Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2013

Chuyen Cua Nguoi Khac La Bui Minh Quoc.html

Chuyen Cua Nguoi Khac La Bui Minh Quoc.html

Chuyện của người khách lạ

Bùi Minh Quốc

Lời giới thiệu

Thanh Thảo

Bùi Minh Quốc là cái tên văn học khá quen. Tôi nhớ hồi học lớp 7 đã phải thi bình giảng bài thơ "Lên Miền Tây" của Bùi Minh Quốc, nhớ mãi hai câu thơ "Xe chạy nghiêng nghiêng trèo dốc núi – Lên Miền Tây vời vợi nghìn trùng" – hai câu có gì như số phận … Bùi Minh Quốc. Anh là một fan-ca-ngợi cuồng nhiệt, và cũng là một fan-không-ca-ngợi cuồng nhiệt. Đó là một nhà văn dấn thân, theo  nghĩa tốt đẹp của từ này. Anh xung phong đi chiến trường vào khu Năm trong thời điểm chiến tranh ác liệt. Vợ anh – chị Dương thị Xuân Quý – cũng xung phong đi chiến trường, để lại đứa con nhỏ mới mười mấy tháng cho bà ngoại nuôi. Rồi chị Quý hy sinh, rồi anh Quốc đi mãi cho tới ngày hòa bình, đi mãi tới miền … Tây, nếu có thể gọi Lâm Đồng là miền Tây, đi mãi tới những ngày không thể đi … Ôi, nhìn Bùi Minh Quốc tóc đã bạc trắng … thật lòng tôi nhiều lúc thấy ái ngại cho anh. Nhưng số anh nó thế, biết làm sao! Làm sao ta chọn được số phận, chính số phận đã chọn ta, và như một nhà thơ Nga: "Với nhà thơ chúng ta – phần thưởng chính là số phận mình". Vậy thì hãy coi số phận Bùi Minh Quốc chính là phần thưởng của anh, phần thưởng cho những trang viết của anh. Sau "những ngày không thể đi" Bùi Minh Quốc lại về miền Trung thăm anh em văn nghệ. Anh đưa cho tôi bản thảo "CHUYỆN CỦA NGƯỜI KHÁCH LẠ" như một minh chứng cho khả năng làm việc liên tục, bất chấp nghịch cảnh của mình. Đây là một truyện viết về chiến tranh, vì thế để cho khách quan, tôi đã đưa bản thảo cho một ông bí thư chi bộ vốn là cựu chiế! n binh, đọc trước, thử xem ông phát biểu thế nào. "Người khách quen" này sau khi đọc bản thảo trong một đêm, đã mang trả tôi kèm một lời bình ngắn gọn: "Tôi đọc cái NGƯỜI KHÁCH LẠ này thấy sướng như được ăn một trã canh khoai". Như được ăn một trã (nồi) canh khoai, đó là cái sướng của người lao động, khi thưởng thức một thành quả lao động, hỏi có lời khen nào "đã" hơn thế, thú vị hơn thế, hả anh Quốc? Dù chưa diễn tả được cái sướng khi ăn một "trã canh khoai", nhưng tôi đọc truyện CHUYỆN CỦA NGƯỜI KHÁCH LẠ một cách liền mạch, đọc trong xúc động. Văn xuôi, mà gây được xúc động cho một kẻ ít am hiểu về văn xuôi như tôi (ông Jourdain làm văn xuôi suốt đời mà không biết), nghĩa là anh Bùi Minh Quốc đã có thêm một độc giả, một độc giả khá vô tư, không cạnh tranh, không lườm nguýt, chỉ lặng lẽ đọc và … sướng. Đây là truyệnviết về nhân vật, một nam một nữ, trong một tình huống ngặt nghèo của chiến tranh, họ tình cờ gắn kết số phận vào nhau khi phải đối mặt với cái chết, với sự săn đuổi, với một hoàn cảnh đặc biệt tới mức như không có thật. Vậy mà trong cái hoàn cảnh có vẻ "ảo" đó, họ đã sống trần trụi với tất cả tình cảm chân thật của mình, trừ một điều cũng có vẻ như không thật: họ đã dùng tất cả nghị lựcđể không đi tới cái "hành động cuối cùng" của một đôi nam nữ đang yêu. Kể như bây giờ, đó cũng là một chuyện lạ, khi cuộc cách mạng tình dục đang phát triển như vũ bão. Nhưng ở thời đó, lại là một điều có thể hiểu được, thông cảm được. Đó là một tình yêu thăng hoa, một tình yêu cao hơn nh! ững bi�! ��u hiện thể chất. Đó là một không-gian-không-trọng-lượng. Nó đối mặt với cái không gian thực đầy ám khí của chiến tranh. Nó đẹp và linh thiêng như một lời cầu nguyện. Số phận nhân vật chính – cô H., cô Trầm, hay cô X gì đó, cứ chợt hiện chợt khuất, một số phận không đơn giản, một số phận có nhiều khoảng tối. Xây dựng một nhân vật có nhiều khoảng tối  như vậy trong số phận, là lợi thế của một nhà văn. Người đọc sẽ rất nóng lòng muốn biết, muốn hình dung được những khoảng còn chưa được soi sáng trong số phận nhân vật. Đó là thuật vẽ "rồng ẩn mây" như người xưa đã dậy. tôi có cảm giác, cuốn tiểu thuyết này mới chỉ là "khúc dạo đầu", một ouverture (khởi nhạc), và Bùi Minh Quốc sẽ đi tiếp vào những khoảng tối của nhân vật chính ở cuốn tiểu thuyết tiếp sau. Viết về chiến tranh sau khi đã hòa bình 25 năm, quả là một thách thức. 25 năm hòa bình là đã có mấy thế hệ không hề biết thế nào là chiến tranh, hoặc chỉ biết qua phim ảnh, sách vở. Viết về chiến tranh thế nào cho những thế hệ ấy đọc được, không phải đơn giản. Bùi Minh Quốc đã chọn được cách thể hiện hợp lý: đan xen những không thời gian, quá khứ, hiện tại, chiến tranh, hoà bình. Và anh luôn nhìn chiến tranh bằng hai con mắt; con mắt của người đã đi qua chiến tranh, và con mắt của người đang sống trong hoà bình, một thời bình cũng có những khắc nghiệt, những thử thách không thua gí trong chiến tranh. Những thử thách về phẩm chất con người, về cái "chất lượng người" trong mỗi con người. Đã có không ít người ngã gục trong hoà bình. Có không ít những đồng đ�! ��i cũ �! �ã nghoảnh mặt với đồng đội, ngoảnh mặt với những nỗi đau. Đã xuất hiện những không gian tự cô lập. Đã có những cuộc đời tự lặng chìm, tự khuất dần trước cặp mắt thờ ơ của bao người. Văn học sẽ có tội nếu không tìm đến những số phận ấy, những "không gian tự khép" ấy. Với mỗi cuộc đời buồn thảm như vậy, cuộc chiến tranh vẫn còn tiếp diễn. "Bây giờ không còn những tiếng nổ to – Nhưng còn những tiếng rạn vỡ" (Văn Cao). Nhà văn chẳng là gì, nếu không nghe được "những tiếng rạn vỡ" ấy. Và thể hiện chúng trong tác phẩm. "Người khách lạ" ấy, thực ra không hề xa lạ. Nó là lương tâm đang được thức tỉnh, ở ngay trong mỗi nhà văn, mỗi người cầm bút. Câu chuyện mà người khách lạ kể lại cho nhân vật nhà văn, thực ra, chỉ là những hồi ức của nhà văn được đánh thức từ trong thẳm sâu của tiềm thức. Và sự đánh thức ấy đã làm chính nhà văn thay đổi. Thay đổi cách sống. Thay đổi cách nhìn. Thay đổi cách cảm. Với nhà văn, sự thức tỉnh mở ra những không gian mới. Từ đây, không còn có thể ngủ yên trên thành đạt. Từ đây, là một chuyến đi, một "Du hành đến tận cùng đêm tối" như tên một tiểu thuyết của Céline.

Quảng Ngãi.

Mùa thu Euro 2000.

I

Nhà văn M thường làm việc ở nhà, tuy ông thuộc biên chế một tạp chí đặt cơ quan thường trú tại Đà Nẵng – cái thành phố mà ông cảm thấy gắn bó ngay từ thời kháng chiến chống Mỹ. Ông sống độc thân trong căn phòng thuê của nhà nước trên tầng giữa của một ngôi biệt thự lớn đã biến thành chung cư. Vào giờ hành chính, cả khu nhà vắng tanh, phòng nào phòng nấy cửa khóa im ỉm. Thật là sự yên tĩnh vàng ngọc cho công việc của ông.

Buổi chiều tháng tám năm ấy, quãng gần bốn giờ, ông đang ngồi cắm cúi bên bàn viết thì có tiếng gõ cửa.

Tiếng gõ có vẻ rụt rè, chứng tỏ không phải là người quen. Mấy tay bạn hay đến tán gẫu thì mới bước lên cầu thang đã gọi rầm rĩ chứ chẳng khi nào thèm gõ cửa. Vậy thì ai?

Ông hoàn toàn chẳng muốn tiếp ai lúc này. Ngòi bút đang có đà. Lạy trời, xin đừng đưa ai tới cắt ngang cái nguồn cảm hứng quí giá đang dạt dào. Ông ngồi nín thinh trên ghế, hy vọng người ở ngoài nghĩ là cả nhà đi vắng, sẽ lui gót. Cái khóa cửa phòng ông thuộc loại khóa nhìn vào không thể phân biệt chủ nhân đi vắng hay ở nhà.

Nhưng rồi mấy tiếng cộc cộc khó chịu lại vang lên lần nữa, bạo dạn hơn. Ông còn đang cân nhắc xem có nên nhấc mình ra khỏi ghế hay không, thì tiếng gõ cửa lại vang lên lần thứ ba, đầy vẻ liều lĩnh. Liếc nhìn bàn làm việc một cách tiếc rẻ, ông miễn cưỡng lê bước ra mở cửa.

Trước mặt ông là một người khách lạ. Hẳn mặt ông lúc ấy nó quàu quạu tệ hại lắm, nên ông thấy gương mặt người lạ biểu lộ một vẻ ngại ngùng khổ sở vì cực chẳng đã buộc phải làm phiền người khác, đồng thời củng xen cả chút riễu cợt như muốn nói: "Gớm, làm quái gì mà khó tính thế!".

Khách là một sĩ quan trạc bốn mươi tuổi, nước da sạm tái, môi thâm, đôi mắt trũng sâu và thâm quầng – bộ mặt của người bị sốt rét kinh niên. Anh mặc bộ quân phục đã bạc … cặp phù hiệu bộ binh cấp thiếu tá vốn màu đỏ đã nhợt trắng, ngôi sao với hai gạch ngả màu xin xỉn. Tất cả những cái đó dội mạnh ngay vào nhà văn, làm thức dậy bao nông nỗi trận mạc đời lính mà bản thân ông đã từng thấm thía rất sâu nặng. Nỗi tiếc rẻ công viêc bị dở dang được trút bỏ lập tức, ông từ tốn và niềm nở hỏi:

- Anh hỏi ai ạ?

- Xin lỗi đã làm quấy quả anh … Anh làm ơn cho tôi hỏi thăm, có phải chị Trầm ở khu nhà này?

- Chị Trầm, vâng có đấy. Chị ấy ở trên tầng thượng. Anh cứ lên hết cầu thang là thấy. Trên đó chỉ có cái sân thượng và căn phòng nhà chị Trầm.

Ông bước hẳn ra khoảnh ban công nhỏ trước phòng mình, chỉ cho người khách cái hành lang dẫn tới cầu thang lên tầng thượng.

Nhưng người khách lạ vẫn đứng nguyên tại chỗ.

- Tôi … tôi đã lên trên ấy rồi, nhưng cửa khóa … Tôi chỉ muốn gặp được ai để hỏi cho biết đích xác có chị Trầm ở khu nhà này hay không để mà yên tâm đợi. Cảm ơn anh đã cho biết. Chắc chị ấy đi làm chưa vể. Tôi xin đợi.

- Phải, giờ này thì chị ấy đi làm chưa về. Anh cứ đi chơi đâu đó, khoảng sau giờ tan tầm một lát trở lại chắc chắn sẽ gặp.

- Vâng.

Người khách gật đầu chào, khoác ba lô bước đi, nhưng được vài bước lại quay lại, rụt rè nói:

- Phiền anh … Anh có thể cho gửi tạm chiếc ba lô?

- Anh cứ tự nhiên.

Ông chỉ cho khách đặt ba lô trên chiếc ghế đẩu nơi góc phòng, tiễan anh ra cửa rồi quay vội về bàn làm việc, cố nối lại mạch suy nghĩ bị đứt quãng.

Nhưng không tài nào nối lại được nữa. Trước mắt ông cứ chập chờn hiện lên cái gương mặt xám tái với cặp mắt trũng sâu thâm quầng, cái mảng áo dính đẫm mồ hôi dính chặt vào lưng và đôi vai gầy nhô lên của người khách lạ. Một lô câu hỏi tự dưng kéo đến quấy rối đầu óc. Anh ta là thế nào với chị Trầm, người thiếu phụ trẻ đẹp sống lặng lẽ trên gác thượng với một đứa con không cha? Bà con họ hàng thì dĩ nhiên không phải rồi, vì anh ta nói giọng Bắc nguyên chất, chuẩn như giọng Hà Nội, mà chị Trầm là người Điện Bàn. Phải chăng đây chính là cha của đứa bé, lâu nay vẫn úp kín trong màn bí mật, giờ mới tìm về?

Những suy đoán dồn dập ấy lại làm hiện lên vẻ mặt luôn đăm chiêu, cặp mắt đen u ẩn của chị Trầm. Thực ra, chị ta là người thế nào? Ông lúng túng tự hỏi và bỗng xấu hổ nhận thấy rằng cho tới nay mọi hiểu biết của ông về người hàng xóm ở tầng trên chỉ là mang máng. Tệ hơn nữa, ông chỉ nhìn chị ta qua bức màn chẳng lấy gì làm trong sáng do ông Sáu, một cán bộ về hưu ở tầng dưới đã vô tình giăng ra từ hồi nào. Theo cách gọi của ông Sáu, thì chị Trầm thuộc loại người "có vấn đề". Đối với ông Sáu, nội cái việc chị ta có một đứa con "tự túc" như vậy cũng đủ liệt vào loại "có vấn đề" rồi. Huống nữa, nghe đâu chị ta từng suýt bị đuổi vì ngang ngược tới mức có lần đã làm một công việc động trời là giang tay tát vào mặt thủ trưởng của mình, về sau người ta rộng lượng chỉ cảnh cáo, hạ lương và chuyển sang một cơ quan khác thôi. Hiện nay chị ta làm ở một Công ty nào đó. Ông chỉ biết đại khái thế, mà cũng toàn là "nghe đâu" và đều là qua lời ông Sáu cả. Sống cùng một ngôi nhà đã mấy năm, nhưng ông chưa có lần nào nói chuyện riêng với chị ta ngoài đôi câu chào hỏi khi gặp nhau dọc lối đi. Cái chính là ông cứ bận liên miên với những chuyến thâm nhập thực tế quan trọng, khi biên giới, lúc hải đảo, khi nhà máy, lúc công trường hoặc các hợp tác xã có năng xuất lúa cao.

Tiếng va chạm của xô thùng ở chỗ vòi nước dưới tầng trệt vang lên inh ỏi. Ông giật mình. Đã quá giờ tan tầm rồi, mọi người đi làm về đang tất bật lo cơm chiều. Ông uể oải đứng dậy, quơ lấy chai rượu rót ra cái chén nhỏ tợp một ngụm gọn ơ, chép miệng thú vị, rồi đi kiếm nồi xoong. Một mình ăn uống chẳng mấy, nhưng dù sao cũng phải nấu nướng, phải ăn. Thức ăn còn thứ gì đây nhỉ? À, còn ít đậu phụ kho cà chua với muối và mì chính. Mỡ màng ráo hoảnh vì phiếu thịt phiếu mỡ đã xài hết ngay từ tuần đầu tháng. Chỉ cần nấu nồi cơm, luộc nửa mớ rau muống và đun lại chỗ đậu kho. Ông làm thêm chén rượu nữa rồu bắt đầu nhóm bếp dầu, đặt ấm nước. Trong lúc chờ nước sôi, ông mở cửa bước ra ban công hóng gió một chút thì thấy người khách lạ đã trở lại từ hồi nào, đang đứng tựa vào lan can. Nom anh ta có vẻ hết sức bồn chồn . Ông hỏi:

- Anh chờ lấy ba lô hả? Sao không gọi? Chị Trầm về rồi chứ?

Người khách lúng túng:

- Chưa, chua thấy về. Chắc đi chợ hay đi đón con.

Bấy giờ nhà văn M mới sực nhớ ra một điều, vội kêu lên:

- Thôi chết! Không, không phải. Khổ quá, hồi xế chiều tôi quên  béng đi mất không nói ngay với anh. Ôi chao. Làm anh mất công …

Người khách hốt hoảng:

- Sao, sao cơ ạ.

- Không có chuyện gì ghê gớm lắm đâu. Chị ấy cho con về quê đã ba bốn hôm nay. Tôi nghe ông Sáu nhà dưới nói chỗ vòi nước hôm qua, thế mà quên béng mất.

- Không biết liệu mẹ con cô ấy đi có lâu không?

- Cái đó thì tôi chịu không biết được. Có thể là đi nghỉ phép. Nếu đúng vậy thì chỉ độ bảy tám hôm nữa là cùng.

Nỗi thất vọng vụt làm gương mặt vốn đã tái xạm của người khách càng tối xầm lại. Ông bỗng thấy thương anh ta làm sao. Khi anh ngoắc chiếc ba lô vào một bên vai bước đi được vài bước, ông bèn gọi giật lại:

- Bây giờ ông đi đâu? Ra trạm khách quân khu à? Xa lắm. Mà tối đến nơi rồi!

- Tôi có vài người bạn cũ đóng quân ở chân đèo Hải Vân …

- Ới, chỗ đấy lại càng xa. Thôi, ở lại đây với tôi rồi tính sau. Tôi trước cũng lính mà, tôi lại ở có một mình thôi, đừng ngại gì.

Người khách lưỡng lự giây lát rồi thả ba lô xuống:

- Vâng, anh cho tôi ở tạm một đêm.

Ông đỡ ba lô cho khách:

- Cứ tự nhiên nhá!

Khách ngồi xuống cạnh bếp cùng ông chuẩn bị bữa ăn. Ông phân công anh ta nhặt rau, còn ông đãi gạo, thứ gạo phải xếp sổ chầu chực từ sáng sớm tinh mơ ở cửa hàng lương thực mới mua được, sặc mùi bao tải và đầy sạn, không đãi không tài nào nuốt nổi. "Về cái khoản phải phải đãi gạo này thì chẳng khác gì thời chiến, ông ạ – ông bảo khách – cái ca Mỹ kỷ niệm thời chiến tôi còn giữ được đến bây giờ chức năng chủ yếu là đãi gạo. Thứ này đãi gạo thì nhất, ông công nhận không?

- Chính thế.

Nhặt rau rửa rau xong, người khách biến đi đâu một lát rồi trở về, trên tay cầm một gói giấy báo.

- Gì thế? Lại bày vẽ gì thế? Chủ nhà hỏi.

Khách cười cười, vừa mở gói sắp ra đĩa vừa giải thích:

- Cái chợ vỉa hè gần nhà anh có nhiều món hấp dẫn thật. Tôi thấy anh có chai rượu nên mua về món này, hy vọng là hợp gu anh.

Nhìn đĩa lòng lợn, nhà văn kêu lên:

- Sao mà ông thánh thế. Chính là gu của tôi đấy.

Họ ngồi nhắm rượu ngoài ban công, dưới ánh trăng. Cũng may đúng đêm mất điện lại có ánh trăng. Trời hây hẩy gió.

Vừa nhâm nhi chén rượu vừa trò chuyện, lần lần họ được biết thêm về nhau. Người khách tên là Vũ, đang chiến đấu trên vùng biên giới Cam-pu-chia – Thái Lan, giờ đi nghỉ phép. Tính tuổi tác thì nhà văn M và thiếu tá Vũ tuy không học cùng trường nhưng thuộc cùng một lứa học sinh ở Hà Nội. Thời chống Mỹ thì Vũ đã từng ở một đơn vị đặc công của Mặt Trận Bốn, còn nhà văn M thì công tác ở phòng chính trị. Cả hai đều có lăn lộn nhiều năm trên vùng ven Đà Nẵng. Những chi tiết vui ngộ của cuộc sống chiến trướng xưa tình cờ được gợi lên lai rai trong chuyện khiến họ tuy lần đầu mới gặp nhau mà cảm thấy như gần gũi nhau đã lâu. – "Anh còn nhớ cái quán bún giò heo của bà Bảy chứ? Bom tọa độ nó rải tùm lum tối ngày, thế nhưng không hiểu sao cứ nhìn cái tư thế bà Bảy ngồi bình thản tay thoăn thoắt đơm bún, miệng đon đả mời khách là lại thấy đời lên hương …" – "Tôi đã có lần ăn bún ở đấy, đang ăn thì nghe bom rít. Mình là hạng cũng khá dầy dạn trận mạc, mà nghe nó rít xèo xèo gần quá thú thực cũng ớn xương sống, nhưng không dám buông bát nằm xuống, chỉ hơi cúi người, vì thấy bà Bảy vẫn ung dung, nó tỉnh rụi: "xa lắc ý mà …". Quả là trái bom cũng không gần như mình tưởng. Cái bà, nghe bom đến là tài…"

Vũ mở ba lô lấy gói cà phê. Anh kể lai lịch của nó: một anh bạn cùng đơn vị, quê ở Đăklắc đem từ Buôn Ma Thuột sang Poi Pet, gặp Vũ lúc đi phép anh cho luôn Vũ một nửa, còn một nửa pha cả cơ quan tham mưu cùng uống. Vũ về đến Xiêm Riệp thì nghe tin anh bạn bị mìn chết. Về đến Hà Nội, Vũ không buồn lấy cà phê ra uống. "Mà biết uống với ai!" – anh nói thêm, giọng buồn bã.

Từ ban công họ ngồi, có thể nhìn thấy cả dãy núi Sơn Chà nổi lên trước vịnh biển, nghe rõ tiếng máy tàu trên cửa Hàn ra vào giòn dã. Cái dãy núi vốn trầm mặc trong đêm biển đầy sóng, đêm nay như càng có vẻ trầm mặc hơn. Hai đốm đèn đỏ của đài phátt thanh bên kia sông Hàn nhấp nháy liên hồi như cặp mắt bồn chồn mong ngóng ai không biết tự bao giờ và đến tận bao giờ. Họ vừa nhấp cà phê, và rượu nữa, vừa chuyện vãn.

Bị trí tò mò thôi thúc, chốc chốc nhà văn M lại gợi Vũ kể cho nghe vì sao anh dành phần lớn cả chuyến nghỉ phép lặn lội từ biên giới Căm-Pu-Chia – Thái Lan xa tít về tới Hà Nội rồi vội vã vào đây, phải chăng điều đó liên quan mật thiết với mối quan hệ giữa anh và người đàn bà trên gác thượng?

Mỗi lần ông M gợi chuyện, Vũ đều khéo léo lảng tránh. Thế nhưng cặp mắt anh thì lại tố cáo rằng trong anh đang bức thiết cái nhu cầu muốn được chia sẻ, được tâm sự. Vì vậy mươi phút sau, ông lại đánh bạo hỏi sát sườn hơn. Cuối cùng Vũ đáp khẽ trong tiếng thở dài, gần như nói thầm:

- Chuyện cũng khác dài, anh ạ …

Im lặng giây lâu, Vũ nhìn nhà văn như muốn xác định lần nữa xem ông có thực đáng tin cậy hay không để nghe những điều chất chứa trong lòng mà anh đang thèm khát được thổ lộ nhưng chưa thấy nơi gửi gắm.

Thế rồi anh bắt đầu kể.

II

Từ sau năm bảy nhăm, mỗi chuyến nghỉ phép tôi đều dành phần lớn thời gian để đi tìm Trầm.

Không biết người ta lên rừng đi tìm trầm vất vả thế nào, còn tôi đi tìm cô Trầm của tôi – anh mỉm cười hơi ngượng nghịu – thì khá gian truân. Mãi gần đây tôi mới biết tên thật của cô ấy là Trầm. Còn trước kia, tôi chỉ biết cô ấy qua cái tên mật là H. Thế thôi. Một chữ H trần trụi, bí ẩn. Ở cơ quan thành đội đứng trên vùng bàn đạp ven Đà Nẵng hồi đó, mấy anh chị em có quan hệ công tác trực tiếp với cô thì gọi cô là cô Ba, một cái tên gọi theo thứ tự trong nhà rất chung chung như ta thường gặp ở miền Nam. Thực ra , cô có phải thứ ba hay không tôi cũng chẳng rõ. Riêng tôi, tôi vẫn thầm tưởng tượng vẩn vơ và thử gọi cô bằng đủ các vần H: Hường, Hồng, Hà, Hòa, Hoa, Hiền, Hạnh, Hoài, Hằng, Hương … Tôi cố chọn trong những tên ấy một cái tên mà theo trí tưởng tượng tôi cho là hợp với cô nhất để riêng mình gọi, nhưng không hiểu sao chẳng có một tên nào khiến cho tôi vừa ý. Rốt cuộc tôi vẫn thích cái tên mật với một chữ H ấy hơn cả, nó làm rạo rực trí tưởng tượng của tôi mỗi khi nghĩ đến cô.

Tôi tốt nghiệp đại học lâm nghiệp thì đi bộ đội và vào chiến trường. Mấy năm đầu tôi ở đặc công, đánh được mươi trận. Sau hai lần bị thương, tôi được lệnh rời đơn vị chiến đấu chuyển về cơ quan thành đội. Tôi vừa giúp việc cho đồng chí ủy viên thường vụ tỉnh ủy kiêm thành đội trưởng, vừa phụ trách huấn luyện cho lực lượng du kích mật hoạt động hợp pháp trong thành phố địch chiếm.

Chỗ đứng chân của chúng tôi là một xóm nhỏ bên bờ sông Cổ Cò – anh biết con sông đó chứ? (Nhà văn M gật đầu). Trong phạm vi bán kính chừng bốn cây số có ba cái chốt cỡ trung đội của địch. Tuy thế, chúng tôi vẫn đứng yên ổn nhờ mười hai gia đình trụ bám làm nhà làm hầm ra giữa cánh đồng để giữ tư thế hợp pháp với địch. Ở giữa đồng, nên xó được gọi luôn là xóm Đồng.

Vùng này nằm trong vành đai hệ thống phòng thủ của căn cứ quân sự Đà Nẵng và địch cũng thừa biết là vùng bàn đạp của ta để tấn công vào đó, nên chúng tập trung đánh phá có thể nói là khủng khiếp. Không tuần nào không có lùng sục, không tháng nào không có càn quét, lùa dân, xúc dân, đốt lều, giật hầm. Bom pháo thì tất nhiên là no nê. Dân bị lùa, bị xúc một phần lớn vào các khu dồn, phần thì phiêu bạt đi tận Phan Thiết, Sài Gòn, Cao nguyên, lần lần còn lại được mười hai gia đình quyết ghì bám lấy mảnh đất nát tơi ấy để làm chỗ dựa cho chúng tôi.

Đồng chí bí thư khu ủy đã có lần nói rằng những người dân gan góc trụ bám trên các địa bàn trọng yếu như thế đều xứng đáng được thưởng huân chương hết. Tôi thấy thật đúng. Có điều sau chiến tranh không ít những người dân trụ bám bị lãng quên. Nhiều vị cán bộ làm công tác khen thưởng ngồi ở trên cao nói chung chẳng có chút ý niệm gì về người dân trụ bám cả. Anh đã từng sống ở Điện Bàn những năm đó anh hẳn biết, để có thể có được một bóng người mặc áo trắng đội nón trắng đi lại cày cuốc trên những cánh đồng ấy, buộc địch phải quen mắt và chấp nhận cảnh làm ăn sinh sống thường nhật của người dân, thì phải khôn ngoan đến thế nào, đổ máu đến thế nào …

Chỗ đứng này rất thuận tiện liên lạc với thành phố, nên dù ác liệt đến mấy, chúng tôi cũng quyết bám. Các đồng chí ta ở thành phố về, chỉ cần đi xe lam theo đường số Một tới chỗ bên ngoài thị trấn Vĩnh Điện một quãng, xuống xe, theo đường ruộng lên xóm Đồng là gặp giao liên của thành đội chờ sẵn.

Những ngày tình hình êm, nghĩa là bọn địch ở các chốt không nống ra lùng sục, chúng tôi chỉ cần "hợp pháp" với bọn tàu rà tàu gáo trên trời bằng một chiếc nón trắng, một chiếc áo trắng và cái cuốc trên vai, từ vị trí bàn đạp của mình băng qua cánh đồng là gặp được các đồng chí ở thành phố. Khi nào cần tổ chức cho các được ở lại ít ngày để học nghị quyết, dự huấn luyện chẳng hạn, chúng tôi đưa họ tới vị trí đón khách của cơ quan. Đó là mấy căn hầm tránh pháo nằm chen giữa những bụi cây lúp xúp bị bom pháo địch xe tướp nhưng không hiểu sao vẫn sống được, cách xóm dân trụ bám của mười hai gia đình tôi vừa kể trên một cánh đồng hẹp, bên bờ sông Cổ Cò. Tất nhiên phải có hầm bí mật. Đường ra lối vào đều có các bãi mìn bố phòng rất kỹ.

Sống trên bàn đạp vùng ven này đương nhiên là cực kỳ căng thẳng.Bom pháo triền miên. Tàu rà, tàu gáo, trực thăng vũ trang hoạt động hầu như không lúc nào ngớt. Ban đêm, bọn trực thăng vũ trang có gắn đèn pha cực mạnh bay tà tà rọi đèn và xả đại liên vào từng bụi cây còn sót lại trên mặt đất, ven các bờ khe bờ lạch, nhất là dọc sông Cổ Cò.

Chúng tôi hầu như phải thường xuyên rúc hầm bí mật, có ngày hai ba lần, thời kỳ địch lùng sục gắt gao phải rúc cả tuần liền. Chỉ có một niềm vui duy nhất là được gặp và làm việc với các đồng chí ở thành phố về.

Đối với tôi không biết tự khi nào, cái niềm vui ấy đã lặng lẽ vượt qua giới hạn của niềm vui công tác. Nó đã chen vào một nỗi mong chờ và vấn vương

thầm kín về một con người : H.

Từ trước khi được gặp H lần đầu tiên, tôi đã hay nghĩ tới cô, thậm chí thích mường tượng về cô mỗi khi đọc những bản báo cáo ngắn gọn và sắc sao viết bằng thứ chữ nhỏ li ti trên mảnh giấy pơ-luya bé bằng ngón tay gửi từ vùng địch về cơ quan thành đội. Tôi cứ mường tượng rằng cái con người viết bản báo cáo này hẳn phải là một người con gái thông minh và đẹp. Không hiểu sao tôi lại đoán chắc với mình như vậy. Mà cũng khá lạ lùng là điều đoán chắc vô căn cứ của tôi lại rất đúng, thậm chí tôi còn bị bất ngờ về vẻ đẹp của H, không phải vì nó quá rực rỡ, mà vì một lẽ khác.

Kể ra tôi cũng đã từng may mắn được quen biết những cô gái thật đẹp, nhất là trong thời sinh viên. ở đại học lâm nghiệp của tôi thì bói cũng chẳng ra một mống đâu. Bên đại học tổng hợp của anh cũng thế. Bên bách khoa lại càng không.

Anh nhớ chứ, thời ấy tụi sinh viên con trai chúng mình đã tổng kết tình hình nhan sắc các cô tại các trường: “Khỉ bách khoa, ma tổng hợp”. Đùa như vậy để cũng hơi ác nhưng chắc là các cô gái đáng kính cũng tha thứ cho cái thời quấy nghịch hơn qui sứ của chúng ta. Còn bên đại học sư phạm thì… Biết nói thế nào thỉ ? Tôi có người anh họ dạy bên ấy, tôi biết. Đó là thế giới của các nữ thủy thần, bước vào đấy anh dễ đánh mất trí nhớ, quên đường về như không.

So với tất cả các cô gái đẹp ấy, thì vẻ đẹp của H, tôi không nói là hơn, nhưng nó hoàn toàn khác. Tôi có cảm trong vẻ đẹp ấy cứ lặng lẽ lan tỏa trong không gian mùi hương tuyệt vời của hoa giủ giẻ, nó thật là đồng nội và thật là thanh cao, nó làm dâng lên trong tôi một nổi buồn ngọt ngào đồng thời là cả một niềm khao khát trút bỏ khỏi bản thân những gì tầm thường để vươn tới một thế giới cao khiết hơn. H như sinh ra để ban phát sự dịu dàng và đón nhận sự dịu đàng. Thế nhưng nơi cặp mắt to thật đen lúc nào cũng anh ánh nước của cô thì lại bảng lảng một nỗi u ẩn như thể trong đó là vòm trời của những truyền thuyết về một số phận khác thường (nghĩ đến cặp mắt của chị Trầm, nhà văn M gật đầu thầm nhận rằng Vũ nói đúng).

Anh có tin rằng – Vũ nói tiếp – trong cuộc đời con người, có những cuộc gặp gỡ kỳ lạ đến nỗi chỉ cái nhìn đầu tiên đã quyết định tất cả? Phải, chỉ là một khoảnh khắc cực ngắn như một tia chớp thôi nhưng là tất cả. Sau cái tia chớp đó mọi sự trong đời ta như mang nặng một vận mệnh mới. Trước kia, tôi cũng nghĩ như nhiều người rằng cái trạng thái diệu kỳ huyền bí đó chỉ là do cái nhà thơ cao hứng bịa ra thôi chứ nó không hề tồn tại. Về sau, thì tôi thừa nhận rằng, không, họ không bịa tí nào cả đâu bởi chính tôi đã nghiệm thấy thế kể từ cái khoảnh khắc đầu tiên khi tôi nhìn thấy H.

Đó là một buổi chiều, cũng và quãng tháng tám như chiều nay, trời hết sức êm ả, nhưng mặt đất thì không yên tí nào. Địch bắn pháo nhiều hơn mọi hôm. Pháo từ các căn cứ Mỹ ở Bồ Bồ, Trảng Nhật, Ái Nghĩa tập trung nã tới. Còn cối của bọn Nam Triều Tiên ở căn cứ Bình Long mà anh em mình ai cũng gờm thì bắn hàng chục khẩu một lúc nổ như liên thanh. Chúng tôi đang chú tâm theo dõi xem hiện tượng địch bắn pháo nhiều hơn có phải là dấu hiệu của một cuộc càn quét ngày mai hay không, thì cháu Sinh, một cháu gái chừng mười ba tuổi, giao liên tuyến trước của thành đội, từ xóm Đồng hớt hải chạy về. Ở xóm Đồng chúng tôi thường xuyên có giao liên trực để đón các đồng chí từ ngoài thành phố về. Cháu Sinh làm nhiệm vụ này rất tốt, vì cháu nhỏ tuổi mà gan dạ mà rất lanh, nếu gặp địch bất ngờ đổ quân hoặc nống ra lùng sục, cháu không phải rúc hầm bí mật như bọn tôi mà hoàn toàn có thể hợp pháp được. Cháu Sinh dẫn theo một người khách.

Không có tin nhắn trước, cũng không phải có hẹn theo kế hoạch, nên tôi nghĩ đây hẳn là một người khách từ thành phố về đột xuất bởi một chuyện gì rất quan trọng và khẩn cấp. Cháu Sinh chốc chốc lại dừng lại chờ người khách bươn bả bước theo sau khá vất vả, phần vì cháu có thói quen đi nhanh (ngay cả khi không có pháo bắn), phần vì có lẽ người kia cũng chưa quen đi bộ trên đường ruộng.

Đó là một cô gái mặc quần đen ống bó, chiếc áo trắng rộng thình, vạt áo và hai ống tay bay lất phất theo làn gió chiều thổi ngược. Xin nói thêm với anh, mốt quần loe mấy năm sau mới xuất hiện, còn hồi đó đang thịnh hành mốt quần ống bó như điếu xì gà, áo sơ mi thì rộng thênh. Tới bờ sông, hai người men theo lối dốc dần xuống và mất hút đằng sau bực sông cao cao một lúc khá lâu. Con sông Cổ Cò mùa này nước cạn chỉ ngập độ lưng ống chân, và chắc trong lúc lội qua sông, thế nào cháu Sinh cũng rủ khách dừng lại khoát nước rửa mặt, bởi ở chỗ chúng tôi rất thiếu nước.

Rồi họ lại hiện ra trên lối mòn dẫn vào cơ quan. Bây giờ thì cháu Sinh không vượt xa lên phía trước nữa mà đi liền sát với người khách: đã bắt đầu khu vực bố phòng, bất cứ ai tới đây không có người dẫn chắc chắn sẽ vấp mìn.

Cháu Sinh đưa khách về thẳng chỗ căn hầm đồng chí thành đội trưởng. Ngay lúc đó tôi được gọi tới. “Mời chú qua làm việc, có chị Ba về “. Sinh chỉ nói vắn tắt thế rồi chạy đi lo cơm chiều. Tự nhiên tôi thấy xốn xang. Ba chính là đồng chí H, H mà tôi vẫn hay nghĩ đến với nhiều cảm phục qua những chiến

tích tôi đã biết. Tôi quàng chiếc xắc vào vai, nịt lại dây lưng, bước rảo sang hầm đồng chí thành đội trưởng. Trước miệng hầm, H đang ngồi báo cáo công việc với đồng chí. Thấy tôi tới, H ngẩng lên, mỉm cười thân mật và có phần bẽn lẽn. Tôi gật đầu :

- Chào đồng chí Ba.

Một lời chào hết sức khô khan. Nhưng ánh mắt chúng tôi gặp nhau, chỉ một giây, có thể ngắn hơn, rồi H cúi xuống nhìn mấy ngọn cỏ may bám nơi ống quần. Chiếc quần H mặc hóa ra không phải màu đen, mà may bằng thứ vải nhung kẻ xanh sẫm gần như đen, ánh lên giêng biếc. Chiếc áo cũng không phải màu trắng, mà vàng nhẹ màu hoa vông vang, ở cổ và hai mép ống tay có những đường vân thêu màu nâu trang nhã. Nơi ngực áo bên trái cũng có thêu một bông hoa nhỏ màu nâu rất xinh. Khuôn mặt trái xoan với nước da trắng hồng mịn màng đầy vẻ quí phái trong bộ áo quần mất nhất của thành phố, nhưng ở H lại toát ra vẻ đẹp nhuần nhị và thuần phác của một đoá hoa đồng, hòa với nét hiền thục chịu thương chịu khó thường thấy ở những cô gái nông thôn đã nhiều lam lũ. Riêng cặp mắt thì thật lạ, trong lúc ngước lên nhìn như mở ra trước tôi một thế giới hoàn toàn cách biệt với cảnh bom đạn dữ dằn ờ xung quanh. Cùng với khoảnh khắc nàng nhìn tôi thoảng nghe như tiếng nàng khe khẽ: “Anh Vũ”

Tôi ngồi xuống cạnh đồng chí thành đội trưởng, thầm sung sướng vì thấy H đã biết tên tôi, chắc là do đồng chí thành đội trường nói lại. Đây không phải lần đầu tiên H về vị trí bàn đạp này. Những chuyến về trước đây của H, rủi ro sao tôi đều đi công tác ở hậu cứ, nên không được gặp.

Vậy đấy cái phút ban đầu gặp gỡ giữa tôi và H đã diễn ra như vậy. Bề ngoài như chẳng có gì cả, chỉ là cuộc gặp gỡ giữa hai người đồng chí, vì công việc. Nhưng có một cái gì đó đã nảy sinh nơi tôi kể từ giây phút ấy, một cái gì đó tôi chưa từng cảm nhận trong đời, một cái gì đó tôi chưa biết gọi tên.

H ở lại một đêm trên vùng bản đạp rồi sáng dậy rất sớm. Sau khi cháu Sinh dò đường thật kỹ nắm chắc không có địch phục kích, nàng theo cháu ra xóm Đồng. Ở đấy, khoảng hơn tám giờ, nàng ung dung lẫn vào dòng người đi chợ hợp pháp vùng địch hàng ngày, xuống đường số Một đón xe lam về Đà Nẵng. Khi H bắt tay tôi để đi, tôi thấy lo cho H quá chừng. Anh biết đấy, những năm tháng ấy, trong mỗi cuộc chia tay của chúng ta với bạn bè đồng chí, hầu như ai cũng có cảm giác không biết rồi có còn được gặp lại hay không. Có khi chỉ vài tiếng đồng hồ, thậm chí chỉ vài phút sau lúc chia tay đã kẻ mất người còn. Niềm tin vào thắng lợi cuối cùng là hiển nhiên, nhưng cái cảm giác mất còn khốc liệt kia thì lúc nào cũng âm ỉ bàng bạc trong mỗi cuộc chia tay.

Tôi tiễn H một đoạn tới bờ sông Cổ Cò đứng đấy một lúc lâu, dõi xem có gì xảy ra không. Tuy cháu Sinh đã dò đường thật kỹ, chắc chắn là không có ổ phục kích nào, nhưng trong chiến tranh, thiếu gì chuyện bất ngờ, mọi điều nghiệt ngã trớ trêu nhất văn luôn luôn sẵn sàng xảy ra. Huống chi, nay H đang dấn thân vào một nhiệm vụ đầy nguy hiểm. Từ buổi ấy, tôi mong tin H hàng ngày. Cháu Sinh vẫn đều đặn đem về những báo cáo mật nhỏ xíu cuộn tròn như lông ngỗng từ nội thành gửi ra.

Nhưng bẵng đi nửa tháng không thấy báo cáo của H. Cho tới một hôm, đài phương Tây đưa tin một vụ nổ tại câu lạc bộ sĩ quan không quân Mỹ ở Đà Nẵng làm chết ít nhất sáu sĩ quan cấp tá và gần ba chục sĩ quan cấp úy. Chúng tôi reo mừng bởi biết đó chính là chiến công của H cùng tổ biệt động nội thành do H tổ chức và chỉ huy. Cùng buổi chiều hôm đó, thành đội cũng nhận được báo cáo chi tiết của H. Thì ra thời gian vừa qua H phải di chuyển địa điểm để chuẩn bị trận đánh nên tạm ngừng liên lạc.

Trận đánh đã diễn ra gần đúng như phương án mà H trình bày với đồng chí thành đội trưởng bữa trước. Ngày hôm sau đài ta cũng đưa tin. Tất nhiên, sau mấy dòng tin vắn tắt, chẳng ai biết gì thêm về những con người đã tiến hành trận đánh táo bạo đó, nhưng tôi thì tự nhiên cứ cảm thấy một niềm vui riêng.

Ngồi dưới hầm tránh pháo, giữa tiếng pháo địch bắn rộ từng chặp như thường lệ mỗi buổi chiều, ôm chiếc đài bán dẫn trong lòng, tôi nâng niu mường tượng tới khuôn mặt dịu hiền của H, cái dáng ngồi nghiêng với mái đầu hơi cúi, mấy ngón tay thon nhỏ lần gỡ nhưng chấu cỏ may bám trên ống quần… Tôi vẫn cứ ngỡ ngàng tựa hồ như chưa thể tin được rằng cái cô gái dễ thương như đứa em út cần được che chở của tôi ở nhà kia với người tổ chức và chỉ huy một trận đánh tài tình đến thế lại là một. Tôi mơ tưởng đến một ngày nào đó, khi cuộc chiến đấu đầy gian truân cay cực này đã hoàn toàn thắng lợi, những chiến sĩ bí mật như H sẽ bước ra khỏi cái tên mật để trở về với cái tên thật từ thời thơ bé, giữa sự ngạc nhiên cảm phục của tất cả mọi người.

Đôi khi tôi cứ bâng khuâng nhớ lại cái khoảnh khắc mà H ngước nhìn tôi, ánh mắt chúng tôi lần dầu tiên gặp nhau, cái khoảnh khắc đã khiến cho hai con người từ hai phương trời thăm thẳm cách biệt bỗng chốc mỗi người được biết về sự có mặt của người kia trên cõi đời này, giữa cuộc chiến tranh đang xốc xới nháo nhào tất cả mọi gia đình, mọi số phận. Chẳng hiểu đối với H, cái khoảnh khắc đó có nảy sinh và tồn tại hay không, nhưng đối với tôi nó là như thế, thực sự là như thế, tôi cảm nhận rõ trong từng mạch máu, từng đường gân thớ thịt, nó khiến tôi trở nên không yên ổn.

Khi chưa gặp H, tôi cũng đã hay nghĩ đến nàng, cố hình dung gương mặt dáng vẻ của nàng, tưởng tượng về tính tình và tâm tư nàng. Từ sau khi được gặp nàng, thì tôi lại càng hay nghĩ đến nàng hơn, có thể nói không ngoa rằng không giờ phút nào hình bóng nàng không chập chờn hiện lên trong tâm tưởng tôi, ngay cả vào những giờ phút khó ngờ nhất khi đầu óc buộc phải rất tập trung như vào lúc hội ý các công tác quan trọng hoặc nhận chỉ thị của thủ trưởng chẳng hạn. Đối với các đồng chí hoạt động trong nội thành, tôi vốn luôn luôn có một niềm cảm phục đặc biệt, ngay từ hồi còn ở ngoài Bắc. Bây giờ đây, tại chiến trường, so với những người công tác phía sau ở căn cứ trên núi thì chúng tôi vẫn được coi là thuộc hạng thường xuyên vào sinh ra tử, chịu đựng thử thách ác liệt nhất, nhưng so với các đồng chí hoạt động nội thành thì tôi thấy nhưng thử thách mà mình đang phải đương đầu chẳng ăn nhằm gì. Đối với các đồng chí ấy, sự thử thách là diễn ra từng giây từng phút. Chúng tôi thì còn có cơ quan đơn vị, còn có đồng bào, hàng ngày còn có hội ý hội báo, họp hành, được nhìn thấy nhau, nói với nhau đôi lời hoặc chỉ cần nhìn mấy bà xóm Đồng đội bom đội đạn đi làm cỏ lúa, mấy cháu thiếu nhi vừa thả bò vừa làm trinh sát cho chúng tôi, thì dù trong lòng dẫu có thoáng chút chao đảo cũng liền vững vàng lại ngay. Còn trong nội thành thì sao? Mỗi đồng chí chúng ta trong ấy gần như phải hoàn toàn độc đảm trên vị trí chiến đấu của mình, rình rập vây bủa thường xuyên quanh họ không ch�! � là bắt bớ tra tấn tù đầy thủ tiêu mà còn là bao nhiêu cám dỗ còn đáng sợ hơn cả cái chết, ranh giới giữa cuộc chiến đấu cao cả với cái vũng lầy sa ngã chỉ là một sợi tóc. Trong hoàn cảnh như thế mà lúc nào cũng vững vàng được thì ghê gớm lắm.

Cứ nghĩ vậy và nhớ tới H, nhớ tới vẻ đẹp vừa kiều diễm vừa bình dị của nàng, không thuần túy chỉ là vẻ đẹp bên ngoài, mà đó cũng là hiện thân của vẻ đẹp bên trong, tôi càng thêm cảm phục gấp bội, yêu thương gấp bội, nó làm dấy lên trong tôi một niềm khao khát rất lạ lùng chỉ riêng tôi mới biết, chỉ riêng tội mới hiểu: khao khát luôn luôn phải xứng đáng với nàng.

Sang tháng chín, có lệnh gọi H về học nghị quyết mới. Tôi khấp khởi mong cho chóng tới ngày H về. Tôi hồi hộp nghe ngóng qua cháu Sinh, qua các bà đi chợ mỗi ngày xem tình hình thành phố ra sao, việc gác xách của bọn cảnh sát có gì khác thường không… Tình hình vẫn bình thường. Nghĩa là ở vùng bàn đạp của chúng tôi, cứ đôi ba ngày lại có ngày chúng tôi phải xuống hầm bí mật từ bốn giờ sáng tới bốn giờ chiều, bọn máy bay phản lực vẫn đánh bom đều đều ở điểm này điểm nọ, bọn tàu rà tàu gáo vẫn cần mẫn xoi mói khắp chốn, chúng ‘làm ăn” chăm chỉ chẳng kém các ông nông dân ngày ngày đi cày, các bà ngày ngày đi cấy hoặc chạy chợ. Ở các trạm gác trong vùng địch, bọn “nghĩa quân: (tên gọi mới chúng đặt cho bọn dân vệ) vẫn trút gạo trút mắm của các bà đi chợ.

Bất chấp, và như có phép màu, mỗi ngày các bà vẫn đưa lọt về một thứ gì đấy cho cách mạng, đồng thời cũng đem về cả những chuyện cười no ruột về những hành động đốn mạt của bọn lính gác đường. Có thằng tịch thu của bà Tư xóm Đồng một túm cá ngừ hấp và xấp bánh tráng rồi ngồi ăn ngon lành trước mặt bàn dân thiên hạ. Có thằng giả vờ soát người thím Hai Xuyến để giở trò đểu, thím đẩy cho té ngửa xuống rãnh bùn, nó sừng sộ giương súng doạ bắn, thím ung dung đưa tay gạt nhẹ nòng súng, miệng lớn tiếng hô hoán tố cáo cử chỉ dê chó của nó trước đám đông tò mò xúm quanh, khiến mặt nó sượng trân thiếu đường kiếm lỗ nẻ mà chui.

Nhưng đúng cái ngày H về thì một tình huống bất trắc tai ác xảy ra. Khoảng tám giờ sáng, cháu Sinh dẫn H về tới nơi. H vừa khom người bước vào cái lều thấp che trước miệng hầm tránh pháo, mỉm cười chào tôi, thì trên đầu chúng tôi xoẹt xoẹt rít lên tiếng không khí bị xé. Một quả pháo thình lình rớt xuống, tiếng nổ vỡ ra, cùng lúc ấy tôi che tiếng cháu Sinh kêu lên:

- Chú Vũ ơi, cháu bị thương rồi !…

Cháu Sinh bước vào lều trước H, ngồi ngay. cạnh tôi, sao nghe tiếng cháu như từ rất xa vẳng lại. Mãi sau tôi mới hiểu là tai tôi đã bị ù. Khói bụi mù mịt trong lều. Tôi quơ tay tìm đỡ cháu. Pháo vẫn nổ tới tấp xung quanh. Tôi hét bảo H :

- Ba, vào hầm mau đi!

Tôi bồng được cháu Sinh vào căn hầm sặc sụa khói.

- Sinh, cháu bị vào đâu ? – tôi hỏi gấp gáp.

Sinh không trả lời. Tôi cảm thấy ngay có điều gì nguy ngập. Tôi bảo H giúp tôi lần tìm vết thương trên mình cháu. Nhưng ngón tay H cứ run lên bần bật. Không thấy máu chảy chỗ nào. Tôi mở khuy áo ngực cho cháu dễ thở thì phát hiện một vết bằng hạt ngô bên vú trái, chỉ có một dòng máu nhỏ rỉ ra nhưng vết thương sâu hút dễ sợ. Trong ánh sáng lờ mờ dưới hầm, mắt Sinh mở trừng nhìn tôi, bàn tay cháu đang bíu chặt cánh tay tôi bỗng rơi xuống. Tôi đưa ngón tay dí sát vào mũi cháu. Hơi thở cháu đã tắt Mình cháu dần lạnh. Tôi vuốt mắt cho Sinh, đặt cháu nằm ngay ngắn trên ván lát hầm và lấy tấm dù trắng cháu vẫn quàng nơi cổ phủ kín toàn thân.

Có tiếng chân thình thịch chạy qua bên ngoài và tiếng cậu vệ binh của đồng chí thành đội trưởng gọi cho vào:

- Nó đổ quân xóm Đồng, ra công sự ngay?

Lúc này tôi mới nhận ra tiếng máy bay chở quân loại hai chong chóng phành phạch liên hồi mé xóm Đồng.Ngay trên khu vực chúng tôi, hai cặp trực thăng vũ trang quần rất sát, bắn rốc-két và đại liên cực nhanh. Tôi kéo H vào sâu trong hầm, luồn về đằng cửa phụ. Chúng tôi ngồi lại theo dõi vòng lượn của bốn chiếc trực thăng. Tôi mở tấm dù nguy trang giắt bên thắt lưng choàng cho H, phủ ngoài chiếc áo trắng. Lựa mãi mới chớp được thời cơ bốn chiếc trực thăng hở vòng lượn để trườn ra, lợi dụng bờ một con lạch cạn mà tiến dần về phía hầm bí mật. Sau bao vất vả, mấy lần suýt bị bọn trực thăng vũ trang phát hiện, cuối cùng tôi cũng đưa được H xuống hầm bí mật yên ổn.

Ở dưới hầm, từng phút một tôi dỏng tai nghe ngóng động tĩnh bên trên. Tiếng máy bay, tiếng pháo, rốc-két dần ngớt. Đó là dấu hiệu cho biết địch đã đổ quân xong. Chúng đang làm gì? Lùng sục chăng? Sục hướng nào? Thỉnh thoảng có tiếng súng nhỏ nổ từng loạt ngắn. Có thể chúng bắt được ai đó rồi bắn chết, hoặc phát hiện ai đó đang chạy nên hắn đuổi. Hay chúng khui được cái hầm bí mật nào trong số các hầm của cơ quan thành đội chúng tôi? Tôi áp chặt tai vào vách hầm. Chưa nghe tiếng chân chúng. Như vậy chúng cũng còn xa. Nhưng có tiếng gầm rít xa xa của xe bọc thép hoặc xe tăng đang tiến lại mỗi lúc một gần.

Chốc chốc mặt đất lại rùng mình vì những vụ nổ khó hiểu, không phải kiểu nổ của bom hay pháo. Theo dõi hồi lâu, tôi mới xác định được đó là tiếng nổ gì: bọn Mỹ đang dùng thuốc C4 triệt phá các căn hầm tránh pháo. Quen hoạt động hợp pháp ở thành phố nên lúc mới xuống hầm H có vẻ hồi hộp. Tôi nghe rõ tiếng tim nàng đập mạnh và tiếng thở gấp gáp. Trong bóng tối nhập nhoà, tôi nhận ra cặp mắt của H nhìn tôi chăm chú, như muốn đọc trên nét mặt tôi những dấu hiệu của tình hình trên mặt đất. Nhưng tôi cố gắng không để lộ nỗi lo lắng mỗi lúc một tăng của mình. Ngay từ đầu tôi đã có linh cảm rằng trận càn hôm nay hoàn toàn không giống những trận càn thường xảy ra trước đây ở vùng này.

Điều khiến tôi lo lắng thực sự không phải là những tiếng nổ dồn dập rất căng bọn Mỹ đang triệt phá các căn hầm tránh pháo, mà là cái tiếng gầm gừ nặng nề riết róng giống như tiếng xe bọc thép hoặc xe tăng thoạt đầu còn xa sau rõ dần. Đó là tiếng xe ủi. Như vậy là chúng tôi đã rơi vào một tình thế đáng sợ nhất: bị lọt  vào vùng cày ủi. Tôi áp tai vào vách đất sát hơn nữa để cố phán đoán xem địch đang cho xe cày ủi hướng nào, còn cách chúng tôi độ bao xa. 

Chưa thấy rõ những chấn động của đất, chúng cày cũng chưa gần lắm, có thể là khoảng xóm Đồng. Tôi ước lượng thế. Tôi quyết định nói cho H hiểu hết tình thế hiểm nghèo của chúng tôi và cách ứng phó mà tôi cho là cách duy nhất còn có chút hy vọng để thoát được. Cách ấy như sau: ngay đêm nay, chúng tôi phải đội nắp hầm lên và luồn ra khỏi vòng càn. Đêm đầu tiên khi mới đặt chân lên vùng đất lạ, bọn địch chưa nắm vững địa hình địa thế, thường có nhiều sơ hở, nên chúng tôi phải hành động ngay đêm nay. Đó là kinh nghiệm thoát hiểm trong các trận càn kiểu này đã được anh em hoạt động ở quanh vành đai Đà Nẵng truyền lại cho nhau. Nhưng còn từ giờ đến đêm? Miễn sao từ giờ đến đêm chúng tôi chưa bị nghiền bẹp dí dưới xích xe ủi hoặc chưa bị cái lưỡi thép khổng lồ của nó xọc ngang mình.

H tỏ ra bình tĩnh. Qua làn ánh sáng yếu ớt rọi từ lỗ thông hơi, tôi nhận thấy trên gương mặt trong sáng còn nhuốm một vẻ gì thật trẻ thơ của H hiểu lộ sự từng trải của một con người đối đầu cùng cái chết không phải chỉ một lần. H chỉ thiếu kinh nghiệm hoạt động ở môi trường mình chưa quen thuộc. Nàng bảo nhất nhất nàng sẽ làm theo sự chỉ dẫn của tôi. May sao H lại có một chiếc đồng hồ nên chúng tôi có thể theo dõi được giờ giấc dưới cái thế giới bịt bùng như âm phủ này. Tôi dặn H những điểm cần nhớ đối với người rúc hầm bí mật. Không được để xảy ra cái chuyện tệ hại nhất là đến lúc cần phải dội nắp hầm vọt lên thì lại đột ngột ngất xỉu. Ngồi hầm dễ buồn ngủ. Không được để cho cơn buồn ngủ kéo mình lịm đi, hết sức nguy hiểm.

Giữ hơi thở đều đặn vừa phải. H ngoan ngoãn nghe lời. Tôi trao cho nàng khẩu súng ngắn, còn mình giữ khẩu AK. Các cán bộ đứng chân trên địa bàn vùng ven chúng tôi, ngoài súng ngắn, ai cung xin trang bị thêm một khẩu AK y như cánh lính hộ binh. Quanh thắt lưng tôi luôn luôn có ít nhất bốn quả lựu đạn Mỹ M26. Tôi gỡ bớt một quả trao cho H. Tôi hướng dẫn H các động tác chiến đấu trong tình huống hầm bị lộ và địch khui hầm: tung lựu đạn lên thế nào, chuyển súng ngắn sang tay phải ra sao, vọt lên thế nào. Tôi kể cho H nghe chuyện anh em mình từng bị khui hầm đã chiến đấu theo cách ấy và không ít người đã thoát được. Chuyện nóng hổi gần đây nhất mới hồi tháng năm vừa rồi là chuyện anh Quốc bí thư Điện Bàn cùng đồng chí vệ binh bị khui hầm đã chiến đấu và thoát được lại còn diệt được ba tên Mỹ.

Cái tiếng gầm rít của xe ủi thoạt tiên nghe còn xa xăm, chập chờn, thậm chí mơ hồ như có như không. Rồi nó rõ dần. Tôi cảm thấy vách hầm bắt đầu chấn động nhẹ. Chẳng nghi ngờ gì nữa, cái tai hoạ ác nghiệt không tránh khỏi đang tiến đến. H nép sát vào tôi. Hẳn nàng cũng cảm thấy điều gì đó cực kỳ nghiêm trọng. Tôi nắm chặt tay H, nói khẽ:

- Không sao, nếu nó tới gần, mình sẽ xuống tầng hầm dưới.

Căn hầm bí mật này do chính tay tôi khoét. Nó còn một tầng nữa, dự phòng cho những tình huống thật ngặt. Bây giờ đã sắp tới lúc dùng.

Nghe tôi nói vậy, H có vẻ ngạc nhiên. Nàng không ngờ lại có thể còn một tầng hầm nữa. Tôi không nhìn rõ nhưng cảm thấy rằng một tia hy vọng vừa ánh lên trong mắt nàng. Một nỗi xót xa vô hạn khiến tim tôi nhói buốt. Tôi  biết rõ là hầu như chẳng còn mấy hy vọng nữa, dù có tầng hầm dưới. Khi cả sức nặng của một chiếc xe ủi đè trúng hoặc lưỡi thép khổng lồ của nó phập vào thì tầng hầm dưới cũng chẳng nghĩa lý gì. Dự cảm rợn ngợp về cái chết thoáng lướt qua cơ thể. Rồi sẽ chẳng ai tìm thấy chúng tôi giữa bãi đất mênh mông bị cày ủi này đâu.

Chắc chắn là thân xác chúng tôi sẽ tan biến vào với đất. Điều đó thật kinh khủng. Tôi vừa muốn gào thét vì tức tối lại vừa tỉnh táo chấp nhận điều tồi tệ nhất từng dự liệu trước cho mình. Nhưng còn H, vì sao, vì sao người con gái như một nụ hoa trinh khiết chưa kịp hé nở với cuộc đời này lại phải bị nghiền nát? Thật phi lý không sao chịu nổi. Tôi cảm thấy như cái nụ hoa đang run rẩy trong tay mình, mà mình không cách gì che chở, cứu văn. Tôi nghiến răng vì bất lực. Chao ôi, giá tôi có thể lấy cái chết của mình để đổi lấy cuộc sống cho nàng…

Nhưng cái chết chưa vội tới. Có vẻ như nó muốn chơi trò mèo vờn chuột với chúng tôi. Tiếng xe ủi nặng nề trở nên xa dần lúc nào không hay. Những chấn động của lòng đất yếu đi. Có lẽ độ một tiếng đồng hồ. Rồi thì cái âm thanh chết chóc kia lại rộ lên và bành trướng khắp không gian. Căn hầm lắc lư. Tôi mở nắp tầng hầm dưới, đưa H thả người xuống. Sau đó tôi đưa cây AK và thả mình xuống nốt. Tầng hầm dưới chật chội. Chúng tôi ngồi sát bên nhau, căng toàn thân nghe ngóng. Căn hầm lắc lư dữ dội như con thuyền sắp bị lật úp, và chúng tôi sắp bị nghiền bẹp dí, nhưng điều đó vẫn chưa xảy ra.

Trạng thái khốn kiếp ấy kéo dài không biết bao lâu, có lẽ lâu lắm, chỉ biết là thần kinh chúng tôi nhão ra, tới mức phó mặc mọi sự. H ngả đầu vào vai tôi thiêm thiếp. Tôi cũng tự nhiên thấy buồn ngủ, hai mí mắt muốn dịp lại. Cho tới lúc tôi nhận thấy tất cả bỗng im ắng đến không thể tin được. Tôi cầm lấy cổ tay có đeo đồng hồ của H nâng lên coi. Đã gần tám giờ tối.  Tôi lay H dậy.

- Đừng ngủ, chết, đừng ngủ !

H.thều thào câu gì không rõ, chắc là mệt lăm. Tôi nói :

- Dậy đi, địch rút rồi.

Nghe vậy. H tỉnh hẳn.

- Địch rút rồi hả anh ?

Tôi cười :

- Nghe im re, chắc nó rút rồi.

Nhưng tôi biết là địch chưa rút. Tầng hầm dưới chật chội và bức bối vô cùng. Mồ hôi tôi vã ra khắp người, ướt đẫm chiếc áo cổ vuông. H cũng vậy. Chiếc áo sơ mi mỏng của nàng ướt sũng, dính sát vào mình. H lại ngả đầu vào vai tôi, muốn thiếp đi. Không biết nàng có bị sốt không – điều mà tôi cực kỳ e ngại – hay chỉ là do không thắng được giấc ngủ sau một hồi quá căng thẳng?

Tôi đặt bàn tay lên vầng trán ướt nhớp xam xảm đất của H. Khó xác định được nhiệt độ trong người nàng, vì tay tôi cũng rất nóng. Tôi lay H.

- Dậy, chuẩn bị lên.

H ngượng nghịu cất đầu khỏi vai tôi, giọng khao khao, thì thầm :

- Chu cha, em ngủ mệt dễ sợ. Em cứ ngỡ là mình chết rồi. Nó chưa ủi mình

sao anh ?

- Chưa. Nếu nó ủi rồi, thì mình đã lên Niết Bàn . . .

- Nó chừa mình ra đó mà.

Tôi mỉm cười. Những lời hồn nhiên của H khiến mọi nỗi căng thẳng trong tôi tan biến.

- Bây giờ mình trở lên hầm trên. Em khát nước không ?

- Khát như điên. Nhưng làm sao được ?

- Yên chí. Đâu khắc có đó. Lên trên này đã.

Tôi lên trước, rồi kéo H lên. Dễ thở hơn một chút. Tôi rờ rẫm nơi góc hầm lấy can nước dự trữ loại năm lít mà tôi luôn để sẵn dưới này và cứ hàng tháng lại thay nước một lần. Có cả một lon sữa bột Ghi-gô nữa. Nhưng từ lúc xuống hầm tôi không cho H biết, chỉ để dành dùng khi nào cơn khát của chúng tôi trở nên không còn chịu đựng nổi, bởi khó có thể lường phải nằm hầm bao lâu. Lúc này tôi cũng chợt thấy khát như điên. Tuy vậy tôi rót nước ra cái nắp can nhỏ xíu, chỉ cho H uống bốn nắp, tôi bốn nắp. H hít hà thèm thuồng nhưng không dám xin thêm. Thương quá, tôi rót cho H một nắp nữa. H từ chối, tôi ép, H nhấp một nửa, ép tôi uống nết chỗ còn lại.

Mười hai giờ kém năm. Tôi đưa tay, từ từ nâng nắp hầm lên, hé ra một khe nhỏ. Gió mát lùa xuống cùng với làn ánh sáng vàng vọt của pháo sáng. Gió mát khiến chúng tôi dễ chịu hẳn. Tôi cứ hé nắp hầm như thế chừng mươi phút để lắng nghe cho rõ mọi âm thanh trên mặt đất. Im ắng. Không có động tĩnh gì quanh đây ngoài tiếng ì ầm của chiếc máy hay C130 bay lượn trên cao cần mẫn thả đèn dù và thỉnh thoảng xả từng tràng đạn 20 ly nổ dai như trâu đái. Tôi nâng hẳn nắp hầm và sè sẹ đưa qua một bên, cả khuôn vuông của cửa hầm hiện ra để lộ một vòm trời khuya trong trẻo lấp lánh sao. Ánh đèn dù chờn vờn. Tôi thò nửa đầu ra khỏi cửa hầm.

Tôi giật mình cái thót. Dưới ánh sáng của một dãy đèn dù treo lơ lửng lưng trời, lù lù một khối gì đó đen ngòm, bất động, cách chỗ chúng tôi chừng ba chục mét. Tôi toan thụt đầu xuống thì cũng vừa định thần lại và nhận ra cái khối đen đó chính là những chiếc xe ủi. Khoảng mươi chiếc chụm đầu thành một cụm. Tôi chăm chú tìm xem bọn lính gác ngồi ở vị trí nào. A, đây rồi! Chúng ngồi rất kín, khó khăn lắm mắt tôi mới tìm thấy chúng. Một tên ngồi trên chiếc xe ủi đậu ở góc cụm xe, bóng nó điệp vào cái mui của chiếc xe kế bên. Tên thứ hai ngồi dưới đất, khuất sau thành bánh xích một chiếc xe ủi khác ở góc đối diện. Mắt tôi “chộp” được nó là nhờ cái mũ sắt bỗng ngọ nguậy. Tôi hiểu mánh khoé của chúng. Tên ngồi trên ghế xe ủi có thể quan sát bao quát một phạm vi rộng, còn tên ngồi phía sau thành bánh xích là để rình đối thủ như một con mèo rình chuột. Phía bên kia cụm xe, chắc cũng có hai tên ngồi gác tương tự.

Mặt đất vốn bấy lâu đã bị không biết bao nhiêu trận bom pháo đánh nát tơi, giờ bị cày ủi trống trơn, nhấp nhô nhưng lượn sóng đất, chỗ dồi lên chỗ hõm xuống nham nhở. Đây đó ngổn ngang những khối lớn gộc tre bị lật nhào chổng ngược, các thân tre bị phạt cụt chẻ tướp giơ ra tua tủa, dưới ánh sáng chập chờn của đèn dù nom như hàm răng một bầy quái vật. Tôi nhận thấy phần đất bị cày ngày hôm nay loang rộng đến cách hầm chúng tôi khoảng năm mét thì dừng lại. Thật là một sự may mắn ngẫu nhiên kỳ lạ.

Chiến tranh là cái chết rình đợi từng phút, nhưng cũng lại bao gồm cả sự may mắn không cắt nghĩa nổi như vậy. Tuy thế, tôi cũng kịp hiểu ngay rằng tiếp sau cái may mắn lớn này còn biết bao nhiêu những rủi ro lớn khác đang rình đợi chúng tôi trên đường thoát khỏi vòng càn, và tất cả là tùy thuộc ở sự gan góc và khôn khéo của chúng tôi mà thôi.

Nên bò ra theo hướng nào đây ? Ngoài bọn lính gác chỗ cụm xe ủi kia, chắc chắn địch còn bố trí nhưng tuyến canh gác vòng ngoài. Chúng chốt những chỗ nào ? Còn cụm quân chủ yếu của chúng bảo vệ cho trận cày ủi ? Tôi đoán ở khu vực xóm Đồng hẳn có chừng một hai đại đội. Bên kia sông Cổ Cò, ít ra phải hai đại đội nữa. Pháo từ các cứ điểm xung quanh bắn nhiều về phía cánh đồng Thí Thân. Tôi quyết định sẽ bò về hướng ấy. Theo kinh nghiệm, chỗ nào nó nã pháo thì chỗ ấy không có bộ binh của nó.

Tôi thụp đầu xuống lại dưới hầm, nói rõ cho H nắm vững tình hình địch mà

tôi vừa quan sát và phán đoán, ngửa bàn tay vạch giúp H hình dung sơ qua địa thế và hướng chúng tôi sẽ bò ra. Tôi quyết định không cần tằn tiện số nước dự trữ nữa, mà phải uống thật đã trước khi rời khỏi hầm. Tôi đưa can nước cho H, Nàng ngại ngần chưa dám uống. Tôi bảo :

- Em uống đi, uống cho đã để có sức mà bò ra. Mà ta cũng nên ăn thêm ít sữa bột nữa.

Tôi lấy lon sữa bột mở nắp dốc vào chiếc túi ni-lông để đem theo, còn chừa lại một ít trong lon chúng tôi ăn ngay. Tôi trao chiếc lon cho H. Nàng nhường tôi ăn trước. Chúng tôi cứ thế truyền nhau vừa ăn vừa uống. Cả một ngày khát và đói, giờ đây chỉ cần vài bụm sữa bột và được uống nước thoải mái, chúng tôi hoàn toàn khoẻ khoắn. Tôi giúp H lấy đất nhão ở đáy hầm bôi kín lên chiếc áo trắng lấm chấm hoa xanh và chiếc quần nhung của H. Phần tôi, thì như mọi cán bộ đứng chân ở vùng bàn đạp trên vành đai Đà Nẵng, hồi giờ chỉ luôn mặc một chiếc quần đùi và một chiếc áo ngắn tay cổ vuông, màu đã xỉn như màu đất còn bộ bà ba bằng vải ka-tê thì vẫn xếp gọn trong chiếc xắc nhỏ đựng tài liệu đeo chéo bên người. Chúng tôi chôn kỹ dưới đáy hầm những thứ có thể lộ bí mật. Vì kế hoạch H về cơ quan chỉ hôm trước hôm sau lại trở vào thành phố nên nàng không có gì ngoài bộ áo quần đang mặc trên người với chiếc làn nhựa xách tay như một người đi chợ, trong đựng mấy thứ lặt vặt dùng để nguy trang. Tôi bảo H vứt chiếc làn nhựa lại dưới hầm, nhưng nàng cứ lừng khừng luyến tiếc. Tôi hơi gắt:

- Tiếc gì cái làn. Bò ra đem theo nó vướng lắm.

Bằng một giọng nhỏ nhẹ, H giải thích cho tôi hiểu, nàng hy vọng ngày mai hoặc ngày mốt, khi thoát khỏi vòng càn, có thể tìm cách trà trộn với các bà đi chợ để trở vào thành phố, kẻo vắng mặt lâu dễ bị nghi. Mà đi không không, chẳng xách cái chi trong tay, tụi cảnh sát để ý đến. Tôi hiểu, và không khỏi lấy làm ngượng vì đã quên mất hoàn cảnh hoạt động của H. Tôi đồng ý cần đem theo chiếc làn, nhưng H phải để tôi mang, còn nàng chỉ bò người không với khẩu súng ngắn và trái lựu đạn trong tay. Đôi dép xa-bô cao gót bằng da của H, tôi luồn vào trong thắt lưng tôi, cạnh mấy quả lựu đạn, cuộn băng cá nhân và cuộn võng. Mười hai giờ mười lăm, chúng tôi lên khỏi hầm và bắt dầu bò về hướng cánh đồng Thí Thân.

Vũ ngừng lại, nhấp một ngụm cà phê đã nguội có pha chút rượu, châm một điếu thuốc rít liền mấy hơi dài. Đốm thuốc đỏ rực hắt sáng lên mặt anh làm hiện rõ những nét khắc khổ như còn lưu giữ nguyên vẹn bao cuộc vật lộn sinh tử trên cái bàn đạp vùng ven ghê gớm ấy, những năm tháng ấy.

Đêm đã khuya. Từ chỗ vòi nước ở tầng dưới, thỉnh thoảng vẫn vẳng lên tiếng khua thùng côm côm. Mùa hè năm nay thật gay gắt. Đã tháng tám rồi mà không có lấy một giọt mưa giông, nước mặn từ Cửa Hàn lấn lên tới tận cầu Đỏ, nơi nhà máy nước hút nước để lọc cung cấp cho thành phố. Mọi người phải dùng một thứ nước máy mằn mặn, đến nỗi người ta nói đùa mà cũng chẳng ngoa lắm rằng nấu canh khỏi cho muối. Cái vòi nước ở chung cư này ban ngày chỉ ri rỉ có khi tịt hẳn, đến đêm mới chảy, các gia đình phải thức thay nhau chầu chực để lấy nước. Từ cuối phố, vẳng lại tiếng rao hột vịt lộn của một em bé gái, giọng còn non như một con chim non lạc mẹ. Tiếng rao cố cất cao, gợi nghĩ tới một cái cổ gầy ngẳng đang rướn lên, cứ chừng một phút lại vang lên lãnh lót, lặp đi lặp lại đều đều như thể sẽ kéo dài thâu đêm suốt sáng.

- Anh có mệt không ? Hay anh đi nghỉ ?… – Vũ rủ rỉ hỏi, sau một hồi lặng lẽ hút liền hai điếu thuốc.

- Không, không, có gì mà mệt – nhà văn M vội đáp- Chính ông cũng vừa bâng khuâng sống lại một quãng đời chiến trận. Ông thở dài, thân mật nắm lấy cánh tay Vũ day day : – Mình đang chờ nghe ông đây, kể tiếp đi, kể thật chi tiết vào.

Cái giọng trầm ấm của Vũ lại thủ thỉ tiếp tục câu chuyện.

*        *

*

Tôi bò trước, H bò sau, cách tôi chừng năm mét. Tuy chưa được huấn luyện kỹ cái động tác của lính đặc công này, nhưng H bò rất khá. Tôi đã dặn trước chớ nôn nóng bò nhanh, dễ nhô đầu nhô mông quá cao, cứ bình tĩnh nhích dần từng tí một. H làm đúng lời tôi dặn. Tôi cũng bò rất chậm để khỏi giãn cự ly.

Mặt đất bị cày ủi lồi lõm. Chỗ thì vấp phải một đống đất ùn lên, chỗ thì lăn xuống một vùng hõm. Đôi lần tôi sợ đến toát mồ hôi vì tưởng chừng sau một

đống đất nào đó là một ổ phục kích của tụi Mỹ đang rình chở chúng tôi. Nhưng không, chúng tôi chỉ luôn đụng phải những vật dụng gia đình bị bom pháo vùi xới nhiều phen nay lại bị lưỡi xe ủi xốc lên mặt đất. Một chiếc cối giã gạo bằng đá vỡ đôi, một thớt cối xay bột, một cái soong bị xé toác… Đây là một làng cũ bị mất dân từ lâu. Bụng tôi cà lên những mảnh chén bát vỡ đau rát điếng người. Tôi thương H, chắc nàng còn đau hơn tôi. Thôi kệ, đau mấy cũng được, cốt đừng chết. Chúng tôi từ từ nhích xa dần khỏi tầm nhìn của bọn lính gác chỗ cụm xe ủi.

Có lúc bàn tay tôi vươn tới trước bỗng bám vào không phải đất mà là một thứ gì mềm nhầy, khiến tôi rùng lạnh khắp mình. Dưới tay tôi là một phần thi thể của ai đó đã nát bấy, lẫn với đất. Không thể biết người nằm đấy đàn ông hay đàn bà, người lớn hay trẻ nhỏ, thân xác bị văng ra những đâu. Chắc hẳn đó là một đồng chí ta bị chà nát dưới hầm rồi xe ủi sục lên, hoặc bị pháo dập từ trước lúc địch đổ quân. Cũng có thể đó là một người dân không kịp chạy lánh càn. Tôi nằm nán lại, cố ra hiệu cho H để nàng bò nhích qua một bên khỏi đụng xác người, nhưng H không nhận thấy. Tôi đành bò tiếp. Mấy phút sau, thoảng nghe đằng sau một tiếng rú suýt bật lên nhưng kíp thời kìm nén được của H, tôi biết là nàng bị một cú kinh hoảng. Trên đường bò đi chúng tôi còn gặp ba trường hợp như vậy nữa. Các lần sau H bình tĩnh hơn.

Tôi xót xa nghĩ tới cháu Sinh, chắc chắn là cháu cũng bị thế này vì khu vực hầm tránh pháo của chúng tôi không thể thoát khỏi những khối thuốc nổ giật tung và xe ủi chà nát bấy. Thoạt đầu, thật khó mà quen dược với ánh đèn dù. Thằng C130 cứ quần lượn rì rì, thả đều đặn mỗi đợt bảy chiếc đèn dù lơ lửng một dây, đợt này vừa tắt đã thả đợt khác, trời đất sáng trưng. Thấy mình nằm phơi ra giữa mặt đất bị cày trần trụi, ngỡ như nó phát hiện ra mình ngay tức thời. Chóc chốc, một loạt súng nhỏ bắn vu vơ, tưởng nó bắn mình. Nhưng chính nhờ những loạt súng đó mà tôi biết chỗ nào có địch. Thằng C130 trên trời vẫn vừa thả đèn dù vừa bắn đạn 20 ly liên hồi vào những chỗ nó nghi ngờ. Cũng nhờ vậy, tôi lại biết chỗ ấy không có địch. Hướng thoát ra mà tôi đã xác định cũng được chứng tỏ là có nhiều hy vọng. Điều đó khiến tôi vững tâm hơn.

Bây giờ chỉ mong đừng vướng mìn. Một tay tôi rê khẩu AK, kẹp thêm chiếc làn nhựa của H, còn tay kia rà mìn. Cứ di chuyển với tốc độ của loài sâu bọ như thế, khoảng hơn hai tiếng đồng hồ, chúng tôi ra khỏi khu vực cày ủi mà không vướng một quả mìn, không đụng một ổ phục kích nào. Nhưng tôi chưa vội mừng. Trái lại, tôi thấy cần thận trọng hơn, khi tiến vào vùng cây cỏ lúp xúp trước mặt. Rất có thể các ổ gác tuyến ngoài của chúng lại đặt ở đấy, bởi theo lô-gích mà suy, hẳn chúng dễ cho rằng trên vùng đất cày ủi trống trải đỏ loét kia thì chẳng có gì đáng ngại, mà phải chú trọng cái phần đất còn màu xanh này. Tôi nằm lại sau một mô đất, lấy chân ra hiệu cho H bò tới bên cạnh. Tôi khẽ dặn :

- Em nằm im đây nghen. Anh vượt lên trước nắm địch ở vùng cây xanh trước mặt kia. Nếu không có tụi nào phục kích ở đằng đó thì may ra ta không phải bò nữa.

- Anh cứ đi, em cảnh giới cho.

H nằm sấp, hơi nghiêng nửa thân trên một chút, tay nắm chắc khẩu súng ngắn và trái lựu đạn, tư thế sẵn sàng yểm trợ nếu tôi gặp chuyện gì. Đó chỉ là cử chỉ hình thường mà mỗi con người bình thường dành cho đồng đội trong cảnh huống tương tự, nhưng tôi cũng thấy cảm động và sung sướng. Tuy nhiên, tôi lại dặn nàng :

- Nếu anh chạm địch mà buộc phải nổ súng, cứ để mình anh xử trí, em không được bộc lộ. Nghe rõ chưa, đây là mệnh lệnh, em phải chấp hành, nhiệm vụ của em còn rất nặng nề trong thành phố.

Nàng khẽ “dạ” một cách khổ sở. Tôi chỉ cho nàng hướng thoát nếu mất liên lạc với tôi. Tôi bò tiếp, cảm thấy cặp mắt H mở to hồi hộp và lo lắng, chăm chú dõi theo tôi tứ phía sau. Bò tới một lùm cây thấp, tôi từ từ ngồi lên, lắng nghe động tĩnh xung quanh vài phút. Không thấy gì nghi ngại. Tôi nhanh nhẹn khom người luồn lách giữa các bụi cây, thâm nhập sâu hơn vào vùng cây xanh. Đây cũng là vùng làng cũ, năm ngoái đã bị địch cày ủi tới lần thứ ba, nhưng sau mỗi lần cày ủi các loại cây lại mau chóng nứt mầm bật lên. Phần lớn là cỏ tranh, tốt um, mọc tràn lan, chen lẫn những khóm cây leo, những bụi chuối, những chòm tre còi mọc lại từ một vài cụm gốc chưa chịu chết hẳn. Khéo léo rúc qua cái khoảng rậm rạp ấy không để gây ra một tiếng sột soạt nhỏ, được một quãng, tôi bắt gặp một lối mòn. Mừng quá. Đây chính là cái lối mòn quen thuộc chúng tôi thường đi. Nó không phải con đường làng to rộng ngày xưa, từ cái thời nảo thời nào. Những dấu tích thân thương như vậy của làng quê đã bị xoá sạch từ lâu. Đây là cái lối mòn được hình thành bởi vô số bàn chân du kích, bộ đội thường băng qua các nền nhà cháy trụi, bị xoá đi sau mỗi đợt cày ủi, rồi lại hiện hình trở lại khi cây cỏ nứt mầm.

Tôi mừng rỡ theo lối mòn dò dẫm bước tiếp một quãng nữa, vừa định quay lại đón H thì nghe thoang thoảng mùi thuốc lá ru-by thơm nức. Mỹ ! Một tiếng kêu thầm bật lên trong đầu buộc tôi ngồi thụp ngay xuống. Trời sáng trưng trong ánh đèn dù nhưng tôi chưa nhìn thấy gì cả. Phải đợi đợt đèn dù tắt, trong khoảnh khắc tối om trước khi đợt đèn kế tiếp bật sáng, tôi mới phát hiện ra cái đốm thuốc đỏ lừ đằng xa, thẳng hướng lối mòn. Đích thị là Mỹ phục rồi. Ở một chỗ sát địch thế này, nếu là anh em mình, không ai điên gì mà ngồi hút thuốc lá thơm như vậy.

Tôi thất vọng, sè sẹ quay lại chỗ H. Từ lúc xuất phát, tôi đã dẫn H bò về phía cánh đồng Thí Thân nhưng không vượt qua mà chỉ men bên rìa cánh đồng ngoài tầm pháo địch rồi tiến dần lên hướng tây. Bây giờ chỉ còn cách liều mạng băng qua cánh đồng Thí Thân về hướng nam. Pháo vẫn nổ rát trên cánh đồng và bắn lai rai về hướng đó. Giữa hai khả năng, bị trúng đạn pháo hoặc đụng phải bộ binh địch, thì khả năng thứ nhất vẫn chứa đựng nhiều hy vọng thoát hiểm hơn.

Tôi dẫn H vượt qua cánh đồng dưới tầm pháo. Cứ nghe tiếng pháo rít là chúng tôi lại nằm xuống. Có hai lần pháo nổ rất gần nhưng chúng tôi không bị dính mảnh nào. Sau khi băng qua những xóm làng mất dân hoang vắng, chúng tôi bắt gặp đường 100 – con đường ác liệt nổi tiếng vì máu anh chị em ta đã đổ không biết bao nhiêu trong các cuộc vượt đường. Cuộc vượt đường của tôi và H diễn ra khá suôn sẻ, vì điểm vượt hoàn toàn mới, vào một giờ giấc khác hẳn lệ thường. Vả lại, trọng điểm của chúng đêm nay là cuộc càn quét cày ủi chúng tôi vừa thoát khỏi, chứ không phải con đường này. Vượt qua đường 100, chúng tôi đâm vào một bãi bói. Tôi cứ dẫn H rúc bừa thật sâu vào bãi, càng cách xa con đường 100 chừng nào càng đỡ nguy hiểm chừng nấy, vì trời đã gần sáng. Tôi sửa một chỗ phẳng phiu, ép mấy bụi bói ngả rạp xuống thành cái ổ dưới một vòm bói tốt um kín đáo. Vừa kịp làm xong mấy việc ấy chúng tôi cùng lăn ra lịm đi vì mệt mỏi và căng thẳng.

Tôi tỉnh dậy giữa những âm thanh quen thuộc : tiếng máy bay phản lực ném bom ở đâu đó, tiếng pháo bắn, tiếng máy bay trinh sát hai thân OV10 mà chúng tôi thường gọi là tàu gông rít ong ong, tiếng máy bay trực thăng lạch phạch lúc xa lúc gần. Trời đã đứng trưa. Tôi nhận biết nhờ một tia nắng rát xuyên qua kẽ lá rọi thẳng xuống trán.

H đã dậy trước, đang ngồi gỡ những viên đất nhỏ dính bết vào tóc bằng một chiếc lược bé xíu mà chắc nàng không lúc nào quên giắt theo người. Tôi ngồi dậy khẽ hỏi :

- Em dậy lâu chưa ?

H mỉm cười ngượng ngập :

- Em cũng mới dậy trước anh có chút xíu thôi. Tệ quá hà !

- Mấy giờ rồi em ?

H giơ cái cổ tay trần thon nhỏ trước mặt tôi :

- Rớt mất đồng hồ hồi đêm rồi.

- Trời, tiếc quá !

- Tiếc chi. Thoát được tới đây là may rồi..

- Cũng còn để xem. Nãy giờ em nghe quanh đây có gì đáng ngại không?

- Em nghe êm thôi. Em nghe có tiếng xe nó chạy trên đường 100.

- Xe tăng hay xe thường ?

- Cả xe tăng, cả xe thường.

H cầm tay tôi xuýt xoa :

- Mặt anh, chân tay anh bị bói cứa nát hết…

Bên một bàn tay tôi, máu bết khắp cả đã khô lại cùng với đất bùn. Tôi biết

đó không phải là máu tôi, mà là máu từ các mảnh xác người tôi quơ phải lúc bò ra hồi đêm. Tôi không nói gì với H, lẳng lặng giấu bàn tay mình đi.Tôi nhìn vào cánh tay H :

- Tay em cũng bị kìa.

- Em bị sơ sơ thôi. Có bao nhiêu anh đi trước lãnh hết còn chi.

Cái cây bói này, tôi chưa thấy thứ cây nào như nó, lá nhỏ như lá tranh nhưng cứng hơn và sắc lẹm như dao, thân cao gần bằng cây lách. Nó xuất hiện và bành trướng hết sức hung bạo ở những vùng đất hoang. Tuy vậy, vào thời điểm này, nó lại trở nên thân thiết với những người du kích. Năm trước cũng đã có lần tôi gặp địch càn, đến lánh nhờ ở cứ của du kích Điện Quang trong

bãi bói Gò Nổi.

- Em đói không ? Tôi hỏi H.

H gật đầu :

- Đói – nhưng khát muốn chết.

- Đói thì có sữa bột đây, nhưng khát thì chịu. Anh cũng khát muốn vỡ cổ

họng.

Giữa bãi bói mênh mông khô rang này, kiếm đâu ra nước ? Tôi thừ người cố bóp óc nghĩ cách xoay ra nước. Tôi hình dung trong đầu toàn bộ địa hình mà tôi đã quen, dần dần đoán định áng chừng rằng cái bãi bói đang che chở chúng tôi nằm giữa con đường 100 và con sông Thu Bồn. Ôi, Thu Bồn! Giữa cơn khát kinh khủng, chỉ thoáng gợi đến hình ảnh dòng nước ngọt mát của nó cũng đủ thấy chao đảo cả người. Nó đang ở đâu đây đâu đây thôi, nơi tận cùng bãi bói, hướng nam. Làm thế nào đến được với nó? Chẳng có cách nào khác là phải kiên nhẫn rúc xuyên qua bãi bói dày đặc. Cũng đến bốn ki-lô-mét là ít.

Tôi quyết định đi lấy nước. Tôi dặn H những điều cần chú ý rồi khoác khẩu AK vạch bói ra đi. Tôi cứ lấy tay vạch bói bẻ xuống mà rúc tới. Rúc tới đâu thành đường tới đó, đúng hơn là thành một cái “đường ống” luồn dưới vòm bói kín bưng. Còn chút nước nào trong người túa ra thành mồ hôi hết. Mồ hôi đầm đìa ngào với máu từ những vết thương lá bói chém trên mặt trên đùi và hai cánh tay chảy ròng ròng.

Tiếng rì rầm mơ hồ của con sông Thu Bồn đâu đó đằng trước cứ hối thúc bươn tới bươn tới mãi. Cho đến khi tôi thấy, sau bức rèm thưa của lớp bói cuối bãi, loé lên cái ánh nước sáng láng của con sông lấp loá dưới nắng chiều. Suýt nữa thì tôi chạy ra nhảy ùm xuống sông mà uống, uống, và ngập lặn. Nhưng may tôi còn kịp tỉnh táo nằm lại trong cụm bói ven bờ thận trọng quan sát. Bấy giờ tôi mới nghe tiếng la hí hố lạ tai. Tôi nhìn trực sang bờ bên kia, chếch về phía hạ lưu một bầy lính Mỹ trần truồng đỏ au đang tắm. Trên bực sông cao, có một ổ đại liên chĩa nòng sang bờ bên này. Hoá ra bọn Mỹ đã đổ quân trên vùng Gò Nổi.

Vòng càn của chúng rộng thật. Tôi cáu tiết văng tục và thúc thủ nằm đợi. Đợi đến bao giờ? Xem ra bọn chó đẻ kia còn lâu mới cuốn xéo lên bờ rút về chỗ trú quân. Sâu trong phía bờ bên kia, chắc chắn có một cụm quân của chúng. Thấy một chiếc máy bay trực thăng hai chong chóng loại cứu thương lạch phạch hạ xuống đó, có lẽ chở thương hay chở xác. Chứng tỏ du kích bên ấy mần ăn ngon.

Tôi nhìn suốt dọc bờ sông bên này. Chỗ nào cũng trống trải, không có lấy một khoảng kín đáo thuận tiện để có thể lén mò xuống lấy nước. Giá có một chiếc bi đông, tôi sẽ kiếm dây buộc và bò ra cho bực sông thẳng đứng kia ròng xuống mà láy nước. Nhưng ác hại thay, trong tay tôi giờ đây chì trần trụi một tấm ni-lông. Đành phải chờ trời tối. Mà còn lâu mới tối. Tôi nóng ruột, không biết liệu có chuyện gì xảy ra cho H không, nếu tôi cứ nằm miết ở bờ sông này ? Tôi bèn luồn theo cái “đường ống” do tôi vừa tạo ra trong bãi bói trở về. Lần này có sẵn đường rồi nên tôi đi rất nhanh.

H đang ngồi ngóng đợi tôi, cặp mắt bồn chồn. Thấy tôi về, mắt nàng sáng lên ánh reo mừng. Tôi khổ sở nghĩ rằng H mừng vì sắp được uống nước, mà tôi lại chẳng có nước cho nàng. Trong lúc tôi xót xa nhìn vào đôi môi khô rộp của nàng thì nàng chẳng hỏi gì đến nước cả, chỉ hồn nhiên chộp lấy cả hai vai tôi nói ríu rít :

- Em lo hết sức, tưởng anh làm sao chớ. Sao anh đi lâu vậy ? Trời, mặt mũi chân tay anh lại bị bói cứa nát hết rồi.

Tôi cảm thấy nàng lo lắng cho tôi thật sự, những vệt lá bói cứa vào thân mình tôi cũng là cứa vào thân mình nàng. Tôi càng thấy thương nàng vô hạn và càng khổ sờ vì không có nước đem về cho nàng.

Tôi thều thào :

- Anh chưa lấy được nước. Lát nữa chiều tối sẽ có . . .

Tôi thuật lại tình hình ngoài sông. Nàng nhủ tôi ngồi xuống bên nàng, lấy chiếc khăn mùi xoa còn giữ được sạch sẽ trong túi quần lau các vệt máu và mồ hôi trên mình tôi. Trái tim tôi khẽ run rẩy một nỗi gì khôn tả bởi cái mùi hương của nàng, từ chiếc khăn tay thấm truyền sang tôi.

Mặt trời vừa lặn, tôi kẹp tấm ni-lông phóng trở ra bờ sông. H níu tôi năn nỉ:

- Anh, cho em đi với.

- Thôi để mình anh đi.

- Em…em muốn . . .

- Sao cơ ? Em cần gì ?

- Em muốn ra đó tắm.

- Không được, ra đó nguy hiểm. Anh sẽ lấy đủ nước về cho em tắm, em yên chí đi, nhá !

Tôi vỗ nhẹ lên mái đầu nàng, vừa như dỗ dành, vừa như ra lệnh. Nàng ngoan ngoãn nghe lời.

Ra tới bờ sông, trời cũng sập tối. Bọn Mỹ bên kia sông đã rút sâu về chỗ trú

quân. Nhưng chắc hẳn thế nào chúng cũng để lại những tổ cảnh giới ngoài bờ sông. Tôi nhoài xuống sông rất êm, uống nước kỳ no, tắm giặt, lên bờ vắt kiệt chiếc áo cổ vuông và chiếc quần đùi mặc lại vào người, rồi mở tấm ni-lông túm một bọc nước to vác lên lưng. Mọi việc tôi làm xong trong không đầy mười phút, hoàn toàn lặng lẽ.

Trở về, tôi bảo H giữ bọc nước, còn tôi rẽ bói, moi đất thành hõm để đặt ở chỗ cách cái ổ chúng tôi nằm một quãng, khuất trong bói, tiện cho H tắm. Tôi vừa đặt bọc nước vào hố và mở ra, H cúi xuống uống một hơi, ngẩng lên thở, tiếp một hơi nữa, rồi bỗng ngả đầu vào vai tôi cười cười, càng cố kìm lại càng cười, rất kỳ quái, như một người mắc bệnh cười.

Chúng tôi lại cùng uống nước, ăn sữa bột như lúc ở dưới hầm bí mật nhưng thoải mái hơn nhiều. Tuy rất đói, chúng tôi cũng chỉ dám ăn dè mỗi người ba bụm sữa. Chưa biết phải rúc như chuột thế này mất bao lâu.

Tôi đưa cho H bộ quần áo bà ba đen của tôi, bảo :

- Em cứ tắm thoải mái hết chỗ nước đó anh sẽ ra sông lấy một bọc nữa về dùng cho cả ngày mai. Dùng bộ quần áo của anh mà thay, còn bộ của em, anh sẽ đem đi giặt luôn.

H có vẻ lúng túng trước những điều tôi vừa nói. Nhưng rồi cái ý thức về cảnh ngộ đã .khiến nàng vượt qua được nỗi e ấp thiếu nữ thường tình. Sau vài giây ngập ngừng, H dặn tôi, trong lúc nàng tắm, lỡ có pháo có bom nó dập bậy xuống, mà nàng bị… Tôi hiểu ngay, dù nàng chưa nói hết câu. Lỡ nàng có bị làm sao thì tôi phải mặc quần áo cho nàng. Tôi bảo nàng cứ bình tĩnh tắm cho thật đàng hoàng, sẽ chẳng có pháo phiếc gì mà lo, mà dù có, tôi cũng chẳng để nó chạm đến nàng. Tôi ngồi trong ổ, lau chùi khẩu AK bị lấm đất, nghe tiếng nàng mạnh bạo khoát nước lên mình.

Lòng tôi nhẹ rung một niềm xao xuyến bối rối mơ hồ. Nếu vạn nhất có quả pháo nào bất thần phóng tới đây, tôi sẽ lao ngay đến che đỡ cho nàng. Lát sau, nàng hiện ra xúng xính trong bộ bà ba đàn ông rộng thùng thình. Tuy so với những cô gái khác có tầm vóc trung bình thì nàng thuộc loại cao lớn và cân đối, nhưng giờ đây trông nàng như nhỏ lại và hơi ngồ ngộ. Nàng bẽn lẽn cười vì cái vẻ ngồ ngộ của mình.

- Bộ đồ của anh rộng ghê…

- Anh thuộc loại đô con mà… Nước có đủ tắm không em ?

- Dạ đủ.

Tôi gấp tấm ni-lông lại và kẹp theo bộ quần áo của H. Nàng lại đòi theo tôi

ra sông. Tôi dứt khoát không cho. Nhận thấy H đang thu thu trong tay một nắm gì đó mắt nhìn tôi cầu khẩn, tôi liền hiểu, và giật ngay lấy cái nắm ấy từ tay nàng. Đó là chiếc quần lót và chiếc nịt vú của nàng.

- Đưa đây đừng có ngại gì, ngồi yên đó cảnh giới hướng này.

Nói rồi tôi chạy ù đi. Gần một giờ sau tôi trở về, với một bọc nước mới. Và áo quần của nàng đã giặt sạch, tôi phơi trên mấy cây bói ngả ra trước cái ổ của chúng tôi. Thấy tôi phơi bộ đồ lót của nàng một cách tự nhiên, cặp mắt nàng lộ vẻ ngạc nhiên lắm, còn tôi thì làm bộ phớt tỉnh. H nhìn tôi mủm mỉm cười, bảo:

- Anh kỳ thiệt ! . . .

- Có gì đâu mà kỳ.

Tôi nằm thượt trên ổ, gối đầu lên khẩu AK. H ngồi bên sẽ sàng chải mái tóc đã được gội sạch. Có những hạt nước li ti mơ hồ bắn từ mái tóc nàng rơi xuống mặt tôi. Cả con người nàng toả ra sự thơm tho trinh khiết đến huyền ảo. Trời trong biếc và đầy sao. Ánh đèn dù của cụm quân Mỹ bên phía Gò Nổi hắt sang khi mờ khi tỏ,chập chờn hiện lên cái dáng ngồi nghiêng mềm mại, cái nét mặt trông nghiêng thanh tú, thấy rõ cả hàng mi dài cong cong, cái cánh tay thon thả đưa lên chải nhè nhẹ của nàng. Tôi lặng lẽ ngắm nàng và chợt bâng khuâng cảm thấy cái thế giới nữ tính hoàn mỹ đang bồng bềnh bên tôi đây sao mong manh đến thắt ruột, nó có vẻ không thực giữa cuộc chiến tranh dữ dằn đang gầm réo.

Lúc này thật tôi muốn nàng quay về phía tôi để tôi có thể nhìn thật gần vào đôi mắt nàng, đôi mắt mà tôi chưa hề gặp ở bất kỳ người con gái nào khác trong đời, làm dậy lên trong tôi những rung động mà tôi chưa từng biết, và không hiểu sao tôi linh cảm rằng nó sẽ cuốn đời tôi vào đó bằng cả bão táp của đam mê tan sự nâng giấc vĩnh hằng…

- Em…

H quay lại. Cặp mắt to đen hiện ra toả trùm lên tôi một vũ trụ khác, vũ trụ

của riêng nàng.

- Mẹ em… mẹ em bây giờ ở đâu ?

Hoàn toàn không định trước, tôi bỗng hỏi thăm đến mẹ nàng.

- Mẹ em… Mẹ em đang ở … đang ở quê.

- Quê em ở đâu ? Thỉnh thoảng em có gặp mẹ không ?

- Không. Quê em ở xa lắm… – nàng ấp úng đáp.

Bấy giờ tôi mới nhận ra mình đã gây cho nàng lúng túng bởi nhưng câu hỏi lẩn thẩn chạm vào điều hết sức cấm kỳ đối với một cán bộ hoạt động hợp pháp trong vùng địch. Họ không được phép tiết lộ tiểu sử gia cảnh, và những người đồng chí cũng không được phép hỏi họ chuyện ấy. Tôi thầm tự trách mình. Niềm khao khát muôn tìm về trong tưởng tượng cái miền quê nào, người mẹ nào đã sinh ra người con gái tuyệt vời làm rung động lòng mình đây, đã khiến tôi quên mất cả nguyên tắc.

- Quê anh ở đâu ?

- Quê anh ở ngoài Bắc.

- Ngoài Bắc thì em biết rồi. Nhưng ở tỉnh nào ?

- Ở Hà Nội.

Thực ra thì quê tôi ở Hải Dương, nhưng từ sau ngày tiếp quản thủ đô năm

1954 gia đình tôi sống hẳn tại Hà Nội, và mỗi khi có ai hỏi đến quê, tôi cứ quen nói Hà Nội.

- Hà Nội, ghê ha!

Có vẻ đối với nàng, người Hà Nội là một cái gì thật xa vời, thật quan trọng. Tôi kể cho nàng nghe về Hà Nội, về tuổi nhỏ của tôi, một tuổi nhỏ có lẽ khác hẳn tuổi nhỏ của nàng. Tôi kể về gia đình tôi, gia đình một cán bộ cao cấp, trong đó trừ tôi, tất cả các đưa con đều đi học ở nước ngoài, cũng giống như hầu hết gia đình các cán bộ cao cấp khác, việc đó đã trở thành cái chuẩn của cuộc sống hiện đại, và không ít đứa trong lớp trẻ thuộc giai tầng mới này đã bắt đầu nhiễm thói đài các rởm hết sức xa lạ đối với tôi. Tôi kể chuyện này không phải để khoe khoang về gia đình mình mà để muốn chia sẻ với nàng một nỗi niềm thầm kín còn chưa rõ rệt trong lòng, nó khiến tôi luôn cảm thấy bất an, và nó đặc biệt dày vò tôi khi tôi đã cùng với những người như nàng có mặt ở nơi trung tâm cơn xoáy lốc của cuộc chiến tranh khốc liệt này. Nhưng hình như nàng chưa hiểu được. Kể cũng khó mà hiểu được.

Nàng chớp chớp mắt nhìn tôi hồi lâu, tỏ ý muốn cảm thông, mà chưa rõ là cần cảm thông về điều gì. Ngày hôm sau, tôi đưa H bám ra đường 100, thăm dò xem có khả năng cho nàng trà trộn theo dòng người đi chợ hàng ngày xuống Vĩnh Điện rồi về Đà Nẵng được không. Trên đường 100 chỉ toàn xe nhà binh. Tịnh không một bóng người dân nào đi chợ vùng địch như lệ thường. Vậy là địch cấm chợ. Ngày tiếp theo, chúng tôi không tính đến khả năng H trở lại Đà Năng bằng ngả hợp pháp kiểu đó nữa, bởi qua mấy ngày thiếu ăn mất ngủ, chỉ cần nàng bước lên đường 100 là bất cứ ai gặp cung biết ngay cô gái này từ đâu chui ra.

III

Tôi sửa sang lại cái “ổ” của chúng tôi cho đàng hoàng hơn. May thay là lúc nào tôi cũng giắt theo bên mình con dao díp, tôi dùng nó cắt những túm lá bói non trải lên ổ thành một lớp đệm dày.

Bên trên, các ngọn lá bói già mọc vượt quá đầu người được cột lại ken khít thành mái vòm kín đáo, che giấu chúng tôi khỏi sự soi mói nguy hiểm của lũ máy bay trinh sát đủ loại không mấy lúc vắng bóng trên bầu trời. Tất nhiên trừ phi có một chiếc máy bay trực thăng nào đó bỗng điên điên kít sát ngay chỗ này quạt bung cả một khoảnh bói rộng làm lòi lưng chúng tôi. Nhưng đó chỉ là một tình huống quái ác rất khó xảy ra, như thể trúng số độc đắc. Đến nước ấy thì chỉ còn mỗi cách lủi thật nhanh sang vạt bói khác, nếu lủi kịp, nhược bằng không kịp thì đành buộc phải chĩa AK lên ăn thua đủ với nó để may ra cho H còn cơ hội thoát đi.

Tôi bảo H :

- Đây là anh dặn phòng xa thôi. Nếu lỡ có thằng trục thăng điên khùng nào nó kít lại đúng chỗ này quạt bói ra làm lòi lưng chúng mình, thì em cố lủi nhanh đi để anh xử với nó nghen.

Thỉnh thoảng lại có một bầy máy bay trực thăng bay ngang qua, chắc chúng đi đổ quân ở đâu đó. Không thấy có hiện tượng gì tỏ ra bãi bói bị nhòm ngó. Phía bờ nam sông Thu Bồn, có lúc rộ lên những đợt súng nhỏ. Không biết đó là các cuộc chạm súng giữa du kích Gò Nổi vốn nổi tiếng đánh giỏi – với bọn Mỹ, hay chỉ là tiếng súng bọn Mỹ đi lùng sục bắn dân, bắn trâu bò. Bọn máy bay phản lực F4 thay nhau bay lên ném bom vùng ranh núi Đại Lộc.

Tôi hy vọng nếu du kích Gò Nồi ép mạnh, cụm quân Mỹ bên ấy dịch dần xuống phía đông con đường xe lửa đã bỏ từ lâu – thì tôi có thể đưa H vượt sông.

Sang đấy gặp được du kích, dựa vào họ để nắm tình hình địch, xin ăn, và tìm cách vượt được con đường 104 nữa để vào tới chân núi Hòn Tàu là yên tâm. Ở đó, cơ quan thành đội có một căn cứ dự phòng. Nhưng chưa có dấu hiệu nào cho thấy cụm quân Mỹ bên Gò Nổi đã chuyển dịch. Ban đêm, đèn dù vẫn thả đúng ở khu vực mọi hôm. Tôi chưa dám nghĩ đến cách thoát theo các ngã khác vì hoàn toàn mù tịt về tình hình địch và lại không thông thuộc địa hình. Bãi bói cao quá đầu người. Ngồi đây chẳng khác nào lọt thỏm dưới đáy giếng, nhiều lúc như tê liệt cả cảm giác về phương hướng.

Tôi chỉ căn cứ vào tiếng đề-pa của pháo hoặc cối bắn ra từ các căn cứ Mỹ, Nam Triều Tiên ở gần mà tôi biết để định vị trí một cách tương đối cái bãi bói mênh mông đang che giấu chúng tôi. Giá có cách gì nhô cao đầu vượt khỏi ngọn bói mà quan sát thì hay biết mấy. Nhưng cách gì đây ? Tôi căng óc nghĩ, rồi cũng lần mò ra được một cách.

- Em thấy trong người thế nào ?

H nhìn tôi, thoáng bỡ ngỡ trước câu hỏi, và rồi nàng cười cười :

- Thế nào ư ? Em chẳng thấy thế nào cả. Nghĩa là vẫn bình thường thôi, anh à.

- Em nói thật đi, em có mệt không?

- Không, em không sao mà.

Tôi nhìn nàng, nghi ngờ. Mấy hôm nay, mỗi ngày chỉ có chút sữa bột với nước sông Thu Bồn, làm sao mà bình thường dược. Tôi thì đã quen rồi, ở căn cứ trên núi, những mùa mưa, tôi từng biết thế nào là cái đói. Nhưng còn H, chắc chắn là nàng chưa quen.

Thấy vẻ nghi ngờ của tôi, H lay lay vai tôi, nhắc lại :

- Em nói thiệt đấy, em không sao hết. Có việc chi, anh ?

- Anh muốn quan sát xung quanh một tí, nhưng bói cao quá.

- À em hiểu rồi, mình thực hiện ngay đi em làm bậc cho anh đứng.

Tôi nhìn H ngần ngại :

- Liệu có nổi không ? Anh khá nặng đấy phải trên năm chục ký là ít. Hồi ở Hà Nội, trước khi đi B, anh sáu mươi lăm ký. Vào đây, sốt rét nó gặm dần, chắc cũng còn trên năm chục.

- Xì, ăn nhằm chi. Anh quên rằng em là dân võ đai đen à ?

- Ờ nhỉ, em không nhắc thì anh cũng quên mất. Bây giờ thế này, em hãy quan sát trước, anh hướng dẫn cho. Đây là hướng sông Thu Bồn nhé. Em nhìn về hướng đó, chếch phía tay phải, xem có cái cây cổ thụ thật lớn không?

Lựa lúc vắng bóng bọn máy bay trực thặng trinh sát, tôi dạng chân đứng chắc, hai bàn tay đan lại sau lưng làm một cái bậc cho H bước lên. Tôi bảo nàng leo hẳn lên ngồi sau gáy tôi, hai bắp đùi tì lên hai vai tôi, như hồi em gái tôi còn bé tôi công kênh nó vậy. H hơi lưỡng lự một chút rồi cũng mạnh dạn leo hằn lên. Hai tay nàng ôm lấy đầu tôi. Hai tay tôi giữ hai chân nàng.

- Anh ơi, em không thấy cái cây cổ thụ nào hết.

- Em quan sát cho kỹ đi. Nhìn cả hướng bên phải lẫn hướng bên trái.

- Dạ, em đang nhìn cả hai hướng đây. Vẫn không thấy một cái cây cổ thụ nào hết. Cây nhỏ hơn cũng không có. Toàn bói là bói không thôi à.

- Có thấy một bờ tre nào không ?

- Bờ tre… à, có đây. Hướng bên phải, có lác đác mấy bờ tre đằng cuối bãi bói.

- Thôi được rồi.

Tôi từ từ ngồi xuống. H rời khỏi cổ tôi. Lạ thật, cái cây sợp khổng lồ nổi tiếng ấy biến đi dâu nhỉ ? – tôi ngẫm nghĩ. ở Điện Hồng, trên bờ bắc sông Thu Bồn, có một cây cổ thụ cực lớn, vươn cao đến mức từ dưới đầu cầu Kỳ Lam, nghĩa là cách xa cả sáu bảy cây số, vẫn nhìn thấy. Người ta gọi là cây sộp. Cái tên tôi nghe lạ hoắc. ở miền Bắc, tôi chưa từng nghe thấy tên thứ cây này bao giờ, dù tôi là dân lâm nghiệp, có bằng kỹ sư.

Trong Quảng Ngài và các vùng khác của Quảng Nam cũng chẳng hề nghe nói tới. Cây sợp Điện Hồng mấy năm qua đã trở thành một vị trí khá quen thuộc đối với bộ đội, du kích. “Sáng nay Mỹ Bồ Bồ nống ra gần cây sộp… “. “Đêm qua Mỹ phục gần cây sộp… “. Hàng ngày người ta thường thông báo cho nhau tình hình đường xá trong khu vực như vậy. Theo phán đoán của tôi, căn cứ vào con đường 100, con sông Thu Bồn và cứ điểm Bồ Bồ, thì từ bãi bói này thế nào cũng phải nhìn thấy cây sộp Điện Hồng. Thế mà nó đâu?

- Bây giờ em đứng trụ cho vững để anh lên quan sát nhé. Anh không leo lên cổ em đâu, anh chỉ đứng lên hai bàn tay em thôi.

Tôi trèo lên hai bàn tay nàng đan sau lưng, cố gắng thật gượng nhẹ. Nàng đứng rất vững. Thò đầu khỏi ngọn bói, tôi chăm chú quan sát về hướng đã định, cũng chỉ thấy mênh mông bói. Và hướng nào cũng mênh mông bói. Ở chỗ mà tôi nghĩ là vị trí của cây sợp Điện Hồng, quả thật không hề thấy gì cả. Chỉ có một vài quãng bờ tre loi thoi mọc đứt đoạn ở cuối bãi bói, tôi đoán là ven bờ sông Thu Bồn. Thế thôi, ngoài ra không thấy đâu bóng dáng của một thứ cây cối lâu đời

Chúng tôi ngồi nghỉ trong ổ. Gương mặt H đỏ bừng. Mấy sợi tóc mai dính bết trên má đẫm mồ hôi. Tôi biết nàng đã phải gắng sức lâu.

Nó biến đi đâu nhỉ, cái cây sợp Điện Hồng ấy ? Hay là chúng tôi đang ở một vị trí không như tôi phán đoán ? Không, không thể như thế được, trừ phi con đường 100 đã chuyển chỗ, con sông Thu Bồn đã chuyển dòng, và cứ điểm Bồ Bồ biết đi. Đầu óc tôi lấn bấn.

Phải mất một hồi khá lâu tôi mới nhận ra sự ngu ngốc của mình. Ồ, có gì đâu mà không hiểu, quá đơn giản mà không hiểu. Kề từ sau cuộc tổng tấn công tết Mậu Thân, đã ngót hai năm rồi còn gì, tôi đâu có trở lại vùng này. Biết bao là bom pháo, biết bao là các đợt cày ủi tại sao tôi lại cứ ngớ ngẩn đinh ninh rằng cây sợp Điện Hồng là một cái gì bất biến có thể đứng đó hoài hoài trước tất cả những tàn phá hung hãn nhường kia ?

- Ngu thật, ngu thật !

Tôi bỗng buột miệng lầm bầm tự mắng mình.

- Chi vậy anh ? – H hỏi, cặp mắt tròn xoe ngơ ngác.

Tôi giải thích cho nàng về sự ngu ngốc của mình trước việc cây sộp Điện Hồng đã biến mất. Tôi đọc thấy trong mắt nàng cái câu hỏi đang lởn vởn ngay chính trong đầu tôi về khả năng chúng tôi sẽ làm thế nào để thoát khỏi được cái tình thế xem ra khá là quẫn bách này. Câu trả lời chỉ trông vào tôi – tôi tự bảo .

Tôi nói với H:

- Em nhỉ, thoát ra được đến đây mà không bị thương là may mắn cực kỳ rồi. Em cứ hình dung, trên đường thoát ra đêm ấy, lỡ anh hoặc em bị thương, thì gay go đến đâu. Rồi anh sẽ có cách, chúng mình sẽ thoát hẳn được, miễn là từ giờ đến lúc ấy chúng mình không bị pháo, cối nó lượm.

Tôi ớn nhất những quả pháo, những quả cối bắn vu vơ, những phát đạn thẳng bắn vu vơ. Nó như một kiểu cắn trộm của tử thần. Hồi cuối năm ngoái, Thủy, một cô bé mười sáu tuổi nhân viên văn thư của cơ quan tôi đang ngồi đánh máy trước cửa hầm tránh pháo, thì bỗng nhiên một phát đạn AR15 không biết từ đâu bắn tới, chỉ một phát thôi, hoàn toàn vu vơ xuyên trúng bả vai. Và mới tháng sáu vừa rồi, gia đình ông Tư Tề ở xóm Đồng, hai vợ chồng cùng ba đứa con đang ngồi ăn cơm cũng trước cửa hầm, thì thình lình một quả cối bắn hết sức vu vơ nổ ngay giữa mâm, cả nhà chết hết.

Lúc xế trưa, một quả pháo vu vơ như thế bắn vào bãi bói, nổ cách chỗ chúng tôi khoảng ba trăm mét. Nó làm H giật mình choàng dậy vì nàng đang thiu thiu ngủ, trong khi tôi đang buồn tình mở cuốn lịch cũ đem theo từ hồi lên đường đi B ra ngồi ngắm mấy bức ảnh Hà Nội.

Nghe tiếng mảnh pháo cuối tầm rơi lộp độp Rồi im ắng, không một quả pháo nào bắn tới nữa. Tôi bảo H tiếp tục nằm xuống để đề phòng lỡ có quả pháo khác nổ gần, và cố chợp mắt ngủ đi cho lại sức. Tôi cũng nằm xuống cạnh nàng, tiếp tục thưởng thức phong cảnh Hà Nội.

H lấy cuốn lịch từ tay tôi.

- Có chi bí mật không ? Cho em coi với

- Em coi đi, cuốn lịch cũ ấy mà.

Nàng ngắm bức ảnh Hồ Gươm, có Tháp Rùa, cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn.

- Cảnh này ở đâu đây anh ?

- Đây là cảnh Hồ Gươm, ở trung tâm Hà Nội đấy. Em đã được nghe kể về sự tích Hồ Gươm bao giờ chưa ?

- Chưa. Anh kể cho em nghe đi .

Tôi kể cho nàng nghe. Nàng ngắm rất lâu bức ảnh, và hỏi đi hỏi lại:

- Chuyện đó xảy ra ngay trên cái hồ này đây ư anh? Chính cái hồ này đây ư?

- Bao giờ đuổi hết Mỹ, anh sẽ đưa em ra thăm Hà Nội, thăm Hồ Gươm.

- Thiệt há ? Anh nói thiệt há ?

- Thiệt một nghìn phần trăm. Anh sẽ dẫn em tới ngồi trên chiếc ghế đá này

này.

Tôi chỉ vào bức ảnh, chỗ một chiếc ghế đá nhỏ ven hồ, cạnh cây liêu rủ bóng thấp thoáng trong sương mờ. Nàng ríu rít :

- Anh nhớ đó nghen. Ngoéo tay nào!

Nàng đưa bàn tay có những ngón tay thon dài ruôn ruốt ra trước mặt tôi, ngón tay trỏ hơi cong lại, dễ thương vô cùng.

Tôi ngoéo tay nàng, và nói : “Chẳng cần ngoéo tay anh cũng nhất định thực hiện lời hứa”. Tôi nắm tay nàng. Nàng để yên trong một giây, một giây thôi, rồi rụt tay về, áp tay lên má. Má nàng bừng bừng như lên cơn sốt. Tôi cảm thấy mình cũng vậy.

Tôi phải rất nhọc nhằn đè nén những cảm xúc thầm kín đáng sợ của mình. Tôi biết nàng cũng vậy. Tôi nói, sau một lát không biết nói gì :

- Hồi còn học sinh, anh hẹn đưa em gái anh đi chơi Hồ Tây, nó cũng bắt anh

ngoéo tay như thế.

- Vậy há ? Vậy há ?

Tôi nhìn nàng, thấy nàng trở lại bé nhỏ như em gái tôi hồi nó còn bé. Một con chim nhỏ, ríu rít bên tôi. Tưởng như có thể bỏ nàng vào túi, hay đặt nàng đậu trên vai, và đưa nàng rong ruổi khắp bốn phương. Hoàn toàn có thể như thế, nếu không có những chiếc máy bay trực thăng đang phành phạch bay đi đâu đó kia, những tiếng pháo đang bắn đi đâu đó kia. Thật phi lý.

Trời đang ngả chiều. Màu trời chiều mà tôi dang nhìn qua mấy ngọn bói lưa thưa kia, sao quá xanh và quá êm đến không thể tin được trong khi từng loạt pháo từ Bồ Bồ văn đều đều bắn đi đâu đó. Thật phi lý những âm thanh man rợ ấy. Và phi lý cả cái niềm mơ tưởng thơ dại vừa trôi dậy trong tôi. Phi lý. Phi lý. Phi lý. Trái tim tôi run rẩy và đau thắt. Tôi nhìn nàng như thể nàng là chiếc bình pha lê mỏng tang mà tôi đang nâng niu trên tay dưới một trận mưa đá. Suýt nữa thì tôi bật khóc vì thoáng nghĩ đến cái cảnh có thể lúc nào đó nàng bị như cháu Sinh, hoặc nay mai trở vào thành phố tiếp tục hoạt động, có thể nàng bị địch bắt, bị chúng nó tra tấn.

- Rồi anh có đưa em gái anh đi chơi hồ Tây chớ ?

- Có chứ. Anh đưa nó lên hồ Tây. Nó còn đòi anh cho xuống Pê-rít-xoa bơi đi chơi trên hồ.

- Pê lít xoa là cái chi, anh ?

- Pê-rít-xoa chứ không phải pê lít xoa.

- Ừ thì pê xít xoa – nàng cố tình nói chệch để chọc tôi – nó là cái chi ?

Tôi tả cho nàng  hiểu về chiếc pê-rít-xoa, nó đang bồng bềnh hiện lên trong vòm trời kỷ niệm của tôi đây, tôi đang cùng nó lao vun vút trên mặt nước hồ Tây, không phải với em gái tôi, mà là với nàng.

- Hồ Tây là ở đâu anh ?

- Hồ Tây cũng ở Hà Nội. Hồ Tây cũng đẹp như hồ Gươm, nhưng lớn hơn gấp nhiều lần. Em có nghe bài hát này bao giờ chưa ?

Tôi khẽ hát cho nàng nghe : “Đây hồ Gươm, Hồng Hà, hồ Tây. . . Đây lắng

hồn núi sông ngàn năm…”

Nàng lắng nghe, say sưa. Và tôi cũng tự lắng nghe mình. Mỗi địa danh của Hà Nội, lúc này cất lên trong lòng tôi sao thấm thía một nỗi gì da diết đến đứt ruột tôi muốn truyền sang nàng, muốn nàng chia sẻ cùng tôi, muốn nàng hoà quyện trong mọi kỷ niệm thời thơ trẻ đã vĩnh viễn qua đi của tôi.

- Anh ơi, miền Bắc xã hội chủ nghĩa sướng lắm anh hỉ ?

Tôi gật đầu :

- Tất nhiên, tất nhiên.

Tôi vội nói thêm với nàng rằng xã hội chủ nghĩa tất nhiên là sướng hơn tư bản chủ nghĩa, nhưng lúc này đang đánh Mỹ nên về vật chất thì còn khổ, chỉ sướng là ở chỗ không có bất công thôi.

Tôi hơi ngượng vì thấy mình vừa nói với nàng bằng giọng tuyên huấn, tuy tôi không định gây ảo tưởng cho nàng. Cặp mắt nàng trong trẻo quá. Tôi không dám nhìn lâu vào đấy. Nhưng biết trả lời nàng thế nào ? Chả lẽ lại đọc cho nàng nghe mấy câu vè dân gian đời mới : “Mỗi người làm việc hai. Để cho chủ nhiệm mua đài mua xe “… Chả lẽ lại thổ lộ với nàng nỗi niềm sâu kín độ dày vò tôi suốt bao năm, cái nỗi niềm đã làm nổ ra cuộc va chạm gay gắt giữa tôi và cha tôi ít ngày trước khi tôi lên đường vào chiến trường.

- Chừng nào đánh Mỹ xong, anh đưa em ra Hà Nội, chúng mình sẽ đi bơi

Pê-chít-xoa trên hồ Tây – tôi nói, nhại giọng nàng, để lảng khỏi câu chuyện vừa rồi.

Nàng chỉ hơi nhếch cười, yên lặng tiếp tục lần giở cuốn lịch, cố tìm cái gì đó và hỏi :

- Ảnh của chị ấy đâu, cho em coi với.

- Chị nào ?

- “Chị ấy ” ấy. Nhất định là anh phải có một “chị ấy” chớ ?

Tôi cười :

- Kể ra thì cung có thể gọi là có đấy. Nhưng mà thực ra là không.

Tôi kể cho nàng nghe về mối tình thời sinh viên của tôi với một cô nữ sinh lớp chín, bạn của em gái tôi, nhưng tôi đã quyết định chấm dứt khi tôi đi chiến trường, và Nga, cô bạn ấy, đi học ở Ba Lan. Mặc dù Nga rất yêu tôi, nhưng về phần tôi, đang lúc còn do dự, thì một quyết định nghiêm trọng hơn sau vụ bất hoà với cha tôi, đã cuốn tôi về phía chiến trường. Và tôi cho rằng ngày về là khó chắc chắn, nên yêu cầu Nga chớ có chờ đợi tôi làm gì. Tôi không viết thư về cho Nga, cho gia đình và bạn bè. Tôi dặn trước thế. Cả nhà coi tôi là một kẻ lập dị, thậm chí một thứ đại loại như kẻ lạc loài .

Nàng nhìn tôi đăm đắm trong lúc nghe tôi kể. Câu chuyện hết sức riêng tư này, tôi chưa hề thổ lộ với ai, cho tới chiều nay. Nàng vừa định nói gì đó thì một loạt pháo cấp tập từ các căn cứ Bồ Bồ, Trảng Nhật bay víu víu qua đầu

chúng tôi và nổ ì ầm ở phía ranh núi Duy Xuyên. Trận địa pháo ở Ái Nghĩa

cũng đồng thời bắn lên phía ranh núi Đại Lộc. Tiếng nổ xa vọng lại như sấm rền. Hết đợt này đến đợt khác, các trận địa pháo Mỹ đều đặn làm công việc

thường nhật của chúng. Giờ này là giờ anh em ta vượt qua vùng giáp ranh giữa núi với đồng bằng để tiến xuống vùng sâu.

Bóng chiều sẫm dần. Cũng đã đến lúc tôi có thể ra sông Thu Bồn lấy nước. Nịt thắt lưng và khoác khẩu AK vào, tôi dặn H :

- Anh đi hơi lâu đấy, đừng lo chi nghe không.

- Dà… Nhưng sao anh đi lâu ? Có việc chi vậy ?

- Anh cần thăm dò miệt ven sông.

- Anh cẩn thận nghen.

- Yên tâm. Anh có kinh nghiệm mà.

Ra tới sông thì trời tối hẳn. Tôi xuống sông tắm rồi lấy nước túm thành bọc bằng tấm ni-lông như mọi khi, đem lên giấu bọc nước trong bãi bói, sau đó bất đầu thực hiện chương trình thám sát đã định của mình. Mấy đoạn bờ tre nhìn thấy hồi sáng đã khiến tôi nhớ ra cái xóm cũ của xã Điện Thái nằm bên bờ sông Thu Bồn. Cách đây đã lâu, tôi từng có công tác đi qua đó. Dân xóm đã chạy hết sau các trận đánh phá của địch.

Nhưng có một cơ quan đã đến đóng trụ sở tại cái xóm cũ mất dân này – cơ quan báo Giải Phóng của tỉnh, mà người phụ trách báo là bạn tôi. Họ sửa lại mấy căn hầm cũ của dân làm “toà soạn” Hôm tôi đi ngang, anh bạn tổng biên tập giữ tôi ở lại một đêm để moi tôi ít tư liệu về hoạt động của lực lượng biệt động trong thành phố. Nay thì cơ quan báo chắc đã dời đi nơi khác rồi. Nhưng tôi vẫn cứ muốn mò tới cái xóm cũ ấy, dù là với một niềm hy vọng mong manh.

Tôi ôm khẩu AK khom người dò dẫm theo lối mòn ven sông, đi rất chậm, vừa đi vừa nghe ngóng động tĩnh, từng quãng lại ngồi xuống nhòm trước ngó sau thật kỹ một lúc rồi mới tiếp tục tiến lên. Xem xét kỹ lối mòn, tôi biết rằng trước khi Mỹ đổ quân bên Gò Nổi, anh em mình vẫn đi lại bình thường trên con đường này.

Cũng phải mất hơn một giờ tôi mới tới được cái xóm cũ. Một phần xóm đã bị bói trùm lấp, phần còn lại từ bờ tre đổ về mé sông thấy ít cỏ hoang hơn. Tôi thận trọng mò mẫm dọc bờ tre rồi tiến sâu vào xóm. Không còn một cái nhà nào. Các căn hầm đều đã bị đánh sập.

Cứ khoảng mươi bước lại gặp một hố bom hố pháo. Chỉ có thể nhận biết dấu tích của xóm cũ qua một vài chỗ mà tôi đoán rằng xưa kia là một cái nền nhà. Cái mùi vị hoang vắng lạnh tanh tại một nơi đã từng diễn ra sự sinh sống lâu đời của con người, đã từng có sự xum vầy đầm ấm, mới se thắt lòng người làm sao.

Cho nên, sau một hồi mò mẫm loanh quanh giữa cỏ dại, khi gặp được một chỗ mang dáng vẻ như một góc vườn cũ, tôi thấy mừng rỡ bồi hồi như gặp người thân. Có gì đâu, chỉ là một bụi chuối và một cây ổi lẫn trong cỏ dại. Tôi vạch cỏ ngồi xuống cạnh cây ổi. Nó đã bị bom pháo phạt gãy từ lâu, nhưng từ một nhánh phụ dưới gốc lại mọc lên một cây mới khá to, cành lá khoẻ khoắn tốt tươi.

Tôi nhìn mãi cái cây, mơ màng như ngỡ chừng sắp bắt gặp hình bóng những đứa trẻ ngồi vắt vẻo trên cành, vừa hái đi ăn vừa thích thú đung đưa đôi chân… Nhưng đứa trẻ xa xưa ấy giờ phiêu bạt nơi đâu ?

Cây ổi không có lấy một quả, dù là quả non. Bụi chuối không có lấy một buồng. Tôi sục sạo tìm kiếm khắp cả cái xóm bên mé sông, gặp mấy bụi chuối nữa, nhưng cũng không thấy có buồng.

Đến một cái hoa chuối cũng không. Đang chép miệng than cho nỗi vô duyên của chuyến thám sát và định lủi về thì ánh mắt tôi chạm vào một đám lá quen quen lẫn trong vùng cỏ dại. Tôi vội nhào tới cúi xuống xem xét kỹ. Thì ra một đám cây bột dong, tranh chấp với cỏ mà mọc trên một khoảng đất độ gần bằng chiếc chiếu. Tôi sục tay hối hả moi thử. Đất phù sa rất xốp, chỉ đánh nhoáng đã lôi lên một khóm lúc nhúc củ cỡ choai choai.

Đúng củ bột dong, chính hiệu con nai đen ! Tôi chùi sạch luôn một củ, bóc yếm, nghiến ngấu nhai. Tuyệt? Chưa bao giờ tôi được ăn món nào ngon đến vậy trong đời, kể cả những sơn hào hải vị tại các tiệc tùng sang trọng vốn chẳng xa lạ gì với gia đình tôi. Cái chất bột dong thơm mát và ngọt dịu còn tươi nguyên hương vị phù sa thấm vào cái dạ dày đang rỗng và lan nhanh khắp cơ thể mới tuyệt diệu làm sao ! Tôi thong thả chén tiếp một củ nữa tôi moi hết cả đám bột. Phải được đến ba bốn cân. Không biết lấy gì đựng, bèn lột phăng chiếc áo cổ vuông, dùng dây chuối cột túm thành cái túi, nhét đại vào. Để túi củ một chỗ, tôi lùng lội loanh quanh vài lượt coi may ra kiếm thêm được đám củ nào khác, nhưng không kết quả. Tạm bằng lòng với số chiến lợi phẩm khiêm tốn đó, tôi quay lại chỗ bờ sông văn thường lấy nước, rửa sạch củ. Rồi vừa vác bọc nước sau lưng, vừa ôm bọc củ dong cùng cây AK, tôi hân hoan rúc theo “đường ống” trở về “ổ”.

Thấy tôi về H mừng quýnh.

- Anh đi lâu quá, em lo hết hồn.

- Có quà cho em đây.

Tôi khoái chí ném bịch củ dong xuống trước ổ :

- Đố biết cái gì nào ?

H mở túi, reo lên :

- Ôi mình tinh, củ mình tinh, anh kiếm được ở đâu giỏi vậy ?

- Ăn đi em, anh rửa sạch rồi đó. Em đói ghê lắm phải không ?

Hai chúng tôi ngồi trên ổ cùng nhai củ rau ráu, nhìn nhau tủm tỉm cười.

- Hồi nãy em gọi là củ gì ấy nhỉ ? Thứ này ở quê anh người ta gọi là củ bột dong hoặc bột đao.

- Còn ở quê em kêu là củ mình tinh.

Luộc ăn ngon lắm. Bây giờ thì ăn sống cũng ngon quá trời.

- Hồi còn bé, anh vẫn thường ăn sống. Cứ đến mùa dỡ củ, anh với em gái anh lại theo mẹ ra bãi sông giúp mẹ. Dỡ được củ anh cứ lấy ăn sống, bị mẹ anh mắng, thế là anh nhóm một đống lửa, nướng củ ngay trên bãi, thú vô cùng.

Trong một thoáng, tôi thấy lại ngày mình còn bé. Một cánh bãi phù sa ven sông. Một đống lửa, khói bay nghi ngút lan dài theo gió chiều. Tôi với đứa em gái cùng chụm đầu bên đống lửa hí húi nướng củ dong. Em gái tôi nhí nhoé giành củ to hơn. Những củ bột dong nóng dẫy bọc vào vạt áo. Hai anh em chạy tới nằm lăn trên đống lá bột chất giữa bãi, vừa ăn củ bột nướng vừa ngửa mặt nhìn trời. Mùi củ nướng thơm lừng quyện lẫn mùi khói tỏa lan khắp bãi. Và trời chiều mới yên ả làm sao… Tất cả đã lùi sâu vào dĩ vãng, sâu lắm lắm, chìm lấp tít mù sau những lớp khói bom, những đám lửa cháy nhà …

Có tiếng máy bay ầm ì nặng nề khác thường. Không phải thằng B57 bay chiếc một chuyên thả bom lẻ theo toạ độ mà đồng bào gọi là thằng ném “bom trộm”.

Bọn này khác, bay cả một bầy, bay rất cao, tiếng máy nặng nề nén cả trời đêm xuống, cảm giác như nó làm mình tức thở, căng đầu.

- B52 – tôi nói – Em ở thành phố, chắc không biết bọn này ?

H nghiêng đầu nghe những âm thanh lạ.

- Em chỉ nghe nói thôi, nay mới nghe tiếng nó bay.

Không thể nhìn thấy chúng. Chỉ nghe tiếng chúng bay qua đầu, độ mười phút sau thì nghe tiếng nổ dậy lên phía xa, rền rền một chuỗi dài. Tôi đồ chừng chúng đánh phá căn cứ của ta trên vùng núi miền tây Đại Lộc. Cứ nửa giờ, một bầy ba tốp, mỗi tốp cách nhau năm phút nối tiếp nhau suốt đêm.

Vào quãng quá nửa đêm, một trận mưa đột ngột đổ xuống. Có mỗi một tấm ni- lông duy nhất phải dùng để đựng nước, cái vòm lá bói cũng chẳng ăn thua gì, nên chúng tôi đành ngồi phơi mình hứng mưa. Cả hai đều ướt sũng, lạnh run cầm cập. Tự nhiên hai chúng tôi ngồi nép sát lại bên nhau lúc nào không hay. Bóng đêm đen kịt, chốc chốc lại nhoáng lên một tia chớp. Tiếng sấm rền, tiếng mưa đổ ào ạt, chen lẫn tiếng B52.

Cũng may trận mưa không kéo dài. Mưa vừa tạnh, cả hai chúng tôi phải ra chỗ kín tuột hết quần áo vắt kiệt nước rồi mặc lại. Và tiếp tục ngồi sát bên nhau chia sẻ chút hơi ấm chống chọi với cái lạnh tai ác. Tôi choàng tay qua vai H, siết chặt nàng vào mình, và bảo :

- Em đừng ngại, anh không làm gì để em phải buồn anh đâu, anh chỉ muốn ủ cho em đỡ lạnh thôi.

Nàng yên lặng ngả đâu vào vai tôi tin cậy. Một lát sau. nàng chợp mắt thiu thiu ngủ. Tôi không ngủ, ngồi im phắc cho nàng dựa, nghe tiếng côn trùng rỉ rả trong bài bói, và nhẩm đếm những đợt B52.

Giữa nhưng đợt B52 trút bom trên vung núi phía tây Đại Lộc, vẫn có pháo bắn rải rác vào bãi bói. Thỉnh thoảng một quả pháo nổ khá gần chỗ chúng tôi.

Hai chiếc C130 lượn ì ì dọc sông Thu Bồn thay nhau thả đèn sáng. Bọn máy bay trực thăng bay từng cặp vừa rọi đèn pha vừa bắn dạo lai rai.

Mặc tất cả những ồn ào chết chóc ấy H vẫn ngủ say. Tôi lựa thế, thật khéo léo và gượng nhẹ, đặt nàng nằm ngả đầu lên lòng mình cho nàng ngủ được thoải mái. Tôi cứ lấy làm lạ trước cái trạng huống đối nghịch kỳ cục đến khó tin này: trên đầu là cái chết đang hầm hè múa may giương oai diễu võ chỉ chực chụp xuống, còn đây, trong lòng tôi, là giấc ngủ hiền hoà của nữ thần sắc đẹp. Vâng, nữ thần sắc đẹp, quả là thế, tôi không nói ngoa. Dưới ánh pháo sáng ma quái chập chờn rọi qua lớp ngọn bói lưa thưa gương mặt nàng toả ra khí sắc một vẻ đẹp thiên thần. Vẻ đẹp ấy khiến tôi như thể không còn nghe thấy tiếng hầm hè gớm ghiếc của thần chết nữa. Tôi không phải chỉ ngắm  nàng, mà tôi chiêm ngưỡng nàng, lòng không hề gợn một thoáng dục vọng u tối .

Đêm ấy, tới nghĩ ra một kế hoạch mới.

IV

Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa lên, trong lúc chúng tôi cùng ngồi nhai củ bột sống, tôi bảo H :

- Hôm nay em ở “nhà” coi nhà nhé, anh đi công tác.

Nàng nhìn tôi cười cười, tưởng tôi nói đùa. Tôi nghiêm chỉnh tiếp :

- Anh có một kế hoạch. Thế này em ạ, anh phải tới cái xóm cũ mà đêm qua anh đã kiếm được củ bột dong ấy vào ban ngày để nắm tình hình. Mà ban ngày thì không thể đi theo lối bờ sông được vì có thể bọn Mỹ bên Gò Nổi nhìn thấy. Nên phải mở một “đường ống” luồn trong bãi bói từ đây tới đó.

Cũng giống như cái “đường ống” anh đã mỏ ra sông Thu Bồn lấy nước ấy mà. “Đường ống” này sẽ dài hơn, vì nó đi chéo. Anh nghĩ là tạo xong “đường ống” mới, anh bám ở cái xóm cũ đó sẽ dễ nắm tình hình hơn là ngồi giữa bãi bói như ngồi dưới đáy giếng thế này.

H gật đầu :

- Em hiểu rồi. Nhưng tại sao anh không cho em cùng mở đường với anh?

- Nhiệm vụ của em là ở trong thành phố. Còn ở đây là việc của anh. Đó là sự phân công cách mạng.

Nói đến nhiệm vụ trong thành phố và sự phân công cách mạng, nàng không dám có ý kiến lại, chỉ năn nỉ xin theo tôi cùng mở đường. Chưa biết sẽ gặp chuyện gì khi mò tới cái xóm cũ kia giữa ban ngày trong khi cuộc càn quét của bọn Mỹ vẫn đang rất ráo riết, tôi lắc đầu:

- Không, em phải ở lại đây, để mình anh đi cái đã. Với lại, em phải trụ chỗ này để anh có một cái mốc cố định mà tìm về nếu lỡ bị lạc. Mở đường trong bãi bói thế này nó mù mịt chẳng kém gì khoét địa đạo trong lòng đất đâu (kể

ra, tôi so sánh cũng hơi cường điệu). Cả em cùng đi, lỡ bị lạc cả hai thì lúng túng lắm.

Nàng không dám năn nỉ xin theo nữa, chỉ thở dài. Để nàng đỡ buồn, tôi mở xắc lấy cuốn sổ tay tôi có chép những bài thơ, những câu danh ngôn mà mình tâm đắc, đưa cho nàng :

- Em cầm cái này mà đọc. Nhưng đừng quên chú ý cảnh giới xung quanh

dấy nhé .

Trước khi vào việc, tôi bảo nàng đứng đan tay sau lưng làm bậc cho tôi trèo lên quan sát một lần nữa. Lấy cái bờ tre xóm cũ làm mốc nhắm hướng, đồng thời dựa vào hướng chiếu của ánh nắng mặt trời, tôi bắt đầu vạch bói từ từ luồn tới. Phải rất kiên nhẫn. Và tôi đủ kiên nhẫn.

Khoảng hơn hai giờ sau thì tôi tới được xóm cũ. Chỉ chệch mục tiêu độ gần trăm mét. Chệch chừng đó cũng coi như không chệch. Tôi luồn trở vào bãi bói và mở tiếp một nhánh đường nhằm đúng xóm cũ, nhờ mấy ngọn tre phơ phất.

Tìm một lùm cây dại ở vị trí thuận tiện vừa có thể ẩn mình vừa quan sát, tôi rúc vào ngồi. Từ chỗ này, nhìn được con đường mòn dọc xóm và một phần xóm trải về mé bãi sông. Khắp nơi mọc tràn cỏ dại và dây leo. Tôi nhìn thấy hai căn hầm cũ đã sập, mấy cây cau cụt ngọn, một cây gãy gục ngang thân; mấy hố bom to như cái ao, tất cả đều ngập cỏ. Có một hố bom mới, đất còn đỏ loét.

Quần áo tôi đã khô khi trời nắng gắt, lại ướt sũng vì mồ hôi túa ra lúc mở đường, giờ đang dần dần se lại. Ngồi rình như thế thật dễ ngán. Bơn bề im phắc, tuy rằng trên trời máy bay các loại vẫn đều đặn hoạt náo như lệ thường, bom pháo văn ùng oàng đâu đó, súng nhỏ thỉnh thoảng vẫn lẹt rẹt, riêng cái xóm cũ này thì vẫn chìm trong sự vắng lặng đầy bất trắc. Cái hoang lạnh của làng xóm mất dân cứ ngấm sâu vào thân thể, buồn xót đến nhức xương. Tôi nhìn hoài con đường mòn quạnh hiu dọc xóm, mong thấy được bóng dáng một người trong lực lượng anh em mình xuất hiện, nhưng nhìn rõ cả mắt cũng chẳng thấy chi. Thậm chí tôi còn mong cứ xuất hiện một tốp lính Mỹ cũng được, để tôi biết chắc rằng có địch ở đây. Chỉ có một con rắn cạp nong to gần bằng cổ tay lừ lừ trườn đi trên đường. Cái thân mình sặc sỡ khoanh vàng khoanh đen của nó sáng lên ngoằn ngoèo dưới nắng. Nó bò trên đường mòn một đoạn, dừng lại ngấc đầu lên vài giây như nghe ngóng, rồi biến mất trong bụi rậm. Con đường mòn lại trở lại côi cút.

Chợt tôi thoáng nghe thấy một âm thanh chưa rõ rệt lắm nhưng có gì đó làm xao xuyến. Tôi nín thở dỏng tai, đợi nghe tiếp. Mấy phút sau thì nhận rõ là tiếng gà. Một tiếng gà thôi mà sao lòng xao xuyến kỳ cục. Kia rồi, nó đang đi tới. Một con gà mái. A, mày chết với ông ? Mấy ngày thiếu đói liên tiếp khiến tôi liền nảy ra ý nghĩ phải tìm cách lập tức xơi tái con gà này.

Bắn thì không được rồi, vì tuyệt dối không được gây tiếng nổ, chỉ tổ chuốc thêm nguy hiểm. Chỉ có cách lừa nó vào bụi rậm mà vồ. Quanh đây thiếu gì những bụi rậm dày đặc.

Con gà vẫn đủng đỉnh bước tiếp không biết rằng có một mưu toan hãm hại đang rình đợi nó. Vừa đi nó vừa bình thản cục cục. Nó gọi con- Hoá ra nó không chỉ có một mình. Bầy con nó, độ năm sáu con, màu lông vàng non tơ, líp chíp nhảy theo sau. Con gà mẹ vừa không ngớt cục cục vừa mê mải bới đất cho con nhặt mồi. Nhưng đột nhiên nó ngừng lại. dướn cổ dáo dác, tiếng cục cục trở nên thảng thốt như háo động. Có chuyện gì vây ? Tôi đã làm gì nó đâu, chỉ mới toan tính trong đâu thôi mà. Bất giác tôi ngước nhìn trời và rõ ngay nguyên cớ : một con diều hâu đang lượn lờ trên cao.

Con gà mẹ vụt gọi con gấp gáp và xoè rộng đôi cánh. Lũ con lúc túc chúi mỏ chạy bổ vào rúc dưới cánh mẹ. Một con ở xa mẹ qua, vừa chạy vừa vấp lăn cù. Một tia chớp đen nhoáng qua. Con diều hâu đã nhanh như chớp bổ xuống quắp gọn con gà con chậm chân bay vụt lên. Con gà mẹ quác lên đau đớn và phẫn nộ. Từ trên cao, chỉ còn rơi lại tiếng chiêm chiếp thoi thóp của con gà con xấu số đang hấp hối trong mong vuốt man rợ của con diều hâu, nghe hết sức thương tâm.

Cảnh vừa diễn ra khiến tôi cảm thấy như bị một cái tát vào mặt. Suýt nữa thì tôi đã hành động chằng khác gì con diều hâu. Tôi đã để cho cái dạ dày lôi tuột mình xuống hàng cầm thú, dù chỉ mới là trong ý nghĩ. Tuy chì mình mình biết thôi, hai vành tai tôi cũng rần nóng vì xấu hổ.

Bây giờ tôi mới đủ tỉnh táo mà nghĩ được rằng : còn gà thì còn dân. Có thể lẩn quất đâu đó trong xóm này vẫn còn một vài người dân chúng ? Rời khỏi chỗ ẩn mình, tôi ôm súng lẹ làng lách qua các bụi rậm, từ từ mở rộng phạm vi trinh sát. Tôi lần tới bãi sông rồi đảo lại, sục ra mọi phía. Cũng vẫn chỉ thấy toàn những căn hầm sập nóc, những hố bom.

Không tài nào nhận ra được cái khu vực có mấy căn hầm của cơ quan báo “Giải phóng” dạo trước. Xóm đã thực sự mất dân hoàn toàn rồi. Con gà tôi gặp hồi nãy chỉ là con gà người ta bỏ sót lại mà thôi. Cũng hơi yên tâm để khẳng định rằng mấy hôm nay ở xóm này không có Mỹ, kể cả tụi Mỹ lết – cái tụi đáng gờm nhất. Vài năm lại đây, bọn Mỹ thường dùng lực lượng các phân đội nhỏ bí mật chui rúc vào các vùng mất dân để dọ thám phục kích. Chúng cứ lê lết từ vùng này sang vùng khác rất kín đáo và kiên nhẫn, anh em mình gọi chúng là Mỹ lết. Giờ thì chỉ còn ngại những toán Mỹ lùng sục bất ngờ của căn cứ Bồ Bồ tung ra, vì Bồ Bồ cách đây không xa lắm. Nhưng nếu có chuyện gì, tôi sẽ lủi nhanh vào bãi bói thật êm.

Tôi vừa phát hiện được một đám bột dong kha khá nữa thì bắt gặp một ụ đất lớn phủ cỏ hệt như nóc một căn hầm, khuất sau bờ tre dày. A, còn dân ! Tiếng reo tự dưng cất lên trong lòng. Tôi vòng sang phía có cửa hầm. Đúng là một căn hầm còn nguyên thật. Nhưng trước cửa hầm cỏ dại mọc um tùm cao tới đầu gối.

Không hề thấy dấu chân người. Không hề cảm thấy đâu chút hơi hướng của con người, mà vẫn chì một mùi hoang lạnh trống vắng. Lại thất vọng vì không có dân. Tôi thận trọng rẽ cỏ bước vào. Cỏ mọc tới sát cửa hầm. Tôi rúc xuống. Hầm còn vững chãi lắm. mái là những cây kèo ghép hình chữ A, toàn bằng gỗ lim cột nhà.

Đáy hầm tráng một lớp bùn sền đặc. Tôi lấy ngón tay chọc, lớp bùn mỏng thôi, bên dưới là vật gì cứng cứng- Tôi khoả tay rộng ra : ván lát hầm cũng còn tốt ! Tôi nghĩ thế vừa bước lên khỏi hầm, đứng nhìn bao quát một lần nữa vị trí căn hầm cùng địa hình chung quanh. và tính đến việc rời khỏi bãi bói tới trú tai căn hầm này.

Tôi trở lai bãi bói thì đã đứng trưa. H ngồi trên ổ, mặt buồn xo. Nàng không reo mừng như mọi bận. Nước da trắng xanh xao hẳn, vẻ nhuốm bệnh. Tôi hơi lạ trước cai dáng ngồi ké né rất không tự nhiên của nàng.

- Em sao thế ?

- Em–. Em—

- Em ốm phải không ?

- Em-.. Em bệnh.

- Em bệnh thế nào ?

Tôi đặt tay lên trán nàng. Không thấy sốt.

- Em không sốt đâu. Em …

Nàng cứ ấp úng một cách khó hiểu.

- Em đói phải không? Sao không ânsữa, ăn củ dong, chờ anh làm gì?

Tôi lấy túm sữa bột chẳng còn được bao nhiêu, mở ra đưa cho nàng bao nhiêu, mở ra đưa cho nàng. Nhưng nàng gạt đi , vẻ như sắp khóc

- Em . . . Em không bệnh đâu. Em . . . bị . . .

Thoạt tiên thì tôi vẫn chưa hiểu được ngay. Rồi ánh mắt tôi nhác thấy một vệt máu khác thường trên lớp lá bói khôn bên chỗ nàng ngồi. Từ sáng tới giờ không hề nghe tiếng bom pháo hoặc súng nhỏ bắn vào đây. Vệt máu kia chẳng liên quan gì đến bom đạn cả. Tôi chợt hiểu vì sao nàng cứ ấp úng mãi. Tôi nhẹ nhàng bảo:

- Anh hiểu rồi. Em bi hành kinh mà  không có đồ thay đây mà . Ô, chuyện vặt, đây lấy cái khăn mặt của anh mà dùng. Và rất may anh cũng trong xắc  một cái may ô nữa. Huy động luôn. Em cứ dùng hết số nước dự trữ đi, chờ trời tối anh lại ra sông Thu Bồn lấy tiếp. Thế được chưa?

Nàng chớp chớp mắt liên hồi. Có vẻ nàng chưa thật tin rằng, làm sao một anh con trai chưa vợ lại có thể nói về cái chuyện khó nói hàng tháng của phụ nữ một cách tự nhiên đến thế.

Tôi xoa đầu nàng:

- Không sao hết, chuyện bình thường muôn thuở trời sinh mà em. Em biết không, năm ngoái, một cô nhân viên trong cơ quan bị thương hàn, người rất yếu, không đi được. Gặp lúc địch càn, anh cõng cô ấy ra hầm, đúng kỳ cô ấy hành kinh, máu loang đầy cả lưng anh. Em thấy đấy, anh đâu có lạ gì ba cái chuyện này …

Đầu cúi cúi nàng nhướng mắt le lưỡi nhìn tôi nhoẻn cười, bẽn lẽn cầm lấy chiếc khăn mặt và chiếc may ô tôi đưa rồi vừa dó dén khom người đi ra chỗ bịch ni-lông chứa nước, vừa khẽ nói giọng âu yếm "Anh kỳ thiệt …"

Chúng tôi ăn trưa bằng củ dong sống và chút xíu sữa bột. Tôi kể cho nàng nghe tình hình cái xóm cũ, và quyết định di chuyển. Ra đó, vừa có hầm tránh bom pháo, vừa kiếm được cái ăn. Tôi tin rằng nếu tiếp tục sục sạo kỹ hơn, chắc còn phát hiện thêm được những đám củ dong, củ lang hoặc khoai giềng. Các giống củ mạnh mẽ ấy, không dễ gì mà bị tuyệt diệt. Tôi cũng hy vọng đêm đến biết đâu có thể gặp được lực lượng anh em mình xhất hiện trên đưòng mòn. Còn trường hợp gặp địch, thì lủi nhanh vào bãi bói cũng rất thuện. Nhìn nước da xanh mét của nàng, tôi lại ngẩn ngơ tiếc lúc sáng đã kông vồ lấy con gà mái. Ừ, thì tôi đành phải tụ hạ mình thành con hâu trong hoàn cảnh bất đắc dĩ này cũng chả sao, miễn là tôi có thể chăm chút được cho nàng, miễn là chúng tôi có cái sống để mà chiến đấu. Nếu tôi không bắt con gà ấy thì rồi cũng sẽ có một ai đó bắt nó, hoặc nó sẽ lọt vào tay bọn Mỹ lết.

Một bầy trực thăng ào ào bay qua trên đầu. Khoảng hơn chục chiếc. Có cả thằng cần cẩu bay, cẩu theo lủng lẳng một khẩu pháo. Chúng bay lên hướng ranh núi tây Đại Lộc, chắc đổ thêm quân và đặt thêm trận địa pháo trên đó khống chế vùng căn cứ của ta. Cả bầy bay qua rồi nhưng có hai chiếc trực thăng vũ trangquần trở lại phóng rốc-kết xuống bãi bói mé gần đường 100, mùi khói lan đến chỗ chúng tôi khét lẹt. Chúng chỉ phóng 4 quả rồi chuồn. Hình như chúng nhìn thấy cái gì khả nghi dưới mặt đất. Tôi để ý nghe ngóng coi bọn phản lực có tới ném bom không, nhưng không thấy. Riêng bọn pháo Bồ Bồ lại bắt đầu khai hỏa sớm hơn thường lệ, nã cấp tập sang phía ranh núi Duy Xuyên và các làng xóm ven bờ nam sông Thu Bồn.

Mấy hôm nay tôi cứ thầm lo địch bắn pháo bi vào bãi bói. Cái thứ pháo dễ sợ. Một quả pháo mẹ nổ bụp trên cao, túa xuống cả mớ pháo con, phóng ra cơ man những viên bi nhỏ với tốc độ giết người.

Giữa bãi bói chẳng hầm hố gì, rủi gặp pháo bi thật khó tránh khỏi chết hoặc bị thương. May sao, điều tôi lo ngại chưa xảy ra. Bây giờ thì chúng tôi có thể rời bãi bói được rồi.

Luồn theo "đường ống" mới mở, chúng tôi ra cái xóm cũ ven sông. Tới gần xóm, tôi bảo H ngồi lại trong bãi bói, tôi đi trước trinh sát. Cứ cẩn thận là hơn. Biết đâu bọn Mỹ từ Bồ Bồ lại vừa bất ngờ sục tới thì sao? Rảo qua mấy vòng, nắm chắc là không có địch, tôi đưa H vào xóm, và chúng tôi cùng nhau dọn dẹp căn hầm. Vét sạch bùn dưới đáy hầm, hai tấm ván lát hầm lộ ra. Ván khá dày, còn tốt nguyên, dù đã trải qua bao mùa mưa bị ngập nước. H lấy lá chuối khô chà sạch ván. Trong lúc H sửa sang thêm căn hầm, tôi đi dõ đám củ dong mới phát hiện hồi sáng. Được độ dăm cân, cũng tạm yên bụng được mấy ngày.

Ở một căn hầm bị sập, tôi vớ được một chiếc thùng nhỏ, loại thùng đựng bơ của Mỹ, nằm lấp ló trong đất. Chùi sạch đất, soi lên trời không thấy lỗ thủng. Có thể dùng thay cái soong. Sẽ tạo trong bờ tre một cái bếp, che thật kín bằng lá chuối và tất cả các thứ cành lá nào che được, nhá nhem tối là nổi lửa, chấm dứt cảnh ăn củ dong sống.

Trong xóm không còn một cái giếng nào. Mùa mưa chưa đến, các hố bom đều cạn. Trận mưa đêm qua chỉ làm ướt đất. Con đường từ xóm ra sông phải qua một bãi trống thoai thoải dốc chỉ có những đám cây lúp xúp. Nếu khom người mà đi, có thể tránh được con mắt bọn Mỹ bên kia sông, nhưng khó lọt khỏi con mắt bọn tàu rà trên trời. Bốn chiếc tàu rà loại hai thân thay nhau quần đảo suốt từ sáng không lúc nào ngớt. Bên phía ranh núi Duy Xuyên, hai chiếc phản lực đang ném bom. Đành phải chờ.

Chúng tôi ngồi dựa vào cửa hầm, dưới bóng bờ tre, chờ tối. Trời chiều rất trong và rất xanh, càng làm nổi bật những đám mây đang lừng lững trôi, những đám mây của thanh bình, nhàn tản và vô tư, không thèm biết đến những đụn khói bom ùn ùn bốc lên từ mặt đất làm vẩn đục bầu trời. Ngàn vạn năm trước và ngàn vạn năm sau, những những đám mây thanh bình kia vẫn trôi đi như thế, sẽ trôi đi như thế.

Nếu hôm nọ chúng tôi bị xe ủi chà nát dưới hầm bí mật, thân thể chúng tôi rồi sẽ rữa tan trong đất, còn trên trời kia những đám mây trắng cứ lững thững trôi, trôi, và đâu đó trên mặt đất này luôn có chúng tôi cặp trai gái ngồi bên nhau cùng ngước mắt lặng ngắm trời chiều, mây trôi lững thững …

H chợt hỏi:

- Anh, những câu thơ này nghĩa là sao?

- Câu thơ nào đâu?

- Đây, mấy câu này.

Nàng chỉ mấy câu thơ tôi đã trân trọng chép trên trang đầu cuốn sổ mà tôi đưa cho nàng hồi sáng. Đó là mấy câu thơ của Pê-tô-phi, nhà thơ lớn Hung-ga-ri. Tất cả những đứa con trai và con gái thế hệ chúng tôi ở Hà Nội, tôi dám chắc, có lẽ không đứa nào không thuộc mấy câu thơ này, qua lời dịch của nhà thơ Xuân Diệu:

Tự do và ái tình

Vì các ngươi ta sống

Vì tình yêu lồng lộng

Tôi xin hiến đời tôi

Vì tự do muôn đời

Tôi hy sinh tình ái

Tôi giảng cho nàng nghe, đúng hơn là tôi chia sẻvới nàng những gì mình cảm nhận. nhì sâu vào cặp mắt to đen thăm thẳm của nàng đang hướng sang tôi tha thiết đón lấy từng lời nói, tôi biết rõ là nàng cảm nhận được cả những gì tôi không nói, rằng chính chúng tôi đang sống và sẽ sống đến tận cùng cái điểu mà mấy câu thơ giản dị này chứa đựng. Tôi kể cho nàng nghe chàng thanh niên đã viết ra những lời gan ruột ấy, cái con người đã sinh ra và lớn lên trước chúng tôi hàng thế kỷ ở một nơi cách chúng tôi hàng vạn dặm, chàng đã sống chính những điều mình nói với người đương thời và cả với hậu thế là chúng tôi đây – nhà thơ đã hy sinh giữa trận tiền khi mới hai mươi sáu tuổi, trong cuộc chiến đấu chống lại ách chuyên chế của bọn vua chúa bạo tàn.

Nàng vừa nghe chuyện người xưa, vừa thì thầm đọc lại, cho chính mình, mấy câu thơ mà nàng đã thuộc nằm lòng, cặp mắt trở nên xa xôi.

Mặt trời lặng được một lúc lâu, bốn chiếc tàu rà mới chịu "nghỉ việc". Chúng vừa cút, tôi đưa nàng ra sông.

Chúng tôi ẩn trong cái xóm cũ không dân ấy hai ngày hai  đêm nữa thì xảy rđến một chuyện bất ngờ. Nhưng chuyện này tôi sẽ kể sau. Tôi muốn kể ngay về hai ngày hai đêm, đặc biệt là hai đêm, chúng tôi sống bên nhau ở đó trong một trạng thái thật quyến rũ mà cũng thật nguy hiểm.

Hai ngày đêm hết sức căng thẳng.

Căng thẳng không phải vì tình hình địch. Cái đó thì đã đành, và chúng tôi đã quen rồi. Mà căng thẳng vì một lẽ khác – mỗi người phải tự chống chọi với chính bản thân mình. Một mối giao cảm không lời đã ngấm ngầm quyện chặt hai tâm hồn chúng tôi với nhau. Chúng tôi thầm biết rằng chúng tôi đã yêu nhau, tuy chưa một tiếng yêu nào được nói ra. Chúng tôi đều đang trẻ, nàng thì còn quá trẻ, sức sống cuồn cuộn trong từng đường gân mạch máu, từng phút từng giây cứ dậy lên dữ dội niềm khao khát lao vào vòng tay của nhau. Bề ngoài thì hai chúng tôi đều cố gắng không để lộ một chút gì. Nhưng thật ra mỗi người đều nghe rõ trái tim người kia đang rên xiết dưới sự kìm nén gắng gỏi đến đau đớn – kìm nén nỗi ham muốn tìm kiếm và dâng tặng nhau cái tuyệt đỉnh huyền bí của tuổi xuân mà tạo hóa ban cho mỗi con người chỉ một lần duy nhất trong đời. Cái đó có từ muôn xưa và còn mãi với con người chừng nào con người chưa bị tuyệt diệt, phải không anh? Cái đó, ở mọi thời và mọi nơi thì tất thảy những người yêu nhau (và cả không yêu nhau) đều có thể tìm kiếm và đạt tới hoàn toàn bình thường và tự nhiên. Nhưng với chúng tôi ở đây, lúc này, dù đang ríu rít như thể một đôi uyên ương trong một thế giới riêng, đang yêu nhau biết bao và gần gũi nhau biết bao, chúng tôi vẫn phải vận hết nội lực để dừng lại trước cái lằn ranh đầy cám dỗ mà cũng trất đáng sợ. Có những lúc chúng tôi đã dợm đặt chân tới bờ vực của sự buông thả. Dồn dập trong đầu những lời mời gọi ngọt ngào: mình số! ng  nay chết mai, rất có thể lát nữa đây là chết, chết cả đôi, chỉ một quả pháo khoét nã trúng hầm thì tan xương nát thịt như gia đình ông Tư Tề, mà chết giữa độ xuân xanh rạo rực, và vĩnh viễn chẳng bao giờ đạt tới, chẳng biết thế nào là cái đó … Xét cho cùng thì có gì ghê gớm lắm đâu, hãy trao nhau đi, rồi liền sau đó lại tiếp tục chiến đấu và chiến đấu hăng hơn kia mà? Tôi đã nghĩ thế khi chúng tôi ở bên nhau trong căn hầm tối. Và nàng hẳng cũng nghĩ thế. Chỉ một cái tặc lưỡi, một thoáng chạm đầu ngón tay vào nhau là hai đám mây tích điện âm dương lập tức loé chớp và cơn bão giông hoan lạc nổ bùng…

Một loạt pháo cấp tập phía đâu xóm. Pháo nổ lác đác đằng bãi bói, dưới mé sông. Rồi pháo nổ vào giữa xóm. Có mấy quả pháo khoét nổ rất gàn hầm, kèo hầm rung chuyển đung đưa, đất rơi lả tả. Những loạt pháo đẩy chúng tôi sát lại nhau hơn. Ý nghĩ về cái chết lại nhói lên, riết róng. Nếu chết, hãy chết trong vòng tay nhau – tôi thâm nhủ. Và nàng hẳn cũng thầm nhủ thế. Chúng tôi choàng lấy nhau mà không ý thức được là đã bị cuốn vào trạng thái đắm đuối mình vẫn luôn dè chừng. Hai cặp môi gần chạm nhau. Hai hơi thở quyện làm một.

Chợt nàng khe ẩy cầm tôi, thì thào, giọng khản đi : – Thôi, đừng, anh!…

Tôi sực tỉnh, tự thấy mình có trách nhiệm phải cứng cỏi hơn. Tôi nghĩ giây phút ấy nếu tôi không đủ cứng cỏi mà cứ cố tìm môi nàng, hẳn nàng cũng không thể nén lòng được nữa, và rồi sự thể sẽ diễn ra tuột khỏi mọi công phu giữ gìn.

Pháo đã ngớt, rồi dứt hẳn. Xóm nhỏ vắng lặng. Chúng tôi nhích xa nhau một chút. Nhưng càng nghe rõ hơn cái tiếng bồi hồi trong ngực. Càng đâm sợ. Nàng bỗng bảo tôi :

- Anh hát đi anh. Hôm qua trong bãi bói có lúc em nghe thấy anh hát bài gì hay dễ sợ.

- Ừ, anh hát nhé !

“Chiều dần buông mờ tím… – tôi khe khẽ hát cho nàng nghe một bài tình ca Nga mà thời sinh viên tôi rất thích, bài hát về cây thùy dương.

- Hay ghê há !  - nàng ríu rít khi tôi vừa hát xong.

Tôi kể cho nàng nghe cất chuyện cuốn phim Liên Xô trong đó có bài hát tôi vừa hát, chuyện về một mối tình tan vỡ bởi chiến tranh và sự phản bội. Nàng gục đầu vào đối cánh tay khoanh trên đầu gối. Một tiếng thở dài cố nén, rất mơ hồ nhưng vẫn là một tiếng thở dài.

- Em sao thế ?

- Em đâu có sao… – giọng nàng khao khao, cái chất giọng thấm những giọt nước mắt chảy vào bên trong.

Tôi bảo :

- Em cũng hát cho anh nghe một bài gì đi, bài mà em thích hồi em còn bé ấy.

- Em không biết hát – giọng nàng đã hơi bình thường trở lại – Em chỉ nhớ mấy câu vè mẹ ru em hồi em còn bé.

- Ừ, vè hay đấy, đọc cho anh nghe đi.

Nàng đọc, giọng nàng bỗng hồn nhiên thơ trẻ. Những câu vè lần đầu tiên tôi

được biết :

Trời mưa lâm thâm

Cây trâm có trái

Con gái có duyên

Đồng tiền có lỗ. . .

Nàng bụm miệng cười hợ hợ.

- Gì nữa ?

- Em quên mất, chỉ nhớ được chừng đó.

- Hay nhỉ, cây trâm là cây gì em?

- Cây trâm là cây trâm…

- Trả lời thế mà cũng là trả lời…

- Thì em biết nói thế nào nào ? Để em bay về quê bứng cây trâm tới đây cho anh thấy nghen. Cây trâm ở quê em mọc đầy, nhưng em chẳng biết kể sao cho anh hình dung được.

- Hay nhỉ, “cây trâm có trái, con gái có duyên…” có duyên như em ấy nhỉ ?

- Thôi đi, em mà có duyên !…

- Còn hơn cả có duyên nữa cơ !

- "Nữa cơ…ơ…….” nàng nhại lại tôi bằng giọng miền Bắc. Không thể nào tả được cái dễ thương khi các cô gái miền Trung nói nhại giọng miền Bắc.

Chúng tôi lại ngồi sát bên nhau lúc nào không hay. Rồi chợt nhận ra cái tình trạng đáng ngại, nàng vội lui ra ngồi nép đằng góc hầm. Tôi bảo :

- Em lên võng nằm đi.

Hầm chật, tôi mắc chiếc võng sát nóc hầm để tránh việc hai đứa nằm kề nhau dưới tấm ván đáy hầm.

Nàng ngoan ngoãn lên võng. Tôi nằm duỗi dài bên dưới.

- Đừng có đái dầm đấy nhé !

- Hứ ! …

Tôi đùa thế, vì vừa nhớ lại cái lần vào dạo đầu năm bên Gò Nổi. Trong một căn hầm ở trạm giao liên chật ních võng của các người đã tới trước, tôi rúc xuống nằm dưới đáy hầm, mũi gần chạm đít một cô gái nằm võng bên trên. Giữa giấc ngủ ngon vì mệt rã rời sau một ngày cuốc bộ, tôi chiêm bao thấy mình bơi qua sông bị chuột rút chìm nghỉm và nghẹt nước. Choàng tỉnh, thấy nước đầm đìa cả mặt mũi. Một thứ nước âm ấm khai khai. Hoá ra chỉ chiêm bao một nửa, một nửa là thật : cô nàng bên trên đái dầm. Chắc là một cô bé mới vào tuổi chớm lớn nằm mê thấy mình đi đái ở bờ giậu và đái luôn.

Cô ta vẫn ngủ say li bì. Vừa bực, vừa tức cười, vừa thương quá. Để cô ta khỏi mắc cỡ, tôi nín thinh kéo tấm dù lau mặt rồi ngủ tiếp.

Tôi kể với nàng cái kỷ niệm độc đáo hiếm có ấy. Nàng rúc rích cười mãi không thôi.

Chúng tôi nói với nhau đủ thứ chuyện tầm phào, và cả những chuyện nghiêm trang, những chuyện nhắc nhở đến gánh nặng của nhiệm vụ, để cố đẩy lùi những khao khát Nhưng niềm khao khát thật ngoan cố, nó cứ tạm lui từng lúc rồi từng lúc lại trào lên. Không hiểu do tôi hay do nàng mà mấy lần chúng tôi lại ở bên nhau rồi lại sợ hãi tách khỏi nhau. Cuộc giằng co nội tâm vô cùng trầy trật. Cũng may, khi tôi mềm yếu thì nàng lại cứng còi, khi nàng mềm yếu thì tôi lại cứng cỏi.

Đêm thứ ba thì một chuyện bất ngờ xảy đến giải thoát chúng tôi.

Buổi tối, tôi vừa ở dưới sông lên, đang đi giữa bãi thì đột nhiên có gì đó khiến tôi thoáng giật mình đứng sựng lại. Cách tôi độ ba hơn chục mét, men theo dọc sông từ phía thượng lưu đi xuống, một bóng người đang xăm xăm sải bước. Tôi chờ thêm vài phút xem đằng sau còn ai nữa không. Không thấy. Chỉ có một người thôi, bước nhanh thoăn thoắt mà rất đĩnh đạc và tự tin. Đầu không đội mũ, to sù. Quần dài sắn tới bắp vế. Thắt lưng đầy lựu đạn. Trên vai, bên thì khẩu AK báng gập, bên thì khẩu cối cá nhân M79 với dây đạn lúc nhúc quàng chéo trước ngực. Trang bị ngon lành như của một đơn vị đặc biệt. Rõ ràng không phải địch. Chỉ có anh em mình mới dám đi một mình giữa vùng này như vậy. Người ấy có vẻ không định rẽ vào xóm mà cứ xăm xăm thẳng hướng ven sông đi xuôi tiếp. Vi mừng quá, và vì sợ người ấy đi vuột mất nên tôi run cả giọng, khẽ gọi :

- Đồng chí, đồng chí gì ơi !

Người ấy dừng lại ngó quanh, ánh đèn dù bên Gò Nổi hắt sang cho tôi nhận rõ trên đầu người ấy là một chiếc khăn mặt bông sẫm màu quấn quanh, cột nút trước trán. Cái nét này sao trông quen quá quắt. Lại bộ râu cằm để dài nữa kìa.

Một ông già. Một ông gia vũ trang cùng mình. Thôi chết, người quen thật, còn ai vào đây được nữa. Tôi quính quíu, vừa lắp bắp gọi vừa chạy tới bên ông :

- Chú Tư ! Cháu đây, Vũ đây !

- Ủa, Vũ thành đội hử, sao lại ở đây?

Tôi kéo ông ngồi xuống đám cỏ trên bãi, bên một bụi cây, và vắn tắt thuật lại với ông hoàn cảnh hiện tại của mình.

- Chú đi đâu bây giờ ?

- Chừ về nhà chứ đi đâu.

- Nó càn tùm lum vậy, chú nắm được đường sá ra sao mà đi ghê vậy?

- Nó càn đường nó, mình đi đường mình, mắc mớ chi – ông đưa tay vuốt râu, giọng tưng tửng, nhuốm chút kiêu căng, như hồi giờ vẫn thế. Ông là người có quyền tự kiêu một chút mà không làm ai khó chịu, trái lại, mọi người như mặc nhiên thừa nhận cái quyền ấy ở ông.

- Chú mới đi đâu về ?

- A, tao đưa ông Ba Phước lên núi.

Giọng ông không giấu nổi hãnh diện. Phải, không hãnh diện sao được khi có thể đưa đường cho bí thư tỉnh ủy giữa cảnh Mỹ đổ quân tùm lum ràng rịt tứ bề thế này.

- Giao liên của tỉnh ủy đâu mà chú phải đưa đường cho ông Ba ?

- Thì tụi giao liên bí hết ngõ mới phải tìm đến Tư này chớ – ông cười nhẹ

- Tư này luôn có cách mà…

Ông cho tôi biết tình hình địch mà ông nắm được, và cách đi của ông.

- Chú Tư này, giờ cháu cần về bên Hòn Tàu, đi đường nào được ?

- Đi với tao, về chỗ tao, ở đó nghỉ ngơi, tối mai tao chỉ đường cho đi. Tao biết mi rúc bãi bói cả tuần nay chắc đói nhăn răng chớ gì ?

Tôi cười :

- Cũng chưa đến nỗi nhăn răng, nhưng thú thật là đầu gối bắt đầu có hơi lỏng. May quá gặp chú, nếu không quả là nhăn răng thật.

Ông già tháo chiếc gùi nhỏ may bằng vải bạt Mỹ đeo sau lưng, mở gùi lấy đưa cho tôi một hộp sắt tròn, bảo, bằng cái giọng trịnh trọng mà tưng tửng :

- Giữa đường giữa sá không có chi, mời đồng chí dùng tạm.

Về khoản chiến lợi phẩm, từ súng đạn đến đồ hộp, ông luôn thuộc vào “tầng lớp trên” trong vùng.

Tôi cầm cái hộp soi dưới ánh đèn dù :

- Bl hả chú ?

- Ừ, B1 .

Loại hộp dạng ký hiệu Bl này là thứ rất ngon của quân Mỹ. ông Tư móc chiếc mở hộp dính chùm với chiếc bật lửa Gíp-pô và cây xỏ dép gài bên thắt lưng, giục tôi :

- Ăn đi rồi di.

- Tụi cháu còn một người nữa, một cán bộ nữ.

- Đâu rồi ?

Tôi đưa ông già lại chỗ căn hầm trong xóm. Rất nhạy cảm, ông biết ngay H là cán bộ loại gì, nên không hỏi những câu không cần thiết gây lúng túng cho chúng tôi.

Cái ông già Tư này là một kiểu người lạ lắm. Trong suốt cuộc kháng chiến, tôi đi cũng nhiều, gặp cũng nhiều, nhưng hiện tượng độc đáo như ông thì chỉ có một. Ông không phải bộ đội, dĩ nhiên rồi, nhưng cũng chẳng phải du kích. Nói cho chính xác thì ông là một du kích quân độc lập, không thuộc biên chế của đơn vị nào. Ban đầu ông chỉ là một người dân trụ bám trên vườn đất nhà mình, mảnh vườn nằm áp dưới chân con đường sắt bắc nam cắt ngang vùng Gò Nổi. Bao nhiêu năm bom pháo, thuốc khai quang, cày ủi cho đến bao nhiêu bận Mỹ đổ quân xuống xốc nách từng người dân lên máy bay trực thăng chở đi đổ vào khu dồn Cầu Mống, vẫn không đánh bật được ông ra khỏi mảnh đất tổ tiên để lại. Ông đào một căn hầm khoét sâu vào lòng đường sắt chống bằng những thanh ray và tà vẹt. “Hầm tao còn ngon hơn cả hầm tư lệnh Mặt trận Bốn” – ông thường khoe vậy nửa đùa nửa thật với cánh du kích,bộ đội những lúc họ cơ nhỡ trên đường công tác đến ở nhờ chỗ ông. Có mấy tổ đặc công thuộc lực lượng Quân Khu đã từng về trú tại hầm ông cả mấy tháng để đêm đêm đi làm nhiệm vụ. Ông lượm pháo lép của bọn Mỹ bắn ra đem về cải tiến và gài quanh nhà thành một bãi mìn. Cách cải tiến thì ông học rất nhanh từ cánh quân giới huyện đội và trả công họ cung bằng pháo lép, đương nhiên là rất hậu hĩnh. Hàng trung đội Mỹ đã bỏ xác trên cái bãi mìn khủng khiếp ấy, chiến lợi phẩm ông thu cả mớ, dùng không hết đem cho bớt hoặc đem đổi kíp nổ. Vũ khí của ông đều là do ông tự tr! ang bị bằng chiến lợi phẩm. Riêng khẩu AK báng gập là tặng phẩm của Tư lệnh Mặt trận Bốn gửi tặng vì thành tích một trận chống càn ông đã hiệp đồng rất đẹp với du kích và bộ đội, vừa diệt được địch vừa bào vệ được thương binh của một đơn vị đặc công đang nằm tại nhà ông, sau đó ngay trong đêm ông còn tìm được đường lách khỏi vòng vây của bọn Mỹ đưa hết thương binh ra an toàn. Cái tài đặc biệt của ông là tài luồn lách, dù bọn Mỹ có đổ quân ràng rịt thế nào ông cũng cứ tìm được đường lách khỏi chúng và nhiều khi quật lại chúng từ phía sau. Quật rất nhanh và lủi rất nhanh. Giỏi chui rúc và rình mò như bọn Mỹ lết cũng không tránh khỏi nếm đòn của ông. Bao giờ ông cũng phát hiện ra chúng trước và chủ động ra đòn trước.

"Mình đóng chung với Mỹ ” – ông bảo thế mỗi khi có ai hỏi thăm với hàm ý lo lắng, bởi Mỹ lết như rươi giữa Gò Nổi đã biến thành bãi bói hoang vu. “Nó có lết cách sao thì cũng không thể rành đất mình bằng mình được" – ông giải thích.

Tôi quen ông trong một chuyến công tác từ hậu cứ ra cơ quan phía trước của thành đội, giữa đường gặp Mỹ bất ngờ đổ quân càn quét, phải tấp vào tá túc chỗ ông, cùng ông chống càn. Ngay ngày đầu ông đã tỏ ra thương quý tôi, vì thấy tôi chiến đấu ngon lành, vì tôi là con em miền Bắc, lại là dân Hà Nội. Những hôm tình hình địch bớt căng, hai chú cháu nằm trong hầm, ông lấy đồ hộp Mỹ đãi tôi ăn cho đến phát ngán và bắt tôi kể chuyện miền Bắc, chuyện hợp tác xã, chuyện nhà máy công trường, chuyện các loại vũ khí Liên Xô, Trung Quốc giúp ta. ông hỏi rất kỹ về hợp tác xã, mơ tưởng một ngày sẽ xây dựng hợp tác xã trên đất Gò Nổi, rồi hỏi thăm sức khỏe “trung ương mình”, “Bác Hồ mình”.

- Trung ương mình tài thiệt, tài thiệt !… – ông lẩm bẩm, hít hà – Bác Hồ mình là hàng lãnh tụ thế giới chớ không phải chỉ là lãnh tụ riêng Việt Nam đâu…

Ông hỏi xin tôi một tấm ảnh Bác Hồ. Nhưng tôi chỉ có mỗi một tấm Bác chụp chung với cả gia đình tôi lần Bác tới thăm đêm ba mươi Tết. Tôi đưa cho ông coi, ông cứ khẩn khoản nài nỉ mãi.

Nghĩ rằng ở nhà mỗi người đều có một tấm ảnh này, vả lại ở phủ chủ tịch thế nào cũng giữ ảnh lưu nên tôi biếu ông luôn. Ông thích lắm, ngồi săm soi ngắm Bác Hồ trong ảnh rất lâu. trong ảnh này Bác thoái mái, gần gũi hơn ảnh chân dung thường in trên báo, trên lịch. Rồi ông cứ nhìn tôi hoài và thắc mắc tại sao tôi lại đi vào đây, vào cái chốn tơi bời lửa đạn thập tử nhất sinh này. Theo cách nghĩ của ông, thì con cái một gia đinh như gia đình tôi mà lại cầm súng xông pha ở đây là sự khác thường. Tôi bảo ông :

- Cháu cũng như các con chú thôi. Như chú đây sáu mươi tuổi rồi mà chú vẫn còn cầm súng đánh Mỹ, huống hồ trai trẻ như tụi cháu.

Ông không đáp, chỉ nhìn tôi trìu mến.

Ông có ba bà vợ, mười một đứa con. Bảy đứa lớn, gồm bốn đứa con trai và ba đứa con gái đều tham gia lực lượng Giải Phóng. Ba bà vợ cùng bốn đứa con nhỏ thì ở Đà Nẵng, buôn gánh bán bưng thôi nhưng cũng có đồng vào đồng ra đủ nuôi con và thỉnh thoảng tiếp tế cho ông.

Theo người ta kể thì ông rất đào hoa, cả ba ba đều mê ông như điếu đổ và sống với nhau hoa thuận. Tên ông là Lùng. ông Tư Lùng, nhưng máy cậu du kích xí xớn cứ hay gọi ông là Bốn Lùng (1) để chọc chơi. Ông không giận không la, trái lại con khoái nữa, mỗi khi nghe vậy lại vuốt râu tủm tỉm cười. Mấy thăng ôn con càng chọc già : “Chú Bốn, mình chú mà búng tới ba bà, coi cả cái huyện Điện Bàn này ai bằng chú nào. Mà chú phải búng thêm bà nữa cho đủ bốn chớ ?”.

Ông cười khà, vuốt râu: Nếu thích thì tao búng cả dây nữa cũng được, chớ đâu chỉ có bốn”. Giá trẻ cười vang cả hầm mặc cho bên ngoài pháo Mỹ vẫn nổ ầm oành chỗ này chỗ nọ.

Đêm nay, đang giữa cơn bĩ cực, tình cờ tôi gặp được ông, thật hên.

(1) “Nguời Quảng Nam ưa nói lái cho thêm vui đời. "Bốn Lùng” nói lái thành “Búng L.

-Thôi. ta đi hè?

Ông Tư giục khi thấy tôi và H đã ăn xong hộp B1 và mấy củ dong.

- Dạ, ta đi. chú Tư.

Tôi đứng dậy, xốc dây lưng, quàng súng vào vai. ông Tư bỗng cúi xuống tụt đôi dép râu, rút quai ngắn lại đưa cho H. vì ông vừa nhận ra rằng nàng xách đôi dép Xa-bô trên tay.

- Cháu mang đôi dép này vô, cứ mang đi mà, đừng có ngại chi hết, chú đi chân đất quen rồi.

H mang dép vào chân.

Ông Tư đi trước, H đi giữa, tôi đi cuối. Chúng tôi theo con đường mòn trong xóm, đi xuôi chiều dòng sông, ra hết xóm một quãng thì gặp con đường từ dưới bãi lên. Từ đây là đoạn sông lở. bờ sông dựng đứng, đi một đỗi xa nữa lại tới đoạn sông bồi, lại quặt xuống bãi.

Giữa bãi lù lù một khối gì rất lớn hình thù quát dị, đến gần mới hay đó là một cái cây. Một cái cây khổng lồ, một cái cây cổ thụ, nhưng không còn sống nữa, trơ cành trụi vỏ, nằm chinh ình dọc bãi sông, gốc cây to băng cả gian nhà, bộ rễ khô tức tối đâm tua tủa vào nền trời đêm. Bước chân tôi khựng lại như bị ai phạt ngang. Cây Sợp! Cây Sợp Điện Hồng! Chính nó đây. Vậy đó, bom pháo và xe ủi Mỹ cũng với nước lũ hè nhau đánh gục nó đẩy nó xuống sông, cuộc sống trăm tuổi nghìn tuổi của nó đã bị hủy diệt đau đớn thế này đây.

Tôi đứng lặng bên cây sộp mấy phút rồi mới lúc thúc chạy theo ông Tư. Chúng tôi về tới hầm ông Tư vào khoảng quá nửa đêm. Tối hôm sau, đích thân ông Tư đưa chúng tôi vượt đường vào tới giáp vùng chân núi Hòn Tàu an toàn rồi mới quay về. Trong cái ngày lưu lại chỗ ông, chúng tôi đã được ông chăm sóc chu đáo như chăm con. Chúng tôi được ăn cơm nóng với canh ổ qua nấu cá hộp. ông cắt và xâu cho H một đôi dép râu vừa chân để đi lên núi (ông luôn có các miếng lốp xe và dây cao su dự trữ sẵn). Ông còn trang bị cho nàng một chiếc võng, một tấm dù hoa, nhét vào chiếc túi vốn là loại túi bọn Mỹ dùng đựng mìn Clây-mo, đeo chéo bên người rất gọn. Ông cho tôi một chiếc gùi bằng vải bạt và nịch vào đó đầy ứ các loại đồ hộp Mỹ để lên núi có cái ăn : “Trên nớ chầu rầy chỉ có sáng mì* trưa sắn tối khoai xiêm*, tao biết – Ông nói.

Về tới căn cứ dự phòng của thành đội ờ Hòn Tàu, chúng tôi mới biết thằng Tiếu trưởng ban tổ chức thành ủy đi đầu hàng địch. Chính hắn đã dẫn địch tiến hành cuộc càn trắng khốc liệt vừa rồi. Tổn thất của ta thật nặng nề. Đồng chí thành đội trưởng cùng năm đồng chí cán bộ, hai chiến sĩ bảo vệ và một chiến sĩ giao liên (cháu Sinh) hy sinh. Xóm Đồng bị xoá sổ, chỉ còn là một bãi đất ủi.

* Tiếng Quảng Nam : “mì”, “khoai xiêm” đều là sắn.

Dân xóm một số chết và bị thương vì bom pháo, số còn lại bị địch xúc hết lên máy bay trực thăng đổ vào khu dân Cầu Mống. Anh chị em trong cơ quan ai cũng đinh ninh tôi và H đã chết. Cái hầm bí mật chúng tôi núp đêm ấy ngay sáng hôm sau đã bị xe ủi chà sập. Người được trên chỉ định làm quyền thành đội trưởng là đồng chí Cao Lăng. lâu nay là thành đôi phó phụ trách bảo vệ và hậu cần, ông thường đứng ở hậu cứ nhiều hơn đứng ở phía trước nên tôi ít gặp.

Tôi không ưa ông lắm- Tự nhiên thế thôi. Có lẽ tại ông có bộ mặt lúc nào cũng lầm lầm, lạnh lạnh đầy vẻ quan trọng.

H được bí mật đưa ngay xuống một cơ sở dưới vùng tranh chấp. Tại đó nàng được bồi dưỡng cho lại sức rồi trở vào Đà Nẵng tiếp tục hoạt động. Còn tôi được cử đi xây dựng một vùng bàn đạp mới. Vừa bắt tay vàn việc chưa được bao nhiêu thì chẳng may tôi bị thương vì pháo – Tôi phải về phía sau điều trị, giữ rẫy sản xuất một thời gian, rồi xuống đứng ở bộ phận công tác cánh đông. Trên bàn đạp cánh đông, chúng tôi vẫn thường xuyên đón tiếp các đồng chí trong nội thành ra làm việc, nhưng tuyệt nhiên không thấy H. Chỉ những khi nghe tin trên đài về một trận đánh ở Đà Nẵng, tôi mới mang máng đoán rằng đó là chiến công của H. và cảm như vừa thoáng gập được nàng.

Mãi đến gần sát chiến dịch hè năm 1972, tôi mới gặp lại H tại mộ xóm nhỏ bên bờ sông La Thọ. Lúc ấy tôi vừa từ cánh đông lên, và H lại sắp phải trở vào thành phố sau một lớp ngắn ngày học về tình hình và nhiệm vu mới.

Tôi lựa lúc đưa tiễn H để có thể đi riêng với nàng một quãng. Chúng tôi cùng chậm bước và dừng lại bên nhau. Tôi muốn nói với nàng cãi điều bấy lâu hằng ấp ủ trong lòng nhưng không sao cất được nên lời. chỉ lắp bắp:

- Em.– Em–.! Anh-..

Chúng tôi nhìn nhau, tay trong tay. Mắt nàng bỗng dưng ứa lệ và nàng khẽ bật lên tiếng nức nở cố kìm nén mà không nổi. Tôi đặt tay lên vai nàng, nhẹ kéo nàng về phía mình. Nàng không cưỡng lại. Tôi ấp đầu nàng vào ngực mình, tìm môi nàng, đôi môi đăm nước mắt, hình như môi chúng tôi thoáng chạm nhau, nhưng chính giây phút ấy nàng như bất thần sực tỉnh, rũ mình khói cơn say vừa dâng, nàng đẩy nhẹ tôi ra, nhìn tôi một cái nhìn khác lạ, miệng thì thào, giọng khản đi: “Thôi, em đi nghen, anh Hai”, rồi quay ngoắt chạy theo cô giao liên đã lên tiếng giục từ nãy.

Tôi bàng hoàng đứng nhìn theo nàng khuất dần trong đêm, lòng rối bời. Mùa hè năm đó tôi được điều về một sư đoàn chủ lực.

V

Sau ngày giải phóng Đà Năng, tôi bắt đầu đi tìm H mỗi khi có dịp, tuy những dịp đó rất hiếm. Nhưng giữa cái thành phố đầy ứ các sắc lính nguy rã ngũ tại chỗ cùng dân di tản từ Quảng Trị Thừa Thiên kẻo vào và từ Quảng Ngãi Tam Kỳ kéo ra, giữa bao nhiêu công việc phức tạp chồng chất của thời kỳ quân quản chẳng thể tìm nổi một người có thể biết một cô H một cô Ba nào đó hiện giờ đang ở dâu. Các đồng chí lãnh đạo chủ chốt cũ của thành đội, người hy sinh, người thì bị địch bắt được trao trả đang còn ở ngoài Bắc hoặc trong Nam, người đi học dài hạn tận Liên Xô, người đi chữa bệnh tận Trung Quốc. Các đồng chí mới thì chỉ biết láng máng. Khi tôi nhắc tới các trận đánh tiêu biểu của H, người ta nhớ rất rõ về trận đánh nhưng không biết gì về “đồng chí H” hoặc “đồng chí Ba”. Có vài người mách tôi thử tìm đến cơ quan X, đơn vị Y. ‘”Hình như con Ba đã chuyển về đó “- họ bảo tôi thế. Tôi lao đi ngay. Đến đâu tôi cũng gặp nơi thì một cái lắc đầu, nơi thì một cô Ba hoặc chị Ba nhưng không phải người mà tôi tìm, nghĩa là không phải H.

Rồi tôi theo sư đoàn tiếp tục tiến quân vào giải phóng Sài Gòn, làm công tác quân quản tại đó. Tiếp đến đơn vị tôi ra miền Đông Nam Bộ truy quét tàn binh địch rồi chuyển sang làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Thời gian này tôi nghỉ phép chuyến đầu tiên sau bao năm chiến dấu. Tôi về Hà Nội ít ngày rồi quay vào Đà Nẵng hơn ba tuần để tìm H nhưng cũng không kết quả gì. Tôi thẫn thờ khoác ba lô ra đi, nghĩ rằng có thể H bị bắt, bị địch thủ tiêu trong tù, hoặc cũng có thể nàng được ra Bắc học hay đi chữa bệnh ở nước ngoài. Dầu sao mặc lòng, tôi vẫn quyết định tìm lại H bằng được mới thôi.

Chuyến nghỉ phép năm sau, tôi định dành trọn vẹn để về Đà Nẵng nhưng lúc sửa soạn đi thì đột ngột có lệnh ngừng giải quyết phép: cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam đã nổ ra, hoàn toàn trong vòng bí mật, sư đoàn tôi lặng lẽ bước vào chiến đấu. Lúc này nhân dân cả nước chưa hề biết bộ đội của mình lại tiếp tục đó máu.

Một lần, từ mặt trận biên giới Tây Ninh về thành phố Hồ Chí Minh họp, tinh cờ trong nhà ăn của trạm khách Bộ quốc phòng, tôi ngồi cùng bàn với một trung tá ở Quân khu 5 vào. Trò chuyện bâng quơ, nghe nói anh trước kia có ở Mặt Trận Bốn, tôi lân la hỏi thăm về H, cũng là hỏi cầu may thôi, vì Mặt trận Bốn biết bao nhiêu là người, dễ gì anh biết về một con người hoạt động bí mật.

- Trầm ! Nó là con Trầm ! – Anh bỗng thốt lên chắc nịch sau khi nghe tôi phác hoạ đôi nét về H.

- Trầm ? Thật không anh ? Anh biết cô ấy thật chứ ? Đúng là cô H biệt động

thành chứ ? Toi sững sờ hỏi lại dồn dập.

Anh vỗ vai tôi nháy mắt cười thân mật :

- Câu yêu nó phải không ? Nó đúng là cô biệt động thành cậu đang hỏi đấy, hồi ở nhà nó tên là Trầm. Mình người cùng xóm với nó mà. Mình biết nó từ hồi nó còn bé xíu. Hồi nhỏ nó cực lắm. Nó ở với bà ngoại. Bà cụ có hồi phải đi ăn xin…

Tôi không hỏi được gì thêm nữa về Trầm. Hội nghị đã kết thúc và chúng tôi chia tay ngay sau bữa ăn trưa đó. May sao tôi còn kịp nhờ đồng chí trung tá ghi cho cái địa chỉ của Trầm, cũng khá chung chung : Sở X – Đà Nẵng.

Ở mặt trận Tây Nam, dù chiến đấu rất căng thẳng, tôi cũng tranh thủ viết liền mấy lá thư cho Trầm. Nhưng tuyệt nhiên tôi không nhận được của Trầm một lá thư nào. Như vậy hoặc là thư đã thất lạc hết, hoặc lại có sự nhầm lẫn :

cô Trầm và cô H là hai con người khác nhau.

Sau chiến dịch phản công giải phóng Phnôm Pênh và hai chiến dịch truy quét liên tiếp, tôi được nghỉ phép. Tôi về thẳng Đà Nẵng chứ không về Hà Nội, tìm đến sở X. Cậu thường trực cơ quan còn trẻ, có bộ mặt vốn luôn khinh khỉnh lạnh như tiền, khi nghe tôi hỏi đến cô Trầm, càng trở nên khó coi. Cậu ta buông một câu cộc lốc, sống sượng :

- Trầm hử ? Trầm luôn rồi.

Thái độ cậu ta cho thấy hoàn toàn không phải là một câu nói đùa. Tôi hoảng:

- Thế là sao ạ ?

- Trầm luôn rồi. Bị đuổi rồi.

- Sao kia ạ ? Tôi sửng sốt, không tin ở điều mình vừa nghe. Có lẽ đây là một cô Trầm nào đó chứ không phải H của tôi

Để giữ bình tĩnh. tôi rút bao Xa-mít sang trọng mời cậu thường trực và châm cho mình một điếu.

- Anh có biết nhà riêng chị Trâm ở đâu làm ơn chỉ giùm ?

Nhờ sự hướng dẫn đầy vẻ ban ơn của gã thường trực thô lỗ, hỏi thăm vòng vo qua mấy cô nhân viên ở Sở, tôi mới có được trong tay cái địa chỉ nơi ở của Trầm. Mấy cô nhân viên cứ nhìn tôi bằng cặp mắt xoi mói rất khó chịu. Trên đường tìm đến địa chỉ nọ, tôi vẫn hy vọng cái cô Trầm nào đó bị đuổi việc mà tôi sắp gặp với H của tôi là hai người khác nhau, mặc dù trước kia qua sự khẳng định của đông chí trung tá cùng quê với H, tôi đã gần như tin chắc hai người ấy chỉ là một.

Tới địa chỉ nọ, một chung cư hai tầng, hòi thăm người hàng xóm, tôi được biết đúng là có một chị Trầm ở đây, nhưng chị ta đi làm chưa về. “Thường chị ấy đi đón con, đi chợ rồi mới về ” – người hàng xóm cho biết thêm.

Đón con ! Tôi thầm băn khoăn. Nếu vậy thì Trầm không phải là H. Rồi tôi lại thấy ngay là mình vô lý. Bảy năm đã trôi qua, tại sao H không có quyền lấy chồng, có con ? Mà giữa chúng tôi nào đã có gì gọi là hẹn ước cùng nhau?

Tôi đứng tần ngần một lát trước ngôi chung cư rồi lững thững ra đầu phố mua thuốc hút. Bỗng tôi thoáng thấy bên kia đường một người phụ nữ đạp xe vội vã về phía ngã tư rồi ngoặt sang một phố khác. Khi chị ta vòng xe ở ngã tư, dù trời đã chạng vạng tối, nhưng nhờ ánh đèn đường vừa bật, tôi nhìn rất rõ.

Người đó chính là H. Phải, người đó chính là H, nghĩa là H và Trầm chỉ là một người. Đằng sau xe, Trầm đèo một đứa bé gái chừng bốn năm tuổi. Tôi muốn cất tiếng gọi nhưng cổ tôi tắc nghẹn.

Thế là Trầm đã lấy chồng, đã có con thật rồi. Người tôi như rơi tõm vào khoảng không, tôi chới với, cảm thấy ngay thân xác mình cũng không thật nữa, chỉ cỏn một cái gì đó cứ xoáy mãi xoáy mãi vào tim, đau buốt kinh khủng.

Tôi đi thẳng ra ga.

Không nên khuấy động hạnh phúc của người ta làm gì. Không nên, không nên, không nên. Bao lần tôi tự nhủ mình như vậy khi ngồi trong cái nhà ga hôi hám chật ních người. Nhưng bao câu hỏi lại dồn dập trỗi lên. Vì sao Trầm bị đuổi việc ? Trầm đã mắc lỗi gì ? Có thể Trầm đang gặp cơn hoạn nạn thì sao ? Tôi rời nhà ga, đi lang thang trong các phố, đầu óc xáo động. Loanh quanh một hôi, tôi lại thấy mình bước vào căn phố nhỏ Trầm ở.

Trầm vẫn chưa về. Tôi quyết định chờ Trâm. Đứng trước sân một lát, thấy bất tiện quá, tôi xách ba lô qua chỗ gốc cây mé đường đối diện, ngồi hút thuốc trong bóng tối, mắt chăm chăm dõi sang phía bên kia, chỉ sợ Trâm xuất hiện mà tôi lại để vuột mất nàng. Từng phút trôi qua chậm chạp. Không biết tôi đã hút hết bao nhiêu điếu thuốc, đã nghĩ ngợi những gì, có lẽ tôi đã nghĩ lung tung đủ chuyện, nhưng chung qui lòng tôi chỉ cháy bỏng có một nỗi khát khao đến điên dại là làm sao gặp được Trầm, để nói với Trầm một lời…

Rồi thì cuối cùng Trâm cũng xuất hiện, khi ngoài phố lớn đã vắng tanh. Còn trong căn phố nhỏ Trầm ở nhiêu nhà đã tắt đèn. Tôi nhận ra ngay cái dáng quen thuộc của Trâm, đang đạp xe tất tưởi thương vô cùng. Trầm đèo đứa con gái nhỏ, nó đã ngủ, đầu gục vào lưng mẹ, một tay Trâm nắm ghi đông, một tay quài ra sau đỡ lấy nách con. Trâm từ từ dừng xe một cách vất vả, vẫn phải vừa xốc cho con khỏi ngã, vừa dắt xe vào sân.

Tôi líu quíu tiến lại bên Trầm. khẽ gọi:

- Trầm !

Không biết Trâm có nhận ra tôi ngay hay không, nhưng Trầm hơi sững sờ, mắt mờ to, vẫn cặp mặt mênh mông ấy, chớp chớp, rồi Trầm bỗng thốt lên khe khẽ :

- Anh !…

Tôi đưa tay đỡ lấy con Trầm, giúp Trầm dắt xe. Hình như Trầm suýt buông rơi cả con lẫn xe. Vai vẫn đeo ba lô, để chiếc xe tựa vào mình, tôi ôm con bé lên, nó vẫn ngủ say trong vòng tay tôi. Tôi hỏi Trầm :

- Anh tới lúc khuya thế này, có gì phiền phức không ?

Trầm như sực tỉnh cơn mơ :

- Không sao đâu anh. Anh vô nhà đi.

Tôi hơi yên bụng nghe Trầm bảo vậy, tuy vẫn lo lo mình sẽ làm rầy rà cho Trầm trước người chồng của nàng khi xuất hiện vào một giờ khuya khoắt thế này. Tôi ôm con bé bước theo Trầm qua mảnh sân nhỏ nhớp nhúa, vào một hành lang tối om. Được một đoạn, nghe Trầm nhắc :

- Cầu thang đó anh. Mình lên lâu.

Trầm vác xe lên trước, tôi dò dẫm từng bậc thang lên theo. Cái hành lang và cái cầu thang tối om bốc ra một thứ mùi hôi hoai nồng nặc chỉ riêng có ở các loại chung cư của các gia đình nghèo.

Trầm dựng xe trước phòng, lạch cạch mở cửa lần mò một lát mới bật được đèn.

Tôi do dự vài giây rồi bước vào với ý nghĩ liều lĩnh là mặc người chồng của Trầm có thể hiểu xấu và xúc phạm mình. Nhưng trong phòng không có ai cả mới chợt nhớ vữa rồi Trầm đã mở khoá từ bên ngoài, mình đã lo sợ vẩn vơ. Tôi yên tâm đặt con bé xuống chiếc giường duy nhất trong phòng, đưa mắt nhìn quanh một lượt. Căn phòng chật hẹp, đồ đạc sơ sài, nhưng ngăn nắp, sạch sẽ và có thể thấy ngay sự thiếu vắng của bàn tay dàn ông. Cái bóng đèn với dây dẫn lòng thòng treo lủng lẳng trên cọc màn, công-tắc long khỏi tường còn lắc lư sau khi Trầm bật đèn.

- Kìa, anh bỏ ba lô ra chứ. Anh ngồi xuống đây.

Tôi thả ba lô, ngồi xuống trên chiếc bàn gỗ thâm thấp tróc sơn, dùng làm bàn tiếp khách và chắc cũng dùng làm bàn ăn. Trầm đem ba lô của tôi đặt lên chiếc ghế kê vào giáp tường.

- Chú ấy đi đâu ?

Tôi hỏi với kiểu cách một người anh hỏi thăm về người chồng của cô em họ.

Trầm nhìn tôi lắc đầu, gương mặt thoáng một nét vừa khổ sở vừa cứng cỏi, và nhếch cười chua chát :

- Ba nó… coi như không có.

- Sao vậy em ? – tôi hỏi với vẻ lo lắng, nhưng trong lòng bỗng thấy dễ chịu.

- Chuyện mệt lắm anh – Trầm khẽ đáp, và đột ngột chuyển hướng câu chuyện – Bây giờ anh đi rửa mặt nghen ? Hay anh đi tắm nghen ?

- Ừ, anh muốn tắm một chút. Suốt ngày hôm nay lang thang khắp thành phố, người bẩn quá .

Tôi đáp trong cảm giác lâng lâng tiếp nhận sự chăm sóc của Trầm – cái hạnh

phúc nhỏ nhoi và dung dị của một đời sống vợ chồng bình thường, nhưng với cuộc đời trận mạc triền miên của tôi lại là vô giá.

Trầm đem khăn, chậu và xà phòng đưa tôi tới gian buồng tắm ở cùng tầng chỗ gần cầu thang, chỉ dẫn cho tôi cẩn thận về đặc điểm cái vòi nước. “Vặn vào thì tắt mà vặn ra quá cũng tắt” .

Khi tôi trở lại phòng thì không thấy Trầm đâu, trên bàn có một đĩa trứng vịt lộn và một đĩa rau răm với muối tiêu.

Tôi đứng lặng giữa phòng. Đây, bao năm nay Trầm đã ở đây. Cái không gian nhỏ xíu này bao năm nay đã bao bọc nàng, thấm đẫm hơi hướng nàng. Tôi bước đến bên chiếc áo cũ của Trầm treo trên mắc, và kìm lòng không nổi, tôi nâng lên hôn thật lâu. Có tiếng động, tôi giật mình xấu hổ lui khỏi mắc áo. Nhưng không phải Trầm về. Chỉ là gió lay cánh cửa sổ mà thôi.

Sau tấm màn đã phủ kín giường và tém cẩn thận, con gái Trầm ngủ ngon lành. Tôi ngắm nhìn cháu. Cháu khoảng năm tuổi, gương mặt rất giống mẹ, nghĩa là xinh lắm, chân tay mũm mĩm, nước da trắng hồng mịn màng như trứng gà.

Cháu mặc một chiếc váy ngắn hở cổ, nằm xoãi chân xoãi tay thoải mái. Trong lúc tôi nhìn ngắm cháu và tự hỏi lòng, mình có khả năng thương con người khác thậm chí con của kẻ tình địch, như con mình không, thì Trầm về. Trầm mặc bộ đồ ngủ bằng phin trắng có những bông hoa nhỏ phơn phớt tím, đã cũ, không được là ủi nhưng phẳng phiu.

Chắc Trầm vừa tắm xong, tóc còn ướt dính hai bên má. Tôi hỏi :

- Em vừa tắm à ? Ở đâu vậy ?

- Ở nhà dưới.

- Sao không đợi anh ra sông Thu Bồn lấy nước về cho ?

Trầm cười cười có vẻ sung sướng, mắt long lanh hẳn, giọng như thơ trẻ lại :

- Sông Thu Bồn xa tít mà …

Rồi Trầm giục :

- Anh ăn khuya đi .

Trầm đập một quả trứng, bóc vỏ ở đầu, đưa cho tôi. Tôi thấy những đầu ngón tay Trầm ngón nào cũng có sẹo, đen thui, có ngón nhăn nhúm đến dị dạng. Tôi vẫn còn nhớ ngón tay Trầm thuở xưa, thon nuột và óng ả, móng tay hồng hồng một màu hồng tự nhiên. Tôi cầm lấy tay Trầm :

- Chúng nó tra tấn em ?

- Dạ.

Trăm “dạ” bình thản như nói về chuyện của người khác.

- Em bị bắt năm nào ?

- Ngay năm 72 ấy, sau khi em trở vào thành phố một tháng. Thằng phản bội nhận được mặt em.

Tôi nôn nao muốn Trầm kể cho tôi nghe tất cả những nông nỗi nàng đã phải chịu đựng từ cái buổi chia tay ấy. Nhưng mỗi khi tôi gợi chuyện, Trầm chỉ nói được đôi câu rồi lại nghẹn lời. Nàng bảo : “Không, em không thể nào kể được với anh đâu Những chuyện ấy không thể kể được, chỉ có sống thì mới hiểu”.

- Lâu nay em sống ra sao ?

- Anh thấy đó, hai mẹ con em sống với nhau.

- Nhưng làm sao đủ sống ? Anh biết, tiền lương thì chẳng sống nổi nửa tháng.

- Tất nhiên em phải làm thêm. Em có đứa bạn nhà ở Khuê Trung, chuyên trồng hoa, em tới lấy sỉ ở đó không phải chồng tiền trước, ngoài giờ đem đi bán rong. Thu nhập cũng tàm tạm.

Trầm cười rồi tiếp :

- Em còn nuôi heo. Em vừa bán một cặp.

Tôi ngạc nhiên :

- Nhà thế này, nuôi ở đâu ?

- Ở nhà dưới, em xí được một chỗ.

Cũng phải giành giật cực nhục lắm. Khổ lắm, nhiều khi vì túng quẫn, em thấy mình đổ xấu ra.

Tôi bóc một quả trứng đưa cho Trầm:

- Em ăn đi chứ, sao cứ nhường anh? Em còn nhớ chúng mình chuyền nhau cái lon sữa bột dưới hầm bí mật không ?

- Nhớ chứ. Chuyện đó làm sao em quên được. Những ngày đó …

Giọng Trầm bỗng nghẹn lại. Và đột ngột hai cánh mũi nàng thoáng ửng đỏ,

từ khoé mắt ứa ra hai giọt nước mắt lăn nhanh xuống.

- Em sao vậy ?

- Không sao hết. Đôi khi em vẫn vậy. Chúng nó tra tấn em, có bao giờ em khóc. Nhưng không hiểu sao, những kỷ niệm…

Tôi ép mãi Trầm mới cùng ăn thêm một quả trứng. Đoạn, nàng thu dọn các thứ đem đi rửa. Nhưng nàng rửa rất lâu.

Tôi ngồi một mình hút thuốc, đã tàn hai điếu vẫn không thấy Trầm trở vào. Tôi e Trầm bị trúng gió chăng, bèn bước ra tìm, thì thấy nàng đứng lặng lẽ ngoài hành lang, dựa lưng vào tường.

Tôi lại bên Trầm. Nét mặt nàng buồn đến thẫn thờ, cặp mắt nhìn ra vùng nhà cửa lô xô nhập nhòa dưới ánh đèn đêm yếu ớt, nhìn mà như không nhìn gì cả. Đã quá khuya rồi, có lẽ nàng lúng túng về việc thu xếp chỗ ngủ cho tôi ? Sau bao nhiêu tai tiếng từng phải nhẫn nhục chịu đựng – tôi đoán thế – giờ

đây Trầm lại phải đeo thêm tai tiếng nữa khi sáng sớm mai ra hàng xóm láng giềng thấy trong nhà nàng một người đàn ông lạ. Tôi toan hỏi thật Trầm về những điều vừa nghĩ, nhưng ngại chạm vào những vết thương sâu kín chưa lành trong tâm hồn nàng. Tôi đặt tay lên vai Trầm :

- Em mệt phải không ?

Trầm ngước nhìn tôi, khẽ lắc đầu, nhưng tôi có cảm giác nàng không nhìn thấy tôi mà nhìn vào chính bên trong nàng.

- Vào nhà đi anh .

Trầm thì thào, giọng nghèn nghẹt, nắm lấy tay tôi dắt đi. Bàn tay tôi nằm trong bàn tay bị tra tấn của Trầm, và toàn thân tôi bỗng run lên tiếp nhận tất cả cái nỗi đau khủng khiếp mà nàng đã phải chịu đựng. Tôi nâng bàn tay ấy lên áp vào môi mình. Một ngọn lửa bật cháy dưới môi tôi. Cả khuôn mặt tôi chìm đắm trong quầng lửa lạ lùng ấy. Nước mắt tôi trào ra, cái quầng lửa kia không những không tắt đi mà càng cháy dữ dội hơn nữa. Như thế không biết bao lâu.

Rồi tôi ngây ngất cảm thấy quầng lửa kia chính là hơi thở chúng tôi đã hoà quyện vào nhau, thiêu đất cái khoảng cách cuối cùng giữa hai tâm hồn, giữa hai thân thể.

VI

Ánh trăng . . .

Ánh trăng chứ không phải ánh điện. Mắt tôi đã mở, đã thấy ánh trăng tràn qua ô cửa sổ nhỏ, nhưng hồn tôi vẫn mơ màng. Tôi ngỡ như mình đang nằm bên nàng trên cái ổ giữa bãi bói. Lá bói lào xào trong làn gió dịu mát từ sông Thu Bồn thổi lại, đem theo mùi phù sa lẫn mùi khói đạn pháo. Có tiếng máy bay trục thăng xa xa vẳng tới.Tôi cảm thấy như mình cố dỏng tai nghe để đoán trước nếu pháo giặc chuyển làn bắn vào chỗ chúng tôi, thì kịp thời lấy thân mình che đỡ cho nàng, cho giấc ngủ của nàng được thêm một lát bình yên.

Rồi tôi tỉnh hẳn và nhận ra chúng tôi đang nằm bên nhau trên sàn căn phòng nhỏ nhà nàng. Trăng tỏa vào phòng một làn ánh sáng huyền hoặc. Tôi chống tay nghiêng người, cố lựa không làm kinh động nàng, khẽ khàng ngồi dậy bên nàng. Tôi ngắm nàng, trong tĩnh lặng, cả một vũ trụ hoàn toàn tĩnh lặng với tiếng thở đều đều của nàng từ dưới khuôn ngực đầy đặn tuyệt mỹ, ngát hương. Và lòng tôi thư thái, đắm say, tôi ngắm nàng, ngắm mãi, đến bao lâu cũng được Nàng nằm thoải mái trong giấc ngủ yên lành hồn hậu, tấm thân phơi mở nuột nà, thơ trẻ. Trên gương mặt kiều diễm, nơi cặp môi hồng mọng phảng phất một nụ cười mơ hồ, nụ cười với hạnh phúc.

Thật không thể tin được, sau bao nhiêu đạn bom, lửa máu, tù đày, sau bao nhiêu lưu lạc và khắc khoải kiếm tìm, chúng tôi đã sống sót, đã có nhau. Chỉ mới đây thôi trước chuyến nghỉ phép này, tôi đã chết hụt không biết lần thứ mấy. Hai cậu lính trẻ đi cạnh tôi đã bỏ xác trong bãi mìn.

Tôi ghì siết nàng đến nghẹt thở, để chứng thực với mình rằng chúng tôi đang thực sự có nhau. Từ đây mãi mãi chúng tôi có nhau. Không một sức mạnh nào có thể dứt chúng tôi ra khỏi nhau nữa.

- Em ?

Tôi thì thầm, ghé sát miệng vào tai nàng.

- Dà…

Nàng khẽ “dạ”,  tiếng “dạ ” xiết bao là hiền ngoan, nhẹ như gió thoảng, nghe như “dà”.

- Em, em có biết anh yêu em đến thế nào ?

- Dạ có.

Nàng ôm tôi chặt hơn. Vã bỗng thở dài :

- Anh ơi !

- Gì em ?

- Em yêu anh, yêu anh, em không biết nói sao… Em chỉ biết nói em yêu anh. Em cầu mong anh được hạnh phúc.

- Anh đang hạnh phúc đây. Em là hạnh phúc của anh.

- Anh ơi, tại sao anh yêu em ?

- Không thể nói tại sao. Anh không biết tại sao. Tự nhiên thế thôi. Đơn giản thế thôi. Ngay từ phút đầu tiên gặp em, anh đã thấy như vậy. Có một tiếng nói bí ẩn trong anh bảo với anh rằng đây chính là người con gái mà ta hằng tìm kiếm trên đời, đây là số mệnh của ta.

Nghe có vẻ như chuyện tưởng tượng, chuyện trong tiểu thuyết, nhưng sự thật là thế. Trước kia anh vẫn thường mơ mộng về một người con gái sẽ chiếm lĩnh trọn vẹn tâm hồn mình, nhưng cái người con gái trong mơ mộng ấy không bao giờ anh nhìn được rõ. Chỉ đến khi gặp em, cái niềm mơ tưởng của anh mới có hình hài, là em, em đây, bây giờ anh có em rồi đây đúng thực là anh có em rồi đây.

Tôi vuốt ve nàng, chỗ dái tai, nơi mi mắt, đầu ngón tay, ngón chân. Tôi muốn nâng niu. Tất cả những gì thuộc về nàng đều phải được nâng niu. Tôi thổi nhẹ vào tai nàng cho nàng nhột. Nàng rúc rích cười giấu đầu vào ngực tôi, tay nàng xoa xoa trên mình tôi, nghịch nghịch các vết sẹo lồi lõm – dấu tích những trận đánh. Ba Tơ, Gò Nổi, Nồng Cào, Nông Sơn… các tên đất nơi tôi bị thương lần lượt theo ngón tay nàng thoáng lướt về trong ký ức.

Đâu đó vẳng lại khi tỏ khi mờ những âm thanh dồn dập, xao động.

- Tiếng gì ấy em nhỉ ?

- Tàu đánh cá ngoài sông Hàn đó anh. Giờ này các tàu đánh cá bắt đầu ra khơi.

- Mới nghe, ngỡ đâu tiếng máy bay trực thăng. Hồi nãy anh cứ mơ mơ màng màng như có tiếng máy bay trực thăng, còn chúng mình thì đang nằm trong bãi bói.

- Ngày ấy anh biết em sợ nhất chuyện gì không ?

- Chuyện gì ?

- Em sợ nhất lúc mình đang tắm mà bất ngờ pháo nó bắn tới, em chết mà trên người không có áo quần.

- Anh biết, anh biết, lúc ấy em chẳng đã cẩn thận dặn anh là gì. Em chưa nói

hết anh đã hiểu liền à.

- Anh kỳ thiệt đó.

- Em nhắc lại nữa đi.

- Nhắc lại cái chi?

- Nhắc lại câu em vừa nói đó, “anh kỳ thiệt đó”, anh thích được nghe em nói câu này lắm, em đã nói câu này từ dạo ở trong bãi bói, từ đó mỗi khi nhớ em; là anh nhớ lúc em nói câu này, nhớ giọng em nói, nhớ gương mặt em…

Nàng ghé sát tai tôi thì thào : “Anh kỳ thiệt đo… ó…”.

Chúng tôi cùng bồi hồi nhớ lại những ngày trong bãi bói, những ngày khốn  khó luôn kề bên cái chết nhưng lại có gì đó thật tuyệt diệu.

- À, em có nhớ ông già Tư không ? Ông Tư đưa chúng mình thoát khỏi vòng càn ấy…

- Nhớ chứ. Sau giải phóng em có gặp ông đôi lần. Bảy đứa con ông đi thoát ly thì năm đứa hy sinh.

- Không biết bây giờ ông ra sao ?

- Có hồi nghe nói ổng khốn đốn lắm, một đứa bạn em bên Sở nông nghiệp kể lại cho em biết. Ở quê ông thành lập hợp tác xã. Lúc đầu ông phấn khởi vô cùng. Nhưng khi họ định giá bò quá thấp, ông không chịu. Đa số bà con cũng không chịu, thì bị ép, bị qui là kém tinh thần, không biết nghe lời Đảng, nặng tư hữu. Trong xã nhiều người nổi điên thà đem giết bò còn hơn đưa vô hợp tác xã với giá rẻ mạt áp đặt như vậy. Nội một đêm mấy chục con bò bị giết. ông Tư phải tức tốc đạp xe giữa đêm ra Đà Nẵng đến tận nhà chú Ba Phước bí thư tỉnh ủy đập cửa rầm rầm làm ầm lên. Chú Ba cử cán bộ trực tiếp về ngay tận nơi đình hoãn việc định giá bò theo kiểu đó lại. Sau đó thì có chủ trương định giá bò theo thị trường. Mấy người lãnh đạo địa phương không ưa ông Tư vì ông trực tính, hay phê hình họ thằng thừng, lại còn chạy lên tận bí thư tỉnh ủy. Họ chẳng có làm khen thưởng thành tích kháng chiến cho ông chi hết, viện cớ ông ở ngoài biên chế, ông ức quá chửi tùm lum.

- Trời, kháng chiến mà lại phân biệt trong biên chế, ngoài biên chế. Quái đản!

Bấy lâu, cuộc sống của tôi bị cuốn vào việc đánh đấm ở phía trước, chẳng biết gì mấy về chuyện ở hậu phương. Tôi định bụng sẽ cố thu xếp thời gian đi thăm ông Tư và tôi phác họa ngay trong đầu một kế hoạch cho cuộc sống mới từ nay trở đi. Từ nay mới thực sự bắt đầu cái mà trước kia tôi nghĩ là tương lai.

- Em, anh muốn nói với em…

- Chi anh ? Anh biểu em chi ?

- Sau chuyến nghỉ phép này, anh xin chuyển ngành, anh sẽ chuyển ngành về Đà Nẵng đây, và chúng mình sẽ cưới nhau, em nhé.

Nàng im lặng, rúc sâu hơn nữa mái đầu vào ngực tôi.

- Sao, em ? Ý em thế nào ?

- Anh nói vậy là em đủ hạnh phúc rồi. Nhưng em mong anh cứ cân nhắc cho thật kỹ đã.

- Anh đã cân nhắc và đã quyết định từ bao năm nay rồi. Đáng lẽ anh bày tỏ với em ngay từ những ngày trong bãi bói cơ. Nhưng ngày ấy, em biết đấy, nhiệm vụ hai đứa mình đang hết sức nặng nề.

Nàng lại im lặng. Một lát sau, tôi thấy một làn nước ấm từ từ bò lan trên ngực mình buồn buồn. Tôi luồn tay sờ má nàng. Má nàng ướt đăm. Những dòng nước mắt tuôn trào không ngăn được. Và nàng bật nấc lên, nức nở, càng cố kìm càng nức nở, như một đứa trẻ bị tủi thân.

Có một uẩn khúc nào đó trong đời nàng mà nàng chưa thể chia sẻ cùng tôi – tôi đoán vậy. Một người con gái dấn thân vào chiến đấu, phải đương đầu với những thử thách muôn phần nghiệt ngã hơn đối với một người con trai. Và không ai ngoài họ, thấu hiểu tầm mức những mất mát mà họ gánh chịu, những mất mát có khi còn ghê sợ hơn cả cái chết.

Không dám gạn hỏi gì thêm, tôi chỉ im lặng lau nước mắt cho nàng.

Đợi nàng nguôi bớt, tôi khẽ bảo :

- Hãy còn sớm , em ngủ thêm một lát nữa đi. Nào, anh ru cho em ngủ nhé.

Tôi nhè nhẹ vỗ lưng nàng, y như mẹ tôi vẫn ru nựng tôi ngày tôi còn bé. Thật tuyệt vời là được ru nựng và có một người để mà ru nựng thế này. Vậy đó, không gì đơn giản hơn, không gì nhỏ nhoi hơn và tầm thường hơn cái cử chỉ ru nựng cho nhau thế này, chỉ cần thế thôi là thế gian đủ ngập tràn hạnh phúc – tôi nghĩ.

Hình như nàng ngủ được. Nhịp thở nàng đã trở lại đều đặn, an bình. Tôi cũng dần trôi vào giấc ngủ cùng bao ý nghĩ miên man…

Đột nhiên một tiếng rú rợn người dựng tôi dậy. Tôi vừa kịp hiểu tiếng rú phát ra từ nàng thì cùng lúc thấy nàng co giật, dãy đạp, bọt mép sùi ra, miệng hét: “Thả ra! Thả tao ra! Trả quần áo tao đây! Trả đây! Đồ dã man! Dã man! Dã man! Đừng hòng! Đừng hòng! Chết mất, trời ơi, chết mất! Mẹ ơi! Mẹ ơi !…”.

Nước da xanh mét, không còn chút máu, nàng thở hồng hộc, cặp mắt long lên, mặt mày nhăn nhúm, méo mó, như một bộ mặt hiện về từ địa ngục. Tôi vội chặn lấy nàng, rối rít gọi tên nàng. Nhưng nàng vung chân đạp tôi bật ngửa, cứ thế lặp đi lặp lại ba bốn lần. Tôi phải vận hết sức mới chặn được cho nàng nằm yên. Một lúc lâu sau, cơ thể nàng mềm dần, đầu ngoẹo qua một bên, rã rời. Tôi bồng nàng lên, ấp chặt vào lòng mình. Tôi đã có đôi lần chứng kiến các chị em ở tù về thỉnh thoảng bị lên cơn y hệt thế này – những cơn tái hiện các cuộc tra tấn họ từng phải chịu đựng. Giờ đây tôi tận mắt chứng kiến cái cảnh địa ngục từng xảy ra với nàng.

Nàng từ từ mở mắt, nhưng hồn phách như còn lạc đâu đâu. Tôi gọi tên nàng không ngớt. Rồi cuối cùng nàng cũng nhận được ra tôi. Cặp mắt thất thần dần dần sáng lại những tia ấm áp vốn có. Nàng vòng tay níu lấy cổ tôi, như đứa trẻ vừa thoát cơn ác mộng nép vào lòng mẹ. Nàng nhoẻn cười, một nụ cười hãy còn héo hắt :

- Em làm anh hết hồn phải không?

Tôi vén lại mái tóc nàng xù rối :

- Không đâu, anh quen rồi. Em có hay bị thế này luôn không ?

- Hồi mới ở tù ra, không tuần nào em không bị. Về sau cũng bớt dần, lâu lâu mới bị .

- Những lúc chỉ có hai mẹ con ờ nhà mà em bị lên cơn, thì rồi xoay xở làm sao?

- Chẳng sao hết, rồi cũng qua thôi anh.

Nàng nói vậy, nhưng, tôi biết, sự thật không hề suôn sẻ như vậy. Đối với nàng, cuộc chiến tranh chưa hề qua hẳn. Với tôi thì cũng thế.

Sáng hôm đó, nàng bảo tôi ở nhà để nàng đưa con đi mẫu giáo rồi tới cơ quan xin nghỉ phép. Nhưng tôi đòi nàng cho tôi cùng đi. Chúng tôi mặc bộ quần áo tươm tất nhất mà mình có. Tôi mặc bộ quân phục còn hơi mới. Nàng mặc chiếc quần âu màu xám nhạt và chiếc áo sơ mi bằng vải ka-tê trắng, loại vải thường phân phối cho cán bộ công nhân viên bằng cách bốc thăm. Nàng vừa vuốt lại nếp áo quần cho phẳng phiu vừa vui vẻ kể, chiếc quần là nàng may mắn trúng thăm, còn chiếc áo là mua lại của một người trúng thăm khác cần đổi vải lấy tiền.

Tôi lôi từ đáy ba lô ra món quà dành cho nàng mà tôi gìn giữ cẩn thận bấy lâu đã theo tôi đi trong suốt các cuộc hành quân, các cuộc tìm kiếm, để đến nay mới được trao vào tay nàng. Đó là một chiếc lược ngà có nạm bạc và một miếng vải mút – xơ – lin màu thiên thanh có thêu những hoa văn trắng trang nhã.

Chiếc lược ngà tôi nhặt được dưới sàn trong tổng hành dinh của PônPa đã bị lục bới tung toé khi tôi bước vào, ngày giải phóng Phnom Pênh. Còn miếng vải mút-xơ-lin thì có một lai lịch đặc biệt hơn, cũng đáng được kể lại lắm, và đây là lần đầu tiên và có lẽ duy nhất tôi kể.

Vì miếng vải này, tôi đã phạm cái tội mà trước đó không bao giờ tôi hình dung được mình lại có thể phạm: tội ăn cắp.

Số là thế này : sau khi giải phóng Phnom Pênh độ mấy hôm, tôi ghé chơi chỗ thằng bạn làm trung đoàn trưởng một trung đoàn hộ binh đang chiếm giữ khu trung tâm. Nó đem ra đãi tôi bia Trung Quốc, rượu sâm Trung Quốc và gà quay. Toàn là chiến lợi phẩm cả. Tình cờ tôi mở tủ của nó thấy đầy ắp một kho khiến tôi hoa mắt : đường, sưa. thuốc bổ, rượu Tàu, rượu Tây, thuốc lá Tàu, thuốc lá Tây, đồ hộp, len, vải vóc … Nhưng chẳng thứ gì làm tôi quan tâm ngoài cây vải mút-xơ-lin màu thiên thanh, loại vải cao sang tôi chỉ được nhìn thấy vài lần hồi mới giải phóng Sài Gòn. Một ý nghĩ vụt lóe : phải làm sao có một miếng cho H may áo. Tôi ngỏ lời xin thằng bạn, đinh ninh rằng bớt một miếng nhỏ trong cả cây vải kia thì hẹp gì mà nó không cho.

Nào ngờ thằng cha bần tiện quá, nó chối quanh rằng của thằng khác gửi. Tôi nghĩ, thôi thì ra chợ Phnom Phênh, chắc thế nào cũng tầm được. Tôi quên đứt mất là dưới chế độ Pôn Pốt làm gì có chợ. Vài hôm sau, tôi trở lại chỗ thằng bạn, nó lại đãi tôi ê hề. Tôi cáu tiết kích nó uống thật say, đến lúc nó khềnh ra chẳng biết trời đất là gì nữa ở phòng bên kia, tôi liền mở tủ xé lấy một miếng vải mút-xơ-lin. Tôi chặc lưỡi : “Mẹ mày, mày chôm của thiên hạ mà bần tiện quá ông chôm lại của mày”. Vâng, tôi đã phạm tội ăn cắp như thế đấy, thật không thể tưởng tượng nổi, ngay chính tôi cũng cứ lấy làm kinh ngạc về bản thân minh. Tất nhiên là với nàng, tôi giấu biệt chuyện này, chỉ dám kể về chiếc lược ngà nạm bạc.

Trầm ướm miếng mút-xơ-lin lên mình ngăm nghía, và bảo tôi cùng ngắm. Gương mặt nàng ửng hồng rạng rỡ, cặp mắt lấp lánh niềm vui. Và niềm vui trong tôi nhân lên càng gấp bội, át dần đi cái mặc cảm tội lôi vẫn hằng ngấm ngầm cắn rứt lương tâm.

Những ngày nghỉ phép còn lại của tôi trôi qua thật hạnh phúc. Trầm gom góp tất cả số phiếu thực phẩm trong quý và mượn thêm của bạn bè định để lo cho tôi những bữa ăn tươi, nhưng tôi ngăn nàng lại. Tôi có tiền. Phụ cấp chiến trường khá cao, lương tôi cũng cao, lại độc thân, bố mẹ và em tôi đều dư dả nên tôi dành dụm được nhiều. Tôi bảo với nàng thế, và nài nỉ nàng ưng thuận để tôi lo mọi chi tiêu, cứ mua theo giá ngoài cũng không thể “sạt nghiệp”. Chúng tôi cùng đi chợ, dạo phố, mua sắm thêm quần áo cho bé Hoài con nàng và nàng.

Trầm bảo tôi phải may một bộ thường phục, nhưng tôi bảo để khi nào giải quyết xong việc chuyển ngành hẵng hay. Chúng tôi cũng cùng nhau về Gò Nổi thăm ông Tư nhưng rất tiếc không gặp vì ông vào Cà Ná thăm người em bị ốm nặng. Những lúc không. đâu, Trầm đem mấy bộ quân phục của tôi ra vá mạng lại. Bé Hoài đi mẫu giáo. Chỉ có hai chúng tôi bên nhau trong căn phòng nhỏ.

Nàng vừa vá áo vừa thuật lại cho tôi nghe về những trở lực mà nàng đã phải

đương đầu, với cái cách chỉ có thể có khi người vợ giãi bày với người chồng. Những trở lực ấy không nhỏ. Từ chuyện rắc rối về đảng tịch sau khi ra tù đến vụ kỷ luật vì đã đánh lại thủ trưởng .

- Tất nhiên em sai, rất sai vì đã đánh người. Nhưng thằng cha đó thì cho ăn mười cái tát cũng chưa đủ. Hắn gạ gẫm em bị em phản ứng, liền ngấm ngầm ra lệnh cho tay thư ký công đoàn hành hạ em bằng những cuộc kiểm điểm về chuyện với ba con Hoài. Hắn là một thằng ti tiện đểu cáng mà cả cấp trên lẫn cấp dưới đều bị hắn lừa bằng cái vẻ ngoài đạo mạo. Lúc nào cũng trơn láng như con lươn. Em tiếc vì quá mất bình tĩnh lỡ cho lão ăn tát nên mình thất thế, không thể vạch mặt được lão. Giá có anh ở đây…

“Giá có anh ở đây… ” – Trầm nói thế, rồi không hiểu sao lại tự dưng lặng im.

Tôi bảo : – Được được cứ từ từ chờ anh về giải quyết xong việc chuyển ngành, rồi anh sẽ nghiên cứu kỹ vụ việc của em.

- Phức tạp lắm anh. Nhiều cái em không thể hiểu nổi. Đôi khi em ngỡ như mình đang ở trong một cuộc chiến tranh mới mà trong tay lại chẳng có vũ khí.

- Em có anh. Hãy nhớ là em luôn có anh.

Tôi siết chặt tay nàng. Nàng nép vào tôi đầy tin cậy.

Vậy mà tôi đâu ngờ, hôm tôi ra đi, khi tiễn tôi ở sân ga, Trăm nhét vào túi tôi một phong thư nhỏ, dặn rằng lên tàu mới được mở ra đọc. Tôi đã thuộc lòng bức thư ấy.

Trăm viết : ” Anh Vũ ơi, cuộc đời em chẳng có gì quý báu hơn những tình cảm anh dành cho em. nhưng em thật khổ tâm phải nói với anh là em không thể đáp lại những tình cảm của anh. bởi vì em đã thuộc về một người khác Em luôn cầu mong anh được hanh phúc- Anh hãy tha thứ cho em, và anh hãy quên em đi. Vĩnh biệt anh. Em gái nhỏ của anh."

Tôi choáng váng cả người. Hóa ra Trầm vẫn nuôi hy vọng cái người cha của con nàng mà nàng coi như "không có” sẽ trở lại vậy thì vì sao nàng lại nồng nàn với tôi trong những ngày qua đến thế ? Tôi không ngừng nghĩ ngợi và dần dần tôi thấy rằng những điều nàng viết trong thư có gì đó không thật.

Không thật, nàng đã nói không thật về sự nàng đã thuộc về người khác, dù nàng đã có con. Tôi muốn kêu lên khi khám phá được điều ấy. Nhưng mọi thư từ gửi cho nàng đều không có hồi âm.

Lại thêm nỗi việc xin chuyển ngành của tôi không thuận lợi như tôi hình dung, bởi tôi là một cán bộ có năng lực và ý thức tổ chức rất cao. Đành chỉ còn cách chờ cho đến kỳ nghỉ phép sau, tức là kỳ nghỉ phép này đây…

*        *

*

Vũ cầm ấm nước rót đầy ly đưa lên miệng nốc liền một hơi. Xong, anh thở mạnh, tựa người vào lan can, nửa nằm nửa ngồi, châm thuốc lặng lẽ hút. Khuôn mặt dầu dãi chập chờn sau đám khói thuốc như còn đắm trong câu chuyện đời ngổn ngang của chính mình.

Quá nửa đêm rồi, thành phố đã hoàn toàn ngủ yên dưới bàn tay ve vuốt của làn gió nhẹ dậy lên từ cửa biển, đem theo hương vị lạ lùng của khơi xa. Giờ ân ái của các lứa đôi, những hàng cây bên đường bắt đầu mơ giấc mơ của con người.

Từ một ngách phố xa, vẳng lại tiếng rao khàn khàn của một bà già bán rong hột vịt lộn – “hơ vi là ơ…”. Hóa ra thành phố vẫn chưa ngủ. Và ngay chỗ vòi nước dưới nhà, chốc chốc vẫn còn vang lên tiếng xô thùng chạm nhau cùng tiếng hai người đàn bà chuyện trò rời rạc trong lúc đợi nước.

Nhà văn M nhìn Vũ, nghĩ tới Trầm, không biết giờ này chị đang ở đâu, ông thầm mong chị hãy mau trở về để hai người sớm gặp lại nhau. Liệu rồi cuối cuối cùng họ có đến được với nhau không? Hóa ra Vũ cũng không phải là cha đứa con Trẫm. Nhưng xem ra, ông biết, Vũ thực tâm chẳng muốn để chuyện đó thành trở ngại trên con đường tìm kiếm hạnh phúc. Ông bảo Vũ cứ ở lại nhà ông đợi đến lúc Trâm về.

Mười ngày nữa trôi qua, Trâm vẫn chưa về. Và Vũ cũng đã quá hạn nghỉ phép. Anh đành tạm biệt ông nhà văn tốt bụng để ra đi. Những ngày ở với nhau, họ đã cùng nhau sống lại bao nhiêu kỉ niệm một thời chiến đấu trên vùng vành đai Đà Nẵng, và đã trở nên gần gũi như đôi bạn cũ.

Ông M tiễn Vũ ra ga.

Lúc tàu sắp chạy, Vũ đưa ông một phong thư, nhờ trao tận tay cho Trầm. Anh nhìn ông, nhưng ánh mắt như vượt qua đầu ông hướng tới tận đâu đâu, giọng nhỏ lại, khàn đi :

- Bọn tôi sắp bước vào một chiến dịch mới. Sau chiến dịch này là tôi được giải quyết chuyển ngành. Trừ trường hợp chuyến này tôi có làm sao, còn thì thế nào tôi cũng trở về đây gặp Trầm bằng được. Tôi đã liên hệ được chỗ chuyển ngành ở đây. Dù cho trong những năm qua, đời Trầm đã xảy ra chuyện gì, tôi cũng muốn cùng Trầm chia sẻ hết, anh à…

Tàu chuyển bánh. Vũ xốc ba lô bám lên bậc toa, len nhanh vào trong. Những người đưa tiễn đã về hết, chỉ còn mình ông M đứng lặng lẽ trên sân ga. Trong tay ông, phong thư Vũ gửi Trầm bỗng trở nên nặng trĩu như số phận của họ, cái số phận mà chắc ông đưa thể nào hiểu hết nhưng từ nay tựa hồ đã ràng buộc với tâm hồn ông. ông quay về, đột ngột bước những bước gấp gáp, mong cho chóng tới nhà để ngồi vào bàn mà ghi lại toàn hộ câu chuyện Vũ kể.

Trong suốt những ngày ngồi ghi lại câu chuyện, nhà văn M lâu lâu lại dừng bút dỏng tai chờ nghe một tiếng chân bước lên cầu thang. Ông mong ngóng mẹ con chị Trầm trở về, bồn chồn không kém gì Vũ mấy hôm trước. Ông nhớ lại lời Vũ nói : “Trừ trường hợp chuyến này tôi có làm sao… Qua một số bạn bè hiện còn trong quân ngũ, ông biết chiến sự ở Cam-pu-chia còn rất ác liệt. Ông thót tim nghĩ rằng biết đâu Vũ có thể gặp chuyện không may. Ông tự hứa với mình sẽ làm hết khả năng để tạo tác hạnh phúc cho Vũ và Trầm. Họ phải được hạnh phúc với nhau.

Nhưng mãi tới nửa năm sau ông mới gặp được Trầm. Và đó là một câu chuyện chúng tôi sẽ trao đến bạn đọc vào một dịp khác.

Đà Lạt, tháng 9-11-997

B.M.Q

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét