thấy sốt ruột.”

“Tôi vội vàng xỏ chân vào đôi dép bước ngay xuống sân đất, không nói không rằng, dẫn ông ta ra chỗ chuồng gà. Trong chuồng có để một cái bồn đốt than làm lò sười cho gà con. Hai đứa tôi lén mở cửa bước vô. Chúng tôi vô, vậy mà bọn gà không mảy may cục tác, như vậy anh đủ biết là bọn tôi đã rón rén đến mức nào”.

“Chúng tôi đứng đối diện nhau, ở giữa là cái bồn than lò sưởi.”

“- Xin anh tuyệt đối giữ bí mật dùm, chuyện đào ngũ đó anh!”

“Ban đầu tôi cứ ngỡ là có ai trong nhà giam của chi cảnh sát bỏ chạy trốn, nên chỉ im lặng chờ ông ta nói tiếp.”

“- Có lẽ đây là chuyện chưa hề xảy ra trong vùng này. Thằng Keigo bà con của anh đó, nè, không thấy nó trình diện nhập ngũ“.

“Như bị ai tạt gáo nước lạnh vào mặt, tôi vội nói:”

“- Đâu có, chuyện gì kỳ cục vậy, thì chính tôi đã dẫn nó lên đến tận trên tỉnh Aomori, đích thân tôi đứng tiễn nó ngay trước cổng trại lính kia mà”.

“- Phải rồi, thì tôi cũng biết chuyện đó. Nhưng hiến binh ở trển gọi điện thoại xuống nói không thấy nó lên trình diện. Mấy ổng muốn xuống điều tra, nhưng tình hinh tuyết rơi dữ quá, không làm sao xuống được, nên nhờ tôi bí mật điều tra trước cho mấy ổng. Vì vậy tôi mới tới nhờ anh đây nè.”

“Thằng Keigo là ai, người ngợm thế nào, anh ở luôn trên Tokyo làm sao mà biết. Đến thời buổi này, tôi có kể nó là ai, ở đâu cũng không sao cả, nhưng dù nói gì đi chăng nữa cũng không phải là chuyện hay ho gì, càng nói tôi càng buồn thêm. Thôi thì anh cứ đinh ninh là có cái thằng tên là Keigo bà con xa của tôi, vậy là đủ rồi. Một anh chàng nhà quê còn trẻ măng chỉ mới cưới vợ xong.”

“Nó được giấy kêu nhập ngũ, mà nó nhà quê đến nỗi xe lửa cũng chưa đi được lần nào, vì vậy tôi mới dắt nó lên cho tới tận trước cổng trại lính trên tỉnh Aomori. Nó không vô trỏng thế là nghĩa lý gì? Hay là nó giả đò đi vô một hồi, rồi quay lưng lại bỏ chạy trốn hay sao.”

“Điều ông trưởng chi cảnh sát trông mong là, thằng Keigo muốn trốn thì nó cũng không biết trốn đi đâu. Dù có phải băng rừng vượt núi trong bão bùng gió tuyết đến mấy ngày đi nữa, thế nào nó cũng cố tìm cách mò về nhà cho được mà thôi. Sức mấy mà nó chịu chết. Thế nào nó cũng bò về. Ông ta nói:”

“- Con vợ nó thiệt không xứng với nó chút nào, con nhỏ đẹp như vậy nên chắc chắn nó sẽ mò về, vì vậy tôi mới đến nhờ anh. Anh là người đứng ra làm mai cho hai đứa nó, mà hai đứa nó lâu nay một mực kính nể anh. Không, tôi không có chọc anh đâu, tôi nói thiệt đó. Tối nay phiền anh đến đằng nhà nó, giải thích đầu đuôi cho vợ nó nghe; tôi đâu có muốn làm khó làm dễ gì hai vợ chồng nó, nếu thằng Keigo có về thì hãy lén đi báo cho anh biết ngay. Anh hãy dặn con vợ nó nghe cho thật kỹ điều này, nếu trong vòng hai ba bữa nữa tụi mình tìm ra được thằng Keigo thì tôi sẽ dàn xếp để nó không bị tội tình gì cả. Số là mấy hôm nay tuyết rơi nhiều như vầy, đường xá xe cộ đâu có chạy được, tôi sẽ lấy cái cớ này viết báo cáo lên trển khai lý do tại sao nó trễ nải trong việc đi nhập ngũ. Còn nếu để chuyện đào ngũ lọt ra bên ngoài thì cả làng mang tiếng chết. Tôi mong là anh vì danh dự của cả làng mà chịu khó giúp cho. Tôi nhờ anh đó.”

“Vậy là ông trưởng chi và tôi ra đi trong cơn bão tuyết, lặn lội đến nhà con vợ nó. Chỗ tụi nó ở khá xa. Tôi cứ nghĩ sao mà đời con người ta gặp nhiều chuyện khó xử quá như vậy. Một người như tôi là thứ được miễn đi lính, nay lại phải đi giải thích cho vợ lính nghe về những tôn chỉ cần phải giữ gìn, càng nghĩ tôi càng thấy khó xử thiệt.

“Đến trước nhà tụi nó thì ông trưởng chi cảnh sát im lìm chia tay tôi. Một mình tôi bước vô trong sân, anh ở lâu trên Tokyo nhưng anh sanh ở đây, chắc anh còn nhớ cách sắp đặt nhà cửa của dân làm ruộng ở vùng này. Khi vô trong sân đất thì bên trái có cái chuồng ngựa còn bên phải là gian nhà ở với cái nhà bếp được lót ván có mấy cái lò thật bự. Nhà thằng Keigo cũng giống như vậy.”

“Vợ nó còn thức, đang ngồi may vá bên cạnh lò sưởi.”

“- Ồ! tao phục mày hết sức. Vợ tao, bả ăn xong bữa cơm tối thì bả bồng thằng nhỏ vô buồng đi ngủ luôn với nó, ngáy như sấm. Có khi nào bả làm chuyện may vá gì ban đêm đâu. Mày xứng là vợ lính đang đi đánh giặc, tao phục lắm, tao phục mày lắm.”

“Tôi khen mấy tiếng không khéo gì cho lắm. rồi cởi áo khoác leo lên ngồi xếp bằng bên cạnh lò sưởi, vì là chỗ họ hàng trong nhà, tôi thấy không cần phải làm khách.”

“- Bà già ngủ rồi hả.”

“Tôi hỏi như vậy vì thằng Keigo còn bà mẹ già bị mù.”

“- Bả ngủ rồi, được nằm mơ là sướng nhất đời.”

“Con vợ nó vừa tủm tỉm vừa nói mấy lời như vậy, tay vẫn không ngừng xỏ kim may vá.”

“- Ừ, không biết chừng mày nói vậy cũng phải. Chắc mày cũng cực lắm phải không? Nhưng thời buổi này cả cái nước Nhật có ai sướng được gì đâu, dù có cực cũng phải ráng chịu thêm ít lâu nữa nghen. Có chuyện gì lo không nổi thì lại đằng tao, tao sẽ tìm cách giúp cho. Như vậy nghen.”

“- Cảm ơn chú, nhưng hôm nay chú đi đâu mà về trễ dữ vậy.”

“- Tao hả? tao đâu có đi đâu, tao từ nhà tới thẳng đây.”

“Tính tôi ghét chuyện rào trước đón sau, mặc dù cũng muốn ăn nói cho khéo, nhưng sao tôi thấy phiền phức, không rào đón được. Biết là có làm mích lòng người ta nhưng tôi vẫn giữ cái tật nghĩ sao nói vậy, cho nên đôi khi tôi bị kẹt chết đứng. Vả lại tôi nghĩ dù có rào trước được một hai lần chưa chắc mấy lần sau cũng được xuôi chiều cả.”

“Vào lúc ấy, vì nghĩ dù có tìm cách nói vòng vo cũng không được lợi lộc gì nên tôi đã nói thiệt: tao từ nhà tới thẳng đây, nhưng con vợ nó không tỏ vẻ gì ngạc nhiên, vói tay lấy hai cây củi mới, gác thêm lên đống lửa rồi tiếp tục may vá.”

“Có điều này hơi kỳ nhưng tôi muốn hỏi thẳng anh, hồi tiểu học anh với tôi là bạn cùng lớp, như vậy hai đứa mình cùng một tuổi, ba mươi bảy. À không, chỉ còn hai ba tuần lễ nữa thì sang năm mới, năm Showa thứ 21 (1) , tụi mình ba mươi tám, tới cỡ tuổi này chắc anh vẫn còn ưa chuyện trai gái, phải không? tôi không nói giỡn đâu, nếu có dịp thì thiệt tình tôi cũng muốn hỏi thử ai đó về chuyện này.”

“Thiệt tôi cũng không ngờ, đó, đầu tôi thì sói, con đàn con đống bốn đứa, tay, da sành cứng ngắt, nứt nẻ tróc vẩy cùng hết, tay này mà rờ tới lớp áo mềm mại của mấy nàng thì thế nào da nó cũng xóc vào trong đó, cộc kệch như vầy thì sức mấy mà tôi dám mở miệng thì thầm chuyện yêu với thương. Vậy mà cái tật háo sắc thì lạ thật nó vẫn còn, có người nào đẹp một chút ở bên cạnh, mà chỉ có hai đứa với nhau, nói chuyện một hồi, thế nào trong lòng cũng nổi lên cái gì là lạ. Anh thì thế nào hả? Không lẽ cái ham muốn của tôi mạnh hơn người khác hay sao. Thiệt tình tuổi tôi cũng đã cao, tướng tá thì luộm thà luộm thuộm, là thứ không giữ được bình tĩnh để trò chuyện tự nhiên với đàn bà con gái. Dĩ nhiên nào tôi có điên khùng gì mà dám nghĩ được người đàn bà đối diện kia chịu mình hay mình mê người ta đâu, nhưng trong bụng cứ làm sao ấy. Có cái gì đó làm cho tôi không thể giáp mặt đàn bà con gái nói chuyện khơi khơi được như kiểu với đàn ông con trai bọn mình. Trong lòng như có cái gì vẩn đục. Đó có phải là cái dục vọng hay là cái quỉ quái gì? Nhưng, dĩ nhiên cũng có lúc tôi có thể giữ được bình tĩnh, đàn bà con gái không làm cho tôi thấy gì hết. Đó là các bà già đã ngoài tám mươi hay bọn con nít mới năm tuổi thì hoàn toàn không sao cả. Nhưng cũng có đôi khi tôi tiếp chuyện đàng hoàng, không thấy lúng túng ngượng nghịu gì với một người đàn bà xuân tình phơi phới. Như vậy là nghĩa làm sao?”

“Mấy lúc sau này, tôi không biết phải nghĩ thế nào cho phải. Trước đây tôi vẫn nghĩ như vầy, người đàn bà nào mà mình tiếp chuyện nửa chừng không thấy lúng túng, cái lòng vẫn đục của mình không bị khơi dậy thì chắc chắn đó là một người đàn bà quý phái trâm anh. Đối với loại đàn bà con gái mình thấy phải giữ miếng, dĩ nhiên tuy không có chuyện gì lang bang, phải lòng thế nọ thế kia, nhưng nếu không khéo thì qua câu chuyện có thể gây cho người ta những ấn tượng mơ hồ, gây lúng túng cho người ta, thì nhất định đó là chuyện không hay. Kết luận lại người nào có nhan sắc, tuy không đến nổi lẳng lơ nhưng khi tiếp xúc, tôi thấy không yên thì tôi không phục, còn ai mà tôi bình tĩnh tiếp chuyện được, mới chính là người đoan chính, đáng cho tôi nể.”

“Còn vợ thằng Keigo, đối với người khác thì không biết thế nào, chứ tôi thì không khi nào nó để cho tôi cảm thấy có gì cả. Thời buổi bây giờ đã hết cái chuyện địa chủ với tá điền, nhưng con nhỏ này vốn là con gái một gia đình suốt mấy đời làm ruộng cho nhà tôi. Lúc còn nhỏ, gương mặt nó đã khá đặc biệt, tuy là dân làm ruộng nhưng dáng con nhỏ mảnh khảnh, nước da trắng trẻo, lớn lên mặt nó hơi hểnh, nói ác một chút thì giống như mấy chiếc mặt nạ treo trong chùa, vậy mà thiên hạ lại khen là con gái đẹp trong xóm. Tính tình nó ít nói, lại rất chịu khó làm lụng, nhất là nó không hề làm cho tôi thấy ngợ gì hết. Tôi rất chịu nó về điểm đó nên tôi mới đứng ra lo việc cưới xin nó về cho thằng Keigo, bà con của tôi.”

“Tuy là chỗ họ hàng thân thích nhưng tôi với con vợ nó chỉ là người dưng. Và tuy nói vậy chứ tôi chưa đến nỗi lụ khụ, kẻ đối diện lại là một người đẹp có chồng đang đi lính, ban đêm chỉ có hai đứa ngồi nói chuyện với nhau, bình thường làm gì có chuyện đó. Nhưng với con vợ nó, tôi hoàn toàn không có tình ý gì, như vậy là anh đủ biết cái đức hạnh của con vợ nó, nhờ đó tôi mới có thể thản nhiên ngồi nói chuyện được.”

“- Thiệt tình là hôm nay tao có chuyện quan trọng muốn tới nhờ mày đây.”

“Con vợ nó vẫn không dừng tay xỏ kim may vá, lơ đãng nhìn tôi rồi hé miệng hỏi:”

“- Hả!”

“- Không sao, mày cứ may vá đi, bình tĩnh nghe tao nói là được rồi. Tuy nói là chuyện vì nước vì non, nhưng thực ra đây chỉ là chuyện dính tới xóm tới làng, à không phải nữa, điều tao sắp nói là vì gia đình của tụi bây thôi, nhất định mày nên nghe tao! Trước tiên đó là vì tương lai của chồng mày, thằng Keigo, sau đó là cho chính bản thân của mày, rồi đến cho cả mẹ tụi bây, sau cùng là cho tổ tiên tụi bây, con cháu tụi bây về sau, thế nào mày cũng phải nghe điều tao sắp nhờ mày đây.”

“- Chuyện gì mà chú nói nghe dữ dằn vậy.”

“Con vợ nó tay vẫn tiếp tục xỏ kim may vá, nhỏ nhẹ nói, không tỏ vẻ gì lo lắng cả.”

“- Mày đừng ngạc nhiên nghen, tao nói vậy chứ chắc ai lại chẳng ngạc nhiên về chuyện này. Nói thiệt với mày, mới hồi nãy đây, ông trưởng chi cảnh sát có lại đằng nhà tao…”

“Tôi hoàn toàn không muốn rào trước đón sau, kể luôn một mạch câu chuyện ông trưởng chi cảnh sát nói với tôi:”

“- Nè, thằng Keigo dù nó có làm chuyện gì dại, nhưng người ta ai lại chẳng có lần bị ma quỉ nó ám nó xúi giục mình làm chuyện tầm bậy hồi nào mà mình không hay. Giống như mấy thứ ung nhọt bị nhiễm trong tim ngay từ hồi người ta mới sanh ra, mấy thứ độc địa đó phải để cho nó lòi ra ngoài hết đi. Chuyện lỗi lầm, đã phạm rồi thì thôi không trốn đằng nào được, nhưng bổn phận của mày của tao là người biết điều, đừng nên để cho chuyện nó đổ bể rùm beng ra. Ông trưởng chi có hứa với tao là ổng sẽ dàn xếp êm thắm, ổng là người chưa khi nào nói gạt ai, chỉ cần trong vòng hai hay ba ngày tới đây, tìm ra được thằng Keigo thì ổng sẽ vì cái tiếng tăm của cả làng, vận động với mấy ông trên tỉnh để không ai bị khiển trách hết. Ông trưởng chi lẫn tao sẽ kín miệng, tuyệt đối không nói với ai đâu. Thằng Keigo chắc chắn sẽ về đây với mày. Nếu nó về, thì mày đừng nghĩ ngợi xa xôi gì hết, hãy tới báo cho tao liền. Tao nhờ mày vậy đó. Đây là tao lo cho thằng Keigo, tao lo cho mày, cho bà già, cho danh dự tổ tiên và con cháu tụi bây.”

“Con vợ nó không đổi sắc mặt, vẫn tiếp tục việc may vá, chỉ lẳng lặng nghe tôi nói, lúc đó bỗng nó lắc vai thở dài nói:”

“- Có chuyện gì mà sao ảnh khờ ảnh dại vậy.”

“Rồi đưa mu bàn tay trái gạt giọt nước măt.”

“- Chắc mày cũng cực trong lòng lắm phải không? tao biết mà. Nhưng cả cái nước Nhật hiện nay có trăm ngàn chuyện còn cực lòng hơn cả chuyện của mày, thôi mày ráng chịu đi. Nếu thằng Keigo có về, thì thế nào cũng phải tìm hết cách đến đằng tao báo cho tao biết liền. Cho đến hôm nay, chưa bao giờ tao nhờ tụi bây điều gì hết, bây giờ, đây này, tao chắp tay nhờ mày chuyện này đó.”

“Tôi cúi mình nhờ con vợ nó. Ngay lúc đó, lẫn trong tiếng gió mưa tuyết, tôi nghe có tiếng ai ho, sặc khe khẽ vẳng lại từ phía chuồng ngựa. Tôi ngước đầu lên, hỏi:”

“- Mày mới ho đó hả.”

 ”Con vợ nó nhìn tôi với vẻ mặt nghi ngờ rồi trả lời tỉnh :”

“- Dạ đâu có “

“- Vậy thì ai ho đó hả. Mày không nghe sao?”

“- Ủa! Cháu có nghe gì đâu.”

“Con vợ nó đáp như vậy, miệng cười mỉm.”

“Vào lúc ấy, không biết vì sao tôi thấy ớn lạnh, cả người nổi da gà.”

“- Không phải nó đã về đây rồi đó sao? Nè mày, không được gạt tao đó mày? Không phải có thằng Keigo ở ngoài chuồng ngựa đó sao mày?”

“Có lẽ bộ tịch cuống quýt của tôi trông có vẻ tức cười thế nào đó, nên con vợ nó bỗng bỏ đồ đang may để trên đùi sang một bên, úp mặt lên trên bắp vẻ cười nắc nẻ đến nổi ho sặc cả lên. Được một lúc thì con vợ nó mới ngước đầu lên, cắn môi cố nín cười, mặt đỏ bừng như mới đi tắm nước nóng xong, đưa tay vuốt tóc lại cho chỉnh tề, rồi ngồi thẳng người, nghiêm nghị đâu mặt với tôi:”

“- Chú cứ yên tâm, cháu không dại gì đâu. Nếu ảnh về, thì chắc chắn cháu sẽ tới báo cho chú biết liền, lúc ấy trăm sự xin nhờ chú lo hết cho tụi cháu.”

“- À, vậy hả”

“Tôi cười gượng tiếp lời.”

“- Tiếng ho tao nghe vừa rồi chắc là tại tao lãng tai. Thế này thì thật là đàn bà con gái gan dạ hơn cả con trai. Ừ thôi, nhờ mày chuyện đó nghen.”

“- Dạ được, chú cứ để đó cho cháu.”

“Con vợ nó gật đầu nhận lời với vẻ rất có thể tin tưởng được.”

“Tôi thấy yên bụng, vừa dợm đứng lên sửa soạn về thì ngay lúc đó tôi nghe từ phía chuồng ngựa có tiếng ai la:”

“- Đồ thằng điên, sao mày xem rẻ mạng mày vậy.”

“Đúng là giọng của ông trưởng chi cảnh sát đang to tiếng la lối.”

Anh bạn tôi nói tới đó bỗng nín thinh, đưa tay lấy đôi đũa sắt, trở mấy cục than đang cháy đỏ. Tôi nóng ruột giục:

- Rồi sau đó ra làm sao? Có nó ở đó hả?

Anh bạn tôi cầm đôi đũa sắt cắm thật sâu vào đống tro trong lò sưởi, bực dọc nói:

- Thì thằng Keigo đó chớ còn thằng quỉ sứ nào nữa, nó mò về đây đã được đến hai bữa, anh coi có ác không? Nó mò về từ hai hôm trước, hai đứa nó bàn tính với nhau, con vợ nó để cho nó trốn trên gác sát nóc chuồng ngựa; vùng này người ta gọi chỗ này là “magi” (2), và chất rơm khô ở đó. Dĩ nhiên đó là cái kế do con vợ nó bày đặt ra. Bà già, mắt bả không thấy đường, nên chuyện gạt bả dễ ợt. Vậy là con vợ nó dấu nó trên gác chuồng ngựa, ngày ba bữa, bưng cơm nước ra cho chồng. Sau này chính thằng Keigo thú tội với tôi, chớ còn con vợ nó thì nín luôn, không hé răng. Ngay cả đến bây giờ con vợ nó vẫn còn làm bộ như không biết gì hết. Đêm hôm đó, tôi lặn lội đến chỗ nó, mình lấy hết lòng nói ngọt, mà mình lại là người lớn đã cúi đầu năn nỉ nó, vậy mà con vợ nó làm mặt tỉnh bơ. Ngược lại thằng Keigo trốn ngoài chuồng ngựa nghe tôi năn nỉ con vợ nó, nó động lòng xấu hổ, không dám trườn mặt ra, rồi anh biết không, nó lấy dây quấn lên xà nhà treo cổ tự tử đó anh.

Ông trưởng chi sau khi chia tay tôi, thật đúng là nghề của ổng, ổng lẩn quẩn xung quanh nhà, rình chừng. Ông ta khám phá được ngay hình như có ai ở chỗ chuồng ngựa, ổng liền dòm lén vô thì thấy thằng Keigo đang lủng lẳng. Ông ta liền quát to: “Đồ thằng điên, sao mày coi rẻ mạng mày vậy”, khi ông ta lôi được nó xuống thì chúng tôi cũng vừa mới chạy tới. Nghe tiếng ông trưởng chi la: đồ thằng điên, hai đứa tôi bật đứng dậy, không ai nói với ai, chúng tôi bỗng nhìn nhau, con vợ nó khẽ lắc đầu, tai như cố ngóng nghe tiếng động phát ra từ phía chuồng ngựa. Dáng điệu của con vợ nó thiệt là kỳ diệu. Dễ sợ thiệt. Rồi hai đứa tôi lật đật chạy tới chỗ chuồng ngựa, thằng Keigo đã bị ông trưởng chi cảnh sát bắt quả tang. Chuyện nói láo đã lộ rành rành ra rồi, vậy mà con vợ nó còn làm bộ núp sau lưng tôi, trỏ miệng hỏi nhỏ: “Mình về hồi nào vậy mình?”

Nếu không được thằng Keigo thú tội là nó đã lội về đây từ hai hôm trước thì chắc suốt đời, nhất định tôi sẽ tin con vợ nó cho đến phút ấy không biết gì hết. Từ đó trở đi, con nhỏ ngậm câm, đôi khi trên miệng chỉ thoáng có một nụ cười, tôi không biết nó nghĩ cái gì trong đầu, tôi hết hiểu nổi nó. Tôi vẫn coi trọng con vợ nó ở chỗ nó không hề khêu gợi chút nào thèm muốn nổi dậy trong tôi, nhưng đối với tôi, có lẽ người đàn bà nào làm đàn ông thấy phát thèm mới là người ngay thẳng. Tôi hết biết đâu là thiệt đâu là giả, từ đó trở đi thấy đàn bà con gái là tôi hết dám tin.

Sau đó, thằng Keigo đem giấy chứng nhận của ông trưởng chi cảnh sát lên trình diện trên tỉnh Aomori, mọi việc suông sẻ, nó phục vụ không được bao lâu thì hết chiến tranh. Nó trở về làng, hai vợ chồng nó sống hòa thuận với nhau, nhưng tôi hết tin con vợ nó nên tôi tránh lui tới nhà bọn nó. Ghê thiệt, mà sao nó mánh khóe giỏi đến nước đó, dám bô bô cái miệng, nói láo một cách tỉnh như vậy. Đàn bà con gái mà nói láo một cách thản nhiên như thế thì nước Nhật này nguy mất. Thế nào, anh nghĩ sao?

- Chuyện đó thì không phải chỉ có đàn bà con gái Nhật Bản là như vậy đâu, đàn bà nước nào cũng giống nhau thôi, nhưng mà nè … không biết chừng con nhỏ nó phải lòng anh?

Tôi lỡ lời nói hớ cái cảm tưởng rất ngông của tôi.

Anh bạn chức sắc đó không hề cười, lắc đầu chối biến:

- Làm gì có chuyện đó.

Rồi cuối cùng nhỏ giọng nghiêm nghị than:

- Vậy mà con vợ tôi với con vợ nó, hai đứa lại không ưa nhau.

Tôi ở trên Tokyo cả mười lăm năm trời, nhưng chưa khi nào tôi nghe ai nói ra vẻ tình thiệt như vậy.

Tôi tủm tỉm cười một mình.

Đinh Văn Phước dịch

Tokyo, Hino 4-2006

Nguyên tác trên mạng Aozora bunko www.aozora.gr.jp

(1)     - Năm1946

(2)     - Xin đọc là ” ma-ghi “

Melos ơi,  chạy nhanh lên !

(Hashire, Merosu!)

Dazai Osamu

Người dịch:Văn-Lang Tôn-thất Phương

Melos bừng bừng nổi giận, quyết phải giết cho được tên vua độc ác.

Thực ra Melos chẳng biết chút gì về chuyện chính trị.  Anh chỉ là thường dân ở thôn làng, ngày ngày nuôi cừu kiếm sống, thổi sáo giải khuây, nhưng tính ghét những điều gian ác. Không cha không mẹ, lại còn độc thân, anh chỉ có mỗi một cô em gái hiền lành.  Cô này mười sáu tuổi, định nay mai sẽ lập gia đình với một chàng trẻ trong làng, cũng cùng nghề như Melos.  Cho nên để tìm quần áo đẹp và mọi vật cần dùng cho đám cưới của cô em, ông anh đã phải rời làng từ sáng sớm, vất vả băng đồng vượt núi mãi để lên tận thành phố Syracuse.  Sau khi mua sắm xong xuôi, Melos lượn chân quanh phố kiếm nhà của anh thợ đá Seli là bạn thân từ thưở còn thơ.  Nghĩ bao nhiêu năm không gặp, nay thấy mặt nhau chắc sẽ vui thích vô cùng.

Đi được một lúc, Melos hơi ngạc nhiên vì thấy không khí trong thành phố sao cứ là lạ.  Đành là mặt trời đã lặn nên cảnh vật tối tăm, nhưng không hẳn chỉ vì tối mà như thế này được.  Phố xá không hiểu sao cứ ảm đạm đìu hiu, làm cho người lạc quan như Melos cũng đâm ra ái ngại. Thấy một chàng trai đi lại gần, anh hỏi tại sao, vì hai năm trước đến đây, cũng ban đêm mà người ta ca hát và rong chơi cười nói vui vẻ ngoài đường phố. Nhưng chàng trai chỉ lắc đầu, chẳng nói gì.  Lát sau gặp một ông già, anh lại hỏi, lần này khẩn thiết hơn, nhưng ông cụ cũng không trả lời.  Melos nắm lấy hai vai ông cụ, lắc mấy cái, rồi hỏi nữa.  Ông ta mới nói nho nhỏ:

-          Vua giết người ta!

-          Sao mà giết?

-          Vua bảo họ có lòng gian, nhưng nào có ai gian tà gì đâu!

-          Bộ giết nhiều lắm sao?

-          Phải, trước tiên là anh rể của vua, kế đó là Đông Cung thái tử, rồi đến công nương em ruột của ngài cùng mấy người con, rồi đến hoàng hậu, sau đó là đại thần Alekis …

-          Trời đất, không lẽ nhà vua phát khùng?

-          Đâu phải loạn óc hay quẫn trí gì, chỉ vì không tin ai cả thôi.  Bây giờ thì đâm ra nghi kỵ hết cả thiên hạ, hễ thấy nhà nào có thế lực một chút thì bắt giao cho vua một người làm con tin, ai không tuân theo thì lập tức xử treo trên thập giá.  Nội bữa nay thôi cũng đã treo hết sáu người !

Melos mới nghe xong đã đùng đùng nổi giận: "Thứ tàn ác này, không để sống được!"

Anh là người bộc trực nghĩ sao làm vậy, nên cứ đeo cả gói đồ vật trên lưng đi xăm xăm đến hoàng cung.  Lính gác chận lại, khám trong người thấy có thanh đoản kiếm nên lật đật báo động, cuối cùng lôi anh chàng tới trước mặt vua Dionys.   Nhà vua sắc diện nhợt nhạt, xanh xao, những vết nhăn hằn sâu, nhưng giọng nói uy nghi trầm tĩnh: "Ngươi mang kiếm đến đây, muốn làm gì?"

Melos không sợ hãi:  "Để vì thiên hạ khử trừ tay bạo ngược!"

Nhà vua cười khẩy:  "Sức mày mà làm được ư?  Cũng tội nghiệp, thứ như mày sao biết được!  Ta cô đơn đến đâu, thiên hạ nào mà hiểu được ta!

Melos nổi giận, hét lớn:  "Nói thế a? Đa nghi là điều tệ hại nhất của mọi tính xấu, bậc vua chúa không được nghi ngờ lòng trung của thuộc hạ mình".

Vua Dyonis vẫn trầm tĩnh, nói qua tiếng thở dài:  "Lòng người, tin sao được?  Cứ nhìn việc ngươi đang làm thì rõ, chẳng cần cắt nghĩa lôi thôi.  Bản chất của con người là tham lam vô độ, có nghi ngờ là cũng chỉ để đề phòng, đương nhiên thôi.  Ngươi sao biết được ta đây cũng chỉ mong mọi sự yên ổn an lành!"

Melos bật cười:  "Yên ổn an lành,  để bảo vệ địa vị của mình chứ gì?  Đi giết người vô tội mà dám bảo yên ổn an lành?"

Vua Dyonis ngẩng mặt nói lớn:  "Im đi, cái thằng hạ tiện!  Chỉ khua môi múa mép thì ai chả nói được trăm vạn chuyện hay ho?  Nhưng lòng dạ con người, chỗ sâu kín đến đâu ta cũng nhìn thấy tuốt!  Còn mày, vài phút nữa là thân treo trên thập giá, đừng hòng mở miệng mà than khóc van nài!"

"Ôi, ông thực thông minh, có lo cho thân ông cũng phải! Tôi biết mình thế nào cũng chết, chẳng hề nghĩ chuyện nài van, nhưng mà …"

Nói đến đây, Melos cúi đầu nhìn xuống, giọng ngập ngừng:  "xin … niệm tình hoãn cho tôi ba ngày, để về lo cho việc cưới hỏi của cô em gái.  Xong xuôi, tôi sẽ xin trở lại chịu thọ hình".

Vua Dyonis cười, giọng khô khan:  "Ngu si táo tếu!  Bịa trò láo toét thiên địa, định qua mặt ai đây?  Xưa nay có con chim nào đã thoát đi được còn bay trở lại?"

Melos giọng cương quyết:  "Trở lại chứ, chắc chắn tôi sẽ trở lại! Em gái tôi đang đợi ở nhà. Tôi biết trọng lời mình hứa, xin chỉ cho tôi ba ngày!  Thôi thế này, nếu không tin tôi thì ở đây có người thợ đá tên Seli là bạn ruột của tôi, xin cứ giữ anh ta.  Nếu sau ba ngày mà tôi không trở lại trước khi mặt trời lặn thì cứ đem anh ta ra thay mạng".

Vua Dyonis đắc ý cười thầm, trong đầu nảy ra một ý nghĩ tinh quái:  "Chỉ khéo phịa chuyện, thả ra rồi thì đi luôn là cái chắc!  Nhưng thôi cứ làm bộ như bị nó gạt, cũng vui vui!  Khi kỳ hạn qua đi, có đem con tin ra giết cũng đáng kiếp thôi!  Ta sẽ làm bộ buồn rầu, ra lệnh đi treo con tin, chỉ vì có người không thủ tín.  Đây cũng là cơ hội cho thiên hạ thấy rõ làm chi có người thành thực ở đời này".

-          Được rồi, con tin đâu đem lại đây!  Còn ngươi thì phải trở lại đúng ba ngày sau, trước khi mặt trời lặn.  Ngươi mà về trễ thì con tin mất mạng đó!  Ngươi về trễ chút xíu thì càng tốt, đã có người chết thế, ta sẽ  tha cho ngươi!

-          Sao, vua nói sao ?

-          Ha ha ha!  Ai chả tiếc mạng mình, ngươi cứ về trễ đi!  Ngươi nghĩ gì trong bụng, ta biết hết!

Melos lúng túng, không biết nói sao. Đến khuya, người ta đem Seli vào cung, hai năm rồi đôi bạn mới lại gặp nhau.  Trước mặt vua Dyonis, Melos kể lại hết tự sự.  Seli lặng lẽ gật đầu, rồi ôm chầm lấy Melos.  Giữa hai người bạn thân tình, chỉ thế thôi là đủ.  Rồi Seli bị trói, còn Melos ra đi.  Trời đêm mùa hạ trong veo, muôn ánh sao ngàn lấp lánh.

Ba chân bốn cẳng về được đến làng thì mặt trời đã lên cao, người người đã ra đồng làm việc.  Cô em của Melos đang chăn đàn cừu ngoài bãi, bỗng thấy ông anh mình hiện ra   bộ dạng bơ phờ, bước chân quờ quạng – cô tròn xoe cả mắt, rồi lăng xăng vồ vập hỏi han.  Melos ráng giữ nụ cười tươi để trấn an em:  "Chả có gì đâu.  Còn bề bộn việc ở trên phố, anh sẽ phải trở lên đó ngay để lo cho xong.  Ngày mai mình lo làm lễ cưới của em cho rồi, càng sớm càng tốt".   Trông cô em mắc cỡ đỏ hồng đôi má, Melos nhỏ nhẹ:  "Mong lắm phải không?  Áo quần đẹp có rồi đây.  Bây giờ em về làng báo cho mọi người biết là ngày mai làm lễ cưới".  Rồi anh cũng lật đật về nhà lo bày biện bàn thờ, sắp đặt bàn ghế, và ngã đùng trên sàn nhà ngủ thẳng một hơi chẳng còn biết đất trời.

Mở mắt ra thì đã tối, vội qua bên nhà trai bàn chuyện làm lễ cưới vào sáng mai.  Anh chàng trẻ chưng hửng:  "Chưa sửa soạn gì cả, anh chờ qua hết mùa nho có được không?".  Melos bảo phải ráng làm trong ngày mai, nhưng anh chàng trẻ không chịu nên hai bên bàn bạc đôi co mãi đến gần sáng.  Melos khẩn khoản nói đi nói lại, cuối cùng mới được nghe theo. 

Lễ cưới diễn ra vào đúng ngọ hôm sau.  Đôi vợ chồng cúng bái thệ nguyện vừa xong thì ngoài kia mây đen đã giăng phủ đầy trời, rồi mưa bắt đầu rơi lộp bộp nặng hột, lát sau thì tuôn xối ào ào làm những người trong tiệc cảm thấy như có điềm gì bất ổn.  Nhưng họ chóng bỏ qua và vỗ tay ca hát vui vẻ, quên luôn cả khí nóng hâm hấp trong căn nhà chật hẹp.  Melos vui ra mặt, trong một lúc cứ như lời hứa hôm kia không còn canh cánh trong đầu.  Tiệc cưới kéo dài đến gần tối thì náo nhộn hẳn lên, không ai còn để ý là bên ngoài còn đang mưa lớn.  Melos mong sao suốt đời cứ thế này, được quây quần mãi với những người mình yêu thích. Nhưng anh hiểu bây giờ ngay tấm thân cũng chẳng còn là của mình, đành phải bấm bụng ra đi thôi. Phân vân, anh lại nghĩ thì giờ còn đủ chán, thôi ngủ một giấc rồi hẵng đi, chắc lúc đó mưa cũng nhẹ bớt.  Dù sao trong lòng cũng quyến luyến, cứ muốn nấn ná ở lại nhà.

Nhìn cô em gái đang ngồi yên như lắng chìm trong hạnh phúc, Melos xích đến kề bên, dặn dò: "Mừng cho cô!  Bữa nay anh mệt quá, chắc phải lánh ra đâu ngủ một chút để sáng mai còn đi cho kịp công chuyện.  Bây giờ cô đã có được người chồng tử tế, cho nên chẳng có anh bên cạnh đi nữa, cũng không có gì buồn. Tính anh ra sao thì cô cũng đã biết, ghét nhất là dối trá và nghi ngờ kẻ khác.  Rồi đây cô sống với chồng, nhớ tuyệt đối dù có chuyện gì đi nữa cũng đừng bí mật giấu giếm nhau.  Chỉ có chừng đó để nói với cô thôi.  Khi nghĩ tới anh thì cô nên hãnh diện rằng anh mình cũng là người rất có tư cách".

Cô em gái bàng hoàng như mơ, chỉ biết gật đầu.  Melos quay sang vỗ vai chú rể: "Đâu phải mình chú, phía anh cũng lật bật, có chuẩn bị được gì đâu!  Anh không có chi nhiều, chỉ mỗi cô em và mấy con cừu, từ nay tất cả thuộc về một tay chú.  Nên nhớ bây giờ thành anh em một nhà với Melos là điều phải thấy tự hào".  Ông em rể không biết nói gì, im lặng bóp hai bàn tay vào nhau nhè nhẹ.  Melos cười cười đứng lên cúi chào quan khách rồi đi ra ngoài, kiếm chuồng cừu chui thẳng vào, ngủ vùi như chết.

Mở mắt ra thì trời đã hừng sáng.  Melos nhảy nhỏm dậy: Trời đất phật thánh, lỡ ngủ quên rồi?!  Nhưng không, may còn sớm, nếu đi ngay thì kịp chán!  Bữa nay nhất định lão vua kia sẽ thấy được có người thành thực, sẽ thấy ta bước lên cây thập giá với cả nụ cười!

Ngoài kia, mưa có vẻ đã bắt đầu ngớt hột.  Melos thản nhiên thu xếp hành trang, rồi dơ hai tay lên cao, vươn vai một cái và lao vào trong mưa như một mũi tên. Phải chạy cho nhanh, chiều nay ta sẽ chết.  Phải chạy nhanh đến cho người ta giết, chạy cho nhanh để cứu bạn mình!  Chạy nhanh lên, để đánh tan lòng hiểm ác gian tà trong lòng tên bạo chúa.  Phải chạy cho nhanh, rồi ta sẽ bị giết!  Xin giã từ làng xóm, ta phải chạy nhanh, để giữ lòng tự trọng mang trong mình tự thưở thiếu thời.

Melos tuy trẻ nhưng ráng chạy nhanh nên thực vất vả.  Không biết bao lần anh thèm được ngừng lại một chút để nghỉ lấy sức. Nhưng anh cứ chạy, vừa thở hào hển vừa to tiếng để thúc dục mình.  Ra khỏi làng, băng đồng rộng, xuyên qua cả khu rừng.  Khi anh đến được làng bên cạnh thì mưa đã tạnh hẳn, mặt trời lên cao, không khí bắt đầu nóng bức. Melos đưa tay vuốt mồ hôi trán.  Đến ngang đây là được rồi, chẳng còn gì nhớ tiếc chuyện ở nhà nữa!  Hai vợ chồng cô ấy, bây giờ hẳn đã yên ổn, khỏi phải bận tâm, chỉ cần đi thẳng một mạch đến cung vua là xong!  Vậy mình cũng chẳng vội gì, cứ từ từ cũng kịp.  Melos thấy hơi an tâm, bắt đầu vừa đi vừa hát, cứ thế thủng thẳng hết dặm nọ đến dặm kia.

Không may cho Melos, mới đi khoảng nửa đường thì không tiến thêm được nữa. Con sông trước mặt anh – vì hôm qua mưa lớn làm trên nguồn đầy ứ   nước cuồn cuộn đổ tràn về phía hạ lưu, đẩy sập luôn cây cầu tự lúc nào mà khí thế vẫn còn ầm ầm, đánh cho đám gỗ tan ra nhiều mảnh nhỏ.  Melos sững sờ, đứng nhìn dáo dác xuôi ngược.  Anh ráng sức kêu lớn, nhưng thuyền bè chắc đã bị cuốn đi hết nên chẳng thấy đâu, cả mấy tay chèo đò cũng không thấy tăm hơi bóng dáng.  Nước càng lúc càng tràn lan, mênh mông như biển.  Melos gục trên bãi khóc rống lên.  Lát sau,  anh dơ tay lên trời cầu khẩn:  "Xin rủ lòng thương, ngăn giòng nước lại!  Tôi đây thì giờ không còn được bao nhiêu, mà mặt trời đà đứng bóng!  Nếu không đến được cung vua trước khi nắng tắt, anh bạn kia sẽ phải chết vì tôi!".  Nhưng cơn nước không đổi thay, lại còn réo cuộn dữ hơn như giễu cợt.  Cứ lớp sóng này tuôn theo lớp khác, xoắn tít lấy nhau, văng bọt tung toé, trong khi thì giờ của Melos cứ lặng lẽ trôi qua.

Chợt Melos hiểu ra, nếu anh không tự ráng lội qua sông thì chẳng còn cách nào khác.  Ôi trời cao vòi vọi, hãy nhìn xuống mà xem, giờ phút này mãnh lực phi thường của yêu thương và chân thật sẽ vượt qua hết được nước to sóng mạnh!  Nói xong, anh mạnh dạn lao mình xuống nước, vẫy vùng ngụp lặn giữa muôn trùng sóng bạc đang ào tới vây bủa như ngàn đám giao long.  Anh dồn hết sức vào hai tay, cố ngoi mình trên làn nước đục đang chảy xiết.  Phải chăng nhìn thấy một sức lực nhỏ nhoi đang cố sức phấn đấu loạn xạ nhưng dũng mãnh như một con sư tử giữa muôn trùng sóng nước, thần linh cũng đâm ra mủi lòng muốn giúp anh?  Cho nên, quả thực kỳ diệu, mặc dù bị cuốn phăng đi dữ dội, rồi Melos cũng bám chặt được vào một thân cây lớn ở bờ phía bên kia.

Cứ như một con ngựa ướt, Melos lắc mạnh thân mình để rảy bớt nước, rồi lật đật bước đi.  Thực cám ơn trời đất, ta phải mau lên, đừng phí thì giờ!  Mặt trời đã bắt đầu ngả về tây.  Melos thở hào hển, ráng leo lên một ngọn đèo cao.  Vừa bước qua khỏi đỉnh, anh đang thở phào thì bỗng gặp ngay một đám cướp.

-          Đứng lại!

-          Chuyện gì?  Tôi đang gấp, phải tới hoàng cung trước khi tắt nắng, để yên cho tôi đi!

-          Đâu được, có gì để hết lại đây đã!

-          Chả có gì ngoài mỗi cái mạng này, mà nó cũng đã thuộc về tay vua mất rồi!

-          Vậy thì để cái mạng của ngươi lại!

-          Thế ra vua sai các người đến đây phục kích chứ gì?

Bọn cướp không trả lời, đồng loạt vung gậy đánh tới.  Melos nhanh nhẹn lạng người một cái, xông vào tên đứng gần nhất, giật ngay thanh gậy. Anh nghĩ: "Cũng tội nghiệp, nhưng ta đang lo làm việc phải, cứ đành thôi!".  Liền tấn công dữ dội, phút chốc đánh ngã ngay ba tên.  Những tên còn lại hết vía, cắm đầu vụt xuống đèo lủi mất.

Melos cũng lật đật xuống đèo, trong người đã mệt lắm, trời chiều lại nắng chói chang, làm anh mấy lần choáng váng.  Không được, thế này thì chết rồi!  Melos ráng loạng choạng đi thêm được vài bước, nhưng rồi đầu gối khụy xuống, hết đứng nỗi.  Anh nhìn lên trời tức tối, khóc oà.  Chao ơi, sức lực này, đã lội qua giòng nước lũ,  đánh gục ba tên cướp, ráng được đến chừng này!  Chao ơi, Melos con người can đảm, bây giờ kiệt lực nằm xuống, tiếc hận lắm thay!  Người bạn thân yêu của ngươi đó, chả phải tin tưởng vào ngươi mà mất mạng đó sao?  Ngươi thực là tên đại bất tín, đúng như ông vua kia nghĩ!  Toàn thân Melos mất hết cả sức, tuy nghĩ thế nhưng chỉ nằm đó nhúc nhích như con sâu, chẳng tiến tới được chút nào.

Khi cơ thể suy nhược thì tinh thần cũng suy sụp, những ý nghĩ không hay bắt đầu nhen nhúm.  Melos tự nhủ:  Thôi, sao cũng được! Ta chả bao giờ muốn thất hứa, đã cố gắng đến thế này.  Có thần minh chứng giám cho, ta chẳng phải là hạng nuốt lời, đã ráng hết sức mình, chạy cho đến khi hết còn nhúc nhích được.  Ôi, cứ xẻ lồng ngực này ra để thấy cả một trái tim đỏ thắm trong đó, với những giòng máu đầy ắp nỗi tin yêu.  Nhưng không may cho ta,  vào giờ phút quí báu này cả thể xác lẫn tinh thần đều kiệt quệ.  Thế nào ta cũng bị chê cười là đồ phản bạn, cả nhà ta cũng sẽ bị chê cười.  Nhưng đã được nửa đường mà ngã gục thì có khác chi từ đầu chẳng làm chi cả?  Thôi đành vậy, sao cũng được!  Có lẽ số mạng của ta nó như thế!  Seli ơi, tha thứ cho tôi.  Bao giờ bạn cũng tin tưởng tôi, tôi cũng chẳng bao giờ lường gạt bạn.  Chúng mình quả thực là đôi bạn tốt, chả bao giờ có chút gì nghi kỵ lẫn nhau.  Bây giờ chắc bạn đang yên tâm chờ tôi?  Ôi, phải, đợi chờ tôi!  Seli ơi, xin cám ơn bạn đã tin tôi.  Nghĩ đến điều này, tôi không sao đành lòng được.  Trên đời này, có gì quý giá hơn sự tin cậy lẫn nhau giữa bạn bè?  Seli ơi, tôi đã ráng chạy, chẳng mảy may nào có ý lường gạt bạn đâu!  Tin tôi đi, tôi đã vội vã chạy mãi đến được chừng này, đã vượt qua nước , đánh nhau với cướp, ! vượt hết ngọn đèo, lật đật để đến đây.  Chỉ có tôi mới làm được thế.

Nhưng thôi đành vậy, buông tha cho tôi, đừng hy vọng gì thêm nữa!  Sao cũng được cả, tôi đã hoàn toàn thua cuộc, một đứa chẳng ra gì, cứ chê cười nhạo báng tôi đi!  Lão vua kia có nói bên tai tôi, cứ việc đến trễ, tôi mà đến trễ thì sẽ giết con tin và tha cho tôi.  Tôi căm cái ty tiện đó của lão, nhưng bây giờ lại làm đúng y điều lão ta mong, tôi sẽ đến trễ là chuyện chắc!  Lão ta sẽ cho mình là đúng, sẽ chế nhạo thoả thích và thả tôi đi.  Như thế, tôi sẽ phải sống để suốt đời làm một tên phản bội, một loại người nhục nhã nhất trên mặt đất, khổ sở hơn chết bội phần. Seli ơi, tôi cũng sẽ chết thôi.  Hãy cho tôi được cùng chết với nhau.  Chỉ có bạn là người tin tưởng ở tôi thôi. Đó là điều chắc chắn – hay tôi chỉ nghĩ thế để lừa tôi?  Ơ, hay là … tôi cũng nên trở thành một kẻ ác đức để tiếp tục sống?  Căn nhà tôi còn đó, ở dưới làng, có thêm cả đàn cừu nữa.  Vợ chồng cô em gái, chả lẽ xô đuổi tôi?  Chính nghĩa, tin cậy, yêu thương, là gì?  Tất cả chỉ toàn là những điều vô bổ!  Trên đời này, thiên hạ giết kẻ khác để mình sống, qui luật là thế, chả phải sao?  Ôi, mọi sự mọi việc, nghĩ mà chán.  Đâu còn gì nữa, ta đây đã là một kẻ phản bội xấu xa, cho nên muốn làm gì thì cứ làm, mặc xác cả thiên hạ! Melos nằm ngữa ra, buông thỏng hết chân tay, chìm vào giấc ngủ.

Nhưng tự nhiên có tiếng nước chảy mơ hồ đâu đó.  Melos ngóc đầu lên, nín thở lắng nghe.  Có vẻ đâu từ phía dưới chân.  Anh bò dậy tìm, thì ra có tia nước nhỏ đang nhè nhẹ lách ra từ kẽ đá, nghe như thì thầm những điều gì.  Melos cúi mình sát vào, bụm hai tay hứng đầy, uống cạn.  Bây giờ anh thấy mình có thể thở mạnh được, ngỡ ngàng như vừa qua khỏi một giấc mơ.  Cũng đã bắt đầu bước đi được.

Vậy thì đi!  Trong người bớt mệt thì ít nhiều hy vọng cũng bắt đầu nảy nở.  Đó là hy vọng muốn hoàn thành nhiệm vụ, muốn bảo toàn danh dự bằng cái chết của mình.  Nắng chiều đang chiếu những tia đỏ ối trên những hàng cây, muôn cành lá sáng bừng lên rực rỡ.  Từ đây cho đến khi nắng tắt vẫn còn đủ thì giờ!  Có người đang chờ ta, lặng lẽ, không chút gì nghi ngại! Ta đang được tin cậy, tính mạng ta, nào có sá chi!  Nhưng đừng nghĩ gì thêm đến việc lấy cái chết để đền đáp.  Phải xứng đáng với lòng tin cậy kia, chỉ thế thôi, đó là điều quan trọng nhất vào lúc này.  Nào nhanh lên, Melos ơi!  Ngươi đang được tin cậy đó! Ngươi đang được tin cậy!  Chuyện thì thầm của quỷ ma lúc nãy chỉ là mộng mị, là ác mộng!  Khi cơ thể mệt mỏi thì thường có những cơn mộng dữ như thế, cứ quên đi!  Melos ơi, không có gì hổ thẹn.  Thực ra ngươi là người dũng cảm, đã đứng dậy để chạy tiếp, chẳng phải sao?  Xin cám ơn trời đất đã cho tôi được chết vì chính nghĩa!  Ôi, mặt trời đang lặn xuống, sao nó nhanh đến thế?   Xin đợi cho tôi một chút!  Thân này sinh ra vốn là người chính trực, xin cho hôm nay được chết như một người chính trực lìa đời!

Melos chạy vùn vụt như gió, bất kể phải xô người nọ, hất kẻ kia.  Gặp một tiệc rượu đang chắn ngang giữa đồng, anh chạy xuyên qua luôn, làm cả đám chủ khách kêu trời như bọng.  Anh đá văng một con chó, nhảy vụt luôn qua lạch nước, ba chân bốn cẳng cắm đầu mà chạy, xem chừng còn mau hơn cả tốc độ lặn xuống của mặt trời.  Khi lướt nhanh qua một đám du khách, anh bỗng nghe được tiếng người nào nói:  "Chắc bây giờ ông ấy đang bị treo lên thập giá". Ông ấy!  Trời đất, chính vì ông ấy mà tôi đây đang cố sức chạy nhanh!  Melos ơi, không được để cho ông ấy chết!  Mau lên, không được trễ!  Trên thân thể của Melos đã hầu như không còn mảnh vải nào.  Anh như đứt cả hơi thở, miệng hộc máu tươi hai ba lượt.  Không được trễ!  Chính bây giờ là lúc phải phô ra sức mạnh của yêu thương và chân thật, mau lên, đừng lo chi bộ dạng của mình!  Anh cứ chạy, chạy miết, bỗng thấy được ở đằng xa, ngọn tháp cao của thành phố Syracuse đang lấp loáng phản chiếu ánh chiều.

-          A, ngài Melos!

-          "Ai đó?", Melos vừa chạy vừa hỏi.

-          "Dạ Philostratus, đệ tử của thầy Seli".  Anh thợ trẻ vừa chạy theo Melos vừa la lên:  "Đã trễ rồi, xin đừng chạy nữa, vô ích!  Chẳng còn cách nào cứu được thầy ấy!".

-          Đâu, mặt trời chưa lặn mà!

-          Giờ này thì việc xử hình đang tiến hành, ngài đến trễ rồi!  Thực là đáng tiếc, chỉ trễ có một chút, giá sớm hơn chút xíu!

Melos nghe mà đau như xé ngực, mắt đăm đăm ngó bóng mặt trời đỏ ối:  "Đâu, mặt trời chưa lặn mà.  Chỉ có cách chạy đến thôi!".

-          Xin đừng, đừng chạy!  Chuyện cần bây giờ là phải bảo trọng tính mạng của ngài.  Thầy ấy đã rất tin ở ngài.  Lúc bị lôi đi xử, thầy ấy vẫn thản nhiên.  Nhà vua chế nhạo lắm lần, nhưng thủy chung thầy ấy vẫn bảo Melos nhất định sẽ đến, vẫn rất tin tưởng vào ngài.

-          Vậy thì phải chạy cho mau, ông ấy đã tin thì lại càng phải chạy.  Kịp hay không kịp chả thành vấn đề, tính mạng ra sao chẳng cần lo, tôi phải chạy đến vì những điều lớn lao hơn, đáng sợ hơn cả chuyện mất mạng nữa kia.  Chạy theo tôi mau đi!

-          Ôi chao, ngài mê rồi chăng?  Vậy ngài cứ chạy đi, biết đâu cũng không đến nỗi trễ, ngài cứ chạy đi!

Melos thu hết tàn lực chạy ngay, trên kia mặt trời vẫn chưa lặn.  Đầu óc anh hoàn toàn trống rỗng, chẳng còn hơi sức đâu để suy nghĩ, cứ cắm đầu chạy phăng phăng như bị một ma lực phi thường lôi kéo. Nhưng mặt trời cũng dần dần chìm xuống chân trời, tia nắng le lói cuối cùng đang sửa soạn lịm tắt.  Đúng ngay lúc đó, anh lao vụt vào hiện trường như một cơn lốc:  Melos đến kịp thời!

Anh định la lớn: "Khoan, không được giết, Melos đây!  Melos đúng hẹn, đã về đây!".  Nhưng cổ anh khô đặc lại, giọng đứt hơi nên chẳng ai nghe, quần chúng cũng không để ý tới kẻ vừa chạy đến.  Cây thập giá đã đứng sừng sững chờ sẵn ở đó, Seli đang từ từ bị kéo lên.  Melos xô vẹt đám đông tiến tới, hùng hổ như lúc đã vẫy vùng để thoát ngọn cuồng lưu.  Anh khao hết cả giọng nhưng còn ráng hết sức la lên:  "Các ngươi, có ta đây!  Có giết, thì giết ta đi!  Kẻ đưa người này làm con tin, chính là ta, Melos đây!".

Rồi anh nhảy luôn lên đài xử, dang tay ôm cứng đôi chân của bạn mình. Lập tức, bốn bên quần chúng reo hò vang dội:  Hoan hô!  Tha, tha, tha!  

Seli được tháo xuống ngay.  Melos rưng rưng nước mắt:  "Seli ơi, đấm vào mặt tôi đi, đấm hết sức đi!  Đã có lúc giữa đường tôi mơ thấy điều ác, nếu không đấm vào mặt tôi, tôi không dám ôm bạn được, bạn đánh đi!".  Seli chăm chú nhìn, có vẻ như hiểu hết được mọi sự.  Anh  tống một quả trời giáng vào mặt Melos, chừng đâu khắp cả bốn phía ai cũng nghe được tiếng vang.  Xong xuôi, anh mĩm cười, từ tốn nói:  " Melos ơi, đấm tôi đi!  Đấm thực mạnh như vừa rồi đi!  Trong ba ngày qua, chỉ một lần thôi, nhưng tôi đã nghi ngờ bạn.  Đây là lần đầu tôi nghi bạn.  Nếu không đánh, tôi sẽ không mặt mũi nào mà ôm bạn được!". Melos cho ngay một quả thôi sơn vào mặt ông bạn hiền.  Cả hai đồng thanh nói:  "Thực cám ơn bạn!", rồi vui mừng ôm chặt lấy nhau, khóc oà lên.

Quần chúng thảy đều cảm động, có người bật khóc.  Vua Dyonis đứng sau đám đông lặng lẽ quan sát từ lâu, bỗng nhẹ gật đầu, rồi bước ra cạnh hai người, ngượng ngập mở lời:  "Điều hai ông mong ước đã thành.  Hai ông đã chinh phục được ta, đã xác chứng được rằng lòng tin cậy lẫn nhau không phải là điều huyễn tưởng.  Ta muốn được làm bạn với hai ông.  Cho ta xin được làm một người bạn".

Quần chúng nghe vậy đồng hô to:  "Hoàng thượng vạn tuế, vạn vạn tuế!".  Từ trong đám đông, một cô gái trẻ tiến ra trao cho Melos chiếc áo choàng màu đỏ.  Thấy Melos ngơ ngác, Seli giải thích: "Này Melos, ngươi đang trần truồng như nhộng đó, mau choàng lên đi!  Cô bé xinh xắn này, thấy ngươi trần truồng trước mặt cả thiên hạ, người ta không nỡ, ái ngại giùm cho ngươi đó!"

Melos thấy hơi nóng vụt bốc lên má, mặt đỏ bừng.

(Viết theo một truyền thuyết cổ, và bài thơ của Schiller)

 

Canberra, 2005.12

Dịch theo bản của Chikuma Shobo, Tokyo 1954.

Văn Học Hiện Đại Nhật Bản (Toàn Tập) – Cuốn thứ 49.

Tác giả:           Dazai Osamu

Người dịch:     Văn-Lang Tôn-thất Phương

Cố Hương

Nguyên tác : Kokyoo

Dazai Osamu

Nguyễn Ngọc Duyên dịch

 Mùa hè năm ngoái, sau mười năm xa cách tôi đã trở về thăm lại cố hương. Sau đó tôi tóm tắt những sự việc đã xảy ra vào một truyện ngắn dài bốn mươi mốt trang, đặt tựa đề “Về, đi rồi lại đến” (Kikyorai) xong gửi đến ban biên tập của một tam nguyệt san. Câu chuyện dưới đây xảy ra ngay sau đó. Hai người tôi thường gặp, bác Kita và bác Nakabatake, cùng đến gặp tôi ở một căn nhà nhỏ hẹp, phố Mitaka. Họ báo cho tôi biết rằng ở quê nhà mẹ tôi đang đau nặng. Trong thâm tâm, tôi đã dự đoán rằng thế nào mình sẽ phải nghe tin này trong vòng năm hoặc sáu năm tới, nhưng nay không ngờ nó xảy ra sớm như vậy. Mùa hè năm ngoái, sau gần mười năm và được bác Kita dẫn đi, tôi đã về quê thăm lại căn nhà nơi tôi sinh ra và lớn lên. Khi đó người anh cả vắng mặt nhưng tôi được gặp tất cả mọi người, người anh thứ tên Eiji, người chị dâu, các đứa cháu trai và gái, bà ngoại và mẹ tôi. Mẹ tôi sáu mươi chín tuổi, rất suy yếu vì tuổi già, đi đứng không vững, nhưng tuyệt nhiên không có vẻ gì là mang bệnh. Tôi đinh ninh rằng mẹ tôi sẽ được sống thêm năm, hoặc sáu năm và mơ ước có thể được mười năm. Tôi dự định sẽ viết rất chính xác về lần gặp gỡ đó trong tiểu thuyết mang tựa đề “Về, đi rồi lại đến”, nhưng vì những tình huống đặc biệt, tôi chỉ có thể ở quê chừng ba bốn tiếng đồng hồ mà thôi. Ở khúc cu�! �i câu chuyện, tôi muốn nhìn thêm, và thêm nữa những cảnh sắc ở quê nhà, chỗ này, chốn kia, thật nhiều và thật nhiều. Tuy nhiên tôi chỉ có thể ngó sơ qua thôi. Biết khi nào tôi có thể nhìn lại con sông, ngọn núi ở quê tôi một lần nữa. Có thể khi có một chuyện gì xảy ra đối với mẹ tôi, hoặc do một cơ hội nào khác mà tôi có thì giờ thong thả nhìn hình ảnh ở quê nhà. Nhưng đó là điều mà tôi cảm thấy xót xa và tôi nghĩ tôi đã viết về nỗi niềm và tâm sự đó trong câu chuyện trên. Thật không ngờ! Mới vừa gửi xong bản thảo thì “cơ hội về quê một lần nữa” đã đến.

- Lần này tôi chịu trách nhiệm.

Bác Kita nói vẻ khẩn trương:

- Cậu dẫn vợ con đi.

Mùa hè năm ngoái, Bác Kita chỉ dẫn một mình tôi thôi. Kỳ này tôi, vợ và Sonoko (đứa con gái 16 tháng), tất cả sẽ đi theo bác. Bác Kita và bác Nakabatake thì tôi đã viết khá chi tiết trong chuyện “Về, đi rồi lại đến”. Bác Kita là chủ tiệm may âu phụcở Tokyo còn bác Nakabatake là chủ tiệm vải ở dưới quê và cả hai từ xưa đều là chỗ qua lại thân thiết với gia đình tôi. Từ ngày tôi làm những chuyện bê bối đến nay năm hay sáu lần, à không phải vậy đâu, thật ra những chuyện bê bối đó đã xảy ra rất nhiều lần đếm không hết, tôi đã không thể gặp mặt những người quyến thuộc trong gia đình. Tuy nhiên, hai người này luôn luôn giúp đỡ tôi rất tận tình, không bao giờ tỏ vẻ gì khó chịu. Như là mùa hè năm ngoái, mặc dù biết trước anh cả ở quê nhà sẽ tức giận, bác Kita và bác Nakabatake đã bàn tán và lập kế hoạch cho tôi về thăm sau mười năm. Tôi bao giờ cũng dự tưởng tình huống tệ nhất:

- Nhưng mà, có sao không? Nếu cả nhà chúng tôi bị đuổi khỏi cửa không được vào nhà thì thật là xấu hổ, không thể ngẩng đầu lên được với ai.

Hai người nghiêm nghị bác lời:

- Làm gì có chuyện đó.

- Mùa hè năm ngoái, hai bác thấy thế nào?

Có lẽ tính tôi cẩn thận quá mức như phải gõ xuống mặt cầu khi đi qua cây cầu đá kiên cố:

- Rồi sau đó hai bác có bị anh Monji (tên người anh cả) nói điều gì không? Bác Kita, bác nghĩ sao?

- Chuyện đó thì cái thế của anh cậu là..

Bác Kita suy nghĩ một hồi:

- Cũng vì có sự hiện diện của bà con quyến thuộc, tôi không thể nói là anh cậu hoan nghênh chuyện cậu về. Tuy nhiên vì tôi dẫn cậu đi, tôi nghĩ sẽ không hề hấn gì. Mùa hè năm ngoái khi tôi gặp anh cậu ở Tokyo, anh ấy chỉ hờn mát với tôi một chút thôi, nói tôi là người xấu, chớ không phải là giận hờn gì tôi cả.

- Vậy à? Còn bác Nakabatake, bác có bị anh tôi xài xễ điều gì không?

Bác Nakabatake ngước mặt lên:

- Không. Anh cậu không nói với tôi một câu nào. Từ trước đến nay hễ mỗi khi tôi giúp cậu một điều gì thì sau đó, chắc chắn là anh cậu nói mỉa tôi, nhưng chỉ có chuyện mùa hè năm ngoái thôi thì anh cậu không nói một điều gì với tôi cả.

Tôi hơi an tâm một chút:

- Thế à. Nếu không phiền thì xin hai bác dẫn đi vậy. Không thể nào mà tôi lại không muốn gặp mẹ tôi. Và mùa hè năm ngoái vì không gặp được anh Monji nên lần này tôi rất muốn gặp anh ấy. Được hai bác dẫn đi, tôi rất đội ơn nhưng tôi không biết vợ tôi sẽ nghĩ như thế nào. Đây là lần đầu tiên vợ tôi gặp gia đình bên chồng nên cô ấy sẽ phải lo lắng nhiều thứ như là ăn mặc như thế nào và các thứ khác. Xin phiền bác Kita làm ơn nói giùm vợ tôi một tiếng chớ tôi mà nói thì chắc chắn cô ta sẽ cằn nhằn cho mà coi.

Xong tôi gọi vợ tôi vào phòng. Kết quả ngoài dự đoán. Sau khi bác Kita báo cho vợ tôi biết mẹ tôi đang bệnh nặng và đề nghị nên để mẹ tôi xem mặt Sonoko một lần cuối, vợ tôi liền chấp hai tay xuống chiếu rồi cúi đầu nói:

- Trăm sự xin nhờ bác vậy.

Bác Kita quay sang hỏi tôi:

- Cậu tính lúc nào thì đi?

Tôi trả lời ngày hai mươi bảy. Hôm đó là ngày hai mươi tháng chạp.

Trong vòng một tuần sau, vợ tôi tất bật chuẩn bị. Đứa em gái bên vợ từ quê lên phụ giúp. Có nhiều thứ mới phải mua. Tôi gần như phá sản. Chỉ có Sonoko là không biết chuyện gì xảy ra, đi chập chững loanh quanh trong nhà.

Chín giờ sáng ngày hai mươi bảy, con tàu tốc hành xuất phát từ ga Ueno. Tàu chật ních. Không một chỗ ngồi, chúng tôi đứng gần năm tiếng đồng hồ cho đến ga Haranomachi.

Bác Kita cho tôi xem bức điện tín: “Mẹ càng ngày càng yếu. Dazai hãy về gấp. Nakabatake”. Đây là điện tín mà bác Nakabatake, về quê sớm hơn chúng tôi một chút, gửi lên bác Kita sáng hôm nay.

Tám giờ sáng ngày hôm sau, đến Aomori, chúng tôi liền đổi tàu sang đường Oo-u, rồi đến ga Kawabe lại đổi sang tàu đi Goshogawara. Từ nơi đây, hai bên đường tàu sắt là những vườn táo. Năm nay có vẻ táo được mùa.

- Ồ! Đẹp quá.

Với đôi mắt đỏ hoe vì thiếu ngủ, vợ tôi chăm chú nhìn phong cảnh chung quanh:

- Em từng mong ước được thấy những cây táo đang kết trái như thế này.

Những trái táo gần sát con tàu, với tay là có thể hái được, ửng đỏ trong ánh sáng ban mai.

Khoảng mười một giờ, chúng tôi đến ga Goshogawara. Con gái bác Nakabatake đã đứng sẵn chờ chúng tôi. Nhà bác nằm ngay trong khu phố Goshogawara. Chúng tôi bàn tính xin tạm nghỉ ở nhà bác một chút, để vợ con thay quần áo rồi từ đó về quê ở làng Kanagi. Quê tôi, làng Kanagi, nằm ở phía bắc nhà ga Goshogawara, đi chuyến tàu đường Tsugaru thì phải mất thêm bốn mươi phút nữa.

Chúng tôi vừa dùng cơm trưa tại nhà bác Nakabatake, vừa nghe bác kể chi tiết về sức khỏe của mẹ tôi. Bệnh tình có vẻ rất nguy ngập. Bác Nakabatake ngược lại cám ơn chúng tôi trước:

- Thật là quí hóa! Tôi lúc nào đứng ngồi cũng không yên, không biết lúc nào hai ông đến. Thôi, bây giờ tôi đã yên tâm rồi. Mẹ anh không nói ra nhưng có lẽ cụ mong chờ anh lắm đấy.

Tôi chạnh nhớ câu chuyện trong kinh thánh “Đứa con phóng đãng trở về nhà”.

Dùng cơm xong, khi bắt đầu khởi hành, bác Kita nói, giọng khá mạnh:

- Cậu không cần mang hành lý. Anh cậu chưa chắc đã dung tha cho cậu mà cậu định mang hành lý đến. Cậu có nghĩ như vậy không?

- Dạ vâng.

Tôi gửi tất cả hành lý tại nhà bác Nakabatake vì bác Kita đã cảnh cáo rằng chưa biết tôi có được phép gặp người bệnh hay không.

Chúng tôi chỉ mang theo cho bé Sonoko rồi bước lên tàu hỏa đi Kanagi. Bác Nakabatake cũng đi theo.

Dần dần, một nỗi buồn xâm chiếm tâm hồn tôi. Chung quanh tôi, ai ai cũng là người tốt bụng, không một ai là kẻ đê tiện. Chỉ một mình tôi, khi xưa làm những chuyện bê bối mà bây giờ cũng không đủ khôn ngoan, mang tiếng xấu với đời, là một nhà văn nghèo, sống bữa đói bữa no. Vì tôi cho nên mới có bầu không khí ngột ngạt như thế này.

Vợ tôi ngắm nhìn cánh đồng Tsugara trải lướt qua ngoài khung cửa:

- Nơi đây phong cảnh đẹp nhỉ. Cũng sáng sủa đấy chứ.

- Thật vậy à?

Những cánh đồng sau cơn gặt, trơ trụi không còn một cọng lúa, nhạt màu trong ánh nắng sáng mùa đông.

- Anh không thấy đẹp lắm.

Lúc đó tôi không cảm thấy tự hào về quê mình. Chỉ thấy đớn đau vô cùng. Mùa hè năm ngoái tôi không có cảm giác như thế. Tôi vui mừng ngắm nhìn cảnh vật sau mười năm xa cách.

- Đó là núi Iwaki. Giống núi Phú Sĩ nên người ta gọi là núi Tsugaru Fuji.

Vừa cười gượng, tôi vừa giải thích cho vợ tôi một cách thiếu nhiệt tình:

- Rặng núi thấp nơi đây gọi là núi Bonju, còn núi ở đằng kia là núi Mahage.

Đúng là những giải thích lấy lệ nửa vời cốt làm để cho xong chuyện.

Tôi nhớ lại một vở kịch rất hay trong đó người tài tử tự hào nói, “Đây là nơi ta sinh thành, đi ba bốn khu phố nữa là…“. Phía bên kia bờ ruộng, có một căn nhà mái đỏ.

- Đây là..

Tôi định nói là nhà tôi nhưng phải sửa lại “nhà của người anh”.

Tuy nhiên, đó là mái nhà của một ngôi chùa. Nhà tôi ở phía bên mặt.

- Sai rồi, không phải vậy, nhà mình ở bên mặt, hơi to một chút.

Tôi sai nhiều quá.

Đến ga Kanagi thì thấy đứa cháu gái và một thiếu nữ trẻ đẹp đang chờ. Vợ tôi hỏi nhỏ:

- Cô ấy là ai vậy?

- Người giúp việc chớ gì. Mình không cần chào hỏi.

Mùa hè năm ngoái, tôi gặp người thiếu nữ cùng lứa tuổi với cô này, dáng thanh lịch, tôi tưởng cô ta là trưởng nữ của người anh nên cúi đầu chào hỏi rất trịnh trọng. Dè đâu cô chỉ là người giúp việc nên khi ấy rất sượng. Kỳ này tôi cẩn thận hơn nên mới nói như vậy.

Đứa bé gái là con thứ của người anh mà tôi đã gặp năm ngoái, năm nay được tám tuổi. Tôi gọi “Shigechan” thì bé Shige nhoẻn miệng cười. Tôi cảm thấy hơi yên tâm và nhẹ người vì chỉ có đứa bé này là không biết quá khứ của tôi.

Tôi bước vô nhà. Bác Nakabatake và bác Kita liền lên gác gặp anh tôi. Tôi dẫn vợ con đến Phật đàn, chắp tay khấn vái rồi sau đó vào ngồi một góc trong một

căn phòng gọi là phòng ” Thường Cư “, chỉ dành cho những người trong gia tộc, bà con hoặc khách rất thân. Hai đứa cháu gái, con của người anh cả và anh thứ, mỉm cười chào chúng tôi. Được người giúp việc dìu đi, bà ngoại tôi cũng đến thăm. Bà đã tám mươi sáu tuổi, hoàn toàn lảng tai nhưng khỏe. Vợ tôi ép Sonoko cúi đầu chào bà nhưng nó chẳng nghe lời, đi lẩn quẩn trong phòng làm bà con sợ nó té bất tử.

Tôi thấy anh tôi từ trên gác đi xuống. Rồi đi thẳng vào phòng bên cạnh. Nước da xanh xao, người ốm, dáng lo âu. Ở phòng kế bên có khách đến thăm mẹ tôi bệnh. Sau khi nói chuyện với người khách một chập, đợi khách về, anh tôi đi vào phòng “Thường Cư”. Tôi cúi đầu chào, hai tay để trên sàn chiếu:

- À.

Rồi nghiêm trang hơn tôi chào:

- Xin lỗi đã làm phiền anh nhiều chuyện.

Tôi bảo vợ tôi:

- Anh Moji đây.

Không chờ, anh tôi liền hướng về phía vợ tôi cúi đầu chào trước. Tôi hết sức lo lắng. Chào xong, anh tôi đi thẳng lên gác.

Như vậy là như thế nào? Chuyện gì đã xảy ra? Tôi cảm thấy như mình bị đối xử tệ. Ông anh này chỉ khi nào không vui trong bụng mới làm mặt lạnh lùng, trịnh trọng cúi đầu chào mà thôi. Bác Kita và bác Nakabatake cho đến bây giờ vẫn ở trên gác chưa xuống. Bác Kita đã thất bại chăng? Đột nhiên tôi cảm thấy bồn chồn lo lắng, tim đập mạnh. Từ phòng kế bên, đứa cháu gái bước ra, vừa cười vừa nói:

- Dạ xin mời.

Tôi thở phào nhẹ nhõm, đứng dậy. Tôi có thể gặp mẹ tôi đây. Tôi được phép gặp mẹ tôi, không một điều gì đặc biệt khó khăn. Chỉ có vậy thôi. Tôi đã hơi lo âu thái quá. Vừa đi trên hành lang, cháu vừa nói cho chúng tôi biết:

- Từ hai ba bữa nay bà mong chờ gia đình chú. Bà mong chú về lắm đấy.

Mẹ tôi nằm nghỉ ở góc một căn phòng rộng mười chiếu. Trông ốm yếu như cọng cỏ khô héo trên chiếc giường lớn. Tuy nhiên mẹ tôi rất tỉnh táo:

- Con về đây mẹ rất mừng.

Đang cúi đầu chào mẹ tôi trong lần gặp gỡ đầu tiên, vợ tôi ngẩng đầu lên rồi gật đầu cho mẹ tôi thấy. Tôi ẵm bé Sonoko lên, dụi bàn tay nhỏ bé của nó vào bàn tay khẳng khiu của mẹ tôi thì mẹ tôi run rẩy nắm chặt lấy tay nó. Ngoại tôi đang đứng ở đầu giường, mỉm cười lau nước mắt.

Trong phòng bệnh, ngoài bà ngoại tôi còn có nhiều người khác như hai cô y tá, người chị cả, đứa cháu gái, con người anh thứ và các dì mợ tôi. Sau đó, chúng tôi vào phòng chờ đợi, rộng chừng sáu chiếu, để chào hỏi mọi người. Nhiều người nói Shuji (tên thật của tôi) trông không thay đổi chút nào. Hơi mập một chút nhưng ngược lại trông trẻ hơn. Quay quần quanh lò sưởi, mọi người bắt đầu trò chuyện nho nhỏ, làm bầu không khí từ từ bớt căng thẳng.

- Kỳ này gia đình chúthong thả ở lại đây chứ?

- Tôi không biết tính như thế nào. Chừng hai ba tiếng đồng hồ có lẽ tôi phải xin kiếu bà con như hè năm ngoái. Bác Kita nói như vậy cũng được. Tôi định bụng sẽ làm theo tất cả những lời chỉ bảo của bác.

- Mẹ chú bệnh nặng thế mà chú có thể bỏ về sao?

- Vậy thì … để tôi bàn tính với bác Kita vậy.

- Chuyện gì chú cũng phải hỏi bác Kita sao?

- Không phải vậy nhưng vì bác Kita đã cưu mang tôi từ xưa đến nay rất nhiều.

- Vậy à. Nhưng mà, chẳng lẽ bác Kita lại …

- Không, không phải vậy đâu. Tôi định bàn tính với bác Kita thôi. Nếu tôi theo lời bác Kita thì sẽ không có chuyện gì trục trặc đâu. Bác Kita đang nói chuyện với anh tôi trên gác, nên tôi không biết có chuyện gì khó xử hay không. Tôi ngại vì chúng tôi đã đến đây mà không có phép…

- Hơi đâu mà chú lo những chuyện phép với tắc. Anh Eiji (tên người anh thứ) gửi thư tốc đạt bảo chú về gấp kia mà, có phải vậy không?

- Bác nhận lúc nào vậy? Chúng tôi chưa nhận được.

- Vừa nhận được thư thì chúng tôi đi liền và mới đến đây thôi…

- Xui thật. Có lẽ thư đến sau khi chúng tôi đã đi. Bậy thật, làm như là bác Kita bày vẽ, đạo diễn.

Tôi nghĩ rằng tôi đã hiểu đầu đuôi mọi câu chuyện. Số xui xẻo .

- Gì mà xui với xẻo. Mẹ chú bệnh thì chú đến sớm ngày nào hay ngày nấy, không phải vậy sao?

Mặc cho những người chung quanh an ủi, tôi vẫn thấy nản lòng. Tôi thấy tội nghiệp cho bác Kita quá, bỏ cả công ăn việc làm và tốn công tốn của, dẫn tôi về quê. Bác đã báo cho chúng tôi biết đúng lúc. Tôi cũng hiểu các anh tôi đã buồn phiền ra sao. Thật không may chút nào.

Người con gái trẻ tuổi đón tôi ở nhà ga lúc nãy, bước vào phòng, tủm tỉm cười và cúi đầu chào. Tôi lại thất bại nữa. Lần này là do quá thận trọng. Cháu không phải là người giúp việc. Cháu là đứa con gái đầu lòng của chị tôi. Tôi biết khi cháu còn là một đứa gái nhỏ bé, đen đúa. Bây giờ thì hoàn toàn thay da đổi xác, cao ráo, trông khá thanh lịch.

- Cháu Mitchan đó mà.

Ngoại tôi cười:

- Thấy cháu đẹp như hoa hậu không?

Tôi thành thật đáp lời:

- Dạ, đúng vậy. Cháu rất đẹp, nước da trắng trẻo.

Mọi người cười vui vẻ. Tôi cảm thấy hơi thoải mái. Lúc ấy chợt nhìn vào phòng kế bên, tôi thấy mẹ tôi há miệng một cách mệt nhọc, thở mạnh hai ba cái, đôi vai run run. Rồi giơ cánh tay gầy guộc quờ quạng trong chân không như đuổi ruồi. Gì đây? Nghĩ vậy, tôi đứng lên đi đến gần giường mẹ tôi. Các người khác cũng đến tụ tập bên đầu giường, vẻ mặt lo lắng.

- Thỉnh thoảng bà thấy đau.

Cô y tá nhỏ nhẹ giải thích cho mọi người hiểu rồi luồn tay vào trong mền, liên tục xoa nắn thân thể mẹ tôi. Tôi quì thấp xuống, hỏi mẹ tôi đau chỗ nào. Mẹ tôi chỉ khẽ lắc đầu. Tôi khích lệ:

- Mẹ ơi! Cố lên! Để nhìn Sonoko lớn lên chứ!

Đột nhiên một người dì nắm lấy tay tôi để vào lòng bàn tay mẹ tôi rồi siết chặt lại. Không phải một tay. Tôi dùng cả hai bàn tay để bao bọc và làm ấm bàn tay lạnh lẽo của mẹ tôi. Dì tôi úp mặt trên tấm mền đắp trên người mẹ tôi rồi khóc. Ngoại tôi, cháu Taka (cháu gái người anh thứ) cũng bật khóc. Tôi gắng gượng, mếu máo. Như thế một hồi lâu tôi không chịu đựng được nữa nên lặng lẽ rời mẹ tôi, bước ra hành lang. Đường hành lang dẫn đến một phòng khách bài trí theo kiểu tây phương. Phòng lạnh, vắng tanh. Trên bức tường sơn trắng treo một bức tranh dầu hoa bạch phiến và một bức tranh khác vẽ người phụ nữ khỏa thân. Trên khung thành lò sưởi, lẻ loi một con búp bê gỗ, chạm trổ thô sơ. Trên bộ ghế xa-lông có miếng da beo. Cái bàn, cái ghế đến tấm thảm tất cả không thay đổi, vẫn như xưa. Tôi đi quanh quẩn trong phòng, cố đừng để rơi nước mắt. Tôi nhủ thầm bây giờ mà khóc thì là giả dối, giả dối thật đấy. Lặng lẽ trốn vô phòng khách để khóc một mình, tôi sẽ được mọi người xem như là một người con thật hiếu thảo. Xạo! Không phải là xi-nê rẻ tiền ư? Tôi là cậu Shuji, ba mươi bốn tuổi đời, con người hiền hậu. Thôi, đừng đóng kịch ướt át nữa. Đã từng làm những chuyện ích kỷ, bây giờ mới là người con hiếu thảo à. Dẹp đi! K! hóc là giả dối. Nước mắt là nước mắt cá sấu. Vừa nói với chính tôi như thế, tay để trong túi quần, tôi đi quanh quẩn trong phòng khách. Nhưng bây giờ tôi cảm thấy nghẹn nơi cổ. Tôi bặm miệng lại. Tôi hút thuốc, tôi hỉ mũi, làm đủ mọi cách. Không để một giọt nước mắt rơi xuống đất.

Mặt trời xế bóng. Tôi không trở về phòng bệnh của mẹ tôi mà nằm yên trên ghế xa lông trong phòng khách. Phòng khách này hơi xa, có vẻ không có ai lui tới,

bật nút cũng không có điện. Tôi ở đây một mình trong bóng tối lạnh lẽo. Bác Kita và bác Nakabatake vẫn không xuống. Họ làm gì vậy? Hình như vợ tôi và Sonoko đang ở trong phòng bệnh. Đêm nay, rồi đây chúng tôi sẽ phải làm sao. Theo dự định ban đầu và như ý kiến của bác Kita, sau khi thăm mẹ, chúng tôi sẽ cáo từ rồi đến nhà ngoại tôi ở Goshogawara để ngủ lại một đêm. Nhưng mẹ tôi bệnh nặng như thế này mà tôi rút đi như đã định thì chắc sẽ làm bà con cô bác không vui. Dầu sao chăng nữa, tôi phải gặp bác Kita, nhưng không biết bác đang ở đâu. Hay là việc bàn tính với anh tôi càng lúc càng khó khăn, bác không tìm được giải pháp chăng? Tôi cảm thấy ở đâu cũng không ổn.

Vợ tôi bước vào phòng khách không đèn đuốc:

- Anh à! Cảm lạnh chết.

- Sonoko đang ở đâu?

- Con đang ngủ.

Vợ tôi nói đã cho nó ngủ ở trong phòng chờ đợi bên phòng bệnh.

- Em đắp cho con đủ ấm chứ?

- Dạ, ngoại có mang mền đến cho mình mượn.

- Em thấy bà con tử tế chứ?

- Dạ…

Vợ tôi trả lời vẻ mặt lo âu:

- Rồi chúng ta sẽ ra sao?

- Không biết được.

- Đêm nay mình ngủ đâu?

- Hỏi chuyện đó thì làm sao anh trả lời được. Nhất cử nhất động, mình phải theo chỉ thị của bác Kita mà. Mười năm nay là như vậy. Nếu mình không bàn tính với bác mà nói chuyện thẳng với ông anh thì sẽ lôi thôi lắm thứ chuyện. Tình cảnh bọn mình là như vậy. Em hiểu chứ? Bây giờ anh chả có một cái quyền gì hết. Mang hành lý đến cũng không được.

- Anh nói có vẻ như anh hờn bác Kita vậy đó.

- Nói bậy nào. Bản thân anh, anh hiểu rất rõ hảo tâm của bác Kita. Tuy nhiên vì bác làm trọng tài ở giữa nên giữa anh và ông anh cũng có cái gì khó xử. Mình không thể nào để bác mất mặt được, mà cũng không có ai là người xấu …

Vợ tôi tỏ vẻ hiểu chuyện:

- Anh nói nghe cũng phải. Bác Kita tử tế, sẵn sàng dẫn chúng ta về quê. Nghĩ rằng phụ lòng bác thì không hay nên em dẫn Sonoko về đây. Bây giờ nếu xảy ra chuyện gì làm phiền bác thì chính em đây cũng cảm thấy ái ngại đó.

- Đúng vậy. Mình không thể là bọn vong ơn được. Chỉ có anh, một thứ kỳ đà cản mũi, là không nên có mặt ở đây thôi. Thật là tội nghiệp cho bác Kita. Không ngại đường xá xa xôi dẫn mình đến đây mà không được mình hay ông anh tỏ lòng tri ơn, thì thật là hết chỗ nói. Mình phải làm một cái gì để giữ thể diện cho bác, nhưng không may là ở đây mình không có một ảnh hưởng nào cả. Không khéo thì chỉ gây thêm rắc rối mà thôi. Vậy thì mình chỉ còn cách là ngồi yên rồi xem sao. Em vào phòng thoa nắn chân cho mẹ đi.

Nhưng vợ tôi có vẻ không muốn đi, đứng đầu trong bóng tối. Nếu có ai thấy hai vợ chồng chúng tôi ở nơi tăm tối như vầy thì coi không được. Nghĩ vậy tôi liền ngồi dậy bỏ ra hành lang. Không khí bên ngoài lạnh buốt. Nơi này là cực bắc của đảo Honshu. Bầu trời ban đêm nhìn xuyên qua khung cửa kính, đen như mực, không một ngôi sao. Bỗngnhiên không hiểu sao tôi rất muốn làm việc. Và làm một mạch.

Đứa cháu gái đi tìm chúng tôi. Thấy chúng tôi trong phòng tối, cháu ngạc nhiên kêu lên, giọng trong trẻo:

- Trời ơi! Cô chú đang ở chỗ này mà tìm hoài không thấy. Tới bữa ăn rồi. Mời dì Michoko dùng cơm chung.

Đứa cháu gái này không có vẻ gì giữ khoảng cách đối với chúng tôi. Làm tôi rất tin cậy. Tôi nghĩ mình có thể hỏi ý kiến nó mà không sợ lầm.

Cháu dẫn chúng tôi đến một phòng chánh nằm giữa nhà, có để bàn thờ. Ngồi quay lưng lại bức tường đằng sau phòng là một giáo sư từ Goshogawara (con nuôi của ngoại tôi) đến, rồi bác Kita, bác Nakabatake. Đối diện với họ là chỗ ngồi của người anh cả, anh thứ, tôi và Michiko, cả thảy chỉ có bảy người.

Tôi nói ngay với người anh thứ:

- Thư tốc đạt đã đến trễ.

Anh chỉ gật đầu nhẹ.

Bác Kita có vẻ không vui, mặt tiu nguỷu. Thông thường khi bác ngồi vào bàn tiệc và có rượu là bác vui hẳn lên, nên hôm nay gương mặt buồn xo rõ rệt của bác làm cho tôi tin rằng chắccó điều gì không hay xảy ra đây.

Còn giáo sư ở Goshogawara thì sau khi có chút rượu vào là vui nhộn hẳn lên nên bầu không khí trong phòng tương đối vui vẻ. Tôi đưa tay rót rượu mời anh cả và anh thứ. Tôi không nghĩ đến chuyện tôi được hai người anh tha thứ hay không. Tôi nghĩ suốt đời sẽ không có một lý do nào mà hai anh tôi có thể tha thứ cho tôi. Mà tôi cũng không lạc quan tếu như vậy. Rốt cuộc vấn đề ở đây là tôi có thương mến hai anh tôi hay không. Có lẽ người có tình thương đối với tha nhân là người có hạnh phúc. Nếu tôi thương mến hai anh tôi thì cũng đủ rồi. Chúng ta phải bỏ đi lòng tham lam ích kỷ cá nhân. Tự rót rượu cho mình, uống thật nhiều, tôi tự vấn tự đáp lung tung như vậy.

Tối hôm đó, bác Kita ngủ lại nhà ngoại tôi ở Goshogawara. Ở Kanagi có rất nhiều người đến thăm bệnh nhân nên có lẽ bác Kita ngại, nói phải về Goshogawara ngủ ở đó. Tôi ra bến xe, tiễn bác Kita:

- Cám ơn bác nhiều, bác thật tử tế dẫn chúng tôi về đây.

Tôi thành khẩn cảm tạ bác. Giờ đây tôi cảm thấy lẻ loi khi phải xa bác. Không có ai chỉ dẫn tôi phải làm như thế nào. Tôi hỏi ý:

- Tối hôm nay gia đình chúng tôi ngủ lại ở Kanagi có được không?

- Ừ, chuyện này thì có lẽ được thôi.

Giọng bác hơi lạnh lùng, có lẽ vì tôi tưởng tượng như thế thôi.

- Vậy thì chúng tôi sẽ xin tạm trú ở Kanagi hai hoặc ba đêm. Bác nghĩ như thế trông có trơ trẽn không?

- Hai hay ba đêm là tùy theo bệnh tình của bà. Thôi để ngày may chúng ta bàn tính với nhau bằng điện thoại.

- Còn bác Kita tính thế nào?

- Ngày mai tôi về Tokyo.

- Cập rập quá! Hè năm ngoái, bác về gấp nên năm nay thế nào đi chăng nữa tôi cũng sẽ hướng dẫn bác đi tắm suối nước nóng gần Aomori. Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn sàng cả rồi.

- Không được. Bà bệnh nặng thế, đi tắm suối nước nóng coi sao cho được. Thật tình mà nói, tôi không nghĩ bệnh tình bà lại nặng như thế. Thật không ngờ! Còn tiền cậu mua vé tàu hỏa cho tôi, thì sau này tôi sẽ tính toán và hoàn lại. Bác Kita thình lình nói chuyện tiền vé tàu làm tôi chưng hửng:

- Bác đừng đùa. Tôi cũng phải trả tiền vé tàu để bác về. Bác đừng lo chuyện đó.

- Không được. Hãy tính toán sòng phẳng. Về hành lý của cậu gửi ở nhà bác Nakabatake thì sáng sớm tôi sẽ nhờ bác ấy gửi đến nhà ở Kanagi. Thế thì tôi xong việc.

Bác Kita đi nhanh trên con đường tối đen như mực.

- Đây là chỗ đón xe phải không ? Thôi, cậu khỏi tiễn tôi nữa. Thật mà, thôi đi.

Tôi đi nhanh hai ba bước như đuổi theo bác:

- Bác Kita! Anh tôi có nói gì với bác không?

Bác Kita đi chậm lại, giọng ôn tồn:

- Không có. Từ nay trở đi, cậu không cần lo chuyện đó nữa. Đêm nay tôi thấy vui. Thấy ba anh em cậu, cậu Moji, cậu Eiji rồi cậu, ba người con thành đạt ngồi cạnh bên nhau, tôi mừng đến chảy nước mắt. Tôi không cần gì nữa. Đầy đủ rồi. Từ đầu tôi không mong một cắc tiền thưởng cho chuyện này. Cậu chắc hiểu chứ? Tôi chỉ muốn thấy ba anh em cậu ngồi sắp hàng chung với nhau mà thôi. Vui lắm vì xong rồi. À, cậu Shuji ơi, ráng lên làm ăn cho đàng hoàng nhé. Đã đến lúc những người già như chúng tôi rút lui cũng được rồi.

Tiễn bác Kita xong, tôi trở về nhà. Từ bây giờ không thể nhờ vã bác Kita nữa, tôi phải nói chuyện trực tiếp với anh tôi. Nghĩ đến đó, tôi cảm thấy lo và sợ hơn là vui sướng. Rồi không biết tôi sẽ làm thêm những điều bê bối khác để hai anh nổi giận, tôi đâm ra lo lắng vô cùng và cảm thấy mình yếu kém.

Trong nhà tấp nập khách viếng thăm. Để khỏi bị khách bắt gặp, tôi len lén bước vào nhà bếp rồi từ đó đi đến phòng bệnh. Chợt ngó vào phòng nhỏ bên cạnh, kế bên phòng “Thường Cư”, tôi thấy anh Eiji ngồi một mình. Như bị một lực gì đẩy tới, tôi lẹ bước đến cạnh anh rồi ngồi xuống. Nhưng thâm tâm thì không khỏi lo ngại. Tôi hỏi:

- Bệnh mẹ nặng đến nỗi không thể chữa trị được à?

Một câu hỏi đường đột, tôi cũng nghĩ không nên hỏi như vậy. Anh Eiji cười gượng, ngó quanh rồi nói:

- Ừ, cậu phải nghĩ lần này là khó khăn đấy. Khi đó, đột nhiên anh cả tôi bước vào. Vẻ hơi lúng túng, anh đi tới đi lui, mở tủ xong lại đóng, rồi ngồi xếp bằng bên cạnh người anh thứ:

- Khổ quá đi thôi! Không biết phải làm sao đây.

Nói xong, anh cúi mặt, đẩy cặp kính lên trán rồi lấy tay dụi mắt. Không biết lúc nào người chị cả đã đến ngồi sau lưng tôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét