Tòa án nhân dân tối cao
Quyết định giám đốc thẩm
của hội đồng Thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao
Đặc san của Tạp chí Tòa án nhân dân
ê
Quyển I
(Các Quyết định Giám đốc thẩm về Dân sự; Kinh doanh, thương mại; Lao động năm 2003 – 2004)
Hà Nội - 2004
MỤC LỤC
Quyết định số 16/2003/HĐTP-DS ngày 28-05-2003 Về vụ án đòi lại một phần diện tích đất nền nhà 11
Quyết định số 17/2003/HĐTP-DS ngày 30-05-2003 Về vụ án tranh chấp quyền sở hữu ghe đánh cá 15
Quyết định số 18/2003/HĐTP-DS ngày 30-05-2003 Về vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà 18
Quyết định số 19/2003/HĐTP-DS ngày 26-06-2003 Về vụ án tranh chấp di sản thừa kế 22
Quyết định số 21/2003/HĐTP- DS ngày 23-06-2003 Về vụ án tranh chấp hợp đồng hùn vốn kinh doanh 31
Quyết định số 22/2003/HĐTP-DS ngày 23-06-2003 Về vụ án đòi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 35
Quyết định số 24/2003/HĐTP-DS ngày 30-07-2003 Về vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế 43
Quyết định số 25/2003/HĐTP-DS ngày 25-08-2003 Về vụ án đòi nợ ngoại tệ 48
Quyết định số 26/2003/HĐTP-DS ngày 25-08-2003 Về vụ án đòi nợ 50
Quyết định số 27/2003/HĐTP-DS ngày 26-08-2003 Về vụ án tranh chấp chia thừa kế 55
Quyết định số 28/2003/HĐTP- DS ngày 03-11-2003 Về vụ án Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà 65
Quyết định số 29/2003/HĐTP-DS ngày 03-11-2003 Về vụ án tranh chấp tài sản sau ly hôn 68
Quyết định số 30/2003/HĐTP- DS ngày 03-11-2003 Về vụ án tranh chấp chuyển quyền sử dụng đất 72
Quyết định số 16/2003/HĐTP-DS ngày 28-05-2003
Về vụ án đòi lại một phần diện tích đất nền nhà
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
…………………
Tại phiên toà ngày 28-05-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp một phần diện tích đất nền nhà giữa các đương sự :
Nguyên đơn: Bà Huỳnh Cheng và chồng là ông Cao Bích ; uỷ quyền cho con là chị Cao Buối trú tại số 99 đường Minh Phụng, phường 9, quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn : Bà Trần Thị Bông, trú tại số 99B Minh Phụng, phường 9, quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Nguyễn Thị Quý, trú tại số 26 Phan Chu Trinh, phường 2, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
2. Ông Lý Trọng Nhơn, trú tại số 10/4 ấp 3, xã Xuân Thới Thượng, huyện Hóc Môn,Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Ông Nguyễn Văn Lợi, trú tại số 121/16 Lê Thị Bạch Cát, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhận thấy :
Thửa đất 373m2 tại đường Minh Phụng, Chợ Lớn, Đạt Thành, Sài Gòn là của cụ Nguyễn Văn Chức và Nguyễn Văn Tiếng (là 2 anh em ruột). Năm 1944, hai cụ đã chia đôi thửa đất trên và xây thành 2 căn nhà: cụ Chức sở hữu căn nhà mang số 99; cụ Tiếng sở hữu căn nhà mang số 101 Minh Phụng. Năm 1959, cụ Chức đứng tên xin giấy phép cắt một gian quán số có diện tích 9m2 trong khuôn viên nhà số 99 Minh Phụng (phía giáp đường hẻm và mặt đường Minh Phụng), nhưng cụ Tiếng là người chi phí xây dựng và quản lý gian quán số này. Sau khi xây xong, gian quán số mang số 99A, cụ Tiếng cho ông Nhơn thuê gian quán số 99A để lấy tiền trả tiền điện, nước cho cả cụ Chức và cụ Tiếng. Quá trình thuê quán, ông Nhơn đã lấn đường hẻm cất thêm sát cạnh gian quán số 99A một gian quán nữa có diện tích 14m2 (gọi là gian quán số 99B Minh Phụng). Phần gian quán xây dựng thêm này ông Nhơn đã được hợp thức hoá ngày 03-04-1975. Năm 1980, ông Nhơn bán gian quán số 99B và nhượng quyền thuê gian quán số 99A Minh Phụng cho anh Long. Năm 1981, anh Long bán lại gian quán số 99B và nhượng quyền thuê gian 99A cho bà Bông. Thời điểm này, cả cụ Chức và cụ Tiếng đã chết, nên ông Lợi là con rể cụ Tiếng quản lý và nhận tiền cho thuê gian quán số 99A Minh Phụng. Còn căn nhà số 99 Minh Phụng của cụ Chức cho người khác thuê, tiền thuê do bà Quý là con cụ Chức thụ hưởng.
Do nguồn gốc gian quán số 99B Minh Phụng là của ông Nhơn, nên bà Bông đã nhờ ông Nhơn lập lại thủ tục mua bán gian quán số đó cho bà Bông, đồng thời, bà Bông vẫn trả tiền thuê gian quán số 99A cho ông Lợi. Năm 1985, ông Nhơn đã được cấp giấy hợp thức hoá chủ quyền nhà số 99B Minh Phụng có diện tích 35m2 (trong đó có cả diện tích 9m2 nguyên là gian quán số 99A của cụ Tiếng) và lập thủ tục chuyển nhượng nhà số 99B Minh Phụng cho bà Bông, đã sang tên trước bạ ngày 01-08-1986, (gọi chung là nhà số 99B Minh Phụng như hiện nay). Sau khi được cấp chủ quyền nhà số 99B Minh Phụng ( số mới) bà Bông không trả tiền thuê gian quán số 99A Minh Phụng (cũ) cho ông Lợi nên phát sinh tranh chấp toàn bộ diện tích 35m2 nhà số 99B Minh Phụng giữa các đồng thừa kế của cụ Tiếng với bà Bông về sở hữu căn nhà này.
Quá trình Toà án giải quyết tranh chấp nhà số 99B Minh Phụng, bà Quý là con của cụ Chức đã có lời khai thừa nhận gian quán số 99A Minh Phụng (cũ) thuộc sở hữu của cụ Tiếng và không có tranh chấp gì. Do đó, tại Bản án phúc thẩm số 498/DSPT ngày 25-09-1987, Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định diện tích căn nhà số 99B (mới) có 9m2 nguyên là gian quán số 99A thuộc sở hữu của cụ Tiếng, nhưng bà Bông được tiếp tục thuê, phần còn lại thuộc sở hữu của bà Bông.
Do có công văn đề nghị giám đốc lại Bản án nên Bản án phúc thẩm nói trên đã bị Phó chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị tại Quyết định số 88/KN-DS ngày 27-10-1988 nhận định : Cần xác minh xem gian quán số 99A Minh Phụng có bị giải toả từ năm 1964 hay không ? quá trình sử dụng quán ông Nhơn có cơi nới, cải tạo; bà Bông có nhu cầu về chỗ ở nên có thể cho bà Bông mua hoặc tiếp tục thuê. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 64 ngày 25-05-1989, Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đã xử huỷ Bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân quận 6 và Bản án phúc thẩm nói trên của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ cho Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác minh, xét xử lại. Tại Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, ông Lợi đại diện cho các thừa kế của cụ Tiếng đã nhất trí bán diện tích 9m2 nguyên là gian quán số 99A Minh Phụng cho bà Bông với giá 1,2 lượng vàng. Do vậy, Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã ra Quyết định công nhận hoà giải thành số 03/DSST ngày 26-08-1989 và Quyết định đã được thi hành xong.
Tháng 05-1989, bà Quý (là con cụ Chức) mới lập hồ sơ xin xác nhận thừa kế căn nhà số 99 Minh Phụng, đồng thời, thoả thuận bán căn nhà này cho bà Cheng, ông Bích. Giấy phép mua bán nhà không ghi diện tích chuyển nhượng; Tờ khai nộp thuế chuyển dịch nhà đất ghi diện tích 170m2; văn tự mua bán nhà ghi 178m2 nhưng không có sơ đồ hiện trạng kèm theo. Theo bà Quý và bà Cheng thì khi hai bên mua bán nhà đất như hiện trạng, nhà bà Bông đã tồn tại từ trước. Bà Quý có dẫn bà Cheng gặp bà Bông để thông báo cho bà Bông là căn nhà số 99B Minh Phụng của bà Bông lấn một phần đất nhà số 99 Minh Phụng của bà Cheng khi nào bà Cheng yêu cầu thì bà Bông phải giao trả. Điều này không được bà Bông thừa nhận.
Năm 1990, bà Cheng đã xây lại nhà số 99 Minh Phụng như hiện nay.
Tháng 05-1991, bà Bông được cấp giấy phép và xây lại nhà số 99B Minh Phụng như hiện nay, diện tích đất theo giấy phép xây dựng là 35m2, trong đó có 12m2 lấn chiếm lộ giới.
Tháng 06-1991, bà Cheng mới thuê đo vẽ lập bản đồ hiện trạng nhà số 99 Minh Phụng và cho rằng, nhà số 99B Minh Phụng của bà Bông chiếm đất nhà bà nên yêu cầu bà Bông trả lại diện tích đất là 18,75m2. Trong quá trình giải quyết tại Toà án thì bà Cheng thay đổi chỉ yêu cầu trả lại 9,75m2 đất bị lấn chiếm.
Tại Bản án dân sự Phúc thẩm số 2186/DSST ngày 08-11-2001, Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Không giải quyết yêu cầu của ông Cao Bích và bà Huỳnh Cheng đòi bà Trần Thị Bông trả lại nền nhà có diện tích 9m2 (số cũ 99A Minh Phụng) là một phần của nhà số 99B Minh Phụng hiện bà Bông đang sử dụng.
- Bác yêu cầu của ông Bích và bà Cheng đòi bà Bông phải trả lại phần nền nhà có diện tích 9,75m2, là một phần diện tích nhà số 99B Minh Phụng mà hiện bà Bông đang sử dụng;
- Bản án còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo.
- Ngày 09-11-2001, đại diện nguyên đơn là chị Cao Buối kháng cáo.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 129/DSPT ngày 12-06-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định :
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Cao Bích và bà Huỳnh Cheng đòi bà Trần Thị Bông trả lại một phần diện tích nền nhà số 99 bị bà Bông lấn chiếm.
Buộc bà Trần Thị Bông phải tháo dỡ nhà ở, vật kiến trúc xây dựng lấn chiếm trái phép trên diện tích đất 9,93m2 thuộc khuôn viên căn nhà số 99 Minh Phụng, phường 9, quận 6 thuộc quyền sử dụng hợp pháp trên diện tích đất của ông Bích, bà Cheng. Vị trí đất bà Bông phải giao trả phía sau căn sạp 99A theo bản vẽ hiện trạng nhà đất lập ngày 05-06-2001.
- Chi phí tháo dỡ nhà, vật kiến trúc trên phần đất 9,93m2 nói trên do bà Bông phải chịu.
- Ông Cao Bích, bà Huỳnh Cheng và bà Trần Thị Bông được quyền liên hệ với cơ quan nhà đất Thành phố Hồ Chí Minh để xin điều chỉnh lại diện tích đất theo quyết định của bản án này.
Sau khi xét xử phúc thẩm bà Bông khiếu nại.
Tại Quyết định số 08/DS-TK ngày 28-02-2003 Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 129/DSPT ngày 12-06-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo quy định của pháp luật.
- Tại Kết luận số 53/KL-VKSTC-KSXXDS ngày 25-04-2003 Viện trưởng Viện Kiểm sát tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử huỷ Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, giữ nguyên quyết định Bản án dân sự sơ thẩm số 2186/DSST ngày 08-11-2001 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh .
Xét thấy :
Diện tích đất mà ông Cao Bích và bà Huỳnh Cheng khởi kiện đòi quyền sử dụng đất đối với bà Trần Thị Bông là 18,75m2 nằm trong căn nhà số 99B Minh Phụng do bà Bông sử dụng từ năm 1985. Trong diện tích 18,75m2 đất đang có tranh chấp quyền sử dụng giữa ông Bích và bà Cheng với bà Trần Thị Bông có diện tích 9m2 nguyên là gian quán mang số 99A Minh Phụng (số cũ) thuộc quyền sở hữu của cụ Tiếng. Khi các đồng thừa kế của cụ Tiếng tranh chấp quyền sử dụng với bà Bông thì đã được giải quyết tại Quyết định hoà giải thành số 03/DSST ngày 26-08-1989 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (BL 65).Quyết định này đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, Toà án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã không xem xét, giải quyết yêu cầu khởi kiện của ông Bích và bà Cheng đối với diện tích đất này là có căn cứ, đúng pháp luật.
Đối với diện tích 9,75m2 đất (theo bản vẽ hiện trạng đất ngày 05-06-2001 là 9,93m2) còn lại đã nằm trong khuôn viên 35m2 đất của căn nhà số 99B Minh Phụng từ trước khi bà Bông nhận chuyển nhượng căn nhà này của ông Nhơn và các đồng thừa kế của cụ Tiếng. Điều này được xác nhận tại Quyết định hoà giải thành số 03/DSST nêu trên. Bà Quý là chủ sở hữu căn nhà số 99 Minh Phụng cũng không có tranh chấp với bà Bông về diện tích đất này. Năm 1989, bà Quý mới bán căn nhà số 99 Minh Phụng cho ông Bích và bà Cheng, lúc đó, căn nhà số 99B Minh Phụng vẫn có khuôn viên đất như hiện trạng. Chính chị Cao Buối được ông Bích và bà Cheng uỷ quyền, cũng như bà Quý thừa nhận (tại BL 182, BL 183, BL 172); do đó, không có căn cứ cho rằng bà Bông lấn chiếm đất khuôn viên nhà số 99 Minh Phụng của ông Bích và bà Cheng như Bản án dân sự phúc thẩm số 129/DSPT ngày 12-06-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định. Vì vậy, cần phải bác toàn bộ yêu cầu đòi đất của ông Bích và bà Cheng.
Ông Bích và bà Cheng phải chịu án phí theo quy định của pháp luật
Bởi các lẽ trên, căn cứ khoản 3 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; điểm b Điều 7 Chương III Nghị định số 70/CP ngày 12-06-1997 của Chính phủ về án phí và lệ phí Toà án,
Quyết định:
Sửa Bản án dân sự phúc thẩm số 129/DSPT ngày 12-06-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ,tuyên xử :
- Bác toàn bộ yêu cầu của ông Cao Bích và bà Huỳnh Cheng đòi quyền sử dụng đất thuộc khuôn viên căn nhà số 99B Minh Phụng, phường 9, quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đối với bà Trần Thị Bông.
- Ông Cao Bích, bà Huỳnh Cheng phải chịu 3.400.000đồng án phí dân sự sơ thẩm và 50.000đồng án phí dân sự phúc thẩm.
Lý do sửa Bản án phúc thẩm:
Phần diện tích đất nền nhà có tranh chấp đã được giải quyết bằng một quyết định có hiệu lực của Toà án; nay, Toà án cấp phúc thẩm lại tiếp tục xử là không đúng thẩm quyền; do đó, không có căn cứ để cho rằng bà Trần Thị Bông lấn chiếm khuôn viên nhà của ông Cao Bích và bà Huỳnh Cheng.
Quyết định số 17/2003/HĐTP-DS ngày 30-05-2003
Về vụ án tranh chấp quyền sở hữu ghe đánh cá
hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
…………………..
Tại phiên toà ngày 30-05-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp quyền sở hữu ghe đánh cá giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Hiệp Văn Tiền (còn gọi là Tiền Văn Hiệp), là Việt kiều Quốc tịch Mỹ; Uỷ quyền cho ông Tiền Văn Hùng (tức Súa), sinh năm 1959; trú tại nhà số 6, Bạch Đằng, khu phố 1, phường Đông Hồ, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang;
Bị đơn: Bà Tiền Thị Mùi, sinh năm 1956; trú tại nhà số 3/2 Mạc Thiên Tích, khu phố 1, phường Pháo Đài, thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Thiều Minh Khương (chồng bà Mùi) trú cùng địa chỉ với bà Mùi.
NHậN THấY:
Tháng 04-1994, ông Hiệp Văn Tiền hùn vốn với chị ruột là bà Tiền Thị Mùi đóng chiếc ghe biển số KG-8622 BTS để khai thác hải sản, giấy tờ ghe do bà Mùi đứng tên. Theo ông Hiệp Văn Tiền, chiếc ghe đóng hết số vốn 33,9 lượng vàng, ông đã đưa bà Tiền Thị Mùi 30,9 lượng vàng ngay lúc đóng ghe, còn lại 3 lượng vàng ông đã đồng ý để bà Mùi trừ vào phần lợi nhuận của ông được hưởng trong quá trình ghe hoạt động và tính đến nay đã khấu trừ xong. Nay, ông Hiệp Văn Tiền yêu cầu Toà án công nhận chiếc ghe là tài sản thuộc sở hữu của ông Tiền và sau khi lấy được ghe, ông Tiền sẽ giao lại ghe cho ông Tiền Văn Hùng quản lý khai thác để nuôi sống cha mẹ.
Lúc đầu, bà Tiền Thị Mùi chỉ thừa nhận ông Hiệp Văn Tiền mới góp vốn 20,6 lượng vàng, còn lại là của bà Mùi, nhưng tại phiên toà sơ thẩm, bà Mùi thừa nhận ông Hiệp Văn Tiền đã góp 30,9 lượng vàng, nên bà Mùi chỉ yêu cầu ông Tiền phải trả lại bà Mùi 3 lượng vàng và công sức quản lý bảo quản chiếc ghe.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 14/DSST ngày 22-10-1999, Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu đòi quyền sở hữu chiếc ghe biển số KG- 8622 BTS của ông Hiệp Văn Tiền; công nhận chiếc ghe biển số KG- 8622BTS công suất 56 CV do bà Tiền Thị Mùi đứng tên đăng ký thuộc quyền sở hữu của ông Hiệp Văn Tiền. Ông Tiền Văn Hùng được quyền quản lý, đứng tên đăng ký, sử dụng khai thác chiếc ghe 8622BTS theo sự ủy quyền của ông Hiệp Văn Tiền ngày 21-04-1999. Bác yêu cầu của bà Tiền Thị Mùi đòi phần hùn chiếc ghe 8622 BTS là 13,3 lượng vàng. Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí.
Sau xét xử sơ thẩm, bà Tiền Thị Mùi kháng cáo với nội dung đề nghị được sở hữu ghe và tính toán công sức bảo quản ghe của bà Mùi.
Tại phiên toà phúc thẩm, ông Tiền Văn Hùng (người được ông Hiệp Văn Tiền uỷ quyền tham gia tố tụng) đã đồng ý giao chiếc ghe và ngư lưới cho bà Mùi, đổi lại, bà Mùi sẽ thanh toán cho ông Hùng 75.000.000 đồng.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 115/DSPT ngày 21-04-2000, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Công nhận sự thoả thuận giữa các bên đương sự như sau: bà Tiền Thị Mùi được sở hữu chiếc ghe biển số KG- 8622 BTS công suất 56 CV và ngư lưới trị giá toàn bộ 1à 87.820.250 đồng. Ông Hiệp Văn Tiền (do anh Tiền Văn Hùng đại diện) có nghĩa vụ giao chiếc ghe nói trên cho bà Tiền Thị Mùi sở hữu. Bà Tiền Thị Mùi có nghĩa vụ thanh toán tiền giá trị chiếc ghe biển số KG-8622 BTS và ngư lưới cho ông Hiệp Văn Tiền (Tiền Văn Hiệp) do ông Tiền Văn Hùng đại diện với số tiền 75.000.000 đồng. Ngoài ra Bản án còn quyết định về án phí.
Sau khi xét xử phúc thẩm ông Hiệp Văn Tiền có đơn khiếu nại với nội dung: ông Tiền chỉ uỷ quyền cho ông Hùng tham gia tố tụng để lấy lại chiếc ghe, nhưng ông Hùng lại tự ý bán chiếc ghe với giá rẻ (bán 75 triệu trong khi giá thị trường khoảng 120.000.000 đồng) là vượt quá phạm vi uỷ quyền, gây thiệt hại quyền lợi của ông Tiền. Mặt khác, lúc lập hợp đồng uỷ quyền cho ông Hùng tham gia tố tụng ông Tiền không biết ông Hùng đang có tiền án, nay ông Tiền biết việc này nên đề nghị Toà án xem xét.
Tại Quyết định kháng nghị số 34/KN-VKSTC-KSXXDS ngày 18-04-2003, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhận xét: Về tố tụng, Toà án các cấp chấp nhận cho ông Tiền Văn Hùng được đại diện theo uỷ quyền của ông Hiệp Văn Tiền trước Toà trong thời gian ông Hùng đang có án tích là trái với qui định tại điểm d mục 2 phần VI về người đại diện của đương sự theo Nghị quyết số 03 ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số qui định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Về nội dung: Ông Tiền chỉ uỷ quyền cho ông Hùng được thay mặt ông Tiền trước các cơ quan chức trách như Toà án,Viện Kiểm sát… để trả lời và chất vấn mọi vấn đề có liên quan đến vụ kiện, nội dung của hợp đồng uỷ quyền không thể hiện việc ông Tiền uỷ quyền cho ông Hùng được quyền định đoạt "ghe", nhưng tại phiên Toà Phúc thẩm, ông Hùng đã đồng ý bán chiếc ghe nói trên cho bà Mùi với giá 75.000.000 đồng là vượt quá phạm vi uỷ quyền. Bản án phúc thẩm lại công nhận sự thoả thuận nói trên giữa ông Hùng và bà Mùi là không đúng, gây thiệt hại đến quyền lợi chính đáng của ông Tiền.
XéT THấY :
1. Về tố tụng:
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 1110/HSPT ngày 27-06-1997, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh (giữ nguyên quyết định của án sơ thẩm) xử phạt Tiền Văn Hùng (tức Súa) 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của công dân", thời gian thử thách là 5 năm tính từ ngày 11-04-1997. Như vậy, Tiền Văn Hùng tham gia phiên toà sơ thẩm ngày 22-10-1999 và phiên toà phúc thẩm ngày 21-04-2000 là đang trong thời gian có án tích nên việc Toà án các cấp sơ thẩm và phúc thẩm chấp nhận cho Tiền Văn Hùng được đại diện cho ông Hiệp Văn Tiền tham gia tố tụng là trái với hướng dẫn tại điểm d mục 2 phần VI Nghị quyết số 03 ngày 19-10- 1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
2. Về nội dung
Ngày 19-04-1999, ông Hiệp Văn Tiền lập hợp đồng uỷ quyền cho ông Tiền Văn Hùng (anh ruột ông Tiền) để ông Hùng thay thế ông Tiền trước Toà án với tư cách nguyên đơn trong vụ kiện này, phạm vi uỷ quyền: "… để trả lời và chất vấn mọi vấn đề có liên quan đến vụ kiện nói trên, thời gian uỷ quyền đến khi nào các cơ quan chức năng giải quyết xong vụ kiện". Tại các buổi hoà giải ở UBND phường Pháo Đài vào các ngày 16-03-1999 và ngày 30-09-1999 (BL 6,17,18) ông Hiệp Văn Tiền đều nêu yêu cầu: "lần này tôi về để lấy lại ghe để giải quyết nuôi gia đình 2 bên"; "chiếc ghe là của tôi nên xin được lấy lại và đề nghị chị Mùi sang tên chủ quyền cho hợp pháp vì chị Mùi chỉ là người đứng tên hộ tôi". Ngày 06-04-1999 trong đơn khởi kiện ra Toà án (BL 01) ông Tiền cũng khẳng định lại yêu cầu của mình: "chị Mùi phải trả lại sổ ghe cho tôi", Lời khai của ông Tiền ngày 21-04-1999 (BL03) sau khi đã lập hợp đồng uỷ quyền cho ông Hùng, ông Tiền vẫn khẳng định yêu cầu: "Toà án buộc chị tôi trả ghe mang biển số 8622 BTS lại cho tôi, và tôi giao lại cho anh tôi là Tiền Văn Hùng đứng tên, quản lý khai thác đánh bắt hải sản nuôi sống gia đình cha mẹ hai bên".
Như vậy, tuy nội dung uỷ quyền không rõ ràng: "… để trả lời và chất vấn mọi vấn đề có liên quan đến vụ kiện nói trên…", nhưng trước và sau khi uỷ quyền ông Hiệp Văn Tiền đều nêu yêu cầu Toà án công nhận quyền sở hữu chiếc ghe cho ông, buộc bà Mùi phải giao lại ghe và ông sẽ giao ghe này cho anh trai là Tiền Văn Hùng quản lý, khai thác lấy lợi nhuận nuôi sống gia đình. Do đó, ông Hùng tự ý bán ghe cho bà Mùi là vượt quá phạm vi được uỷ quyền và việc ông Hùng bán ghe với giá 75.000.000 đồng trong khi theo định giá là 87.820.250 đồng (BL21) là gây thiệt hại đến quyền lợi của ông Tiền.
Về tỉ lệ góp hùn: Vốn đóng ghe và mua ngư lưới cả hai bên đều thống nhất hết 33,9 lượng vàng. Bà Mùi lúc đầu chỉ thừa nhận ông Hiệp Văn Tiền mới góp 20,6 lượng vàng (BL15, 17, 19, 145), nhưng tại phiên toà sơ thẩm, sau khi Toà án cấp sơ thẩm đưa ra bức thư (BL47,48) người viết là ông Khương chồng bà Mùi gửi vợ chồng ông Tiền khi ông Tiền đang ở Mỹ, nội dung ông Khương công nhận ông Tiền đã góp 30,9 lượng vàng, thì bà Mùi đã thừa nhận ông Tiền góp 30,9 lượng vàng, còn lại 3 lượng là của bà và bà đòi tính công sức của bà trong việc quản lý ghe (BL147). Như vậy, 3 lượng vàng góp vốn còn lại chưa có cơ sở xác định là của ai, nhưng Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang vẫn công nhận quyền sở hữu chiếc ghe là của ông Hiệp Văn Tiền và nhận định 3 lượng vàng này là quan hệ vay nợ giữa bà Mùi với ông Tiền nên tách ra để giải quyết bằng một vụ kiện khác nếu bà Mùi yêu cầu nhưng trong phần quyết định thì lại ghi: "bác yêu cầu của bà Tiền Thị Mùi đòi phần hùn chiếc ghe 8622 BTS là 13,3 lượng vàng” là không đúng.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
QUYếT ĐịNH:
1- Huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 115/DSPT ngày 21-04-2000 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 14/DSST ngày 22-10-1999 của Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang đối với vụ án dân sự về việc: "tranh chấp quyền sở hữu ghe đánh cá" giữa nguyên đơn là ông Hiệp Văn Tiền với bị đơn là bà Tiền Thị Mùi.
2- Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang để xác minh, xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm theo thủ tục chung
Lý do các Bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị huỷ.
Các Toà án đã chấp nhận đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn không đúng pháp luật, vì người được uỷ quyền đang có tiền án.
Ông Tiền Văn Hùng đã vượt quá phạm vi được uỷ quyền nhưng Toà án lại chấp nhận là không đúng.
Chưa xác định được 3 lượng vàng góp vốn là của ai, nhưng Toà án lại nhận định đây là tài sản trong quan hệ vay mượn giữa ông Hiệp Văn Tiền và bà Tiền Thị Mùi. Mặt khác, khi quyết định lại bác yêu cầu của bà Mùi về đòi ông Hiệp Văn Tiền phải thanh toán khoản làm ghe và bảo quản ghe là không đúng.
Quyết định số 18/2003/HĐTP-DS ngày 30-05-2003
Về vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
………………..
Tại phiên toà ngày 30-05-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa các đương sự:
Nguyên đơn: - Bà Trần Thị Ngọc Hiền, sinh năm 1957 và các con bà Hiền là Trần Thị Ngọc Diệp; Trần Thị Ngọc Chi; Trần Thị Ngọc Hiếu; Trần Thị Bích Trâm (đều do bà Hiền giám hộ); cùng trú tại số 4 khu phố II, phường Tân Thuận Tây, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
- Bà Trần Thị Lý; Trần Thanh Bình; Trần Văn Nghĩa; Trần Thị Giàu; Trần Văn Hùng; tất cả đều uỷ quyền cho bà Trần Thị Lệ trú tại số 11/4B khu phố 1, phường Phú Thuận, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
Bị đơn: Ông Trần Văn Thọ và vợ là bà Phan Thị Hồng Hoa; cùng trú tại số 1B khu A khu phố 1, phường Tân Phú, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Anh Trần Thanh Xuân và chị Mai Lan Robetts cư trú tại
NHậN THấY:
Diện tích 120m2 nhà trên diện tích 1.199m2 đất tại số 2/7 khu phố 3, đường liên tỉnh lộ 15 (nay là đường Huỳnh Tấn Phát), phường Bình Thuận, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh là sở hữu của ông Trần Văn Lung. Ông Lung có vợ là bà Trần Thị Ngọc Hiền. Trong diện tích nhà đất nói trên mới chỉ có 120m2 nhà trên 170m2 đất là có giấy tờ, phần đất còn lại chưa được hợp thức hoá quyền sử dụng do ông Lung mua lại của người khác, nhưng chưa hoàn tất thủ tục mua bán.
Ngày 24-09-1999, ông Lung thoả thuận bán căn nhà 2/7 khu phố 3 nói trên cho vợ chồng ông Thọ, bà Hoa với giá 2,4 tỷ đồng. Dù chưa lập hợp đồng, nhưng ông Thọ đã giao cho ông Lung 360 triệu đồng. Ngày 26-09-1999, ông Lung giao toàn bộ nhà đất cho ông Thọ sử dụng. Việc giao nhà hai bên có làm "tờ giao nhận" trong đó có nội dung: "trong thời gian ông Lung chưa nhận đủ số tiền còn lại (theo hợp đồng bán nhà), mọi chi phí sửa chữa ông Lung hoàn toàn không bồi thường gì cả". Sau đó, phía ông Thọ tiếp tục trả thêm cho phía ông Lung tổng cộng là 1,08 tỷ đồng (trong đó có số tiền 51.000USD do em ông Thọ là anh Xuân và chị Mai Lan gửi trả từ
Tháng 12-1999, ông Thọ và ông Lung mới cùng nhau lập hợp đồng mua bán nhà đất nêu trên. Nội dung ông Lung bán nhà 2/7 khu phố 3 cho ông Thọ với giá 2,4 tỷ đồng, thanh toán tiền mua bán nhà làm 2 đợt:
Đợt 1: 1,4 tỷ đồng.
Đợt 2: Tính từ ngày 24-09-1999 đến ngày 24-12-1999, bên ông Thọ phải thanh toán tiếp số tiền còn lại là 1 tỷ đồng. Nếu đến hạn mà bên ông Thọ không đủ tiền thanh toán thì hai bên sẽ cùng nhau thế chấp căn nhà đang mua bán để vay 1 tỷ đồng trả cho ông Lung. Trong khi làm thủ tục vay thì ông Thọ phải chịu lãi suất bằng 5% trên số tiền 1 tỷ và phần lãi này sẽ trừ dần vào 1,4 tỷ đồng tiền đặt cọc. Bên ông Thọ phải chịu chi phí sang tên, thuế trước bạ và các khoản lệ phí khác… Bên bán cam kết nếu nhà đất có tranh chấp thì bên bán chịu trách nhiệm. Hợp đồng này chỉ có ông Lung, ông Thọ ký và Uỷ ban nhân dân phường Bình Thuận xác nhận chữ ký của hai ông, chứ chưa phải là xác nhận tình trạng tài sản chuyển dịch và chưa qua Công chứng theo quy định.
Thực hiện hợp đồng, tính đến ngày 04-12-1999, phía ông Thọ mới giao cho ông Lung 51.000USD và 430 triệu đồng (làm 3 lần BL 84, 85, 86). Phía ông Thọ cho rằng lần thứ 4 giao cho ông Lung 320 triệu đồng, nhưng không làm biên nhận. Điều này không được nguyên đơn thừa nhận. Sau đó, ông Thọ cũng không trả thêm tiền cho ông Lung, không thiết lập hợp đồng mua bán nhà đất theo quy định với lý do ông Lung không cùng ông Thọ lo thủ tục mua bán nhà đất đó. Ngày 18-04-2000, ông Thọ khởi kiện tại Toà án nhân dân quận 7 yêu cầu ông Lung phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà đất cho ông Thọ, sau đó, ông Thọ sẽ trả hết số tiền còn lại là 1 tỷ đồng. Ngày 01-11-2000, ông Thọ xin rút đơn khởi kiện ông Lung tại Tòa án để yêu cầu Uỷ ban nhân dân quận 7 giải quyết hợp đồng nêu trên. Sự việc chưa được giải quyết thì ngày 10-05-2000 ông Lung chết. Những người hưởng thừa kế của ông Lung gồm: bà Muội là mẹ ông Lung; bà Hiền là vợ cùng các con của ông Lung gồm: Trần Thị Ngọc Diệp, Trần Thị Ngọc Chi, Trần Thị Ngọc Hiếu và Trần Thị Bích Trâm. Ngày 01-11-2002, bà Hiền cùng các con của ông Lung lập giấy uỷ quyền cho bà Lệ giải quyết tranh chấp nhà đất nói trên với ông Thọ. Ngày 22-11-2000, bà Lệ khởi kiện ông Thọ tại Toà án yêu cầu ông Thọ tiếp tục thực hiện hợp đồng mua bán nhà với ông Lung, yêu cầu ông Thọ phải trả số tiền còn lại và lãi suất chậm trả trên số tiền đó. Ông Thọ cho rằng nhà đất của ông Lung phần lớn chưa được hợp pháp hoá quyền sở hữu nên yêu cầu phía bà Lệ làm xong thủ tục chuyển quyền sở hữu nhà đất, thì ông Thọ mới trả nốt s�! �� tiền còn lại; nếu không thì xin huỷ hợp đồng mua bán nhà và yêu cầu phía bà Lệ trả lại ông số tiền 1,4 tỷ đồng cùng với lãi suất và tiền sửa chữa nhà hết 100 triệu đồng. Nếu tiếp tục thực hiện hợp đồng thì số tiền còn lại là 1 tỷ đồng ông sẽ trả khi án có hiệu lực pháp luật. Ngoài ra, việc hợp đồng phải kéo dài là do ông không đủ tiền trả cho ông Lung, hai bên có ra Ngân hàng vay tiền theo thoả thuận nhưng ngân hàng không cho vay đủ 1 tỷ đồng và do ông Lung đòi lãi suất cho số tiền ông chưa trả quá cao.
Ngày 12-11-2001, bà Muội là mẹ ông Lung chết, các con của bà Muội (em của ông Lung) gồm: Trần Thị Lý, Trần Thanh Bình, Trần Văn Nghĩa, Trần Thị Giàu, Trần Văn Hùng là người hưởng thừa kế của bà Muội, đã lập hợp đồng uỷ quyền cho bà Lệ giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán nhà với ông Lung.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 151/DSST ngày 24-01-2002, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Lệ theo uỷ quyền của các nguyên đơn: Trần Thị Ngọc Hiền, Trần Thị Ngọc Diệp, Trần Thị Ngọc Chi, Trần Thị Ngọc Hiếu và Trần Thị Bích Trâm, Trần Thị Lý, Trần Thanh Bình, Trần Văn Nghĩa, Trần Thị Giàu, Trần Văn Hùng.
- Hủy hợp đồng mua bán nhà ở lập tháng 12-1999 giữa ông Trần Văn Lung với ông Trần Văn Thọ và bà Phan Thị Hồng Hoa.
Ông Lung chết tháng 05-2000, bà Muội mẹ ông Lung chết tháng 11-2001.
- Buộc ông Thọ, bà Hoa có trách nhiệm giao nhà 2/7 khu phố 3, đường liên tỉnh 15 (nay là đường Huỳnh Tấn Phát) phường Bình Thuận, quận 7 cùng khuôn viên đất cho các đồng thừa kế của ông Lung gồm: Trần Thị Ngọc Hiền, Trần Thị Ngọc Diệp, Trần Thị Ngọc Chi, Trần Thị Ngọc Hiếu và Trần Thị Bích Trâm, Trần Thị Lý, Trần Thanh Bình, Trần Văn Nghĩa, Trần Thị Giàu, Trần Văn Hùng do bà Lệ đại diện nhận.
Các đồng thừa kế của ông Lung, do bà Lệ đại diện có trách nhiệm giao trả ông Thọ 1.103.404.350 đồng, giao nhà và tiền thực hiện cùng một lúc, hạn chót ngày 24-04-2002. Ngoài ra, còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 30-01-2002, ông Thọ kháng cáo.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 119/DSPT ngày 30-05-2002, Toà Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định giữ nguyên các quyết định của Bản án sơ thẩm.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án phúc thẩm nói trên tại Quyết định số 33/KN-VKSTC-KSXXDS ngày 18-04-2003 với nhận xét: Việc Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm xác định hợp đồng mua bán nhà giữa ông Lung với ông Thọ, bà Hoa là hợp đồng vô hiệu là đúng. Toà án cấp sơ thẩm, phúc thẩm mới chỉ xác định lỗi của ông Thọ mà chưa xem xét lỗi của ông Lung là bán nhà thuộc sở hữu của vợ chồng mà chưa có sự đồng ý của bà Hiền; ông Lung còn cam kết căn nhà và đất không có tranh chấp, khiếu nại gì nhưng phần lớn đất chưa có giấy tờ công nhận quyền sử dụng. Trong tổng số 1,08 tỷ đồng phía ông Thọ trả cho ông Lung có 5 l.000 đô la Mỹ nhưng khi buộc phía bà Lệ trả lại cho ông Thọ thì Bản án sơ thẩm, phúc thẩm chưa xem xét đến sự trượt giá của đồng đô la Mỹ là không đúng. Đồng thời giá trị nhà, đất theo định giá là 7.385.963.200 đồng, nhưng Bản án sơ thẩm, phúc thẩm chỉ buộc phía bà Lệ trả lại cho ông Thọ 1,08 tỷ đồng là gây thiệt hại cho ông Thọ. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử huỷ cả hai Bản án sơ thẩm, phúc thẩm nói trên, giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm.
XéT THấY :
Diện tích nhà đất tại 2/7 khu phố 3, đường Huỳnh Tấn Phát, phường Bình Thuận, quận 7 thuộc sở hữu của ông Trần Văn Lung (BL 92, 88, 43, 38, 36, 63) và mới chỉ được hợp thức hoá diện tích 219,24m2 nhà trên diện tích 170m2 trong tổng số 1.199m2 đất (BL 36, 37). Toàn bộ diện tích đất này ông Lung mua của ông Nhãn từ năm 1991 (BL 63) và hiện không có tranh chấp. Mặc dù bà Hiền là vợ ông Lung không ký hợp đồng mua bán nhà với ông Thọ nhưng bà Hiền không những không có ý kiến phản đối mà còn yêu cầu ông Thọ thực hiện hợp đồng đã ký với ông Lung (BL 61, 62), nên không có căn cứ cho rằng ông Lung bán nhà đất mà không được sự đồng ý của bà Hiền như lập luận trong kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Tại hợp đồng mua bán nhà giữa ông Lung với ông Thọ lập tháng 12-1999 chỉ quy định: "Bên A (ông Lung) chịu trách nhiệm căn nhà và khu đất trên không tranh chấp, khiếu nại" (BL 45) và thực tế, sau khi ký hợp đồng mua bán cũng không có ai tranh chấp. Dù vậy, phía bà Lệ còn chủ động lập bản đồ hiện trạng nhà đất để làm thủ tục chuyển nhượng cho ông Thọ (BL 43) nên không có căn cứ cho rằng ông Lung có lỗi.
Cũng tại hợp đồng mua bán nhà ở lập tháng 12-1999 quy định ông Thọ phải thanh toán cho ông Lung 1,4 tỷ đồng vào ngày 24-09-1999, số tiền còn lại thanh toán đợt 2 là 1 tỷ đồng vào ngày 24-12-1999. Tuy ông Thọ khai đã trả cho ông Lung 1,4 tỷ đồng, nhưng thực tế, ông Thọ mới chỉ giao cho ông Lung được 1,08 tỷ đồng (BL 84, 85, 86); phần còn lại, ông Thọ không thanh toán.
Đối với số tiền còn lại (tại BL 107) ông Thọ khai: "gia đình ông vẫn có thiện chí tiếp tục mua bán nhà nhưng do tiền bạc bị trục trặc nên không thực hiện đúng hạn thoả thuận…". "Số tiền thanh toán đợt 2 là 1 tỷ, ông đồng ý tính theo cách tính của bà Lệ là 1 tỷ vốn + 160 triệu đồng lãi chậm trả trong hạn 3 tháng" (BL 94).
Như vậy, ông Thọ là người vi phạm thoả thuận về điều khoản thanh toán, mặc dù tại đơn khởi kiện (BL 61) và các lời khai ban đầu của bà Lệ (BL 94, 88), bà Lệ chỉ yêu cầu ông Thọ tiếp tục thực hiện hợp đồng, chịu lãi trên số tiền chậm trả nhưng ông Thọ vẫn hẹn thanh toán sau 3 tháng. Đồng thời, bà Lệ còn yêu cầu ngày 19-06-2000 ông Thọ cũng có mặt tại Uỷ ban nhân dân phường Bình Thuận để xác định nguồn gốc nhà đất nhằm lập thủ tục mua bán nhà đất theo qui định, nhưng ông Thọ từ chối.
Như vậy, bản thân ông Thọ là người có lỗi không thanh toán theo thoả thuận và hợp đồng mua bán nhà giữa ông Lung với ông Thọ bị vô hiệu về mặt hình thức. Nay bà Lệ đại diện cho các thừa kế của ông Lung yêu cầu huỷ hợp đồng mua bán nhà giữa ông Lung với ông Thọ. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 151/DSST ngày 24-01-2002 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án phúc thẩm số 119/DSPT ngày 30-05-2002 của Toà Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã áp dụng Điều 146 Bộ luật Dân sự để xử hủy hợp đồng mua bán nhà giữa ông Lung với ông Thọ là có căn cứ.
Đối với khoản tiền 51.000 đô la Mỹ do bà Lệ nhận từ phía ông Thọ giao thì các bên đã thống nhất quy đổi và tính trong tổng số 1,08 tỷ đồng tiền ông Thọ đã trả lần thứ nhất nên bản án sơ thẩm và phúc thẩm không đặt vấn đề xem xét khoản ngoại tệ đó một cách độc lập là đúng. Do vậy, không có cơ sở để chấp nhận những nội dung nêu trong Kháng nghị số 33/KN-VKSTC- KSXXDS ngày 18-04-2003 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.
Bởi các lẽ trên, căn cứ khoản 1 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
QUYếT ĐịNH:
Giữ nguyên hiệu lực Bản án dân sự phúc thẩm số 119/DSPT ngày 30-05-2002 của Toà Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh.
Căn cứ bác kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
Bản án sơ thẩm và phúc thẩm xác định lỗi giữa hai bên mua bán và xử huỷ hợp đồng mua bán nhà giữa họ là đúng.
Quyết định số 19/2003/HĐTP-DS ngày 26-06-2003
Về vụ án tranh chấp di sản thừa kế
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
………………..
Tại phiên toà ngày 26-06-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp di sản thừa kế giữa các đương sự :
Nguyên đơn: 1- Bà Huỳnh Ngọc Thu, sinh năm 1955; trú tại tổ 1, Thanh Hoà, xã Thanh Lương, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước;
2. Ông Huỳnh Minh Nhựt, sinh năm 1961; trú tại tổ 21, Phú Thuận, thị trấn An Lộc, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước;
3. Bà Huỳnh Ngọc Sương, sinh năm 1970; định cư tại Mỹ.
Bị đơn: Bà Trần Thị Mới, sinh năm 1945;
Ông Nguyễn Văn Rớt, sinh năm 1944;
Cùng trú tại tổ 4, Thanh Lương, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước;
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1- Anh Nguyễn Văn Thành, sinh năm 1977; trú tại tổ 4, xã Thanh Lương, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước;
2- Anh Nguyễn Viết Hải, sinh năm 1970; trú tại tổ 1, Thanh Thuỷ, xã Thanh Phú, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước;
3- Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn xã Thanh Phú, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước;
4- Uỷ ban nhân dân huyện Bình Long;
5- Ông Huỳnh Đô, sinh năm 1942; trú tại ấp Thanh Hoà, xã Thanh Lương, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước;
6- Bà Trương Thị Bích, sinh năm 1954; trú tại ấp Thanh Hoà, xã Thanh Lương, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước.
Nhận thấy:
Cụ Huỳnh Văn Trung có 3 vợ:
- Cụ Nguyễn Thị Lọt, chết năm 1972, không có di chúc, có một con là ông Nguyễn Văn Rớt.
- Cụ Bùi Thị Vinh, chết năm 1996, không có di chúc, có hai con là ông Huỳnh Văn Quang và bà Bùi Thị Em.
- Cụ Nguyễn Thị Bông, chết năm 2000, không có di chúc, có ba con là các ông, bà Huỳnh Ngọc Thu, Huỳnh Minh Nhựt và Huỳnh Ngọc Sương.
Năm 1993, cụ Trung xây một căn nhà cấp 4 trên diện tích 145m2 đất toạ lạc tại ấp Thanh Hoà, xã Thanh Lương, huyện Bình Long, tỉnh Bình Phước (trong hồ sơ không thể hiện nguồn gốc đất, chỉ có lời khai của bà Sương là đất do cụ Trung mua 1993 bằng tiền do bà Sương, cụ Bông gửi từ Mỹ về). Ngày 03-06-1994 cụ Trung chết, không có di chúc, di sản do ông Huỳnh Minh Nhựt quản lý.
Ngày 02-08-1996, các thừa kế của cụ Trung gồm cụ Nguyễn Thị Bông, ông Nguyễn Văn Rớt, bà Huỳnh Ngọc Thu, ông Huỳnh Minh Nhựt cùng anh Lâm Thành Mỹ (cháu cụ Trung) lập "Bản cam kết về việc trông coi nhà đất làm nơi thờ phụng" có nội dung:
- Giao cho ông Rớt căn nhà 12m x 7,5m trên thửa đất 97m2 và các vật dụng: 1 tủ thờ, 1 tủ mẹ bồng con, 1 bộ sa lông, 1 bộ ván cẩm lai, 1 giường hộp gỗ.
- Giao cho anh Lâm Thành Mỹ 58,5m2 đất.
Các tài sản trên, ông Rớt và anh Mỹ không được chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp. Sau này, ông Rớt, anh Mỹ không trông coi tiếp thì gia đình sẽ giao cho người khác.
Bản cam kết được Uỷ ban nhân dân xã Thanh Lương xác nhận.
Năm 1997, ông Rớt tự kê khai là đất được cha cho và xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; ngày 01-07-1998, ông Rớt được Uỷ ban nhân dân huyện Bình Long cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 0836 với diện tích 80m2.
Năm 2000, ông Rớt, bà Mới (vợ ông Rớt) đã đổi nhà đất di sản mà ông, bà quản lý để lấy 7.182m2 đất + 150 nọc tiêu tại tổ 4 ấp Phố Lố, xã Thanh Lương của vợ chồng ông Đô, bà Bích và ông Rớt được nhận thêm 5,1 cây vàng từ ông Đô, bà Bích. Ông Đô, bà Bích đã trả đủ ông Rớt vàng và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00114/QSD/QĐUBH ngày 28-03-2000 với diện tích 80m2.
Đối với thửa đất ông Rớt nhận từ ông Đô, bà Bích: ông Rớt bán cho vợ chồng anh Hải 1890m2 giá 9 triệu đồng; anh Hải đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 426268 ngày 06-07-2001 và đã làm nhà, trồng cây trái trên đất, thế chấp quyền sử dụng đất để vay 7 triệu đồng của Ngân hàng Thanh Phú. Phần đất còn lại anh Nguyễn Văn Thành (con ông Rớt) đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 426267 ngày 11-06-2001 với diện tích 5.292m2 và gia đình ông Rớt đã xây nhà, đào giếng, ao, trồng nọc tiêu trên đất. Anh Thành cũng đã thế chấp quyền sử dụng đất để vay 15 triệu của ngân hàng.
Năm 2000, bà Thu, bà Sương, ông Nhựt có đơn khởi kiện yêu cầu đòi lại di sản thừa kế để làm nơi thờ cúng.
Ông Rớt không đồng ý trả lại di sản mà ông đã bán, đổi cho ông Đô, bà Bích.
Tại Bản án số 02/DSST ngày 08-08-2000, Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước đã quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn Huỳnh Ngọc Thu, Huỳnh Minh Nhựt, Huỳnh Ngọc Sương; huỷ bỏ Quyết định số 354/QĐUB và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00114 ngày 28-03-2000 của Uỷ ban nhân dân huyện Bình Long cấp cho hộ ông Huỳnh Đô. Ông Đô và bà Trương Thị Bích giao lại cho bà Thu, ông Nhựt, bà Sương toàn bộ thửa đất diện tích 80m2 và nhà gồm: nhà cấp 4A diện tích 20,125m2, nhà cấp 4B diện tích 24,14m2, nhà bếp, nhà vệ sinh diện tích 8,225m2, sàn lát gạch tầu diện tích 52,4m2, giếng nước toạ lạc tại ấp Thanh Hoà, xã Thanh Lương có tứ cận: đông giáp quốc lộ 13; tây giáp đất ông Đô, bà Bích; nam giáp đất Lâm Thành Mỹ; bắc giáp đất ông Đô; bà Bích.
Ông Rớt có trách nhiệm trả lại cho ông Đô, bà Bích 10 cây vàng 24K.
Ông Rớt phải giao toàn bộ vật dụng cho bà Thu, ông Nhựt, bà Sương gồm: 1 tủ thờ, 1 tủ mẹ bồng con, 1 bộ sa lông (1 ghế dài, 2 chiếc ghế), 1 bàn mặt kiếng, 1 bộ ván cẩm lai, 1 giường hộp để sử dụng thờ cúng cụ Huỳnh Văn Trung và cụ Nguyễn Thị Bông.
Ngoài ra, Bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo.
Sau khi xử sơ thẩm, ông Rớt, bà Mới, ông Đô, bà Bích có đơn kháng cáo.
Tại Bản án phúc thẩm, số 37/DSPT ngày 03-03-2001, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Huỷ Bản án sơ thẩm số 02/DSST ngày 08-08-2000 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước.
- Giao toàn bộ hồ sơ vụ kiện cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại từ đầu với hội đồng xét xử khác.
Tại Bản án sơ thẩm số 02/DSST ngày 15-05-2002, Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước đã quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu của các nguyên đơn Huỳnh Ngọc Thu, Huỳnh Minh Nhựt, Huỳnh Ngọc Sương. Huỷ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 00114/QSDĐ/354/QĐUBH ngày 28-03-2000 của Uỷ ban nhân dân huyện Bình Long cấp cho hộ ông Huỳnh Đô. Ông Huỳnh Đô và bà Trương Thị Bích giao lại cho bà Thu, ông Nhựt, bà Sương thửa đất 80m2 và nhà gồm: nhà cấp 4A diện tích 20,125m2, nhà cấp 4B diện tích 24,14m2, nhà bếp, nhà vệ sinh diện tích 8,225m2 sàn lát gạch tầu diện tích 52,2m2, giếng nước toạ lạc tại ấp Thanh Hoà xã Thanh Lương có tứ cận: đông giáp quốc lộ 13; tây giáp đất ông Đô, bà Bích; nam giáp đất Lâm Thành Mỹ; bắc giáp đất ông Đô, bà Bích.
- Huỷ các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số S 426267 ngày 11-06-2001 và số S426268 ngày 06-07-2001 của Uỷ ban nhân dân huyện Bình Long cấp cho anh Nguyễn Văn Thành và anh Nguyễn Viết Hải. Anh Thành giao 5292m2 đất, anh Hải giao 1890m2 đất cho ông Đô, bà Bích, đất toạ lạc tại tổ 4, ấp Phố Lố, xã Thanh Lương, tứ cận chung của 2 thửa liền kề là: bắc giáp đất ông Phạm Văn Hiểu; nam giáp đất ông Tô Văn Minh; đông giáp đất ông Điểu Chóp; tây giáp đất ông Lê Văn Tính. Ông Đô, bà Bích hoàn lại cho anh Thành, ông Rớt, bà Mới giá trị tài sản trên đất là 28 triệu đồng, sau khi đã khấu trừ giá trị 150 nọc tiêu (nọc giả) khi hai bên nhận chuyển nhượng đã có trên đất ông Đô, bà Bích, hoàn lại cho anh Hải 22.796.800 đồng. Anh Thành, vợ chồng anh Hải phải trả tiền gốc và lãi theo các hợp đồng tín dụng số 1.2001.16133 Ngày 28-06-2001 và số 2001.29383 ngày 18-08-2001.
- Ông Rớt, bà Mới hoàn lại cho ông Đô, bà Bích 5,1 cây vàng 24K97%, hoàn lại cho vợ chồng anh Hải 9 triệu đồng tiền nhận từ việc chuyển nhượng đất.
Ngoài ra, Bản án, còn tuyên án phí và quyền kháng cáo.
Sau khi xử sơ thẩm, ông Rớt, bà Mới, ông Đô, bà Bích, bà Thu có đơn kháng cáo.
Tại Bản án, phúc thẩm số 218/DSPT ngày 29-08-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Huỷ toàn bộ Bản án, dân sự sơ thẩm số 02/DSST ngày 15-05-2002 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước, xét xử giữa nguyên đơn và bị đơn như đã nêu trên.
Giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh Bình Phước giải quyết lại theo thủ tục chung.
Ngày 24-03-2003,Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước có Báo cáo số 11/KSXXDS đề nghị Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị đối với Bản án phúc thẩm trên.
Tại Quyết định số 50/KN- VKSTC- Vụ 5 ngày 16-05-2003 Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án phúc thẩm số 218/DSPT ngày 29-08-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh với nhận định: Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ông Dương Quốc Chấn đã tham gia xét xử phúc thẩm 2 lần là vi phạm điểm c khoản 1 Điều 17 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và mục V Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19-10-1990 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, huỷ Bản án phúc thẩm nêu trên, giao hồ sơ vụ án cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại với hội đồng xét xử khác.
Xét thấy:
Toà án cấp sơ thẩm xác định huỷ các hợp đồng chuyển nhượng, chuyển đổi nhà, đất và giải quyết hậu quả của việc huỷ hợp đồng là đúng. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm chưa xác minh làm rõ nguồn gốc thửa đất 145m2 (trên có căn nhà cụ Trung xây năm 1993) có công sức đóng góp của cụ Lọt, cụ Vinh, cụ Bông hay không? Mặt khác, Toà án cấp sơ thẩm không đưa ông Huỳnh Văn Quang, bà Bùi Thị Em (hai con chung của cụ Trung và cụ Vinh) vào tham gia tố tụng là không đúng. Toà án cấp phúc thẩm đã huỷ Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ về cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại là có căn cứ. Tuy nhiên, tại phiên toà phúc thẩm lần 1 ngày 13-03-2001, Hội đồng xét xử Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh gồm 3 Thẩm phán là các ông: Chu Hải Thanh, Phạm Công Hùng, Dương Quốc Chấn. Ngày 29-08-2002, vụ án xét xử phúc thẩm lần 2, Thẩm phán Dương Quốc Chấn lại tham gia vào hội đồng xét xử của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh là vi phạm điểm c khoản 1 Điều 17 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
Quyết định:
Huỷ Bản án phúc thẩm số 218/DSPT ngày 29-08-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp di sản thừa kế có nguyên đơn là chị Huỳnh Ngọc Thu, anh Huỳnh Minh Nhựt, chị Huỳnh Ngọc Sương với bị đơn là bà Trần Thị Mới, ông Nguyễn Văn Rớt.
Giao hồ sơ vụ án trên cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại với Hội đồng xét xử khác theo đúng quy định của pháp luật.
Lý do Bản án phúc thẩm bị huỷ:
Hội đồng xét xử phúc thẩm vi phạm điểm c khoản 1 Điều 17 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
Quyết định số 20/2003/HĐTP-DS ngày 23-06-2003
Về vụ án yêu cầu chấm dứt hành vi
quảng cáo, trái pháp luật và buộc xin lỗi công khai
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
…………………….
Tại phiên toà ngày 23-06-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án yêu cầu chấm dứt hành vi quảng cáo trái pháp luật và buộc xin lỗi công khai giữa các đương sự:
- Nguyên đơn:
1. Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành do ông Trần Trí Lương, chức vụ Phó Giám đốc đại diện theo uỷ quyền; địa chỉ: số 213/10 C Hoà Bình, phường 19, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh
2. Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt do bà Lưu Thuý Châu, chức vụ Giám đốc đại diện; địa chỉ: C5/6D quốc lộ 1, Tân Kiên, Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh
3. Công ty TNHH sản xuất đồ nhựa Anh Dũng do ông Nguyễn Văn Dang, chức vụ Giám đốc đại diện; địa chỉ số 60-62 Ngô Gia Tự, phường 9, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh
-Bị đơn: Công ty Cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan do bà Phạm Thị Dã, chức vụ Phó Tổng giám đốc đại diện theo uỷ quyền; địa chỉ: số 28 Bình Thới, phường 14, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh.
NHậN THấY :
Ngày 23-07-2001, Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành do ông Trần Chí Lương, chức vụ Phó giám đốc đại diện; Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt do bà Lưu Thuý Châu, chức vụ Giám đốc đại diện và Công ty TNHH sản xuất đồ nhựa Anh Dũng do ông Nguyễn Văn Dang, chức vụ Giám đốc đại diện cùng khởi kiện yêu cầu Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan (gọi tắt là Công ty Kymdan) phải chấm dứt hành vi quảng cáo trái pháp luật gây ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng sản phẩm của các Công ty, phải đăng cải chính và xin lỗi công khai các nguyên đơn trên các báo mà Công ty Kymdan đã đăng trong tháng 07-2001. Các nguyên đơn không yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất tinh thần vì thiệt hại thực tế không tính được.
Đại diện Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan cho rằng: những năm gần đây, theo phản ánh của người tiêu dùng Công ty Kymdan phát hiện nhiều loại nệm giả nhãn hiệu Kymdan. Sự việc vi phạm đã được cơ quan quản lý thị trường lập biên bản xử lý. Để tránh sự nhầm lẫn gây thiệt hại cho khách hàng, Công ty Kymdan có đăng báo thông báo quảng cáo với nội dung phân tích tính đàn hồi không ưu việt của các sản phẩm nệm lò xo, nệm nhựa tổng hợp. Từ sau giải phóng đến nay, Công ty Kymdan chỉ sản xuất một loại nệm 100% cao su thiên nhiên, các sản phẩm khác không phải do Kymdan sản xuất. Công ty Kymdan không đề cập hay chỉ trích sản phẩm của đơn vị hoặc cá nhân nào. Mẫu quảng cáo của Công ty Kymdan luôn thay đổi, nên ngày 20-07-2001, Công ty Kymdan có đăng trên báo Người lao động khẳng định việc quảng cáo của Kymdan không nhằm so sánh sản phẩm nào, rất tiếc, việc Kymdan quảng cáo gây sự hiểu lầm của các công ty, Công ty Kymdan đã sử dụng nội dung quảng cáo khác. Công ty Kymdan nhận thấy quảng cáo của mình không vi phạm những điều cấm của pháp luật nên không đồng ý với yêu cầu của các nguyên đơn.
Trong quá trình giải quyết tại Toà án, đại diện Công ty TNHH sản xuất đồ nhựa Anh Dũng cho rằng quảng cáo của Công ty Kymdan không gây hiểu lầm đến sản phẩm của Công ty, Công ty xin rút yêu cầu khởi kiện.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 59/DSST ngày 25-09-2001, Toà án nhân dân quận 11 quyết định:
- Bác yêu cầu của Công ty TNHH thương mại Vạn Thành và Công ty TNHH Thương mại Ưu Việt về việc buộc Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan phải xin lỗi công khai, đính chính trên các báo đã đăng ngày 07-07, 11-07, 14-07 năm 2001, do Công ty Kymdan không vi phạm Điều 192 Luật Thương mại của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Văn Dang đại diện cho Công ty TNHH Thương mại Anh Dũng rút yêu cầu khởi kiện.
- án phí dân sự sơ thẩm: Ông Trần Trí Lương, đại diện cho Công ty TNHH thương mại Vạn Thành phải chịu 50.000đ, chuyển tạm ứng án phí sơ thẩm theo biên lai số 028515 thành án phí. Bà Lưu Thuý Châu đại diện Công ty TNHH thương mại Ưu Việt phải chịu 50.000đ, chuyển tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số 028513 ngày 30-07-2001 thành án phí. Ông Nguyễn Văn Dang phải chịu 25.000đ án phí dân sự sơ thẩm, hoàn tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm 50.000đ theo biên lai thu số 028514 ngày 30-07-2001 cho ông Dang.
Ngày 04-10-2001, Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành và Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt có đơn kháng cáo.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 392/DSPT ngày 22-03-2002, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Sửa một phần Bản án sơ thẩm:
- Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có trách nhiệm xin lỗi Công ty TNHH sản xuất thương mại Vạn Thành, Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt về việc quảng cáo có nội dung gây hiểu lầm.
- Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có trách nhiệm đính chính nội dung quảng cáo đã đăng từ ngày 05-07-2001 đến ngày 14-07-2001 trên các báo Sài Gòn giải phóng, Tuổi trẻ, Phụ nữ, Người lao động, Sài Gòn tiếp thị.
Việc xin lỗi và đính chính có nội dung cụ thể như sau:
“Trong quảng cáo của Công ty cổ phần cao su Kymdan đăng trên các báo Sài Gòn giải phóng, Phụ nữ, Tuổi trẻ, Sài Gòn tiếp thị và Người lao động từ ngày 05-07-2001 đến ngày 14-07-2001 có đoạn nói về tính năng của hai sản phẩm nệm mút xốp và nệm lò xo, có chỗ chưa đầy đủ, không phù hợp, gây hiểu lầm cho người tiêu dùng đối với hai sản phẩm nệm mút xốp và nệm lò xo, ảnh hưởng đến lợi ích các doanh nghiệp sản xuất nệm mút xốp và nệm lò xo, do vậy Công ty Kymdan xin nói lại cho rõ: nệm lò xo, nệm mút xốp sản xuất đúng chất lượng tiêu chuẩn đã đăng ký và được công nhận, đều có những đặc điểm ưu việt riêng của từng sản phẩm. Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan xin lỗi Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành, Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt, do quảng cáo thông báo có nội dung hiểu lầm nói trên”.
Nội dung đính chính và xin lỗi được đăng trên các trang quảng cáo của các báo Sài Gòn giải phóng 2 kỳ, Tuổi trẻ 2 kỳ, Phụ nữ 2 kỳ, Người lao động 2 kỳ, Sài Gòn tiếp thị 1 kỳ. Thời hạn đăng cải chính và xin lỗi là 1 tháng tính từ khi án có hiệu lực.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Văn Dang đại diện cho Công ty TNHH sản xuất thương mại Anh Dũng rút yêu cầu kiện, sung công 1/2 tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm của Công ty Anh Dũng là 25.000 đ, hoàn trả lại cho Công ty Anh Dũng 25.000đ tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm do đã nộp 50.000 đồng tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo phiếu thu số 28514 (30-07-2001) của Đội Thi hành án quận 11.
án phí dân sự sơ thẩm 50.000đ Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan chịu.
Hoàn trả tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm và tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm cho Công ty TNHH sản xuất thương mại Vạn Thành 1à 100.000đ do đã nộp theo các biên lai thu số 28515 ngày 30-07-2001, 28659 ngày 05-10-2001 của Đội Thi hành án quận 11. Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt là 100.000đ do đã đóng theo các biên lai thu số 28513 ngày 30-07-2001, 28658 ngày 05-10-2001 của Đội Thi hành án quận 11.
Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có đơn khiếu nại. Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có Công văn số 352/CV-KSXXDS ngày 08-04-2002 đề nghị xem xét lại Bản án phúc thẩm dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định số 44/KL-VKSTC-KSXXDS ngày 27-06-2002, Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên; đề nghị Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đưa vụ án ra xét xử giám đốc thẩm theo hướng: huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 392/DSPT ngày 22-03-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, giữ nguyên quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm số 59/DSST ngày 25-09-2001 của Toà án nhân dân quận 11, thành phố Hồ Chí Minh
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 240/GĐT-DS ngày 01-11-2002, Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đã quyết định:
- Sửa Bản án phúc thẩm số 392/DSPT ngày 22-03-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xử việc yêu cầu chấm dứt hành vi quảng cáo và xin lỗi công khai.
- Buộc Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có trách nhiệm xin lỗi Công ty TNHH thương mại Vạn Thành và Công ty TNHH thương mại Ưu Việt về việc quảng cáo có nội dung gây hiểu lầm.
- Công ty Cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có trách nhiệm đính chính nội dung quảng cáo đã đăng từ ngày 05-07-2001 đến ngày 14-07-2001 trên các báo Sài Gòn giải phóng, Phụ nữ, Tuổi trẻ, Người lao động, Sài Gòn tiếp thị. Nội dung cụ thể như sau:
”Trong quảng cáo của Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan đăng trên các báo Sài Gòn giải phóng, Tuổi trẻ, Phụ nữ, Người lao động, Sài Gòn tiếp thị từ ngày 05-07-2001 đến ngày 14-07-2001 có đoạn nói về tính năng của hai sản phẩm nệm mút xốp và nệm lò xo, có chỗ chưa đầy đủ, không phù hợp, gây hiểu lầm cho người tiêu dùng. Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan xin lỗi Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành, Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt".
- Nội dung đính chính và xin lỗi được đăng trên các trang quảng cáo của các báo Sài Gòn giải phóng 2 kỳ, Tuổi trẻ 2 kỳ, Phụ nữ 2 kỳ, Người Lao động 2 kỳ, Sài Gòn tiếp thị 1 kỳ.
- Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Văn Dang đại diện cho Công ty TNHH sản xuất thương mại Anh Dũng rút yêu cầu khởi kiện.
Về án phí:
- Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan phải nộp 50.000đ án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm cho: Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành là 100.000đ do đã nộp theo các biên lai thu số 28515 ngày 30-07-2001, 28659 ngày 05-10-2001 của Đội Thi hành án quận 11. Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt là 100.000đ do đã nộp theo các biên lai thu số 28513 ngày 30-07-200l, 28658 ngày 05-10-2001 của Đội Thi hành án quận 11. Sung công 1/2 tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm của Công ty TNHH TM Anh Dũng là 25.000 đ. Hoàn trả cho Công ty TNHH TM Anh Dũng là 25.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm do đã nộp 50.000đ tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số 28514 (30-07-2001) của Đội Thi hành án quận 11.
Sau khi có Quyết định giám đốc thẩm, Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có đơn đề nghị xem xét lại Quyết định giám đốc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định số 44/VKSTC-V5 ngày 14-05-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định giám đốc thẩm dân sự nêu trên. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng : huỷ Quyết định giám đốc thẩm 240/GĐT-DS ngày 01-11-2002 của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao và Bản án dân sự phúc thẩm số 392/DSPT ngày 22-03-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Giữ nguyên hiệu lực của Bản án dân sự sơ thẩm số 59/DSST ngày 25-09-2001 của Toà án nhân dân quận 11.
XéT THấY:
Nội dung quảng cáo của Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan đăng trên các báo Sài Gòn giải phóng, Phụ nữ, Tuổi trẻ, Người lao động, Sài Gòn tiếp thị trong tháng 07-2001 đã sử dụng phương pháp so sánh hàng hoá của mình (nệm Kymdan được làm từ 100% cao su thiên nhiên), với hàng hoá cùng loại của thương nhân khác (trong đó có Công ty TNHH Vạn Thành và Công ty TNHH Ưu Việt) đang sản xuất nệm lò xo, nệm nhựa poly-urethane (nệm mút xốp nhẹ). Trong quảng cáo so sánh hàng hoá Công ty Kymdan đã phân tích các nhược điểm của hai loại nệm trên như sau: ”Đối với nệm lò xo: ngoài việc lực phân bố để nâng đỡ cơ thể người nằm không đều khắp bề mặt, do tính chất không ưu việt của nguyên liệu sản xuất nên chất lượng nệm sẽ giảm dần theo thời gian. Nếu độ đàn hồi của lò xo thấp (tính dẻo cao): nệm sẽ bị xẹp sau một thời gian sử dụng. Nếu độ đàn hồi của lò xo cao: lò xo có thể bị gãy, gây nguy hiểm cho người sử dụng”. "Đối với nệm nhựa tổng hợp poly- urethane (nệm mút xốp nhẹ): tính dẻo ưu việt nên không có độ đàn hồi, mau bị xẹp" và Công ty Kymdan đã khẳng định "Chính vì những lý do đó mà Kymdan hoàn toàn không sản xuất nệm lò xo cũng như nệm nhựa poly- urethane. Tất cả các sản phẩm của Kymdan được làm từ 100% cao su thiên nhiên, có độ bền cao và không xẹp lún theo thời gian".
Như vậy, Công ty Kymdan không sản xuất hai loại nệm trên nhưng đã quảng cáo so sánh chất lượng nệm của Kymdan sản xuất với chất lượng nệm lò xo và nệm mút xốp nhẹ của các thương nhân khác sản xuất, trong đó có Công ty TNHH Vạn Thành và Công ty TNHH Ưu Việt là vi phạm các quy định của pháp luật về quảng cáo thương mại tại khoản 3 và khoản 5 Điều 192; khoản 9 Điều 257, khoản 2 Điều 258 Luật Thương mại; Điều 615, Điều 633 Bộ luật Dân sự. Vì vậy, Quyết định giám đốc thẩm số 240/GĐT-DS ngày 01-11-2002 của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao buộc Công ty Kymdan phải xin lỗi các nguyên đơn và đăng cải chính công khai trên những số báo mà Công ty Kymdan đã đăng quảng cáo là có căn cứ. Tuy nhiên, Quyết định giám đốc thẩm của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao chưa viện dẫn đầy đủ các điều luật cần áp dụng và một số tình tiết cần sửa lại cho chính xác và đúng pháp luật.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 3 Điều 77 Pháp 1ệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự; khoản 3 và 5 Điều 192, khoản 9 Điều 257, khoản 2 Điều 258 Luật Thương mại; Điều 615, Điều 633 Bộ luật Dân sự,
Quyết định :
1- Sửa Quyết định giám đốc thẩm số 240/GĐT-DS ngày 01-11-2002 của Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đối với vụ án dân sự yêu cầu chấm dứt hành vi quảng cáo, xin lỗi công khai giữa Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành do ông Trần Chí Lương, chức vụ Phó Giám đốc đại diện; Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt do bà Lưu Thuý Châu, chức vụ Giám đốc đại diện và Công ty TNHH sản xuất đồ nhựa Anh Dũng do ông Nguyễn Văn Dang, chức vụ Giám đốc đại điện với Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan do bà Phạm Thị Dã, chức vụ Phó tổng giám đốc đại diện, tuyên xử:
Buộc Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan có trách nhiệm xin lỗi Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành và Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt về quảng cáo có nội dung gây hiểu lầm và phải cải chính nội dung quảng cáo đã đăng trong tháng 07 năm 2001 trên các báo Sài Gòn giải phóng, Phụ nữ, Tuổi trẻ, Người lao động, Sài Gòn tiếp thị. Nội dung cụ thể như sau:
"Trong quảng cáo của Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan đăng trên các báo Sài Gòn giải phóng, Phụ nữ, Tuổi trẻ, Người lao động, Sài Gòn tiếp thị trong tháng 7 năm 2001 có đoạn nói về tính năng của hai sản phẩm nệm lò xo và nệm mút xốp, có chỗ chưa đầy đủ, gây hiểu lầm cho người tiêu dùng. Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan xin lỗi Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành và Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt".
Nội dung cải chính và xin lỗi được đăng trên các trang quảng cáo của các báo Sài Gòn giải phóng 2 kỳ, Tuổi trẻ 2 kỳ, Phụ nữ 2 kỳ, Người lao động 2 kỳ, Sài Gòn tiếp thị 1 kỳ. Trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ra Quyết định số 20/HĐTP-DS ngày 23-06-2003, Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan phải đăng cải chính và xin lỗi Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành và Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Nguyễn Văn Dang đại diện cho Công ty TNHH sản xuất đồ nhựa Anh Dũng rút yêu cầu khởi kiện.
Về án phí:
- Công ty cổ phần cao su Sài Gòn Kymdan phải nộp 50.000đ án phí dân sự sơ thẩm.
- Hoàn trả tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm và phúc thẩm cho: Công ty TNHH sản xuất và thương mại Vạn Thành là 100.000đ do đã nộp theo các biên lai thu số 28515 ngày 30-07-2001, 28659 ngày 05- l0-2001 của Đội Thi hành án quận 11. Công ty TNHH sản xuất Mousse Ưu Việt là 100.000đ do đã nộp theo các biên lai thu số 28513 ngày 30-07-2001, 28658 ngày 05-10-2001 của Đội Thi hành án quận 11. Sung công 1/2 tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm của Công ty TNHH sản xuất đồ nhựa Anh Dũng là 25.000 đ. Hoàn trả cho Công ty TNHH Anh Dũng 25.000đ tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm do đã nộp 50.000 đ tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai thu số 28514 (30-07-2001) của Đội Thi hành án quận 11, thành phố Hồ Chí Minh.
Lý do sửa Quyết định giám đốc thẩm của Toà Dân sự – Toà án nhân dân tối cao.
Vì chưa viện dẫn đầy đủ các điều luật cần áp dụng.
Quyết định số 21/2003/HĐTP- DS ngày 23-06-2003
Về vụ án tranh chấp hợp đồng
hùn vốn kinh doanh
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
…………………
Tại phiên toà ngày 23-06-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp hợp đồng hùn vốn kinh doanh giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Phùng Khánh Đoàn; trú tại F6 cư xá Sơn Kỳ, phường 14, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh;
Bị đơn: Chị Phùng Khánh Đông; trú tại A4 khu 3, đường Trường Sơn, phường 15, quận 10, thành phố Hồ Chí Minh; uỷ quyền cho anh Kỹ Minh Đức.
Nhận thấy:
Theo lời trình bày của anh Phùng Khánh Đoàn thì ngày 14-08-1996 anh Phùng Khánh Đoàn, chị Phùng Khánh Ngân, chị Phùng Khánh Lý và chị Phùng Khánh Đông ký thoả thuận hùn vốn kinh doanh với nội dung: Thống nhất thành lập cơ sở kinh tế gia đình đầu tư vào việc khai thác kho xưởng để cho thuê tại địa điểm Công ty giống và cây trồng thuộc Sở nông nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, vốn khởi điểm cho nhu cầu hoạt động của cơ sở là 100.000.000 đồng. Sau một thời gian, chị Ngân và chị Lý rút phần hùn.
Ngày 14-11-1996 anh Đoàn và chị Đông ký thoả thuận chia lợi nhuận với nội dung:
- Tổng diện tích kho xưởng gồm có: 1) kho ở huyện Bình Chánh; 2) kho ở Tích Ngân; 3) kho ở 88 xa lộ; cả ba kho đều do chị Đông đại diện đứng tên thuê.
- Hùn vốn không quy định cụ thể, tuỳ điều kiện của từng người có bao nhiêu bỏ vào bấy nhiêu.
- Phương thức chia lãi được thoả thuận như sau: Sau khi trả vốn vay còn lại của chung sẽ được chia 6/4, chị Đông hưởng 60%, anh Đoàn hưởng 40%.
- Đến tháng 06-1997 hai bên quyết định tiến hành quyết toán và phân chia kho để kinh doanh riêng. Trong thời gian hùn vốn kinh doanh hai bên đã xây dựng được 8 kho với tổng diện tích là 11.625m2 gồm: 3 kho toạ lạc tại số 1/47 Hương lộ 40, quận 12 trong đó diện tích mỗi kho là 1.885m2; 1.500m2 và 1.300m2; 4 kho toạ lạc tại số 02 Bis Quốc lộ 1A, quận 12 trong đó 3 kho có diện tích bằng nhau mỗi kho là 1.180m2 và 1 kho có diện tích là 1.400m2; 1 kho toạ lạc tại 366 Hùng Vương, huyện Bình Chánh.
Chị Đông giao cho anh Đoàn một trong 3 kho tại 1/47 Hương lộ 40, quận 12 và 15, tháng sau sẽ giao tiếp một kho tại số 366 Hùng Vương, huyện Bình Chánh. Anh Đoàn đã nhận một kho tại số 1/47 Hương lộ 40, quận 12 nhưng không đồng ý theo cách phân chia của chị Đông, nên đã khởi kiện yêu cầu giao thêm 2 kho tại 2 Bis Quốc lộ 1A, quận 12 gồm: Một kho do anh Lê Trí Long là chủ Cơ sở Kim Long thuê có diện tích 1.400m2 và một kho do chị Huỳnh Thị Mỹ Thanh đại diện cho Cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê có diện tích 1.180m2. Anh Đoàn yêu cầu chị Đông trả số tiền thu nhập của hai kho từ tháng 07-1997 đến nay là 101.050USD và 578.000.000đồng, cùng phần vốn góp là 262.000.000đồng, đồng thời bồi thường do mất thu nhập trong một năm tại kho ở số 1/47 Hương lộ 40, quận 12 do chị Đông chiếm giữ kho là 696.000.000 đồng. Ngoài ra, anh Đoàn còn yêu cầu chị Đông giao bình hạ thế tại cụm kho 1/47 Hương lộ 40, quận 12 cho anh Đoàn.
Theo lời trình bày của chị Phùng Khánh Đông thì ngày 30-06-1997 chị Đông cùng chị Lý (do anh Đoàn uỷ quyền) đã thoả thuận phân chia lợi nhuận và trách nhiệm là:
- Anh Đoàn nhận một kho có diện tích 1.885m2 tại 1/47 Hương lộ 40, quận 12 để tự khai thác kinh doanh với điều kiện là anh Đoàn phải chịu trách nhiệm đối với 54.000 USD tiền thế chân của khách thuê kho.
- Anh Đoàn sẽ được tiếp tục nhận thêm một kho nữa tại 366 đường Hùng Vương, huyện Bình Chánh sau khoảng 15 tháng khi chị Đông thu tiền cho thuê kho để trả hết số nợ 285.878.000 đồng tiền chi phí đầu tư xây dựng.
Tuy nhiên, sau khi nhận kho tại số 1/47 Hương lộ 40, quận 12 anh Đoàn đã tự ý huỷ hợp đồng thuê kho với khách thuê, nên chị Đông đã phải trả cho khách 54.000 USD tiền thế chân. Tiếp đó, anh Đoàn yêu cầu được nhận ngay kho tại 366 đường Hùng Vương, huyện Bình Chánh trong khi còn nợ 285.878.000 đồng tiền chi phí đầu tư xây dựng. Chị Đông yêu cầu thực hiện theo thoả thuận ngày 30-06-1997.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 879/DSST ngày 15-05-2001, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
- Buộc chị Phùng Khánh Đông phải giao thêm cho anh Phùng Khánh Đoàn 2 kho tại số 2 Bis Quốc lộ 1A, quận 12 với đầy đủ các tiện nghi điện nước như nguyên trạng. Hai kho này được chỉ định như sau:
+ Kho có diện tích 1.400m2 (hiện do Cơ sở Kim Long thuê).
+ Kho có diện tích 1.180m2 (kho đầu tiên, bên phải, tính từ Quốc lộ 1A vào hiện do Cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê).
Ngoài 2 kho nêu trên anh Đoàn còn được sử dụng chung bình hạ thế tại cụm kho này và được sử dụng chung đường giao thông từ cụm kho ra công lộ.
- Anh Đoàn cùng Công ty giống và cây trồng căn cứ quyết định này để ký lại hợp đồng thuê mặt bằng cho phù hợp.
- Các vấn đề quyền lợi, nghĩa vụ phát sinh giữa anh Đoàn với Cơ sở Kim Long và Kim Hoàn Vũ do các đương sự tự thương lượng giải quyết. Nếu có tranh chấp đương sự có thể khởi kiện thành một vụ án khác.
Giao cho anh Đoàn quản lý bình hạ thế TBT- 630HVA22-15/0,4KV đặt tại 1/47 Hương lộ 40, quận 12. Anh Đoàn phải giữ nguyên tình trạng sử dụng chung bình hạ thế này như vốn có từ trước.
- Chị Phùng Khánh Đông có trách nhiệm giao cho anh Phùng Khánh Đoàn tiền lợi nhuận của 2 kho nêu trên, tính từ tháng 07-1997 đến tháng 05-2001 là 1.773.205.500 đồng.
- Anh Đoàn có trách nhiệm giao cho chị Đông số tiền hoàn cọc cho khách thuê kho là 786.780.000 đồng.
Cấn trừ hai khoản nêu trên, chị Đông còn phải giao cho anh Đoàn 986.427.500 đồng.
- Bác yêu cầu anh Đoàn đòi chị Đông bồi thường 696.000.000 đồng tiền thiệt hại do chị Đông chiếm giữ kho và đòi bồi hoàn 262.000.000 đồng tiền vốn góp.
Giải tỏa các quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 06/KCTT ngày 04 tháng 02 năm 1999 và số 56/KCTT ngày 15 tháng 12 năm 1999.
Ngoài ra, Bản án còn quyết định về án phí.
Ngày 22-05-2001, anh Phùng Khánh Đoàn kháng cáo
Ngày 23-05-2001, chị Phùng Khánh Đông kháng cáo.
Tại Quyết định số 646/KNDS ngày 29-05-2001, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị Bản án sơ thẩm nêu trên và đề nghị Toà Phúc thẩm xử theo hướng: Bác yêu cầu của chị Đông về việc đòi anh Đoàn phải bồi thường thiệt hại số tiền cọc 54.000 USD= 786.780.000 đồng; Buộc chị Đông phải trả anh Đoàn số tiền vốn góp ban đầu là 262.000.000 đồng.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 378/DSPT ngày 15-11-2001, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định sửa một phần Bản án sơ thẩm như sau:
- Bác yêu cầu của chị Phùng Khánh Đông đòi anh Phùng Khánh Đoàn hoàn trả số tiền 786.780.000 đồng mà chị Đông đã hoàn tiền đặt cọc cho khách thuê kho.
- Giữ nguyên các quyết định khác của Bản án sơ thẩm.
Sau khi xét xử phúc thẩm chị Phùng Khánh Đông có đơn khiếu nại.
Tại Quyết định số 05/KN-VKSTC-KSXXDS ngày 08-01-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên và đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm: "Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 879/DSST ngày 15-05-2001 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự phúc thẩm số 378/DSPT ngày 15-11-2001 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung".
Xét thấy:
Các Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã chia thêm cho anh Đoàn hai kho tại 2 Bis Quốc lộ 1 A, quận 12 do cơ sở Kim Long và cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê là đúng. Nhưng Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm áp dụng giá cho thuê kho 2.150USD đối với kho do cơ sở Kim Long thuê và 18.500.000 đồng đối với kho do cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê là chưa có căn cứ. Vì trong hồ sơ vụ án không có hợp đồng cho thuê kho với giá 2.150 USD và 18.500.000đồng. Các Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chỉ căn cứ vào lời khai của các đương sự để xác định giá cho thuê kho, trong khi lời khai của các đương sự có nhiều mâu thuẫn. Cụ thể: Theo lời khai của anh Đoàn thì kho do cơ sở Kim Long thuê với giá là 2.150 USD, kho do cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê với giá là 18.500.000đồng. Nhưng theo lời khai của chị Đông thì kho cho anh Lê Trí Long chủ cơ sở Kim Long thuê từ tháng 01-1997, thời hạn thuê là 5 năm, tiền thuê mỗi tháng là 2.150 USD, nhưng đến ngày 05-07-1997 chị Đông đã sang phần xây dựng kho này cho anh Long với giá 350.000.000 đồng, có cấn trừ tiền thế chân một năm, tiếp theo chị Đông chỉ cho anh Long thuê bãi với giá 6.000.000 đồng một tháng. Đối với kho cho chị Huỳnh Thị Mỹ Thanh đại diện cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê, kho này đầu tiên do Công ty Phương Phương thuê một năm, từ Tháng 12-1996, tiền thuê là 18.500.000 đồng một tháng, một năm là 222.000.000 đồng. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ thực hiện 6 tháng thì Công ty Phương Phương không thuê nữa, chị Đông đã trả lại cho Công ty Phương Phương 111.000.000 đồng và chấm dứt hợp đồng. Đến tháng 09-1998 mới cho cơ sở Kim Hoàn Vũ thuê, nhưng chỉ cho thuê bãi với giá 6.000.000 đồng một tháng, còn phần xây! dựng sang luôn cho cơ sở Kim Hoàn Vũ với giá 260.000.000 đồng. Theo lời khai của anh Lê Trí Long thì anh Long thuê kho từ tháng 01-1997, thời hạn thuê là 5 năm, tiền thuê kho là 6.000.000 đồng một tháng, tiền thế chân là 72.000.000. Lý do anh Long thuê kho chỉ với giá 6.000.000 đồng một tháng vì khi anh Long thuê chỉ có mặt bằng và 4 bức vách, sau khi thuê anh Long phải đầu tư xây dựng lại toàn bộ để thành cái kho như hiện nay. Anh Long khẳng định không bao giờ thuê kho nào của chị Đông với giá 2.150 USD. Đối với cơ sở Kim Hoàn Vũ thì Toà án chưa lấy lời khai của chị Huỳnh Thị Mỹ Thanh, nhưng căn cứ vào hợp đồng ngày 07-05-1997 giữa chị Đông và chị Huỳnh Thị Mỹ Thanh đại diện cơ sở Kim Hoàn Vũ thì chị Đông uỷ quyền cho chị Thanh sử dụng mặt bằng có diện tích 1.200m2 trong thời hạn một năm với giá 6.000.000 đồng một tháng, thành tiền là 72.000.000 đồng. Ngoài ra, trong hồ sơ vụ án còn có nhiều hợp đồng thuê kho với giá 6.000.000 đồng một tháng. Do đó, cần phải xác minh nhằm xác định chính xác giá tiền và thời hạn thuê kho của cơ sở Kim Long và cơ sở Kim Hoàn Vũ để giải quyết vụ án cho đúng với thực tế khách quan.
Đối với khoản tiền 54.000 USD: Xét thấy, chị Đông đã đồng ý giao cho anh Đoàn một kho toạ lạc tại 1/47 Hương lộ 40, quận 12 có diện tích là 1.885m2 để tự kinh doanh, trong khi kho này đang có khách thuê kho và đã đặt cọc cho chị Đông 54.000 USD thì về nguyên tắc chị Đông phải giao cho anh Đoàn số tiền do khách đặt cọc thuê kho. Tuy nhiên, theo lời khai của chị Đông thì ngày 30-06-1997 chị Đông cùng chị Lý (do anh Đoàn uỷ quyền) đã thoả thuận anh Đoàn nhận một kho có diện tích 1.885m2 tại 1/47 Hương lộ 40, quận 12 để tự khai thác kinh doanh với điều kiện là anh Đoàn phải tiếp tục cho khách thuê tiếp để cấn trừ số tiền 54.000 USD, nhưng sau khi anh Đoàn nhận kho; anh Đoàn đã đuổi khách thuê kho, nên chị Đông đã phải trả lại cho khách tiền đặt cọc. Anh Đoàn không thừa nhận có sự thoả thuận này. Các Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm cũng chưa lấy lời khai của chị Lý để xác định có việc thỏa thuận về số tiền 54.000 USD hay không. Vì vậy, nếu Toà án xác định rõ hoặc chị Đông chứng minh được có việc thoả thuận ngày 30-06-1997 về việc phân chia kho như chị Đông khai thì phải buộc anh Đoàn chịu trách nhiệm đối với khoản tiền đặt cọc này. Mặt khác, căn cứ vào biên bản thanh lý hợp đồng ngày 08-12-1997 thì số tiền 54.000 USD sau khi khấu trừ 18.000 USD tiền thuê kho trong 4 tháng nên chị Đông chỉ còn phải trả lại cho khách thuê kho là 36.000 USD. Do đó, nếu có việc thoả thuận ngày 30-06-1997 thì anh Đoàn cũng chỉ phải chịu trách nhiệm đối với 36.000 USD.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
Quyết định:
Huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 378/DSPT ngày 15-11-2001 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 879/DSST ngày 15-05-2001 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định pháp luật.
Lý do các Bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị huỷ:
Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm đã xác định giá tiền và thời hạn thuê kho không đúng thực tế khách quan. Và chưa xác định rõ trách nhiệm của các bên đối với số tiền đặt cọc của khách thuê kho.
Quyết định số 22/2003/HĐTP-DS ngày 23-06-2003
Về vụ án đòi giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
…………………..
Tại phiên toà ngày 23-06-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án đòi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giữa các đương sự :
Nguyên Đơn: Chị Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh, sinh năm 1978; trú tại số nhà 512 ấp Hưng Lộc, xã Hưng Định, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương.
Bị Đơn: Bà Trịnh Thị Nhật, sinh năm 1952; trú tại số nhà 215 đường Cách mạng tháng Tám, phường Phú Cường, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan:
Bà Vương Thị Lân, sinh năm 1954; trú tại ấp Tây, xã Vĩnh Phú, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương (là mẹ chị Oanh)
nhận thấy:
Ngày 10-03-1993, bà Vương Thị Lân (mẹ chị Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh) và bà Trịnh Thị Nhật cùng hùn tiền mua chung 6.351m2 đất của bà Nguyễn Thị Rỉ tại ấp Hưng Lộc, xã Hưng Định, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương với giá 180 lạng vàng. Sau đó vì không tìm được người bán đất nên giữa bà Lân và bà Nhật thoả thuận phân chia đất. Bà Lân nhận 3.631,2m2 để cho ông Nguyễn Dũng (chồng bà Lân) và chị Oanh (con gái bà Lân) đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần chị Oanh đứng tên có diện tích 1.368m2. Ông Dũng đứng tên có diện tích 2.263m2. Ngày 17-05-1993 chị Oanh được Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng 1.368m2 đất.
Cùng thời gian bà Lân vay tiền của bà Nhật nhiều lần (theo giấy nhận nợ do bà Lân viết ngày 20-04-1993 là 272.000.000đồng với lãi suất 6% tháng không ghi thời hạn thanh toán. Bà Lân đã trả cho bà Nhật 4 lần tiền lãi là 52.000.000 đồng và 1.000.000 đồng tiền nợ gốc. Bà Lân còn nợ bà Nhật 271.000.000 đồng.
Do không thanh toán được nợ cho bà Nhật, bà Lân đã dùng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên chị Oanh để đảm bảo việc thanh toán nợ. Sau đó, bà Lân vẫn không trả được nợ cho bà Nhật. Năm 1996, bà Nhật khởi kiện đòi nợ bà Lân.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 94/DSPT ngày 07-10-1996, Toà án nhân dân tỉnh Sông Bé (cũ) buộc bà Lân trả cho bà Nhật 527.455.550 đồng (cả gốc và lãi)
Ngày 18-08-1996, chị Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh khởi kiện yêu cầu bà Nhật trả lại các giấy tờ về quyền sử dụng diện tích đất mà chị đứng tên.
Bà Nhật xác định diện tích đất chị Oanh đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản của bà Lân. Bởi vì vào năm 1993, chị Oanh mới 15 tuổi, là học sinh sống phụ thuộc gia đình. Do đó, bà Nhật không đồng ý trả lại giấy tờ đất cho chị Oanh. Bà yêu cầu được giữ để bảo đảm cho khoản nợ vay của bà Lân.
Bà Lân thừa nhận giữa bà với bà Nhật có quan hệ làm ăn với nhau, bà nợ bà Nhật 272.000.000 đồng, có hùn vốn mua đất của bà Rỉ, đất được chia làm 4 phần (4 sổ), chồng và con của bà và 2 em của bà Nhật đứng tên.
Sau khi được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bà Nhật bảo bà đưa 4 quyển sổ cho bà Nhật xem và bà Nhật giữ luôn.
Bà Lân yêu cầu bà Nhật trả lại giấy tờ cho chị Oanh, còn quan hệ làm ăn giữa hai người sẽ tự giải quyết với nhau.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 37/DSST ngày 14-07-1997, Toà án nhân dân thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương quyết định: Bà Trịnh Thị Nhật có nghĩa vụ phải trả cho chị Oanh một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đứng tên Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh, do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An cấp ngày 17-05-1993 (bản chính); một giấy quyết định giao đất đứng tên Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh, diện tích đất sử dụng 1.356m2 do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An cấp ngày 12-05-1993 (bản chính); một giấy quyết định thu hồi đất của bà Nguyễn Thị Rỉ, do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An ban hành ngày 12-05-1993 (bản chính); bác yêu cầu của chị Oanh đòi bà Nhật phải bồi thường thiệt hại 382.000.000 đồng.
Bà Nhật phải nộp 50.000đồng và chị Oanh phải nộp 14.460.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm .
- Ngày 20-07-1997, chị Oanh kháng cáo xin giảm án phí
- Ngày 27-07-1997 bà Nhật kháng cáo yêu cầu xét xử công bằng.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 64/DSPT ngày 10-09-1997, của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương quyết định sửa Bản án sơ thẩm buộc bà Trịnh Thị Nhật phải trả cho chị Oanh:
- Một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An cấp ngày 17-05-1993 (bản chính).
- Một quyết định giao đất mang tên Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An ban hành ngày 12-05-1993 (bản chính).
- Một quyết định thu hồi đất của bà Nguyễn Thị Rỉ do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An ban hành ngày 12-05-1993 (bản chính).
án phí dân sự sơ thẩm bà Trịnh Thị Nhật phải nộp 50.000đồng, được trừ 50.000 đồng tạm ứng án phí. Hoàn trả cho chị Oanh 100.000 đồng dự phí phúc thẩm,
Tại Quyết định kháng nghị số 256/DS ngày 08-09-2000, Toà án nhân dân tối cao đề nghị huỷ các Bản án sơ thẩm và phúc thẩm về vụ án và giao hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án.
Tại Kết luận số 178/KL ngày 03-10-2000, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao xét xử huỷ cả hai bản án sơ thẩm và phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương để điều tra xét xử sơ thẩm.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 13/GĐT- DS ngày 13-02-2001, Toà Dân sự Toà án nhân dân tối cao đã xử huỷ bản án dân sự sơ thẩm số 37/DSST ngày 14-07-1997 của Toà án nhân dân thị xã Thủ Dầu Một và Bản án dân sự phúc thẩm số 64/DSPT ngày 10-09-1997 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương; giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương xét xử theo thủ tục sơ thẩm.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 10/DSST ngày 18-09-2001, Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định :
- Bác yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh
- Bà Trịnh Thị Nhật tiếp tục tạm giữ:
+ Một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh, do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An cấp ngày 17-05-1993 (bản chính).
+ Một Quyết định giao đất mang tên Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An cấp ngày 12-05-1993 (bản chính).
+ Một quyết định thu hồi đất của bà Nguyễn Thị Rỉ do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An ban hành ngày 12-05-1993 (bản chính).
Sau khi bản án có hiệu lực, Phòng Thi hành án tỉnh Bình Dương tiến hành kê biên, phát mãi khu đất có diện tích 1.368m2 của chị Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh toạ lạc tại ấp Hưng Lộc, xã Hưng Định,huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương để thi hành Bản án số 94/DSPT ngày 07-10-1996 của Toà án nhân dân tỉnh Sông Bé (cũ).
Ngày 24-09-2001,chị Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh kháng cáo. Ngày 27-09-2001, bà Vương Thị Lân kháng cáo không đồng ý toàn bộ quyết định của Bản án sơ thẩm.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 4/DSPT ngày 10-01-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định giữ nguyên toàn bộ quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm nêu trên của Toà án nhân dân tỉnh Bình Dương, như sau:
- Bác yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh
- Giao cho bà Trịnh Thị Nhật tiếp tục tạm giữ những giấy tờ sau:
+ Một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An cấp ngày 17-05-1993 (bản chính).
+ Một quyết định giao đất mang tên Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An cấp ngày 12-05-1993 (bản chính).
+ Một quyết định thu hồi đất của bà Nguyễn Thị Rỉ do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An ban hành ngày 12-05-1993.
- Sau khi Bản án đã có hiệu lực pháp luật, bà Trịnh Thị Nhật có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án tỉnh Bình Dương kê biên, phát mãi khu đất có diện tích 1.368m2 tại ấp Hưng Lộc, xã Hưng Định, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương do Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh đứng tên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để đảm bảo thi hành án thanh toán khoản tiền mà bà Vương Thị Lân còn nợ bà Trịnh Thị Nhật theo Bản án dân sự phúc thẩm số 94/DSPT ngày 07-10-1996 của Toà án nhân dân tỉnh Sông Bé (cũ)
- án phí dân sự phúc thẩm chị Oanh và bà Lân mỗi người phải nộp 50.000đồng.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
Chị Oanh khiếu nại Bản án phúc thẩm
Tại Kháng nghị số 65/KN-VKSNDTC-Vụ 5 ngày 27-05-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giải quyết lại vụ án theo hướng huỷ án phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại phúc thẩm.
Xét thấy:
Chị Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh là người đứng tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng bà Vương Thị Lân (mẹ chị Oanh) là người mua đất và trả vàng mua đất cho bà Nguyễn Thị Rỉ. Tại "đơn gửi Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuận An" của bà Vương Thị Lân đề ngày 15-06-1995 có ghi "Đất của Oanh em trả luôn cho bà Nhật". Cũng tại Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thuận An ngày 05-11-1994 ông Nguyễn Dũng (cha của chị Oanh) khai rằng: "Thực tế đất là của bà Lân trực tiếp sang nhượng của bà Nguyễn Thị Rỉ để cho con là Oanh đứng tên; Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hiện bà Nhật giữ, vì bà Lân vẫn còn thiếu nợ bà Nhật". Như vậy, có cơ sở để xác định 1.368m2 đất tại xã Hưng Định, huyện Thuận An, tỉnh Bình Dương thuộc quyền sử dụng của bà Lân. Do đó, hai cấp Toà án đã xử bác yêu cầu của chị Oanh đòi bà Nhật trả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đúng. Theo quy định của pháp luật nếu bà Lân không tự nguyện thi hành án và không còn tài sản nào khác để thi hành án, thì bà Nhật có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án kê biên, phát mãi diện tích đất nêu trên. Đó là thủ tục thi hành án. Việc Toà án cấp phúc thẩm quyết định bà Trịnh Thị Nhật được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án kê biên, phát mãi 1.368m2 đất là không cần thiết. Việc kê biên, phát mãi tài sản của người phải thi hành án được quy định tại Pháp lệnh Thi hành án dân sự ngày 01-6-1993.
Vì lẽ trên; căn cứ vào khoản 3 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
quyết định :
Sửa một phần quyết định của Bản án dân sự phúc thẩm số 4/DSPT ngày 10-01-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh, tuyên xử:
- Bác yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh.
- Bà Trịnh Thị Nhật được tiếp tục tạm giữ :
+ Một Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An cấp ngày 17-05-1993 (bản chính).
+ Một quyết định giao đất mang tên Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An cấp ngày 12-05-1993 (bản chính).
+ Một quyết định thu hồi đất của bà Nguyễn Thị Rỉ do Uỷ ban nhân dân huyện Thuận An ban hành ngày 12-05-1993.
- Chị Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh phải nộp 50.000đồng án phí dân sự sơ thẩm và 50.000đồng án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn trả cho chị Nguyễn Vương Thị Ngọc Oanh 50.000đồng dự phí kháng cáo.
- Bà Vương Thị Lân phải nộp 50.000đồng án phí dân sự phúc thẩm,
- Hoàn trả cho bà Trịnh Thị Nhật 50.000đồng dự phí kháng cáo.
Lý do sửa Bản án phúc thẩm: Toà án cấp phúc thẩm quyết định bị đơn có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án là không đúng thẩm quyền của Toà án.
Quyết định số 23/2003/HĐTP-DS ngày 29-07-2003
Về vụ án đòi thanh toán
tiền công san gạt đất lấn biển
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
…………………..
Tại phiên toà ngày 29-07-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án đòi thanh toán tiền công san gạt đất lấn biển giữa các đương sự :
Nguyên đơn: Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Long; có trụ sở tại Khách sạn Hoàng Long, đường Hùng Vương, thị xã Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh, do ông Đặng Tất Lộc, Giám đốc đại diện.
Bị đơn: Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh, do ông Nguyễn Mạnh Tuấn, phó Chủ tịch và ông Nghiêm Quang Bài, Chánh Thanh tra thành phố đại diện theo uỷ quyền của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long.
NHậN ThấY:
Ông Đặng Tất Lộc, Giám đốc Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Long (sau đây gọi tắt là Công ty Hoàng Long) trình bày:
Từ năm 1988 đến năm 1994, được phép của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Uỷ ban nhân dân thị xã Hòn Gai (nay là thành phố Hạ Long), Đảng uỷ và Uỷ ban nhân dân phường Hồng Hải, thành phố Hạ Long giao cho Đội xây dựng của phường (nay là Công ty Hoàng Long) tổ chức san gạt đất lấn biển đoạn từ cầu Kinh Niên (cọc 2) đến chợ cọc 5, tạo quỹ đất để Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long giao cho nhân dân làm nhà ở và một số cơ quan làm trụ sở.
Công ty Hoàng Long đã hoàn thành công việc và yêu cầu được Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long phải thanh toán 10 khoản gồm :
1/20 suất đất dự phòng trị giá 120.000.000đ
2/50 suất đất đồi thị đội trị giá 250.000.000đ
3/ Tồn quỹ tại Phòng địa chính 27.678.348đ
4/ Thu theo thông báo số 270 256.747.255đ
5/ Mặt bằng trường cấp II chuyên Thành phố Hạ Long, trị giá 175.000.000đ
6/ Mặt bằng Sở tư pháp tỉnh Quảng Ninh, trị giá 199.000.000đ
7/ Mặt bằng Trường THPT Lê Hồng Phong, trị giá 299.628.000đ
8/ Mặt bằng Trạm thực nghiệm ăn mòn biển, trị giá 324.694.000đ
9. Mặt bằng Trạm quan trắc và phân tích môi trường, trị giá 233.320.000đ
10. Hai khu đất tại bãi biển cọc 3, đã quyết toán nhưng chưa cấp cho người sử dụng , trị giá 1.564.064.000đ.
Tổng số tiền Công ty Hoàng Long được hưởng từ 10 khoản trên là 3.450.940.803đ. Công ty Hoàng Long cũng thừa nhận phải nộp vào Ngân sách các khoản sau:
1 – Nộp theo Quyết định số 663 ngày 15-09-1994 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long, số tiền 786.000.000đ.
2- Nộp theo Quyết định số 664 ngày 15-09-1994 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long, số tiền 41.501.975đ.
3- Nộp theo Quyết toán kiểm tra ngày 17-08-1995, số tiền: 823.443.000đ.
Tổng số tiền Công ty Hoàng Long phải nộp vào Ngân sách là 1.650.944.975đ. Đối trừ giữa số tiền được hưởng và số tiền phải nộp, Công ty Hoàng Long còn được hưởng 1.799.995.828đ. Vì vậy, Công ty Hoàng Long yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh buộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long, phải thanh toán cho Công ty Hoàng Long số tiền trên.
Ông Nghiêm Quang Bài- Chánh Thanh tra thành phố Hạ Long trình bày: Tuy Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long không ký hợp đồng san gạt đất lấn biển với Công ty Hoàng Long, nhưng có biết Công ty Hoàng Long là đơn vị thực tế tổ chức việc san lấp. Qua công tác thanh- kiểm tra, Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long đã ra các Quyết định số 663 và 664 thu lại một phần số tiền mà Công ty Hoàng Long đã thu trước của các hộ dân được cấp đất và khoản tiền thuế mà Công ty Hoàng Long chưa nộp.
Trong Tổng số 10 khoản mà Công ty Hoàng Long đòi được hưởng, Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long không chấp nhận 4 khoản (1, 2, 3, 4) với tổng số tiền là 654.425.803đ. Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long chấp nhận cho Công ty Hoàng Long được hưởng tiền công san lấp ở 4 khoản (5,6,7,8) với tổng số tiền 994.131.000đ. Đối với 2 khoản còn lại (số 9, 10), Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long cho rằng :
- Mặt bằng Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường biển trị giá 233.320.000đ (khoản 9) nằm trong 2 khu đất của bãi biển cọc 3 đã được quyết toán với số tiền 1.564.064.000đ (khoản số 10) nên phải được trừ đi.
Trong quá trình tổ chức san lấp,Công ty Hoàng Long được giao quyền thu tiền từ các hộ dân được cấp đất. Công ty Hoàng Long đã thu tiền từ các hộ dân trong 4 khu vực là khu mỏ Hà Lầm, khu X48 Hải Quân, khu sau Chi nhánh nước và khu sau làng Giao Thông với tổng số tiền là 1.058.180.000đ. Do các hộ dân ở 4 khu vực này về sau được giao đất vào phần mặt bằng của 2 khu đất của bãi biển cọc 3 đã quyết toán với số tiền 1.564.064.000đ (khoản số 10 ), nên phải trừ đi số tiền 1.058. 180.000đ mà Công ty Hoàng Long đã thu. Ngoài ra, Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long còn xuất trình chứng cứ xác định đã thanh toán cho Công ty Hoàng Long 1.004.049.000đ. Nay xảy ra tranh chấp, Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long đề nghị được thoả thuận với Công ty Hoàng Long. Nếu hai bên không thoả thuận được thì đề nghị Toà án giải quyết theo pháp luật, trên cơ sở tổng số thu trừ đi tổng số chi, còn lại Công ty Hoàng Long được hưởng.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 07/DSST ngày 10-10-2001, Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã quyết định: Buộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long phải thanh toán cho Công ty Hoàng Long số tiền 982.964.025đ. Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn có quyết định về án phí,
- Ngày 22-10-2001, Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long có đơn kháng cáo cho rằng: Khoản tiền trị giá mặt bằng Trung tâm quan trắc là 233.320.000đ (khoản số 9) đã nằm trong số tiền 1.564.064.000đ quyết toán san nền bãi biển cọc 3. Đất cấp cho các hộ dân của 4 khu vực là khu mỏ Hà Lầm, khu X48 Hải quân, khu sau Chi nhánh nước và khu sau làng Giao thông để các hộ này tự xây là nằm trên nền 2 khu đất tại bãi biễn cọc 3 đã quyết toán bằng 1.564.064.000đ (khoản số 10), nên số tiền 1.058.180.000đ mà Công ty Hoàng Long đã thu trước từ các hộ này phải được đối trừ.
Ngày 22-10-2001, Công ty Hoàng Long có đơn kháng cáo đề nghị Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu đối với 50 suất đất đồi thị đội, trị giá 250.000.000đ (khoản số 2).
Tại Quyết định số 01/KNPT-DS ngày 23-10-2001,Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã kháng nghị Bản án sơ thẩm số 07/DSST ngày 10-10-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh; đề nghị Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao huỷ Bản án sơ thẩm để giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh điều tra, xét xử lại.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 171/PTDS ngày 27-09-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định: Giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 07/DSST ngày 10-10-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh; buộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long phải thanh toán cho Công ty Hoàng Long 982.964.025đ.
Tại Quyết định kháng nghị số 68/KN ngày 27-05-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhận định: theo Biên bản ngày 13-03-2003 thì những hạng mục mà Công ty Hoàng Long đã thu tiền và mặt bằng Trung tâm quan trắc nằm trong toàn bộ công trình mà Công ty Hoàng Long san gạt và đã được Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long quyết toán. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 171/PTDS ngày 27-09-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội cho rằng số tiền hai bên đang tranh chấp không nằm trong nội dung kiện đòi nợ của Công ty Hoàng Long và bác yêu cầu của Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long là không đúng; do đó, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xử huỷ toàn bộ Bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Bản án phúc thẩm của Toà án nhân dân tối cao; giao hồ sơ cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử lại từ sơ thẩm theo hướng xác minh quyết toán giữa Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long với Công ty Hoàng Long trong việc san lấp bãi biển của những hạng mục công trình trên.
XéT ThấY:
Công ty Hoàng Long không ký hợp đồng san gạt đất lấn biển với Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long. Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định quan hệ pháp luật giữa Công ty Hoàng Long với Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long là thực hiện công việc không có uỷ quyền. Do đó , Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long phải thanh toán tiền công san gạt đất lấn biển cho Công ty Hoàng Long theo đúng khối lượng công việc đã thực hiện là đúng.
Theo đơn khởi kiện ngày 28-02-2001 thì Công ty Hoàng Long yêu cầu Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long phải thanh toán 10 khoản như đã nêu, thì có 4 khoản (số 1, 2, 3 và 4) đã bị Toà án các cấp bác bỏ vì không có căn cứ. Trong 6 khoản còn lại, Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long chấp nhận cho Công ty Hoàng Long được hưởng 4 khoản ( số 5, 6, 7 và 8). Đối với hai khoản là mặt bằng Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường trị giá 233.320.000đ (số 9) và Hai khu đất tại bãi biển cọc 3 đã quyết toán trị giá 1.564.064.000đ nhưng chưa cấp cho dân (số 10). Tại phiên toà sơ thẩm cho đến nay, Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long cho rằng :
- Mặt bằng Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường nằm trong khu đất tại bãi biển cọc 3 đã quyết toán, nên trong số tiền 1.564.064.000đ đã bao gồm trị giá mặt bằng Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường là 233.320.000đ nay phải đối trừ.
- Trong khi thi công san lấp, Công ty Hoàng Long đã thu trước của một số hộ dân ở 4 khu vực là mỏ Hà Lầm, X48 Hải Quân, sau Chi nhánh nước và sau làng Giao Thông tổng số tiền là 1.058.180.000đ. Các hộ dân này đã được Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long cấp đất vào khu đất tại bãi biển cọc 3 đã quyết toán trị giá 1.564.064.000đ, nên phải trừ đi số tiền Công ty Hoàng Long đã thu.
Công ty Hoàng Long cho rằng mặt bằng Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường không nằm trong khu đất tại bãi biển cọc 3 đã quyết toán, còn khoản tiền 1.058.180.000đ mà Công ty Hoàng Long đã thu trước của các hộ dân hiện đã được hai bên quyết toán xong, không liên quan đến yêu cầu khởi kiện.
Xét thấy đây là loại việc tranh chấp khi thực hiện công việc không có uỷ quyền, trong đó Công ty Hoàng Long là người thực hiện, còn Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long là người có công việc được thực hiện. Theo quy định của pháp luật thì Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long chỉ phải thanh toán cho Công ty Hoàng Long tiền công trên thực tế công việc mà Công ty Hoàng Long đã hoàn thành. Do đó,Công ty Hoàng Long phải chứng minh được cụ thể từng công việc đã thực hiện. Khi Công ty Hoàng Long khẳng định mặt bằng Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường không nằm trong khu đất bãi biển cọc 3 đã quyết toán, cũng như khoản tiền đã thu trước của các hộ dân đã được hai bên quyết toán xong, không nằm trong yêu cầu khởi kiện để đòi Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long thanh toán, lẽ ra Toà án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm phải yêu cầu Công ty Hoàng Long chỉ rõ mặt bằng Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường nằm ở vị trí nào, khoản tiền 1.058.180.000đ được hai bên quyết toán cho những hạng mục nào, nằm ở đâu trong tổng thể mặt bằng do Công ty Hoàng Long đã san lấp trước. Ngoài ra,Toà án còn có thể xác minh làm rõ vấn đề này thông qua sự trợ giúp của các cơ quan chức năng chuyên môn. Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm chỉ dựa vào lời khai của Công ty Hoàng Long để giải quyết vụ án là thiếu khách quan, không toàn diện.
Mặt khác, việc tranh chấp giữa Công ty Hoàng Long với Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long liên quan trực tiếp đến công việc mà Công ty Hoàng Long đã thực hiện, đã được cơ quan chuyên môn xác định khối lượng qua hai bản vẽ san nền số SN01/02 và 02/02 ngày 30-11-1999. Tại phiên toà sơ thẩm, đại diện Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long đã khẳng định sự trùng lắp giữa các hạng mục Công ty Hoàng Long đã thi công và đòi thanh toán được thể hiện trên hai bản vẽ này. Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm không tiến hành thu thập và yêu cầu nguyên đơn, bị đơn cùng các cơ quan chuyên môn giải trình nội dung các tài liệu này là thiếu sót nghiêm trọng.
Nay Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long xuất trình Biên bản đề ngày 13-03-2003 (về việc họp xác định địa danh tương ứng với các khu đất đổ tôn tạo mặt bằng của Công ty Hoàng Long tại bãi biển cọc 3, phường Hồng Hải trong bản vẽ SN 01/02và 02/02 ngày 30-11-1999), trong đó đã khẳng định mặt bằng Trung tâm quan trắc và phân tích môi trường cũng như phần đất đã cấp cho các hộ dân mà Công ty Hoàng Long đã thu trước 1.058.180.000đ đều nằm trong mặt bằng hai khu đất tại bãi biển cọc 3 đã quyết toán bằng 1.564.064.000đ. Bản thân tài liệu này cần phải được xác minh trên thực địa mặt bằng san nền bãi biển cọc 3 như Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long đã đề xuất tại Công văn số 186/UB ngày 04-03-2003. Và vì còn liên quan đến các bản vẽ san nền SN 01/02 và 02/02 ngày 30-11-1999, mà các bản vẽ này lại không ghi địa danh các cơ quan đơn vị và khu dân cư được cấp đất sử dụng như chính bị đơn thừa nhận tại Biên bản ngày 13-03-2003; đồng thời cũng cần có ý kiến của Công ty Hoàng Long về các tài liệu mới này.
Vì vậy, cần chấp nhận Kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao huỷ các Bản án sơ thẩm và phúc thẩm để điều tra, xét xử lại nhằm xác minh, làm rõ giá trị các tài liệu do bị đơn cung cấp.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
quyết định :
1- Huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 171/PTDS ngày 27-09-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án dân sự sơ thẩm số 07/DSST ngày 10-10-2001 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đối với vụ án dân sự về đòi thanh toán tiền công san gạt đất lấn biển giữa nguyên đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng Long với bị đơn là Uỷ ban nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
2- Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh điều tra, xét xử sơ thẩm lại theo đúng qui định của pháp luật.
Lý do các Bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị huỷ:
Bên nguyên đơn và bị đơn vẫn tranh chấp về khối lượng công việc, Toà án chỉ dựa vào tài liệu của một bên đưa ra để quyết định là thiếu khách quan.
Quyết định số 24/2003/HĐTP-DS ngày 30-07-2003
Về vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
…………………..
Tại phiên toà ngày 30-07-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế giữa các đương sự :
Nguyên đơn: Bà Doãn Thị Hải, sinh năm 1924; trú tại nhà số 15 Ngọc Lâm, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Bị đơn: Anh Thạch Minh Ngọc, sinh năm 1970; trú tại nhà số 42 Nguyễn Hữu Huân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Doãn Văn Hiếu, sinh năm 1924; trú tại nhà số 42 Hàng Cót, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
2. Chị Thạch Thị Bích, sinh năm 1946; trú tại tổ 33 D, phường Phương Liệt, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
3. Chị Thạch Kim Ngân, sinh năm 1948; trú tại ngõ Thổ Quan, quận Đống Đa, Hà Nội.
4. Chị Thạch Thị Mỹ, sinh năm 1959; trú tại nhà số 42 Nguyễn Hữu Huân, Hà Nội.
5. Chị Thạch Kim Dung, sinh năm 1964; trú tại nhà số 39 Nguyễn Hữu Huân, Hà Nội.
6. Chị Thạch Thị Thuý, sinh năm 1957; trú tại phòng 12D5 tập thể Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội.
7. Chị Phạm Thị Tương, sinh năm 1963; trú tại số 42 Nguyễn Hữu Huân, Hà Nội.
Nhận thấy:
Cụ Doãn Văn Hoà (chết năm 1960), có vợ là cụ Nguyễn Thị Chắt (tức Thảo, chết năm 1992) sinh được 3 người con là bà Hải, bà Hà (chết không có chồng con), bà Hiền (chết năm 1984) có chồng là ông Châu (chết năm 1985) có 5 người con là chị Bích, chị Ngân, chị Mỹ, chị Dung, anh Ngọc và một người con nuôi là ông Hiếu.
Tài sản chung của vợ chồng cụ Hoà có một nhà cấp 4 trên diện tích 78,3m2, tại số nhà 42 Nguyễn Hữu Huân, Hà Nội mang bằng khoán điền thổ số 437 khu Đồng Xuân. Năm 1960 cụ Hoà chết không để lại di chúc, nhà đất do cụ Chắt và gia đình bà Hiền sử dụng. Bà Hiền đã sửa 1/2 mái ngói phần phía trong thành nhà 2 tầng lợp ngói.
Năm 1984 bà Hiền chết, năm 1985 ông Châu chết, nhà đất có cụ Chắt cùng anh Ngọc, chị Mỹ con bà Hiền quản lý.
Năm 1984 cụ Chắt có di chúc nhượng lại ngôi nhà trên thửa đất số 189 tại 42 phố Nguyễn Hữu Huân cho anh Ngọc được quyền sử dụng, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân phường Lý Thái Tổ ngày 17-05-1984.
Ngày 09-10-1986 cụ Chắt lại lập di chúc nội dung: Phần tài sản của cụ có 1/2 và cụ được hưởng 1/3 hương hoả của chồng, cho anh Ngọc được hưởng phần hương hoả của bà tại ngôi nhà số 42 Nguyễn Hữu Huân, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân ngày 09-10-1986.
Năm 1992 cụ Chắt chết, năm 1993 và năm 1998 anh Ngọc sửa nhà thành mái bằng 2 tầng rưỡi. Năm 1997 bà Hải khởi kiện xin chia thừa kế theo pháp luật. Anh Ngọc không đồng ý chia thừa kế mà cho rằng cụ Chắt đã có di chúc cho anh nhà đất.
Ngày 09-04-1999, Toà án quận Hoàn Kiếm chuyển vụ tranh chấp chia di sản thừa kế giữa bà Doãn Thị Hải với anh Thạch Minh Ngọc cho Toà án Hà Nội giải quyết vì người liên quan là chị Ngân đang ở nước ngoài.
Tại Bản án sơ thẩm số 4 ngày 25-01-2000, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:
- Xác định khối di sản của cụ Doãn Văn Hoà, Nguyễn Thị Chắt (tức Thảo) là ngôi nhà 2 tầng rưỡi tại 42 Nguyễn Hữu Huân, Hà Nội mang bằng khoán điền thổ số 437 khu Đồng Xuân có tổng diện tích mặt bằng tầng 1 là: 78,3m2, có tổng giá trị là 1.033.577.882 đồng trong đó 15.917.184 đồng là công sức của bà Hiền, và có 88.060.964 đồng là công sức của vợ chồng anh Ngọc, chị Tương, giá trị di sản thực còn là 929.053.734 đồng.
- Không chấp nhận chúc thư của cụ Chắt do anh Ngọc xuất trình.
- Xác định cụ Hoà chết năm 1960, cụ Chắt chết năm 1992 chia thừa kế theo luật.
- Xác định ông Doãn Văn Hiếu là con nuôi cụ Doãn Văn Hoà và Nguyễn Thị Chắt.
- Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hoà, cụ Chắt gồm: bà Hiền, bà Hải, ông Hiếu. Mỗi người được hưởng kỷ phần thừa kế có giá trị là 309.684.578 đồng.
- Phần bà Hiền được hưởng có giá trị là 309.684.578 đồng + 15.917.184 đồng công sức = 325.601.762 đồng.
- Bà Hải và ông Hiếu mỗi người được hưởng thừa kế có giá trị là 309.917.184 đồng.
Chấp nhận yêu cầu của chị Bích, chị Ngân, chị Thuý, chị Mỹ, chị Dung xin chia thừa kế phần của bà Hiền được hưởng có giá trị là 325.601.762 đồng.
- Xác định bà Hiền chết năm 1984 không để lại di chúc nên kỷ phần thừa kế của bà được chia theo luật.
- Xác định hàng thừa kế thứ nhất của bà Hiền gồm: Chị Bích, chị Ngân, chị Thuý, chị Mỹ, chị Dung, anh Ngọc mỗi người được hưởng kỷ phần có trị giá là 54.266.960 đồng.
- Phần anh Ngọc được hưởng có trị giá là 54.266.960 đồng + 88.606.964 đồng công sức = 142.873.924 đồng.
- Ghi nhận sự tự nguyện của chị Ngân, chị Thuý cho chị Mỹ kỷ phần thừa kế được hưởng. Nên chị Mỹ được hưởng có trị giá 162.800.880 đồng.
- Chị Dung, chị Bích mỗi người được hưởng kỷ phần thừa kế có trị giá 54.266.960 đồng.
- Tách việc giải quyết về số vàng của bà Hiền để giải quyết thành vụ kiện dân sự khác nếu đương sự có yêu cầu.
Chia hiện vật cụ thể như sau:
- Dành một lối đi chung rộng 0,7m về phía tay trái đứng từ đường nhìn vào tính từ phần nhà phía trước giáp phố- kéo song song giáp tường dọc nhà vào tới diện tích phụ (sân) phía trong 0,7m x 11,3m = 7,91m2.
- Chia cho bà Hải 1/2 gian tầng 1 giáp mặt phố, phía tay trái (giáp lối đi chung) đứng từ ngoài nhìn vào có diện tích 6,5 chiều dài x 1,55m rộng = 10,075m2 có trị giá 133.078.660 đồng và diện tích gian nhà tầng II (trên nóc có công trình phụ bếp, tắm, xí) có diện tích: 7,35m x 2,35m = 17, 272m2 có trị giá 56.223.814 đồng. Cộng 2 diện tích bà Hải được chia có giá trị là 189.302.474 đồng.
- Chia cho chị Mỹ + chị Dung gian phía trong tầng 1 có diện tích 4,8m x 3,1m = 14,88m2 có trị giá 134.050.944 đồng. Và gian nhà cấp 4 mái Prôximăng trên tầng III của ngôi nhà chính có diện tích 4,65m x 4,1m = 19,06m2 có trị giá 35.315.335 đồng. Cộng 2 diện tích chị Mỹ, chị Dung được chia có trị giá là 169.226.279 đồng.
- Chia cho anh Ngọc các diện tích gồm 1/2 gian tầng I giáp phố phía tay phải đứng từ đường nhìn vào có diện tích 6,5m x 1,55m = 10,075m2 có trị giá là 133.078.660 đồng, và 2 gian nhà chính trên tầng 2 có diện tích 12,3m ´ 4,1m = 50,43m2 có trị giá là 161.220.384 đồng. Cộng 2 diện tích anh Ngọc được chia có trị giá là 294.299.044 đồng.
Các diện tích phụ trong số nhà sở hữu, sử dụng chung gồm: lối đi, sân, bếp, tắm xí, cầu thang (có tổng diện tích = 7,35m x 4, 35m = 31,972m2). Tổng trị giá là 380.710.083 đồng. Anh Ngọc, bà Hải và chị Mỹ, chị Dung phải chịu trị giá các diện tích phụ sở hữu, sử dụng chung. Mỗi phần là 126.903.361 đồng.
- Tổng trị giá bà Hải được chia là: 316.205.835 đồng so với kỷ phần được hưởng bà Hải còn phải thanh toán tiền chênh lệch cho ông Hiếu là 6.521.257 đồng.
- Phần chị Mỹ, chị Dung được chia có tổng trị giá là 296.169.640 đồng so với kỷ phần được hưởng, chị Mỹ, chị Dung phải thanh toán tiền chênh lệch cho chị Bích là 54.266.960 đồng và thanh toán cho ông Hiếu số tiền là 24.834.840 đồng.
- Phần anh Ngọc được chia có tổng trị giá là 421.202.405 đồng so với kỷ phần được hưởng anh Ngọc phải thanh toán cho ông Hiếu số tiền là 278.328.481 đồng.
- Các bên cùng có trách nhiệm xây bức tường ngăn lối đi chung. Nếu bên kia không xây thì một bên có quyền xây và được sở hữu vật liệu xây dựng đó.
- Bà Hải, anh Ngọc và chị Mỹ, chị Dung có trách nhiệm xây bức tường ngăn chịu lực khi mở lối đi chung để đảm bảo an toàn cho ngôi nhà.
- Ông Hiếu được nhận kỷ phần thừa kế bằng giá trị do anh Ngọc thanh toán trả 278.328.481 đồng, do bà Hải thanh toán trả 6.521.257 đồng, do chị Mỹ, chị Dung thanh toán trả 24.834.840 đồng.
- Chị Bích được nhận kỷ phần thừa kế bằng giá trị do chị Mỹ, chị Dung thanh toán trả số tiền 54.266.960 đồng.
Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 31-01-2000 anh Ngọc kháng cáo yêu cầu chấp nhận di chúc năm 1986 là di chúc hợp pháp. Không thừa nhận ông Hiếu là con nuôi cụ Chắt, cụ Hoà.
Tại Bản án phúc thẩm số 55 ngày 12-04-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội: Căn cứ Điều 69 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, sửa án sơ thẩm; áp dụng các điều 634, 635, 636, 637, 649 và 652; khoản 3 Điều 653; khoản 1 Điều 656; khoản 2 Điều 688; Điều 660; điểm a, điểm b khoản 1 Điều 655; Điều 669 và điểm a khoản 1 Điều 678; Điều 679 Bộ luật Dân sự ; Căn cứ vào Nghị định 70/CP về chế độ án phí quyết định:
1. Xác nhận khối di sản của cụ Doãn Văn Hoà và Nguyễn Thị Chắt (tức Thảo) là ngôi nhà số 42 Nguyễn Hữu Huân (hai tầng rưỡi) Hà Nội, mang bằng khoán điền thổ số 437 khu Đồng Xuân có tổng diện tích mặt bằng tầng 1 là 78,3m2 có giá trị là 1.033.577.882 đồng. Trong đó có 15.917.184 đồng là công sức của bà Hiền và 88.606.964 đồng là công sức của vợ chồng anh Ngọc và chị Tương.
Giá trị di sản của hai cụ thực còn lại là 929.053.734 đồng.
2. Chấp nhận di chúc cụ Chắt lập ngày 09-10-1986 do anh Ngọc xuất trình.
3. Xác nhận cụ Hoà chết năm 1960 không để lại di chúc. Cụ Chắt chết năm 1992, có để lại di chúc. Do đó di sản của cụ Hoà được chia theo luật, di sản của cụ Chắt được chia theo di chúc.
4. Bác yêu cầu của ông Doãn Văn Hiếu là con nuôi hai cụ: Doãn Văn Hoà, Nguyễn Thị Chắt.
5. Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Hoà gồm: Cụ Chắt (vợ), bà Hiền, bà Hải (là con), mỗi người được hưởng kỷ phần thừa kế có trị giá là 154.842.289 đồng. (anh Ngọc được nhận phần thừa kế của cụ Chắt).
6. Phần bà Hiền được hưởng thừa kế di sản của cụ Hoà theo luật là 154.842.289 đồng cộng với 15.917.184 đồng công sức, bằng 170.759.473 đồng.
7. Bà Hải được thừa kế di sản của cụ Hoà, có giá trị là 154.842.289 đồng.
Chấp nhận yêu cầu của chị Bích, Ngân, Thuý, Mỹ, Dung, anh Ngọc xin chia thừa kế di sản của bà Hiền có giá trị là 170.759.493 đồng. Xác định bà Hiền chết năm 1984 không để lại di chúc, nên di sản của bà Hiền được thừa kế được chia theo pháp luật; xác định hàng thừa kế thứ nhất của bà Hiền gồm: chị Bích, Chị Ngân, chị Thuý, chị Mỹ, chị Dung và anh Ngọc; mỗi người được hưởng kỷ phần có trị giá 28.459.912 đồng; cụ thể phần anh Ngọc hưởng có giá trị là 619.369.176 đồng (theo di chúc cụ Chắt) + 88.606.964 đồng công sức + 28.459.912 đồng thừa kế di sản của mẹ (bà Hiền) theo luật. Cộng các khoản anh Ngọc được hưởng trị giá là 736.436.032 đồng; ghi nhận sự tự nguyện của chị Ngân, chị Thuý cho chị Mỹ kỷ phần thừa kế được hưởng, nên chị Mỹ được hưởng có trị giá là 85.379.736 đồng; chị Bích, chị Dung được hưởng kỷ phần thừa kế, mỗi người được hưởng, có trị giá là 28.459.912 đồng;
Về Chia hiện vật; cụ thể như sau:
1. Dành một lối đi chung, rộng 0,7m về phía tay trái từ ngoài nhìn vào, kéo song song với tường dọc nhà tới giáp sân phía trong dài 11,3m (0,7m x 11,3m = 7,91m2).
2. Chia cho bà Hải 1/2 gian tầng 1 giáp phố phía trái, từ ngoài nhìn vào có diện tích bằng 6,5m dài ´ 1,55m rộng = 10,075m2 có giá trị = 133.078.660 đồng và diện tích nhà tầng hai (trên nóc công trình phụ (bếp, tắm, xí) có diện tích chiều dài 7,35 m dài ´ 2,35m rộng = 17,272m2 có trị giá 56.223.814 đồng. Cộng hai diện tích bà Hải được chia có trị giá là 189.302.474 đồng).
3. Chia cho chị Ngân, chị Thuý, chị Mỹ một gian nhà cấp 4 mái lợp Prôximăng trên tầng 3 của nhà chính có diện tích 4, 64m x 4,1m = 19,06m2 có trị giá = 35.215.335 đồng và gian nhà phía trong tầng 1 có diện tích 4,8m ´ 3,1m = 14,88m2 trị giá 134.050.944 đồng. Cộng hai diện tích, chị Mỹ, chị Ngân, chị Thuý được chia có trị giá 169.266.279 đồng.
Ghi nhận chị Thuý, chị Ngân tự nguyện cho chị Mỹ kỷ phần của các chị. Do vậy, chị Mỹ được chia tổng giá trị là 169.266.279 đồng.
4. Chia cho anh Ngọc các diện tích gồm: 1/2 gian tầng 1 giáp phố phía tay phải đứng từ đường nhìn vào có diện tích = 6,5m x 1, 55m= 10,075m2 có giá trị 133.078.660 đồng và 2 gian nhà chính trên tầng II có diện tích = 12,3m ´ 4,1m = 50,43m2, có trị giá 161.220.384 đồng, cộng hai diện tích anh Ngọc được chia có giá trị 294.299.044 đồng.
5. Các diện tích phụ trong số nhà sở hữu, sử dụng chung gồm: lối đi, sân, bếp, tắm, xí, cầu thang có tổng diện tích = 7,35m x 4,35m = 31,972m2 giá trị là 380.710.083 đồng. Anh Ngọc, bà Hải, chị Mỹ phải chịu trị giá các diện tích phụ sở hữu, sử dụng chung mỗi phần là 126.903.361 đồng.
- Tổng trị giá bà Hải được chia là 316.205.835 đồng, so với kỷ phần bà Hải được hưởng là 154.842.289 đồng bà Hải còn phải thanh toán tiền chênh lệch cho anh Ngọc là 132.903.634 đồng, cho chị Bích là 28.459.912 đồng.
- Tổng trị giá chị Mỹ được chia 296.169.640 đồng, so với kỷ phần chị Mỹ được hưởng là 85.379.736 đồng, chị Mỹ còn phải thanh toán tiền chênh lệch cho anh Ngọc là 182.329.992 đồng, chị Dung là 28.459.912đồng.
- Tổng cộng các khoản anh Ngọc được chia là 736.436.032 đồng.
- Các bên cùng có trách nhiệm xây bức tường ngăn làm lối đi chung. Nếu bên kia không xây thì một bên có quyền xây và được sở hữu vật liệu xây dựng đó.
- Bà Hải, anh Ngọc và chị Mỹ cùng có trách nhiệm xây bức tường ngăn chịu lực. Khi mở lối đi chung để đảm bảo an toàn cho ngôi nhà.
- Bà Bích được nhận kỷ phần thừa kế bằng giá trị do bà Hải thanh toán trả số tiền là 28.459.912 đồng.
- Chị Dung được nhận kỷ phần thừa kế bằng giá trị do chị Mỹ thanh toán là 28.459.912đồng.
Tại Quyết định số 79 ngày 13-06-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án phúc thẩm số 55 ngày 12-04-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội với nhận xét: Bản án phúc thẩm xác định thời điểm mở thừa kế, di sản thừa kế, người thừa kế; áp dụng chia thừa kế theo di chúc và pháp luật, kỷ phần được hưởng thừa kế và việc phân chia hiện vật là có căn cứ. Tuy nhiên kỷ phần được hưởng thừa kế có giá trị không bằng nhau, di sản không thể chia đều bằng hiện vật. Toà án cấp sơ thẩm định giá di sản vào tháng 11 năm 1999, nhưng đến tháng 4 năm 2002 mới xét xử phúc thẩm, giá trị nhà đất tại 42 Nguyễn Hữu Huân có sự chênh lệch đáng kể. Toà án cấp phúc thẩm không định giá lại tại thời điểm xét xử phúc thẩm là chưa đảm bảo quyền lợi cho anh Ngọc và các thừa kế khác khi nhận chênh lệch di sản thừa kế bằng giá trị. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, huỷ một phần Bản án phúc thẩm nêu trên; giao hồ sơ cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại, trên cơ sở xác định lại giá nhà theo hướng dẫn tại Công văn số 109/2001/KHXX ngày 04-09-2001 của Toà án nhân dân tối cao.
Xét thấy:
Toà án cấp sơ thẩm đã thành lập Hội đồng định giá, có sự tham gia của các cơ quan chuyên môn, các bên đương sự. Việc định giá được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Sau khi Toà án cấp sơ thẩm xử, anh Ngọc kháng cáo chỉ yêu cầu công nhận di chúc của cụ Chắt lập năm 1986 và không công nhận ông Hiếu là con nuôi cụ Hoà, cụ Chắt. Tại phiên toà phúc thẩm anh Ngọc và các thừa kế khác cũng không yêu cầu định giá lại giá trị nhà đất. Vì vậy, không có cơ sở cho rằng việc định giá không đúng pháp luật. Bản án phúc thẩm đã chia thừa kế theo di chúc của cụ Chắt và chia thừa kế theo pháp luật đối với phần di sản của cụ Hoà và bà Hiền là đúng pháp luật.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 1 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
Quyết định:
Giữ nguyên Bản án phúc thẩm số 55 ngày 12-04-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội về vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế giữa nguyên đơn là bà Doãn Thị Hải với bị đơn là anh Thạch Minh Ngọc.
Căn cứ bác Kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
Toà án đã tiến hành định giá tài sản đúng pháp luật. Các thừa kế cũng không yêu cầu định giá lại.
Quyết định số 25/2003/HĐTP-DS ngày 25-08-2003
Về vụ án đòi nợ ngoại tệ
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
………………….
Tại phiên toà ngày 25-08-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án đòi nợ ngoại tệ giữa các đương sự :
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Sen Lee; định cư tại Hoa Kỳ uỷ quyền cho ông Nguyễn Văn Văn, sinh năm 1951; trú tại số 875 đường Liên tỉnh, khu phố Nguyễn Bỉnh Khiêm, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang;
Bị đơn:
1/ Ông Huỳnh Thanh Phương, sinh năm 1949 ;
2/ Bà Nguyễn Thị Tâm (vợ ông Phương) sinh năm 1951;
Cả hai cùng trú tại số 19 Mậu Thân, phường Vĩnh Thanh, thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
NHậN ThấY:
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/DSST ngày 08-04-1999 Toà án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã buộc vợ chồng ông Phương phải trả bà Lee 52.225.000 đồng (cụ thể 5.000 USD qui đổi bằng 69.525.000 đồng, trừ 17.300.000 đồng tiền lãi đã trả, còn lại 52.225 .000 đồng).
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 331/DSPT ngày 29-11-2000, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Hủy hợp đồng vay tài sản bằng ngoại tệ giữa bà Nguyễn Sen Lee với ông Huỳnh Thanh Phương và bà Nguyễn Thị Tâm, vì hợp đồng này bị vô hiệu do vi phạm điều cấm, Ông Huỳnh Thanh Phương và bà Nguyễn Thị Tâm không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Tại Quyết định số 38/KNDS-TK ngày 12-06-2003, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm: huỷ Bản án dân sự phúc thẩm và giao hồ sơ cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại.
XéT thấY:
Vợ chồng ông Phương thừa nhận có vay bà Lee 5.000 USD, mới trả được l7.300.000 đồng tiền lãi (BL9, 10, 16, 17,21…); do đó, Toà án các cấp đều xác định vợ chồng ông Phương vay bà Lee 5.000 USD là có cơ sở. Toà án cấp sơ thẩm nhận định giao dịch giữa hai bên thuộc quan hệ cho mượn ngoại tệ và không tịch thu số tiền lãi là sai.
Toà án cấp phúc thẩm nhận định giao dịch cho vay ngoại tệ giữa hai bên vi phạm Nghị định số 63/1998 CP ngày 17-08-1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối và Thông tư số 01/1999 TT-NHNN7 ngày 16-04-1999 của Ngân hàng Nhà Nước hướng dẫn thi hành Nghị định 63, do đó giao dịch nói trên vô hiệu là đúng. Tuy nhiên, Toà án cấp phúc thẩm lại không giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu mà chỉ nhận định là để cho các bên tự hoàn trả cho nhau là không đúng.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 4 Điều77 Pháp lệnh Thủ tục Giải quyết các vụ án dân sự,
QUYếT ĐịNH:
l. Huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 331 /DSPT ngày 29-11-2000 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với vụ án dân sự về việc đòi nợ ngoại tệ giữa nguyên đơn là bà Nguyễn Sen Lee với bị đơn là ông Huỳnh Thanh Phương và bà Nguyễn Thị Tâm.
2- Giao hồ sơ vụ án nói trên cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm lại theo đúng qui định của pháp luật.
Lý do Bản án phúc thẩm bị huỷ:
Hợp đồng vay tài sản bằng ngoại tệ là vô hiệu. Tuy nhiên, khi huỷ hợp đồng vô hiệu, Toà án lại không giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu là không đúng theo yêu cầu đòi nợ của nguyên đơn.
Quyết định số 26/2003/HĐTP-DS ngày 25-08-2003
Về vụ án đòi nợ
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
…………………
Tại phiên toà ngày 25-08-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án đòi nợ giữa các đương sự :
Nguyên đơn: Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao, địa chỉ số 74 Nguyễn Văn Trỗi, quận Phú Nhuận thành phố Hồ Chí Minh; uỷ quyền cho ông Ngô Bá Cương đại diện;
- Bị đơn: Bà Đoàn Thị Huế, trú tại số 360C Nơ Trang Long, phường 13, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh ;
nhận thấy :
Ngày 30-11-1998, Công ty TNHH Thương mại Ngôi sao ký hợp đồng kinh tế số 27/98/HĐKT – LAB với bà Đoàn Thị Huế có nội dung thoả thuận như sau:
- Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao bán cho bà Đoàn Thị Huế một hệ thống tráng rọi ảnh mầu điện tử Konica Nice Print System Model 878-SQA, mới 100% cho ra các cỡ ảnh: 4×6/ 9×12/ 10×15/ 13×18/ 20×25/ 20×30/ 25×38, công suất 2350 ảnh/giờ, với tổng giá trị máy là 88.000 USD. Sau khi ký hợp đồng bà Huế phải đặt cọc trước 2.000 USD, trước khi nhận máy bà Huế phải thanh toán 24.400USD, số tiền gốc còn lại là 61.600 USD bà Huế phải thanh toán trong vòng 36 tháng với mức lãi suất trừ lùi 16% một năm, thời gian bắt đầu trả là sau một tháng tính từ khi máy được bàn giao có biên bản nghiệm thu, cụ thể trả từng tháng theo bản phụ lục 01/PL kèm với hợp đồng.
- Về Phương thức thanh toán các bên có thoả thuận là số tiền bà Huế thanh toán được thực hiện: Hoặc bằng chuyển khoản vào tài khoản của Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao tại Ngân hàng Đầu tư phát triển thành phố Hồ Chí Minh hoặc bằng đồng Việt Nam quy ngang đô la Mỹ tại văn phòng Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao ở 74 Nguyễn Văn Trỗi theo tỷ giá bán của Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh vào ngày thanh toán. Trường hợp thanh toán trả tiền mua máy chậm trễ theo tiến độ từng tháng cũng như trong 36 tháng bà Huế phải trả lãi 2% tháng trên trị giá chậm trễ cho Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao kể từ ngày chậm trễ. Trường hợp bà Huế quá hạn 2 tháng không thanh toán tiền máy hàng tháng, nếu không có sự thoả thuận của Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao trước bằng văn bản, Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao có quyền thu hồi máy. Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao chịu trách nhiệm bảo hành 6 tháng, kể từ ngày bàn giao máy hoàn chỉnh….
Thực hiện hợp đồng: Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao giao hệ thống tráng rọi ảnh màu điện tử Konica Nice Print System Model 878-SQA, mới 100%, theo đơn giá tài chính số 036321 ngày 28-12-1998, bà Huế ký biên bản nghiệm thu, ngày 15-01-1999 công nhận việc lắp đặt và vận hành tốt, phụ tùng theo máy giao đủ. Bà Huế trả tiền đặt cọc 2.000 USD (ngày 30-11-1998), thanh toán 24.400 USD (ngày 28-12-1998), thanh toán trả chậm 6.880 USD (vào tháng 2,3,5,6 năm 1999), tổng cộng đã trả được 33.280 USD.
Tháng 12-1999 Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao khởi kiện yêu cầu bà Huế thanh toán toàn bộ số tiền nợ tính đến tháng 12-1999 và toàn bộ giá trị máy còn lại kèm lãi suất tổng cộng là 67. 124,60 USD.
Bà Huế thừa nhận về việc ký hợp đồng mua máy với Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao, công nhận trị giá máy là 88.000 USD và bà đã trả được 33.280 USD. Nhưng bà cho rằng vào tháng 03-1999 trong thời gian bảo hành lợi dụng lúc bà đi vắng, nhân viên Công ty đem hoá chất không phải hãng Konica sản xuất tự ý cho vào máy tráng rọi ảnh màu của bà làm cho chất lượng ảnh màu kém, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh, sau đó Công ty có cử kỹ thuật viên làm vệ sinh máy và Công ty đã không cung cấp hoá chất vật tư chính hãng nên bà xin trả lại máy, nhận lại tiền.
- Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 617/DSST ngày 24-04-2000, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao, buộc bà Huế phải thanh toán cho Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao số tiền nợ đến hạn phải trả tính đến Tháng 12-1999 gồm nợ gốc, lãi trả chậm, lãi phạt chậm thanh toán tổng cộng 20.879, 13 USD ngay khi án có hiệu lực pháp luật theo tỷ giá ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại thời điểm thanh toán.
Sau một tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, và liên tiếp trong vòng 25 tháng bà Huế phải thanh toán số tiền máy trả chậm cho 25 kỳ thanh toán còn lại tổng cộng 49.419,00 USD. Nếu thanh toán chậm theo mỗi kỳ, bà Huế còn phải chịu lãi phạt chậm thanh toán 2% tháng tính trên số tiền chậm thanh toán và thời gian chậm thanh toán.
Bà Huế phải chịu 27.773.458 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn tạm ứng án phí 6.216.000 đồng cho Công ty TNHH Thương mại ngôi Sao theo biên lai thu tiền số 022034 ngày 15-12-1999 của Phòng thi hành án TP. Hồ Chí Minh.
Sau khi án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao có đơn yêu cầu thi hành án nếu bà Huế không chịu trả số tiền nêu trên thì hàng tháng bà Huế còn phải trả cho Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao số tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 08/KCTT-DS ngày 27-01-2000 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để đảm bảo thi hành án.
Ngày 24-04-2000 bà Huế kháng cáo và ngày 09-6-2000 bà Huế có đơn bổ sung đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xem xét: Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao đã vi phạm hợp đồng ký kết, giao máy không đúng công suất cụ thể đã ghi trong hợp đồng, thực chất chỉ có loại ảnh 12 x 9 mới in được 2.350 ảnh/giờ, còn các loại ảnh cỡ lớn hơn thì in ảnh ít hơn. Công ty không cung cấp đúng hoá chất của hãng Konica mà thay bằng hoá chất khác không đồng bộ với máy nên ảnh hưởng chất lượng ảnh và gây thiệt hại trong kinh doanh. Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao là một doanh nghiệp tư nhân ký hợp đồng với cá nhân trong nước, nhưng lại quy định trong hợp đồng thanh toán bằng đồng USD là trái pháp luật.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 392/DSPT ngày 27-12-2000, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định sửa án sơ thẩm tuyên xử:
Tuyên bố hợp đồng dân sự số 27/98 ngày 30-11-1998 được ký giữa Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao do bà Thái Thị Cúc Lan làm Giám đốc đại diện với bà Đoàn Thị Huế là hợp đồng vô hiệu.
Buộc bà Đoàn Thị Huế có nghĩa vụ giao lại cho Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao 1 hệ thống tráng rọi ảnh màu điện tử Konica Nice Print System Model 878-SQA do bà Huế hiện tạm thời quản lý theo quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 08/KCTT-DS ngày 27-01-2000 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
Buộc Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao có nghĩa vụ hoàn lại cho bà Đoàn Thị Huế quy ra đồng Việt Nam tương đương giá trị bằng 33.280 USD, việc thanh toán đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá ngoại tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại thời điểm thi hành án.
Kể từ ngày bà Huế có đơn yêu cầu thi hành án nếu chậm thi hành khoản tiền trên sẽ phải chịu lãi suất quá hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Thiệt hại phát sinh do việc ký kết hợp đồng vô hiệu do mỗi bên tự chịu.
- án phí: Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao chịu 13.886.729 đồng án phí dân sự sơ thẩm, đã nộp dự phí dân sự là 6.216.000 đồng, còn nộp tiếp là 7.670.729 đồng. Bà Huế chịu 13.886.729 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị số 28/DS-TK ngày 21-12-2001, Chánh án Toà án nhân dân tối cao nhận định: ngày 30-11- 1998 Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao do bà Thái Thị Cúc Lan làm Giám đốc đại diện ký hợp đồng bán cho bà Đoàn Thị Huế một hệ thống tráng rọi ảnh màu điện tử Konica Nice Print System Model 878-SQA, mới l00%. Trong đó có thoả thuận về giá máy, tiền đặt cọc, tiền trả trước, tiền trả chậm đều bằng đô la Mỹ.Tuy nhiên đồng thời hai bên cũng có thoả thuận về phương thức thanh toán là: hoặc bằng chuyển khoản vào tài khoản của Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao tại Ngân hàng Đầu tư phát triển thành phố Hồ Chí Minh hoặc bằng đồng Việt Nam quy ra USD Mỹ tại văn phòng Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao ở 74 Nguyễn Văn Trỗi theo tỷ giá bán của Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh vào ngày thanh toán. Tuy nhiên, trên thực tế bà Huế thanh toán tiền mua máy với Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao bằng USD hay bằng đồng Việt Nam thì chưa được các Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm điều tra làm rõ nhưng Bản án phúc thẩm nêu trên của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên bố là hợp đồng vô hiệu là chưa có căn cứ vững chắc.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định hợp đồng nêu trên là hợp đồng vô hiệu thì theo khoản 2 Điều 146 Bộ luật Dân sự ”các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận”. Do đó, nếu buộc Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao phải trả cho bà Huế số tiền đã nhận thì cũng phải buộc bà Huế trả lại cho Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao máy và khoản tiền khấu hao máy trong thời gian bà Huế sử dụng mới đúng. Đề nghị Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giải quyết lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.
Tại Kết luận số 48/KL-VKSTC-KSXXDS ngày 28-03-2002 Viện Kiểm sát nhân dân tối cao không nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao. Đề nghị Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xử giám đốc thẩm theo hướng giữ nguyên hiệu lực của Bản án phúc thẩm nêu trên, với nhận định: Ngày 30-11-1998 Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao do bà Thái Thị Cúc Lan làm Giám đốc đại diện ký hợp đồng bán cho bà Đoàn Thị Huế một hệ thống tráng rọi ảnh màu điện tử Konica Nice Print System Model 878-SQA. Trong hợp đồng đã sử dụng đồng Đô la Mỹ để thanh toán với nhau được thể hiện từ tiền đặt cọc, tiền thanh toán trước khi nhận máy, quy định tiền trả chậm trong vòng 3 năm với lãi suất 16% năm tính trừ lùi, phạt trả lãi chậm (nếu có) là trái với quy định tại Thông tư 33/NH-TT ngày 15-03-1989 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành Điều lệ quản lý ngoại hối của nước CHXHCNVN và Thông tư 203/NH-TT ngày 31-10-1991 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành Quyết định số 337/HĐBT ngày 25-10-1991 của Hội đồng Bộ trưởng về một số biện pháp quản lý ngoại tệ trong thời gian trước mắt. Hơn nữa phía bị đơn còn đưa ra bằng chứng về việc Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao đã cung cấp một hệ thống máy tráng rọi ảnh không đúng tính năng của máy. Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh tuyên bố hợp đồng được ký giữa Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao và bà Huế là hợp đồng vô hiệu là đúng.
Tại Quyết định số 13/UBTP- DS ngày 09-09-2002, Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao nhận định: Mặc dù trong hợp đồng ngày 30-11-1998 Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao bán cho bà ĐoànThị Huế một hệ thống tráng rọi ảnh màu điện tử Konica Nice Print System Model 878-SQA, với tổng giá trị máy là 88.000 USD, nhưng với phương thức thanh toán thoả thuận trong hợp đồng là bằng chuyển khoản vào tài khoản của Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao tại Ngân hàng Đầu tư phát triển thành phố Hồ Chí Minh hoặc bằng đồng Việt Nam qui đổi ra USD tại văn phòng Chi nhánh Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao ở 74 Nguyên Văn Trỗi theo tỷ giá bán của Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh vào ngày thanh toán. Như vậy chưa đủ căn cứ để xác định hợp đồng ký kết giữa Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao với bà Huế là hợp đồng vô hiệu.
Xét thấy bà Huế đã thanh toán cho Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao được 33.280 USD trong tổng số tiền mua máy là 88.000 USD, còn thiếu là 54.720 USD. Việc các bên thanh toán với nhau bằng USD là trái với phương thức thanh toán đã thoả thuận trong hợp đồng nêu trên. Do đó, cần buộc các bên thanh toán số tiền còn lại 54.720 USD bằng tiền Việt
Sau khi bà Huế nhận máy (ngày 15-01-1999), bà Huế mới thanh toán trả chậm cho Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao số tiền 6.880 USD tương ứng với 4 tháng trả chậm (từ ngày 15-01-1999 đến ngày 15-05-1999). Như vậy, từ ngày 15-05-1999 bà Huế không chịu thanh toán tiền mua máy đúng thời hạn nên bà Huế phải trả lãi, theo lãi suất quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Cụ thể theo qui định tại Quyết định số 141/2000 /QĐ-NHNN1 ngày 21-04-2000 của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cho vay trung hạn là 0.85%/ tháng, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất của loại cho vay tương ứng tức là bằng 1,275%/tháng được áp dụng từ ngày 01-05-2000, do đó thời gian tính lãi được tính từ ngày phải trả tiền ngày 15-05-1999 đến ngày 24-04-2000 (ngày xét xử sơ thẩm) là 11 tháng 09 ngày.
Vậy số tiền lãi bà Huế phải trả là:
760.389.120 đồng x 1,275% ´ 11 tháng 09 ngày = 109.553.062 đồng
Tổng cộng tiền nợ mua máy và tiền lãi là :
760.389.120 đồng + 109.553.062 đồng = 869.942.182 đồng.
Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao quyết định :
Sửa một phần Bản án dân sự phúc thẩm số 392/DSPT ngày 27-12-2000 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với vụ án đòi nợ giữa Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao với bà Đoàn Thị Huế.
Bà Đoàn Thị Huế có trách nhiệm trả cho Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao số tiền mua máy còn thiếu là 760.389.120 đồng và số tiền lãi là 109.553.062 đồng, tổng cộng là 869.942.182đồng.
Kể từ ngày Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bà Huế không trả số tiền trên thì hàng tháng bà Huế còn phải trả cho Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao số tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước qui định tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Tiếp tục duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 08/KCTT-DS ngày 27-01-2000 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để đảm bảo thi hành án.
Bà Đoàn Thị Huế phải nộp 25.398.843 đồng án phí dân sự sơ thẩm, không phải chịu 50.000đồng án phí dân sự phúc thẩm. Hoàn tạm ứng án phí 6.216.000đồng cho Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao theo biên lai thu tiền số 022034 ngày 15-12-1999 của Phòng Thi hành án thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Quyết định số 77/KN-VKSTC-V5 ngày 12-06-2003,Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã kháng nghị Quyết định số 13/UBTP-DS ngày 09-09-2002 của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao với nhận định: Hợp đồng mua bán hệ thống tráng rọi ảnh màu điện tử Konica được ký kết ngày 30-11-1998 giữa Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao với bà Đoàn Thị Huế là hợp đồng dân sự giữa một Doanh nghiệp tư nhân với một cá nhân trong nước, nhưng trong hợp đồng các bên lại thoả thuận dùng đồng Đôla Mỹ (USD) để giao dịch thanh toán với nhau, được thể hiện từ giá đến đặt cọc, trả tiền thanh toán trước khi nhận máy, thanh toán tiền trả chậm trong vòng 36 tháng với lãi suất 16%/năm tính trừ lùi, phạt lãi trả chậm (nếu có) như đã nêu trên là trái với qui định tại các văn bản: Thông tư số 33/NHTT ngày 15-03-1989 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về quản lý ngoại hối; Thông tư số 203/NHTT ngày 31-10-1991 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thi hành Quyết định số 337/HĐBT ngày 25-10-1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) về biện pháp quản lý ngoại hối trong thời gian trước mắt và Nghị định số 63/CP ngày 17-08-1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối.
Như vậy, theo qui định của những văn bản nêu trên thì hợp đồng mua bán hệ thống tráng rọi ảnh màu điện tử Konica giữa Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao với bà Đoàn Thị Huế ký ngày 30-01-1998 là vi phạm những văn bản pháp luật nêu trên nên bị vô hiệu. Tại Quyết định 13/UBTP DS ngày 09-09-2002 của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã xác định bà Đoàn Thị Huế đã thanh toán cho Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao được 33.280 USD trong tổng số tiền mua máy là 88.000USD, còn thiếu 54.720 USD nhưng lại cho rằng cần buộc các bên thanh toán số tiền còn lại, cộng lãi suất là không đúng. Mặt khác, trong quá trình sử dụng bên mua đã phát hiện bên bán giao máy không đúng công suất như trong hợp đồng đã thoả thuận.
Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giải quyết lại vụ án theo hướng đã phân tích trên.
XéT Thấy:
Ngày 30 tháng 11 năm 1998, Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao bán cho bà Đoàn Thị Huế một hệ thống tráng rọi ảnh màu điện tử Konica Nice Print System Model 878-SQA, đồng bộ mới 100% với giá 88.000 đô la Mỹ. Nhưng với phương thức thanh toán thoả thuận trong hợp đồng là: Hoặc chuyển khoản vào tài khoản của Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao tại Ngân hàng Đầu tư phát triển thành phố Hồ Chí Minh hoặc bằng đồng Việt Nam quy ngang đô la Mỹ tại văn phòng Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao ở 74 Nguyễn Văn Trỗi theo tỷ giá bán của Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh vào ngày thanh toán. Thực tế phiếu xuất kho máy cho bà Huế và các phiếu thu tiền của bà Huế đều thể hiện thanh toán bằng đồng Việt
Về công suất máy: Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao giao máy cho bà Huế đúng chủng loại, tình trạng máy mới 100%, theo đơn giá tài chính số 036321 ngày 28- 12- 1998, bà Huế ký biên bản nghiệm thu ngày 15-01-1999 công nhận việc lắp đặt vận hành tốt và phụ tùng theo máy giao đủ. Vì vậy, không có căn cứ để khẳng định Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao giao máy cho bà Huế không đúng công suất theo hợp đồng như Viện Trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã nêu trong kháng nghị.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 1 Điều 77 Pháp Lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
QUYếT ĐịNH:
Giữ nguyên Quyết định giám đốc thẩm số 13/UBTP-DS ngày 09-09-2002 của Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đối với vụ án đòi nợ giữa nguyên đơn là Công ty TNHH Thương mại Ngôi Sao và bị đơn là bà Đoàn Thị Huế.
Căn cứ bác Kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
Trong hợp đồng giữa hai bên thoả thuận giao bằng đô la Mỹ, nhưng có thoả thuận phương thức thanh toán bằng Việt
Quyết định số 27/2003/HĐTP-DS ngày 26-08-2003
Về vụ án tranh chấp chia thừa kế
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
…………………..
Tại phiên toà ngày 26-08-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế giữa các đương sự :
Nguyên đơn:
1. Cụ Nguyễn Văn Lạc 81 tuổi; trú tại số 69 ái Mộ, Gia Lâm, Hà Nội.
2. Bà Ngô Thị Sửu, 49 tuổi; trú tại số 63 Hàng Buồm, Hà Nội.
Bị đơn: Ông Nguyễn Quang 64 tuổi; trú tại số 39B, tổ 2, phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Cụ Nguyễn Thị Tính; trú tại số 307 đường Tiền Phong, phường Năng Tĩnh, thành phố Nam Định.
2. Cụ Nguyễn Thị Toán (chết năm 1991) có chồng là cụ Ngô Văn Trụ và 7 con, do cụ Trụ đại diện; trú tại số 58 Nguyễn Hữu Huân, Hà Nội.
3. Ông Nguyễn Tuyến; trú tại số 39B tổ 2, Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
4. Ông Nguyễn Khánh; trú tại số 39B, tổ 2, Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
5. Bà Nguyễn Thị Khánh Vân; trú tại số 68 phố Quan Nhân, Phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
6. Bà Nguyễn Thị Hiền (chết năm 1962) có chồng là ông Đinh Quang Vinh và 4 con; trú tại số 95 Võ Thị Sáu, phường 6, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh do bà Ngô Thị Sửu đại diện.
7. Bà Nguyễn Thị Thảo (chết năm 1982) có chồng là ông Trần Chu Miên và 6 con, uỷ quyền cho anh Trần Chu Thịnh đại diện.
8. Anh Đỗ Kim Tiến, 44 tuổi; trú tại số 39B, tổ 2, phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
9. Anh Đỗ Quang Thành 46 tuổi; trú tại số 39B tổ 2, phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
10. Ông Nguyễn Ngọc Mỡi 58 tuổi; trú tại phòng 101, V4 tập thể Đại học giao thông, Hà Nội.
11. Bà Trần Thị Minh Hải 41 tuổi; trú tại số 12B nhà 4B tập thể Trung Tự, quận Đống Đa, Hà Nội.
12. Ông Lê Tòng 58 tuổi; trú tại số dãy B, phòng 2, tập thể Viện công nghệ thực phẩm, Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
13. Bà Hoàng Kim Tuyến 51 tuổi; trú tại phòng 5 ngõ 25 Láng Hạ, phường Thành Công, quận Ba Đình, Hà Nội.
14. Ông Trịnh Đông A 52 tuổi; trú tại số 62 A3 tập thể Thành Công, quận Đống Đa, Hà Nội.
15. Ông Nguyễn Đức Quy 42 tuổi; trú tại số 106 phố Quan Nhân, Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
16. Ông Nguyễn Xuân Mai 52 tuổi; trú tại phòng 2, B14 tập thể Yên Lãng, quận Đống Đa, Hà Nội.
17. Ông Vũ Hữu Nghị; trú tại số 20 Đặng Dung, Hà Nội.
18. Bà Đào Thị Lợi; trú tại số 131B, Tiền An, thị xã Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.
19. Ông Bùi Văn Thuyết; trú tại số 376 đường Nguyễn Huy Tưởng, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
20. Ông Hà Thế Truyền, trú tại số 292 phố Huế, Hà Nội.
21. Ông Đặng Văn Nghĩa; trú tại tổ 2 Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
22. Bà Đoàn Thị Tuyết; trú tại số 39B, tổ 2 Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
23. Anh Nguyễn Anh Bảo; trú tại số 39B, tổ 2 Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
24. Ông Nguyễn Huy Phúc; trú tại số 140 phố Quan Nhân, phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
25. Ông Trần Đức Minh; trú tại tổ 1 phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Nhận thấy:
Cố Nguyễn Văn Lộc (chết 1942), có 2 vợ: vợ cả là cố Nguyễn Thị Ngọ (chết 1917), vợ hai là cố Quan Thị Thìu (chết 1960).
Cố Lộc và cố Ngọ có 3 người con chung là: Cụ Tộ, cụ Tính, cụ Toán.
Cụ Tộ (chết năm 1988), có vợ là cụ Bính (chết 1952) có 6 con là : ông Quang, ông Tuyến, ông Khánh, bà Vân, bà Thảo (chết năm 1982) và bà Hiền (chết 1962). Bà Hiền có chồng là ông Vinh, có 4 người con là: anh Hiền, anh Hùng, chị Hạnh, chị Bích. Bà Thảo có chồng là ông Miên, có 6 con là chị Thanh, chị Bình, chị Dung, anh Miêng, anh Đạt, anh Thịnh.
Cụ Toán (chết 1991), có chồng là cụ Trụ, có 7 con là: Ông Kha, bà Mùi, ông Hoè, bà Sửu, ông Hùng, ông Khiêm, ông Dũng.
Cố Lộc và cố Thìu có một con là cụ Lạc.
Về tài sản: Cố Lộc được tổ tiên để lại cho thửa đất số 19 và số 16 tại 39B tổ 2 phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Trên thửa đất số 16 có một nhà thờ 5 gian, vườn, ao diện tích thực tế là 2.516,57m2. Năm 1946 cả gia đình cố Lộc đi tản cư, năm 1952 trở về thì nhà đã bị phá hỏng chỉ còn lại móng nhà. Khi trở về không có ai ở lại trên đất này. Cụ Tộ đại diện cho gia đình thuê ông Cai Minh trông coi. Ngoài 2 thửa đất số 19 và 16 cố Lộc còn có một số đất ruộng, năm 1952- cụ Tộ được 2 ông chú trong dòng họ đồng ý cho bán 2.140m2 ruộng để lấy tiền sửa nhà thờ, nhưng cụ Tộ chưa sửa nhà mà sử dụng tiền bán đất ruộng để trả dần tiền thuê ông Cai Minh trông coi đất vườn. Trong thời gian trông coi, ông Cai Minh đã cậy gạch ở móng nhà bán và cho con là anh Tiến, anh Thành làm nhà ở trên nền nhà cũ của cố Lộc. Năm 1960 cụ Tộ kê khai đứng tên trong sổ địa chính. Năm 1976 cụ Tộ về làm 4 gian nhà thờ bằng tiền bán ruộng của dòng họ còn lại và tiền cụ Tộ bán tiếp thửa đất số 19. Năm 1985- 1987 cụ Tộ gọi cụ Lạc, cụ Toán về ở, nhưng chỉ có cụ Toán về bồi thường hoa màu cho anh Thành, anh Tiến 400.000đ để lấy 200m2 đất làm nhà, hiện anh Hùng con cụ Toán đang ở. Năm 1988 cụ Tộ chết, phần lớn nhà đất do ông Quang quản lý. Năm 1991 ông Quang bán 550m2 ao cho anh Quy được 7 lạng vàng, ông Quang cho cụ Lạc 6 chỉ vàng, ông Khánh 1 lạng 6 chỉ, bà Vân 3 chỉ, ông Tuyến 5 chỉ. Năm 1993 ông Quang bán tiếp 485m2 đất vườn cho bà Tuyến, ông Nghiên, ông Nghị được 63 lạng vàng, ông Quang cho cụ Lạc 1 lạng vàng, �! �ng Tuyến 9 lạng, ông Khánh 8 lạng, bà Vân 4 lạng 5 chỉ.
Năm 1994 cụ Lạc, cụ Tính, cụ Trụ (chồng cụ Toán) và ông Vinh (chồng bà Hiền) khởi kiện xin chia thừa kế di sản của cố Lộc tại thửa đất số 16 do bà Sửu đại diện cho các đồng nguyên đơn. Ông Quang cho rằng năm 1960 cụ Tộ đã đứng tên trong sổ địa chính nên tài sản trên là của cụ Tộ, năm 1985 cụ Tộ đã di chúc cho ông nhà đất, không đồng ý chia thừa kế.
Ngày 09-6-1994 Toà án nhân dân quận Đống Đa thụ lý vụ kiện xin chia thừa kế giữa nguyên đơn là cụ Lạc, bà Sửu với bị đơn là ông Quang. Do vụ án có nhân tố nước ngoài nên Toà án Đống Đa chuyển vụ việc cho Toà án Hà Nội giải quyết.
Sau khi Toà án điều tra nhận thấy diện tích đất ông Quang bán cho ông Quy, ông Quy đã bán lại cho ông Minh. Ông Minh đã san lấp và bán lại cho ông Nguyễn Xuân Mai 74m2 và bán cho ông Trần Đức Minh (con ông Xương) 70m2. Sau đó ông Minh lại bán lại số đất trên cho ông Nguyễn Ngọc Mỡi. Số đất còn lại từ nhà bà Hải đến hết ao ông bán cho ông Lê Tòng.
Sau khi mua đất của ông Quy thì ông Tòng lại bán lại đất cho bà Trần Thị Minh Hải và ông Hà Thế Truyền. Để rút ngắn thủ tục giấy tờ, ông Tòng đề nghị ông Minh viết giúp giấy đứng tên ông Minh trực tiếp bán cho bà Hải và ông Truyền, còn tiền thì ông Tòng thu. Ông minh chỉ viết giấy bán cho ông Tòng 300m2.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, ông Lê Tòng trình bày:
Ngày 21-10-1999 ông mua của ông Quy 300m2 đất ao. Khi mua ông có được xem giấy tờ nguồn gốc đất có chữ ký của anh em ông Quang và xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Nhân Chính, giá mua là 1 chỉ vàng/2,6m2. Sau đó ông đã bán lại cho bà Hải 160m2 và ông Truyền 85m2, ông thu tiền của bà Hải, ông Truyền, còn thủ tục giấy tờ thì do ông Quy viết. Nay gia đình ông Quang có việc kiện chia thừa kế liên quan đến 300m2 đất ông đã mua bán. Nếu đất này ông Quy bán không hợp pháp thì ông yêu cầu ông Quy phải thanh toán trả ông số tiền ông đã bỏ ra mua. Ngoài ra ông còn cùng với anh Tiến, anh Thành xây chung kè ven ao làm lối đi, ông yêu cầu được thanh toán.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Hà Thế Truyền cho biết: Ngày 29-12-1992 vợ chồng ông có mua của ông Tòng 85m2 đất ở đường trục chính xã Nhân Chính. Ông Tòng nói đất này mua của ông Quy, ông Tòng bán lại cho ông Truyền nhưng giấy tờ bán đất lại đứng tên ông Quy bán cho ông Truyền, còn tiền trả cho ông Tòng. Đầu năm 1994 ông Truyền lại bán lại mảnh đất này cho vợ chồng ông Nguyễn Huy Phúc và bà Nguyễn Thị Yến.
Bà Nguyễn Thị Yến trình bày: Bà mua 85m2 đất của ông Truyền vào ngày 25-01-1994 với giá 4 chỉ vàng/1m2. Đến tháng 3 năm 1994 bà lại bán lại diện tích đất trên cho bà Đào Thị Lợi ở 131 Tiền An, thị xã Bắc Ninh với giá 35 cây vàng.
Bà Đào Thị Lợi trình bày: Ngày 05-03-1994 bà có mua của vợ chồng ông Phúc, bà Yến 85m2 đất với giá 4 chỉ/1m2. Đến đầu năm 1995 bà đã bán lại diện tích đất trên cho ông Bùi Văn Thuyết với giá 8 chỉ vàng/1m2.
Ông Bùi Văn Thuyết trình bày: Vì nhà ông nằm ở vùng mở đường theo quy hoạch nên có nhu cầu mua đất làm nhà. Ông đã cùng em trai là Minh giao dịch và mua của bà Lợi 85m2 đất ở 39B tổ 2 phường Thượng Đình. Ông không hề biết đất có tranh chấp vì ông xem giấy tờ bà Lợi đã mua đất có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã Nhân Chính. Ông đề nghị Toà án xem xét bảo vệ quyền lợi cho ông.
Ông Nguyễn Ngọc Mỡi trình bày: Do nhu cầu làm nhà ở nên ông đã mua 76m2 đất và nhà của ông Trần Đức Minh ở 39 tổ 2 phường Thượng Đình. Trước khi mua ông đã tìm hiểu được biết đất này ông Quang bán cho ông Quy có giấy tờ được Uỷ ban nhân dân xã Nhân Chính xác nhận. Việc ông mua lại mảnh đất này là ngay thẳng nên ông đề nghị được hợp pháp hoá việc mua bán và sử dụng để xây dựng nhà ở.
Ông Nguyễn Xuân Mai trình bày: Do có nhu cầu làm nhà ở nên tháng 2 năm 1993 ông có mua của ông Quy 80m2 đất (thực đo là 76m2) với giá 2,5 chỉ/m2. Ông đề nghị được hợp pháp hóa việc mua bán và sử dụng đất để xây dựng nhà ở.
Ông Trần Đức Minh trình bày: Ông và ông Quy coi nhau như anh em nuôi. Khoảng năm 1989 – 1990 ông Quy có cho ông khoảng 60m2 đất tại tổ 2 phường Thượng Đình. Ông đã xây nhà 2 tầng trên đất ấy và bán lại cho ông Nguyễn Ngọc Mỡi. Việc ông Quy cho đất ông chỉ nói miệng, không làm giấy tờ gì.
Bà Trần Thị Minh Hải trình bày: Tháng 2 năm 1993 bà mua của ông Quy 160m2 đất tại 39B tổ 2 phường Thượng Đình với giá 2,65 chỉ vàng/m2, tính ra đô la Mỹ là 16.700USD. Nếu ông Quy không có quyền bán đất này thì ông Quy phải trả lại cho bà số tiền trên, có tính lãi theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Ông Đặng Xuân Ngự là bố anh Đặng Xuân Nghĩa trình bày: Năm 1992 ông và anh Nghĩa có mua 1 nhà mái bằng diện tích 20m2 của ông Ngọc. Trước đó ông Ngọc mua đất của ông Tuyến làm nhà này. Ông còn mua thêm đất ngõ của ông Quang. Tổng diện tích khoảng 100m2. Nay có việc tranh chấp thừa kế ông đề nghị bảo vệ quyền lợi để anh Nghĩa có chỗ ở.
Theo bà Hoàng Thị Kim Tuyến trình bày: Tháng 3 năm 1993 do có nhu cầu chỗ ở nên bà mua của ông Quang 100m2 đất vườn và nhờ anh trai là ông Nghiên đứng tên mua hộ bà 100m2 nữa. Tổng giá trị mua 200m2 đất của ông Quang là 31,5 lạng vàng. Nay có việc tranh chấp thừa kế đất trong gia đình ông Quang, bà đề nghị Toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bà.
Ông Vũ Hữu Nghị trình bày: Khoảng tháng 05 năm 1993, do có nhu cầu về chỗ ở, qua sự giới thiệu của bà ánh là chị ruột, ông có mua của ông Quang 200m2 đất vườn với giá 31,5 lạng vàng. Do mẹ ông không đồng ý đến đó ở nên ông phải nhượng lại cho ông Trịnh Đông A diện tích đất trên với giá 2,8 chỉ vàng/m2.
Ông Trịnh Đông A thừa nhận có mua mảnh đất nói trên của ông Nghị với giá 2,8 chỉ vàng/m2. Ông đề nghị được hợp pháp hoá việc mua bán để ông sử dụng đất làm nhà ở.
Anh Đỗ Kim Tiến và anh Đỗ Quang Thành thừa nhận hiện nay đã làm nhà trên diện tích đất khoảng 200m2 của gia đình cụ Nguyễn Tộ. Nay các anh không còn chỗ ở nào khác nên đề nghị được tiếp tục ở tại nhà các anh đã làm.
- Tại Quyết định số 70 ngày 28-12-1995, Toà án Hà Nội đình chỉ giải quyết vụ án vì tại phiên toà sơ thẩm cụ Lạc, bà Sửu rút đơn khởi kiện.
Ngày 08-01-1996, bà Sửu kháng cáo vì nghe tiền án phí quá lớn nên rút đơn chứ thực lòng không muốn rút đơn và các nguyên đơn khác không đồng ý rút đơn.
- Tại Bản án phúc thẩm số 123/PTDS ngày 09-10-1996, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định: Huỷ Quyết định số 70 ngày 28-12-1995 của Toà án Hà Nội, giao cho Toà án Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung.
- Tại Bản án sơ thẩm số 5/DSST ngày 11-03-1998, Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:
Chấp nhận đơn xin chia thừa kế của cụ Lạc và bà Sửu do bà Sửu đại diện.
Xác định cố Nguyễn Văn Lộc (chết năm 1942) có 2 vợ; vợ cả là cố Nguyễn Thị Ngọ (chết năm 1917), vợ hai là cố Quan Thị Thìu (chết năm 1960).
Xác định thửa đất số 16, 19 tờ bản đồ số 1 thôn Cự Chính, xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm nay là số nhà 39B, tổ 2 phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân, Hà Nội có diện tích thửa đất số 16 theo sổ sách là 2.800m2 (đo thực tế là 2.516,57m2) có giá trị quyền sử dụng đất là 3.645.695.200đ và thửa số 19 diện tích 595m2 là tài sản của cố Lộc và là di sản thừa kế của cố Lộc để lại. Xác định thời điểm mở thừa kế của cố Lộc là năm 1942.
Xác định cố Ngọ mất khoảng năm 1917 (mất trước cố Lộc) nên không được hưởng thừa kế di sản của cố Lộc.
Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cố Lộc gồm:
1. Cố Quan Thị Thìu (chết năm 1960) do cụ Lạc được thừa kế.
2. Cụ Tộ (chết năm 1988) do ông Nguyễn Quang, ông Nguyễn Khanh, ông Nguyễn Tuyến, bà Nguyễn Thị Khánh Vân, ông Đinh Quang Vinh và 4 con Đinh Minh Hiền, Đinh Quang Hùng, Đinh Thị Bích Hạnh, Đinh Thị Ngọc Bích (thừa kế của bà Hiền) ông Trần Chu Miên và 6 con là Trần Thị Thanh, Trần Thị Bình, Trần Chu Thịnh, Trần Chu Miên, Trần Chu Đạt, Trần Thị Dung (thừa kế của bà Thảo) được thừa hưởng.
3. Cụ Nguyễn Thị Toán chết năm 1991 (do chồng là Ngô Văn Trụ và 7 con là Ngô Viết Kha, Ngô Thị Mùi, Ngô Viết Hoè, Ngô Thị Sửu, Ngô Việt Hùng, Ngô Thị Khiêm, Ngô Quốc Dũng được thừa hưởng).
4. Cụ Nguyễn Thị Tính.
5. Cụ Nguyễn Văn Lạc.
Ghi nhận sự tự nguyện của cụ Lạc, bà Sửu, (do bà Sửu đại diện),không yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất thửa số 19 và diện tích đất nhà bà Đoàn Thị Tuyết (Thỉnh) đang ở.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Lạc, bà Sửu (do bà Sửu đại diện), cụ Tính, ông Quang, ông Khánh, ông Tuyến, bà Vân, ông Thịnh không yêu cầu chia thừa kế vào diện tích đất anh Đặng Văn Nghĩa đang ở.
Xác định di sản của cố Lộc còn phải chia sau khi đã trừ các diện tích đất của ông Nghĩa, bà Tuyết (Thỉnh) có tổng giá trị quyền sử dụng đất là 3.448.044.400 đồng. Chia thừa kế theo luật cho 5 kỷ phần. Mỗi kỷ phần được chia là 689.608.880 đồng.
Trích 1/2 kỷ phần để thanh toán công sức cho cụ Tộ là 344.804.440 đồng.
Mỗi kỷ phần thực tế được chia là 620.647.992 đồng. Cụ Toán, cụ Tính mỗi người được hưởng một kỷ phần là 620.647.992 đồng. Cụ Lạc hưởng 2 kỷ phần bằng 1.241.295.948 đồng. Cụ Tộ được hưởng 1 kỷ phần và tiền thanh toán công sức là 965.452.432 đồng.
Ghi nhận sự tự nguyện của cụ Lạc, bà Sửu (do bà Sửu đại diện) không yêu cầu chia số tiền cụ Tộ đã bán ruộng năm 1952.
Ghi nhận sự tự nguyện của bà Sửu không yêu cầu thanh toán 400.000 đồng tiền thanh toán trả hoa màu cho ông Tiến, anh Thành.
Chia hiện vật:
Chia cho cụ Tộ do ông Quang, Khánh, Tuyến, bà Vân, chồng con bà Hiền (bà Sửu đại diện); chồng con bà Thảo (anh Thịnh đại diện) được thừa hưởng vào các diện tích đất hiện ông Quang, ông Khánh, ông Tuyến và ông Bảo đang quản lý sử dụng, có diện tích là 791,26m2, có tổng giá trị là 1.036.244.520 đồng. So với kỷ phần còn thừa 70.792.088 đồng.
Chia cho cụ Toán (do bà Sửu đại diện cho bố và anh chị em) vào các diện tích đất anh Hùng đang ở cộng với diện tích đất của bà Hải, ông Mỡi và 1/2 ngõ đi vào nhà anh Hùng (phần ngõ bên trong đối diện nhà anh Hùng) có diện tích là 397,7m2 có giá trị là 676.818.720 đồng. So với kỷ phần còn thừa 56.170.720 đồng.
Chia cho cụ Lạc (do bà Sửu đại diện) vào các diện tích đất nhà anh Tiến, anh Thành đang ở cộng với diện tích ao ông Tòng mua, đất vườn ông Trịnh Đông A mua và 1/2 ngõ đi (phần bên ngoài đối diện với nhà anh Tiến, anh Thành) có tổng diện tích là 776,88m2 có giá trị là 1.161.394.960 đồng. So với kỷ phần còn thiếu 79.901.024 đồng.
Chia cho cụ Tính vào các diện tích của bà Tuyến, ông Thuyết, ông Mai đã mua có tổng diện tích 378,35m2 có giá trị là 573.586.200 đồng. So với kỷ phần còn thiếu 47.061.792 đồng.
Bà Sửu đại diện cho các thừa kế của cụ Toán phải thanh toán chênh lệch cho kỷ phần còn thiếu của cụ Tính là 56.170.728 đồng và thanh toán chênh lệch cho kỷ phần cụ Lạc còn thiếu 9.108.936 đồng.
Phần thừa kế của cụ Nguyễn Tộ: Xác định di sản của cụ Tộ để lại gồm kỷ phần thừa kế của cụ Lộc và 1/2 kỷ phần tiền công sức duy trì bảo quản di sản có tổng trị giá là 965.452.432 đồng.
Xác định di chúc của cụ Tộ là không hợp pháp.
Xác định hàng thừa kế thứ nhất của cụ Tộ gồm:
Ông Quang, ông Tuyến, ông Khánh, bà Vân, bà Hiền (do bà Sửu đại diện cho chồng con bà Hiền), bà Thảo (do ông Thịnh đại diện cho bố và anh chị em).
Chia thừa kế theo luật làm 6 kỷ phần:
Mỗi thừa kế của cụ Tộ được chia theo giá trị 1 kỷ phần là 160.908.738 đồng.
Ghi nhận sự tự nguyện của bà Vân và các thừa kế của bà Hiền (do bà Sửu đại diện) chỉ xin hưởng thừa kế bằng 1/2 của kỷ phần là 80.454.369 đồng.
Chia cụ thể: Các thừa kế của bà Hiền, do bà Sửu đại diện tự nguyện xin hưởng bằng giá trị là 80.454.369 đồng.
Chia cho bà Vân bằng giá trị là 80.454.369 đồng.
Các thừa kế của bà Thảo do anh Thịnh đại diện được chia bằng giá trị một kỷ phần là 160.908.738 đồng.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Tuyến chỉ xin hưởng thừa kế bằng đúng diện tích đất ông đang ở có giá trị 101.080.080 đồng nhưng ông Tuyến phải chịu 1/3 giá trị ngõ đi chung là 29.397.960 đồng. Kỷ phần của ông Tuyến được hưởng có giá trị là 130.478.640 đồng. So với kỷ phần còn thiếu 30.430.698 đồng.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Khánh chỉ xin hưởng thừa kế bằng đúng diện tích đất ông đang ở có giá trị 93.960.000 đồng nhưng ông phải chịu 1/3 giá trị ngõ đi chung là 29.397.960 đồng. Nên kỷ phần của ông Khánh được hưởng có giá trị là 123.357.960 đồng. So với kỷ phần còn thiếu 36.550.778 đồng.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Tuyến, ông Khánh không yêu cầu ông Quang thanh toán tiền còn thiếu theo kỷ phần.
Ông Quang được hưởng 2 kỷ phần (1 kỷ phần của ông và 1 kỷ phần của bà Vân và các thừa kế của bà Hiền tự nguyện nhường cho ông) cộng với số tiền còn thiếu của kỷ phần ông Tuyến, ông Khánh không yêu cầu thanh toán. Nên ông Quang được hưởng theo giá trị là 388.798.952 đồng.
Về hiện vật: Chia cho ông Tuyến, ông Khánh được sử dụng các diện tích đất hiện các ông đang sử dụng.
Chia cho ông Quang các diện tích đất ông Quang đã làm nhà 2 tầng, nhà ngói 4 gian, nhà cấp 4 anh Bảo ở có tổng giá trị là 782.439.840 đồng. So với kỷ phần được hưởng thừa kế là 393.640.888 đồng ông Quang phải thanh toán cho anh Thịnh (đại diện chồng con bà Thảo) là 160.808.738 đồng, thanh toán cho bà Vân, bà Sửu (đại diện cho chồng con bà Hiền) mỗi người là 80.454.369 đồng và thanh toán cho cụ Lạc kỷ phần còn thiếu là 70.792.088 đồng.
Ghi nhận sự tự nguyện của bà Vân đồng ý trả lại ông Quang tiền bán đất ao vườn ông Quang đã cho bà là 4,8 lượng vàng.
Ghi nhận sự tự nguyện của ông Quang không yêu cầu đòi lại ông Tuyến, ông Khánh, cụ Lạc, cụ Tính số tiền bán đất ao, vườn ông đã cho ông Tuyến, Khánh, cụ Lạc, cụ Tính.
Về hợp đồng mua bán đất ao, vườn:
Huỷ hợp đồng mua bán đất tại thửa 16 tờ bản đồ số 1 xã Nhân Chính, huyện Từ Liên nay là 39B, tổ 2, phường Thượng Đình, quận Thanh Xuân giữa ông Quang với ông Nguyễn Đức Quy, giữa ông Quang với bà Hoàng Thị Kim Tuyến và giữa ông Quang với ông Vũ Hữu Nghị.
Huỷ tất cả các hợp đồng mua bán khác tại thửa đất 16 tờ bản đồ số 01 xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm, nay là 39B tổ 2 phường Thượng Đình của anh Nguyễn Đức Quy và anh Vũ Hữu Nghị
Không giải quyết trong vụ kiện này đối với những trường hợp mua đi bán lại đất tại 39B, tổ 2, phường Thượng Đình như ông Mỡi mua của ông Minh, bà Hải, ông Tòng, bà Lợi mua của vợ chồng ông Phúc, bà Yến, ông Thuyết mua của bà Lợi, ông Đông A mua của ông Nghị.
Tách để giải quyết bằng vụ kiện khác khi các đương sự có yêu cầu đòi tiền mua bán đất do bị huỷ hợp đồng.
Buộc ông Quang phải trả lại tiền bán đất cho bà Tuyến, ông Nghị mỗi người là 31,5 lạng vàng 98%.
Buộc ông Quang phải trả lại tiền bán đất ao cho ông Quy là 7 lạng vàng 98%.
Buộc ông Mỡi, bà Hải, ông Thuyết, ông Tòng, ông Mai, bà Tuyến, ông Đông A phải thanh toán trả lại các diện tích đất đã mua tại thửa 16 tờ bản đồ số 1 xã Nhân Chính nay là 39B, tổ 2, phường Thượng Đình để chia thừa kế cho các con cố Lộc.
Cụ Lạc, do bà Sửu đại diện, phải thanh toán trả ông Quy tiền san lấp ao là 11.796.000 đồng, trả ông Nghị tiền san lấp mương, xây tường là 6.140.000 đồng, trả tiền làm nhà tạm cho ông Trịnh Đông A là 1.500.000 đồng.
Ghi nhận sự tự nguyện của cụ Lạc (do bà Sửu đại diện) chỉ xin chia thừa kế theo phần vào các diện tích đất anh Tiến, anh Thành đang ở. Việc đòi quyền sử dụng đất và thanh toán vật liệu nhà xin được tự giải quyết. Nếu giải quyết không xong sẽ xin được giải quyết ở vụ kiện khác.
Bà Sửu đại diện cho các thừa kế của cụ Toán phải thanh toán trả tiền vật liệu nhà 2 tầng cho ông Mỡi là 81.940.000 đồng và thanh toán trả ông Quy tiền san lấp ao là 9.043.000 đồng.
Cụ Tính phải thanh toán trả ông Quy tiền san lấp ao là 6.291.200 đồng và thanh toán trả ông Nghị tiền san lấp mương, xây tường rào là 6.140.000 đồng.
Các bức tường lửng ngăn giữa các ô đất ao sẽ do các thừa kế và người có tường tự thoả thuận. Nếu không thoả thuận được thì người xây tường phải dỡ bỏ tường đã xây.
Bác yêu cầu xin chia thừa kế bằng hiện vật của bà Vân.
Bác các yêu cầu khác của các đương sự.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 17-03-1998 bị đơn ông Nguyễn Quang kháng cáo cho rằng cụ Tộ (bố ông) là người sử dụng đất hợp pháp đã di chúc lại cho ông, việc chia thừa kế là không đúng.
Ngày 18-03-1998 những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông Trịnh Đông A, Lê Tòng, Nguyễn Xuân Mai, Bùi Văn Thuyết, Nguyễn Ngọc Mỡi, Nguyễn Đức Quy, Vũ Hữu Nghị và bà Hoàng Thị Kim Tuyến cùng ký chung một đơn kháng cáo đề nghị Toà Phúc thẩm chấp nhận các hợp đồng mua bán đất tại 39B, tổ 2, phường Thượng Đình.
Ngày 20-03-1998 những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là các ông Đỗ Quang Thành, bà Đỗ Kim Tuyến kháng cáo yêu cầu xét xử lại vụ án để bảo vệ quyền lợi cho các ông, bà.
Ngày 06-04-1998 ông Hà Thế Truyền là người có quyền, nghĩa vụ liên quan kháng cáo. Ngày 14-04-1998 người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Đào Thị Lợi kháng cáo. Ngày 21-04-1998 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Minh Hải kháng cáo. Ông Truyền, bà Lợi, bà Hải đều yêu cầu được chấp nhận các hợp đồng mua bán đất tại 39B, tổ 2, phường Thượng Đình.
- Tại Bản án phúc thẩm số 60/DSPT ngày 12-05-1999, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định:
Huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 05/ DSST ngày 11 tháng 03 năm 1998 Toà án nhân dân thành phố Hà Nội đình chỉ việc giải quyết vụ án tranh chấp thừa kế giữa các đồng nguyên đơn là cụ Nguyễn Văn Lạc và bà Ngô Thị Sửu với bị đơn là ông Nguyễn Quang; chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án đến Uỷ ban nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội giải quyết theo thẩm quyền.
- Tại Quyết định kháng nghị số 5/DS-TK ngày 13-02-2001, Chánh án Toà án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án phúc thẩm số 60/DSPT ngày 12-05-1999 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội với nhận định: Có căn cứ xác nhận thửa đất số 16 bản đồ số 1 xã Nhân Chính thuộc quyền sử dụng hợp pháp của cố Lộc. Năm 1952 nhà thờ còn móng, năm 1976 cụ Tộ làm lại nhà, nên cả nhà và đất là di sản của cố Lộc. Tại phiên toà sơ thẩm ngày 06-03-1999 nguyên đơn chỉ yêu cầu chia đất nhưng đơn khởi kiện và một số bản khai ở cấp phúc thẩm, đơn kháng cáo và tại phiên Toà Phúc thẩm, các nguyên đơn yêu cầu chia cả nhà và đất. án phúc thẩm cho rằng vụ án không thuộc thẩm quyền của Toà án và đình chỉ chuyển vụ án về Uỷ ban giải quyết là sai.
- Tại Kết luận số 118 ngày 22-05-2001, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
- Tại Quyết định giám đốc thẩm số 10/UBTP- DS ngày 18-07-2001, Uỷ ban Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 60/DSPT ngày 12-05-1999 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội; giao hồ sơ vụ án cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội giải quyết lại vụ án theo thủ tục chung.
- Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 103/DSPT ngày 12-06-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội đã quyết định: Giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 5/DSST ngày 11-03-1998 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.
- Tại Quyết định kháng nghị số 78/KN-VKSTC- Vụ 5 ngày 13-06-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị Bản án dân sự phúc thẩm số 103/DSPT ngày 12-06-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội với nhận xét: Công văn số 1642/ĐCNĐ ngày 24-04-2003 của Sở Địa chính- nhà đất Hà Nội; Công văn số 149/ĐC- UBND ngày 05-05-2003 của Uỷ ban nhân dân phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội và kết quả xác minh bổ sung thì: Thửa đất số 16 và 19 tờ bản đồ số 1, làng Cự Lộc, xã Nhân Chính từ năm 1942 trở về trước đứng tên cố Lộc, có nguồn gốc do tổ tiên để lại. Thửa đất số 16 là đất thổ cư gồm có đất vườn, đất ao, trước có nhà thờ 5 gian lợp ngói. Năm 1946 gia đình cố Lộc đi tản cư, năm 1952 trở về nhà thờ 5 gian bị tàn phá, chỉ còn lại móng nhà nên cả gia đình cố Lộc không ở lại đây nữa. Năm 1952 cụ Tộ thuê ông Cai Minh trông coi tài sản trên thửa đất số 16.
Năm 1960 cụ Tô kê khai và đứng tên trong "sổ mục kê các thửa" thôn Cự Chính, xã Nhân Chính, quận 6, Uỷ ban hành chính thành phố Hà Nội. Việc cụ Tộ Kê khai đã được chính quyền địa phương lúc đó chấp nhận và xác định hình thức sở hữu là phù hợp với chính sách quản lý đất đai của Nhà nước ta thời kỳ đó. Năm 1988 cụ Tộ chết, ông Quang quản lý. Năm 1991 và 1993 ông Quang bán một số diện tích đất ao, vườn thuộc thửa đất số 16 mang tên cụ Tộ nhưng các con cố Lộc không phản đối. Mặt khác, ông Quang còn lấy tiền bán đất chia cho cụ Lạc, cụ Tính, ông Khánh, ông Tuyến, bà Vân. Năm 1994, cụ Lạc, bà Sửu mới có đơn khởi kiện đòi chia quyền sử dụng đất.
Trong quá trình xét xử, Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã căn cứ vào Công văn số 2859/CSNĐ ngày 11-11-1994 của Sở Địa chính nhà đất Hà Nội để xác định nguồn gốc thửa đất số 16 là di sản của cố Lộc để chia thừa kế. Nhưng theo tài liệu Viện Kiểm sát nhân dân tối cao xác minh bổ sung thì Sở Địa chính- Nhà đất Hà Nội lại có Công văn số 1642/ĐCNĐ ngày 24-04-2003 có nội dung không thống nhất với Công văn số 2859/CSNĐ. Mặt khác Sở Địa chính-Nhà đất và Uỷ ban nhân dân phường Nhân Chính đều xác nhận không nắm được diễn biến quản lý, sử dụng thửa đất số 16 trong thời gian từ năm 1942 đến năm 1960. Do đó, cần phải xác minh làm rõ các nội dung mâu thuẫn nêu trên để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên đương sự.
Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao huỷ bản án phúc thẩm; giao hồ sơ cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội tiến hành xác minh, làm rõ các nội dung đã nêu trên và xét xử phúc thẩm lại theo thủ tục chung.
Xét thấy:
Nhà đất tại thửa số 16 có nguồn gốc là của cố Lộc, nhưng do chiến tranh tàn phá, nhiều đương sự khai là chỉ còn móng nền nhà. Tuy nhiên, cũng có đương sự khai ông Cai Minh đã cậy gạch bán. Vì vậy, cần làm rõ tài sản nguyên thuỷ, trên đất còn những gì. Mặt khác, năm 1960, cụ Tộ đứng tên trong sổ địa chính nhưng nội dung kê khai, lý do cụ Tộ đứng tên trong sổ địa chính chưa được các Toà án điều tra. Nay cần phải xác minh làm rõ những nội dung cụ Tộ kê khai, ý kiến của các thừa kế khi cụ Tộ kê khai; việc kê khai đó có gì gian dối không; cụ Tộ đứng tên trong sổ địa chính có những điểm nào không phù hợp với chính sách của Nhà nước ở thời điểm năm 1960. Đồng thời, cần thu thập thêm các tài liệu hồ sơ nhà, đất tại Sở Địa chính- Nhà đất Hà Nội hoặc tại phường, quận về việc thay đổi trong việc quản lý nhà đất từ thời điểm năm 1942 đến nay, bởi vì các tài liệu có trong hồ sơ chưa đầy đủ và còn có nhiều điểm chưa thống nhất về vấn đề này. Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm chưa làm rõ và đầy đủ các yêu cầu nêu trên đã xác định nhà đất tranh chấp thuộc di sản của cố Lộc là chưa đủ cơ sở vững chắc.
Năm 1991 và năm 1993 ông Quang đã bán ao, đất vườn. Ông Khánh, bà Vân, ông Tuyến và cụ Lạc có biết và được nhận tiền bán đất từ ông Quang mà không có ý kiến gì. Nay các ông, bà này yêu cầu được chia thừa kế lại, Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận yêu cầu của họ là chưa đủ căn cứ. Về ý chí của cụ Tính và các thừa kế của cụ Toán như thế nào; ai biết việc bán đất mà không phản đối, ai đồng ý, ai không đồng ý… cũng cần phải xác minh làm rõ để xem xét lại các yêu cầu của họ theo đúng quy định của pháp luật.
Đối với các hợp đồng mua bán chuyển tiếp, ông Nghĩa xin được thanh toán lại tiền mua đất. Bà Hải có lời khai yêu cầu người bán trả lại tiền mua đất và xin được tính lãi. Ông Tòng yêu cầu trả tiền mua đất và tính giá trị chênh lệch theo thời giá. Toà án cấp sơ thẩm không xem xét yêu cầu của bà Hải, ông Nghĩa, ông Tòng là không đúng. Mặt khác, những người mua bán đất tham gia tố tụng là người liên quan trong vụ án, Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm không giải quyết các hợp đồng mua bán trong cùng một vụ án khi họ đã có yêu cầu là không đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.
Về tố tụng: Khi Toà án cấp sơ thẩm xét xử, chị Dung, chị Bình là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang ở Tiệp Khắc, không có giấy tờ uỷ quyền cho ai tham gia tố tụng, không có lời khai tại hồ sơ. Toà án cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều xác định anh Thịnh là đại diện cho chị Dung và chị Bình là không đúng. Việc chị Bình, chị Dung hiện nay đã về nước hay đang ở nước ngoài cũng cần phải làm rõ vì nếu thuộc trường hợp giao dịch về nhà ở trước ngày 01-07-1991 mà có đương sự là người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì cần phải tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án. Ngoài chị Bình, chị Dung, Toà án cần điều tra xác minh xem còn ai là người tham gia tố tụng trong vụ án đang ở nước ngoài nữa hay không?.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
Quyết định:
- Huỷ Bản án phúc thẩm số 103/DSPT ngày 12-06-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án sơ thẩm số 5/DSST ngày 11-03-1998 của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án tranh chấp chia di sản thừa kế giữa nguyên đơn là cụ Nguyễn Văn Lạc, bà Ngô Thị Sửu với bị đơn là ông Nguyễn Quang.
Giao hồ sơ vụ án về cho Toà án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Lý do các Bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị huỷ:
Xác minh về nguồn gốc tài sản chưa đầy đủ. Thiếu căn cứ trong việc chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế lại của một số người thừa kế. Không giải quyết các hợp đồng mua bán có liên quan khi có yêu cầu là không bảo đảm quyền lợi của các đương sự. Chưa làm rõ vấn đề có đương sự ở nước ngoài.
Quyết định số 28/2003/HĐTP- DS ngày 03-11-2003
Về vụ án Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
…………………..
Tại phiên toà ngày 03-11-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa các đương sự:
Nguyên đơn: 1. Ông Đặng Phước Thành, sinh năm 1957.
2. Bà Ngô Thị Thuý Vân, sinh năm 1957.
Cả hai đều trú tại nhà số 30 Thủ Khoa Huân, phường Bến Thành, quận1, thành phố Hồ Chí Minh.
- Bị đơn: Ông Võ Thái Bình, sinh năm 1974; trú tại nhà số 4 Cách Mạng Tháng 8, khu phố 3, phường Chánh Nghĩa, thị xã Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; tạm trú tại số 229 Lê Thánh Tôn, phường Bến Thành, quận 1, TP.HCM
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Ông Võ Anh Trung; trú tại số: 12 Rue Du Quatre Septembe thành phố
2. Ông Võ Anh Tú; trú tại số 275 Fasic Ave Roemead CA. 91770
Nhận thấy :
Nguồn gốc căn nhà số 229 Lê Thánh Tôn, phường Bến Thành, quận 1, thành phố Hồ Chí Minh thuộc quyền sở hữu của vợ chồng ông Võ Văn Thiêm và bà Nguyễn Thị Hoa (đều chết năm 1975). Sau khi ông Thiêm, bà Hoa chết, ngày 10-12- 1988 Phòng Công chứng nhà nước lập biên bản số 11/PCC về việc khai mở chúc thư của ông Thiêm, bà Hoa thì trong tờ chúc thư có đoạn ghi cho hai con là ông Tú và ông Trung căn nhà số 229 Lê Thánh Tôn, phường Bến Thành, quận 1. Sau đó phát sinh tranh chấp giữa ông Tú với ông Bé, bà Nga về việc đòi nhà cho ở nhờ thì lúc này ông Trung với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng ông Trung đang định cư tại Pháp, nên ngày 17-02-1993 viết giấy cho ông Tú được trọn quyền sở hữu căn nhà số 229 Lê Thánh Tôn, phường Bến Thành, quận 1 thành phố Hồ Chí Minh.
Tại Bản án phúc thẩm số 217/PTDS ngày 07-11-1994, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh quyết định: buộc vợ chồng bà Nga, ông Bé trả nhà cho ông Tú. Ông Tú được quyền liên hệ với cơ quan chức năng làm thủ tục hợp thức. Năm 1996 khi ông Tú tiến hành làm thủ tục hợp thức hoá thì Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh chỉ cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất vẫn mang tên ông Thiêm, bà Hoa (chết năm 1975) do con trai là ông Tú đại diện kê khai.
Ngày 07-10-1996 ông Tú làm tờ khai lệ phí trước bạ căn nhà trên, nhưng vẫn khai người được thừa kế di sản là ông Tú và ông Trung. Nhưng cũng tại tờ khai này, ngày 20-12-2000 phòng thuế trước bạ ghi thêm vào lề tờ khai là xoá tên ông Trung theo bản án phúc thẩm trên. Trước đó ngày 08-03-2000 ông Tú đã uỷ quyền cho con trai là Võ Thái Bình được toàn quyền bán căn nhà số 229 Lê Thánh Tôn, phường Bến Thành, quận 1.
Ngày 21-02-2001 ông Bình làm giấy thoả thuận bán cho ông Đặng Phước Thành, bà Ngô Thị Thuý Vân căn nhà số 229 Lê Thánh Tôn, phường Bến Thành, quận 1 với giá 520 lượng vàng SJC. Ông Thành, bà Vân giao cho ông Bình 3 lần. Lần 1 đặt cọc 50 lượng vàng SJC, lần hai trả hết số còn lại là 470 lượng vàng hai bên còn thoả thuận: Nếu Nhà nước CHXHCNVN chưa cho phép thì số cọc bên bán hoàn trả đủ 50 lượng vàng mà không phải bồi thường. Sau khi thoả thuận bên bán đã đặt cọc 50 lượng vàng.
Đến ngày 26-02-2001 hai bên lập hợp đồng chính thức mua bán. Sau đó bên bán trả bên mua hai lần là 150 lượng vàng. Tổng cộng 200 lượng vàng. Ông Bình xác nhận dùng 200 lượng vàng của ông Thành, bà Vân đưa trả nợ cho ông Công để lấy giấy tờ căn nhà số 229 Lê Thánh Tôn, phường Bến Thành, quận 1 từ ông Công về.
Khi hai bên ra Phòng Công chứng số 1 thành phố Hồ Chí Minh, thì Phòng Công chứng không chứng thực với lý do căn nhà nói trên có hai đồng thừa kế là ông Trung và ông Tú, nhưng chưa có ý kiến của ông Trung nên Phòng Công chứng nhà nước không công chứng và hướng dẫn đăng báo, đồng thời phải đóng phần sở hữu của ông Trung để Nhà nước quản lý. Trong thời gian đăng báo ngày 12-06-2001 Phòng Công chứng nhận được đơn của ông Trung ở nước ngoài gửi về đề ngày 18-05-2001 yêu cầu ngăn chặn việc mua bán nên Phòng công chứng không chứng thực hợp đồng mua bán căn nhà nói trên.
Nay ông Bình xin huỷ hợp đồng mua căn nhà với lý do không còn nhu cầu bán nhà và xin trả lại cho vợ chồng ông Thành 200 lượng vàng SJC, đồng thời bồi thường 50 lượng vàng SJC như đã thoả thuận.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 1611/DSST ngày 13-09-2002, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Chấp nhận yêu cầu của ông Đặng Phước Thành cùng đại diện là bà Ngô Thị Thuý Vân.
- Công nhận hợp đồng mua bán nhà số 229 Lê Thánh Tôn, phường Bến Thành, quận 1 lập ngày 26-02-2001 giữa ông Đặng Phước Thành, bà Ngô Thị Thuý Vân với ông Võ Thái Bình.
- Ông Đặng Phước Thành, bà Ngô Thị Thuý Vân có trách nhiệm trả cho ông Võ Thái Bình số tiền mua bán nhà còn lại 320 lượng vàng SJC.
- Buộc ông Võ Thái Bình cùng gia đình phải giao căn nhà số 229 Lê Thánh Tôn phường Bến Thành, quận 1 cho vợ chồng ông Đặng Phước Thành, bà Ngô Thị Thuý Vân trong thời hạn 1 tháng, kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật.
- án phí dân sự sơ thẩm ông Bình phải chịu 30.057.000 đồng.
- Hoàn lại tiền tạm ứng án phí cho ông Đặng Phước Thành theo biên lai số 025077 ngày 25-07-2001.
Ngày 23-09-2002, ông Võ Thái Bình có đơn kháng cáo không đồng ý quyết định của án sơ thẩm.
Ngày 23-09-2002, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định Kháng nghị; đề nghị Toà án cấp phúc thẩm xử theo hướng sửa án sơ thẩm huỷ hợp đồng mua bán nhà số 229 Lê Thánh Tôn, phường Bến Thành, quận 1 giữa ông Bình và vợ chồng ông Thành, bà Vân do hợp đồng vô hiệu. Ông Bình trả cho ông Thành bà Vân 200 lượng vàng SJC. Ghi nhận ông Bình bồi thường cho ông Thành, bà Vân 50 lượng vàng SJC.
Ngày 06-12-2002, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã rút toàn bộ kháng nghị.
Tại Bản án phúc thẩm số 130/PTDS ngày 25-04-2003 Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Sau khi xét xử phúc thẩm ông Võ Thái Bình có đơn khiếu nại cho rằng: Việc mua bán nhà số 229 Lê Thái Tôn, phường Bến Thành quận 1 không thành là do Phòng Công chứng số 1 không chứng nhận hợp đồng bởi không công nhận cha tôi là Võ Anh Tú là sở hữu chủ của căn nhà. Hợp đồng mua bán giữa tôi và ông Thành, bà Vân là hợp đồng có điều kiện, nay cơ quan Công chứng không chứng nhận hợp đồng thì hợp đồng đương nhiên bị huỷ bỏ.
Tại Quyết định số 96/KN-VKSNDTC-KSXXDS ngày 09-09-2003, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị bản án phúc thẩm số 130/PTDS ngày 25-04-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh nêu trên với nhận định: "Giấy thoả thuận bán nhà" lập ngày 21-02-2001 và hợp đồng bán nhà "lập ngày 26-02-2001" giữa ông Bình với vợ chồng ông Thành, bà Vân không thực hiện được do yếu tố khách quan là cơ quan công chứng Nhà nước từ chối chứng nhận hợp đồng mua bán nhà số 229 Lê Thánh Tôn. Mặt khác, hợp đồng mua bán nhà nêu trên chưa có xác nhận của cơ quan Nhà nước cấp có thẩm quyền nên chưa có giá trị để buộc các bên phải thực hiện hợp đồng. Do đó hợp đồng nêu trên bị vô hiệu vì vi phạm Điều 443 Bộ luật Dân sự, Toà án cấp sơ thẩm và Toà án cấp phúc thẩm xử công nhận hợp đồng, vợ chồng ông Thành, bà Vân trả tiếp cho ông Bình 320 lượng vàng là không đúng. Lẽ ra phải huỷ hợp đồng xác định lỗi và bồi thường thiệt hại tương ứng với lỗi mỗi bên; đề nghị Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hưởng huỷ bản án sơ thẩm số 1611/DSST ngày 13-09-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và bản án phúc thẩm số 130/PTDS ngày 25-04-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh; giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục chung.
Xét thấy:
Hợp đồng mua bán nhà giữa vợ chồng ông Thành, bà Vân với ông Bình lập ngày 26-02-2001 chưa có xác nhận của cơ quan Nhà nước cấp có thẩm quyền như quy định tại Điều 443 Bộ luật Dân sự, nên chưa có giá trị pháp lý để buộc các bên phải thực hiện hợp đồng mua bán nhà.
Bản án sơ thẩm số 1611/DSST ngày 13-09-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh và Bản án phúc thẩm số 130/DSPT ngày 25-04-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh công nhận hợp đồng mua bán nhà số 229 Lê Thánh Tôn, phường Bến Thành, quận 1 giữa ông Thành, bà Vân với ông Bình, vợ chồng ông Thành, bà Vân trả cho ông Bình 320 lượng vàng là sai. Để áp dụng đúng các quy định của pháp luật cần phải căn cứ vào Điều 139 Bộ luật Dân sự ấn định thời gian cho các bên đương sự tiến hành hoàn tất thủ tục mua bán, nếu bên nào không thực hiện làm cho hợp đồng vô hiệu thì phải bị coi là có lỗi và phải bồi thường thiệt hại. Căn cứ vào Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 16-04-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, bên có lỗi phải bồi thường thiệt hại cho bên kia theo đúng quy định của pháp luật.
Bởi các lẽ trên căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
Quyết định:
1. Huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 130/PTDS ngày 25-04-2003 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án dân sự sơ thẩm số 1611/DSST ngày 13-09-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về vụ án tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa ông Đặng Phước Thành, bà Ngô Thị Thuý Vân với ông Võ Thái Bình.
2. Giao hồ sơ vụ án trên cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
Lý do các Bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị huỷ:
Hợp đồng mua bán nhà chưa thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự, nên Toà án chưa thể buộc các bên thực hiện hợp đồng đó.
Quyết định số 29/2003/HĐTP-DS ngày 03-11-2003
Về vụ án tranh chấp tài sản sau ly hôn
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
……………………
Tại phiên toà ngày 03-1l-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án tranh chấp tài sản sau ly hôn giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ngô, sinh năm 1957; trú tại nhà số 29 Nguyễn Văn Mai, phường 8, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.
Bi đơn: Ông Nguyễn Văn Thìn, sinh năm 1952; trú tại nhà số 101 Đỗ Xuân Hợp, khu phố 2, phường Phước Long B, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
NHậN THấY:
Tại Bản án phúc thẩm về ly hôn số 44/LHPT ngày 27-05-1999, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, đã quyết định huỷ phần tài sản và "giữ hồ sơ tại Toà án nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh để điều tra xét xử từ sơ thẩm"
Sau khi điều tra bổ sung thì phần tài sản được thể hiện như sau:
Bà Ngô và ông Thìn thống nhất tài sản chung có 3 căn nhà:
1- Căn nhà số 29 Nguyễn Văn Mai, phường 8, quận 3;
2- Căn nhà số 65 Phan Đình Phùng, phường 17, quận Phú Nhuận;
3- Căn nhà số 101 Đỗ Xuân Hợp, khu phố 4, Phước Long B, quận 9
Về tài sản riêng, ông Thìn có quyền sử dụng 50.562m2 đất tại Lâm Đồng do ông Thìn đứng tên, bà Ngô không tranh chấp; bà Ngô có: Chiếc xe Dream II bà Ngô đang sử dụng là của anh trai bà cho riêng, ông Thìn không tranh chấp
Theo bà Ngô trình bày thì vợ chồng còn có:
- Tiền bán một giàn khoan giếng ; khoản tiền cho thuê nhà số 29 Nguyễn Văn Mai là 4.800 USD; cho thuê nhà số 65 Phan Đình Phùng do ông Thìn ký hợp đồng cho thuê nhà với anh Tuấn 4.300 USD do ông Thìn quản lý;
- Quyền sử dụng 12 ha đất ở Lâm Đồng (bà đứng tên 6,4 ha, anh Huấn đứng tên 5,6 ha) là của anh trai bà là Lê Văn Khôi ở
- Quá trình đầu tư canh tác trên đất ở Lâm Đồng bà có vay Ngân Hàng 300.000.000đ và tiền đầu tư phân bón, gạo… bà còn nợ của cửa hàng Tám Trình số tiền 303.967.000đ. Cả hai khoản là 603.967.000đ. bà Ngô yêu cầu ông Thìn cùng chịu;
Về nợ chung: Vợ chồng còn nợ anh trai bà là Lê Văn Khôi ở
Theo lời khai của ông Thìn thì:
- Vợ chồng có chung 3 căn nhà như bà Ngô khai;
- Đất trồng cafê ở Lâm Đồng là của vợ chồng, không phải của ông Khôi như lời khai của bà Ngô;
- Khi mua nhà số 65 Phan Đình Phùng, mẹ ông là bà Lan có góp 20 lượng , ông và bà Lan yêu cầu xem xét khoản tiền này; khi mua nhà số 29 Nguyễn Văn Mai chị gái ông là bà Sính có góp vào 10 lượng, ông Thìn không yêu cầu giải quyết trong vụ án này, ông chịu trách nhiệm giải quyết riêng với bà Sính;
Khoản tiền cho thuê nhà số 101 xóm mới là 30.000USD và tiền cho thuê nhà số 65 Phan Đình Phùng 2 năm, mỗi tháng 1.400USD do ông ký hợp đồng cho thuê nhà với anh Tuấn, nhưng bà Ngô đã nhận tiền nay ông yêu cầu chia;
- Khoản tiền ông vay Ngân Hàng Thương mại Quế Đô để mua ô tô trả góp, ông đã bán xe để trả , hiện còn nợ Ngân hàng 4 triệu tiền vốn và 70 triệu tiền lãi, ông yêu cầu bà Ngô cùng chịu;
- Vợ chồng không có nợ ông Khôi 44.000USD; không có việc anh bà Ngô bỏ tiền mua đất ở Lâm Đồng, mà do ông bỏ tiền ra mua.
Ông Khôi uỷ quyền cho ông Đông yêu cầu xác định đất ở Lâm Đồng là của ông và yêu cầu vợ chồng ông Thìn trả nợ ông 44.000 USD.
Ngân hàng Thương mại Quế Đô xác nhận ông Thìn còn nợ Ngân hàng 71.600.000 đồng.
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Lâm Đồng xác nhận bà Ngô còn nợ 125 triệu đồng gốc và lãi phát sinh.
Tại Bản án sơ thẩm số 2442/HNST ngày 10-12-2001, Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
- Công nhận căn nhà số 29 Nguyễn Văn Mai, phường 8, quận 3; căn nhà số 65 Phan Đình Phùng, phường 17, quận Phú Nhuận; căn nhà số 101 Đỗ Xuân Hợp , phường Phước Long B, quận 9; đất và tài sản trên đất (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H026805, số H026866 tại xã Mê Linh, huyện Lâm Hà, Lâm Đồng do bà Ngô và anh Huấn đứng tên) là tài sản chung của bà Ngô và ông Thìn.
- Bác yêu cầu của bà Ngô, ông Khôi về việc ông Khôi cho ông Thìn, bà Ngô mượn 44.000USD và yêu cầu xác định diện tích đất và tài sản trên đất tại Mê Linh, Lâm Hà, Lâm Đồng là tài sản do ông Khôi chuyển nhượng, đầu tư xây dựng trang trại nhờ bà Ngô và anh Huấn đứng tên.
- Bác yêu cầu của ông Thìn, bà Lan về việc bà Lan có công sức đóng góp 20 lượng vàng vào việc mua nhà số 65 Phan Đình Phùng, bác yêu cầu của bà Ngô, ông Thìn về việc chia số tiền cho thuê nhà số 29 Nguyễn Văn Mai, số 65 Phan Đình Phùng, số 101 Đỗ Xuân Hợp và số tiền bán máy khoan giếng trong thời kỳ hôn nhân còn tồn tại đã sử dụng chung.
- Bác yêu cầu của ông Thìn về việc bà Ngô phải chịu trách nhiệm chung đối với số tiền nợ Ngân hàng Thương mại Quế Đô để mua xe trả góp.
- Ghi nhận sự tự nguyện của bà Ngô không tranh chấp 50.562m2 đất do ông Thìn đứng tên.
- Bà Ngô được sở hữu nhà số 65 Phan Đình Phùng và được sử dụng đất, tài sản trên đất tại Lâm Hà, Lâm Đồng.
- Ông Thìn được sở hữu nhà số 29 Nguyễn Văn Mai, phường 8, quận 3 và sở hữu nhà số 101 Đỗ Xuân Hợp phường Phước Long B, quận 9.
- Ông Thìn có trách nhiệm hoàn chênh lệch trị giá nhà cho bà Ngô 59,835 lượng vàng SJC.
- Ông Thìn có trách nhiệm hoàn số nợ cho bà Ngô đầu tư đất ở Lâm Đồng: 221.387.772đ
- Ông Thìn có trách nhiệm hoàn lại cho bà Ngô số tiền cho thuê nhà số 65 Phan Đình Phùng từ tháng 06-2000 là 34.000.000đ.
- Bà Ngô có trách nhiệm trả nợ Ngân hàng theo các khế ước đã vay.
- Bà Ngô có trách nhiệm trả ông Đoàn Mạnh Trình số vốn 303.767.000đ, số lãi 41.008.545đ. Tổng cộng: 334.775.545đ.
- Ông Thìn có trách nhiệm trả Ngân hàng Thương mại cổ phần Quế Đô số tiền nợ theo Bản án 58/DSST ngày 26-09-2000 của Toà án nhân dân quận 3.
- Huỷ việc giao dịch cho thuê nhà số 65 Phan Đình Phùng giữa ông Thìn với ông Tuấn.
- Ông Lê Văn Khôi được quyền khởi kiện bà Ngô về số tiền, vàng cho mượn trong vụ kiện khác.
- Bà Lan, bà Sính được quyền khởi kiện ông Thìn về số vàng đã đưa trong vụ kiện khác.
- án phí dân sự sơ thẩm ông Thìn, bà Ngô mỗi người 11.124. 519đ.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bà Ngô kháng cáo xin được hoán đổi phần tài sản chung: bà xin sở hữu nhà số 29 Nguyễn Văn Mai để ông Thìn sở hữu đất ở Lâm Đồng vì sức khoẻ bà yếu không thể lên Lâm Đồng làm rẫy.
Tại Bản án phúc thẩm 20/HNPT ngày 11-06-2002, Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của bà Ngô, sửa 1 phần án sơ thẩm:
- Bà Ngô được quyền sở hữu căn nhà số 65 Phan Đình Phùng và căn nhà số 29 Nguyễn Văn Mai.
- Ông Thìn được quyền sở hữu căn nhà số 101 Đỗ Xuân Hợp phường Phước Long B, quận 9 và được quyền sử dụng đất, sở hữu tài sản trên đất tại Lâm Đồng.
- Ông Thìn có trách nhiệm hoàn chênh lệch nhà cho bà Ngô 5,495 lượng vàng SJC.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.
Tại Quyết định kháng nghị số 32/KNDS ngày 04-06-2003, Chánh án Toà án nhân dân tối cao đã kháng nghị đối với bản án phúc thẩm nêu trên với nhận định:
Toà án cấp phúc thẩm đã xác định đúng về tài sản chung của ông Thìn và bà Ngô, nhưng quyết định chia hiện vật chưa hợp lý. Trong khối tài sản chung có căn nhà số 65 Phan Đình Phùng và căn nhà số 29 Nguyễn Văn Mai là nhà kiên cố, ở mặt phố, có giá trị lớn, bản án phúc thẩm đã chia cả 2 căn nhà trên cho bà Ngô sở hữu; Ông Thìn chỉ được chia ngôi nhà tạm số 101 Đỗ Xuân Hợp, 12 ha rẫy Càfê ở Lâm Đồng. Ba con chung của bà Ngô và ông Thìn đều đã đến tuổi trưởng thành và đều có lời khai về công sức tạo lập tài sản chung giữa bà Ngô và ông Thìn, thì công sức của ông Thìn là chính.
Với thực trạng về tài sản, công sức đóng góp của các bên như trên, xác định phân chia như án phúc thẩm là chưa đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của các bên đương sự. Do đó cần phải huỷ quyết định chia tài sản của Bản án phúc thẩm để phân chia lại cho hợp lý đảm bảo cho các đương sự đều có chỗ ở ổn định để sinh sống và kinh doanh.
Tại Kết luận số 84/KL-VKSTC-V5 ngày 09-09-2003 Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với Kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao.
XéT THấY:
Toà án cấp phúc thẩm đã xác định đúng về các khoản vay nợ và khối lượng tài sản chung của bà Ngô, ông Thìn. Tuy nhiên phần quyết định phân chia tài sản bằng hiện vật là chưa thoả đáng.
Đối Với khối tài sản là căn nhà số 65 Phan Đình Phùng, phường 17, quận Phú Nhuận và căn nhà số 29 Nguyễn Văn Mai, phường 8, quận 3 đều là nhà kiên cố, ở mặt phố, thuận tiện cho sinh hoạt và có giá trị kinh doanh. Khi ly hôn, cả ông Thìn và bà Ngô đều có nguyện vọng được sở hữu. Quá trình giải quyết vụ kiện, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét tới việc ổn định cuộc sống; nhu cầu sử dụng tài sản; điều kiện hoàn cảnh; công sức đóng góp vào khối tài sản chung của các bên đương sự để quyết định phân chia cho bà Ngô được sở hữu nhà số 65 Phan Đình Phùng và chia cho ông Thìn được sở hữu nhà số 29 Nguyễn Văn Mai là đúng pháp luật. Toà án cấp phúc thẩm quyết định giao cả hai căn nhà trên cho bà Ngô sở hữu là không hợp lý và không đảm bảo quyền lợi về tài sản cho đương sự.
Ngoài ra, đối với khối tài sản là 12 ha đất trồng cà phê tại Lâm Đồng và căn nhà cấp 4 số 101 Đỗ Xuân Hợp, phường Phước Long B, quận 9 có diện tích đất rộng (1.078m2) đều có điều kiện để chia cho mỗi bên một phần hiện vật, vì vậy cần phải huỷ quyết định về phân chia nhà đất của Bản án phúc thẩm số 20/DSPT ngày 11-06-2002; giao cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xem xét cụ thể để phân chia cho hợp lý.
Bởi các lẽ trên và căn cứ vào khoản 4 Điều 77 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
QUYếT ĐịNH:
Huỷ quyết định về phân chia nhà, đất và quyết định về án phí đối với việc phân chia nhà, đất của Bản án dân sự phúc thẩm số 20 /DSPT ngày 11-06-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đối với vụ án tranh chấp tài sản sau ly hôn giữa bà Lê Thị Ngô với ông Nguyễn Văn Thìn.
Giao hồ sơ vụ án cho Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại phúc thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
Lý do huỷ một phần quyết định của Bản án phúc thẩm:
Việc chia tài sản cho hai bên không hợp lý, chưa xem xét đến điều kiện, hoàn cảnh của mỗi bên đương sự cũng như thực trạng tài sản hiện có.
Quyết định số 30/2003/HĐTP- DS ngày 03-11-2003
Về vụ án tranh chấp
chuyển quyền sử dụng đất
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
………………….
Tại phiên toà ngày 03-11-2003 xét xử giám đốc thẩm vụ án "Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất" giữa:
Nguyên đơn: Công ty TNHH công nghiệp may thêu thời trang Trang Anh Vĩnh do ông Lê Quang Nghĩa, Giám đốc, uỷ quyền cho ông Dương Đức Trung là Phó giám đốc đại diện;
Trụ sở: số 1075/1 khu phố 1, phường Thạnh Xuân, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh;
Bị đơn: Công ty TNHH Thủy tinh Vĩnh Ký do ông Dương Mạnh, Giám đốc đại diện;
Trụ sở số: 205/10 Âu Cơ, phường 5, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh.
Nhận THấY :
Theo trình bày của Công ty TNHH công nghiệp may thêu thời trang Trang Anh Vĩnh do ông Nguyễn Đức Trung đại diện, thì: Ngày 28-06-2001 Công ty TNHH thuỷ tinh Vĩnh Ký, ký hợp đồng số 01 "chuyển quyền sử dụng đất" cho Công ty Trang Anh Vĩnh 42. 175m2 đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh Sông Bé cấp cho Công ty Vĩnh Ký ngày 18-02-1995 bao gồm 10.000m2 đất xây dựng nhà máy, 32. 175m2 là đất sản xuất nông nghiệp với giá l80.000đ/m2, tổng cộng bằng 7.591.500.000 đồng. Phương thức thanh toán: bên mua đặt cọc 3 tỷ chia làm 2 lần, lần 1 là 500.000.000 đồng tiền mặt, lần 2 là 2.500.000.000 đồng bằng chuyển khoản qua Ngân hàng. Tại Điều 4 của Hợp đồng, hai bên cam kết: "Khi bên bán nhận được tiền cọc thì nhanh chóng làm hồ sơ chuyển về xã để hoàn tất thủ tục ở xã. Kể từ khi xã chứng nhận không có tranh chấp và được bán thì trong vòng 30 ngày, hai bên phải đưa nộp hồ sơ lên Sở Địa chính tỉnh Bình Dương. Nếu bên mua không mua sẽ mất số tiền đặt cọc; Nếu bên bán không bán thì đền cho bên mua gấp hai lần tiền đặt cọc; nếu Nhà nước không cho phép mua bán thì bên bán trả lại toàn bộ tiền cọc cho bên mua trong vòng 2 ngày. Nếu bên mua chấp nhận chờ đợi Nhà nước cho phép thì bên mua có quyền đợi". Cùng Ngày 28-06-2001, Công ty Vĩnh Ký và Công ty Trang Anh Vĩnh ký bản "Thoả thuận": Bên mua chịu toàn bộ các loại thuế liên quan và chi phí dịch vụ làm giấy tờ. Bên bán hỗ trợ 50.000.000 đồng và tiền ủng hộ xã Thuận Giao. Ngày 24-07-2001 hai bên ký tiếp phụ lục hợp đồng thoả thuận: Khi xã cho bán thì trong vòng 30 ngày, bên mua phả! i trả cho bên bán 3.591.500.000 đồng, nếu quá hạn phải chịu lãi suất 5% tháng trên số tiền 3.591.500.000 đồng. Nếu bên bán không làm hồ sơ để chuyển nhượng đất cho bên mua thì phải chịu trách nhiệm vi phạm hợp đồng.
Ngày 25-07-2001, hai bên tới Sở Địa chính tỉnh Bình Dương, thì được biết 10.000m2 không được sử dụng vào mục đích xây dựng nhà máy như trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, mà chỉ được sử dụng làm dịch vụ, sân chơi giải trí. Nhưng ngày 04-09-2001 Công ty Vĩnh Ký vẫn có Công văn không số /CV-VK gửi Công ty Trang Anh Vĩnh xác định sẽ chịu trách nhiệm về tính pháp lý của khu đất. Đến ngày 18-12-2001, Công ty Vĩnh Ký đề nghị thanh lý hợp đồng, trả lại 3 tỷ tiền cọc và nếu tiếp tục chuyển nhượng thì chỉ còn là đất nông nghiệp. Nay Công ty Trang Anh Vĩnh yêu cầu Công ty Vĩnh Ký phải bồi hoàn gấp hai số tiền đặt cọc theo hợp đồng, tổng cộng là 6 tỷ đồng cho Công ty Trang Anh Vĩnh.
Công ty Vĩnh Ký xác nhận tháng 02-1995 được cấp Giấy chứng nhận QSD 42.175m2 đất gồm 10.000m2 để xây dựng nhà máy và 32.175m2 đất nông nghiệp. Tháng 09-1995 Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị 247/TTg không cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Năm 1996 Uỷ ban nhân dân tỉnh Sông Bé có Công văn 1426 đề nghị Công ty Vĩnh Ký thay đổi địa điểm xây dựng nhà máy. Nhưng ngày 05-11-1997, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bình Dương có Công văn 3313 nói rõ phần đất Vĩnh Ký đã san lấp có thể sang bán cho đơn vị khác phù hợp quy hoạch địa phương, nên trước khi ký hợp đồng, Công ty Vĩnh Ký đã đưa giấy tờ hồ sơ đất cho Công ty Trang Anh Vĩnh đi hỏi, nếu mua được thì Công ty Vĩnh Ký bán. Khi biết 10.000m2 đất không được sử dụng với mục đích xây dựng nhà máy, Công ty Vĩnh Ký đã xin trả lại tiền cọc (vì hợp đồng qui định nếu Nhà nước không chấp nhận mua bán thì bên bán phải trả toàn bộ tiền cho bên mua trong vòng 2 ngày) nhưng Công ty Trang Anh Vĩnh nói để bàn bạc trong nội bộ. Sau đó, ông Trung đến gặp ông Mạnh nhưng lại không xuất trình giấy uỷ quyền nên ông Mạnh nói ông Trung không có thẩm quyền, còn ông Nghĩa đang đi công tác nước ngoài nên chưa giải quyết được. Nay Công ty Vĩnh Ký yêu cầu tiếp tục hợp đồng, nếu Công ty Trang Anh Vĩnh xin huỷ hợp đồng thì Công ty Vĩnh Ký chỉ trả lại 3.000.000.000 đồng tiền cọc.
Tại Bản án sơ thẩm số 1148/DSST Ngày 24-07-2002, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
1. Huỷ bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 01/HĐCQ/TAV-VK lập Ngày 28-06-2001 và bản phụ lục số 1 lập Ngày 24-07- 2001 giữa Công ty Trang Anh Vĩnh và Công ty Vĩnh Ký.
2. Buộc Công ty Vĩnh Ký phải hoàn tiền cọc gấp đôi cho Công ty Trang Anh Vĩnh là 6.000.000.000 đồng (sáu tỷ đồng), thi hành ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.
3. Duy trì quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số 09/QĐKCTT ngày 05-02-2002 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về việc kê biên 42.175m2 đất tại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D0820800, do Uỷ ban nhân dân tỉnh Sông Bé cấp cho Công ty Vĩnh Ký, để bảo đảm việc thi hành án.
4. án phí dân sự sơ thẩm Công ty Vĩnh Ký phải chịu 33.000.000 đồng (Ba mươi ba triệu đồng). Hoàn tạm nộp án phí 16.500.000 đồng cho Công ty Trang Anh Vĩnh.
5. Kể từ ngày Công ty Trang Anh Vĩnh có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Công ty Vĩnh Ký không thanh toán số tiền trên, thì hàng tháng Công ty Vĩnh Ký còn phải chịu tiền lãi theo mức lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà nước công bố, tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
Ngày 29-07-2002 ông Dương Mạnh, Giám đốc Công ty Vĩnh Ký kháng cáo xin xem xét lại toàn bộ quyết định của Bản án sơ thẩm.
Tại Bản án phúc thẩm số 314/DSPT ngày 11-12-2002, Toà Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
1. Bác yêu cầu kháng cáo của ông Dương Mạnh, Giám đốc Công ty TNHH Thủy tinh Vĩnh Ký và giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm số 1148/DSST Ngày 24-07-2002 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
2. Ông Dương Mạnh, giám đốc Công ty TNHH Thuỷ tinh Vĩnh Ký phải chịu án phí dân sự phúc thẩm 50.000 đồng được trừ tiền tạm ứng án phí kháng cáo đã nộp.
Sau khi xét xử phúc thẩm, ông Dương Mạnh có đơn khiếu nại đề nghị xem xét vụ án theo trình tự giám đốc thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị số 26/KNDS ngày 22-05-2003, Chánh án Toà án nhân dân tối cao nhận định: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hai bên ký kết thì 10.000m2 đất xây dựng nhà máy chỉ là mô tả theo nội dung của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chứ không nói là để xây dựng nhà máy. Tuy nhiên, bên bán biết rằng Công ty Trang Anh Vĩnh mua 42.175m2 đất, trong đó có 10.000m2 là để xây dựng nhà máy, còn lại là đất nông nghiệp. Cho đến nay, diện tích đất trên vẫn được phép chuyển nhượng nhưng chỉ được làm dịch vụ thương mại và đang xây dựng quy hoạch chung cho huyện Thuận An. Công ty Vĩnh Ký vẫn đồng ý bán, không xin huỷ hợp đồng. Còn hợp đồng không thực hiện được là do khu đất đó quy hoạch thay đổi. Căn cứ vào Điều 4 hợp đồng thì trường hợp này bên bán không bị phạt cọc. Nhưng cấp sơ thẩm và phúc thẩm phạt cọc bên bán là không đúng. Tuy nhiên, bên bán biết rõ 10.000m2 đất đã thay đổi quy hoạch từ năm 1996, nhưng khi bán không thông báo cụ thể cho bên mua biết là có lỗi, bên bán đã nhận của bên mua 3.000.000.000 đồng. Vì vậy, thiệt hại cho bên mua được tính theo phương thức lãi suất Ngân hàng trên số tiền 3.000.000.000 đồng để buộc bên bán trả cho bên mua số tiền gốc cộng lãi mới đúng.
Tại Kết luận số 84/ KL-VKSTC-V5 ngày 04-09-2003, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, đề nghị HĐTP Toà án nhân dân tối cao huỷ Bản án dân sự sơ thẩm số 1148/DSST Ngày 24-07-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ chí Minh và Bản án phúc thẩm số 314/DSPT ngày 11- 12-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh. Giao hồ sơ cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại vụ án từ giai đoạn sơ thẩm.
XéT THấY:
Ngày 28-06-2001 Công ty Vĩnh Ký ký hợp đồng chuyển nhượng cho Công ty Trang Anh Vĩnh 42.175m2 đất theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số D 08020800 do Uỷ ban nhân dân tỉnh Sông Bé cấp cho Công ty Vĩnh Ký ngày 18-02-1995, trong đó có 10.000m2 là đất xây dựng nhà máy, 32.175m2 là đất nông nghiệp. Căn cứ vào Điều 4 của hợp đồng thì điều kiện mà hai bên thoả thuận để phạt cọc chỉ là: "Nếu không mua thì mất cọc, nếu không bán thì bị phạt gấp đôi. Nếu Nhà nước không chấp nhận mua bán chuyển quyền sử dụng đất thì bên bán trả lại toàn bộ tiền cho bên mua trong vòng hai ngày. Nếu bên mua chấp nhận chờ đợi phía Nhà nước cho phép thì bên mua có quyền đợi”. Trường hợp này bên bán vẫn bán, Nhà nước cũng vẫn cho mua bán nhưng 10.000m2 đất xây dựng nhà máy do thay đổi quy hoạch, chỉ được làm dịch vụ, vui chơi giải trí vì vậy bên mua không mua. Như vậy, bên bán không vi phạm vào các điều kiện đã thoả thuận về phạt cọc. Nhưng Toà án hai cấp lại phạt cọc là sai. Tuy nhiên, từ năm 1996 Công ty Vĩnh Ký đã biết 10.000m2 đất không còn sử dụng được vào mục đích xây dựng nhà máy, nhưng khi ký hợp đồng đã gian dối không thông báo rõ tình trạng đất cho Công ty Trang Anh Vĩnh. Mặt khác, sau ngày 27-07-2001 là ngày mà hai bên biết rõ tình trạng đất không còn sử dụng được vào việc xây dựng nhà máy, lẽ ra phải trả ngay số tiền cọc, nhưng đến ngày 18-12-2001 Công ty Vĩnh Ký mới đề nghị trả lại tiền cọc là có lỗi, làm cho bên mua bị thiệt hại, vi phạm các Điều 142,146,696, 709 Bộ luật Dân sự nên Công ty Vĩnh Ký có trách nhiệm phải b! ồi thường cho Công ty Trang Anh Vĩnh. Trong trường hợp Công ty Trang Anh Vĩnh không chứng minh được thiệt hại nào khác, thì thiệt hại được tính theo lãi suất nợ quá hạn cộng với gốc do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định tại điểm b, khoản 1, mục 1 Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 19-06-1997 của Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính hướng dẫn về xét xử và thi hành án về tài sản.
QUYếT ĐịNH:
1- Huỷ Bản án dân sự phúc thẩm số 314/DSPT ngày 11-12-2002 của Toà Phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh và Bản án sơ thẩm số 1148/DSST Ngày 24-07-2002 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đối với vụ án dân sự "Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất" giữa nguyên đơn là Công ty TNHH công nghiệp may thêu thời trang Trang Anh Vĩnh với bị đơn là Công ty TNHH Thuỷ tinh Vĩnh Ký.
2- Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại từ giai đoạn sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật
Lý do các Bản án sơ thẩm, phúc thẩm bị huỷ:
Toà án quyết định phạt cọc bên bán là sai, và không buộc bên bán phải bồi thường thiệt hại cho bên mua là thiếu sót.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét