Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2013

Chuyen kho tin nhung co that ( P3).html

Chuyen kho tin nhung co that ( P3).html

Chuyện khó tin nhưng có thật

Sưu tầm từ báo An ninh thế giới cuối tháng

Mục lục:

53.Con ơi, ba muốn nhận con

54.Tôi phải làm gì bây giờ…

55.Câu chuyện đời tôi

56.Câu chuyện cuộc đời

57.Viết tiếp câu chuyện cuộc đời

58.Tôi có nên cho cháu nhận cha không?

59.Câu chuyện thứ 79: Tôi thấy mình thật hèn hạ

60.Câu chuyện thứ 80: Xin hãy tha thứ cho tôi

61.Câu chuyện thứ 81: Cháu chỉ muốn được chia sẻ

62.Câu chuyện thứ 82:Chúng tôi đã tìm được nhau sau 20 năm lưu lạc

63.Câu chuyện thứ 83: Ước gì tôi có thể tha thứ được cho cha tôi

64.Câu chuyện thứ 84: Cầu xin con hãy tha thứ cho bố

65.Câu chuyện thứ 85: Thư gửi mẹ

66.Câu chuyện thứ 86: Với tôi hạnh phúc là điều có thật

67.Câu chuyện thứ 87: Cuộc đời vẫn còn nhiều phép màu

68. Câu chuyện thứ 88: Cầu cho linh hồn em được thanh thản

69.Câu chuyện thứ 89: Tôi đã tìm lại được các con của mình

70.Câu chuyện thứ 90: Nguyện cầu hạnh phúc mãi mãi

71.Tôi đã tha thứ cho cô ấy


53.Con ơi, ba muốn nhận con

Tôi, một người đàn ông xa vợ lâu ngày không thể cưỡng lại được sức hút từ một người đàn bà còn trẻ. Tôi ôm ghì lấy N và hỏi: “Tại sao em không có con với chồng em mà lại xin tôi”. Người phụ nữ dường như chỉ chờ có thế, cô ôm riết lấy tôi, nước mắt giàn giụa: “Xin anh đừng hỏi nữa, hãy cứu lấy cuộc đời của em bằng cách cho em một đứa con”.

Kính thưa các anh, các chị trong BBT!

Câu chuyện của tôi xảy ra hơn 30 năm trước. Ngày đó, tôi là cán bộ ngành Ngân hàng tập kết ra Bắc, cơ quan tôi đóng trên địa bàn huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Do chiến tranh ác liệt, cơ quan chúng tôi dựng những chiếc lán đơn sơ gọi là nhà tập thể, nhà tranh vách nứa bên cạnh hầm trú ẩn. Mỗi lần có kẻng báo động là chúng tôi lại rời nhà chạy xuống hầm. Tôi sống độc thân.

Hàng xóm của tôi là một đôi vợ chồng trẻ. Nói là trẻ vậy thôi chứ người chồng đi lính chiến đấu ở chiến trường K rồi bị thương trở về công tác ở Huyện đội cũng đã ngoài 30. Người vợ tên N, trạc 25-26 tuổi, trông xinh xắn và phúc hậu. Khổ một nỗi, hai vợ chồng nghe đâu cưới nhau gần chục năm nay rồi nhưng chưa có con. Hình như do người chồng đi bộ đội bị ảnh hưởng chất độc gì đó nên việc có con khó khăn.

Trong khu tập thể ai cũng quan tâm, có thuốc gì ai mách để chữa đẻ đều mang về cho hai vợ chồng. Có thầy thuốc nào hay cũng chỉ chỗ cho hai vợ chồng tới bắt mạch bốc thuốc. Chiến tranh, cuộc sống thiếu thốn cực khổ nên hai vợ chồng cũng không có điều kiện để đi bệnh viện thăm khám.

Một buổi tối, kẻng báo động máy bay địch ném bom vang lên dồn dập. Tôi chạy nhanh xuống hầm. N cũng chạy theo sang hầm trú ẩn của tôi. Tôi nhớ như in khoảnh khắc lúc đó. Ở phía bên ngoài cửa hầm, máy bay gầm rít, pháo sáng rực trời, N ngồi trước mặt tôi, gương mặt cúi gằm lí nhí: “Chồng em đi vắng, em sợ quá, chạy sang đây nấp cùng anh”. Tôi chưa kịp nói gì, bỗng nhiên cô ta quỳ xuống lạy tôi 3 lạy rồi nói như khóc. “Anh ơi, xin anh hãy thương em. Xin anh hãy cho em một đứa con”.

Tôi tưởng như mình nghe nhầm. Lời thì thầm van lơn của người phụ nữ vang lên bên tai tôi như vọng đến từ một cõi xa thẳm nào đó. Tôi lập cập đỡ N dậy, đôi tay tôi lóng ngóng, cả người tôi đờ đẫn, bản thân không điều khiển nổi mình nữa. Xa vợ lâu ngày, thiếu hơi đàn bà, nên khi đụng chạm vào da thịt của phụ nữ, người tôi như lên cơn sốt, đầu óc mụ mị. Tuy nhiên, lý trí và bản lĩnh của một người đàn ông từng trải tôi đỡ cô ấy dậy, động viên N đừng quá xúc động và đợi cho bên ngoài bình yên trở lại, tôi dìu N lên và đưa cô ấy về nhà. Tôi đã khuyên N đừng nghĩ quẩn, cố gắng chữa trị và có con với chồng mình.

Đêm đó và cả ngày hôm sau nữa, tôi mất ngủ. Người như không trọng lượng. Có lẽ tôi đã bị tác động ghê gớm bởi lời cầu xin của N. Bao nhiêu năm xa vợ và xa 2 cô con gái mới hơn 5 tuổi, bản năng đàn ông trong tôi đã ngủ yên, đã bị đè nén xuống sâu thẳm tận cùng, để lo công việc, lo cho cuộc chiến tranh chưa đến hồi kết thúc. Tôi đã sống rất yên ổn, vậy mà chỉ trong một khoảnh khắc, người phụ nữ hàng xóm ấy đã đánh thức chúng dậy, đã làm đảo lộn con người tôi. Đêm ấy, tôi không ngủ được bởi nhớ vợ con, bởi cồn cào một nỗi thèm khát da thịt đàn bà.

Định mệnh là thứ khó cưỡng, là cái gì đó nằm ngoài ý thức và lý trí của mình, nó ập đến vào một ngày nào đó như số phận vốn phải thế. Mấy hôm sau, cũng một đêm tránh bom ở hầm trú ẩn, N lại chạy sang hầm của tôi, cô quỳ xuống dưới chân tôi, hổn hển, tha thiết van xin: “Anh ơi, thương em với, cho em xin anh một đứa con”.

Tôi, một người đàn ông xa vợ lâu ngày không thể cưỡng lại được sức hút từ một người đàn bà còn trẻ. Tôi ôm ghì lấy N và hỏi: “Tại sao em không có con với chồng em mà lại xin tôi”. Người phụ nữ dường như chỉ chờ có thế, cô ôm riết lấy tôi, nước mắt giàn giụa: “Xin anh đừng hỏi nữa, hãy cứu lấy cuộc đời của em bằng cách cho em một đứa con”.

Vậy là số phận đã run rủi đẩy người phụ nữ ấy đến bên tôi trong một hoàn cảnh éo le. Tôi đã làm tình với người đàn bà tội nghiệp ấy ngay dưới nền đất ẩm của căn hầm chật chội. Một lần, hai lần và nhiều hơn thế nữa. Đủ cho đến khi N có dấu hiệu thai nghén, cái bụng nhủm lên trong gương mặt rạng ngời, nụ cười viên mãn hạnh phúc.

Ngay sau đó, vợ chồng N chuyển về quê sinh sống gần nhà ông bà nội để tiện chăm sóc thai nghén sinh nở, vì đây là lần đầu họ có con. Tôi cũng hiểu rằng N tránh mặt tôi bởi điều cô ấy mong muốn nay đã thành hiện thực, cô ấy cần phải rời khỏi tôi để bảo toàn hạnh phúc. Không biết tôi có yêu N không nhưng rõ ràng tôi đã rất thương cô ấy, với lại trong sâu thẳm, cô ấy đang mang trong mình giọt máu của tôi, làm sao tôi không khắc khoải và day dứt khi xa cách. Nhưng lý trí của tôi nhủ rằng mục đích của N khi đến với tôi là để có một đứa con, đạt được mục đích, cô ấy chuyển đi là đương nhiên.

Chiến tranh kết thúc sau đó một năm. Tôi về lại miền Nam gặp vợ và các con. Ký ức về N và những ngày tháng nơi sơ tán giờ chỉ còn là một vệt nhớ mơ hồ. Cuộc sống bao nỗi toan lo cứ thế cuốn tôi đi trong dòng chảy gấp gáp. Vợ chồng tôi có thêm 3 đứa con nữa. Tôi là con trai trưởng của cả một dòng họ, bởi vậy hai vợ chồng cố đẻ cho được một mụn con trai nối dõi tông đường. Nhưng càng cố, lại chỉ toàn con gái.

Cả dòng họ, cả ông bà nội ngoại đều sốt ruột, mong mỏi. Cho đến khi vợ tôi không còn khả năng sinh nở nữa, cả dòng họ tôi khuyên tôi giấu biệt vợ con nên “ăn ra” với người đàn bà quá lứa lỡ thì nào đó để kiếm chút con trai. Ông bà nội còn nói xa nói gần những năm tháng tập kết ra Bắc, nếu tôi có đứa con rơi con vãi nào thì tìm lại, được thằng con trai thì kiếm nó về.

Tôi lắc đầu chôn kín câu chuyện năm xưa của mình. Với lại, cương vị công tác của tôi không cho phép tôi làm điều gì sai phạm và khuất tất. Năm tháng cứ thế trôi qua, cho đến lúc tôi nghỉ hưu. Lúc này mọi ràng buộc về danh vọng đã kết thúc, tôi mới nghĩ đến chuyện đi tìm N. Tôi đã về Vĩnh Linh, Quảng Trị không biết bao nhiêu lần trong quãng 10 năm trời để lần tìm địa chỉ của N. Không một ai biết họ ở đâu, mà ngày xưa tôi cũng đâu có hỏi quê cô ấy ở đâu mà tìm. Cứ thế tôi trở đi trở lại không biết bao nhiêu lần với một nỗi hy vọng mơ hồ.

Cuộc đời thật là bao nỗi trái khoáy trớ trêu. Lần gần đây nhất tôi trở lại Vĩnh Linh, trên chuyến xe đường dài từ Sài Gòn ra Quảng Trị, tôi ngồi cùng một hành khách tên T. Cậu T là chủ tịch xã X ở huyện Vĩnh Linh.

Gặp được người nơi mảnh đất tôi cần đến, thế là tôi dốc bầu tâm sự kể cho T nghe câu chuyện suốt mấy năm nay tôi đi tìm một cặp vợ chồng nhà hàng xóm trong những năm tôi tập kết ở Vĩnh Linh.

Ông trời thật khéo run rủi, cậu T reo lên khi tôi nói đúng tên mẹ và cha của mình. T quả quyết, người mà tôi cần tìm chính là cha mẹ T, và T là đứa con trai độc nhất của họ. Đến Quảng Trị, T nhiệt tình hăng hái bắt xe ôm đưa tôi về nhà của cậu ấy. Khi nhìn thấy N, tôi không tin vào mắt mình nữa, đây đúng là N rồi, hơn 30 năm nay, tôi không thể nào quên được đôi mắt của N, dù tuổi tác đã xoá mờ đi dấu vết trẻ trung thời son trẻ, song đôi mắt thì vẫn vậy, đầy nước và đen thẳm, với ánh nhìn cầu xin trong cái đêm tranh tối tranh sáng dưới hầm trú ẩn.

N nhận ra tôi ngay, bà ấy không thể không nhận ra tôi, cái người đàn ông đã từng là hàng xóm của bà, người đã để một dấu ấn quan trọng trong cuộc đời bà là cho bà một đứa con để bà trọn vẹn hạnh phúc trong cuộc đời. Gặp nhau, N òa lên khóc, nước mắt vỡ tràn, ký ức cuộn sóng quay về. Chồng N cũng rất xúc động khi gặp lại tôi, ông tiếp đãi tôi hết sức nhiệt tình và mến khách.

Tôi ở lại chơi với vợ chồng N một đêm hai ngày. Dịp ấy đúng rằm tháng 6. T kéo tôi đi lễ rằm, cúng họ liên miên suốt cả hai ngày ấy. T nói với tôi: “Bác ơi, cha mẹ cháu chỉ có cháu là con độc nhất, lại là con trai, tộc trưởng nên cha mẹ cháu cứ bắt vợ chồng cháu phải đẻ thật nhiều để ông bà nuôi hộ. Bác bảo bây giờ tiêu chuẩn chỉ có hai, cháu lại có hai thằng cu rồi, thế mà mẹ cháu vẫn bắt vợ chồng cháu phải đẻ nữa.

Cương vị của cháu bây giờ là chủ tịch xã, đẻ nữa nói ai nghe. Bác là bạn năm xưa của cha mẹ cháu, bác phải góp ý cho mẹ cháu giúp cháu đấy nhé”. T nói rồi cười vang. Tôi đã suýt rơi nước mắt khi nhìn thấy con trai tôi giống tôi như đúc ngày còn trẻ. Gương mặt mịn màng rám nắng, thân hình vạm vỡ khoẻ mạnh, vầng trán cao, đôi mắt sáng, mạnh mẽ đầy nghị lực. T đúng là giọt máu mà tôi đã trao cho người phụ nữ ấy trong căn hầm trú ẩn.

Hai ngày hôm ấy, tôi đã tìm cách gần N nhưng bà ấy luôn tránh nói chuyện riêng với tôi, hình như N không muốn khơi gợi lại tất cả. Khi biết tôi có 5 cô con gái, không có con trai, tôi lại là con trai trưởng trong gia đình, tôi nhìn thấy sắc mặt N tối sầm lại. Một nỗi lo lắng ập xuống, làm cho N như già thêm mấy tuổi.

Từ đấy, N càng tránh mặt tôi. Lúc chia tay, N dúi cho tôi một mảnh giấy nhỏ rồi nhường cho cha con T tiễn tôi. Đến lúc lên xe, về lại khách sạn nghỉ, tôi mới dám mở mảnh giấy ra đọc. N viết nguệch ngoạc mấy chữ: “Gia đình em đội ơn bác rất nhiều. Em mang nợ với bác, kiếp này đời này không trả nổi. Mong bác hiểu cho”.

Từ bấy đến nay, tôi nhắm mắt, mở mắt, lúc ăn, lúc ngủ, lúc thức, tôi đều thấy hình ảnh của T, cậu con trai giờ đã ngoài 30 tuổi mang hình bóng tuổi trẻ năm xưa của tôi. Nhưng éo le thay gia đình N chỉ có duy nhất một đứa con là T, bây giờ T lại là chủ tịch một xã ở Vĩnh Linh, lại đang là tộc trưởng của một dòng họ. Tôi không biết chồng N, cha của T có biết rằng T không phải là đứa con ruột của ông ta hay không.

Tôi không biết năm xưa, kế hoạch xin một đứa con là do mình N nghĩ ra hay có cả sự đồng thuận của chồng N nữa. Tôi cũng là con trai trưởng của một dòng họ, và hiện nay vì tôi không có con trai nên coi như dòng họ đến đời tôi là cụt ngọn. Tôi phải làm gì đây, làm như thế nào đây.

Bao nhiêu câu hỏi giằng xé, đan xen trong trái tim tôi đến ứ nghẹn. Trong thâm tâm tôi, tôi chỉ muốn chạy ào đến và ôm chầm lấy cậu con trai của tôi và nói rằng, con ơi, ba chính là ba đẻ của con đây, con ơi, ba muốn được nhận con lắm lắm, dòng máu của ba phải trở về bên ba, để làm trưởng cho dòng họ Nguyễn nhà mình chứ. Bi kịch thay, tôi biết mình không thể làm vậy được vì hình như tôi không có quyền.

Kính thư: NKP

Lời BBT:

Ông NKP kính mến! Câu chuyện của ông quả là éo le. Giờ đây nhận con cũng khó mà không nhận con thì trong lòng đau đớn và day dứt. Nói đúng ra ông đã trao đứa con ấy cho người phụ nữ kia rồi, giờ đây ông không thể lấy trở lại được. Ông không thể làm đau đớn cả người phụ nữ và chồng của bà ấy. Bởi vì rất có thể người chồng không hay biết vợ mình đã xin một đứa con, biết đâu ông ta vẫn đinh ninh trong suốt chừng ấy năm rằng T là con ruột của ông.

Với lại giờ đây, T lại đang là tộc trưởng, đứng đầu một dòng họ, sự thật đã yên ngủ bao nhiêu năm nay rồi, thì việc nói ra sự thật sẽ làm tổn thương rất nhiều người, gây đau đớn cho rất nhiều người khác.

Chúng tôi hiểu những thiệt thòi khi ông không có con trai nối dõi. Nhưng ông không thể lấy lại món quà mà ông đã trao tặng nó cho người khác. Có lẽ, cách duy nhất trong trường hợp này là im lặng và chấp nhận mọi nỗi éo le. Giả thử như người phụ nữ ấy không xuất hiện trong cuộc đời ông, đứa con ấy không sinh ra trong một đoạn đời ngoắt ngoéo của ông thì sao. Bởi vậy, phải biết chấp nhận và hy sinh thôi ông ạ. Chúng tôi mong rằng ông hãy sớm vượt qua nỗi dằn vặt này và tìm ra được một giải pháp đúng nhất để cho tất cả mọi người đều được hạnh phúc.


54.Tôi phải làm gì bây giờ…

…Lúc đấy tôi chỉ biết khóc vì thương con và cảm thấy có lỗi vì tôi đã không gần gũi con nhiều hơn, và biết bảo vệ con gái bé bỏng của tôi. Bác sỹ khuyên tôi làm covac (sinh non) cho cháu vì cái thai đã quá lớn, không thể nạo được nữa. Tôi rất lúng túng vì khi nhìn trên máy siêu âm, tôi đã thấy hình ảnh em bé mút tay và trái tim đập phập phồng…

Kính thưa các anh, các chị trong Ban biên tập!

Tôi đã giấu kín câu chuyện gia đình bao nhiêu năm nay. Chừng ấy năm, tôi sống trong một nỗi phiền muộn và đau khổ. Chỉ đến lúc này, con gái út của tôi đã sinh được một bé trai kháu khỉnh thì tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Thế nhưng, chỉ là nhẹ gánh lo đi thôi, còn nỗi ưu phiền thì chưa buông tha tôi, tôi không biết phải tiếp tục xử lý chuyện riêng tư của gia đình sao cho đúng, cho phải đạo để sau này không phải ân hận.

Chuyện xảy ra khi con gái út của tôi đang học THCS. Cháu chỉ mới 15 tuổi, mới học lớp 9, thế nhưng không hiểu chuyện gì đã xảy ra với cháu khi tôi thấy cháu biểu hiện bất thường. Cháu quá nhỏ tuổi để hiểu chuyện gì đang xảy ra với cháu. Linh cảm có chuyện chẳng lành, tôi đưa cháu đi khám. Những dự đoán của tôi là chính xác. Cháu đã có thai 6 tháng. Giới tính thai đã hình thành, là một bé gái, tim thai đập rất khỏe.

Tôi bàng hoàng và choáng váng.

Lúc đấy tôi chỉ biết khóc vì thương con và cảm thấy có lỗi vì tôi đã không gần gũi con nhiều hơn, và biết bảo vệ con gái bé bỏng của tôi. Bác sỹ khuyên tôi làm covac (sinh non) cho cháu vì cái thai đã quá lớn, không thể nạo được nữa. Tôi rất lúng túng vì khi nhìn trên máy siêu âm, tôi đã thấy hình ảnh em bé mút tay và trái tim đập phập phồng.

Cần phải nói thêm rằng, hồi đó tôi đã phải đưa cháu vào Bệnh viện Việt Pháp để khám vì rất ngại khi khám ở bệnh viện công lập nhỡ gặp phải người quen. Vì quá choáng váng và sợ hãi, tôi đưa cháu về nhà và cần tĩnh tâm lại, cần thời gian để suy nghĩ thêm.

Tôi đã gặng hỏi cháu chuyện gì xảy ra nhưng cháu ngơ ngác như không hiểu điều gì. Nếu tôi làm dữ thì cháu chỉ biết khóc. Cháu vẫn còn là một đứa trẻ con hoàn toàn, không biết ai nỡ đang tâm làm hại đời cháu. Thương con, sợ tổn thương đến tinh thần của cháu, tôi không tra hỏi cháu nữa mà lẳng lặng tìm cách giải quyết.

Tôi không dám nói gì với chồng tôi, một mình tôi chấp nhận cú sốc này đã là quá đủ. Với lại địa vị của chồng tôi không cho phép gia đình tôi có xì căng đan. Nhưng phải một mình chịu đựng, tôi gần như suy kiệt tinh thần.

Sau rất nhiều đêm nát óc suy nghĩ, tôi quyết định giữ đứa bé trong bụng con gái tôi. Nhưng tìm cách để giữ thật là khó khăn, làm sao để chồng tôi không biết và không phải chứng kiến cảnh này.

Hình như ông trời đã thấu nhận tấm lòng từ thiện của một người mẹ như tôi nên đã sắp đặt cho chồng tôi một chuyến công du ở nước ngoài trong 6 tháng liền. Khi chồng tôi đi nước ngoài là con gái tôi đã mang thai đến tháng thứ 6. Một tháng nữa con gái nghỉ hè, bụng cháu cũng đã bắt đầu lộ, tôi quyết định cho cháu vào Sài Gòn nói dối bà con họ hàng là đưa cháu đi chơi.

Tôi đưa cháu vào Sài Gòn thuê một nhà trọ để ở. Ở cơ quan, tôi nói dối là đi khám bệnh vì mắc phải căn bệnh khó chữa nên xin nghỉ lâu dài. Mọi việc trong gia đình tôi đều phải sắp đặt kỹ lưỡng, làm sao để chồng tôi, cơ quan, hàng xóm và họ hàng không nghi ngờ. Các con trai tôi đều đã trưởng thành và đều là sinh viên đại học nên các cháu tự thu xếp được ở nhà. Tôi nói mẹ đi khám bệnh và điều trị nên mang em gái vào tiện chăm sóc mẹ.

Hai mẹ con tôi đã ở Sài Gòn đúng 3 tháng, khi con gái tôi sinh con được đúng một tháng tôi đưa cháu về nhà và mang theo đứa bé. Tôi đã phải tính rất kỹ về việc giải thích đứa bé đỏ hỏn mà tôi mang về nhà. Vì con gái tôi còn bé, vóc dáng chưa thật hoàn thiện, cháu lại hơi gầy, sinh con xong tôi bắt cháu không được cho con bú và quên việc mình có một đứa con, nên con gái tôi lại người rất nhanh.

Với lại quan trọng nhất là không một ai có mảy may nghi ngờ một gia đình trí thức danh giá như gia đình tôi lại có thể xảy ra chuyện tày trời, rằng đứa con gái bé bỏng của tôi chỉ mới 15 tuổi lại sinh con nên việc tôi nói dối lai lịch nguồn gốc của cháu bé không có gì là khó. Với hàng xóm, láng giềng, tôi nói là của đứa cháu bên nhà họ hàng không may chồng bị tai nạn đột ngột qua đời khi vợ đang có thai tháng thứ 9. Quá sốc, người vợ sinh con, bị băng huyết mà chết để lại đứa nhỏ bơ vơ.

Với họ hàng và gia đình, tôi nói là ai đó để đứa bé trước cửa nhà nên bế cháu vào nuôi, coi như làm phúc làm đức. Với cơ quan, ai biết, thắc mắc thì tôi bảo nuôi hộ cô em ruột vì nhà nó đông con quá. Tóm lại, tất cả mọi người biết tôi vừa có đứa con nuôi và việc đó không có gì khó hiểu.

Sáu tháng sau, chồng tôi trở về nhà và tôi đã giải thích với chồng tôi như đã nói với họ hàng. Rằng ai đó đã để đứa bé trước cửa nhà tôi, và coi như đó là số phận mà ông trời đặt vào gia đình tôi nên tôi đã bế cháu vào nhà nuôi cháu coi như việc phúc đức. Khi chồng tôi về, cô bé đã tròn 3 tháng tuổi, đã biết cười biết lẫy. Chồng tôi nhìn thấy đứa bé và vô tư thốt lên: “Trời ơi, sao giống con Cún nhà mình hồi nhỏ quá vậy! Em bế nó vào nhà mình là đúng, vì người ta đặt trước cửa nhà mình là mong mình cứu giúp. Em xin giấy tờ nhận con nuôi đi rồi khai sinh cho con”. Rồi ông bế đứa bé lên hôn hít nựng nịu như chính giọt máu của mình. Vào giây phút đó, tôi đã phải lén quay đi để giấu giọt nước mắt. Ông trời đã thương tôi nên bao bọc cho tôi câu chuyện đau lòng này.

Con gái của tôi cháu còn quá bé nên sau những sự việc kinh khủng mà cháu đã trải qua, cháu chưa đủ lớn và chưa đủ từng trải để hiểu sâu sắc mọi điều. Cháu cứ vô tư lớn lên, hoàn toàn không có khái niệm cháu đã có một đứa con. Cháu vẫn chơi đùa với con gái của mình và gọi nó bằng em, cứ như thể chuyện của ai đó chứ không phải của nó. Con gái tôi cũng vô tâm tính, với lại cháu quá bé để không bị những hệ lụy đau đớn chi phối. Cháu đã được mẹ lo hộ rồi, và cháu không quan tâm nữa mà chỉ lao vào học hành. Với lại cuộc sống của một đứa trẻ 15 tuổi, vô lo, cháu nhanh chóng quên đi mọi chuyện và trở lại với cuộc sống của một đứa trẻ 15 tuổi với thầy cô giáo, bạn bè và trên hết là việc học. Thế rồi cháu tốt nghiệp loại giỏi và thi được học bổng đi học đại học ở nước ngoài.

Đứa bé lớn lên trong yêu thương và đau khổ của một người bà, người mẹ là tôi. Nhiều lúc tôi gắng để quên đi những gì mình đang chịu đựng. Tôi bàn với chồng tôi cùng các con tôi, họ hàng gia đình tôi rằng vợ chồng tôi nuôi cháu từ khi lọt lòng nên coi cháu như con. Đừng ai để cháu phải biết hoàn cảnh thật của cháu, thân phận con nuôi của cháu. Chúng tôi muốn cháu lớn lên và được nhận toàn bộ tình yêu thương của mọi người trong gia đình như một thành viên chính thức.

Rất may là chồng và các con trai tôi đều tán thành. Con gái tôi đi du học 4 năm, cháu trở về nước và đi làm cho một công ty rất lớn của nước ngoài. Lúc này cháu mới quyết định yêu và lấy chồng. Phải nói rằng con gái của tôi rất có nghị lực và nhiều khi tôi có cảm tưởng cháu là một người quyết đoán và lạnh lùng. Cháu rời bỏ quá khứ mà không một lần ngoái lại. Cháu đối xử với giọt máu của mình như một người em ruột chứ không phải là con ruột.

Cứ như thể đứa bé là của tôi, do tôi quyết định và thuộc về trách nhiệm của tôi chứ không phải của cháu. Cháu không liên quan gì tới câu chuyện trong quá khứ nữa, điều đó đã được mặc định. Cháu xem con mình như một đứa em đúng nghĩa và thỉnh thoảng chơi đùa với nó một cách vô cùng hồn nhiên.

Con gái tôi đã yêu và kết hôn với một người đàn ông hơn cháu 7 tuổi. Cuộc hôn nhân của cháu ơn trời rất hạnh phúc, ít nhất là cho đến lúc này cháu vừa sinh cậu con trai.

Từ khi con gái tôi có gia đình và sinh con trai, trong lòng tôi không phút giây nào yên ổn. Nhìn thấy con gái tôi cưng chiều và yêu thương đứa con hợp pháp của nó bao nhiêu, tôi lại chạnh lòng ứa nước mắt vì thương đứa con gái của nó mà tôi đang nuôi dưỡng.

Nhiều khi tôi ôm cháu vào lòng mà nước mắt chảy ra. Giờ đây con bé đã 10 tuổi rồi, về danh chính ngôn thuận thì nó là con của vợ chồng tôi nhưng chỉ là con nuôi. Điều này ai cũng biết, chỉ mình cháu là không hề hay biết gì, cháu không hay biết số phận bất hạnh của mình cũng như sự thật về nguồn gốc của cháu.

Đã rất nhiều lần tôi cầu mong con gái tôi mở lời và nói với tôi chuyện này, về đứa con đầu lòng mà nó trót sinh ra, rằng nó muốn nhận con và nói thật với chồng nó tất cả câu chuyện không may của quá khứ. Nếu chồng nó thật sự yêu thương nó thì sẽ hiểu và tha thứ tất cả, chấp nhận đứa con riêng của vợ mình. Nhưng nghĩ đến chuyện đó tôi lại sợ biết đâu chồng nó không thể tha thứ cho nó, quá sốc khi biết quá khứ của vợ mình và không chịu đựng nổi mà bỏ vợ.

Nhiều khi tôi cũng muốn tâm sự với chồng tôi tất cả sự thật để mong nhận được từ chồng một sự sẻ chia, thông cảm. Thế nhưng nghĩ đến những hệ lụy sau khi tôi nói ra sự thật thì chồng tôi sẽ chịu đựng như thế nào. Chồng tôi vốn rất yêu và tự hào về con gái của mình, làm sao tôi nỡ phá hủy đi tất cả.

Thật lòng, cuộc sống của gia đình tôi bây giờ đang rất bình yên và hạnh phúc, chỉ riêng tôi là suy nghĩ nhiều và đau khổ nhiều mà thôi. Nhìn đứa cháu, đứa con ruột của con gái tôi ngày ngày vẫn gọi tôi bằng mẹ và mẹ đẻ nó bằng chị, lắm lúc tôi xót xa, ứa nước mắt. Việc con gái tôi cố tình hay vô tình quên đứt chuyện đứa con mang nặng đẻ đau của mình tôi càng nghĩ nhiều hơn, day dứt nhiều hơn.

Tôi phải làm gì bây giờ cho đúng, cho phải đạo. Nhỡ ra sau này khi lớn lên, khi tôi già đi và nhắm mắt xuôi tay, vì một lý do nào đó mà cháu biết mình không phải là con ruột của vợ chồng tôi, chỉ là đứa con bị bỏ rơi do vợ chồng tôi nhận về nuôi thì cháu sẽ buồn khổ và mất mát đến thế nào. Cháu không đáng phải chịu bất hạnh như vậy vì cháu là giọt máu của gia đình tôi. Xin mọi người hãy cho tôi lời khuyên.

Kính thư: VTL. Hà Nội

 

Lời BBT

Cô VTL kính mến!

Trước tiên chúng tôi phải thừa nhận rằng, cô là một người mẹ tuyệt vời, một người phụ nữ hiếm có mà chúng tôi được biết. Những băn khoăn day dứt của cô lẽ ra là của con gái cô mới đúng. Cô đã sống mấy cuộc đời, trong đó có cả cuộc đời của con gái cô để bảo toàn hạnh phúc cho cả gia đình, cho chồng cô, các con cô. Có người mẹ nào, người phụ nữ nào, chịu đựng nhiều hơn thế, hy sinh hơn thế.

Cô VTL ơi, theo thiển ý của chúng tôi, cô nên giữ kín câu chuyện này. Nếu có nói ra sự thật thì nên nói với chồng mình, ông ấy có quyền biết tất cả. Nói ra cô sẽ cảm thấy nhẹ lòng hơn. Còn với con gái mình xin đừng nói gì cả vì nói ra bây giờ, nhất là lúc cô ấy vừa lấy chồng, sinh con thì thật bất lợi, không khéo sẽ gây nên sự đổ vỡ hạnh phúc gia đình… Hãy để con gái cô tự quyết định mọi chuyện, nhận hay không nhận con mình. Câu chuyện còn lại thuộc về con gái cô, cô ấy phải tự biết thời điểm nào thì nên nhận con, và lúc nào thì vẫn giữ bí mật. Bởi đứa con gái mà cô ấy sinh ra trong hoàn cảnh éo le, bất đắc dĩ, cô ấy đã phải nương nhờ đến mẹ đẻ cứu giúp cuộc đời của mình. Con gái cô đã và đang rất cần cô giúp đỡ trong một thời gian dài nữa.


55.Câu chuyện đời tôi

Trước khi lược trích câu chuyện cuộc đời tôi, để gửi lên quý Báo, tôi đã hoàn thành xong cuốn tự truyện 300 trang. Tôi muốn để lại cho các con cháu tôi, để sau này, các cháu hiểu đời của cha, ông chúng gốc gác từ đâu và truân chuyên dâu bể như thế nào.

Kính thưa các anh, các chị trong BBT!

Mọi bi kịch của cuộc đời tôi từ khi người chồng đầu tiên của mẹ tôi là một chiến sỹ cách mạng không trở về. Ông tham gia cách mạng từ năm 1930-1931, bị lưu đày ở Côn Đảo rồi tham gia vượt ngục và hy sinh giữa trùng khơi. Lúc đó mẹ mới có mỗi chị gái tôi, bà sống rất cực bởi những hiềm khích của chính quyền sở tại lúc bấy giờ vì bà là vợ của một Cộng sản, bản thân mẹ tôi cũng tham gia hoạt động cách mạng.

Chồng mất, mẹ tôi khủng hoảng tinh thần, lại thêm chuyện suốt ngày bị theo dõi, mẹ bỏ tổ chức, nản lòng nhắm mắt đi bước nữa với cha tôi, ông là một người thuộc con dòng cháu giống đã thi đỗ Tam trường. Trước khi lấy mẹ tôi, ông đã có 2 vợ và 8 con. Mẹ tôi là người phụ nữ nhan sắc, ông đã để mắt từ lâu. Mẹ về làm vợ cha tôi, sinh thêm 2 anh em. Tôi là con út ít của bà.

Mẹ tôi chấp nhận làm lẽ ông Hội đồng tỉnh, chỉ mong tìm được cuộc sống bình yên, để được bảo lãnh khỏi bị Tây trả thù. Cuộc sống đầm ấm không được bao lâu thì cha tôi bị một tai nạn chết bất đắc kỳ tử khi tôi mới tròn 5 tuổi. Sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, cả đất nước đổi đời. Nhưng do những điều kiện riêng tư và rất đặc thù, cuộc sống của mấy mẹ con tôi lại thêm một lần nữa rơi vào cảnh khốn đốn. Bố mất, gánh nặng gia đình dồn đổ lên vai, mẹ quang gánh chạy chợ buôn bán lặt vặt: “Đòn triêng cán cổ chợ Lường, chợ Gay/ Bán buôn dăm mớ trầu cay/ Cau dăm ba chục, vỏ chay mấy vòng”.

Một thanh niên cường tráng, có nghị lực, có học hành không được thỏa chí tung hoành khi đất nước lâm nguy, khi mà câu cửa miệng: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” làm cho tôi rất buồn nản, bất đắc chí. Người yêu tôi cũng mệt mỏi vì số phận long đong của tôi nên đã sang ngang đi lấy chồng. Buồn tủi và uất chí, tôi phó mặc sống chết, không bao giờ xuống hầm mặc cho bom rơi đạn nổ.

Có một lần tôi suýt chết vì một quả bom sát thương 5 tạ thuốc nổ rơi cách chỗ tôi 15 mét, làm cho kho thóc hợp tác xã và ngôi nhà của mẹ con tôi cạnh đó chỉ còn là một đống nát vụn. Tôi bị sức ép, thổ huyết mũi, mồm, hậu môn. Mẹ tôi ôm tôi khóc, van xin tôi phải sống cho tử tế, cho nên người, bởi nếu tôi có bề gì mẹ sống không nổi.

Sau ba tháng hoàn hồn, tôi xin mẹ 100 đồng và quyết ra đi. Mẹ tôi không hỏi tôi đi đâu, làm gì, bà lần ruột tượng đưa tiền cho tôi và khóc. Mẹ nói: “Ra đi tìm đường ráng sống cho đàng hoàng nghe con. Mẹ chờ con trở về”.

Đó là một đêm tối trời, lạnh lùng, mưa dầm gió bấc cuối năm 1966. Tôi cuốc bộ theo quốc lộ số 7 về điểm Okm trong tiếng bom ầm vang và pháo sáng Mỹ rọi đường. Tôi đi được 42km, mệt quá ngã mình trong căn nhà vô chủ cạnh đường 1A, gần cầu Bùng, bấy giờ vào khoảng 4h sáng. Nằm bắc tay qua trán trằn trọc không biết đi đâu về đâu thì một tốp dân quân khoác súng đi tuần tra vào kiểm tra giấy tờ.

Tôi không có giấy tờ tùy thân nên họ buộc tôi phải trở về nơi xuất phát nếu không muốn bị bắt vì tôi không chứng minh được mục đích đi đâu, thân nhân thế nào nên không thể biết chắc tôi là thường dân, hay biệt kích, gián điệp của Mỹ – quân đội Sài Gòn”.

Sau một tiếng đồng hồ giải thích, khuyên bảo tôi, gần sáng, họ đưa tôi ra đường và bảo tôi cứ ngược Lường theo hành lang đường 7 mà trở về nhà. Tôi vâng dạ, đi được một lúc rồi nép mình suy nghĩ. “Quay 180 độ vào Nam, nhất xanh cỏ, nhì đỏ ngực”. Nếu không được cống hiến mình cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của đất nước, thân làm trai như tôi cảm thấy nhục và buồn lắm. Nghĩ thế, tôi càng quyết tâm ra đi. Đường dưới chân, bạ đâu là nhà, ngã đâu là giường, cứ thế tôi đi mải miết.

Thế rồi số phận đã đẩy tôi đến một quyết định táo bạo thay đổi toàn bộ cuộc đời tôi. Tôi đi đến bờ sông Gianh, trong một đêm tranh tối tranh sáng cùng bộ đội và thanh niên xung phong bị máy bay và tàu chiến từ ngoài biển của giặc oanh kích cấp tập, tôi bị thương khá nặng trong đám hỗn quân đó. Trước khi mê man bất tỉnh, tôi còn đủ tỉnh táo để thực hiện một kế hoạch kinh khủng nhất.

Bên cạnh tôi, có một đồng chí bộ đội bị thương rất nặng, chỉ còn thoi thóp thở, tôi đã lạy đồng chí ấy mấy lạy và bảo: “Đồng chí ơi, đằng nào đồng chí cũng không sống được, trường hợp đồng chí mất tích trong chiến tranh gia đình vẫn được hưởng chế độ liệt sỹ, còn tôi, tôi không có cơ hội nào cả nếu đồng chí không cho tôi xin bộ quần áo bộ đội mà đồng chí đang mặc, tôi sẽ không có cơ hội đi đánh giặc. Tôi muốn vào quân đội, muốn được phục vụ Cách mạng, đồng chí ơi”.

Tôi nói vậy rồi cởi bộ quân phục trên người của đồng chí bộ đội ấy và đổi quần áo của tôi cho anh ta. Làm xong việc ấy tôi mê man luôn. Không biết bao lâu sau nữa thì tôi tỉnh lại. Tôi thấy mình đang nằm trong một lán trại rất nhiều thương binh đang điều trị. Hỏi ra mới biết tôi đang được điều trị tại trại an dưỡng thương binh T V- D T- Hà Nam.

Khi tỉnh lại, các đồng chí ở trại an dưỡng đã đề nghị tôi khai lại lý lịch quân nhân vì trong lúc bị thương, tôi mất hết ba lô giấy tờ. Trong chiến tranh bom đạn hỗn loạn, việc một người lính đi lạc đơn vị, hay mất hết giấy tờ là chuyện có thể hiểu được, thông cảm được. Vì vậy cơ hội ngàn vàng đã đến với tôi.

Tôi khai lại lý lịch quân nhân và được cấp thẻ thương binh tạm thời. Sức khỏe hồi phục tôi xin được khoác ba lô trở về đơn vị cũ. Tôi kịp ghi lại số thẻ quân nhân, đơn vị của người lính kia nên khi khai, tôi khai đúng đơn vị đó và bịa ra là đơn vị tôi đang chiến đấu ở Quảng Trị.

Lần này, tôi trở lại sông Gianh với tư cách là một người lính thực thụ. Trong lòng tôi vừa sung sướng vừa tự hào, lại vừa day dứt khi nghĩ đến số phận của người lính đã bị tôi đánh tráo bộ quân phục. Song niềm tin rằng đồng chí ấy nếu sống thì sẽ tìm lại được đơn vị cũ, nếu chết thì chắc chắn trường hợp mất tích trong chiến tranh thể nào cũng được chế độ là liệt sỹ cho nên tôi cũng an lòng. Với lại, thẻ quân nhân của đồng chí, tôi vẫn để trên túi áo ngực, không thể nào có chuyện gì xấu xảy ra với đồng chí ấy.

Đến Thanh Hóa, tôi gặp một đơn vị bộ đội đang hành quân vào phía Nam, tôi xin gia nhập đoàn quân. Tôi báo cáo với các anh Tiểu đội trưởng, Tiểu đoàn trưởng ở đó rằng đơn vị tôi đang trên đường hành quân vào phía Nam thì tôi bị thương, được đưa ra Bắc chữa trị. Bây giờ tôi bị lạc đơn vị không biết đâu nữa mà tìm. Các anh vui vẻ nói với tôi: “Người lính cầm súng chiến đấu thì đơn vị nào cũng có thể trở thành ngôi nhà của mình. Đồng chí cứ ở đây, để tôi báo cáo lên cấp trên cho phép đồng chí được gia nhập quân số vào đây”.

Vậy là tôi gia nhập vào đoàn quân tiến vào chiến trường Tây Nguyên tháng 4/1967 và đến tháng 8/1967 thì tôi đã có mặt ở chiến trường Tây Nguyên. Vốn sẵn thông minh, nhanh nhẹn, với lòng dũng cảm tôi làm quen với súng đạn rất nhanh và trở thành một người lính chuyên nghiệp thực thụ chiến đấu trên khắp chiến trường Tây Nguyên.

Cứ thế tôi tiến sâu vào chiến trường miền Nam, lập nhiều chiến công xuất sắc. Tôi được đề bạt lên Tiểu đội trưởng, Trung đội trưởng. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, tôi tiếp tục xung phong theo đơn vị tình nguyện đi chiến đấu ở Campuchia. Tôi tiếp tục lăn lộn trên khắp chiến trường lập nhiều chiến công xuất sắc. Năm 1980, tôi bị thương nặng lần thứ hai và được trực thăng đưa về bệnh viên quân đội ở TP Hồ Chí Minh chữa trị.

Ra viện, tôi xin chuyển ngành và được phân công công tác ở phòng tổ chức nhân sự của nhà máy Dệt ở TP Hồ Chí Minh. Trước khi vào làm việc, tôi khoác ba lô ngược đường ra Bắc về thăm nhà.

Vậy là sau 15 năm, kể từ ngày tôi lầm lũi ra đi trong sự bế tắc khủng hoảng, bây giờ tôi mới có dịp trở về nhà, đàng hoàng và ngẩng cao đầu. Suốt 15 năm ấy, nén nỗi nhớ thương mẹ, thương anh, không dám viết thư về nhà, không một dòng tin tức vì ám ảnh trong tôi là một nỗi sợ mơ hồ, sợ chính quyền địa phương ở nhà sẽ lật tẩy lý lịch của tôi. Thật ra tôi cũng đã quá ấu trĩ trong suy nghĩ non nớt vụng dại ấy.

Lẽ ra tôi phải viết thư về cho mẹ, báo cáo với chính quyền tôi đã gia nhập theo những người lính hành quân vào chiến trường rồi, thì không có vấn đề gì cả. Tất cả chỉ là do tâm lý lo sợ của tôi. Chính sự bưng bít giấu giếm của tôi khiến ở nhà mọi người nảy sinh nghi ngờ tôi đi theo địch. Điều đau đớn hơn cả, mẹ tôi không chịu nổi lời thị phi, đời bà cũng đã đau khổ quá nhiều rồi, sống lay lắt được mấy năm mỏi mòn chờ đợi tin của tôi, bà đã sinh bệnh rồi mất.

Khi tôi trở về, mẹ đã mất được 5 năm, quê hương làng xóm đã thay đổi. Xã đứng ra tổ chức một cuộc liên hoan bánh kẹo rất to ở ngay trụ sở UBND xã để đón tôi, ăn mừng tôi, một người con của xã đã vượt lên số phận trở thành một dũng sỹ diệt Mỹ mang lại niềm tự hào cho quê hương, làng xóm nay đã trở về.

Tôi ở lại thăm mộ mẹ, thắp hương cho bố, cho gia tộc, thăm thú họ hàng đúng 1 tháng rồi mới khăn gói trở vào Nam. Tôi làm việc tốt trở thành phó giám đốc, rồi lên giám đốc nhà máy. Tôi luôn ưu ái tất cả những ai là con em thương binh liệt sỹ, hay những quân nhân rời quân ngũ tôi đều nhận vào nhà máy và tạo cho họ một công ăn việc làm. Và cũng là để trả ơn một người lính mà tôi không nhìn rõ mặt đã cho tôi một cơ hội đổi đời.

Một năm sau, tôi lấy vợ sinh con. Vợ tôi là một thợ dệt trong nhà máy. Chúng tôi có hai con, một trai một gái. Khi đã ổn định cuộc sống, chỉ sau đó 3 năm, năm 1983 tôi bắt đầu hành trình tìm lại người lính năm xưa đã cứu cả cuộc đời tôi, người lính mà tôi đã tước đoạt của anh ta một phần sự thật.

Những năm tháng vào sinh ra tử, tôi hiểu một điều rằng, người lính sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc, sẵn sàng chết trong vinh quang chứ không bao giờ chịu đầu hàng địch, không chết nhục và sẽ đau khổ bao nhiêu nếu bị hiểu lầm. Trong thẳm sâu mơ hồ, tôi sợ việc tôi xin bộ quân phục năm xưa của người lính bị thương nặng, rất có thể vì một lý do nào đó, ví như tôi để thẻ quân nhân của anh không cẩn thận trong túi áo ngực, hoặc lỡ ra loạn lạc như vậy anh thì bị thương nặng, rơi mất thì sao, hoặc ti tỉ những lý do nào đó mà người lính ấy mất đi tất cả thì cuộc đời tôi làm sao có thể thanh thản và hạnh phúc được. Vì thế tôi đã quyết tâm lần theo trí nhớ, đi tìm lại người lính ấy, cho dù anh ta có thể đã hy sinh trong khoảnh khắc đó rồi. Nếu vậy, bằng mọi giá tôi cũng sẽ tìm về đến nhà anh, cúi đầu lạy anh trước bàn thờ.                   

Kính thư N.L.Đ

Lời BBT

Bạn đọc yêu quý. Lần đầu tiên, chúng tôi buộc phải in hai kỳ một câu chuyện khó tin nhưng có thật của một độc giả mà câu chuyện cuộc đời của anh đã khiến chúng tôi vô cùng sửng sốt bởi sự ly kỳ trong những tình tiết, cũng như nỗi ám ảnh sức nặng nhân bản, và số phận kỳ lạ của từng nhân vật trong câu chuyện ấy.

Chúng tôi sẽ tiếp tục trở lại phần hai của câu chuyện, những tình tiết phức tạp nhất, nỗi xúc động nghẹn ngào và cả những câu chuyện không thể nào tin được của số phận những con người này. Chúng tôi mong tiếp tục nhận được thư của độc giả gửi về cho chuyên mục này theo địa chỉ: Nhà văn Như Bình – Ban thư ký tòa soạn – 66 Thợ Nhuộm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. ĐT: 8222157. Địa chỉ email Nhubinh9@gmail.com.


56.Câu chuyện cuộc đời

Tôi đã bắt đầu đi tìm lại người chiến sỹ ấy ngay sau khi tôi xuất ngũ và ổn định cuộc sống gia đình trong vòng 5 năm. Khoảng thời gian 20 năm đủ dài và làm nên những biến động vật đổi sao dời. Tôi không thể nào hình dung nổi liệu tôi có gặp lại người chiến sỹ bị thương nặng mê man bất tỉnh trong đêm tối đầy mưa bom bão đạn ấy nữa không…

Kính thưa các anh, các chị trong BBT!

Mà thật ra tôi cũng không dám hình dung, bởi hễ cứ nhắm mắt, tôi lại thấy hình ảnh người chiến sỹ ấy, nhớ bộ quần áo tôi đổi của anh, và nhớ đến quá khứ buồn bã của tôi, những nỗi sợ đã đeo đẳng tôi khôn cùng trong suốt chặng đường đi đánh giặc. Tôi sợ, rất có thể, oái oăm thay, từ việc thay đổi bộ quần áo mà số phận chúng tôi mỗi người đi theo những ngã rẽ riêng, và biết đâu không chừng, tôi lại là người đã gây ra bi kịch của người chiến sỹ tôi không nhìn rõ mặt ấy…

Trời ơi! tôi đã cầu trời khấn Phật cho không có chuyện gì xấu xảy ra, rằng người chiến sỹ kia hoặc đã hy sinh, hoặc trở về, và dù thế nào thì người chiến sỹ ấy cũng vẹn nguyên công thành, doanh toại, thứ duy nhất mà người chiến sỹ ấy mất chỉ là bộ quần áo bộ đội đẫm máu và rách toạc vì vết đạn. Thế thôi.

Nhưng than ôi! Cuộc đời thường vẫn xảy ra muôn nỗi trớ trêu để cho con người trong vòng xoáy của con tạo xoay vần ấy phải lâm trận bao nỗi bi ai. Cho dù tôi đã trả giá tất cả, mạng sống, lòng dũng cảm, sự hy sinh quên mình trong 15 năm cầm súng phiêu bạt ở chiến trường Đông Tây, Nam Bắc để tìm cho mình một thân phận mới, một cuộc đời mới thì tôi vẫn không thể quên được hành động của tôi. Đi tìm sự thật cho chính cuộc đời mình là một hành động nhọc nhằn và vô cùng ám ảnh.

Hơn nửa đời trận mạc, vào sinh ra tử, tôi trong phút giây này lại là một kẻ bơ vơ, đi tìm lại phần nối của cuộc đời mình trong cái đêm định mệnh bên bờ sông Bến Hải ấy.

Suốt 20 năm qua, không bao giờ tôi quên được tên tuổi, đơn vị và địa chỉ của người chiến sỹ ấy. Anh tên là L.V.T., đơn vị X, quê ở làng N.Đ., huyện T.C., tỉnh Nghệ An. Lần đầu tiên, sau 5 năm công tác ở nhà máy dệt, tôi xin nghỉ phép đúng 12 ngày và khoác ba lô lên đường về quê của anh L.V.T.

Đi xe tàu mất 3 ngày, 3 đêm, đổi xe xuống không biết bao nhiêu chặng, tôi mới đến được vùng quê heo hút nghèo khó của một huyện miền núi ở Nghệ An. Khi tìm đến được ngôi làng trước đây gia đình anh sinh sống, tôi đã chết lặng người khi chứng kiến phần đầu tiên của bi kịch cuộc đời anh, cũng chính là cuộc đời của tôi.

Gia đình anh L.V.T. không còn ai ở làng nữa. Chỉ còn lại một bà cô nghèo, không lấy chồng ở vậy một mình trông nom hương khói cho nội tộc. Chính bà cô họ ấy đã rưng rưng nước mắt kể cho tôi nghe ngọn ngành.

Năm đó, chỉ cách độ 1 tháng, gia đình của T. vừa nhận được thư của con trai báo về cho cha mẹ và vợ con rằng T. đang chuẩn bị lên đường hành quân vào chiến trường B sau đợt huấn luyện dài 4 tháng. T. ở trong một đơn vị huấn luyện đặc công, bức thư kể tỉ mỉ về nỗi háo hức của T. sắp được ra chiến trường trực tiếp chiến đấu với quân thù. T. là con cả trong một gia đình đông anh em, 3 gái, 2 trai.

Trước khi nhập ngũ, cha mẹ bắt anh cưới vợ để nhỡ ra có chuyện gì xấu xảy ra với T. thì nhà còn có chút đích tôn mà báo hiếu với tổ tông. Khi T. nhập ngũ thì vợ đã có thai được 5 tháng. Khi T. lên đường hành quân đi B thì cũng vừa hay tin, vợ T. sinh được thằng con trai kháu khỉnh. Vì thế, tinh thần của T. càng thêm phấn khởi, chỉ mong mau mau vào chiến trường, lập công giết được nhiều giặc Mỹ để ăn mừng sự kiện anh có con trai.

Thế nhưng không hiểu sao, chỉ 1 tháng sau, địa phương và gia đình nhận được một cái giấy báo từ phía đơn vị rằng T. đã đào ngũ, hiện giờ không có mặt tại đơn vị nữa. UBND xã đã tổ chức một cuộc họp mời gia đình T. đến dự và thông báo cho toàn thể bà con nhân dân trong làng về việc T. bỏ đơn vị đi đâu mất tích ngay trong cuộc hành quân. Xã kiểm điểm sâu sắc thái độ của T. và qua đó cũng đã kiểm điểm gia đình T., bố mẹ và vợ của T. đã không giáo dục T. bản lĩnh chính trị vững vàng, để xảy ra chuyện đáng tiếc. Đồng thời giao cho dân quân xã theo dõi động tĩnh ở phía gia đình T., nếu thấy T. trở về thì phải trình báo với xã ngay để động viên T. quay lại đơn vị.

Sau cuộc họp nặng nề ấy, không chịu nổi lời xì xầm bàn tán nhỏ to và ánh mắt ghẻ lạnh của những gia đình có con đi bộ đội. Cả việc hầu như tháng nào ở xã cũng nhận được giấy báo tử của trai làng đi bộ đội, và tổ chức những buổi lễ truy điệu lặng lẽ trong nỗi đau thương tột cùng của mọi người trong làng, bố T. phẫn uất nhục nhã mà thắt cổ tự vẫn.

Cha chết, chồng mang tiếng là đào ngũ không trở về, vợ T. sau một thời gian dài cầm cự ở làng, rồi không chịu nổi điều tiếng, không chịu nổi không khí trong làng một bên là những người lính thực sự đi chiến đấu và hy sinh ở chiến trường, một bên là chồng mình bặt vô âm tín, lại còn mang tội đào ngũ, vợ T. đã ôm con bỏ đi biệt xứ, chẳng ai biết là đi đâu. Còn lại một mình mẹ T. là vẫn cầm cự, vẫn một mực khẳng định, con trai bà là một chàng trai dũng cảm, nó không thể đào ngũ, nếu nó còn sống nhất định nó sẽ trở về.

Thời gian thấm thoắt trôi đi, khi cả ba cô con gái đã lấy chồng, thằng con trai thứ hai nhập ngũ rồi hy sinh ở chiến trường B, nỗi nhục trong một gia đình có con đào ngũ cũng đã vơi bớt. Sau giải phóng năm 1975, mẹ T. quyết định chống gậy đi tìm con trai. Bà báo cáo với xã, nói với các con, với bà con chòm xóm rằng, nếu bà không tìm được thằng T. trở về, bà chết không nhắm mắt.

Sau này, một số người biết chuyện đã kể lại rằng bà T. đã không đủ sức đến những nơi bà muốn đến, đó là các trại thương binh hay bất cứ chỗ nào có bộ đội, có những người lính thuộc đơn vị cũ của con trai bà, để hỏi cho ra lẽ. Hành trình dài với người mẹ đã trên 70 tuổi không chở nổi ước vọng mãnh liệt của bà là tìm bằng được đứa con yêu dấu của mình lưu lạc nơi nào, nếu có chết cũng phải có một nghĩa trang nào đó lưu danh tên tuổi của con bà. Bà đã không thể đi đến cùng trời cuối đất, bà T. đã gục chết trên một chuyến xe tốc hành.

Những người đồng hành trên chuyến xe của bà chỉ biết bà là một người mẹ đi tìm con, họ không biết bà ở đâu nên đã an táng cho bà ở ngay bên một cái nghĩa trang ở Quy Nhơn. Bà cô già kể trong nước mắt, rằng gia đình các con làm ăn lưu lạc, chưa ai có điều kiện để vào Quy Nhơn bốc mộ mẹ về an táng nơi quê nhà. Còn chuyện của T., sau khi bà mẹ chết, từ đó không còn một ai hay biết tin tức về T. nữa. Câu chuyện về T. đã bị quên lãng cho đến một ngày tôi trở về làng và hỏi thăm T.

Thưa các anh, các chị. Thật sự tôi đã chết điếng người khi biết được những bi kịch đau lòng của người chiến sỹ mà tôi đã lấy bộ quân phục của anh. Và cái bi kịch đau đớn ấy không phải ai khác mà nguyên nhân là do tôi.

Trời ơi, ngay lúc đó, nghe chuyện của bà cô già kể, tôi đã phải chạy ra sau vườn để khóc. Những ám ảnh quá khứ, cho dù tôi đã dốc lòng cầu nguyện thì giờ đây bất chấp tất cả đã trở thành sự thật, giáng xuống cuộc đời tôi trong cuộc truy đuổi của số phận không biết đâu là điểm dừng. Tôi thấy đất dưới chân mình sụm xuống, bao nhiêu dự cảm, hy vọng và sợ hãi đã bất ngờ ập đến, đốn ngã tôi trong phút chốc. Tôi cảm nhận đến tận cùng nỗi cay đắng của cuộc đời mình. Tôi không thể nói gì hơn, tôi còn biết làm gì nữa.

Tôi hỏi thăm địa chỉ của vợ T. để đến thăm hai mẹ con cô ấy nhưng cô ấy đã ôm con bỏ làng ra đi từ bấy đến nay không biết đi đâu. Tôi có lên UBND xã và hỏi về việc T. bị kết tội đào ngũ. Tôi đã không biết nói gì hơn khi giấy trắng mực đen của đơn vị T. báo về địa phương là T. đào ngũ. Không tìm được T. lúc này, tôi biết nói gì đây, ai có thể tin tôi, một người xa lạ không có lấy một bằng chứng trong tay.

Mười hai ngày phép của tôi đã hết. Tôi trở lại cơ quan làm việc, trong lòng vô cùng buồn bã. Thú thực lúc này, tôi không đoán định được T. còn sống hay đã chết. Nếu T. hy sinh ngay trong đêm ấy ven bờ sông Gianh thì phải có giấy báo tử về địa phương và cơ quan. Cho dù đào ngũ hay không đào ngũ thì cũng phải có giấy báo về việc chết. Đằng này chỉ báo là đào ngũ chứ không phải là mất tích. Vậy chắc chắn, T. còn sống, T. bị thương nặng nên đã được đưa vào một trạm phẫu nào đó ở chiến trường, và do nhìn thấy bộ quần áo thường dân T. mặc trên người, cùng với thẻ quân nhân nên ở đó người ta mới phán đoán là T. đào ngũ nhưng bị trúng đạn, người ta sẽ báo về cho đơn vị, và đơn vị báo về cho địa phương.

Vậy thì chắc chắn, những trạm phẫu dã chiến ở khu vực Vĩnh Linh, Quảng Trị, Quảng Bình chắc chắn người ta đã tiếp nhận trường hợp của T. Hy vọng dẫu le lói nhưng cũng đủ thắp lên niềm tin mãnh liệt trong tôi. Tôi quyết tâm bằng mọi giá, phải tìm được T., người chiến sỹ đã cùng tôi bị thương trong đêm hỗn chiến đó, người đã bị tôi tước đoạt bộ quần áo bộ đội và bỏ anh ta lại trong vòng xoáy của cuộc đời.

Những năm tháng trở về sau chiến tranh, do làm việc tích cực, uy tín của tôi rất cao ở trong nhà máy dệt. Từ công việc của một Trưởng phòng Tổ chức, tôi được đề bạt lên làm Phó Giám đốc và rồi là Giám đốc nhà máy dệt, Bí thư Đảng ủy cơ quan. Nói chung tôi rất có uy tín trong cơ quan. Hễ ai là con gia đình thương binh, liệt sỹ không có công ăn việc làm, đến cơ quan tôi, nếu tìm gặp được trực tiếp tôi, họ sẽ có ngay một cơ hội làm việc.

Tiếng lành đồn xa, uy tín của tôi lên đến cấp thành phố, UBND TP còn có ý điều động tôi rời khỏi nhà máy dệt lên làm việc trên Ủy ban nhưng tôi một mực chối từ. Tôi chỉ muốn xây dựng nhà máy dệt ngày một mạnh, tạo được thật nhiều công ăn việc làm cho nhiều người nghèo, gia đình chính sách. Tôi không có ham ước và nguyện vọng gì hơn.

Thật ra, ổn định công việc rồi, tôi cũng muốn dành thời gian để đi tìm lại người chiến sỹ mà tôi đã nợ ông cả cuộc đời. Ngay năm sau đó, đợt phép thứ hai, tôi dành cả trọn vẹn 2 tuần về lại Quảng Trị và đến tất cả những nơi mà trạm cứu thương đã từng đóng ở đó để lần tìm T. Song việc đầu tiên của tôi là quyết tâm đến Quy Nhơn, ngay nghĩa địa bên cạnh QL1A, hỏi thăm bà con địa phương, những người đã an táng và coi sóc phần mộ của bà cụ. Tôi đã lặng lẽ xin phép bà cô tự tay bốc mộ của bà cụ về quy tập lại trong nghĩa trang của xã, an táng bà cụ ngay cạnh ông cụ.

Lần đó, tôi đã quyết tâm thu xếp nhờ bà cô già và chính quyền địa phương xây mộ cho hai ông bà. Tôi nói tôi là bạn của T., và tôi biết chắc, T. không đào ngũ, tôi sẽ đi tìm bằng được T. trở về để chứng minh anh ấy không phải là người lính hèn khi ra trận. Làm xong phần việc phải làm ấy, tôi mới trở ra Quảng Trị để lần tìm T.

Lời BBT:

Như chúng tôi đã thông tin với bạn đọc. Lần đầu tiên chúng tôi đăng tải một câu chuyện khó tin nhưng có thật trải dài trong 3 kỳ liên tiếp bởi số phận éo le của mỗi nhân vật trong đó và những bài học nhân văn sâu sắc. Liệu rồi nhân vật tôi trong câu chuyện ấy có tìm lại được người lính tên T. năm xưa mà anh ta đã đánh tráo bộ quân phục trong lúc T. bị thương mê man bất tỉnh không? Số phận của T. trong 20 năm qua ra sao, mời bạn đọc tiếp tục theo dõi trang 31- số ANTG Giữa tháng tiếp theo.

Mọi liên hệ, xin hãy gửi về theo địa chỉ: Nhà văn Như Bình, Báo Công an nhân dân – Chuyên đề ANTG Cuối tháng, 66 Thợ Nhuộm, Hà Nội. Địa chỉ email:nhubinh9@gmail.com.


57.Viết tiếp câu chuyện cuộc đời

Kính thưa các anh các chị trong BBT!

Cuộc tìm kiếm người chiến sỹ năm xưa bị tôi đánh tráo bộ quân phục thật nhọc nhằn bởi thường xuyên phải gián đoạn do không có thời gian. Tôi đã đến tất cả những nơi cần đến. Trạm phẫu dã chiến thời chiến tranh, nơi tôi được chuyển vào điều trị sau giải phóng đã không còn dấu vết. Tôi quyết định về Tỉnh đội Quảng Trị để hỏi thăm trường hợp của T.

Ở đó, người ta đã xóa sổ tên T. ra khỏi danh sách quân ngũ vì T. mắc tội đào ngũ. Tôi ngược trở ra Bắc, tìm đến đơn vị cũ trước đây của T. Ở đây, họ cũng không giúp gì tôi hơn ngoài thông tin T. đào ngũ, không trở về đơn vị, không biết cậu ấy ở đâu cả. Chẳng lẽ T. biến mất trong cõi đời này? Chẳng lẽ T. đã chết và cậu ấy không tồn tại nữa. Không, tôi không thể tin điều đó được. Tôi đến các trại thương binh từ Bắc chí Nam để tìm T., biết đâu, bằng một hy vọng mỏng manh nào đó, tôi có thể tìm lại được T.

Trái đất tròn, mọi ước nguyện và niềm tin trong đời rồi cũng có lúc được đền đáp. Nhưng với tôi, mọi chuyện lại quá ư bất ngờ trong sự run rủi kỳ lạ của số phận.

Nhà máy dệt của tôi có một tai nạn xảy ra. Trong lúc vận hành thử một cái máy tách sợi mới nhập từ nước ngoài về thì có một sự cố chập điện khiến lưỡi dao cán sợi văng ra chặt đứt bàn tay của C., một kỹ thuật viên đang điều khiển máy. Tôi nhanh chóng cho gọi cấp cứu và đưa C. vào Bệnh viện G.D. trong thành phố, bố trí cắt cử anh em vào viện chăm sóc C. và cho người về quê đón người nhà của C. lên.

Quê C. ở Rạch Giá, nhà C. chỉ có 2 mẹ con. Tôi nhận C. vào làm việc vì hoàn cảnh của C. rất đáng thương, ba C. mất tích trong chiến tranh, mẹ C. ở vậy thờ chồng và nuôi con khôn lớn. Những trường hợp như của C., tôi nhận ngay vào nhà máy mà không một chút đắn đo. Hôm ấy, sau khi đón mẹ C. lên bệnh viện, thoáng nhìn người đàn bà gầy đét, héo hắt, nước da sạm đen, tôi đã chạnh lòng.

Nghe giọng của chị ở miền Trung, tôi đã giật mình. Tôi không tiện hỏi, đang định bụng chờ lúc nào C. đỡ chút ít sẽ hỏi thăm gia cảnh. Mẹ C. lên đến nơi, nhìn thấy con cụt mất một bàn tay, chị gào khóc thảm thiết rồi ngất xỉu đi. Khi tỉnh dậy, thấy hộ lý là một người đàn ông đang chăm sóc cho mình và con trai, chị K. lại la lên rồi ngất xỉu. Trời ơi, tôi cũng không ngờ phần kết của câu chuyện cuộc đời tôi lại là đây, xảy ra ở chính cái bệnh viện nhỏ bé này.

Chị K. liên tục ngất mỗi lần nhìn thấy anh S. Cả anh S. cũng không hiểu tại sao mình lại là nguyên nhân làm cho người đàn bà đen đúa tội nghiệp kia xúc động mạnh đến thế.

Cứ mỗi lần tỉnh lại, chị K. lại ôm chầm lấy người đàn ông đang chăm sóc mình mà mếu máo: “Ông đấy ư? Vậy mà tôi đã tìm ông suốt bao nhiêu năm nay rồi, sao ông bỏ mẹ con tôi mà đi không ngoái lại, sao ông nỡ làm thế với mẹ con tôi?”. Rồi chị K. lại khóc, lại ngất xỉu, phải chuyển lên Khoa Hồi sức cấp cứu.

Sau này C. hồi phục, chính cậu đã kể lại ngọn ngành câu chuyện của mẹ cậu: "Suốt hơn 20 năm nay, mẹ cháu luôn dắt cháu đi tìm ba. Mẹ nói, ba bị mất tích trong chiến tranh, nhưng chắc chắn ba vẫn còn sống. Có một sự hiểu lầm nào đó mà đơn vị báo tin về nhà rằng ba đào ngũ. Mẹ không tin ba là người hèn nhát, vì vậy mẹ dắt con trai lên 5 tuổi đi khỏi làng và phiêu bạt khắp nơi chốn để tìm ba.

Mẹ có nghe người ta mách ở trại thương binh N.B. có một người đàn ông tên S. nói giọng miền Trung mất trí nhớ đang phục vụ thương binh nặng ở đó. Người đàn ông đó đã có vợ và chuyển vào Nam sinh sống. Mẹ con cháu lại phiêu bạt vào Nam tìm ba. Mẹ đến các trại thương binh để tìm ba với hy vọng mong manh ba vẫn đang lưu lạc ở phương trời nào.

Đã nhiều lần cháu khuyên mẹ đừng đi tìm ba nữa, nhiều bác thương mẹ lắm, nhưng mẹ chẳng gật đầu với ai, mẹ nói mẹ chỉ yêu một mình ba, nếu ba không trở về thì mẹ sẽ ở vậy nuôi cháu. Cháu cũng không ngờ là mẹ cháu lại gặp ba ngay ở bệnh viện này, tình cờ đến như vậy".

Chị K cũng đã bình tĩnh trở lại, chị liên tục đòi gặp anh S. và khóc. Anh S. rất hoảng sợ vì không hiểu chuyện gì xảy ra. Anh nói anh không quen biết chị K., không biết ai ở Quảng Trị. Chỉ đến khi chị K. mang tấm ảnh anh S. chụp trước khi nhập ngũ, và tấm ảnh cưới duy nhất của S. với chị K. thì anh mới ớ cả người ra như ở trên trời rơi xuống. S. khóc, anh ngơ ngơ ngác ngác một mực không biết tại sao mình lại xuất hiện trong tấm ảnh kia, không biết nguồn gốc của mình từ đâu tới.

Anh S về nhà và dẫn vợ con tới gặp mẹ con chị K. Chị L., vợ của S. nhìn cháu C., nhìn người đàn bà đen đúa tội nghiệp, và nhìn bức ảnh cưới trước đó của chồng mình với chị K., chị L. đã quỳ sụp xuống và khóc. Chị ôm anh S. nói trong nước mắt: “Anh ơi, đây đúng là gia đình lưu lạc của anh suốt bao nhiêu năm rồi. Anh hãy nhận vợ và con trai anh đi. Khổ cho anh, mất trí nhớ nên mất luôn cả vợ con, quê hương bản quán”. S. hết ngơ ngác lại lên cơn đau đầu dữ dội. Anh cũng ốm luôn mấy ngày sau các sự kiện dồn dập xảy ra với mình.

Chao ôi! Cuộc hội ngộ của hai người vợ, 3 đứa con và L.V.T. (nay có tên là S. do mọi người đặt cho vì anh mất trí nhớ) diễn ra trong nước mắt trước sự chứng kiến của tập thể y, bác sỹ ở Khoa Chấn thương chỉnh hình, và bản thân tôi. Ông M., Trưởng khoa đã kể cho mọi người nghe vì sao ông nhận S. vào làm hộ lý ở khoa.

Trước đây, ông M. cũng là bộ đội, trong một lần bị thương về nằm điều trị ở trạm phẫu. Lần đó trạm phẫu hết thuốc gây tê, gây mê, nhưng vết thương của ông M. không mổ sẽ rất nguy hiểm. Cuối cùng ông M. quyết định lên bàn mổ. Khi các bác sỹ mổ không còn thuốc gây tê gây mê, chính S. đã ôm chặt ông M. trong tay và hát cho ông nghe những lời ru cổ ở miền Trung Quảng Trị cho M. vơi bớt cơn đau. Chính S. là người chăm sóc chu đáo tận tình các thương bệnh binh nặng.

Cảm kích trước tấm lòng nhân hậu của S., biết hoàn cảnh mất trí nhớ của S. do bị thương nặng, hết chiến tranh, M. tốt nghiệp Đại học Y khoa và làm việc tại Bệnh viện G.D. Trong một lần trở lại thăm người bạn là thương binh nặng ở trại thương binh N.B., M. đã gặp lại S., và đưa anh vào TP HCM, phục vụ bệnh nhân ở Khoa Chấn thương chỉnh hình, nơi M. làm việc.

Lúc này, S. đã có một người phụ nữ đem lòng yêu thương, chị đã tự nguyện theo S. vào TP HCM làm vợ anh. Cuộc đời ơi, như vậy có quá trớ trêu không khi người đàn ông suốt bao năm cả tôi và vợ con anh đi kiếm tìm lại ở ngay trong cùng một thành phố với tôi, và đau đớn hơn, khi chính S. lại không hề biết mình đích thực là L.V.T., là người chiến sỹ năm xưa trong lúc bị thương nặng, anh đã bị tôi đánh tráo bộ quân phục. Vết thương vào đầu khá nặng đã làm cho T. hoàn toàn mất trí nhớ.

Chính trong đêm bom đạn đó, cả tôi và T. đều được chuyển vào cùng một trạm phẫu, được chăm sóc và cứu chữa ngay cùng một nơi mà chúng tôi không hề hay biết. Sau khi tỉnh lại, T. đã hoàn toàn mất trí nhớ, thẻ quân nhân của T., T. không nhận vì không biết đó là mình, T. nói của ai chứ không phải của T., ai đó đã bỏ quên lại nên T. cầm. T. cũng khai không phải là bộ đội, không biết từ đâu tới. Do bộ thường phục trên người T. nên T. chỉ được cấp cứu ở trạm phẫu dã chiến, khi tỉnh lại, T. được chuyển về địa phương để chữa trị ở bệnh viện dân sự.

Chiến tranh liên miên, thương bệnh binh nhiều, không ai có đủ thời gian để lưu tâm tới số phận của T. nữa. T. được xem như là một người dân thường bị ảnh hưởng của bom, mất khả năng phục hồi trí nhớ. Chuyển về bệnh viện dân sự, từ đó cuộc đời của T. lưu lạc không một ai biết. Khỏi bệnh, T. trở thành người lang thang hết nơi nọ đến nơi kia để làm thuê.

Lạ lùng cái ký ức về quê nhà, về gốc gác của T. cũng đã bị xóa sạch trong trí nhớ của T. Nhưng có một điều lạ, T. hay lang thang đến các trạm phẫu, các trạm xá, các trại thương binh và xin giúp đỡ những người thương binh nặng ở đó. Thấy T. hiền lành thật thà, lại không nề hà trong việc chăm sóc các bệnh nhân thương binh nặng, nên T. đã được mọi người yêu thương và cho vào làm việc như một hộ lý thực thụ.

Cuộc hội ngộ hôm nay đẫm nước mắt. Nhưng đau đớn vô cùng là quá khứ với T. đã bị chiến tranh, thêm vào đó là cả tôi nữa, chặt đứt khỏi T. T. chỉ còn lại trụi trần với những vết thương không bao giờ lành nổi. Đến lúc này L., vợ sau của T. cũng khóc xin phép được ôm hai đứa con ra đi để cho T. và chị K. cùng với cháu C. đoàn tụ với nhau. Nhưng éo le thay tình cảnh trớ trêu của hai người đàn bà cùng có con với T., cùng là vợ của T. khiến cho không ai nỡ tước đoạt T. về cho riêng mình. Họ nhường nhau và ai cũng đòi ra đi, chỉ riêng T. là không thể hiểu nổi tại sao cuộc đời của mình lại rắc rối đến như vậy.

Sau này, trong những lúc tỉnh táo nhất, T. đã quỳ sụp xuống trước mặt chị K. và xin chị tha lỗi cho T. vì T. không nhớ gì nữa, người phụ nữ mà T. đã yêu thương, đã ở với nhau như vợ chồng, đã sinh cho T. 2 đứa con T. không thể bỏ được, đành bạc nghĩa với chị K.

Trời ơi, tôi có ngờ đâu, hành động trong một phút cùng đường của tôi đã hại cuộc đời T. và bao nhiêu số phận nữa trong cuộc đời T. ra đến nông nỗi này. Gia cảnh của T. hiện tại rất khó khăn, vợ T. phải đi gánh tào phớ bán rong kiếm tiền nuôi hai con ăn học.

Tôi đã xin phép cho T. nghỉ việc một thời gian chở cả gia đình T. và mẹ con chị K. về lại Quảng Trị thăm họ hàng và thắp hương cho cha mẹ T. Suốt cả chuyến đi, T. như một người trong mơ lúc khóc lúc cười. Tôi nói rằng, chính tôi là người đã đánh tráo bộ quân phục của T. năm xưa, đã vô tình đẩy T. tới một cuộc sống tan đàn sẻ nghé bi thảm đến như thế này nhưng T. nghe như chuyện của ai đó không liên quan tới mình, T. chỉ lắc đầu méo mó cười.

T. không nhận lời xin lỗi của tôi, T. nói tôi không có lỗi, T. không biết điều gì đã xảy ra trong cuộc đời của T. cả, vì vậy sao lại phải xin lỗi một người tốt như tôi mà cả gia đình T. đang chịu ơn. Thật chua chát và khổ sở cho tôi khi T. nói, trời thương nên đã cho gia đình vợ chồng con cái T. được gặp tôi, được tôi giúp đỡ cho T. tìm lại với quê hương nguồn cội, được gặp lại người thân. Ông trời thật có mắt. Chính T. mới phải đội ơn tôi. T. dứt khoát không cho tôi đi tìm lại những gì đã mất của T., phục hồi cho T. danh chính, và đề nghị làm chế độ thương binh cho T. T. nói, những gì không thuộc về T., T. không thể nhận. Thế đấy các anh chị ạ.

Lời BBT:

Anh NLĐ kính mến! Chúng tôi cũng rất xót xa khi đọc câu chuyện của cuộc đời anh. Mặc dù, nhờ bộ quân phục của T., anh đã thay đổi được cuộc đời mình nhưng xét cho cùng anh cũng không thể thay đổi được số phận và những bất hạnh đeo đẳng trong tâm can. Giờ đây, cách tốt nhất mà chúng tôi tin anh đang làm đó là lo cho mẹ con K., người vợ đầu và con trai của T. một cách chu đáo trong điều kiện có thể. Và cả cuộc sống hiện tại của T. và vợ cùng 2 đứa con của T. sau này nữa, anh cũng nên lo cho họ những gì có thể. Đó là cách mà anh trả nợ cho T.

Tất nhiên, những gì mà anh nợ T. theo chúng tôi là không thể trả nổi. Vì vậy làm được chút gì đó giúp cho cuộc đời của T. bớt vất vả, bất hạnh là trách nhiệm của anh. Chúng tôi tin cuộc đời bao giờ cũng có những kết thúc có hậu cho tất cả những ai biết phục thiện. Tìm được đầy đủ gia đình của T. cũng là một kết thúc có hậu cho cuộc đời của anh đấy. Chúc anh bình an.


58.Tôi có nên cho cháu nhận cha không?

Đã nhiều lần tôi định viết câu chuyện của đời mình để gửi tới các anh chị nhưng rồi tôi lại không đủ can đảm. Tôi đang đứng trước một việc thật khó xử, có nguy cơ làm đảo lộn tất cả những gì yên ổn trong gia đình tôi từ mấy chục năm nay. Sự việc ấy có liên quan đến một lỗi lầm của tôi mà các con tôi không hề biết. Hôm nay tôi quyết định viết thư này gửi các anh chị để được giãi bày lòng mình và cũng muốn xin các anh chị một lời khuyên.

Kính gửi: Các anh chị trong Ban biên tập An ninh thế giới Cuối tháng

Tôi là giáo viên trung học đã về hưu, hiện sống tại TP Hồ Chí Minh. Năm 18 tuổi, tôi rời quê Cần Thơ, lên Sài Gòn theo học đại học. Như là định mệnh và duyên số, tại đây tôi đã gặp gỡ và yêu tha thiết một giáo viên trung học, quê ở Phan Thiết, đang dạy ở Sài Gòn. Anh tên là Nam.

Những năm yêu nhau, tôi không hề biết từ lâu anh đã tham gia hoạt động cách mạng bí mật ở nội thành Sài Gòn. Mãi về sau, trong một lần cùng anh về thăm nhà ở Phan Thiết, anh mới cho tôi biết chuyện này. Cha anh là người đã dẫn dắt anh hoạt động cách mạng. Học xong đại học, do bố mẹ tôi già yếu, muốn con gái ở gần, hơn nữa tôi lại là con một, nên tôi quyết định về quê dạy học, còn anh vẫn ở Sài Gòn. Một năm sau hai chúng tôi làm lễ cưới.

Năm 1970, khi tôi có thai bốn tháng thì được tin sét đánh: Chồng tôi bị bắt do cơ sở bị lộ. Tôi như người mất hồn, bỏ cả dạy học, bụng mang dạ chửa về Sài Gòn và ra cả Phan Thiết quê anh để dò thăm tin tức của anh. Đau đớn hơn, cũng vào thời điểm đó, trong một trận chiến đấu ngay tại quê nhà, cha anh bị thương nặng và hy sinh. Chưa kịp gặp chồng thì tôi được tin anh bị đày ra Côn Đảo. Trước hai cái tin đau đớn, chồng hy sinh, con duy nhất bị bắt, bị đày ra Côn Đảo, mẹ anh ngã bệnh, mắt mờ dần rồi mù hẳn, một năm sau thì bà mất. Những ngày chồng tôi bị tù Côn Đảo, tôi sinh cháu đầu lòng, đặt tên là Quỳnh. Khi cha hy sinh, mẹ mất, chồng tôi cũng không được về chịu tang.

Mẹ chồng tôi mất được một thời gian ngắn thì lần lượt bố mẹ đẻ của tôi cũng qua đời. Buồn bã và quá cô đơn, tuyệt vọng, năm 1972 tôi bỏ dạy học, bồng đứa con nhỏ chưa đầy hai tuổi về Sài Gòn kiếm việc làm. Chính những ngày khó khăn, tuyệt vọng ấy, tình cờ tôi gặp lại Thanh, một người bạn cũ, có người bà con làm hiệu trưởng một trường tư thục ở vùng ven Sài Gòn. Thanh đã nhiệt tình giúp tôi xin vào đó dạy học. Ngày cùng học đại học ở Sài Gòn, Thanh yêu tôi tha thiết, nhưng tôi lại không yêu anh. Khi ấy, tôi yêu Nam, chồng tôi bây giờ. Từ ngày gặp lại tôi, Thanh năng đi lại thăm hai mẹ con tôi, lặng lẽ giúp tôi mọi việc, nhất là những lúc hai mẹ con tôi ốm đau, túng thiếu. Lúc gặp lại Thanh, tôi không biết thật rõ Thanh làm gì, chỉ nghe anh nói làm công chức mà thôi.

Một lần con tôi bị viêm phế quản cấp, phải vào bệnh viện cấp cứu, sau bị biến chứng phải nằm viện điều trị dài ngày. Những ngày ấy, Thanh luôn có mặt bên cạnh mẹ con tôi, khi cháu được ra viện, anh lại thuê xe đón mẹ con tôi về nhà. Một hôm, Thanh đến thăm mẹ con tôi sau giờ tan sở vào buổi chiều, ở lại ăn cơm cùng mẹ con tôi. Tối hôm đó, Sài Gòn mưa như trút nước. Sau bữa cơm tối, con gái tôi đã chìm sâu vào giấc ngủ, ngoài trời mưa vẫn đổ ào ào. Tôi và Thanh ngồi im lặng trong căn nhà nhỏ khi trời đã sắp chuyển về sáng. Bỗng Thanh đứng lên, đến bên tôi. Anh nhẹ nhàng đặt bàn tay vào tay tôi, nhìn tôi say đắm.

Một nỗi lo sợ vu vơ trong tôi từ ngày gặp lại anh giờ đây như đang hiển hiện trước mặt. Người tôi run run. Tôi khẽ rút tay ra khỏi bàn tay Thanh, nhưng anh giữ lại. Rồi bất ngờ Thanh quàng hai tay ôm chặt lấy tôi, miệng thì thào: “Hương, anh yêu em! Anh yêu em!…”. Tôi như rơi vào một cơn say sóng, chỉ còn nghe như đâu đó vẫn có tiếng mưa rơi…

Những ngày sau đó tôi sống trong tâm trạng dằn vặt vì có lỗi với chồng. Từ ngày anh bị đày ra Côn Đảo, thỉnh thoảng tôi nhận được thư anh. Những dòng thư ngắn ngủi anh gửi về chứa đựng biết bao tình cảm yêu thương anh dành cho hai mẹ con tôi, nhất là dành cho cháu Quỳnh, đứa con đầu lòng mà anh chưa biết mặt. Sau cái đêm mưa gió đó, nhiều lúc tôi giận mình, biết mình không chỉ có lỗi với chồng mà còn có lỗi với cả con tôi. Tối tối, ôm cháu Quỳnh vào lòng, nghĩ tới chồng mà nhiều lúc tôi ứa nước mắt, vừa tủi thân vừa xấu hổ với anh, xấu hổ với con.

Những ngày sau đó, tôi cố tìm cách lánh mặt Thanh, cố quên đi những gì đã xảy ra. Nhưng rồi, có cố mấy vẫn không thể được, nhất là khi tôi biết mình đã mang thai đứa con trong bụng với Thanh. Rồi một lần Thanh ngỏ ý, nếu tôi ly hôn với chồng, anh ấy sẽ cưới tôi làm vợ. Sau bao nhiêu đêm mất ngủ, dằn vặt, suy nghĩ, thấy mình không còn xứng đáng với chồng, tôi quyết định viết đơn ly hôn, gửi ra Côn Đảo cho anh. Tôi đợi, đợi mãi mà không thấy anh trả lời.

Đầu năm 1973, tôi sinh cháu thứ hai, đứa con của tôi và Thanh, đặt tên cháu là Trang nhưng lấy họ của chồng tôi để khai sinh cho cháu. Những ngày sinh con, tôi mòn mỏi trông ngóng nhưng không hiểu sao lại không thấy Thanh đến thăm mẹ con tôi. Sau khi sinh cháu Trang được vài tháng, tôi nhận được thư của chồng tôi. Thật bất ngờ, lá thư không phải gửi từ Côn Đảo về mà là từ chiến khu về cho tôi. Anh cho biết, sau Hiệp định Paris về Việt Nam, anh cùng nhiều anh chị em tù chính trị được trao trả về với cách mạng. Trong thư gửi cho tôi, anh nói đã nhận được đơn ly hôn, nhưng anh không ký. Không những thế, qua bạn bè của anh, anh còn biết tôi mới sinh đứa con thứ hai. Anh động viên ba mẹ con tôi cố vượt qua mọi khó khăn, thử thách, chờ anh về.

Năm 1975, miền Nam được giải phóng, chồng tôi trở về quê Phan Thiết làm việc trong Ủy ban quân quản thị xã. Tôi vừa vui vừa buồn, xen lẫn cả lo lắng, nhưng không dám đi gặp chồng ngay. Chần chừ mãi, cuối cùng tôi quyết định dắt theo hai con ra Phan Thiết ở nhờ nhà một người bà con để tìm anh, định bụng nếu thấy anh đã thay đổi tình cảm, không nhận mẹ con tôi nữa thì tôi sẽ về lại ngay Sài Gòn.

Ra tới Phan Thiết, tôi nhờ một người em họ biết chuyện của tôi, hết sức thông cảm với tôi, tìm gặp anh, thăm dò thái độ của anh. Khi biết tin mẹ con tôi đang ở Phan Thiết, anh tìm đến với mẹ con tôi ngay. Tôi đang bế cháu Trang, sững sờ khi nhìn thấy anh sau gần sáu năm xa cách, nước mắt cứ giàn giụa. Lúc ấy cháu Quỳnh đang nép bên tôi. Anh nhìn tôi âu yếm, choàng tay ôm tôi. Rồi anh nhẹ nhàng đón cháu Trang từ tay tôi, cúi xuống kéo cháu Quỳnh vào lòng. Cổ họng tôi như mắc nghẹn, nói không thành lời: “Ba về đó, các con!”.

Đêm đó, anh an ủi, động viên tôi nhiều. Anh nói, anh hiểu và tha thứ mọi lỗi lầm của tôi, chẳng qua chỉ vì chiến tranh, xa cách. Từ nay, anh coi Trang là con đẻ, và thực tế cháu cũng đã mang họ của anh, chẳng có ai nghi ngờ gì. Anh nói, cả anh và tôi sẽ không bao giờ nhắc lại chuyện cũ, nhất là không được để cho các con tôi, nhất là Trang, biết chuyện gì đã xảy ra.

Hai năm sau, vợ chồng tôi có thêm cháu thứ ba, đặt tên là Nhung. Tôi tiếp tục dạy học ở TP Hồ Chí Minh, còn anh sau mấy năm công tác ở Phan Thiết, được chuyển vào TP Hồ Chí Minh rồi được điều ra Trung ương làm việc, một mình ở Hà Nội. Năm 2002 chồng tôi được nghỉ hưu. Cách đây ba năm, chồng tôi bị ung thư phổi. Sau một thời gian điều trị, không còn cách nào giữ được anh ở lại với bốn mẹ con tôi và các cháu, anh đã ra đi, để lại bao tiếc thương cho chúng tôi. Trước khi mất, một lần nữa anh dặn tôi đừng bao giờ để cho các cháu biết Trang không phải là con của anh.

Đầu năm nay, vào những ngày giáp Tết âm lịch, ở tuổi 35, Trang, con gái thứ hai của tôi báo tin cháu sắp lấy chồng. Trước đó, chị Quỳnh và em Nhung của cháu đã có gia đình riêng và tôi cũng đã có ba cháu ngoại. Từ ngày được cháu báo tin, nhiều đêm tôi mất ngủ. Tôi vui trước hạnh phúc muộn mằn của con, nhưng lại buồn, lại day dứt vì sắp phải xa con, đứa con được sinh ra trong một hoàn cảnh éo le mà đến nay cháu vẫn không hề biết. Cuộc đời có nhiều điều bất ngờ không ai có thể lường trước được.

Cách đây ít ngày, sau mấy chục năm bặt tin tức, Thanh lại đường đột xuất hiện trong cuộc đời tôi. Thì ra, đến lúc này tôi mới biết, Thanh vốn là một sĩ quan tâm lý chiến của quân đội Việt Nam cộng hòa, sau đó làm việc trong một cơ quan thông tin chiêu hồi của chính quyền Sài Gòn. Năm 1973, trong một lần đi công cán ra miền Trung, xe ôtô của Thanh và những người cùng đi đã bị quân giải phóng phục kích, Thanh bị thương nặng và bị quân giải phóng bắt làm tù binh. Sau ngày 30/4/1975, được ra khỏi trại tù binh, Thanh vượt biên sang Mỹ. Thanh mới về Việt Nam lần đầu để chịu tang mẹ, gần 90 tuổi, mới mất ở Huế. Trở vào Sài Gòn, qua bạn bè cũ, Thanh hỏi thăm tin tức và tìm gặp tôi, khẩn khoản cho Thanh được gặp đứa con của mình, được nhận là cha của cháu.

Cuộc gặp gỡ với Thanh đã khơi lại cái ký ức đau đớn đã ngủ quên trong tôi bấy lâu, thực sự trong lòng tôi là một nỗi nhục nhã chua chát. Tôi biết tôi đã rất hận Thanh khi chiếm đoạt tôi, làm cho tôi có thai, xúi giục tôi ly hôn chồng, cuối cùng Thanh lại bỏ tôi trơ trọi với cái thai trong bụng. Giờ đây sau năm tháng bỏ mặc tôi và đứa con thơ dại sống chết ra sao, Thanh đột ngột trở về và quỳ xuống khóc lóc xin tôi tha thứ và xin nhận con.

Thanh nói với tôi, qua Mỹ, Thanh đã ly dị tới hai lần, lập gia đình tới lần thứ 3 nhưng kỳ lạ, không người vợ nào của Thanh kể cả tây, ta sinh được cho Thanh mụn con. Tuyệt vọng Thanh đã lần tìm địa chỉ của tôi, qua bạn bè Thanh đã tìm đến tôi để cầu xin tôi tha thứ. Gặp tôi, Thanh chỉ biết gục đầu khóc. Thanh nói rằng: “Xin em hãy thương anh, cho anh được nhận con, anh đưa con về thắp hương cho ông bà nội nén nhang để tạ tội với ông bà và để ông bà còn được nhận cháu, dưới kia ông bà cũng không đến nỗi tủi phận. Xin em hãy cứu vớt cuộc đời anh. Không được nhận con, anh chết không nhắm mắt được”. Nghe Thanh nói mà lòng người mẹ trong tôi như tơ vò, không biết phải làm sao!

Tôi có nên cho Thanh gặp cháu Trang hay không, vì chỉ còn ít ngày nữa là Thanh lại quay về Mỹ. Cho Thanh gặp con có thể tôi sẽ mất con và bí mật cuộc đời tôi, lỗi lầm của tôi với chồng con mà tôi đã đào sâu chôn chặt mấy chục năm nay sẽ được phơi bày trước các con tôi, điều mà cả tôi và chồng tôi khi anh còn sống đều không muốn. Tôi sợ sau khi nhận con, Thanh sẽ tìm cách đưa cháu sang Mỹ, sợ tình cảm của chị em chúng bị sứt mẻ, sợ gia đình sẽ ly tán… Và còn con tôi, cháu Trang, nếu tôi từ chối cho cha cháu gặp cháu, điều đó có đúng hay không, có phải đạo với con tôi không?… 

Giữa lúc bối rối này, tôi xin các anh chị một lời khuyên. Xin chân thành cảm ơn.

Vũ Thị Vân Hương (quận Gò Vấp, TP HCM)

Lời BBT: Chị Vũ Thị Vân Hương kính mến

Thật lòng chúng tôi không biết khuyên chị thế nào cho phải. Theo chúng tôi, cháu Trang bây giờ đã là một người phụ nữ trưởng thành, cháu có quyền được biết sự thật của cuộc đời mình. Việc cháu có nhận bố đẻ hay không, có về với bố như chị lo sợ hay không, đó là quyền của cháu, không ai có thể ép buộc được. Ở tuổi 35, chúng tôi nghĩ cháu Trang đủ sức đón nhận và chịu đựng những gì là sự thật của cuộc đời cháu mà suốt bao nhiêu năm nay cháu đã không được biết, dù sự thật ấy có trớ trêu đến mức nào!

Chúng tôi nghĩ, cháu Trang và cả hai cháu Quỳnh, Nhung đủ tỉnh táo và lòng thương yêu để tha thứ cho lỗi lầm của chị, như chính chồng chị, một người chồng tử tế và tốt bụng hiếm có đã làm. Bởi vì, xét cho cùng, chị và chồng chị đã dành cho các cháu tất cả tình thương yêu mà không phải bất cứ người con nào cũng có được.


59.Câu chuyện thứ 79: Tôi thấy mình thật hèn hạ

Tôi cười đấy, cảm thấy mãn nguyện đấy, nhưng nụ cười ngay lập tức vụt tắt, niềm mãn nguyện ngay lập tức tan biến đi, nhường chỗ cho một mặc cảm day dứt khôn cùng. Hạnh phúc mà tôi phấn đấu cho cả cuộc đời mình, lẽ nào lại được xây dựng từ một sai lầm hèn nhát trong quá khứ…

Kính thưa các anh các chị ở tòa soạn báo! Thưa tất cả độc giả của chuyên mục Chuyện khó tin nhưng có thật! “Câu chuyện cuộc đời” đăng liên tiếp 3 kỳ trên quý báo đã ám ảnh vào tâm thức của tôi ghê gớm.

Các anh chị ơi, càng đọc những nỗi niềm tâm sự của người lính năm xưa, tôi càng xấu hổ, càng dằn vặt lương tâm và càng hổ thẹn trước gia đình vợ con. Tôi năm nay đã bước sang tuổi 60, cuối năm nay là tôi nghỉ hưu, cuộc sống của gia đình tôi vương giả, con gái con trai đề huề và rất hạnh phúc. Duy chỉ có lương tâm tôi vẫn luôn dằn vặt bởi một câu chuyện gian dối hèn nhát trong quá khứ. Và cũng chỉ riêng một mình tôi biết và hiểu hơn ai hết tôi có được hạnh phúc riêng như hôm nay phải trả giá bằng một hành động hèn nhát, vô liêm sỉ. Chính vì vậy, tôi cười đấy, cảm thấy mãn nguyện đấy, nhưng nụ cười ngay lập tức vụt tắt, niềm mãn nguyện ngay lập tức tan biến đi, nhường chỗ cho một mặc cảm day dứt khôn cùng. Hạnh phúc mà tôi phấn đấu cho cả cuộc đời mình, lẽ nào lại được xây dựng từ một sai lầm hèn nhát trong quá khứ.

Không giống như người lính trong câu chuyện cuộc đời vượt qua tất cả những thị phi, mặc cảm về thân phận, thành phần giai cấp để đến với cách mạng và bằng mọi giá được trở thành một người lính bước ra trận cầm súng và chiến đấu. Tôi may mắn hơn người lính kia rất nhiều khi tôi đường hoàng sinh ra từ một gia đình cha làm nghề dạy học, mẹ là nông dân.

Cũng từ cái chết đau đớn của mẹ tôi năm 40 tuổi khi mẹ tôi sinh em thứ 5, do sức khỏe yếu, bà bị băng huyết nặng rồi mất trên đường đi đến bệnh viện. Nỗi đau mất vợ khiến cho cha tôi vô cùng phiền muộn. Ông nói với tôi, chỉ tại trong làng không có ai là bác sỹ, không đến bệnh viện kịp nên mẹ mới chết. Ám ảnh từ số phận của mẹ, mơ ước lớn nhất của cha tôi là sau này tôi học hành nên người, thi vào ngành Y để trở thành một bác sỹ giỏi trị bệnh cứu người. Nhà tôi có hai chị gái, ba anh em trai. Tôi là con thứ 3 nhưng là anh trai cả. Tôi có giấy gọi nhập ngũ khi vừa học xong lớp 10.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ đang vào giai đoạn ác liệt. Tôi xếp bút nghiên và ước mơ làm bác sỹ lên đường đi nhập ngũ. Em trai tôi thấy tôi được đi bộ đội cũng đòi đi đánh Mỹ bằng được. Nó nói, làm trai mà không cầm súng đi đánh Mỹ là hèn. Khác với tôi, ngay từ khi còn bé tí, nó đã ham chơi trận giả, thích bày trò đánh nhau và bao giờ nó cũng vào phe quân ta. Em trai tôi học kém, không màng chuyện học hành, suốt ngày lăn lộn cùng đám trẻ con ngoài đồng ngoài bãi và nung nấu một quyết tâm lớn lên đi bộ đội để được đánh nhau với thằng giặc Mỹ xâm lược. Vừa tròn 16 tuổi, nó đã viết đơn bằng máu xung phong đi đánh giặc, khai man tuổi và bỏ thêm đá vào túi quần để đủ cân nặng khi đi khám tuyển vào bộ đội. Em trai tôi tính là 16 tuổi nhưng vóc người cao lớn vạm vỡ vì lao động nhiều, nên dễ dàng trúng tuyển. Vậy là tôi vào chiến trường năm trước, năm sau em trai tôi cũng vào chiến trường.

Chiến tranh thật là ngoài sức tưởng tượng. Chỉ có những người lính trực tiếp cầm súng chiến đấu ngoài chiến trường mới tận mắt chứng kiến và hình dung được sự thảm khốc của chiến tranh. Cái chết luôn luôn rình rập, ngay cả khi không cầm súng quyết tử ngoài chiến trường thì cuộc sống của người lính cũng luôn luôn ngàn cân treo sợi tóc. Nếu không bỏ mạng bởi hòn tên mũi đạn của quân thù lúc đánh nhau thì cũng chết bởi sốt rét, bom pháo bất kỳ lúc nào.

Thú thật, tôi chưa bao giờ khát khao được cầm súng đi đánh giặc. Bởi vậy trong những năm tháng chiến đấu, tôi không lập được nhiều thành tích, không phải là dũng sỹ diệt Mỹ như em trai tôi. Trong đơn vị, tôi thuộc thành phần yếu kém, tư tưởng hoang mang, tinh thần phấn đấu kém và nhát gan đến nỗi lần đầu tiên trực tiếp đánh nhau, tôi sợ đến vãi tè cả quần.

Tôi có một người bạn rất thân, anh tên là Đinh Công Tráng. Hai đứa bằng tuổi nhau, trước khi nhập ngũ, Tráng học rất giỏi, mơ ước của Tráng là làm kỹ sư vô tuyến điện. Ngày hoàn thành khóa huấn luyện 3 tháng để vào chiến trường B, Tráng và tôi cùng nhau chụp một bức ảnh kỷ niệm. Tráng nói, đánh Mỹ xong mà cả hai còn sống thì hẹn nhau thi vào đại học. Tôi thi vào Đại học Y, còn Tráng thi vào Bách Khoa. Nếu rủi, một trong hai đứa hy sinh, đứa còn lại phải trở về và mang bức ảnh này đến cho gia đình đứa hy sinh. Nhà Tráng có cô em gái kề Tráng rất xinh tên là Ngọc. Tráng bảo: Tớ có người yêu rồi, còn cậu, nếu đánh giặc giỏi, độc lập về tớ gả em Ngọc cho.

Thật sự, 3 năm lăn lộn trên chiến trường, trong thâm tâm tôi đã quá ngán chuyện đánh nhau. Tôi luôn ám ảnh bởi cái chết của đồng đội và tôi rất sợ chết. Hình như Tráng biết điều đó nên cậu ấy động viên tôi rất nhiều. Mỗi lần đi đánh trận là Tráng luôn đi cùng tôi, có mặt bên tôi. Tráng rất thông minh, dũng cảm và nhanh nhẹn. Việc gì khó Tráng đều xông lên trước và lãnh trách nhiệm. Trận đánh hôm ấy của tôi với Tráng đối với tôi là một ám ảnh khủng khiếp.

Trong lúc chúng tôi gồm 3 người, trong đó có tôi và Tráng đang bò vào sào huyệt của địch để đào công sự thì chúng tôi gặp phải một tốp 3 thằng lính đi tuần. Chúng phát hiện mục tiêu và nã đạn xối xả. Một đồng đội hy sinh ngay từ loạt đạn đầu tiên. Tôi quá hoảng nằm bẹp xuống rãnh công sự. Tráng nhoài người lên che chắn cho tôi và bắn trả quyết liệt.

Sau trận đụng độ ấy, phía địch ba tên bị giết, đồng đội của tôi hy sinh. Còn Tráng, anh nằm vắt ngang trên đầu tôi, máu anh chảy ướt đầm người tôi. Đến lúc ấy tôi mới biết, mặc dù bị trúng đạn vào chỗ hiểm ở ngực, Tráng vẫn nhoài người lên che chắn cho tôi và anh biết tôi hay hoảng hốt, run, không giữ được bình tĩnh. Dồn hết chút lực tàn, Tráng đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, bảo vệ mạng sống cho tôi. Trận đó tôi cũng bị thương nhẹ vào phần mềm ở vai. Nhưng trong lúc quá hoảng sợ nhìn thấy hai đồng đội của mình hy sinh, tôi đã không làm chủ được bản thân mình. Tôi gần như tuyệt vọng nên đã rút dao ra và chặt đứt ngón tay trỏ ở bàn tay phải của tôi. Tôi vừa làm vừa khóc. Tôi không muốn đánh nhau nữa, tôi hèn nhát và tôi sợ chết.

Vậy là tôi trở thành một kẻ gian lận trong chiến tranh mà chỉ có mình tôi duy nhất biết rõ chuyện này. Có lẽ linh hồn của Tráng và của một đồng chí nữa có mặt cùng tôi trong trận ấy là biết rõ. Nhưng người đã chết đâu còn nói gì được nữa.

Hôm ấy, sau khi kéo được 2 thi thể của đồng đội ra ngoài, tôi được chuyển ra trạm cứu thương. Vết thương ở phần mềm tuy không nặng nhưng cũng làm cho tôi kiệt sức vì mất quá nhiều máu. Mà lúc ấy do tinh thần quá hoảng loạn trước cái chết của hai đồng đội, và trước quyết định phải chạy trốn, phải tìm mọi cách để không phải đi đánh nhau nữa nên tôi không nhớ sơ cứu và băng bó vết thương cho mình. Riêng vết thương ở ngón trỏ bàn tay phải đã làm cho tôi trở thành phế binh vì là ngón tay kéo cò súng nên thiếu nó, tôi không thể cầm súng đi chiến đấu. Tôi được chuyển ra tuyến sau dưỡng thương và làm chế độ thương binh, rồi chế độ phục viên.

Trong lúc đồng đội tôi đang đổ máu và tiếp tục đổ máu trên chiến trường thì tôi đã bước ra khỏi cuộc chiến tranh một cách gian dối và hèn hạ như thế đó. Mang bí mật này, hàng chục năm qua, tôi sống trong mặc cảm và day dứt. Khi tôi trở về quê Tráng mang bức ảnh cho cha mẹ Tráng thì tôi mới biết tin dữ. Em gái Tráng, Ngọc đi thanh niên xung phong và hy sinh.

Vậy là trong một khoảng thời gian ngắn, gia đình Tráng nhận được tin báo tử của hai người con. Nỗi đau làm cho cha mẹ Tráng suy sụp. Ngày tôi về nhà Tráng, Linh, người yêu của Tráng cứ ôm lấy tôi mà khóc. Nhưng bi kịch đối với gia đình tôi nào có kém gì gia đình Tráng. Cùng một lúc, gia đình tôi nhận được hai tấm bằng chứng nhận dũng sỹ diệt Mỹ của thằng em trai, của tôi cũng đang chiến đấu ở chiến trường B kèm với giấy báo tử. Cha tôi hóa đá trong nỗi đau. Cha nói, may mà tôi còn sống để trở về, dù thương tật thì đó vẫn là may mắn lớn nhất của gia đình, dòng họ.

Các anh các chị ơi, nói thật là tôi đau đớn và day dứt vô cùng khi mình là một kẻ lừa dối. Tôi đã nghĩ quẩn rằng, do tôi hèn nhát nơi chiến trường nên em trai tôi mới phải hy sinh. Đó là luật nhân quả mà gia đình tôi phải hứng chịu. Cuộc sống của tôi nặng nề những ám ảnh gian dối, tôi trở thành người ít nói, sống lặng lẽ.

Sau đó tôi thi vào Đại học Quân y và tôi tốt nghiệp bác sỹ đa khoa ra công tác ở bệnh viện tỉnh. Suốt thời gian học đại học rồi cả sau này, tôi không hề yêu ai. Có lẽ mặc cảm tự kỷ quá lớn nên tôi không tự tin trước tất cả. Tôi luôn có cảm giác tôi không xứng đáng với một ai. Thế rồi thời gian là phương thuốc xoa dịu và chữa lành mọi vết thương, mọi mặc cảm. Cuộc sống cuốn tôi đi như vốn thế. Tôi dần tạm quên được quá khứ và lập gia đình, sinh con.

Từ khi trở về từ chiến trường, tôi cũng không ham hố gì hơn trong cuộc đời là thực hiện được ước nguyện của cha và sống một cuộc sống bình thường của một con người có ích cho xã hội. Tôi làm công tác chuyên môn, và gần như không quan tâm đến việc triều chính ở cơ quan. Nhưng cuộc đời thật trớ trêu. Tôi càng không quan tâm, không màng đến thì cuộc đời lại cứ đẩy tôi vào những vị trí lãnh đạo ở cơ quan, để cho cả đời tôi càng phải sống trong mặc cảm, dày vò. Từ phó khoa rồi lên đến trưởng khoa, rồi lên Ban giám đốc. Lúc cơ quan cơ cấu tôi lên Phó Giám đốc bệnh viện, tôi kiên quyết chối từ. Vợ con rồi bạn bè đồng nghiệp cho rằng tôi gàn dở. Tôi nói tôi chỉ muốn làm chuyên môn thôi nhưng thực tế có ai hiểu trong lòng tôi, mỗi một lần trước sự thành đạt trong công việc của mình, quá khứ lại trào ngược lên, ngột ngạt và bức bối.

Tôi bị lương tâm cắn rứt. Càng cắn rứt lương tâm, tôi càng lao vào công việc để khỏa lấp những day dứt. Vì thế uy thế trong chuyên môn đã đưa tôi vào những vị thế cao hơn như một lẽ tự nhiên. Tôi không thể từ chối được danh lợi, mặc dù trong lòng rất mặc cảm và luôn mâu thuẫn giữa lương tâm và danh lợi. Cuối cùng thì bản chất “tham-sân-si” trong tôi vẫn chế ngự cả lương tâm day dứt của tôi và tôi nhắm mắt bước lên vị trí Phó giám đốc như số phận đã định đoạt.

Những ngày này đang làm thủ tục để nghỉ hưu, tự dưng đọc thấy câu chuyện đời của một người lính, quá khứ trong tôi trỗi dậy, giày vò tôi. Thực ra chưa bao giờ hết giày vò, nhưng khi đọc bài báo ấy, tất cả càng trở nên nặng nề hơn bao giờ hết. Tôi có xứng đáng để sống và thành đạt trong cuộc đời này như tôi đã có không? Tôi có hèn hạ và đáng phỉ nhổ không? Tôi phải làm gì để được thanh thản mà sống nốt quãng đời còn lại?

HVT

Lời BBT

Kính thưa anh HVT. Tục ngữ có câu: “Không ai nắm tay thâu ngày suốt sáng”. Trong mỗi một con người chúng ta có tất cả những tốt xấu, sang hèn. Cái tốt và cái xấu luôn tồn tại, đấu tranh lẫn nhau và kiềm chế nhau. Chúng tôi có thể hiểu được vì sao anh lại hành động gian dối như vậy. Anh thật đáng trách nhưng con người không phải là thánh thần, vì vậy không ai có thể dám chắc chắn trong suốt cuộc đời mình không có những sai lầm, những lúc hèn nhát. Điều quan trọng là trong cuộc sống, những người đã từng sai lầm như anh chúng tôi tin chắc là không ít nhưng lại có quá ít những ai biết sám hối và dám công khai, chấp nhận sai lầm của mình.

Cuối cùng thì anh cũng đã dũng cảm với chính anh. Dũng cảm thừa nhận những gian dối trong quá khứ, cho dù việc đó đã quá muộn  và cũng chẳng thay đổi được gì nữa. Dũng cảm để được thanh thản, để  được tha thứ, âu là việc cần làm cho tất cả chúng ta, những ai đã hơn một lần sai lầm trong cuộc đời mình.


60.Câu chuyện thứ 80: Xin hãy tha thứ cho tôi

Tôi về làm dâu được 3 tháng thì trong một trận bom Mỹ thả xuống làng, mẹ chồng tôi không kịp chạy xuống hầm, bị trúng bom chết tức tưởi. Năm đó mẹ chồng tôi chỉ mới 36 tuổi, mẹ tôi sinh chồng tôi năm 18 tuổi. Vậy là bà chết sớm, bỏ lại 5 đứa con còn nhỏ, em trai kề chồng tôi mới 15 tuổi, các em sau đứa bé nhất mới lên hai tuổi. Tôi trở thành một cô con dâu thay mẹ chồng quán xuyến việc gia đình và chăm sóc cho đàn con mồ côi của bố chồng tôi.

Kính thưa các anh, các chị!

Tôi có một câu chuyện kể ra thật đắng lòng. Tôi về làm dâu trong một gia đình thời chiến năm 18 tuổi, trong một lễ cưới vội vã trước khi chồng tôi khoác ba lô vào chiến trường. Chồng tôi là con trai cả trong một gia đình đông em. Các em còn nhỏ, mẹ chồng tôi nhất quyết cưới vợ cho con trai để lỡ ra chiến tranh ác liệt nếu có bề gì xảy ra với con trai thì gia đình cũng đã có con dâu, có giọt máu chồng tôi để lại nơi hậu phương.

Tôi về làm dâu được 3 tháng thì trong một trận bom Mỹ thả xuống làng, mẹ chồng tôi không kịp chạy xuống hầm, bị trúng bom chết tức tưởi. Năm đó mẹ chồng tôi chỉ mới 36 tuổi, mẹ tôi sinh chồng tôi năm 18 tuổi. Vậy là bà chết sớm, bỏ lại 5 đứa con còn nhỏ, em trai kề chồng tôi mới 15 tuổi, các em sau đứa bé nhất mới lên hai tuổi. Tôi trở thành một cô con dâu thay mẹ chồng quán xuyến việc gia đình và chăm sóc cho đàn con mồ côi của bố chồng tôi.

Tuổi thanh xuân đẹp đẽ và bừng bừng sức sống của tôi dần trôi qua trong cuộc sống vất vả, cực nhọc và lam lũ. Thi thoảng tôi có nhận được bức thư viết vội của chồng tôi gửi về cho tôi trên bước đường hành quân. Trong gia đình, em trai chồng tôi rất quý chị dâu. Em có biệt tài thổi sáo, có những buổi chiều tà, khi hoàng hôn buông, tôi và em làm đồng xong, nán lại trên cánh đồng để chờ em bẫy chim bằng biệt tài thổi sáo dụ chim đến. Tiếng sáo của em cất lên trong cái không gian tĩnh lặng của một chiều tà nơi một miền quê hiếm hoi không tiếng súng thật nao lòng.

Thật ra, tôi chỉ hơn em trai chồng tôi 3 tuổi, khi tôi về làm dâu là 18 tuổi, em chồng tôi 15 tuổi, bởi vậy hai chị em chơi với nhau hợp lắm. Nhiều lần em đã nói với tôi rằng: “Chị Thao ơi, nhìn chị em lại nhớ mẹ quá”. Tôi kéo em vào lòng, ghì chặt mái đầu khét nắng, gương mặt ngây thơ non dại của em mà rơi nước mắt. Năm đó, một trận dịch sốt xuất huyết lớn đã tràn qua làng tôi lấy đi không biết bao nhiêu mạng người. Em ngã bệnh nặng, sốt cao, liên tục mê sảng. Trong mê em gọi mẹ và gọi tên tôi.

Nhìn em gào trong cơn sốt mẹ ơi, chị Thao ơi mà tôi đắng chát cả lòng. Thương em, tôi chỉ biết ôm chặt lấy em, chườm lên trán em chiếc khăn ướt nóng rẫy, ôm em để hấp hơi nóng của cơ thể em sang người tôi. Ngày em ăn được bát cháo đỗ xanh tôi nấu, bố chồng tôi nước mắt rơm rớm cầm chặt hai bàn tay tôi: “Con ơi, không có con thì cả gia đình này làm sao vượt qua được mọi sóng gió bất hạnh”.

Em trai chồng tôi đủ 18 tuổi, quyết tâm theo anh vào chiến trường cầm súng đi đánh giặc. Ngày em lên đường, tôi và bố chồng tiễn em. Tất cả cùng khóc, chẳng nói nên lời. Lúc xe ôtô chuyển bánh, em dúi vào tay tôi một bức thư. Trời ơi, phải chăng vì bức thư này mà cuộc đời tôi từ đó trở đi đã không còn bình an được nữa. “Chị Thao ơi, em ước gì không phải ra đi để được ở nhà với chị, mãi mãi có chị. Nhưng làm sao em có quyền như vậy được. Em phải ra đi thôi chị ơi, cho dù em muốn hay không. Chị ơi, nếu trên đường hành quân, cầu trời có khi nào đó gặp anh Cường, em sẽ bảo anh ấy xin nghỉ phép để về với chị nhé. Chị nhớ viết thư cho em. Em luôn mong thư của chị”.

Em đi rồi, căn nhà lại càng chống chếnh hơn. Buổi chiều, bố nán lại ở ngoài đồng, thổi cây sáo em đã thổi. Tiếng sáo của gã mục đồng em đã thổi cho tôi nghe mỗi khi hai chị em đi làm cùng nhau, giờ đây mang nỗi buồn thương da diết của một người đàn ông từng trải nhiều tâm sự. Lũ chim sợ tiếng bom không còn quay lại cánh đồng để vào bẫy của bố chồng tôi. Bố tôi thường về nhà muộn hơn, ông tránh tiếp xúc với con dâu, ông hay ngồi ưu tư lặng lẽ. Tôi nghĩ chắc bố nhớ mẹ, nhiều khi tôi đã xa gần động viên bố tục huyền bước nữa. Bố chưa đến 50 tuổi, chẳng lẽ ở góa suốt đời thì tội lắm, nhưng bố lắc đầu.

Tôi phát hiện ra rằng, tôi đã trông thư của em nhiều hơn là mong thư của chồng. Tôi cũng hốt hoảng nhận ra rằng, tôi nhớ em nhiều hơn, sâu hơn, da diết và buồn thương hơn nỗi nhớ chồng mình. Khi nhận được thư của cả hai, bao giờ tôi cũng bóc thư em đọc trước với niềm háo hức tột cùng. Tôi ngạc nhiên với chính mình. Có lẽ cuộc hôn nhân vội vã thời chiến, sống bên chồng chưa bén hơi chồng đã đi xa nên tôi không gắn bó sâu nặng. Trong khi đó với em, tôi bên cạnh em, chăm sóc em từ khi em còn là một cậu bé 15 tuổi tóc khét nắng. Em lớn lên, trưởng thành bên tôi cho đến khi em đã là một chàng trai rắn rỏi thực thụ với hai bắp vai vồng căng và nụ cười tươi tắn của một tâm hồn trong sáng.

Tôi không ngờ, cả mình rồi cũng bước vào chiến trường. Quyết định ấy ập đến với tôi trong một khoảnh khắc. Sáng hôm đó, tôi cùng lúc nhận được thư của chồng và em trai chồng. Thư của em viết cho tôi kể rằng, em đang chiến đấu ở miền Trung. Hai anh em cùng một chiến trường nhưng ác liệt quá nên chưa thể tới thăm nhau được. Em kể chuyện thằng Mỹ bị bắt làm tù binh tôi đọc cười chảy cả nước mắt.

Thư em toàn những chuyện tiếu lâm, vui vẻ và bông phèng. Em không nói về những gì em đang trải qua. Cuối thư, sau khi thăm hỏi bố và các em, em có một dòng dành cho tôi. “Chị ơi, sau này trở về, em sẽ tìm gặp một người con gái như chị để yêu và cưới làm vợ. Chị thấy ai giống chị thì tìm giúp em trước đi. He!he! Em cũng muốn lấy vợ rồi đấy nhé”.

Thư chồng tôi nói nhiều về tình hình chiến sự ác liệt và niềm tin chiến thắng. Nhưng cuối thư, anh viết làm tôi lo nghĩ. Anh bảo rằng, chiến tranh sống chết là chuyện có thể xảy đến bất kỳ. Nên nếu có điều gì xấu xảy ra với anh ấy, tôi phải thật bình tĩnh để vượt qua và nhớ phải gạt đau thương để làm lại cuộc đời, không được ở vậy. Chồng tôi nói rằng, ân hận lớn nhất của anh là đã nghe lời bố mẹ cưới tôi, đã ràng buộc một đời con gái mới lớn vào làm vợ của một người lính đi chiến trận không biết sống chết ra sao. Anh xin lỗi tôi và hứa với tôi sẽ vượt qua tất cả để trở về.

Đọc xong hai bức thư, tôi đã bật khóc nức nở. Tối hôm đó tôi đọc thư cho bố chồng và các em nghe, xong tôi xin phép bố đi vào chiến trường thăm chồng và em. Bố tôi ngồi bên bếp lặng im rất lâu. Sau rốt, ông nói xin tôi đừng bỏ ông và các em để đi, bởi chiến trường hòn tên mũi đạn, phận con gái đàn bà nhỡ có làm sao thì cả nhà sống làm sao nổi. Rồi ông nhìn tôi với đôi mắt buồn bã và tôi không thể diễn tả hết được ánh nhìn của ông lúc ấy. Thú thật tôi đã sợ, đã hoang mang, đã trốn chạy. Sớm hôm sau, tôi quỳ trước mặt bố chồng và kiên quyết xin ông tôi phải ra đi tìm chồng, tôi sợ có thể tôi sẽ chẳng còn gặp lại được những người tôi yêu thương.

Trời ơi, tôi đã vượt qua chặng đường hơn 500km mà phải mất hơn 1 tháng tôi mới tới được Quảng Trị. Số phận đã làm cho tâm hồn tôi không bình yên khi tôi hay tin em bị thương nặng đang nằm ở trạm phẫu thị xã Đông Hà. Tôi tìm được đến nơi. Em bị mảnh đạn vào ngực trái, xuyên qua phổi, đã phẫu thuật rồi nhưng bác sỹ bảo phải theo dõi. Tôi chạy ào đến bên em. Em như bừng tỉnh, nụ cười rạng rỡ trên gương mặt nhợt nhạt. Tôi chăm sóc em được đúng 1 tuần thì có xe chuyển em ra Bệnh viện 108.

Suốt tuần đó, em đòi tôi mang cho em cây sáo mà tôi xách theo. Nhưng cầm cây sáo tôi đưa, em đâu còn thổi được nữa, nước mắt em ứa ra. Em luôn muốn tôi ôm chặt em vào lòng, hệt như ngày còn bé, em sốt cao và tôi ôm em để giải bớt nhiệt. Mỗi lần tôi ôm em, em lại áp gương mặt vào ngực tôi, trong cơn đau miên man, tôi vẫn cảm nhận được cơ thể em run bắn như lên cơn sốt.

Sau đó em chuyển ra tuyến sau, tôi tiếp tục tìm mọi cách tiến sâu vào chiến trường. Thật may, tôi được gặp chồng trong mừng tủi. Chồng tôi vẫn khỏe mạnh, anh đã lên chức Tiểu đội trưởng, trông anh rắn rỏi và ra dáng một người lính dày dạn kinh nghiệm. Tôi không dám kể chuyện mẹ cho anh nghe vì sợ tinh thần chiến đấu của anh giảm sút. Nhưng anh biết hết, cả chuyện em trai bị thương đã chuyển ra tuyến sau. Anh rất bình tĩnh, anh bảo với tôi, chuyển được em ra vùng giải phóng để đi Bệnh viện 108 là yên tâm rồi. Tôi ở lại thăm chồng được 5 ngày thì trở ra Bắc. Chồng tôi muốn tôi về chăm lo cho bố và các em.

Tôi đã có con trai sau chuyến thăm chồng trở về. Tất cả như một nỗi ám ảnh giày vò, bởi tôi nhận ra rằng, giữa chúng tôi, gương mặt em luôn hiện ra, những cơn run rẩy của em luôn chạy qua cơ thể tôi, đau buốt. Khi tôi sinh cháu tròn tháng thì cũng là lúc em trai tôi xuất viện về nhà. Em được chế độ thương binh. Em trở về và mang theo một nỗi buồn sâu lắng trên gương mặt. Nhất là khi em nhìn con trai tôi, gương mặt của em thẫn thờ, từ đó, em luôn tránh mặt tôi. Chiều nào cũng mang sáo ra đồng thổi, khi về mang theo một lồng chim trĩu nặng không buồn nhặt. Rồi chồng tôi cũng trở về từ chiến trường. Anh cũng bị thương ở đầu do sức ép. Trông anh yếu hơn em trai rất nhiều. Vậy là cuộc sống của cả gia đình tôi đoàn tụ. Vợ chồng tôi sau đó ở riêng làm nhà ngay trong khoảnh vườn.

Sau khi chồng tôi trở về, tôi có thai thêm hai lần nữa nhưng không nuôi được. Anh bị sức ép, sức khỏe của anh rất kém. Em trai tôi vẫn ở cùng bố và các em. Các em đều đã trưởng thành, có công ăn việc làm và đều đã lập gia đình. Chỉ riêng em là không. Em không yêu ai, không tìm hiểu ai và cũng không có ý định lấy ai làm vợ. Đó là điều tôi cảm thấy day dứt và khổ tâm nhất.

Không một ai, ngay cả chồng tôi biết rằng hồn tôi không bình yên. Tôi sống trong giày vò, trong khắc khoải và chạy trốn chính mình. Tôi sợ mỗi lần có công chuyện lại về nhà bố chồng để làm giỗ tết. Tôi sợ phải nhìn thấy bố chồng tôi, em chồng tôi, những người đàn ông cô độc và giấu trong thẳm sâu tâm hồn mình những tình cảm trái khoáy. Ngay cả tôi, trong góc khuất, tôi hiểu mình đã và đang trải qua những cảm xúc gì, và điều đó gây cho tôi cảm giác đau khổ, tội lỗi.

Rồi một lần, không chịu đựng được nữa, tôi đã gặp em, tôi khóc và nói với em: “Quân ơi, em phải lấy vợ đi cho cả nhà được hạnh phúc chứ”. Em lắc đầu: “Nhưng em không yêu ai được chị ạ. Tình yêu em đã dành hết cho một hình bóng rồi, bây giờ em không còn gì cả. Nếu em lấy vợ mà làm chị vui thì em sẽ lấy”. Tôi gật đầu lia lịa: “Em lấy vợ đi, chị sẽ vui lắm, bố cũng vui, anh của em cũng vui, cả nhà đều hạnh phúc”. Thế là em đi lấy vợ thật. Em lấy một cô giáo làng. 

Nhưng tâm hồn tôi và em và những người đàn ông trong gia đình tôi chắc rằng mãi mãi không bình yên khi chồng tôi đột ngột mất sớm sau một lần phát bệnh trở lại không chạy chữa kịp. Chồng tôi mất đúng vào hôm vừa lo xong lễ cưới cho em. Ngày vui của em biến thành ngày bất hạnh của tôi, ngày tang thương của cả đại gia đình. Không hiểu sao, cuộc đời và số phận lại trở nên cay đắng như thế. Tôi quyết định chuyển nhà dịch xa ra ngoài ven đồng để cuộc sống bình yên hơn. Nhưng kể từ ngày đó, chiều muộn tôi thường nghe tiếng sáo của em từ đồng xa vọng về. Tiếng sáo buồn thương và bi ai, không một ai hiểu tâm sự của chủ nhân tiếng sáo ấy, ngoài tôi và có thể bố chồng tôi cũng hiểu. Tiếng sáo muộn trên cánh đồng mênh mông trống trải, xoáy vào tâm hồn tôi những phiền muộn.

Nguyễn Thị Thao

Lời BBT:

Chị Nguyễn Thị Thao kính mến! Đã lâu lắm rồi, chúng tôi mới lại nhận được một câu chuyện đời giấu phía trong nhiều nỗi niềm trắc ẩn như vậy nhưng những nhân vật trong đó, thật may ai cũng giữ được bản thân trong vạch dừng của riêng mình. Không có ai đi quá giới hạn, không có những phạm trù về mặt đạo đức bị xâm phạm. Và bởi vậy, không có ai phải quá đau đớn hay ân hận giày vò như những câu chuyện khó tin mà chúng tôi luôn nhận được.

Chị Thao ạ, tôi nhớ có một câu ngạn ngữ rằng: "lựa chọn là mất mát". Chị không có lỗi để mà phải cầu xin ai đó tha thứ. Đừng tự dằn vặt mình. Chị đã không lựa chọn gì ngoài số phận và cuộc đời đã lựa chọn cho chị ngay từ trước, bởi vậy mất mát sẽ bớt đi. Âu cũng là một sự hy sinh mà nhiều khi tất cả chúng ta phải biết chấp nhận. Câu chuyện của chị cũng là một bài học lớn cho tất cả chúng ta trong đường đời thăm thẳm và muôn nẻo gập ghềnh.


61.Câu chuyện thứ 81: Cháu chỉ muốn được chia sẻ

Lời bàn tán xì xầm và những ánh mắt tò mò như những lưỡi dao vô tình của người đời đã cứa vào lòng cháu một nỗi hoài nghi cay đắng. Một câu hỏi lớn luôn xuất hiện và giày vò thường trực trong suy nghĩ và tâm hồn non nớt của cháu: Mình là ai? Mình từ đâu tới?

Mỗi lần trở về nhà, trong vòng tay yêu thương của bố mẹ, cháu đã định hỏi bố cháu, mẹ cháu về những lời bàn tán xì xầm kia, nhưng mỗi lần nhìn thấy ánh mắt trìu mến yêu thương của bố, những cử chỉ ân cần và chăm chút của mẹ, cháu cảm thấy sự hoài nghi của mình thật không có cơ sở, và có thể sẽ làm đau lòng bố mẹ.

Kính thưa các cô, các chú trong Ban Biên tập!

Đã rất nhiều lần, cháu định viết câu chuyện của mình để gửi cho chuyên mục: “Chuyện khó tin nhưng có thật”. Đơn giản, cháu chỉ muốn được chia sẻ. Nhưng, cảm giác không đủ tự tin đã làm cho cháu không cầm bút nổi để có thể giãi bày tâm sự sâu kín của câu chuyện cuộc đời mình. Cháu đang đứng trước sự thật và tình huống khó xử, có thể câu chuyện khi đã giãi bày ra rồi nó có thể làm tan vỡ những tình cảm yêu thương, và những mối quan hệ thiêng liêng trong gia đình. Nhưng điều cháu băn khoăn hơn cả là sự thật ấy có thể làm đau trái tim của mẹ cháu, một người mẹ đã chịu bao cay đắng và mất mát để sinh thành và nuôi cháu lớn khôn.

Cháu đang là sinh viên năm thứ 3 của một trường đại học ở Hà Nội. Cháu cũng có một tuổi thơ êm đềm như những đứa trẻ khác khi sinh ra trong một gia đình bố mẹ làm nghề dạy học, ông nội là liệt sỹ. Bà nội ở vậy thờ chồng nuôi con, và yêu thương chúng cháu vô cùng. Nhưng, sự bình yên trong tuổi thơ của cháu sớm qua đi bởi những miệng lưỡi vô tình của thế gian. Ngay từ khi còn rất nhỏ, học tiểu học ở trường làng, mỗi lần cháu và chị gái cháu (cháu có chị gái song sinh) ra đường, hoặc đi học về, làng xóm có người lại chỉ trỏ vào chúng cháu và bảo: “Con bé giống bố nó ghê cơ, nhưng nào phải là con đẻ của bố nó. Hai đứa chúng nó là con của ông kia đấy…”.

Lời bàn tán xì xầm và những ánh mắt tò mò như những lưỡi dao vô tình của người đời đã cứa vào lòng cháu một nỗi hoài nghi cay đắng. Một câu hỏi lớn luôn xuất hiện và giày vò thường trực trong suy nghĩ và tâm hồn non nớt của cháu: Mình là ai? Mình từ đâu tới? Mỗi lần trở về nhà, trong vòng tay yêu thương của bố mẹ, cháu đã định hỏi bố cháu, mẹ cháu về những lời bàn tán xì xầm kia, nhưng mỗi lần nhìn thấy ánh mắt trìu mến yêu thương của bố, những cử chỉ ân cần và chăm chút của mẹ, cháu cảm thấy sự hoài nghi của mình thật không có cơ sở, và có thể sẽ làm đau lòng bố mẹ.

Thế nhưng, điều gì đến, rồi cũng sẽ đến. Năm 1998, lúc đó chị em cháu đã lên THCS, một lần bố cháu vào An Giang tìm mộ của chú ruột là liệt sỹ đã hy sinh ở An Giang, bố cháu đã ngược lên TP Hồ Chí Minh và thăm một người là con trai của bố cháu đang làm ăn sinh sống tại đó. Thì ra bố cháu đã từng có một cuộc hôn nhân trước mẹ cháu.

Năm 1960, bố kết hôn lần đầu, hai người rất đẹp đôi, sau khi sinh được con trai đầu lòng, không hiểu vì lý do gì, khi con trai lên 4 tuổi, bố và vợ bố đã ly hôn. Sau năm 1975,  anh con trai một mình vào Nam sinh sống, bươn chải mưu sinh mà không được học hành đến nơi đến chốn. Còn bố vẫn tiếp tục dạy học ở quê. Năm 1972, bố cháu vào bộ đội rồi chiến đấu ở Thành cổ Quảng Trị. Sau khi chiến tranh kết thúc, bố cháu về nghỉ an dưỡng ở Trại Vĩnh Phúc. Tại đây, bố cháu đã gặp gỡ yêu thương một người phụ nữ, rồi kết duyên. Người phụ nữ ấy chính là mẹ đẻ của hai chị em cháu. Nhưng cuộc hôn nhân của bố mẹ cháu cũng khá trắc trở bởi phải chục năm sau ngày cưới, chạy thầy chạy thuốc mãi, bố mẹ mới sinh được hai chị em cháu song sinh.

Cuộc sống của chúng cháu dẫu không bình yên bởi những lời đồn thổi của miệng lưỡi thế gian nhưng bù lại, bà nội và bố mẹ cháu rất yêu thương hai chị em cháu và luôn dạy dỗ động viên chúng cháu cố gắng vượt qua khó khăn vất vả để học hành nên người.

Năm 2000, bất hạnh ập đến. Sau một thời gian dài bố cháu bị ốm, phải đi lên Hà Nội khám chữa bệnh, và tin dữ khiến cả nhà bàng hoàng. Bố bị ung thư trực tràng. Ngày đó hai chị em cháu mới học lớp 8, bố nằm viện, mẹ phải xin nghỉ việc dạy học để theo bố vào viện chăm sóc. Chị em cháu ở nhà với bà nội đã 90 tuổi, thoắt cái trở nên bơ vơ đơn độc khi nhà có nạn.

Đó là những tháng ngày đau buồn nhất trong tuổi thơ của chúng cháu. Bố bệnh nặng, mẹ nói cho chúng cháu biết bố không thể sống được lâu nữa, nhưng vẫn phải giấu bà nội vì bà đã 90 tuổi. Cháu lặng người đi trước tin dữ, không khóc được, chỉ thấy nghẹn đắng lòng vì thương bố. Chiều nào, ba bà cháu cũng ngóng tin bố cháu từ Hà Nội về. Thương bố, cháu chỉ biết khóc thầm, lòng đau như cắt khi nghĩ đến một ngày nào đó, bố sẽ bỏ bà, bỏ mẹ con cháu mà đi. Khó khăn, vất vả, và buồn lo, thế nhưng hai chị em cố gắng bảo ban nhau học tập. Có những lần khai giảng, bố mẹ đều ở viện, cả hai chị em không có sách để đi học, tủi thân, ôm nhau khóc. Bà nội thương cháu, nước mắt rơi theo: “Khổ thân chúng mày, bố mày mà chết thì chúng mày làm gì được học hành nữa hả cháu”.

Giờ nghĩ lại, không hiểu bằng cách nào, chúng cháu đã vượt qua mọi biến cố ghê gớm của gia đình để vẫn trụ vững mà học như lời bố dặn lúc trăng trối. Bố nằm viện 1 năm, mổ u rồi trị xạ nhưng căn bệnh ung thư ác tính đã cướp đi mạng sống của bố cháu. Bố mất, cháu hụt hẫng như người vừa qua một cơn chấn động lớn về tinh thần không thể nào bình tâm lại. Nhưng thương bố, chị em cháu cắn răng nén buồn tủi mà học. Hai chị em đi trọ học THPT ở xa, bà nội thương cháu, chiều nào cũng ra ngóng cháu về.

Cháu nhớ lần đó, khi vừa xa nhà được 2 ngày trở về, bà ôm lấy cháu than thở: “Cha bố mày, mày đi bà nhớ quá, bà ra hè ngồi ngóng mày suốt cháu ạ”. Những lúc như vậy, cháu chỉ biết ôm chặt bà, nước mắt rơm rớm. Biết rằng, bà thương cháu vô cùng, tình cảm ấy sâu nặng và thiêng liêng. Nhưng rồi đến lượt bà cũng theo bố ra đi để lại ba mẹ con cháu trơ trọi trong căn nhà quá nhiều kỷ niệm của bà và bố. Bà đi trong một ngày hè năm 2004, để lại cháu với những khoảng trống thiếu hụt không gì bù lấp nổi. Sau mỗi một người thân ra đi, cháu càng sống khép kín hơn, và bi quan hơn vào cuộc sống.

Một sự kiện quan trọng đã tác động vào cuộc sống và suy nghĩ của cháu nhiều hơn khi giây phút bố cháu lâm chung, anh trai cháu, người con riêng của bố cháu trở về bên bố để chịu tang. Bố đồng ý để mấy anh em cháu nhận nhau. Thế nhưng thói đời khó tránh, mặc dù trong một gia đình nhưng các cô, cậu, chú bác trong nhà vẫn nhìn chị em cháu với ánh mắt dò xét. Thậm chí câu nói năm xưa từ người ngoài giờ đây lại lặp lại từ miệng của những người thân trong gia đình cháu: “Sao nó giống bố thế, nhưng không phải là con của bố nó đâu”.

Sau những lời xì xào là ánh mắt ghẻ lạnh của mọi người dành cho 3 mẹ con cháu. Cháu càng buồn hơn, cô đơn và xa lạ trong chính gia đình họ hàng của mình đến vậy. Sau khi bố cháu mất, quyết tâm đi tìm sự thật của cháu lại càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Thật may, những năm tháng khó khăn, cháu luôn có những người bạn tốt hiểu cháu và luôn ở bên cháu. Người bạn thân nhất của cháu giờ đã định cư ở nước ngoài, chính bạn ấy đã giúp cháu tìm lại phần cuối của sự thật cuộc đời cháu, cho dù sự thật ấy có buồn đến mức nào, đau lòng đến đâu thì cháu vẫn khát khao được tìm đến với chính nó, bởi đó mới đích thực là cuộc sống thật của cháu.

Chị em cháu không phải là con đẻ của bố cháu, do bố bị nhiễm chất độc hóa học ở Quảng Trị nên không thể sinh con. Mười năm chạy chữa nhưng không thể. Chính một đồng nghiệp của bố cháu, là bạn của bố mẹ cháu đã giúp mẹ cháu có chị em cháu trước sự đồng thuận của bố. Người đàn ông thực là bố đẻ của cháu hiện vẫn sống ở làng bên cạnh. Cháu đã gặp ông ấy một lần duy nhất khi về thăm nhà người anh cùng bố đẻ do bạn thân của cháu tìm giúp.

Hết những năm học THPT, những ám ảnh về vết thương lòng mà những người lớn, các bậc sinh thành dù không cố ý đã gây ra cho chị em cháu đủ ngấm vào tâm hồn cháu một nỗi cô đơn thường trực. Cùng với thời gian, nỗi ám ảnh ấy không phai mờ mà trái lại ngày một sâu hơn, day dứt hơn.

Mùa hè năm 2007, người bạn thân của cháu đã tạo nên một cuộc gặp gỡ qua điện thoại và chát giữa cháu và người anh cùng bố đẻ thật sự của cháu hiện đang là sinh viên một trường đại học. Không biết có phải do hoàn cảnh trớ trêu của cháu đã khiến cho cháu trở thành một cô gái cô đơn và luôn khao khát tình cảm. Vừa gặp anh, cháu đã cảm thấy thân thiết và thương quý như người anh ruột. Có một sợi dây máu mủ vô hình nào đó đã giăng mắc giữa cháu và anh ấy. Một năm qua cháu đã chủ động liên lạc với anh, nhưng anh ấy rất chừng mực trong tình cảm, chỉ xem cháu như một người bạn chứ không phải là một người thân có chung dòng máu. Điều đó làm cho cháu hơi buồn. Không biết cháu có tham lam không khi cháu luôn khát khao tình cảm của anh như một người anh trai. Được chia sẻ với anh những buồn vui trong cuộc sống, được sưởi ấm tâm hồn nhiều vết thương lòng của cháu bởi những chuyện thuộc về số phận mà cháu không thể cưỡng lại được. Liệu cháu có phải là người dám đòi hỏi nhiều từ quá khứ và hiện tại không? Cháu mong rồi thời gian, tình cảm của anh dành cho cháu sẽ thiêng liêng hơn tình bạn mà thực sự là tình anh em máu mủ.

Cháu chưa bao giờ nói cho mẹ cháu, và chị gái song sinh của cháu biết tất cả những sự thật mà cháu tự tìm hiểu và biết được. Cháu rất yêu quý mẹ, và cháu sợ nếu mẹ biết cháu đã hiểu tất cả sự thật, mẹ sẽ cảm thấy đau lòng. Cuộc sống bao khó khăn vất vả, mẹ đã chịu đựng và vượt lên tất cả để nuôi chị em cháu khôn lớn. Với lại bố cháu và bà nội cũng rất yêu thương cháu, cháu luôn biết ơn và kính trọng họ. Nhưng có những lúc cháu khao khát được nói ra tất cả những nỗi lòng này với mẹ và chị gái song sinh của mình. Chị cháu không hề hay biết mọi chuyện. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, cháu chỉ sợ làm đau lòng trái tim một người mẹ suốt đời hy sinh vì chồng con. Nhưng không chia sẻ được, không nói ra được sự thật cháu thấy trong lòng nặng nề lắm. Cháu chỉ mong khi nói ra sự thật, mẹ cháu sẽ nói rằng, con đã nghe một câu chuyện thêu dệt của người đời, rằng sự thật không phải vậy, chị em cháu là con đẻ của bố cháu. Nếu điều đó là sự thật, cháu sẽ cảm thấy hạnh phúc biết bao nhiêu. Nhưng nếu mẹ sẽ lặng lẽ khóc và nói với cháu rằng, mẹ xin lỗi con, xin con hãy tha thứ cho mẹ vì đã giấu các con tất cả. Mẹ không muốn các con bị tổn thương bởi những ngoắt ngoéo trong số phận của bố và mẹ. Thì dẫu là thế, cháu vẫn khát khao được đến với sự thật, cho dù sự thật ấy có đau đớn và tàn nhẫn biết bao nhiêu.

Các cô chú ơi, cháu viết câu chuyện này chỉ có một nhu cầu duy nhất là chia sẻ và tìm một lời khuyên. Nếu câu chuyện của cháu được đăng, cháu xin nhắn gửi tới hai người anh trai của cháu ở nơi xa rằng: “Anh ạ, dù thế nào đi nữa, quá khứ và vết thương lòng của em cũng đã qua rồi, em mong tìm lại được sự chia sẻ từ hai anh. Anh hãy hiểu em hơn, em biết rằng lòng anh cũng bao dung và vị tha khi chấp nhận em như một người bạn anh nhé. Em tin rằng, những ngày u ám trong quá khứ rồi sẽ lùi xa, mai này, cuộc đời của em sẽ tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn”.

Kính thư: SB 

Lời BBT

Cháu SB thân quý!

Cháu có quyền biết tất cả sự thật về cuộc đời của cháu, nhất là khi cháu đã 23 tuổi, đã và đang trưởng thành và chịu trách nhiệm bởi cuộc đời của mình. Chúng tôi đồng tình với quan niệm của cháu, dù sự thật ấy có đau buồn nghiệt ngã, thậm chí nó tội lỗi đến đâu thì nó vẫn là sự thật. Nó đẹp hơn ngàn lần mọi điều giả dối khác mà con người có khi buộc phải khoác lên mình những chiếc mặt nạ bi kịch của đời mình.

Chúng tôi nghĩ, đã đến lúc cháu nên trao đổi với mẹ của cháu để được đến gần hơn, chính xác hơn với sự thật. Sau đó, cháu sẽ thấy lòng mình nhẹ nhõm và thanh  thản hơn rất nhiều. Cháu hãy bao dung rộng lượng với những bậc sinh thành, bởi họ có những nỗi đau riêng, những lý do để họ buộc phải giấu đi sự thật. Tất cả cũng chỉ vì yêu thương các cháu  và muốn cho các cháu một cuộc sống tốt đẹp hơn mà thôi. Còn hai người anh trai của cháu, nhất là người anh mà cháu mới gặp sau này, cháu đừng đòi hỏi nhiều hơn những gì mà anh ấy có thể mang lại cho cháu, trừ phi anh ấy tự nguyện. Cuộc sống là vậy, phải biết chấp nhận, bằng lòng, thậm chí cả hy sinh khi ta biết nó không thể thuộc về mình.

Chúc cháu có một cuộc sống hạnh phúc và tốt đẹp hơn. Người nhân hậu và giàu yêu thương như cháu, chắc chắn sẽ có hạnh phúc. Chúng tôi tin như vậy.


62.Câu chuyện thứ 82:Chúng tôi đã tìm được nhau sau 20 năm lưu lạc

Trong suốt 10 năm liền, tôi tiếp tục gửi thư mà không hề có một hồi âm nào. Chiến tranh loạn lạc, niềm hy vọng của tôi mỗi ngày một mờ dần. Với lại sau chiến tranh, tình hình kinh tế quá khó khăn, tôi cũng không có dịp nào để trở lại Hải Lăng tìm ân nhân của mình…

Kính thưa các anh, các chị trong BBT!

Tôi tên là H, quê ở Thanh Hoá. Lớn lên tôi đi nhập ngũ và chiến đấu ở Quảng Trị. Năm 1966, trong một lần đi trinh sát, bị thương nặng, tôi đã được du kích xã Hải Vịnh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị cõng vào một gia đình ở địa phương. Lúc đó tôi bị thương nặng lắm, xã Hải Vịnh lúc này là vùng kháng chiến, thành thử địch càn quét và truy lùng Việt Cộng vô cùng gắt gao. Khi tỉnh dậy, tôi thấy mình nằm trên chiếc chõng tre, đầu tôi gối trên chiếc gối màu hồng thơm phức trong một căn nhà lụp xụp. Có một người con gái và một người con trai hãy còn rất trẻ, đang lúi húi nấu nước muối rửa vết thương cho tôi.

Người vợ sụt sịt: “Anh ơi, trong nhà không có thuốc men gì, cũng chẳng có băng gạc để băng bó vết thương cho anh ấy, chỉ có mỗi nước muối rửa vết thương thôi, em sợ anh ấy chết mất. Em lấy chiếc áo cưới hồi sáng mặc xé ra để băng vết thương cho anh ấy nhé”. Tôi nghe thấy người chồng ngậm ngùi: “Dành dụm mấy năm trời, em mới may được một chiếc áo mới để mặc khi cưới chồng, bây giờ xé đi thì tội cho em quá, anh không nỡ làm vậy”.

Người vợ nhỏ nhẹ: “Anh à, dù sao chiếc áo cưới này em cũng đã được mặc một lần vào đám cưới hồi sáng rồi, như vậy là em thỏa mãn. Nếu mình không làm vậy, anh bộ đội này chết mất vì không cầm được máu. Xé áo cũ, em sợ mồ hôi đã ngấm vào áo rồi, băng vào vết thương, sợ nhiễm trùng thì chết”. Nói rồi người vợ lật đật chạy đi lấy áo. Tôi nghe tiếng vải mới xé rách soàn soạt, trong lòng tôi vô cùng cảm kích, xen lẫn xót xa. Tôi muốn nói một lời cảm ơn mà không thể. Nước mắt tôi ứa ra.

Hai vợ chồng lúi húi chăm sóc cho tôi đến 2 giờ sáng mới đi ngủ. Trong nhà chỉ có độc một chiếc giường tre duy nhất, dành cho cặp vợ chồng mới cưới trong đêm tân hôn. Không nỡ để tôi, một người lính bị thương nặng nằm ở giữa nền nhà không giường chiếu, chăn màn, hai vợ chồng trẻ đã để tôi ngủ cùng họ trên chiếc giường cưới ngay trong đêm tân hôn. Đêm ấy, cả ba chúng tôi nằm bên nhau, người chồng nắm lấy bàn tay người vợ mới cưới và thì thầm: “Em ạ, cho dù mình không có đêm tân hôn mà mình cứu sống được anh bộ đội, coi như là phần thưởng lớn của cả em và anh trong lễ cưới của chúng ta rồi”.

Chúng tôi thiếp đi cho đến 3 giờ sáng thì được tin báo địch đi càn. Hình như từ tối, tin một người lính bị thương nặng được đưa vào ẩn giấu ở trong làng nên địch đã tổ chức một nhóm đi tuần tra. Hai vợ chồng vội vàng cõng tôi xuống hầm bí mật ở trong vườn. Trước khi xuống hầm, người vợ dứt khoát đẩy chúng tôi xuống, dặn chồng phải chăm sóc bảo vệ tôi, còn cô ở lại trên nhà để đối phó với địch.

Trong tình thế cấp bách, mặc dù rất lo cho tính mạng của người vợ mới cưới, song người chồng lúc đó là Trung đội trưởng du kích, lại là người hoạt động bí mật nên đành phải xuống hầm vừa lánh địch, vừa làm nhiệm vụ bảo vệ cho tôi. Theo đúng dự đoán của cả hai vợ chồng, toán lính gồm 3 tên đã vào nhà của hai vợ chồng và tra hỏi về người lính Việt Cộng bị thương nặng hồi tối được đưa vào đây. Người vợ dứt khoát trả lời không biết. Không khai thác được thông tin gì, cả 3 tên kéo nhau ra vườn và dùng lưỡi lê xăm nát cả khu vườn để tìm hầm bí mật. Thật không may, chúng phát hiện ra chiếc hầm bí mật nơi tôi và người chồng đang trú ẩn. Ngay lập tức, chúng bắc loa gọi Việt Cộng đang ẩn náu ở dưới hầm ra đầu hàng.

Bắc loa gọi mãi nhưng trong chiếc hầm vẫn im lặng, không có động tĩnh gì, không hiểu sao, cả 3 tên lính ngại ngần không ai dám nhảy xuống hầm. Ở trên miệng hầm, chúng bàn nhau ném lựu đạn xuống hầm tiêu diệt chúng tôi. Cả ba tên đồng ý. Chúng không chỉ ném một quả mà tới 3 quả lựu đạn xuống miệng hầm. Thật may, chiếc hầm bí mật của gia đình được thiết kế có vách ngăn và có ngách đi sâu vào phía trong. Phía trong cùng lại có lỗ thông hơi lên mặt đất. Do có nhiều kinh nghiệm của việc nuôi giấu cán bộ bí mật để tránh địch đi càn, nên người dân nơi đây rất có kinh nghiệm làm hầm bí mật.

Ba quả lựu đạn nổ, cửa hầm bị sập nhưng do ở phía trong ngách hai của hầm có lỗ thông hơi nên hai chúng tôi không bị nguy hại đến tính mạng. Sau khi cả 3 tên địch bỏ đi, người vợ chạy vội ra hầm vừa đào bới cửa hầm vừa gọi tên chồng, nước mắt trào ra nức nở nghẹn ngào. Ở phía trong hầm, người chồng cũng bới đất bơn bả chui ra, miệng gọi tên vợ thảng thốt: “Dục ơi! Dục ơi”. Cả hai vợ chồng đào bới từ ngoài vào, từ trong ra, miệng gọi tên nhau đầy lo lắng, thậm chí cả tuyệt vọng. Khoảng 30 phút sau thì họ gặp nhau. Cả hai vợ chồng ôm chầm lấy nhau bên miệng hầm và cùng khóc. Nước mắt sung sướng đoàn tụ. Người chồng vội vàng cõng tôi vào nhà đặt lên giường. Từ đó cho đến sáng, hai vợ chồng ra vườn sửa sang lại căn hầm bị sập ngay trong đêm để ngày mai còn có chỗ cho tôi trú ẩn. Vậy là đêm tân hôn đó, tôi là người khách bất đắc dĩ có mặt trong tối hạnh phúc của hai người. Và cũng vì bảo vệ tính mạng cho tôi, vợ chồng họ suýt bị mất mạng.

Mờ sáng hôm sau căn hầm đã được sửa. Hai vợ chồng ngay lập tức cõng tôi xuống hầm bí mật để nuôi giấu. Từ đó tôi sống dưới hầm bí mật của gia đình hai vợ chồng mới cưới. Tôi sống trong tình thương vô hạn của cặp vợ chồng sẻ chia cho tôi trong bữa ăn nghèo khổ và đạm bạc của họ.

Tôi nhớ, mỗi lần đưa thức ăn xuống bón cho tôi, bữa nào có cơm và thức ăn, người vợ còn vui vẻ động viên tôi, bữa nào chỉ có củ khoai hay củ sắn, người vợ vừa đút cho tôi ăn, vừa thút thít khóc. Cô nói: “Thương bộ đội quá nhưng cả làng bữa nay không còn hột gạo nữa anh à. Anh ráng ăn để còn mau khoẻ trở về đơn vị”. Càng ngày vết thương bắt đầu bốc mùi hôi thối, và có dấu hiệu hoại tử. Tôi càng sốt cao nhiều hơn, trạng thái mê mê tỉnh tỉnh. Hai vợ chồng chỉ biết cắn răng nhìn nhau khóc. Người vợ quyết định nói với chồng: “Anh ơi, nếu vợ chồng mình không đưa anh bộ đội này vào căn cứ tìm đơn vị để trao lại cho đơn vị chạy chữa thuốc men cho anh ấy, chắc anh ấy chết mất”. Vậy là trong đêm, nhờ móc nối với liên lạc, hai vợ chồng đã cõng tôi ngược lên rừng, vào căn cứ và tìm gặp được một đơn vị bộ đội và trao tôi cho đơn vị đó. Thật ra, lúc đó, tôi gần như mê man bất tỉnh, cũng chẳng nhớ được gì. Chỉ biết rằng hai vợ chồng tên là Trí, Dục, ở xã Hải Vịnh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.

Tôi được ra Bắc điều trị lành vết thương, rồi về công tác ở huyện nhà. Sau khi đất nước giải phóng, tôi tìm mọi cách để liên lạc với hai vợ chồng mà lúc bấy giờ tôi chỉ nhớ mang máng rằng nếu chồng tên Trí thì vợ tên Dục, vợ tên Trí thì chồng tên Dục ở xã Hải Vịnh hoặc xã Hải Thành, Hải Lăng, Quảng Trị. Tôi đã gửi bức thư thứ nhất ngay sau năm 1975 kể lại toàn bộ câu chuyện trên với mong muốn được tìm lại ân nhân của mình ngoài phong bì ghi địa chỉ như vậy.

Trong suốt 10 năm liền, tôi tiếp tục gửi thư mà không hề có một hồi âm nào. Chiến tranh loạn lạc, niềm hy vọng của tôi mỗi ngày một mờ dần. Với lại sau chiến tranh, tình hình kinh tế quá khó khăn, tôi cũng không có dịp nào để trở lại Hải Lăng tìm ân nhân của mình. Ở Bưu điện Hải Lăng, cứ những bức thư không có người nhận, không có địa chỉ rõ ràng, theo quy định đến một thời gian nhất định nào đó thì bưu điện sẻ huỷ. Anh Thông, cán bộ bưu tá của huyện là người thực hiện nhiệm vụ huỷ các thư vô chủ. Trước khi huỷ thư, anh đã cẩn thận mở ra tất cả các lá thư và đọc lại một lượt để có thể tìm được dấu tích của người nhận thì giúp đỡ họ. Vốn là một người có trách nhiệm, có tâm với nghề, nên khi đọc đến bức thư của tôi, anh Thông đã lặng người chảy nước mắt vì xúc động. Anh quyết định giữ lại bức thư của tôi và đích thân xuống hai xã Hải Vịnh, Hải Thành, Quảng Trị để âm thầm giúp tôi tìm ân nhân là vợ chồng Trí và Dục.

Không biết bao nhiêu lần, anh Thông đã đạp xe đến mòn chân nhưng lạ thay không một ai ở 2 xã đó biết hai vợ chồng có tên Trí và Dục. Quá thất vọng, anh Thông đã không tiến hành việc tìm kiếm nữa. Nhưng, không hiểu sao, anh vẫn không quyết định huỷ những bức thư của tôi. Một lần nữa bức thư đã nằm ở Bưu điện 10 năm, nằm thêm ở nhà anh Thông 10 năm nữa. Những ám ảnh về câu chuyện xúc động cứ theo suốt anh Thông trong 10 năm ấy.

Một hôm, đến xã Hải Vịnh công tác, anh Thông gặp một người già nhất ở xã, và tự nhiên anh tâm sự với cụ chuyện hơn 10 năm nay anh giữ bức thư của một người tên Huyên ở Thanh Hoá tìm ân nhân của mình mà anh ta chỉ nhớ được mỗi tên chồng là Trí thì vợ là Dục, chồng là Dục thì vợ là Trí ở xã Hải Thành hoặc Hải Vịnh. Thật vô cùng may mắn khi ông già đập trán nhớ ngay ra. “Đúng rồi, thằng Trí Tiện chứ còn ai vào đấy nữa. Mày hỏi thằng Trí mà bảo vợ nó tên Dục thì người ta không biết là phải thôi”.

Ngay sau đó ông già đưa anh Thông tới nhà ông Trí Tiện. Thật lạ lùng, đúng vào lúc đó gia đình nhà ông Trí Tiện đang làm ngày kỵ cho người vợ quá cố tên là Dục.  Sau khi nghe anh Thông kể rõ ngọn ngành câu chuyện, ông Trí quỳ sụp trước am thờ và vái lia lịa. Thì ra, đây là cái am thờ vợ chồng ông Trí đã thờ anh bộ đội tên Huyên năm xưa là tôi, vợ chồng ông nuôi giấu hơn 1 tháng trong hầm bí mật tại nhà. Khi cõng người lính bị thương nặng lên rừng tìm đơn vị trong tình trạng vết thương đã hoại tử, bốc mùi, và mê man bất tỉnh như vậy, cả hai vợ chồng ông Trí chắc chắn rằng người lính kia sẽ không thể sống nổi để ra Bắc chữa trị.

Mặc dù đã cố gắng hết sức để cứu người lính, nhưng lực bất tòng tâm nên sau đó, cả hai vợ chồng ông Trí rất day dứt, áy náy lương tâm. Người vợ bàn với chồng về nhà lập một cái am nhỏ trước sân thờ vong linh của người lính mà họ đã nuôi giấu. Không ngờ, chính trong đêm cõng tôi ra căn cứ, cả hai vợ chồng ông đã bị địch phục kích, ông Trí chạy thoát, còn bà Dục bị địch bắt. Lúc này, bà Dục vừa mới chớm có thai đứa con đầu lòng. Số phận thật bi thảm, bà Dục sau này sinh con ở trong nhà tù và cả hai mẹ con đều bị chết vì băng huyết.

Sau khi chờ đợi mỏi mòn người vợ bị địch bắt, ông Trí nhận được tin dữ cả hai mẹ con đã hy sinh trong tù. Ông Trí rất đau khổ. Ông lập hai chiếc bàn thờ, một ở trong nhà thờ vợ, một để ở ngoài thờ tôi, người lính năm xưa. Từ bấy đến nay, đã 20 năm ròng rã, không có lúc nào, ông Trí không thắp hương cho linh hồn tôi nơi cái am thờ này. Mấy năm gần đây, có điều kiện, ông đã xây lại cái am thờ đàng hoàng, ghi tên thờ liệt sỹ tên Huyên. Trong thâm tâm của ông Trí, tôi không thể nào sống nổi, chắc chắn tôi đã chết vì vết thương quá nặng. Ông Trí có ngờ đâu, suốt 20 năm qua, tôi, người lính bị thương nặng năm xưa lúc nào cũng đau đáu một nỗi hoài mong tìm gặp lại được cặp vợ chồng ân nhân của mình.

Chúng tôi đã có cuộc hội ngộ trùng phùng đẫm nước mắt qua sự liên lạc của anh Thông bưu điện xã. Tôi và con trai tôi đã vào nhà ông Trí để thắp hương cho bà Dục vì cứu tôi, vì cách mạng mà hy sinh. Tôi và con trai đã ở lại Hải Vịnh trong một tháng để hàn huyên tâm sự. Sau đó, cha con ông Trí cũng đã ra nhà tôi chơi. Chúng tôi kết nghĩa anh em từ đó.

Tôi là thương binh nặng, nên sức khoẻ yếu, năm nào tôi cũng muốn vào Quảng Trị thắp hương cho đồng đội và đến nhà ân nhân của tôi nhưng sức khoẻ không cho phép. Trong lòng tôi luôn hướng về Hải Lăng, Quảng Trị, nơi cất giấu những năm tháng khốc liệt của đời lính, và cũng là nơi tôi được cứu sống, được sinh ra thêm một lần nữa trong đời.

Lời BBT:

 

Anh NVH cùng độc giả trang 31 kính mến!

 

Không phải cứ câu chuyện khó tin nhưng có thật nào cũng phải éo le trắc trở, nội dung phải đau đớn, tan nát, tang thương. Có những câu chuyện đẹp và giản dị như câu chuyện quý vị vừa được đọc. Đó là những bí mật nhỏ nhoi và trong trẻo trong cuộc sống vốn kỳ bí này. Qua đây, chúng tôi cũng mong rằng sẽ nhận được nhiều những câu chuyện đẹp như thế nữa gửi đến cho chúng tôi để quý vị sẽ không cảm thấy những câu chuyện khó tin và có thật luôn chứa những bi kịch mang sắc màu ảm đạm, thê lương. Xin cảm ơn quý vị. Bài trang 31 xin gửi về: Nhà văn Như Bình. 66 Thợ Nhuộm, Hoàn Kiếm, Hà Nội. ĐT: 048224756. email: nhubinh9@gmail.com.


63.Câu chuyện thứ 83: Ước gì tôi có thể tha thứ được cho cha tôi

Đã biết bao lần tôi chủ động đi qua trước mặt ông, nhìn thẳng vào mắt ông, chờ đợi một cử chỉ cha con, nhưng ông ấy đã lảng tránh, cúi gằm mặt xuống hoặc quay đi hướng khác. Nhiều đêm tôi nằm mơ gặp ông, được ông nhận con, tôi sung sướng, toàn thân run lên bần bật và khóc trong mơ, nước mắt ướt đầm gối. Lên cấp II không chịu nổi lời đàm tiếu của bạn bè trẻ con vô tâm đến tàn nhẫn rằng tôi là đứa con hoang, tôi chỉ muốn lao đầu xuống sông mà chết…

Kính thưa các anh, các chị trong BBT!

Tôi là Văn L, hiện đã 46 tuổi. Tôi sinh ra và lớn lên ở một làng thuần nông nghèo thuộc vùng chiêm trũng của xã T, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định nhưng vì buồn riêng mà bỏ quê xa xứ, đi tìm kiếm cuộc sống tha hương cầu thực trên đất khách quê người. Cuộc đời tôi chỉ có một ý nghĩa duy nhất là cặm cụi tối ngày kiếm tiền nuôi vợ nuôi con. Tối về lại lấy chén rượu giải sầu. Mấy tháng nay, nhờ một người hàng xóm hay đi về TPHCM, lần nào về ông cũng mang sang một tập báo, trong đó có 3 tờ báo ANTG Cuối tháng, Giữa tháng, nhờ đó mà tôi được đọc 3 câu chuyện khác nhau trên chuyên mục “Chuyện khó tin và có thật”.

Tôi đã đọc đi đọc lại 3 câu chuyện này rất nhiều lần, lần nào nước mắt tôi cũng chảy đầm đìa. Thì ra, trên đời này, đâu mỗi mình tôi khổ, mà những mảnh đời kia còn bất hạnh và tận khổ hơn tôi nữa. Dù rất xót đau khi nghĩ đến người, ngẫm đến mình nhưng dù sao, 3 câu chuyện trên báo như ba luồng gió mạnh thổi vào tâm hồn tôi, làm con tim tôi xao động đến kỳ lạ. Tôi quyết định kể ra câu chuyện của đời mình, thiết tha mong BBT sửa lại lời văn để câu chuyện của tôi được đăng lên, đến được họ hàng dòng tộc của “cha tôi”, đến được người vợ chính thống của ông ấy, cùng các con được ông ấy đứng tên khai sinh. Tôi cũng hy vọng một ngày không xa, họ sẽ phát đi tín hiệu để cho phép tôi đưa vợ con về quê hương nhận lại họ hàng anh em ruột thịt.

“Cha tôi” và mẹ tôi là người cùng một xóm, nhà sát cạnh nhau, đi chung ngõ chung lối. Vì mẹ tôi là bên Giáo, “cha tôi” bên Lương nên việc yêu nhau và cưới nhau là cả một vấn đề, nhất lại là khi cả hai người còn quá trẻ. Khi mẹ tôi báo tin cho “cha tôi” rằng bà đã có thai tôi, ông ấy đã hoảng sợ tột độ.

Ngày đó, những thanh niên mới lớn đều nhập ngũ đi ra chiến trường, chuyện có thai, chửa hoang là một việc xấu xa không một ai chấp nhận được. Ông ấy đã bàn với mẹ giải quyết bằng hai bước. Bước một đánh lạc hướng dư luận nói dối cái thai trong bụng là của một người trên thành phố. Tạo điều kiện thuận lợi cho ông ấy đi thoát ly khỏi làng. Bước hai sau khi sinh nở xong, ông ấy sẽ về nhận mẹ nhận con.

Vì quá yêu và bản thân rơi vào thế cùng đường, mẹ đã đồng ý nhẫn nhục mang tiếng xấu để cho ông ấy thoát ly khỏi làng. Chuyện mẹ có thai không phải gia đình họ hàng của ông ấy không biết. Nhưng gia đình họ là những người có vai vế ở địa phương, không chịu đựng được nỗi ô uế này nên đã họp bàn kế sách để con cháu mình thoát tội, vô can. Mặt khác, họ hùa cùng dân làng thêm mắm, thêm muối chuyện chửa hoang của mẹ tôi để đánh lạc hướng, nhằm đổ mọi tiếng xấu lên đầu mẹ tôi. 

Tháng 2/1962, kể từ sau hai tháng biết mẹ tôi có thai, ông ấy đã đi bộ đội. Mẹ ở nhà vẫn thường xuyên qua lại bên nhà cha mẹ ông ấy để hỏi thăm tin tức. Nhà ông ấy cũng hiếm hoi, có hai chị em, người chị đã lấy chồng xa. Mẹ tôi một mực tin tưởng sau khi sinh xong, ông ấy sẽ về nhận vợ nhận con. Khi tôi lớn lên, tôi hỏi mẹ về cha, mẹ tôi kể ngọn ngành tỷ mỉ việc mẹ có thai tôi và sinh nở như thế nào, cha tôi tên là Đ, hàng xóm ngay cạnh nhà, cha đang đi chiến đấu ngoài mặt trận. Mẹ con mình phải kiên trì chờ đợi, nhất định ông ấy trở về, sẽ nhận mẹ con mình.

Tôi càng lớn hàng xóm bảo càng giống ông Đ như đúc. Trông hai người như hai giọt nước. Tôi càng tin lời mẹ và chờ đợi. Không ngờ, ông ấy đi một mạch cho đến khi hòa bình lập lại cũng vẫn “bặt vô âm tín”, không có một lá thư, không lời động viên thăm hỏi. Sau khi hòa bình, ông ấy có về nhưng chỉ đáo qua một lúc để thăm cha mẹ rồi lại vội vàng đi ngay để tránh gặp mẹ con tôi. Lúc này mẹ tôi mới cảm nhận được bản chất của sự việc. Chỉ khổ cho mẹ, chờ đợi lời hứa của người yêu dằng dặc hàng chục năm, hết cả tuổi xuân thế mà vẫn cứ một mực tin tưởng. Đến lúc này, mẹ hận quá, tuyên bố với cả làng quyết không cho ông ấy đi lấy vợ. Thế là cuộc xung đột dữ dội giữa mẹ tôi và gia đình nhà ông ấy trở nên quyết liệt, ầm ỹ ở làng.

Sau đó 3 năm, mỏi mệt vì tranh đấu mà không có kết quả, mẹ không kiên trì nữa mà nghe người ta khuyên nhủ đi xây dựng gia đình với một người góa vợ để nương tựa lúc tuổi già. Nhưng mẹ con tôi vẫn ở căn nhà cũ của ông bà ngoại để lại. Hằng ngày, tôi vẫn đi qua căn nhà của người được gọi là “cha tôi”, và tôi luôn tìm cớ nán lại, nhìn vào trong với hy vọng gặp được ông ấy, trong lòng ấp ủ hy vọng dù mong manh rằng: sẽ có một ngày ông ta sẽ vượt qua được hủ tục tập quán để dũng cảm đương đầu trước dư luận để nhận lấy giọt máu của mình đang lầm than côi cút giữa đời.

Hai năm sau ngày mẹ lấy chồng, ông ấy mới lấy vợ. Vợ ông là một cô giáo đứng tuổi, ở tít tận Thanh Hóa, nhưng lại dạy học ở Trường cấp III Vụ Bản, Nam Định. Ngày cưới của ông, gia đình chỉ sợ mẹ con tôi sang phá nên đã lên phương án phòng thủ cưới thật nhanh. Hôm cưới, mẹ tôi vác cuốc ra đồng làm đến tối mịt mới về. Chỉ mình tôi đứng núp sau bụi tre nhà mình, ngó trộm sang nhà ông ấy và khóc nức nở. Tôi biết, từ đây, vĩnh viễn mình sẽ không được nhận cha nữa. Trong lòng tôi lúc ấy rất căm hận ông ấy. Ông ấy và vợ sinh được hai con, 1 trai, 1 gái, cả hai đều tốt nghiệp sư phạm và làm nghề dạy học. Cũng kỳ lạ, kể từ ngày ông ta có vợ, ông đi về thăm vợ và con cũng tranh thủ, lén lút và chớp nhoáng. Về không ai biết, đi không ai hay. Ông tránh tiếp xúc gặp gỡ với bà con chòm xóm, cũng chẳng bao giờ đến chơi nhà ai, thăm hỏi nhà ai. Tính tình ông ấy trầm hẳn, ông sống khép kín trong bốn bức tường của ngôi nhà bên cánh đồng lộng gió.

Đã biết bao lần tôi chủ động đi qua trước mặt ông, nhìn thẳng vào mắt ông, chờ đợi một cử chỉ cha con, nhưng ông ấy đã lảng tránh, cúi gằm mặt xuống hoặc quay đi hướng khác. Nhiều đêm tôi nằm mơ gặp ông, được ông nhận con, tôi sung sướng, toàn thân run lên bần bật và khóc trong mơ, nước mắt ướt đầm gối. Lên cấp II không chịu nổi lời đàm tiếu của bạn bè trẻ con vô tâm đến tàn nhẫn rằng tôi là đứa con hoang, tôi chỉ muốn lao đầu xuống sông mà chết. Cay đắng và chán chường, tôi bỏ học, bỏ nhà ra đi quyết chí học nghề kiếm sống. Học được nghề mộc, làm nghề được hơn 10 năm, tay nghề đã vững chắc, tôi dành dụm được số tiền về quê. Đó là năm 1993, khi tôi đã 31 tuổi, ước muốn về quê thăm mẹ, tôi còn hy vọng biết đâu, sau chừng ấy thời gian, ông ấy đã già, đã biết thấm những nợ nần ân nghĩa ở đời mà nhận tôi là con khi chưa quá muộn. Tôi về nhà, lòng thấp thỏm chờ đợi cho đến ngày chủ nhật ông về quê thăm vợ con. Tôi ngồi sẵn ở gốc cây đầu ngõ nhà để đón đường ông. Cả 3 lần ông đi ra giáp mặt với tôi ông đều lẩn tránh. Tôi quá đau khổ và hết mọi hy vọng. Tôi trở về nhà, đêm đó tôi khóc suốt đêm cho tới khi không còn một giọt nước mắt nào nữa. Sáng ra hai mắt tôi đỏ au, sưng húp. Mặc cho mẹ tôi nài nỉ khuyên can nhưng tôi dứt khoát một lòng từ biệt mẹ, quê hương. Tôi thề sẽ không bao giờ quay trở về làng quê này nữa. Cái làng có một người cha đớn hèn không dám nhận giọt máu rơi của mình.

Sáng hôm sau, tôi khoác ba lô vào Nam, và tìm đường sang Campuchia sinh sống làm ăn. Tôi lấy vợ và sinh con. Mặc dù đã thề độc không bao giờ quay trở lại quê hương, nơi mảnh đất chôn rau cắt rốn với những ký ức buồn bã và cay đắng, nhưng ở đất khách quê người không lúc nào tôi không khắc khoải một nỗi phiền muộn. Tôi nghĩ đến mẹ, càng thương bà nhiều, nhưng do đứt liên lạc với mẹ, nên hai mẹ con lâu không liên lạc với nhau. Và trong thẳm sâu, tôi vẫn nghĩ về người đàn ông ấy, cho dù trong lòng rất hận. Thế rồi, sau bao nhiêu trăn trở, tôi đã quyết định khăn gói trở về quê hương một lần nữa.

Lần trở về quê lần này, tôi không gặp được mẹ vì biết mẹ tôi sau ngày tôi đi không lâu đã bỏ quê vào Nam với con gái cùng mẹ khác cha của tôi để ở hẳn trong đó. Tôi đã lặn lội vào Nam tìm gặp mẹ. Trên đường chuẩn bị vào Nam, tôi có ra Hà Nội và tình cờ gặp một người, là bạn thân ngày xưa của ông Đ. Ông ấy cũng thoát ly đi bộ đội như ông Đ, sau đó định cư ở Hà Nội. Câu chuyện mà người bạn của ông Đ kể lại cho tôi thật cay đắng. Ngày xưa, khi biết mẹ tôi có thai, ông ấy đã tâm sự với bạn thân của mình rằng ông ấy rất thương mẹ tôi, rất muốn nhận con nhưng ông sợ cha mẹ họ hàng nên đã nghe theo những chỉ đạo của cha mẹ nên đã hắt hủi mẹ con tôi. Thật ra, từ ngày ấy đến giờ, ông ấy chưa có một ngày nào sống thanh thản. Những nỗi giày vò đã hành hạ bản thân ông, đã làm cho cuộc sống của ông Đ trở nên u ám, mệt mỏi và đầy tự ti.

Ông Đ đã lấy vợ rất muộn, lấy một người đứng tuổi theo mai mối và sắp đặt của gia đình. Cuộc sống của vợ chồng ông Đ cũng khép kín. Do những mặc cảm về sai lầm trong quá khứ, ông đã tránh tiếp xúc, quan hệ với tất cả mọi người. Vì những giày vò ấy mà sức khỏe, nội tâm và tinh thần của ông Đ không được tốt. Ông về hưu năm 1996. Đến năm 2001 ông bị bệnh hiểm nghèo không qua nổi ra đi khi độ tuổi chưa đến 60. Trước giây phút lâm chung, vợ ông Đ kể lại cho bạn thân của ông Đ rằng, nước mắt ông Đ cứ chảy ra, chảy ra hoài. Ông Đ mấp máy môi nhiều lần, đôi mắt tuyệt vọng của ông hướng vào hư vô. Hình như ông Đ muốn nói cái gì đó, trối trăng điều gì đó với người thân nhưng ông không thể. Ông đã ra đi trong nước mắt, trong một nỗi giày vò. Cả gia đình ông Đ thấy ông Đ ra đi không được thanh thản, nên tất cả đều buồn.

Các anh, các chị trong BBT ơi. Tôi đã rất hận ông Đ, người sinh ra tôi, nhưng sau khi nghe câu chuyện của người bạn ông Đ kể lại, tôi đã ứa nước mắt. Tôi không có điều kiện để trở lại thăm mộ ông Đ và thắp cho ông ấy nén hương, để nói với ông ấy rằng, “cha ơi, ước gì con có thể tha thứ được cho cha. Có tha thứ được cho cha, lòng con mới nhẹ bớt nỗi đau riêng, tâm con mới thanh thản”. Nhưng, nếu có thể được thì tôi lấy tư cách gì để làm việc này chứ. Tôi quyết định nhờ bạn của ông Đ viết lại câu chuyện này để gửi lên quý báo.

Giờ đây gia đình tôi và gia đình ông Đ sống ở hai phương trời xa thẳm, coi như đã an phận. Nhưng trong sâu thẳm, tôi vẫn nuôi một chút hy vọng dù mỏng manh rằng sau khi câu chuyện của tôi được đăng, những người trong cuộc bên gia đình ông ấy sẽ đọc được. Tôi chỉ muốn nhắn nhủ tới hai người em cùng cha khác mẹ ở quê rằng, chúng ta hãy từ bỏ những oán thù trong quá khứ. Hãy lấy tình ruột thịt làm trọng để có anh có em. Để tôi có cơ hội được trở về quê, quỳ trước bàn thờ nhận cha, trước tổ tiên để nhận họ. Tôi tin rằng, làm được điều này, dưới suối vàng ông ấy cũng sẽ ngậm cười.            

Kính thư: Văn L

Lời BBT:

Anh Văn L kính mến! Câu chuyện của anh thật buồn. Anh đã có một người cha rất đớn hèn, nhu nhược, có con đấy nhưng chẳng dám nhận đứa con mình sinh thành. Tất nhiên, cha anh đã có những lý do để dẫn đến sai lầm. Từ sai lầm này nối tiếp những sai lầm khác, để rồi trở nên quẫn trí và không thể tìm được lối ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Xét cho cùng, cha anh thật đáng trách nhưng cũng thật đáng thương. Như anh kể thì không chỉ về cuối đời, ông ấy mới sống day dứt đau khổ. Thực ra, ngay từ khi bỏ mẹ con anh ông đi, ông ấy đã lâm vào day dứt và giày vò rồi.

Qua câu chuyện của anh, chúng tôi tin rằng, ông ấy chưa bao giờ cảm thấy trọn vẹn hạnh phúc trong cuộc sống, hay trong chính gia đình riêng của mình. Phải từ chối đứa con ruột thịt, từ chối người phụ nữ mình yêu thương là việc cực chẳng đã. Giá như ông ấy ý chí mạnh mẽ hơn, đủ bản lĩnh hơn để bảo vệ được tình yêu của mình thì đâu đến nỗi bi kịch đến tận bây giờ.

Chúng tôi cũng thấy rằng, anh là một người con sống có hiếu, có tình. Cha mình dù chối bỏ song vẫn khao khát tình cha và mong được nhận cha để hóa giải mọi thù hận. Chúng tôi chỉ mong rằng những người còn lại trong họ hàng gia đình cha anh sau khi đọc được câu chuyện này, sẽ sớm liên lạc với anh. Chúc anh mau chóng nhận lại được gia đình họ hang.


64.Câu chuyện thứ 84: Cầu xin con hãy tha thứ cho bố

Tôi xin gửi đến quý báo lời tâm sự của tôi, một nỗi đau khôn cùng, sự bất hạnh lớn lao và là lời sám hối muộn màng, mong được sự chia sẻ của các quý vị độc giả, để làm vơi đi những nỗi đau thương, sầu nhớ, ân hận… chứa chất trong lòng tôi suốt ba năm qua.

Tôi sinh ra trong một gia đình công nhân nghèo tại Hà Nội. Bố tôi là một công nhân lành nghề, trong cuộc kháng chiến chống Pháp là tự vệ thành Hà Nội, khu Hàng Cót. Hoà bình lập lại, do phấn đấu và công tác tốt nên ông dần được đề bạt vào vị trí lãnh đạo. Bố mẹ tôi sinh được ba người con, tôi là con trai thứ, trên tôi là anh cả và dưới tôi là cô em út. Chúng tôi đã lớn lên trong nghèo khó nhưng hạnh phúc, cuộc sống cứ êm ả trôi đi thật nhanh cho đến một ngày đầu thu năm 1979, tôi nhận được tin dữ: cả bố và anh trai tôi đều mất trong một vụ tai nạn giao thông. Nỗi bất hạnh kinh hoàng đổ sập lên gia đình tôi, cả hai người đàn ông trụ cột chính không còn nữa, gánh nặng gia đình lúc bấy giờ được đặt lên hai vai tôi, khi đó đang phục vụ trong quân ngũ.

Sau cú đánh định mệnh đó, tôi xin ra quân, trở về đi làm nuôi người mẹ ốm đau, héo hắt vì mất chồng, mất con và bà nội già yếu đã 80 tuổi. Nỗi đau chồng chất nỗi đau, tôi chỉ còn biết nén nỗi đau vào lòng để vươn lên vượt qua chính mình. Tôi trở thành người có vị trí quan trọng trong gia đình, vì từ nay tôi thay vị trí của anh trai tôi là trưởng nam, có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên và nối dõi tông đường. Vì buồn bã mà tôi cứ nấn ná mãi. Song không thể trốn tránh được trách nhiệm đối với gia đình và họ hàng. Sáu năm sau khi cha và anh tôi mất thì tôi mới lấy vợ. Khi đó tôi đã 33 tuổi. Cuối thu năm ấy chúng tôi làm lễ thành hôn. Mẹ tôi và họ hàng hai bên nội, ngoại đều vui mừng khôn xiết và hạnh phúc hơn nữa là năm sau, vợ tôi sinh con trai đầu lòng, đó là một ngày cuối tháng mười năm Giáp Tý.

Hạnh phúc dồn dập đến với tôi, chỉ ít năm sau chúng tôi lại được cơ quan phân nhà tập thể ở giữa lòng thành phố. Tuy diện tích chỉ có 20m2, nhưng với hai vợ chồng và một đứa con nhỏ cũng vừa đủ. Hơn nữa trong thời bao cấp, được một căn hộ ở một con phố lớn giữa trung tâm thành phố là hạnh phúc lắm rồi. Tất cả mọi người đều mừng cho tôi “Qua cơn bĩ cực đến ngày thái lai”. Tôi sống trong hạnh phúc tràn trề, rồi tiếp theo đó tôi lại được nhận công tác mới, đồng nghĩa với lên chức, lên lương. Sung sướng tột độ, tôi chỉ còn biết cảm ơn trời, Phật, ông bà nội, bố và anh trai đã phù hộ cho tôi.

Theo năm tháng, con tôi lớn lên trong vòng tay yêu thương của bố mẹ, sự chăm bẵm của bà nội, ông bà ngoại và các bác các cô… Vợ tôi sau khi sinh con đã thực hiện kế hoạch hoá gia đình vì không muốn đẻ dầy, nhưng không may bị viêm nhiễm nên không còn khả năng sinh đẻ nữa. Vì thế tôi chỉ có một đứa con trai mà thôi. Con trai tôi là một đứa bé ngoan, tính tình hiền lành và nhút nhát. Suốt những năm học tiểu học đến PTTH cháu không đua đòi như những đứa trẻ hư khác, ngoài giờ đi học, cháu chỉ chơi ở nhà và quấn quýt bên tôi như người bạn thân đồng cảm.

Phải nói rằng tôi yêu cháu lắm, bù lại cháu cũng rất hợp với tôi, có thể vì cùng là đàn ông nên mọi tâm sự cháu đều sẻ chia với tôi. Thấy cháu ngày càng khôn lớn, trưởng thành, tôi thấy hạnh phúc và lòng tràn đầy sung sướng.Nhưng cuộc đời thật trớ trêu, ông trời đã cho tôi một báu vật vô giá, một niềm hạnh phúc lớn lao, nhưng tôi đánh mất nó một cách vô tình mà tôi phải ân hận suốt cuộc đời này. Đó là lúc con tôi bước vào đại học, tuổi mười tám đôi mươi tràn đầy sức sống, môi trường giao tiếp rộng hơn, nhu cầu sinh hoạt cũng đòi hỏi tăng theo. Nhưng tôi lại khắt khe với cháu, cũng bởi tại cái tính tiết kiệm, chi ly của tôi, hay nói một cách khác mà tôi cứ tự nguyền rủa bản thân mình. Đó là thói bủn xỉn và keo kiệt, nó đã làm hại tôi.

Không biết có phải vì thời trai trẻ của tôi phải sống trong nghèo khó nên bây giờ tôi sinh ra tiết kiệm, hay là bản tính bẩm sinh đã cầm tinh lão Gơ-răng-đê. Chỉ biết rằng chính nó đã làm hại tôi, cho đến bây giờ tôi vẫn không thể tha thứ cho mình được. Những đòi hỏi của con tôi đáng lẽ phải được đáp ứng vì nó cũng chỉ là nhu cầu cho một cuộc sống bình thường giữa chốn đô thành của một thanh niên đầu thế kỷ XXI, ví như cháu cần một đôi giầy thời trang, một bộ quần áo hợp mốt hay một chiếc điện thoại di động sành điệu… Về điều kiện kinh tế thì tôi có thể đáp ứng được vì cũng muốn cháu ra đường không thua anh, kém em. Nhưng thói keo kiệt của tôi lại nổi lên mỗi khi nhắc đến tiền, do vậy tôi lại khất lần cháu rằng: con vẫn còn nhiều quần áo, giầy dép. Còn điện thoại di động thì chưa cần thiết, sau này đi làm hẵng hay, cần phải tiết kiệm để chi dùng những việc cần thiết. Nhìn nét mặt thất vọng của cháu, tôi cũng thương lắm, trong tâm can tôi luôn bị giằng xé bởi một bên là lương tâm, trách nhiệm người cha và một bên là bản tính keo kiệt, bủn xỉn. Nhưng cuối cùng thì tính keo bẩn của tôi lại chiến thắng.

Về chỗ ở của tôi thì như đã kể ở trên, hồi nhỏ tôi sống cùng gia đình tại một phố nhỏ gần Hồ Gươm. Sau khi ông nội tôi mất, bố tôi nhượng căn nhà này và mua một miếng đất ở ngoại thành, hồi đó những năm đầu thập kỷ 60 đất đai rẻ lắm, nên miếng đất mua được hơn 1 sào. Sau khi tôi lấy vợ sinh con, cơ quan thấy hoàn cảnh tôi ở xa, con nhỏ đi lại khó khăn nên phân cho nhà tập thể. Em gái tôi lấy chồng xa, nên mẹ tôi cho hai vợ chồng cô ấy 100m2, cô ấy đã xây được căn nhà bốn tầng khang trang. Còn mấy trăm mét vuông nữa mẹ tôi dành cho tôi, nhưng tôi vẫn ở nhà tập thể trong nội thành để đi làm cho gần.

Khi con tôi còn nhỏ thì 3 người sống trong diện tích 20m2 là cũng tạm ổn, khi con tôi lớn lên thì căn nhà bỗng trở nên quá hẹp. Căn phòng phải ngăn 1 phần cho khu phụ, còn lại là 3 trong 1 vừa là phòng khách, phòng ăn, phòng ngủ. Sinh hoạt chật chội, thiếu thốn, nhiều lần con tôi muốn tôi xây nhà trên miếng đất ở ngoại thành, nhưng tôi cứ lấn bấn mãi vì chưa đủ tiền. Vì thương đứa cháu nội, mẹ tôi bán đi 100m2 đất để tôi có tiền xây nhà, lúc đó khu đất bán rất được giá vì mới được sáp nhập vào nội thành. Bản tính keo kiệt của tôi lại nổi lên khi tôi có một số tiền lớn như vậy, tôi cẩn thận gói chúng lại và cất kỹ vào trong tủ, để rồi thi thoảng lại đem ra đếm, hít hà mùi thơm của những đồng tiền mới cáu cạnh và lòng thì lâng lâng vui sướng. Tôi giải thích với cháu rằng: Mình cứ tạm thời sống như thế này là đủ rồi, sau này khi con lấy vợ sẽ xét sau… 

Con tôi thất vọng vô cùng, cháu trở nên buồn bã, lặng lẽ như một chiếc bóng, âm thầm sống trong căn nhà tập thể chật chội, sập xệ vì xuống cấp và cả vì thiếu thốn trong sinh hoạt hằng ngày. Lắm khi tôi cũng thấy thương con nhưng không hiểu ma xui, quỷ khiến thế nào mà tôi không thể nào vượt qua được tính bủn xỉn, keo kiệt đó. Bây giờ mỗi khi nhớ lại những ngày đó, tôi cảm thấy ân hận vô cùng và tự nguyền rủa mình mãi không thôi, vì rằng tôi đã phải trả một cái giá quá đắt.

Sinh hoạt chật chội nên con tôi thường hay về bên bà nội và ngủ cùng phòng cậu em họ, cảm thấy cũng bất tiện nên cháu lại chuyển sang đi chơi đêm tại quán điện tử gần nhà. Đến sáng, khi hai vợ chồng tôi đi làm thì cháu mới trở về nhà, thoải mái một mình trên chiếc giường của tôi đánh một giấc ngon lành. Chiều dậy đi học, tối đi chơi điện tử.

Lúc đầu tôi cũng lo lắm đi tìm cháu về, nhưng sau thấy cháu vẫn chăm chỉ học hành và quan trọng hơn là cháu không bị sa ngã vào các tệ nạn xã hội như nghiện hút, cờ bạc… cho dù cháu có nỗi buồn về gia đình, nên tôi cũng phó mặc cho lối sinh hoạt của cháu. Hai bố con vì thế nên cũng ít khi gặp mặt nhau, thi thoảng gặp con thấy cháu gầy sút đi, lòng tôi thấy quặn đau, tôi cứ nghĩ rằng cháu sẽ giận tôi lắm vì để cháu phải sống khổ như vậy. Nhưng ngược lại, tình yêu của cháu dành cho tôi vẫn tràn đầy như thuở nào, cháu nhào đến ôm ghì lấy tôi, mỗi lần như thế cháu đều hỏi: Bà nội bảo bố về xây nhà đi để bà được ở với con. Tôi cảm động lắm nhưng rồi cũng vỗ về an ủi cháu cho qua chuyện, tôi là người bố tồi, đã sinh cháu ra mà không có trách nhiệm mang đến cho cháu cuộc sống đầy đủ, trong khi tôi có đủ điều kiện làm việc đó. Tôi có tội với cháu, chắc rằng ông trời sẽ hỏi tội tôi.  Rồi thì cái ngày ấy cũng đã đến, ông trời đã lấy lại đứa con trai ngoan hiền của tôi. Ông đã cho tôi một báu vật vô giá, một niềm hạnh phúc lớn mà không gì có thể sánh được, nhưng tôi lại không biết trân trọng mà giữ lấy. Nỗi bất hạnh cứ ngày càng đến gần mà tôi không biết, không suy nghĩ, đề phòng gì.

Đầu tiên là việc cháu hay nói gở, tôi lại cho rằng cháu chê trách thói keo kiệt của tôi. Sau đó là những đêm tôi cứ trằn trọc không thể nào mà nhắm mắt được, những lúc thiếp đi tôi lại mơ  thấy bố tôi và anh tôi hiện về mắng tôi té tát, tôi cũng không rõ vì sao mà bố tôi giận dữ như vậy. Tôi luôn sống trong tâm trạng nặng nề và bất ổn, rồi có một đêm thao thức như vậy tôi bỗng nghe tiếng chim lợn kêu ngoài trời, những tiếng eng éc ghê rợn vang khắp màn đêm im ắng. Ngày xưa bà nội tôi vẫn kể rằng: con chim lợn chĩa tiếng kêu vào nhà ai thì nhà đó có người mất. Tôi hoang mang lắm nhưng lại nghĩ rằng nếu đó là điềm báo thì có thể là mẹ tôi chăng, vì lúc đó mẹ tôi cũng đã ngoài 80 rồi, như thế thì có vẻ logic hơn. Nhưng khi về thăm, thấy mẹ tôi vẫn khỏe mạnh, không ốm đau gì thì tôi thấy vơi đi nỗi ám ảnh trước đó. 

Sau đó mấy hôm, bỗng nhiên sét đánh ngang tai, tin con trai tôi bị tai nạn giao thông bay nhanh khắp phố phường, cơ quan, họ hàng, người thân của tôi. Tôi như người chết đứng, đầu muốn vỡ tung, tai ù đặc. Người ta đưa tôi đến bệnh viện, mắt tôi nhoà đi. Con tôi nằm đó, toàn thân lành lặn, không một vết xây xát, khuôn mặt hồng hào và đẹp một cách thánh thiện như đang ngủ. Tia hy vọng loé lên, mong rằng con tôi chỉ bị thương, nhưng các bác sỹ nói rằng: Dù rất cố gắng nhưng không thể cứu vãn được nữa vì phần não của cháu bị tổn thương rất nặng nên cháu đã ra đi rồi.

Tôi đổ sập xuống như một cây chuối bị chặt rồi ngất lịm đi. Đó là một ngày cuối mùa xuân năm Bính Tuất, tuổi thanh xuân 22 con tôi đã vĩnh viễn xa rời dương thế. Tôi bị trừng phạt, tôi đã phải trả giá cho thói keo kiệt đáng nguyền rủa đó, tôi sẽ phải ân hận suốt cuộc đời còn lại của mình. Ôi tôi đau quá, cú trời giáng làm tôi gục ngã hoàn toàn. 27 năm trước cú đánh đầu tiên của ông trời, tôi đã mất đi hai người thân yêu nhất là cha và anh tôi, tuổi thanh niên đã vực tôi đứng lên đi tiếp cuộc đời. Nhưng đến lần này thì tôi không còn gượng dậy được nữa, tôi đã ngoài 50 tuổi, da đã mồi tóc đã bạc. Tôi lại trở về vạch số không, bắt đầu lại từ đầu ư, quá muộn rồi. Tôi là đứa con bất hiếu với tổ tiên, ông bà, cha mẹ vì giờ đây đã trắng tay, không còn con trai để nối dõi tông đường.

Sau cú sốc về tinh thần đó, tôi xin nghỉ hưu sớm về nhà để sám hối tội lỗi của mình. Tôi chẳng còn màng đến tiền bạc, của cải nữa, chính nó đã làm hại tôi, nó đã dằn vặt, đeo đẳng tôi suốt ba năm qua và tôi sẽ phải ân hận suốt cuộc đời. Giờ đây trong đau thương và tiếc nuối, hằng tuần vào ngày chủ nhật dù mưa hay nắng, gió bấc hay sương sa tôi vẫn xuống nghĩa trang, lặng lẽ đứng trước mộ con mà khóc than rằng: Tùng ơi! Xin con hãy tha thứ cho bố. 

Kính thư.

Lời BBT:

Chúng tôi nhận được câu chuyện này qua email, vì thế tác giả chỉ để lại một địa chỉ email có tên là Đỗ Xuân Lâm, còn trong bài viết không ký tên tác giả. Chúng tôi tạm thời xem như tác giả câu chuyện trên là bác Đỗ Xuân Lâm.

Bác Lâm kính mến! Nỗi đau của bác thật quá lớn, và chúng tôi hiểu rằng, bác đã quá giày vò, đau khổ. Sự giày vò ấy đã làm cho bác đôi khi quẫn trí khi nghĩ rằng, cái chết của đứa con trai duy nhất là do chính mình gây ra. Bác Lâm ơi, thực ra, trong mỗi chúng ta thường vô tình để tuột khỏi tay mình những báu vật của cuộc đời lẽ ra đã thuộc về mình. Chỉ đến khi mất đi rồi, lòng nuối tiếc vô hạn đã giày vò ta, làm cho ta ân hận và đau khổ. Nỗi đau mất con của bác đã làm cho bác gần như nghĩ quẩn, tự đổ lên đầu mình hết mọi nguyên nhân. Thật ra, tai nạn đối với con trai của bác là một tai nạn giao thông, vô ý, vô tình vẫn thường xuyên xảy ra hằng ngày hằng giờ cho bất kỳ ai. Con trai bác đã không may rơi vào một tai nạn thương tâm mà mất đi mạng sống. Bác đã rất yêu thương con trai mình, đã nuôi con với tất cả sự chăm sóc, bao bọc. Những gì bác chưa kịp làm cho con trai không phải là lỗi của bác, mà do số phận của con trai bác quá ngắn ngủi, chưa kịp thụ hưởng những gì mà bác dành dụm cho con trai bác sau này. Bác hãy bình tĩnh và công bằng với chính bản thân mình hơn để sống thanh thản hơn trong những ngày còn lại.


65.Câu chuyện thứ 85: Thư gửi mẹ

Kính thưa các anh các chị trong ban biên tập.

Tôi tìm thấy bức thư này của con gái tôi viết khi cháu tròn 18 tuổi. Cháu viết cho tôi, nhưng chưa bao giờ tôi nhận được bức thư này vì nó không hề đến được tay tôi trừ phi lúc này đây tôi tìm thấy nó. Và tôi đã giữ nó cho đến ngày hôm nay, nghĩa là sau 5 năm kể từ ngày chồng tôi đi xa, kể từ ngày tôi còn lại một mình trên cõi đời này thì tôi mới đủ can đảm để nhìn vào một sự thật. Cho dù sự thật này kéo tôi gần với sự kết thúc đời sống này hơn, như tôi đã muốn thế.

“Mẹ yêu thương! Không biết có bao giờ mẹ sẽ đọc được những dòng chữ này, trong bức thư con viết cho mẹ mà không bao giờ muốn mẹ đọc. Có thể vĩnh viễn, mẹ sẽ không bao giờ đọc được nó, không bao giờ bí ẩn này đến được với mẹ. Điều đó thật tốt biết bao. Bởi nếu nó đến với mẹ, biết đâu con lại đau khổ nhiều hơn khi con muốn giữ nó trong lòng. Nhưng ngày mai con rời bỏ nơi này rồi. Ngày mai con sẽ bỏ mẹ đi xa, vì thế nếu con mang đi hết tất cả của con mà không bỏ lại nơi mẹ một chút gì, con e rằng, con sẽ khổ đau hơn gấp bội. Sự thật phải được bước ra dưới ánh sáng, cho dù sự thật ấy có xấu xa và tàn nhẫn đến đâu. Con cần phải thú nhận với mẹ mọi điều, để con được sống lại cuộc sống của con, tìm lại được yêu thương và hạnh phúc sau tất cả những gì con đã đánh mất. Mẹ ơi, mẹ đừng khóc nhé, đừng đau đớn quá nhé nếu mẹ đọc được những dòng này. Con không muốn phải làm cái việc tàn nhẫn nhất là làm đau lòng mẹ.

Mẹ nói với con, bố mất ở chiến trường, và mẹ chỉ lên trên bàn thờ có bức ảnh không rõ mặt. Mối liên hệ ruột rà của mẹ và con thì chỉ duy nhất con và mẹ. Mẹ con mình ở một vùng đất xa lạ, nơi con sinh ra nhưng con luôn cảm thấy xa lạ, bởi mẹ và con chỉ có mình nhau, không có ông bà, dì chú, cô bác, và những gì liên quan đến bố ngoài bức ảnh nhòe nhoẹt ấy. Con lớn lên trong sự cô độc của mẹ. Con là một đứa trẻ nhạy cảm sớm, để không bao giờ gạn hỏi mẹ tại sao con sinh ra. Mẹ không muốn nói về gốc gác của con, của gia đình, nên con không bao giờ hỏi về cái người đàn ông trong bức ảnh đặt trên bàn thờ. Con không muốn một sự xáo trộn, trong khi với tình yêu thương bao la của mẹ, con nghĩ mình đã đủ để hạnh phúc.

Cái ngày con 15 tuổi, con vừa lớn để thành thiếu nữ, mẹ 32 tuổi, vừa từng trải để là người đàn bà hoàn thiện thì có một người đàn ông đã bước vào cuộc đời của mẹ con mình. Đó là ba của con. Con gọi người ấy bằng ba vì con yêu mẹ, con thương quý mẹ nhất trên đời là một nhẽ. Nhưng người đàn ông ấy đáng kính trọng hơn thế nhiều lần bởi ông ấy biết xót xa mẹ, chở che mẹ và yêu thương con gái của mẹ. Oái oăm thay, cái ngày người đàn ông lớn của mẹ con mình xuất hiện cũng là ngày cuộc sống của mẹ con mình thay đổi. Thay đổi không phải vì mẹ bớt yêu thương con, vì mẹ đang quá hạnh phúc vì yêu và được yêu mà vì con bỗng dưng đã lớn, đã thấy một nỗi trống vắng khôn cùng, khắc khoải khi người đàn ông con gọi bằng cha vẫn mãi mãi chỉ là bức ảnh vô tri mẹ đặt trên bàn thờ. Con đã không hề biết rằng mẹ con mình thiếu khát một bờ vai của người đàn ông, thiếu khát sự mạnh mẽ và ấm nóng của một người đàn ông.

Người đàn ông của hai mẹ con mình xuất hiện đúng vào khoảnh khắc ấy. Con không giống những đứa trẻ khác oà khóc hay hoảng sợ, hay tủi thân hờn giận khi mẹ có một người đàn ông ngoài con, cuộc sống của mẹ bây giờ là yêu thương, dâng hiến thêm cho một người khác nữa ngoài con. Con đã đón nhận người đàn ông của mẹ tự nhiên như cỏ cây đón ánh nắng mặt trời, như mặt đất khô khát đón những cơn mưa dịu mát. Từ khi mẹ có ba, gia đình ta đỡ chông chênh hơn, và con cũng hạnh phúc hơn. Con chờ người đàn ông của mẹ trở về trong căn nhà của mình một ngày nào đó, bữa cơm tối sum họp, con chờ một đám cưới của mẹ như phải thế.

Nhưng con không biết rằng 16 tuổi, con nghĩ về người đàn ông của mẹ nhiều hơn, chờ đợi sự xuất hiện ấy nhiều hơn. Tại sao, con không thể lý giải được. Có lẽ ngôi nhà của mẹ con mình thiếu bóng dáng người đàn ông quá lâu, và người đàn ông của mẹ đã xuất hiện đúng vào lúc, tâm hồn con vừa hé mở ra với thế giới bên ngoài. Hoặc có thể tại vì người đàn ông của mẹ quá tuyệt vời, ông đã đến và mang theo cả một thế giới mới mẻ, đầy ắp yêu thương tràn vào cuộc sống của hai mẹ con mình. Rồi con nhận ra con cũng yêu người đàn ông ấy theo cái cách mà mẹ yêu. Con muốn được ông ấy ôm con vào lòng, muốn sờ vào cái cằm đầy râu, hàng râu quai nón xanh xanh trên quai hàm, và nép mình vào bờ ngực chắc chắn của người đàn ông của mẹ.

Người đàn ông của mẹ cũng trạc tuổi với mẹ, bởi vậy con không hề thấy khoảng cách tuổi tác cản trở những tình cảm khác lạ nảy sinh. Mẹ ơi, thề với mẹ là con đã yêu người đàn ông của mẹ lúc nào con cũng không biết nữa. Chỉ đến khi mẹ nói chuyện với con rằng mẹ đã yêu người đàn ông ấy, tương lai, người ấy sẽ về sống cùng với mẹ con mình, con sẽ gọi người ấy bằng ba, thì con mới vội vàng chạy trốn vào phía sau góc nhà và khóc. Lúc đó, mẹ không để ý, mẹ đang hạnh phúc, thường thì khi người ta đang hạnh phúc, họ ít nhìn thấy những đau khổ của người xung quanh. Con không thể trách mẹ.

Chỉ có điều người đàn ông ấy biết con khóc. Ông đã đi tìm con, ôm vai con và ngồi với con rất lâu sau góc nhà. Người đàn ông ấy biết trái tim con thổn thức. Nhưng ông ấy đã im lặng, đã ôm vai con mà thở dài và không nói bất cứ điều gì. Tại sao thế hả mẹ?

Khi mẹ nói với con chuyện riêng của mẹ, thì cũng là lúc con nhận ra con cần người đàn ông của mẹ nhiều hơn việc cần một người cha. Tại sao lại trớ trêu đến vậy? Tại sao tình yêu đầu đời của con lại chính là tình yêu cuối cùng của mẹ? Con biết, người đàn ông ấy đã rất yêu mẹ, khi ông ta sẵn sàng cưới một người phụ nữ đã từng có một đứa con, trong khi bản thân ông ấy chưa từng trải qua một cuộc hôn nhân nào khác. Có phải người đàn ông ấy cũng đã coi trọng cảm xúc thiêng liêng của mình mà bất chấp dị nghị, thói đời để nhận về cuộc đời ông thêm hai cuộc đời hao khuyết nữa là mẹ và con.

Đám cưới của mẹ vẫn chưa xảy ra, và con đã tròn 18 tuổi. Nhiều khi con đã nghĩ rằng, chỉ có con mới có quyền yêu người đó, chỉ con mới xứng đáng. Mẹ không có cơ hội nữa, mẹ đã tuột mất cơ hội bởi éo le của số phận mẹ.

Ngày con 18 tuổi con quyết định đoạt lấy tình yêu của mình. Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ đã độc ác và tàn nhẫn với mẹ, cũng là với chính con khi chiếm đoạt hạnh phúc của mẹ. Nhưng nếu con để mẹ được hạnh phúc thì con sẽ đau khổ. Con phải yêu chính bản thân mình hơn yêu mẹ, điều mà tất thảy các đứa con  đều làm vậy. Mẹ có biết người đàn ông của mẹ đã làm con đau đớn đến mức nào không. Ông ấy đã chối từ con. Ông ấy nói với con rằng, ông ấy chỉ xem con như con gái và ông ấy yêu mẹ, mẹ cần ông ấy hơn con cần… Rồi con sẽ thay đổi. Con có cả thế giới ở phía trước. Ông ấy không thể bỏ mẹ để đến với con, rằng con đừng bao giờ nói với ông ấy như vậy nữa.

Mẹ ơi, con đã khóc, đã tổn thương kinh khủng, đó là hai ngày đêm đầu tiên trong đời con không trở về nhà khi đêm xuống. Con nói với mẹ rằng con đến nhà bạn, thực ra là con muốn trốn chạy cảm giác ê chề. Mẹ vẫn không hề biết điều gì đang xảy ra trong tâm hồn con gái mẹ, cho dù đó là bão. Khi hạnh phúc, họ ít nhìn thấy bão tố của người khác. Nhưng người đàn ông của mẹ thì biết vì sao.

Ông ấy đã đi tìm con trong mưa rơi, gió lạnh, đã gõ cửa những người bạn ít ỏi của con để biết chắc chắn rằng con được an toàn. Không, hôm ấy lần đầu tiên, con đã đến quán rượu và muốn uống rượu như những kẻ hư hỏng. Ông ấy đã tìm thấy con, đã ôm chặt con vào lòng, đã dìu con trở về nhà bạn con mà không phải là nhà của mẹ. Dưới trời mưa, con đã ôm chặt người đàn ông của mẹ, đã hôn, đã muốn làm một người đàn bà trong sự gồng mình chịu đựng quá sức của ông ấy. Và trong gió lạnh, trong mưa, trong nụ hôn, trong sự cuồng nhiệt được giấu giếm và đè nén, che kín đến tận cùng, con nhận ra ông ấy gục ngã bởi con.

Con đã sống lang thang hai ngày ở nhà bạn bè dưới sự kiểm soát của ông ấy. Mẹ thì không hề biết, mẹ chuẩn bị cho đám cưới cuối năm, và hạnh phúc tưng bừng. Lúc hạnh phúc quá, mẹ không nhìn thấy nỗi đau khổ nơi người khác, ngay cả con gái của mình. Ngày thứ 3, ông ấy gọi con ra công viên ngồi chơi. Ông ấy nhìn sâu vào mắt con, ánh nhìn nghiêm khắc và lạnh lùng: “Nếu con còn như vậy nữa, ba sẽ ra đi. Ba sẽ không ở lại với mẹ con đâu, nếu con không hạnh phúc. Ba nghĩ, có lẽ ba nên ra đi thì hơn. Nhưng con nhớ rằng ba chỉ yêu một mình mẹ con và ba muốn cưới mẹ con làm vợ. Ba chỉ muốn con là con gái của ba”. Không biết khi nói câu đó xong, người đàn ông của mẹ đã trống rỗng đến thế nào. Con lê bước trở về nhà. Người ra đi phải là con. Phải là con.

Con lao vào học tập. Con thi được học bổng đi nước ngoài. Mẹ và người đàn ông ấy cưới nhau. Con về nhà muộn hơn, tránh gặp ba hơn, và con sợ phải nhìn sâu vào đôi mắt trầm buồn và những lần rít thuốc lá của ba nơi cửa sổ. Lúc này, thật lòng, con muốn mẹ và người đàn ông ấy hạnh phúc. Ngày mai, con sẽ lên máy bay đi xa… Nhưng thật cay đắng và đau đớn vô cùng khi con nhận ra tận sâu cõi hồn mình con đã yêu và chỉ yêu một người đàn ông duy nhất, đó chính là người đàn ông của mẹ. Tận mãi đến sau này, chắc vẫn thế, con biết tìm đâu hình bóng một người đàn ông trìu mến, và cao thượng như người đàn ông của mẹ ở giữa cõi đời mênh mông và thẳm sâu này”. Con gái: Tu Hú.

Con gái tôi đã có chồng và con thành đạt. Chồng của con gái tôi là một người Pháp, gia đình chúng sinh sống ở Pháp, một năm đôi lần bay về thăm vợ chồng tôi. Thật bất công cho chồng tôi là tôi không thể sinh nở cho chồng tôi một mụn con nào. Chúng tôi cưới nhau khi cả hai 34 tuổi. Nhưng không hiểu sao, tôi không thể có thai thêm lần nữa. Đã nhiều lần tôi nói với chồng tôi anh nên bỏ tôi để lập gia đình mới và có con. Nhưng lúc nào anh cũng yêu thương tôi bằng một tình yêu thương trìu mến. Anh nói, chỉ cần tôi thôi, không cần gì hơn khác. Tôi không tìm thấy dù chỉ là một khoảng trống nhỏ trong tình yêu anh dành cho tôi những lúc bên cạnh tôi. Chồng tôi cũng là người ít nói, lặng lẽ. Tôi đã không hề nhận ra trong quãng thời gian dài tôi ở bên cạnh con gái, và đã sống với anh một điều gì khác lạ, cho đến tận khi căn bệnh ung thư quái ác cướp mất anh, và cho đến khi tôi đọc được bức thư này.

Kính thư: NTL

Lời BBT

Bạn đọc thân mến! Lần đầu tiên, chúng tôi nhận được một câu chuyện có cách viết khá lạ. Có hai bức thư gửi đến tòa soạn trong một câu chuyện. Thư của con gái gửi cho mẹ, và của mẹ gửi cho tòa soạn. Chúng tôi đã sững sờ trước những gì chứa đựng bên trong hai bức thư của câu chuyện khó tin nhưng có thật này. Cũng rất lạ là người mẹ, khi gửi bức thư của con gái viết cho bà, chúng tôi không nhận thấy một dòng nào là nỗi đau, là sự yếu đuối, sự cần được chia sẻ và mong có một lời khuyên cho tình trạng hiện nay của mình. Chính vì thế, sức nặng của câu chuyện dường như dồn nén hơn, gợi hơn và cũng đau đớn nhiều hơn chăng.

Dù vậy, bà NTL kính mến, chúng tôi vẫn muốn dành cho bà một lời chia sẻ. Bà không phải ân hận hay giày vò, bà không phải cảm thấy đau nơi trái tim thêm một lần nào nữa. Chúng tôi mạo muội đoán rằng cuộc đời bà đã truân chuyên rồi, trái tim bà đã nhiều lần kiệt sức rồi, bởi vậy hạnh phúc đến với bà là hoàn toàn chính đáng, là tất cả những gì bà có quyền được hưởng. Bà là người vợ hạnh phúc bởi có một người chồng tuyệt vời, và là một người mẹ hơn cả hạnh phúc bởi có một đứa con gái sâu sắc và yêu thương mẹ.

 Mười tám tuổi, nhưng con gái bà đã suy nghĩ từng trải và sâu sắc. Sự lựa chọn của con bà, của chồng bà là sự lựa chọn đáng trân trọng. Chúng tôi mong bà hạnh phúc và bình yên


66.Câu chuyện thứ 86: Với tôi hạnh phúc là điều có thật

Kính thưa các anh các chị ở quý báo!

Cách đây khá lâu, một lần tình cờ đọc trên quý báo, tôi đã đọc được một câu chuyện cuộc đời của một người phụ nữ ở miền biển Hải Phòng, chị quá xấu xí đến nỗi quá ba mươi tuổi rồi vẫn chưa từng có người yêu, không có ai dạm hỏi làm vợ… Chính một lần vào mổ u ở bệnh viện, trước nguy cơ không thể sinh con sau khi mổ, chị đã tuyệt vọng muốn tìm đến cái chết. Có một chàng trai làm nghề biển đi nuôi mẹ ốm ở bệnh viện đã thương cảm cuộc đời chị mà yêu thương chị tha thiết rồi cưới chị về làm vợ. Mặc dù chị không những xấu mà còn lớn hơn anh đến gần chục tuổi, thế nhưng anh đã rất yêu chị và ông trời thương tình khi ban cho họ hai đứa con kháu khỉnh trong khi cơ hội sinh nở của chị cực kỳ khó khăn và hy hữu.

Tôi tự nghĩ, bên cạnh những mất mát buồn đau, hạnh phúc là thứ luôn có thật và hiện hữu. Hạnh phúc là thứ mà ông trời ban cho từng phận người. Hạnh phúc vẫn ở quanh ta đây thôi, ngay cả khi ta buồn đau mất mát, ngay cả khi ta tưởng chừng ngã khụy trong những bi kịch của đời mình. Tôi đã ngẫm nghĩ rất lâu khi viết tiếp câu chuyện hạnh phúc ấy bằng chính cuộc đời tôi, để những ai đang bất hạnh ở trên đời, xin mọi người hãy tin và chờ đợi. Hạnh phúc là cái có thật và luôn hiện hữu.

Tôi sinh ra bình thường như bao đứa trẻ an lành khác. Tôi là một cô bé hoàn thiện, xinh đẹp và thông minh. Nhưng số phận đã đem đến cho tôi những tai ương dữ dội. Mười hai tuổi, bố mẹ tôi ly hôn. Mẹ tôi đã đi ra nước ngoài theo tiếng gọi của tình yêu mới. Mười hai tuổi, tôi đã trở thành một cô bé câm lặng trong nỗi đau ê chề của một người đàn ông bị bỏ rơi, bị phụ bạc là cha tôi. Tôi vô cảm, chai lỳ trong sự hành hạ về tinh thần và thể xác của một người cha yếu đuối không vượt qua được mặc cảm thân phận. Cha tôi chìm trong rượu, triền miên trong những cơn say. Cha bỏ bê công việc, suốt ngày quán xá nợ nần. Tôi một buổi đi học, một buổi đi tìm cha lúc say khướt ở một xó xỉnh nào đó, khi thì lê la tơi tả trên đường làng. Khu dân cư nơi tôi ở không ai không ném ánh mắt thương hại nhìn cha con tôi. Những ánh mắt thương hại và ghẻ lạnh. Tôi đã lớn lên trong một mặc cảm chua xót.

Năm tôi tròn 18 tuổi, một bất hạnh khủng khiếp lần nữa giáng xuống số phận. Trước ngày tôi chuẩn bị đi thi đại học thì cha tôi vì say rượu ngã xuống chiếc giếng cổ đầu làng và bị chết đuối. Tôi nhận tin dữ khi đang làm thủ tục ở trường. Tôi chạy như điên dại trở về nhà. Tôi chạy trong một trạng thái gần như vô cảm, không hiểu, không hình dung được chuyện gì đang xảy ra bởi tai ương phía trước quá lớn, quá đột ngột. Trong lúc hoảng tinh thần ấy, tai nạn khiếp đảm đã xảy ra. Tôi chạy qua đường tàu trong khi đoàn tàu đang lao tới ầm ầm. Tôi không nhìn thấy, không hề biết mặc cho người hai bên đường la lên cố ngăn cản tôi lại. Tôi chạy trong vô thức, và đôi chân của tôi đã bị đoàn tàu cán lìa.

Rất lâu sau đó tôi nằm im lìm và bất động trên giường bệnh. Ngay cả khi vết thương bị cưa hai chân đã liền sẹo, sức khỏe đã có thể hồi phục, tôi vẫn không nghĩ đến việc sẽ tiếp tục sống. Tôi suy sụp và trầm cảm nặng. Tôi gần như một người sống mà đã chết hoàn toàn về mặt ý thức trên giường bệnh, không đau khổ, không tuyệt vọng, không cảm xúc. Tôi muốn chết, muốn vĩnh viễn rời bỏ cuộc sống này.

Mẹ tôi từ nước ngoài về thăm tôi. Tôi nhìn bà ấy như nhìn một người xa lạ. Sau lần duy nhất cho phép mẹ vào thăm, tôi từ chối không gặp mẹ, không liên hệ với mẹ. Mẹ tôi quay trở lại cuộc sống của bà ở nước ngoài sau khi đã cạn khô nước mắt vì sám hối trước tôi. Thứ duy nhất níu giữ tôi lại như một sợi dây mong manh neo giữ con thuyền sắp quật vào bão tố đấy là bà nội tôi. Bà đã ở bên cạnh tôi, chăm sóc cho tôi trong nỗi đau tột cùng. Vì bà mà tôi không thể dứt bỏ bà để ra đi vĩnh viễn.

Tôi không còn nhớ tôi đã sống như thế nào cho đến ngày tôi gặp một phép nhiệm mầu. Ngày đó, một người con trai đã bước vào cuộc đời tôi vô cơn cớ. Ngày mà tôi không thể lý giải nổi, tại sao ông trời sau khi đã lấy đi của tôi tất cả lại mang đến cho tôi một báu vật. Anh không phải là người sinh ra ở quê tôi. Sau này khi đã cởi mở lòng mình với anh, tôi mới biết anh chính là người có mặt trên chuyến tàu định mệnh đã nghiền nát đôi chân xinh đẹp của tôi.

Hôm đó anh lên Hà Nội chuẩn bị cho kỳ thi đại học. Ngồi bên cửa sổ toa tàu, anh chứng kiến từ đầu chí cuối cảnh tôi như một chú chim tuyệt vọng lao về phía trước. Anh đã la lên hốt hoảng khi nhìn thấy tôi bay vào gầm tàu, gương mặt chết sững, miệng mấp máy gọi cha ơi. Tôi cũng không hề biết hôm ấy, anh đã xuống tàu, đã cùng với mọi người gọi xe ôm đưa tôi cấp cứu ở bệnh viện. Chính anh, một người xa lạ đã chạm vào cuộc đời bất hạnh của tôi từ những ký ức đầu tiên ấy. Và sau 1 năm tu nghiệp ở nước ngoài, lần đầu tiên về nước, anh đã về tận miền quê nơi tôi ở để tìm tôi.

Anh đã khóc khi nhìn thấy tôi sống mà như đã chết. Lần ấy đến thăm tôi, anh đã ở lại bên tôi một tuần. Anh đã vực tôi trở dậy với cuộc sống, mặc cho tôi phản kháng quyết liệt. Một tuần liền, anh kiên trì trò chuyện và thuyết phục tôi vui sống và học tập trở lại. Anh nói với tôi, em không thể trở thành người tàn phế, như thế là quá hèn. Tôi đã im lặng, đã chối từ, nhưng khi anh trở về nhà, tôi biết tôi đã sống lại một cuộc sống khác.

Lúc này tôi đã tạm quên đi cái chết trong một vài khoảnh khắc. Một vài khoảnh khắc nhỏ, tôi không chìm trong cảm giác u ám vô vị, tôi nghĩ đến anh. Anh mang cho tôi những cuốn sách dịch về những câu chuyện đời có thật trên thế giới. Những câu chuyện cảm động về những tấm gương vượt qua số phận. Tôi đã đọc những câu chuyện ấy trong những ngày u ám nhất của cuộc đời mình, đã ném nó vào góc nhà, xé bỏ nó trong nước mắt, và rồi lại tìm nhặt nó lên, ghép những trang sách rách nát lại để đọc. Tôi đã khóc rất nhiều, rất nhiều và luôn luôn muốn chết.

Sau lần gặp đó, anh trở lại nước Anh để tiếp tục học. Anh luôn viết thư động viên tôi vượt qua hoàn cảnh để sống có ích cho xã hội. Anh đã kiên trì vực tôi dậy, trao cho tôi tình yêu cuộc sống. Tôi đã gạt bỏ ý định kết thúc cuộc sống của mình. Tôi đã tự học và thi vào trường cao đẳng sư phạm nơi phố huyện. Tôi đã kiên trì học tập trong 3 năm liền và tốt nghiệp xuất sắc. Tôi được về dạy học ở trường dành cho trẻ em khuyết tật ở tỉnh nhà.

Ngày tôi về nhận công tác cũng là lúc anh lấy xong bằng thạc sỹ kinh tế ở Anh. Trở về nước, anh đã một mạch về quê tìm tôi. Anh ngỏ lời yêu tôi và xin được cưới tôi làm vợ. Anh nói số phận của anh đã thuộc về tôi kể từ ngày anh nhìn thấy tôi như con chim nhỏ tuyệt vọng lao về phía trước. Tôi đã khóc rất nhiều, và thêm một lần nữa tôi thấy mình rơi vào tuyệt vọng và đau khổ. Tôi không thể không rung động trước sự chân thành của anh. Tôi không thể không yêu anh, mơ tưởng tới anh từng giờ từng phút kể từ khi anh đến tìm tôi. Anh đẹp trai, trẻ trung và quá hoàn hảo. Anh là niềm mơ ước, nỗi khát khao của bao nhiêu người con gái khác. Anh đâu thể sinh ra để dành cho đứa con gái khiếm khuyết và bất hạnh như tôi. Tôi bàng hoàng trước lời cầu hôn của anh và tôi đã chạy trốn.

Tôi, người con gái tật nguyền, suốt ngày đi lại bằng xe lăn, chân giả, sao có thể làm vợ một người con trai hoàn hảo như anh. Tôi đã trốn chạy anh, trốn chạy mối tình lớn nhất của đời mình bằng cách gật đầu một lời cầu hôn khác. Tôi đồng ý đi đến hôn nhân với người đàn ông cũng bị cụt hai chân trong một tai nạn lao động. Anh là giáo viên dạy nghề mộc ở cùng trường.

Tôi không nói cho anh biết chuyện tôi sẽ làm đám cưới trong nay mai. Cuối tuần nào anh cũng vượt mấy chục cây số đi ôtô về quê thăm tôi. Lần ấy, anh biết chuyện tôi có ý định đi lấy chồng, lấy một người đàn ông tật nguyền khác. Không thể tưởng tượng được là anh đã làm tất cả để bảo vệ tình yêu của mình. Anh đã ôm chặt lấy tôi, đã cầu xin tôi suy nghĩ lại. Anh nói rằng tôi không yêu cái người tôi định lấy làm chồng, và anh đã đến gặp chồng sắp cưới của tôi để nói chuyện sòng phẳng về tôi. Anh không biết rằng sau những mất mát, bất hạnh và nếm trải, tôi biết tôi cần điều gì, tôi cần phải làm gì để được bình yên. Nhưng tôi đã không thể làm theo ý tôi được vì anh là người đàn ông quá tuyệt vời. Anh biết cách giành lấy người anh yêu, giành lấy hạnh phúc mà không để tuột mất.

Tôi đã mặc nhiên cho cổ tích đậu xuống cuộc đời mình, mặc nhiên hưởng những phép nhiệm mầu. Sau này, khi cưới nhau xong rồi, tôi mới biết bố mẹ anh vì phản đối cuộc hôn nhân của anh mà từ mặt anh. Đám cưới của chúng tôi, bố mẹ anh không có mặt. Nhưng điều đó không làm cản trở anh đi đến hạnh phúc với tôi. Cuộc đời tôi là cả một câu chuyện cổ tích, mà phần đẹp đẽ nhất, có hậu nhất là do anh viết nên. Sau đám cưới, anh đưa tôi ra nước ngoài sinh sống trong thời gian anh tu nghiệp lấy bằng tiến sỹ. Lấy bằng xong, anh tiếp tục làm việc ở nước ngoài. Tôi sinh cho anh hai cô con gái xinh đẹp. Chúng tôi đã có một cuộc hôn nhân hơn cả hạnh phúc.

Hai con gái tôi lớn lên ở nước ngoài. Ngày các con tôi vào đại học và đã tự lập được cuộc sống phía trước, tôi và anh quyết định trở về quê hương sinh sống. Nhưng cuộc đời luôn trớ trêu, số phận luôn trớ trêu khi một lần nữa thử thách lòng kiên nhẫn của tôi. Trên chuyến bay trở về Việt Nam, một cơn đột qụy đã mang anh đi khỏi cuộc sống này, mang anh đi khỏi cuộc đời tôi khi anh mới 43 tuổi. Tôi tưởng như mình lại chết thêm một lần nữa.

Giờ đây cuộc sống của tôi bình yên và lặng lẽ. Tôi trở lại nước ngoài để cố quên đi những kỷ niệm đau buồn, để giữ những ký ức về anh luôn xanh mãi trong ngôi nhà hạnh phúc của tôi. Dù anh không còn nữa, nhưng tôi đã rất hạnh phúc. Tôi đã hàm ơn số phận đã mang anh đến cho tôi như mang một phép nhiệm mầu. Dù tôi và anh chỉ được sống bên nhau hạnh phúc 20 năm, nhưng tôi nghĩ, 20 năm là khoảng thời gian quá dài cho một hạnh phúc vĩnh cửu. Tôi không buồn đau vì mất anh. Trái lại tôi nhớ anh nhiều hơn, sống có ý nghĩa hơn bên các con, và không lúc nào tôi không nhớ đến anh với những cảm giác hạnh phúc quá dịu ngọt. Hạnh phúc thường rất ngắn ngủi nhưng với tôi, hạnh phúc mà anh mang đến cho tôi kéo dài trong suốt cả cuộc đời.

Kính thư: Phan Thị Ân Thương

Cô Ân Thương kính mến!

Đọc hết bức thư của cô, chúng tôi rưng rưng xúc động. Cảm ơn cô đã mang đến cho chuyên mục “Chuyện khó tin nhưng có thật” một câu chuyện thật đẹp và nồng ấm tình người.

Cô đã nói đúng, hạnh phúc là thứ luôn có thật và hiện hữu bên cạnh ta. Điều quan trọng là ta có đủ tinh tế để nhận biết hạnh phúc, đủ thông minh để giữ gìn hạnh phúc ở lại, và đủ rộng lượng để đón nhận tất cả những yêu thương được mất thua thiệt trong cuộc đời. Cuộc đời của cô cũng là một bài học cho tất cả những ai trước ngưỡng cửa cuộc đời đang bối rối tìm cho mình một niềm tin để sống. Ngay cả lúc ta tuyệt vọng nhất, khốn khổ nhất, ta không được quyền đánh mất niềm tin. Cô đã có một người đàn ông tuyệt vời, một người bạn, người tình, người chồng mà bất kỳ ai cũng phải nghiêng mình kính nể. Phải chăng, để xoa dịu mọi nỗi bất hạnh ập đến một cách quá nghiệt ngã nhất, ông trời đã công bằng khi ban cho cô một phép nhiệm mầu từ người chồng của cô.

Chúng tôi cũng rất mừng cô đã trưởng thành và hoàn thiện mình cùng năm tháng để vững vàng trước mọi biến cố được mất ở đời. Một tai nạn đã mang chồng cô ra đi mãi mãi giữa lúc cuộc hôn nhân của hai người đang độ viên mãn. Thay vì tuyệt vọng, cô đã gượng lên để sống, để yêu thương và để giữ gìn những ký ức tình yêu. Một lần nữa, xin được cảm ơn cô vì đã mang đến cho chuyên mục một câu chuyện ấm áp tình người


67.Câu chuyện thứ 87: Cuộc đời vẫn còn nhiều phép màu

Quá nửa đời, tôi dày công đi tìm kiếm một sự thật, đó là cha tôi là ai, vì sao ông bỏ mẹ con tôi. Tôi cũng đã đọc quá nhiều những câu chuyện tìm cha trong chiến tranh, bởi vậy, số phận của tôi không phải là một số phận hy hữu khi được sinh ra trong chiến tranh mà giữa bố và mẹ tôi chưa từng có một đám cưới, giấy kết hôn, và họ hàng hai bên chưa từng biết mặt, gặp gỡ. Đơn giản vì lúc ấy, mẹ tôi đem lòng yêu ngay chính một anh bộ đội tên S đóng quân ở trong nhà ông bà ngoại tôi.

Kính thưa các anh, các chị trong Ban Biên tập.

Cuộc tình hy hữu bởi lẽ mẹ tôi là người con gái đẹp nhất ngôi làng hẻo lánh nơi ngọn đồi trung du Bắc Bộ xóm TL, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, và người đàn ông đã nhận ra nét đẹp rực rỡ mà e ấp của một nụ hàm tiếu đương thì ấy chính là anh Trung đội trưởng Trung đội Pháo binh đóng quân ở xóm và được phân công ăn nghỉ tại nhà ông bà ngoại tôi. Mẹ tôi xinh đẹp nhưng éo le thay lại bị mù loà. Chính vì vậy mẹ chỉ quanh quẩn trong nhà, không đi ra ngoài và chưa từng tiếp xúc với ai.

Bị mù nhưng ông trời bù cho mẹ một đôi tay khéo léo và một đôi tai thính nhạy. Mẹ chăn tằm, dệt cửi, mọi việc khâu vá thêu thùa đều làm thoăn thoắt hơn cả người khéo tay sáng mắt. Đơn vị đóng quân ở xóm ba tháng, thì chuyện tình của mẹ cũng đã chớm nở trong chừng ấy thời gian. Trong hồi ức của mẹ được bà ngoại mô tả lại, ông S là người to đậm, rất khoẻ, có nước da bánh mật. Ngoài giờ tập luyện trên thao trường, ông S luôn tranh thủ giúp mẹ tôi bổ củi, gánh nước, giã gạo, xay lúa.

Thương và cảm một người con gái nết na hiền thảo nhưng lại bất hạnh vì mù loà, nên ông S đã yêu thương mẹ thật lòng. Chính vì ở trong một nhà, ra đụng vào chạm nên tình yêu nảy nở nhanh và mạnh hơn lẽ thường. Mẹ tôi đã dâng hiến đời con gái cho ông S. Mẹ tôi có thai tôi được gần 3 tháng thì đến tháng 1 năm 1967, ông S được điều sang một đơn vị đóng quân ở gần dãy núi Bảo Đài để tập luyện đi B. Suốt một tuần trước khi đi, ông S tranh thủ giúp mẹ đủ mọi việc, và quan tâm chăm sóc mẹ rất kỹ lưỡng. Ông còn tranh thủ đi bộ ra ngoài huyện để mua thêm thực phẩm bánh trái bồi bổ cho mẹ tôi.

Ông S sang đơn vị mới, hằng ngày phải tập luyện đeo từ 20-30 viên gạch đi hành quân để tập cho quen dần với chiến trường, tuy vất vả nhưng tuần nào đến chủ nhật ông cũng cuốc bộ 4 – 5km về thăm mẹ tôi. Ông S tập luyện thêm 2 tháng nữa là vào chiến trường. Đêm trước khi hành quân đi B, ông S đội mưa to về thăm mẹ. Lúc ấy, mẹ tôi đang ngủ, tỉnh dậy thì ông S đã đứng đầu giường. Mẹ đưa tay ôm choàng lấy ông S thì mới biết ông S đang mang bộ quần áo ướt lướt thướt, trên người không có lấy một mảnh vải mưa. Mẹ tôi chỉ biết ôm lấy ông S mà khóc. Ông S dặn mẹ tôi nếu đẻ con trai hãy đặt tên là Nguyễn Quyết Thắng, còn con gái thì đặt tên là Nguyễn Hà Linh. Ông còn dặn sau này hoà bình ông sẽ về tìm mẹ con bà. Nếu không thấy ông về, coi như ông đã chết, rồi ông dúi vào tay mẹ tôi một ít tiền dặn mẹ cất đi phòng lúc sinh con.

Điều đáng nói ở đây là mẹ tôi, người con gái mới 17 tuổi, mù lòa, đã không hỏi địa chỉ cụ thể của ông S ở đâu để sau này còn đi tìm. Ông S chỉ dặn mẹ là cứ ở nhà nuôi con và đợi ông S về, sẽ đưa hai mẹ con tôi về ra mắt quê nội ở Hà Nội. Mẹ tôi đã khắc ghi trong lòng ngày ông S ra đi, đó là ngày 10/7/1967.

Mẹ tôi đã một mình sinh con trai, đặt tên tôi là Nguyễn Quyết Thắng. Làng trên xóm dưới, người thông cảm cũng nhiều mà kẻ hẹp bụng cũng không ít. Mẹ tôi mặc lòng, mặc không ít điều tiếng và thị phi của làng trên xóm dưới cam phận nuôi tôi khôn lớn và một mực tin và hy vọng ông S, bố tôi sẽ quay lại tìm hai mẹ con tôi. Hoà bình đã lâu, hai mẹ con tôi vẫn chờ đợi và mong mỏi với một niềm tin mà ngày một xa mờ héo hắt hơn. Cho đến năm 1980, khi tôi đã được 13 tuổi, sau khi bà ngoại mất, mẹ cũng lập bàn thờ lấy ngày 10/7 làm ngày giỗ của bố tôi. Mẹ nói, ông ấy đã hứa thì nếu còn sống, ông nhất định sẽ quay trở lại. Không thấy ông quay lại, coi như ông đã mất. Đàn ông, không mấy ai đành lòng bỏ con của mình đâu, huống chi ông ấy là lính Cụ Hồ.

Vậy là nhà tôi thêm một cái giỗ ngày 10/7 hằng năm cho người đã sinh thành ra tôi. Mẹ tôi phần vì sức khoẻ yếu, phần vì trong lòng ôm giấu một nỗi buồn xa xăm diệu vợi, sinh ra tương tư, thần khí hao tổn. Năm tôi tròn 20 tuổi, mẹ tôi bệnh nặng rồi qua đời. Trước khi mất, bà có hai điều day dứt lớn nhất chưa được thoả nguyện. Mẹ tôi đã nói với tôi trong giây phút hấp hối rằng bà không sống để đợi đến ngày thành thân cho tôi được, nhìn thấy tôi có gia đình và được bế ẵm đứa cháu đầu lòng nên điều ấy khiến bà rất đau khổ. Việc thứ hai là mặc dù làm giỗ cho bố tôi hằng năm nhưng trong thâm tâm, bà vẫn linh tính rằng ông còn sống ở đâu đó, phiêu dạt ở đâu đó và vì một lý do nào đó mà ông không thể về tìm vợ con. Vì vậy, bà muốn tôi trong hy vọng mong manh có thể tìm thấy ông ấy, người đã sinh ra tôi ở đâu đó. Bà chỉ nhớ mang máng rằng, bố tôi là người Hà Nội.

Mẹ mất, tôi đau đớn tột cùng. Tôi là đứa trẻ sinh ra đã thiệt thòi vì không có bố, giờ đến lượt sợi dây thiêng liêng máu mủ duy nhất và cuối cùng là mẹ tôi, thì bà cũng đã dứt bỏ tôi mà đi. Tôi sầu thảm mất một thời gian dài. Sau đó nhớ lời trăng trối của mẹ, tôi quyết tâm khăn gói ra Hà Nội lập nghiệp và cũng là để lần tìm người đàn ông mà mẹ tôi đã một đời tận tụy và chờ đợi. Hà Nội không quá rộng nhưng cũng đủ là biển người để cho tôi vin vào một hy vọng quá mong manh. Tôi làm nhiều việc, từ bốc vác ở chợ, đến bồi bàn. Nghĩa là có việc gì có thể kiếm ra tiền và được tiếp xúc nhiều với mọi người là tôi xin vào bằng được. ở đâu, có bất kỳ cơ hội nào tôi đều lân la hỏi về người đàn ông nhập ngũ năm 1966, vào đơn vị Pháo binh, đóng quân ở xóm TL, huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang, tháng 7/1967 đi vào chiến trường B, có con với bà Hoàng Thị L trước khi đi B. Thế nhưng thông tin đưa ra rơi tõm vào biển người mênh mông ở Hà Nội. Không một hồi âm, không một hy vọng mỏng manh.

Ba năm lang thang ở Hà Nội, cuối cùng nhờ chăm chỉ làm việc, tôi được nhận vào một cơ sở sửa chữa và bảo dưỡng xe gắn máy cao cấp. Tôi thôi ý định tìm bố đẻ của mình, vì thấy các dữ kiện mà tôi có trở nên mông lung quá. Tại cơ sở nơi tôi làm việc, tôi đã tìm được tình yêu của mình. Người con gái tôi yêu làm kế toán trong công ty. Chúng tôi cảm mến nhau, và có sự chia sẻ đồng cảm về hoàn cảnh. Bố V là thương binh, mẹ đã tình nguyện làm vợ một thương binh nặng mù cả hai mắt và chăm sóc ông cho đến cuối đời khiến cho tôi rất cảm động. Nhưng than ôi, cuộc đời có biết bao nỗi éo le. Tại sao ông trời lại run rủi cho số phận hẩm hiu thua thiệt của tôi thêm một lần nữa đau đớn. Tại sao cha của V lại chính là cha đẻ của tôi, người đàn ông mà suốt bao nhiêu năm để cho mẹ con tôi chờ đợi héo mòn, người mà mẹ tôi lúc còn sống năm nào cũng làm giỗ.

Khi tôi đến, mọi người trong gia đình đã ngạc nhiên về ngoại hình của tôi giống bố V như đúc. Khi nghe tôi kể chuyện hoàn cảnh gia đình, cha V đã lảo đảo gục xuống bàn. Hôm ấy ông cáo mệt đi nằm sớm. Linh cảm của tôi đã đúng khi hôm sau, V bảo tôi, bố V muốn nói chuyện riêng với tôi. Trong căn phòng riêng của ông, ông ôm chầm lấy tôi và khóc nức nở. Ông đã kể cho tôi nghe đoạn đời trắc trở từ khi ông bị thương mù cả hai mắt. Ông đã nói với gia đình về chuyện ông đã có vợ và con chính là hai mẹ con tôi ở Lục Nam, Bắc Giang nhưng bố mẹ ông ấy đã khuyên ông ấy đừng nghĩ đến hai mẹ con tôi nữa. Nhờ gia đình làng xóm cưu mang giúp đỡ hai mẹ con tôi, bởi thân phận của ông hiện giờ cũng rất bi đát. Vết thương nặng ở đầu, cùng với hai con mắt đã bị mảnh bom phá huỷ, ông S giờ đây sống trong cảnh tàn phế. Nếu ông S có quay về với mẹ con tôi thì cũng chỉ mang lại sầu khổ cho mẹ con tôi mà thôi. Người mù mắt cần nương tựa vào người sáng mắt để sống, chứ hai người mù, rồi làm sao nuôi được nhau. Ông S đành ngậm ngùi nghe theo gia đình mà không đi tìm hai mẹ con tôi. Nhưng ông đã  nhờ người viết mấy bức thư gửi cho hai mẹ con tôi. Ông S rất buồn bã khi không nhận được hồi âm nào từ phía mẹ con tôi. Cho rằng, mẹ tôi cam phận hoặc đã đi bước nữa, hoặc đã thấy ông S không còn lành lặn nên gian díu thêm khổ mà không liên lạc nữa nên ông S mới đi lấy vợ. Ông S đâu biết rằng chính người nhà của ông đã cầm những bức thư của ông S và giấu biệt đi mà không gửi.

Sau buổi nói chuyện hôm ấy với ông S, tôi đã bỏ về nhà mà không một lời từ biệt với V, người yêu tôi. Thật ra, tôi không thể chịu đựng được sự thật phũ phàng và cay đắng ấy. Tôi đã chạy trốn. Nhưng, cuộc đời vẫn còn phép nhiệm mầu vô bờ. Chính mẹ của V đã đưa ông S và cả V nữa đi tìm tôi ở Lục Nam, Bắc Giang và cho tôi biết thêm phần sự thật đã cứu rỗi cả cuộc đời tôi. V chính là con riêng của mẹ V. Trước khi làm vợ ông S, bà đã có một đứa con ngoài giá thú. Vậy là mối tình giữa tôi và V không hề đứt đoạn mà ông S cùng với mẹ V đã tổ chức cho chúng tôi trong niềm vui sướng khôn tả của gia đình dòng họ. Chỉ buồn một nỗi sau đám cưới của chúng tôi ít lâu, ông S đã qua đời vì vết thương cũ tái phát. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, ông V đã cầm tay tôi và khóc: “Bố đã chờ đợi giây phút này quá lâu rồi, bố hoàn toàn mãn nguyện. Mong con hãy tha thứ cho bố. Không biết, tới đây, gặp mẹ con ở thế giới bên kia, mẹ con có tha thứ cho bố không”.

Bây giờ, hai vợ chồng tôi đang làm việc ở cửa hiệu sửa xe máy cao cấp ở Hà Nội. Thu nhập ổn định và chúng tôi có 3 đứa con ngoan. Hạnh phúc đến với tôi như một phép nhiệm mầu.

Kính thư: Nguyễn Quyết Thắng

Lời BBT:

Anh Nguyễn Quyết Thắng kính mến! Đọc bức thư của anh ở phần đầu, chúng tôi thắt ruột vì cảnh ngộ của anh. Nhưng phần cuối bức thư đã khiến chúng tôi thở phào nhẹ nhõm và mừng cho anh, càng thương anh, thương mẹ anh, bố anh và tất cả những người trong cuộc nhiều hơn. Cuộc sống quả là nhiều phép nhiệm mầu, và anh là một trong những người được nhận phép nhiệm mầu đó, dẫu có hơi muộn mằn.

Hằng ngày chúng tôi nhận được rất nhiều những câu chuyện gửi đến cho chuyên mục “Chuyện khó tin nhưng có thật”. Nội dung mà chúng tôi nhận được nhiều nhất vẫn là chuyện con đi tìm cha, và nỗi bất hạnh của những người con bị cha mình bỏ rơi. Mỗi một số phận là một cảnh đời khác nhau, những nỗi bất hạnh không giống nhau. Qua câu chuyện của anh, chúng tôi cũng nhắn gửi tới tất cả những tác giả có chuyện gửi đến chuyên mục này, rằng chúng ta xin hãy bớt những hận thù, những ý nghĩ ai oán và dằn vặt. Cuộc sống vẫn còn rất nhiều bí ẩn ở phía trước. Có những bí ẩn rồi sẽ phát lộ, nhưng có những bí ẩn vẫn mãi mãi chỉ là bí ẩn. Vì vậy, chúng ta hãy cố gắng bước qua bất hạnh, thương đau, bước qua những lời nguyền để bước tới một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Hãy tin, phép nhiệm mầu rồi sẽ đến với tất cả chúng ta, những ai biết hy vọng và chờ đợi. Một lần nữa chúng tôi mừng cho hạnh phúc hiện tại của anh và chúc anh giữ mãi được hạnh phúc lớn lao này


68. Câu chuyện thứ 88: Cầu cho linh hồn em được thanh thản

Cuộc đời thật oái oăm. Trái tim có những lý lẽ riêng không thể nào giải thích được. Tình yêu lại là thứ càng không thể giải thích, tại sao tôi lại yêu người này, tại sao tôi lại không thể yêu người kia. Em đã cay đắng thốt lên với tôi như vậy…

Kính thưa các anh các chị trong BBT!

Hôm nay nữa là tròn 49 ngày của em gái tôi, một đứa em xinh đẹp tài hoa mà bạc mệnh. Tôi muốn kể lại cuộc đời của em, như một nén nhang thắp cho em để cầu cho linh hồn em được siêu thoát.

Mọi chuyện bắt đầu từ khi em gặp và yêu một người đàn ông sau này là chồng em. Mười tám tuổi, ở tuổi đẹp nhất của người con gái trước giảng đường đại học, em đã yêu chính thầy giáo dạy đại học của em, hơn em tới 13 tuổi. Năm thứ ba đại học, em về gia đình người yêu để ra mắt, chuẩn bị cho đám dạm hỏi sắp tới. Không ngờ, trong buổi ra mắt gia đình người yêu, trái tim em đã loạn nhịp bởi một chàng trai trẻ. Oái oăm thay, người đó lại chính là em trai út của chồng sắp cưới.

Cuộc đời thật oái oăm. Trái tim có những lý lẽ riêng không thể nào giải thích được. Tình yêu lại là thứ càng không thể giải thích, tại sao tôi lại yêu người này, tại sao tôi lại không thể yêu người kia. Em đã cay đắng thốt lên với tôi như vậy. Tình yêu thực sự đã đi xuyên qua số phận hai người em và chú út như là một định mệnh đau đớn nhất. Ngay sau giây phút bắt gặp ánh mắt của nhau, em đã sợ hãi quay đi, đã chợt nhận ra rằng, cái mà em tưởng đang đầy ắp trong tim em lại hóa ra trống rỗng. Em xác xơ trong cảm nhận trụi trần nhất về hiện tại.

Sau lần gặp gỡ đó, em quyết định chia tay người yêu. Nhưng làm sao cô gái bé nhỏ như em có thể làm được chuyện ghê gớm đó khi người yêu em là một người đàn ông hơn em 13 tuổi, đã từng trải và chín chắn trong cuộc đời. Anh ta lại quá yêu em và có ngàn lý do, ngăn cách để giữ em lại, chiếm đoạt được em cho riêng mình. Lại còn lý do quan trọng nữa là em và người yêu em đã nói đến chuyện dạm hỏi và bàn tới đám cưới sắp tới. Em không thể nói lời chia tay với người yêu mình mà không một lý do nào chính đáng ngoài sự bội phản. Để rồi em trai của người yêu em lại chính là tình địch của anh trai mình. Điều đó thật khó khăn biết bao.

Nếu trong thời đại này thì mọi thứ có thể sòng phẳng hơn, đơn giản hơn, nhưng chuyện của em xảy ra cách đây hơn mười năm rồi, lúc đó vấn đề đạo đức vẫn là một gánh nặng ràng buộc. Sau nhiều giằng xé, suy nghĩ, tôi đã khuyên em nên rời xa người yêu mình một thời gian và lắng nghe trái tim mình thuộc về ai. Em gái tôi đã nghe lời tôi, và cô ấy biết rõ trái tim mình thuộc về ai. Nhưng tình yêu của em tôi vừa nảy sinh là một tình cảm vô vọng. Sau lần gặp gỡ ấy, em hay tìm cách đến nhà người yêu mình nhiều hơn, và cũng là để gặp gỡ em trai của người yêu mình nhiều hơn. Giữa em tôi và cậu ấy đã có những tình cảm không nói nên lời. Nhưng cậu ấy không chịu nổi cảm giác mình sẽ tước đoạt người vợ sắp cưới của anh trai mình, nên cậu ấy đã chọn giải pháp đi xa làm ăn sinh sống. Trước khi đi, cậu ấy đã nói với em tôi rằng, nếu thực sự là một người con gái tuyệt vời, em hãy cưới anh trai của tôi làm chồng, được như thế tôi cũng cảm thấy hạnh phúc.

Khóc hết nước mắt bởi một tình yêu không vượt qua được những rào cản, em tôi nhắm mắt đưa chân. Trước khi làm đám cưới, em nói với tôi: “Em lấy anh Minh để còn được ở gần Thông hơn. Nếu em lấy người khác, em sẽ xa Thông mãi mãi, sẽ chẳng bao giờ còn được gặp cậu ấy”.

Trời ơi, tôi đã ngăn cản em không nên bước vào cuộc hôn nhân ấy, tôi khuyên em nên dũng cảm để đến với Thông đi, thế mà em lại nhắm mắt đưa chân để rồi sai lầm luôn nối tiếp những sai lầm. Sau khi cưới chồng một thời gian, em trai của chồng em gái tôi đi làm ăn xa, em gái tôi sinh con trai đầu lòng. Kỳ lạ, con trai của em tôi giống chú ruột như đúc. Tôi nhìn cháu thở dài, có lẽ tại em tôi nặng lòng với những tình cảm bất chợt quá, nên đâm ra tương tư người mình yêu, cảm giác đồng sàng dị mộng đã cho con trai em một hình hài của người trong mộng tưởng. Gia đình chồng, cả chồng em gái tôi không một mảy may nghi ngờ. Chuyện cháu giống chú là lẽ tự nhiên, đâu biết phía sau em tôi đang chứa một trái tim giông bão.

Mọi chuyện rồi cũng nguôi ngoai. Cuộc sống của vợ chồng em gái tôi dần yên ổn. Nhưng số phận đã cợt trêu hạnh phúc của em khi em trai chồng mặc dù đã lấy vợ nhưng vợ lại không hề thụ thai để sinh nở. Ba năm, rồi năm năm, hy vọng có một đứa con dần trở nên mong manh hơn bao giờ hết khi vợ của em trai chồng không thể có trứng để thụ tinh. Hai vợ chồng cậu ấy bay từ nước ngoài về và họp gia đình với giải pháp xin trứng để thụ tinh trong ống nghiệm. Họp gia đình và bàn bạc mãi, đặt ra bao nhiêu phương án nhưng cuối cùng chính chồng của em gái tôi đã đề xuất giải pháp tiện lợi nhất là em gái tôi cho vợ chú Thông trứng để tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm. Giải pháp này vừa rẻ, lại vừa an toàn, không mất chi phí hàng trăm triệu đồng khi đi xin trứng ở bên ngoài. Không một ai biết được em gái tôi đã nghĩ gì. Chỉ đến khi em hỏi ý kiến tôi thì sự ngăn cản của tôi một lần nữa trở nên vô nghĩa.

Tôi đã dự cảm trước tất cả những mối hiểm nguy, những bất trắc có thể xảy ra với em. Và những bất trắc trong linh cảm của tôi đã đúng. Cuối cùng thì cái trứng của em cũng được thụ tinh thành công và cấy vào buồng tử cung của vợ chú. Mấy tháng vợ chú nằm dưỡng thai ở nhà, em gái tôi tận tụy như một người y tá chăm sóc tận tình. Những tưởng, tình cảm như một cơn bão xa xưa đã tan sau tất cả những biến cố cuộc sống riêng của mỗi người, nhưng thật tai ác, tất cả chúng ta không một ai hình dung được sức công phá khủng khiếp của nó. Em gái tôi đã bước chân vào một mối tình đau khổ. Cả em và chú đã không giữ gìn được ranh giới đạo đức giữa chị dâu và em trai chồng vốn quá mong manh bởi giữa họ đã có một tình yêu âm ỷ và kìm nén quá lâu. Em đã đi quá giới hạn chỉ một lần duy nhất, và oái oăm thay em đã có thai.

Cuộc đời vốn rất nghiệt ngã, mặc dù đã cho trứng, đã vào Bệnh viện Từ Dũ thụ tinh ống nghiệm và cái thai đã nằm trong buồng tử cung của vợ chú được 3 tháng nhưng rồi cũng không thể giữ được. Cả gia đình chú thất vọng. Không một ai hiểu rằng, em tôi đang mang một sinh linh bé nhỏ của chính người mình yêu, của em trai chồng. Chín tháng mười ngày rồi cũng trôi qua. Trong nỗi thất vọng của gia đình chú, em gái tôi đã rạng rỡ hơn bao giờ hết khi có thai lần thứ hai. Tôi chưa từng khi nào nhìn thấy một người đàn bà mang bầu mà đẹp rực rỡ như em tôi. Tình yêu như một trái chín ủ trong lá, một ngày lấp ló màu chín đỏ thắm của trái ngọt. Em tôi đang hạnh phúc. Em sinh hạ một cô con gái. Lần này, con gái em chính là bản photocopy của chú, và tuyệt nhiên, gia đình chồng không một ai hoài nghi, cháu giống chú là lẽ đương nhiên. Chỉ có tôi là linh cảm rằng, em đã trượt dài trong nỗi sai lầm chết người.

Hai vợ chồng chú trục trặc, người vợ nhất quyết ly hôn vì bản thân cô ấy mặc cảm mình không thể sinh được con cho chồng. Cuộc chia tay buồn bã và lạnh lẽo. Vợ chú bay sang Canada làm ăn với gia đình bên ngoại. Chú ở lại Việt Nam một thời gian để cân bằng lại tinh thần. Chính thời gian này, người đàn bà đang độ chín trong vẻ đẹp mặn mà rực rỡ và trẻ trung của em gái tôi đã bước tiếp những bước đi u mê trong một tình cảm không lý trí. Em gái tôi đã nói với chú rằng con gái đấy chính là giọt máu của chú, và em đã quyết liệt một cách đầy bản năng khi bước tới tình yêu của mình.

Choáng váng, day dứt và đau khổ, chú đã sang lại bên kia thật nhanh để trốn tránh thực tại. Tôi nhớ rõ một chiều mưa sau hai năm kể từ ngày em sinh con và hơn một năm kể từ ngày chú bay sang bên kia, em bế con gái hai tuổi đến gặp tôi và nói trong nước mắt: “Chị ơi, em bỏ anh Minh rồi, em không thể sống lừa dối mãi thế này được. Em bế con sang bên kia với Thông đây chị ạ”. Tôi choáng váng hỏi em: “Minh có biết em yêu và có con với Thông không”. Em lắc đầu.

Tôi không thể ngăn cản được em, không thể làm cho em bớt sai lầm mặc dù tôi đã cố hết cách. Em thi một học bổng ở nước ngoài và bế con đi sang bên kia tu nghiệp. Em nói, sang với Thông gặp Thông rồi sẽ tính rõ ràng hết mọi việc trong gia đình. Trước khi đi em đã viết đơn ly hôn với lý do cuộc sống của em không còn tình yêu, em không thể lừa dối mãi chồng mình được. Hãy để em ra đi thanh thản. Nhưng em gái tôi không hình dung được rằng, tình yêu là một chuyện, những rào cản đạo đức, hệ lụy gia đình và sức ép của dư luận lại là những thứ khủng khiếp. Em có thể vì xa cách không gian địa lý để giấu đi mọi chuyện nhưng em không thể giấu mãi những người trong cuộc. Không thể giấu chồng em và gia đình. Và những gì tôi lo sợ đã xảy ra.

Sống ở bên kia, được gần người mình yêu, nhưng cả em và Thông không thể nào thanh thản được. Trái lại cảm giác tội lỗi và giày vò đã biến cuộc sống của hai người nặng nề và đau khổ. Cả em tôi và Thông biết rằng, không thể sống đàng hoàng trong mối tình oái oăm này, vì thế em lại khăn gói ôm con gái trở về nước.

Chồng em lại dang tay đón em trở về nhà như chưa từng có chuyện gì xảy ra. Với lại, anh ấy là giảng viên đại học, sự hiểu biết, từng trải đã cho anh ấy một tấm lòng vị tha cao thượng. Không bao giờ chồng em hỏi em đã sống như thế nào, đã trải qua những ngày tháng thế nào ở bên kia. Còn giữa chồng em và em trai chồng em, hai người chưa bao giờ nói chuyện với nhau về bí mật của em. Thông cũng không đủ can đảm để nói cho anh trai mình biết rõ sự thật đau xót ấy. Còn em gái tôi, sau những sa ngã này đến sa ngã khác, cùng với cuộc sống bôn ba, bất ổn, và nỗi giày vò cắn rứt lương tâm thường trực, em đã bị chứng trầm cảm nặng. Về Việt Nam được mấy năm ngắn ngủi, là mấy năm em phải thường xuyên qua viện để khám trị chứng trầm cảm. Nhưng cuối cùng, kết cục bi thảm vẫn xảy ra. Em đã tự tìm đến cái chết để giải thoát cho những ẩn ức không giải toả được của mình.

Ngày em mất, tôi lại đi công tác xa, tôi không có mặt ở bên em được trong những phút giây có thể em cần đến tôi nhất. Điều đó khiến cho tôi vô cùng ân hận và đau khổ. Em chết đi, mang xuống mồ một nửa bí mật của bi kịch đời em, nửa còn lại, tôi và chú Thông giữ. Điều đó thật nặng lòng.

Huyền Cầm. Thư từ Huế

Lời BBT:

Chị Huyền Cầm thân mến! Em gái chị thật ích kỷ, cô ấy tìm đến cái chết như một sự giải thoát tồi tệ nhất, một sự giải thoát không thể tha thứ được. Nhưng tất cả những người sống buộc phải tha thứ cho cô ấy, và thay cô ấy nhận mọi nỗi đau về mình, nỗi đau mà cô ấy tưởng rằng chết là hết, là trút bỏ được.

Mọi người thường nói, mỗi người sinh ra đều có một số phận. Sướng khổ buồn vui là do ông trời định đoạt. Chúng tôi lại không nghĩ vậy, số phận là do tính cách mà nên. Tính cách tạo nên số phận. Em gái chị đã tạo ra số phận bi ai của mình, và cô ấy đã phải trả giá bằng chính cả cuộc đời mình. Điều đó thật đau đớn lắm thay. Chúng tôi nghĩ rằng, vấn đề bây giờ là cả chồng cô ấy và gia đình phải hết mực chăm sóc cho hai đứa trẻ. Người chết thì cũng đã bước ra khỏi cuộc sống của chúng ta rồi, đừng hoài niệm chi chuyện cũ thêm buồn mà phải biết gạt bỏ và quên đi tất cả để sống. Còn bí mật giữa hai người đàn ông với nhau, tự họ sẽ giải quyết nếu cần thiết. Anh em như tay với chân, không có điều gì mà không thể tha thứ và bỏ qua cho nhau.

Một năm mới sắp đến rồi, chúng tôi cầu mong cho chị và đại gia đình sớm tìm được những giải pháp tốt đẹp nhất để tất cả những người trong cuộc đỡ tổn thương và mất mát hơn. Cầu mong hai đứa trẻ của em gái chị từ nay sẽ hết sóng gió và nhận được những an lành từ cuộc đời


69.Câu chuyện thứ 89: Tôi đã tìm lại được các con của mình

Một năm mới nữa đã lại đến. Mùa xuân đang tới gần hơn. Tôi như cảm nhận được hơi ấm của mùa xuân trong làn gió đông băng giá. Không có tết năm nào, tôi không dành những khoảng lặng trước thềm năm mới để ngẫm nghĩ về cuộc đời của mình.

Kính thưa các anh, các chị trong BBT!

Tôi năm nay tuổi đã cao, quỹ thời gian không còn nhiều nữa, mà sự sống chỉ còn leo lét trong nay mai mà thôi. Tôi nghĩ, việc cần làm của tôi lúc này là kể cho tất cả mọi người cùng nghe câu chuyện của mình, kẻo rồi, mai này gần đất xa trời lúc nào không hay, lại thấy ân hận vì chưa chia sẻ được.

Tôi sinh ra và lớn lên ở làng hoa Ngọc Hà, Hà Nội. Mọi biến cố lớn của đời tôi xảy ra liên tiếp từ khi tôi lập gia đình. Tôi lấy chồng năm 17 tuổi, chồng tôi là một bác sỹ, làm việc cho chính quyền Pháp thời đó. Vợ chồng tôi lần lượt sinh hạ được 3 người con. Sau năm 1954, chồng tôi đi sang Pháp để tu nghiệp tiếp. Lúc tiễn chồng đi, tôi không hề biết mình đã mang thai. Nhưng kể từ ngày tiễn chồng đi, từ đó, tôi không bao giờ còn nhận được tin tức của chồng.

Tôi vốn là con gái làng hoa, nhà bố mẹ nghèo, ba đời trồng hoa, nên lớn lên chỉ biết trồng hoa chứ không biết làm nghề gì khác. Khi chồng tôi ra đi, anh ấy chỉ nói với tôi rằng sang đến nơi, xem địa chỉ cụ thể như thế nào, thì anh sẽ gửi thư về. Tôi tin chồng, nghe lời chồng, và chỉ  biết chờ đợi nhưng tin tức của chồng vẫn bặt vô âm tín. Bụng tôi càng ngày càng lớn. Láng giềng xung quanh đàm tiếu chê cười, cho rằng chồng đi vắng tôi theo trai ăn nằm với trai rồi chửa hoang. Tôi rất đau khổ, nhưng đành cắn răng chịu đựng nuốt nước mắt và uất hận vào trong. 

Cuộc sống ở miền Bắc sau năm 1954 vô cùng gian khổ. Số tiền lương mà chồng tôi để lại nuôi mấy mẹ con rồi cũng hết. Từ ngày tôi lấy chồng, sống bằng tiền lương của chồng nên bỏ nghề trồng hoa. Bây giờ chồng ra đi, bốn mẹ con không còn tiền để sống, bụng lại chửa vượt mặt rất cơ cực. Nhà bố mẹ chồng thì nghi ngờ cái thai trong bụng nên không đoái hoài đến cơ cảnh của 4 mẹ con. Nhà ngoại thì đều nghèo xác xơ, sống nhờ vào những luống hoa phập phù lúc thất bát.

Ngày tôi vào viện sinh nở cũng là lúc trong nhà kiệt quệ không còn cái gì để bán nữa. Hai đứa con lớn nheo nhóc, đói ăn, đứa thứ ba mới 2 tuổi bị sốt phải đưa vào viện, lòng dạ và tinh thần tôi rối bời như tơ vò. Tôi sinh đôi cùng lúc được hai cô con gái. Trước đó, tôi đã có ba đứa con trai, lần này, sinh được một đôi con gái, tôi thật vui mừng khôn xiết. Nhìn hai đứa bé đỏ hỏn, niềm vui chưa kịp đến thì nỗi tuyệt vọng vì gia cảnh của mình đã làm cho tôi phải rơi lệ.

Tình thế của tôi lúc đó thực bi đát, đứa thứ 3 đang phải vào viện, hai đứa lớn đang đói ăn ở nhà. Giờ lại thêm hai đứa trẻ mới lọt lòng mẹ, một mình tôi làm sao nuôi nổi các con đây. Tôi còn nhớ bà hộ sinh tên là Nụ, người đã đỡ đẻ cho tôi lúc ấy, khuyên tôi cho 2 đứa nhỏ đi để lấy tiền nuôi 3 đứa còn lại, nếu không cả nhà sẽ chết đói. Tôi không còn cách nào khác đã phải nghe theo lời bà Nụ tìm cách cho hai đứa bé đi. Thật may, bà Nụ đã tìm được hai gia đình hiếm con và đưa hai đứa trẻ cho hai gia đình đó.

Tôi còn nhớ như in, bà Nụ đưa cho tôi một ngàn đồng tiền người ta cảm ơn. Bà Nụ nói với tôi, đừng liên lạc và đừng tìm con. Đã cho đi rồi, phải tuyệt đối giữ chữ tín, để cho nhà người ta yên tâm nhận con về nuôi, coi như con đẻ. Đừng làm gì xáo trộn cuộc sống riêng của nhà người ta. Phải cố quên đi việc mình đã có hai đứa con này. Tôi cầm tiền mà ruột đau như cắt, nước mắt tuôn lã chã.

Tôi về lại làng Ngọc Hà, đi trồng hoa thuê, kiếm tiền rau cháo qua ngày nuôi 3 đứa con. Thời gian này, tôi suy sụp một cách khủng khiếp. Tôi không biết tại sao chồng tôi lại bỏ mẹ con tôi ra đi mà không một hồi âm, không một tin tức. Hay chồng tôi đã bị tai nạn chết bên xứ người. Hay gia đình nhà chồng tôi vì nghi ngờ mà tìm cách tin cho chồng tôi về cái thai trong bụng tôi ngày chồng tôi ra đi tôi chưa nhận biết mình đã mang thai. Bao nhiêu câu hỏi nghi ngờ giày vò tôi khiến cho mái tóc tôi bạc trắng, người gầy xác xơ. Gia đình nhà chồng sau đó cũng dọn đi đâu mất, không liên lạc lại nữa. Tôi đã sống những năm tháng rất khó khăn, các con tôi học hết cấp 2 đều phải bỏ học về trồng hoa cùng mẹ.

Cuộc sống vô cùng khốn khó, tôi cũng chẳng còn nhiều thời gian để nhớ về người chồng biệt vô âm tín. Nhưng trong lòng tôi thì canh cánh một nỗi đau xé lòng về hai đứa con của tôi đang lưu lạc tới phương trời nào. Thời gian ngày một dần trôi, các con tôi đều đã lớn và đều đã tìm được việc để làm, cuộc sống của tôi không còn phải đói ăn từng bữa nữa, dù vẫn còn rất nghèo khổ. Đến lúc này, nỗi ân hận giày vò trong tôi quá mức, tôi quyết định đi tìm bà Nụ chỉ để cầu xin bà nói cho tôi biết các con tôi giờ đang ở đâu, tôi có thể đến nhìn thấy chúng lớn lên, bình yên và hạnh phúc trong vòng tay của người khác là tôi mãn nguyện. Tôi không có ý định giành giật lại con của mình. Nhưng éo le thay, khi tôi tìm đến bà Nụ thì bà đã mất. Bà không để lại bất kỳ một giấy tờ gì, hay lời nhắn nhủ gì về lai lịch hai đứa con tôi.

Ba mươi năm sau, kể từ ngày tôi rứt ruột đem cho đi hai đứa con của mình, bỗng dưng một ngày, có một người phụ nữ đến tìm tôi và khẩn khoản đề nghị tôi đến bệnh viện Việt-Xô có người cần gặp. Linh cảm làm cho tôi run rẩy, tôi vội vàng đồng ý ngay và cập rập đi theo người phụ nữ ấy đến bệnh viện. Ở bệnh viện, một cuộc gặp gỡ trùng phùng đẫm nước mắt. Tôi nhìn thấy một người phụ nữ đã ngoài 60 tuổi, mái tóc đã bạc phơ nằm thiêm thiếp trên giường bệnh. Bên cạnh là một thiếu phụ chừng 30 tuổi, có cả chồng và con trai ở bên. Người phụ nữ nằm trên giường bệnh thấy tôi đến, ra hiệu cho tôi tới gần bên.

Tôi thấy nước mắt bà lăn dài trên đôi gò má bợt bạt. Bà cầm tay cô con gái chừng 30 tuổi, đặt vào lòng tay tôi. Bà vừa khóc vừa run run cất lời: “Cảm ơn bà đã mang đến cho tôi niềm hạnh phúc mà hạnh phúc ấy lẽ ra là của bà. Suốt 30 năm qua, lúc nào tôi cũng nghĩ đến bà, người phụ nữ tôi chưa từng gặp mặt. Tôi đã hưởng trọn niềm hạnh phúc của bà với ý nghĩ rằng, mình xứng đáng được hưởng. Nhưng rồi, nỗi day dứt của tôi cứ ngày một đầy lên. Tôi đã tự hứa với mình, một ngày nào đó sẽ nói hết sự thật với con gái tôi rằng mẹ không phải là mẹ đẻ của con. Mẹ là mẹ nuôi của con và giục con gái tôi đi tìm bà. Chính bà Nụ đã trao cho tôi toàn bộ địa chỉ của bà, để một ngày nào đó, khi bà Nụ chết đi, có ai đó cần tìm đến với sự thật thì vẫn còn chìa khóa trong tay. Tôi đã giữ chiếc chìa khoá ấy 10 năm nay, với một ý nghĩ, tôi sợ mất đứa con gái yêu quý của mình. Bây giờ tôi biết mình không còn được bao lâu trên cõi đời này nữa, tôi sợ tôi không kịp làm điều này là nói cho con gái tôi biết sự thật”.

Tôi đứng chết lặng trong bệnh viện, ôm lấy con gái của tôi giờ đây đã làm mẹ mà khóc như mưa như gió. Sau đó vài ngày, mẹ nuôi của con gái tôi mất. Trong di chúc, bà để lại toàn bộ tài sản của bà cho con gái tôi. Tôi đã như được sinh ra thêm lần nữa vì tìm được con, và thấy con mình được nuôi dạy tử tế và sống hạnh phúc. Con gái tôi đã tìm cách giúp đỡ ba anh trai còn khó khăn hơn, và đón tôi về ở cùng. Tôi đã từ chối con vì tôi không muốn làm xáo động cuộc sống của con gái tôi. Dù chỉ có công sinh thành, không có công nuôi dưỡng, nhưng con gái tôi đã gần gũi với tôi như hai mẹ con chưa từng có 30 năm đoạn trường xa cách. Tôi thầm cảm ơn trời phật đã mang nhiều ân huệ đến cho số phận tôi. Nhưng cuộc sống của tôi vẫn chưa thể nào trọn vẹn khi tôi còn một đứa con gái nữa là chị em sinh đôi hiện giờ vẫn còn lưu lạc ở phương trời nào. Tôi đem chuyện kể với con gái tôi và bàn bạc với con tìm cách nào để tìm được chị, cho chị em anh em nhận nhau, mẹ con nhận nhau thì có chết tôi mới nhắm được mắt.

Tôi cũng không thể ngờ được rằng, trong thời gian này, đứa con gái còn lại của tôi đang tìm đường trở về quê hương. Thật kỳ lạ, một sự trùng hợp ngẫu nhiên và rất nhiều sự trùng hợp khác nữa về đứa con sinh đôi của tôi. Cháu cũng vừa được bố mẹ nuôi người Hoa cho biết sự thật về nguồn gốc của mình. Người nhận nuôi con gái tôi là một cặp vợ chồng người Hoa, không có con. Sau khi nhận con nuôi, họ trở về nước sinh sống. Khi tuổi cao sức yếu, ông bà quyết định nói cho cháu biết gốc gác của cháu là ai, mẹ ruột của cháu vì sao mà phải dứt ruột đem cho con mình. Cũng như trường hợp kia, bà Nụ, người đàn bà giàu lòng nhân ái đã đưa địa chỉ, nhân thân, quê quán và gốc gác của mẹ đẻ cháu, cho gia đình nhận nuôi cháu và để họ tự nguyện làm điều phúc đức. Bà Nụ làm việc này xuất phát từ tấm lòng nhân hậu của một người mẹ. Bà mong muốn, là không được tiết lộ, không được để người cho con  biết được ai là người nhận nuôi con mình để tránh rắc rối về sau. Thế nhưng trước khi mất, bà Nụ đã lặng lẽ gửi địa chỉ của tôi cho hai gia đình đó.      

Thêm một cuộc trùng phùng của gia đình tôi chan chan nước mắt. Tôi tìm lại được hai đứa con gái sinh đôi, khỏi phải nói, tôi hạnh phúc biết chừng nào. Con gái tôi một đứa không biết nói tiếng Việt, nhưng không hề gì, tình mẫu tử đã nhanh chóng đưa chúng tôi lại bên nhau trong một gia đình ấm cúng. Giờ đây cả gia đình tôi đã đoàn tụ. Tôi không bị mất bất kỳ một đứa con nào cả. Chúng đã trở về và quây quần bên tôi. Riêng con gái có bố mẹ nuôi người Hoa thì vẫn sống ở Trung Quốc với bố mẹ nuôi. Một năm cháu dành hai kỳ nghỉ đông và nghỉ hè đưa vợ chồng con cái về Việt Nam quây quần bên mẹ. Ba con trai của tôi cuộc sống đã đổi thay, kinh tế khá giả lên rất nhiều nhờ sự giúp đỡ của gia đình bố mẹ nuôi của hai con gái tôi. Cả gia đình tôi đều sống trong đề huề, hạnh phúc không cùng.

Thỉnh thoảng tôi vẫn phải tự cấu véo vào tay mình, để xem có phải tôi đang sống trong một giấc mơ hay không. Lần nào, cấu xong, nhìn lên bức ảnh của 5 đứa con nay đã là 5 gia đình quây quần bên nhau mà tôi phóng to treo giữa nhà, tôi lại bật khóc. Tôi khóc hu hu như một đứa trẻ vì không tin nổi tại sao cuộc đời lại cho tôi quá nhiều hạnh phúc đến thế. Còn về chồng tôi, đã từ lâu tôi không nghĩ về ông ấy nữa. Trong sâu thẳm, tôi tự nghĩ, chắc phải có lý do nào đó mà ông ấy phải làm cái việc đau lòng là chối bỏ quá khứ. Dẫu thế nào, tôi vẫn tha thứ cho ông ấy và càng thấy thương chồng tôi nhiều hơn. Những năm tháng qua, chắc ông ấy đã sống một đời sống cũng chẳng hạnh phúc gì.

                              Kính thư: NTV.

Lời BBT:

Bà NTV kính mến! Chúng tôi quyết định đăng câu chuyện của bà trong số đầu tiên của năm Kỷ Sửu. Đây là một câu chuyện không có nhiều tình tiết ly kỳ, éo le,  nhưng lại vô cùng xúc động và ấm áp tình người. Câu chuyện của bà đã mang đến cho cuộc đời này thêm nhiều niềm tin và hy vọng vào những phép nhiệm mầu, những điều tốt đẹp trong cuộc đời.

Bà nói đúng, chồng bà, hẳn là vì một lý do nào đó đã không thể trở về được bên bà và các con, và cho dù là bất kỳ lý do nào đi chăng nữa, có lý hay phi lý, phải đạo hay đớn hèn, đáng thương hay đáng khinh thì ông ta thật diễm phúc và may mắn khi được bà tha thứ. Và chắc hẳn, ở một phương trời nào đó, còn sống hay đã chết, linh hồn ông cũng sẽ không bao giờ được thanh thản trong cõi vĩnh hằng này.

Bước sang năm mới, năm Kỷ Sửu, chúng tôi hy vọng sẽ tiếp tục nhận được sự cộng tác của quý độc giả cho chuyên mục “Chuyện khó tin nhưng có thật”. Kính chúc quý độc giả một mùa xuân mới, một năm mới an khang thịnh vượng


70.Câu chuyện thứ 90: Nguyện cầu hạnh phúc mãi mãi

Tôi đã bắt đầu nuôi một khát vọng viết tự truyện đời mình kể từ khi tôi gặp anh. Mỗi một ngày sẽ là một trang tự truyện, và tôi sẽ viết để ghi dấu lại từng ngày, từng giờ, từng phút hạnh phúc của đời mình.

Cuốn tự truyện sẽ kết thúc khi cuộc sống của tôi cũng kết thúc, nghĩa là khi tôi rời bỏ trần gian này và mang hạnh phúc của tôi vào cõi vĩnh hằng. Thứ hạnh phúc mà đã rất nhiều lần tôi sợ hãi khi nghĩ rằng đó chỉ là một giấc mơ bong bóng, là một điều huyễn hoặc mà tôi đã tưởng tượng nên. Nhiều lúc, trong những tháng ngày vụt trôi qua, tôi tưởng mình đã qua đời lâu lắm, rằng cái thực tại mà tôi có không phải là đời sống thực, là một thế giới hư ảo của thiên đàng, của tâm linh mà thôi.

Nhiều khi, tôi tự khóc cười, không biết đâu là thực, đâu là mơ. Rất nhiều đêm, tôi đã bàng hoảng tỉnh dậy giữa chừng, lay gọi chồng tôi và khóc. Tôi hỏi đi, hỏi lại chồng tôi trong lúc anh đang vừa ngơ ngác tỉnh dậy trong cơn say ngủ, rằng tôi đang ở đâu? rằng anh có phải là chồng tôi không? rằng đứa con của chúng ta có phải đang nằm ngủ bên cạnh chúng ta trên chiếc giường hạnh phúc này không? Những lần như vậy, tôi lại khóc nức nở, tôi làm cả nhà thức dậy không biết bao nhiêu lần. Chồng tôi đã ôm lấy tôi vỗ về dịu dàng. Nước mắt tôi rớt thấm má anh, và anh nhẹ nhàng đưa tôi trở lại với giấc ngủ. Không biết bao nhiêu lần, anh thức đến sáng canh cho tôi khỏi những cơn mơ hoảng loạn, giữa những ác mộng vẫn luôn giày vò tôi.

Mới đây, chồng tôi đã đọc cho tôi nghe một câu chuyện ở trên mạng, nói về một người con gái bị người tình tạt a xít toàn bộ khuôn mặt bị biến dạng và hai mắt bị mù. Nhưng số phận đã mỉm cười khi mang đến cho cô một người đàn ông yêu thương thật lòng. Anh ấy rất đẹp trai và hoàn toàn lành lặn. Họ vừa đón bé gái đầu tiên chào đời. Nhiều người đọc câu chuyện ấy sẽ không thể tin nổi, tại sao tình yêu có thể nảy nở giữa những người quá khác biệt nhau, tại sao trên đời này lại có những người đàn ông như những ông Bụt bất ngờ hiện ra và ban tặng cho những mảnh đời bất hạnh biết bao phép nhiệm mầu. Thế nhưng trong cuộc đời có quá nhiều bí ẩn này, những câu chuyện kỳ tích ấy vẫn xảy ra. Hạnh phúc của họ là một câu chuyện cổ tích hiếm hoi được viết trong đời thường.

Anh đọc cho tôi nghe và tôi đã khóc. Tôi tưởng như câu chuyện trên đây là câu chuyện của chính tôi, chứ không phải là của ai khác. Tại sao trên đời này lại có nhiều câu chuyện cổ tích được viết giữa nhân gian bên cạnh biết bao nỗi đau, bất hạnh của con người. Tôi định rằng, sau khi kể lại câu chuyện của mình, vợ chồng tôi, một ngày nào đó, sẽ bằng cách này hay cách khác đến thăm cặp vợ chồng kia, và chúng tôi sẽ cố gắng để kết nối trên thế gian này những câu chuyện cổ tích kỳ lạ như vậy, chúng tôi sẽ kể cho nhân gian nghe về những điều tốt đẹp nhất, kỳ lạ nhất, hy hữu nhất mà họ chưa từng nghe, chưa từng chứng kiến.

Tôi sinh ra cũng lành lặn như bao nhiêu người con gái khác. Vừa bước vào tuổi sinh viên, lên thành phố Hồ Chí Minh trọ học, tôi đã bập vào tình yêu với một chàng trai trẻ. Người yêu tôi rất đẹp trai, hào hoa, ga lăng và có nhiều tiền. Chắc hẳn anh ta sinh ra trong một gia đình khá giả. Anh ta nói với tôi anh ta cũng là sinh viên của một trường đại học. Một cô gái quê như tôi, lần đầu tiên choáng ngợp bởi tình cảm khác giới, lại thật thà, cả tin, tôi đã bị lầm. Tình yêu của chúng tôi vừa kịp mặn nồng thì người yêu tôi bị bắt vì tổ chức sử dụng trái phép ma tuý và thuốc lắc. Ngoài ra, anh ta không hề là một sinh viên như đã lừa gạt tôi mà sau khi bị bắt, anh ta lộ nguyên hình là dân xã hội đen. Tôi đã khóc rất nhiều nhưng tổn thương trước tình cảm trong trắng mà mình đã trót trao nhầm người, tôi kiên quyết từ bỏ tình yêu này.

Người yêu tôi chịu án tù 4 năm, vừa vặn với khoảng thời gian tôi học xong đại học. Bốn năm, tôi đã hoàn toàn quên được mối tình đầu lầm lỡ, tôi lao vào học tập và lấy lại thăng bằng sau những cú sốc tinh thần. Trái tim tôi sau một lần yêu lầm, đã không đủ tự tin để rung động thêm một lần nữa. Tôi khép lại tất cả cho tương lai phía trước. Tôi muốn ổn định xong nghề nghiệp, tôi mới nghĩ đến chuyện riêng tư. Tốt nghiệp đại học, tôi được nhận vào làm ở một công ty nước ngoài. Cũng chính nơi này, thần tình yêu đã gõ đôi đũa định mệnh. Tôi gặp người đàn ông thứ 2 của đời mình.

Anh chính là trưởng phòng nhân sự của công ty. Tôi đã rất run sợ trước tình yêu, con chim đã một lần trúng thương, gãy cánh nên sợ đậu phải cành cong. Nhưng trái tim nào có thể nghe được lý trí. Một lần nữa, tôi đã lại bị khuất phục trước con tim mình. Chúng tôi yêu nhau say đắm. Sau khi yêu tôi, tìm hiểu tôi được 1 năm, anh đã muốn đi đến kết hôn sớm. Trước khi chuẩn bị kết hôn, tôi cũng đã kể cho anh nghe mối tình đầu của tôi. Anh hiểu và rất thông cảm. Bất hạnh bất ngờ ập đến với tôi đúng vào lúc chúng tôi cùng nhau đi chụp ảnh cưới. Bạn trai cũ của tôi đã ra tù, anh ta đi tìm tôi, và biết tôi sắp kết hôn, anh ta đã mua a xít rắp tâm trả thù tình. Kết cục vô cùng bi thảm, toàn bộ ca a xít bạn trai cũ đã hắt lên mặt tôi lãnh trọn.

Tôi nằm viện hơn một năm trời, qua hàng chục ca phẫu thuật. Cũng như người con gái trong câu chuyện kia, đôi mắt tôi đã bị mù vĩnh viễn. Tệ hơn nữa, gương mặt tôi méo mó biến dạng. Tôi không dám ra đường với gương mặt hiện tại của mình. Chồng chưa cưới của tôi rất may chỉ bỏng nhẹ ở tay và lưng, do anh ta chở tôi khi tôi bị tạt a xít. Anh cũng đã ở bên cạnh tôi, chăm sóc tôi suốt cả năm trời khi tôi ở bệnh viện. Bao nhiêu nước mắt, đau khổ và chia sẻ, anh cũng đã nhỏ xuống vì tôi. Nhưng anh không thể làm đám cưới với cô gái tật nguyền là tôi. Anh đã khóc khi viết cho tôi một bức thư dài mong tôi tha thứ. Anh nói rằng, anh rất thương tôi nhưng nhìn gương mặt của tôi anh thấy sợ hãi, anh không chịu nổi những cảm giác đã qua. Chúng tôi chia tay nhau. Tôi mất tất cả. Tôi chìm sâu xuống vực thẳm của cuộc sống.

Cha mẹ tôi quyết định đưa tôi về quê sau tai nạn và những thương tổn tinh thần. Ở quê, tôi vẫn tiếp tục tìm đến cái chết. Tôi không thể thoát ra khỏi nỗi tuyệt vọng.  Mẹ tôi đã bỏ hết việc đồng áng, luôn ở bên cạnh tôi để động viên tinh thần tôi. Không biết bao nhiêu lần tôi đã gào lên với mẹ tôi rằng xin mẹ hãy để con được tìm đến cái chết. Tôi không thể sống mà chìm sâu trong nỗi tuyệt vọng, trong đau khổ. Những lần như vậy, mẹ ôm tôi và khóc. Tôi đã sống trong lay lắt tuyệt vọng. Tôi giấu mình trong nhà, vật vã và khóc lóc. Tôi không làm cách nào để thoát khỏi bi kịch của mình. Tôi chỉ muốn được chết, nhưng để chết được thật không dễ khi mà tôi đã bị mù, đến những việc cá nhân tôi còn không thể lo được, nói gì đến việc đi tìm cái chết. Với những người mù bẩm sinh, ông trời ban cho họ những khả năng kỳ diệu khác. Còn tôi mù là do tai nạn, tôi chưa kịp thích nghi với hoàn cảnh của mình.

Tôi cũng không thể lý giải được tại sao ông trời lại run rủi đưa anh đến bên tôi. Người con trai đã cứu vớt cả cuộc đời tôi, đã đưa tôi trở về với ánh sáng của tình yêu cuộc sống. Anh xuất hiện trong gia đình tôi như một sự sắp đặt của ông trời nhằm cứu lấy sinh linh tội nghiệp là tôi đang trong nỗi tuyệt vọng khốn cùng.

Anh học Trung cấp nông nghiệp, về xã tôi thực tập trong năm cuối. Anh thua tôi tới 5 tuổi, là một chàng trai trẻ trung, đẹp trai và rất tốt bụng. Trước khi bước vào căn nhà của ba mẹ tôi, anh vẫn còn là một sinh viên trong trắng ngây thơ, áo chưa từng vương bụi trần, chưa từng vấp ngã hay buồn khổ bởi những hệ lụy từ cuộc đời. Anh đã hồn nhiên đến gõ cửa nhà ba mẹ tôi xin ở trọ trong đợt thực tập 2 tháng.

Lần đầu tiên, anh đã gặp tôi, người con gái bất hạnh nhất trên đời. Tôi đã đuổi anh đi, đã van nài ba mẹ không cho anh ở trọ. Thế mà lạ lùng thay, sau khi nhìn thấy tôi, biết gia đình tôi có nỗi khổ riêng, anh càng quyết tâm ở lại và gần gũi động viên tôi. Thế rồi điều gì xảy ra thì sẽ xảy ra như không thể khác.

Trong một buổi tối mùa hè, ba mẹ tôi đã tâm sự cho anh nghe câu chuyện đời của tôi. Mẹ tôi vừa kể cho anh nghe, vừa lấy tay áo quệt nước mắt. Bởi vì, cho đến thời điểm đó, tôi vẫn luôn mang ý định tự tử để kết thúc cuộc sống này. Sau khi nghe câu chuyện đời của tôi, đêm ấy, anh đã chạy đến bên tôi ôm lấy tôi và khóc. Lúc đó, vì anh nhỏ tuổi hơn tôi khá nhiều nên vẫn gọi tôi bằng chị và xưng em. Anh nói, sẽ giúp tôi vượt qua nỗi bất hạnh này. Bằng cách nào đó thì anh không biết, nhưng chắc chắn phải giúp tôi sống.

Từ đó anh đèo tôi ra Hội Người mù học chữ nổi, và gần như bắt tôi hoà nhập trong thế giới người mù. Ngày nào cũng vậy, kiên trì suốt trong 2 tháng trời thực tập ở Trạm Giống thực vật của xã, anh đều đặn đưa đón tôi ở Hội Người mù, và sau đó ra đồng ruộng làm thí nghiệm. Và điều kỳ diệu đã xảy ra. Anh đã đem lòng thương tôi, và hơn thế nữa, anh yêu tôi và nhất quyết ra trường sẽ về quê hỏi cưới tôi làm vợ.

Tôi đã không thể tin nổi những câu chuyện cổ tích trong thời hiện đại này. Tôi đã chua xót khi nghĩ rằng chắc là anh ấy muốn trêu chọc tôi. Nhưng đến khi anh thưa chuyện với ba mẹ nói là anh thương tôi thật lòng và muốn xây dựng hạnh phúc với tôi, ba mẹ tôi đã quỳ xuống trước mặt anh vừa lạy vừa khóc, xin anh đừng đùa cợt đứa con gái đáng thương của họ. Nhưng anh đã kiên quyết thương tôi rồi, nếu ba mẹ ngăn cản, anh bỏ học ở lại quê với tôi. Tôi đã được hồi sinh thêm lần nữa. Tôi bắt đầu yêu cuộc sống và bắt đầu chấp nhận hoàn cảnh để chiến đấu với thực tại.

Anh lên trường rồi, ba mẹ thay nhau đưa tôi đến Hội Người mù, động viên tôi học chữ nổi, và tham gia dạy văn hóa xóa mù chữ cho người mù trong xã. Tôi đã cố gắng để sống và chờ đợi vào tình yêu của chàng trai nhỏ hơn tôi tới 5 tuổi như chờ đợi một phép nhiệm mầu. Dù rằng, sự chờ đợi ấy quá ư mong manh. Tôi nghĩ, chia tay tôi trở về trường, anh sẽ tỉnh cơn xúc động, anh sẽ quên tôi, và sẽ sống với thế giới của anh.

Nhưng mọi điều kỳ diệu nhất vẫn có thể xảy đến với cô bé mù loà và gương mặt biến dạng như tôi. Tốt nghiệp Trung cấp xong, anh xin về làm việc tại Trạm Giống thí nghiệm của xã tôi và quyết tâm trở thành chồng của tôi. Anh nói rằng, đời tôi khổ nhiều quá rồi, ông trời sai anh đến để mang hạnh phúc mà lẽ ra tôi được hưởng chứ không phải chịu nhiều thử thách thế này. Ngay cả bản thân tôi, cho đến lúc này vẫn không thể tin nổi tại sao ông trời lại mang anh đến cho tôi. Tại sao một chàng trai khỏe mạnh, đẹp trai như anh lại có thể đem lòng yêu một người con gái lớn tuổi, mặt mũi biến dạng và hai mắt bị mù.

Cả làng, cả xã, cả ba mẹ họ hàng không một ai dám tin vào tình yêu của chúng tôi, ngay cả khi chúng tôi cưới nhau, rồi tôi mang thai và sinh đứa con đầu lòng, mọi người vẫn phấp phỏng, vẫn chờ đợi một kết cục buồn rằng anh sẽ bỏ tôi ra đi sau cơn xúc động nhất thời. Nhưng điều đó vẫn chưa xảy ra, khi tôi đã sinh cho anh thêm 2 đứa con nữa. Vì đứa con thứ 3 mà anh suýt bị kỷ luật nặng, song chiếu cố hoàn cảnh của tôi, nên án kỷ luật có nhẹ đi.

Giờ đây con đầu lòng của tôi đã vào lớp 1, hai cháu sau sang năm cũng đã ngấp nghé tuổi đến trường. Anh vẫn là một người chồng yêu thương, một người cha mẫu mực với các con. Cuộc hôn nhân của tôi năm nay nữa là tròn 7 năm, và tôi, ngày ngày vẫn trôi qua như một giấc mơ mà tôi chính là nhân vật chính trong câu chuyện cổ tích thần tiên ấy. Tôi cũng không biết vì sao nữa, chỉ biết nguyện cầu cho hạnh phúc ở lại mãi mãi với gia đình tôi.

Mỹ Hạnh

Lời BBT:

Bạn Mỹ Hạnh thân mến!

Cuộc đời vẫn còn có biết bao phép nhiệm mầu, và tình yêu của bạn, gia đình hạnh phúc của bạn hiện tại chính là phép nhiệm mầu kỳ diệu nhất mà ông trời nhân đức đã ban cho bạn để giúp bạn xoá đi những ký ức đau buồn, những bất hạnh mà bạn đã trải. Trong cuộc đời này, mỗi một ngày trôi qua, là mỗi một phép nhiệm mầu. Nếu không có phép nhiệm mầu ấy, con người làm sao đủ sức để chống chọi qua những bão táp mưa sa của cuộc đời. Làm sao vượt lên những khổ đau, bất hạnh để tìm tới một cuộc sống bình yên, an vui.

Tôi nghĩ, bạn hãy an lòng mà hưởng trọn niềm hạnh phúc. Hãy sống thật xứng đáng với tình yêu cao thượng, đức hy sinh và tấm lòng bao dung vô bờ bến của chồng bạn. Hãy làm tất cả để giữ lấy hạnh phúc của mình. Không chỉ có bạn mà chúng tôi tin, sau khi đọc câu chuyện của bạn, sẽ có rất nhiều người nguyện cầu cho hạnh phúc của bạn sẽ ở lại mãi mãi bên bạn.

Chúc bạn một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc và bình an


71.Tôi đã tha thứ cho cô ấy

Tôi từng không biết mình đang ở trạng thái nào. Hạnh phúc đến tột độ hay đau khổ và mất mát? dường như tôi chẳng còn phân biệt được rạch ròi nữa. Nhưng cảm giác có thật nhất trong tôi lúc ấy là cảm giác báu vật lớn nhất mà tôi vừa bị đánh cắp mất, nay tôi đã tìm lại được…

Kính thưa các anh các chị trong BBT!

Tôi như kẻ vừa rơi xuống đáy tột cùng thất vọng, đổ vỡ, nay đã tìm được một chiếc phao cứu sinh để đưa tôi trở về với cuộc sống dẫu có đổ vỡ mất mát thì vẫn tươi đẹp hơn trước đó một ngàn lần. Mặc dù câu chuyện đó xảy ra cách đây đã khá lâu rồi, thời gian đã đủ làm lành mọi vết thương, nhưng mỗi lần nghĩ lại, tôi đều rùng mình ớn lạnh bởi cảm giác kinh khủng của nó.

Tốt nghiệp đại học xong, tôi đi làm nghiên cứu sinh ở Tiệp Khắc trong quãng thời gian khá dài. Ngoài 30 tuổi, tôi mới trở về nước và mới bắt đầu tìm hiểu và lập gia đình. Ngày ở nước ngoài học tập và làm nghiên cứu, tôi cũng có một vài người bạn thân và một vài mối tình thoảng qua với các cô bạn gái người nước ngoài. Nhưng ngay từ đầu đã xác định về nước mới lấy vợ nên mọi mối quan hệ tình cảm thời tuổi trẻ rất nhẹ nhàng, không để lại trong tôi nhiều những áp lực hay suy nghĩ.

Tôi làm việc ở Viện TH. Trong quá trình tham gia giảng dạy thêm Trường Đại học TH tại Hà Nội, tôi đã gặp một người con gái rất xinh đẹp và hiền dịu. Người con gái đó là giảng viên ở ngay trong trường nơi tôi cộng tác. Ngay từ lần gặp đầu tiên, tôi đã có một tình cảm đặc biệt với vẻ ngoài xinh đẹp và tính cách hiền dịu của cô ấy.

Tôi chủ động tìm hiểu và biết được cô có một mối tình đầu sâu đậm với một người bạn học. Giống như tôi, người yêu của cô ấy đi tu nghiệp ở nước ngoài, tại Cộng hòa Liên bang Đức. Cô đã quên cả tuổi thanh xuân để chờ đợi và chung thủy với người yêu. Thế nhưng người yêu cô cứ khất lần khất lữa mãi không trở về. Hình như anh ta không có ý định trở về Việt Nam sinh sống, nhưng cô gái thì gia đình rất hoàn cảnh. Nhà được hai anh em, anh đi bộ đội và hy sinh ở chiến trường, còn lại một mình cô nên việc dứt bỏ bố mẹ già để ra nước ngoài cùng người yêu là điều không thể. Đúng lúc ấy, tôi xuất hiện.

Trước tình cảm chân thành của tôi, cô ấy đã nhận lời yêu tôi. Ngày tôi đưa cô ấy về giới thiệu với gia đình tôi, ông nội tôi và cha tôi ngay phút ban đầu gặp gỡ đã rất hài lòng trước vẻ ngoài xinh đẹp, dịu dàng và đoan trang của cô ấy. Chuyện tình cảm của chúng tôi diễn ra chóng vánh trong nửa năm là chúng tôi đi đến kết hôn.

Chúng tôi được phân một căn hộ tập thể 20m2 ở Viện TH nơi tôi làm việc. Sau khi kết hôn, vợ tôi không giảng dạy nữa mà về công tác ở Viện LS gần nhà. Một năm sau chúng tôi đón cậu con trai đầu lòng. Những năm đó, cuộc sống vừa thoát khỏi bao cấp nên cũng rất khó khăn. Chúng tôi quyết định chỉ sinh một đứa con và dồn tất cả để dạy dỗ nó nên người, tạo điều kiện tốt nhất cho nó. Vợ tôi là người kín đáo, lặng lẽ, ít nói, nên cuộc sống của chúng tôi rất yên ấm, hạnh phúc. Tôi bằng lòng với hạnh phúc hiện tại và thầm cảm ơn cuộc đời đã ban cho tôi người vợ hiền thảo.

Cuộc sống của chúng tôi cứ thế trôi đi. Cả hai vợ chồng đều làm khoa học, công tác nghiên cứu nên thu nhập cũng đạm bạc, cuộc sống đơn giản, chúng tôi cũng không có nhu cầu nhiều hơn. Thế nhưng mọi bất hạnh bỗng một ngày ập đến như bão lốc. Tôi còn nhớ như in ngày đó, tôi vừa đi làm về thì đã thấy vợ tôi đang ngồi với một người khách lạ, cô ấy khóc sưng cả mắt. Khi tôi vừa vào đến nhà thì vợ tôi cứ thế ôm mặt khóc nấc lên. Tôi hoảng quá không biết có chuyện gì xảy ra thì ngay lập tức, vợ tôi quỳ sụp xuống dưới chân tôi khóc nức nở: “Em có tội với anh, xin anh hãy tha thứ cho em. Em có tội với gia đình anh, xin anh hãy tha thứ cho em”.

Tôi đứng như trời trồng, trong lòng hỗn loạn vì không hiểu điều gì đang xảy ra. Nhưng bằng sự nhạy cảm của một người đàn ông, tôi lờ mờ đoán rằng, gia đình tôi, tổ ấm của tôi đang gặp phải bão lớn, và người đàn ông xa lạ đang ngồi trước mặt vợ chồng tôi có lẽ là một nguyên nhân gây ra cơn bão này.

Cuối cùng thì vợ tôi cũng bình tĩnh lại. Câu chuyện được vợ tôi nói ra rành rọt. Dù chỉ mấy câu thôi nhưng tôi nghe như sét đánh ngang tai. Tôi đổ sụp xuống, choáng váng và tuyệt vọng. Vợ tôi nói rằng đã mang tội lớn với tôi, rằng suốt trong 5 năm qua cô ấy đã lừa dối tôi, mặc dù sống cùng với tôi nhưng cô ấy vẫn nhớ tới người yêu cũ. Và điều khủng khiếp nhất, như một phát đại bác nã vào tim tôi tan nát, kết liễu cuộc đời tôi ngay từ phút giây ấy, đó là vợ tôi nói rằng, đứa con trai của chúng tôi chính là đứa con của người đàn ông đang ngồi trước mặt tôi chứ không phải của tôi.

Trước khi cô ấy kết hôn với tôi, người yêu cô ấy đã bay từ Đức về và họ đã gặp gỡ nhau. Ngay sau khi kết hôn, cô ấy có thai luôn và theo vợ tôi thì cái thai trong bụng của cô ấy chính là giọt máu của người yêu cũ. Mặc dù không đến được với nhau nhưng tình cảm của hai người khá sâu đậm. Người yêu cũ của cô ấy cũng đã lấy vợ ở nước ngoài. Thế nhưng do một trục trặc về sức khỏe, sau một trận ốm khá nặng, người yêu cũ của vợ tôi không còn khả năng có con. Là con trai duy nhất trong một gia đình, lại là tộc trưởng của một dòng họ, việc không thể có con là một tai nạn quá lớn đối với anh ta và gia đình họ tộc của anh ta. Khi biết người yêu cũ ở Việt Nam sau lần gặp gỡ trước khi kết hôn đã có thai ngay và sinh con như một chiếc phao cứu sinh anh ta. Anh ta đã ly dị vợ trở về nước sinh sống và tìm gặp vợ tôi để xin nhận giọt máu của mình.

Vợ tôi vẫn còn quá nặng tình với mối tình đầu, với người đàn ông mà cô ấy không thể đến được. Chính vì vậy khi anh ta trở về, gặp lại và van xin, vợ tôi đã thương cảm và bằng lòng. Dân gian có câu: “Tình cũ không rủ cũng về” quả thật không sai. Vợ tôi cũng không nằm trong trường hợp ngoại lệ. Tới đây, cô ấy sẽ xin phép tôi và cùng với con trai tôi sẽ ra đi khỏi căn nhà của tôi cùng với người đàn ông kia đang ngồi trước mặt tôi.

Thú thực tôi không còn nghe được gì nữa, không còn biết gì nữa. Tôi ngồi như một bức tượng và im lặng để mặc hai người một là vợ tôi, một là anh kia trình bày trước tôi và xin tôi tha thứ. Chúng tôi là những trí thức, lại từng có thời gian học tập, làm việc lâu năm ở nước ngoài nên có thể trong xử sự chúng tôi văn minh và Tây hóa hơn. Ngay lúc đó, tôi đã im lặng và bước ra khỏi nhà mình. Tôi trở về nhà của bố mẹ tôi với tâm trạng suy sụp.

Tôi ở lỳ nhà bố mẹ tôi một tuần liền không quay lại nhà mình. Sau một tuần gần như nằm liệt giường ở nhà bố mẹ, tôi đã qua đi những cảm giác sốc ban đầu. Tôi suy nghĩ kỹ và đi đến quyết định nói chuyện với bố mẹ tôi chuyện của gia đình tôi. Bố mẹ tôi đã khóc khi nghe tôi kể chuyện nhưng cả gia đình đồng ý cho chúng tôi ly hôn để vợ và con tôi có thể trở về với gia đình đích thực của cô ấy.

Tôi trở về nhà sau một tuần. Vợ tôi cũng suy sụp không kém gì tôi. Cô ấy đã chuẩn bị cho một cuộc ra đi. Chúng tôi lặng lẽ làm thủ tục ly hôn. Sẽ không có điều gì xảy ra sau đó nữa nếu như tôi không nghe theo lời khuyên của bà thẩm phán xử vụ ly hôn của chúng tôi. Chính thẩm phán đã khuyên tôi nên đi xét nghiệm ADN để mọi thứ được rõ ràng minh bạch hơn. Kết quả như thế nào thì bản thân mình cũng thỏa mãn, không ân hận.

Tôi hoãn vụ ly hôn và quyết định tiến hành xét nghiệm ADN tìm bố đích thực cho con trai tôi. Tôi không nói gì với vợ tôi về chuyện tôi âm thầm làm. Tôi chỉ nói với cô ấy là anh cần một thời gian nữa. Ngày đó, xét nghiệm ADN trong nước rất khó khăn và phải qua rất nhiều thủ tục rườm rà và giấy phép. Vì thế tôi đã liên lạc với một vài người bạn nước ngoài và gửi các mẫu vật ra nước ngoài làm giúp trong khoảng thời gian nhanh nhất. Hơn một tháng sau, tôi đã có kết quả xét nghiệm.

Kính thưa các anh các chị. Tôi như người đã chết đi rồi được sống lại lần thứ hai. Như kẻ giữ một báu vật quá lớn bỗng một ngày phát hiện ra báu vật đó đã bị đánh cắp và giờ đây sau bao nhiêu tiếc nuối, đau khổ, giày vò bỗng dưng tôi đã tìm lại được báu vật quá lớn ấy cho mình. Tôi gần như phát điên lên vì hạnh phúc. Khỏi phải nói, khi cầm kết quả xét nghiệm rõ ràng mười mươi tôi là cha đẻ của con trai tôi, tôi cảm thấy cuộc đời tôi hạnh phúc lại dâng ngập đến đủ đầy. Tôi không cần gì hơn nữa, không một mong muốn nào khác nữa. Tôi đã mang kết quả xét nghiệm đưa cho vợ tôi và trình lên tòa án trước sự choáng váng của vợ tôi.

Tiếp theo đó là những chuỗi ngày bi kịch của vợ tôi. Thật lòng, tôi rất thương cô ấy nhưng sự đổ vỡ quá khủng khiếp, tôi không thể nào hàn gắn lại được cho dù tôi rất muốn giữ mẹ cho con trai tôi. Vợ tôi sau đó cũng không về sống cùng với người ấy. Tôi cũng không tìm hiểu lý do vì sao, mà thực ra tôi cũng không hề quan tâm đến những gì xảy ra tiếp theo sau đó của họ. Tôi chỉ biết rằng vợ tôi rất đau khổ.

Cô ấy đã rời khỏi nhà của tôi và để lại đứa con trai cho tôi nuôi dưỡng. Tuần nào cô ấy cũng đến trường tìm con và chơi với con. Tôi đã gặp cô ấy và yêu cầu cô ấy làm sao để tránh sự tổn thương cho con trai tôi. Có thể sau này khi con đã lớn đã hiểu được mọi chuyện thì mẹ con mới lại gặp nhau nhiều hơn. Vợ tôi đã đồng ý và sau đó, mỗi tháng cô ấy gặp con trai tôi một lần. Tôi cũng rất thương cô ấy, rất buồn và cảm thấy có lỗi với con trai nhưng số phận đã vậy, tôi không thể làm khác được.

Tôi sống một mình và không kết hôn nữa cho dù có rất nhiều người phụ nữ yêu thương và chia sẻ với tôi. Tôi nuôi dạy con trai tôi lớn khôn và cháu trở thành một người đàn ông thành đạt. Vợ tôi cũng không đi bước nữa. Bà ấy sau đó mua một căn nhà nhỏ trên Phú Thượng và sống một mình. Bây giờ con trai tôi đã đi làm ở một công ty nước ngoài, cháu lập gia đình và sinh được hai đứa con một trai một gái. Giờ đây ngày lễ, ngày Tết cả gia đình lại tụ họp đông đủ. Lần nào họp mặt gia đình, ăn uống hay lễ Tết, con trai và con dâu tôi đều đón mẹ về quây quần. Các con tôi năn nỉ chúng tôi hãy quay trở về sống với nhau để cho các con cháu được hạnh phúc, gia đình được sum vầy vẹn toàn. Thế nhưng không hiểu sao tôi không thể quay lại được với vợ tôi nữa.

Bây giờ chúng tôi đều đã có tuổi, sống nương tựa vào nhau vì con vì cháu. Không phải tôi không thương cô ấy, không phải tôi còn giận hay hận thù gì cô ấy nhưng mỗi lần nhớ đến cảm giác năm xưa khi tôi đứng trước nguy cơ mất con trai và gia đình bỗng dưng bị tước đoạt hết tất cả, tôi lại thấy ớn lạnh xương sống. Tôi không thể làm gì khác được nữa. Không biết như vậy tôi có ích kỷ quá không.

P.T. (Hà Nội)

Lời BBT:

Anh PT kính mến! Cuối cùng thì anh cũng đã tìm lại được hạnh phúc. Báu vật của anh, anh xứng đáng được sở hữu, được hưởng thụ và sẽ không ai nỡ lấy đi của anh cả. Câu chuyện của anh khiến cho chúng tôi rất xúc động. Chúng tôi hiểu cảm giác của anh, có những vết thương qua thời gian có thể liền da, nhưng có những vết thương sâu không bao giờ kín miệng được mà với những vết thương ấy, thì vết sẹo mãi mãi sẽ không thể xóa tan được hình hài của nó. Và mỗi lần nhìn vào vết sẹo ấy, chúng ta không thể không nhói đau một cảm giác mất mát.

Anh là người chồng cao thượng, một người cha tốt nhưng sự tha thứ cho người vợ không có nghĩa là anh có thể quay về sống lại đời sống vợ chồng với người đã gây cho anh đổ vỡ và mất mát. Cảm giác không thể hàn gắn nổi là cảm giác có thật và chúng tôi hoàn toàn thấu hiểu. Không ai là trọn vẹn hạnh phúc. Vì thế anh hãy bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Các con cháu anh sẽ hiểu và thông cảm cho anh.

Năm mới, chúng tôi chúc anh sức khỏe dồi dào, bình yên và may mắn


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét