Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

Canh Buom Ma.html

Canh Buom Ma.html

Thông tin ebook

Tên truyện : Cánh Bướm Ma

Tác giả : Quân Thiên Kim

Thể loại : Văn học trong nước

Nhà xuất bản : Kim Đồng

Tủ sách : Tuổi Mới Lớn

Ngày xuất bản : Quý IV/2005

Số trang : 128

Kích thước : 11,3 x 17,6 cm

Trọng lượng : 110 g

Số quyển / 1 bộ : 1

Hình thức bìa : Bìa mềm

Giá bìa : 6.000 VNĐ

———————————-

Nguồn : http://www.nxbkimdong.com.vn

Chuyển sang ebook (TVE) : santseiya

Ngày hoàn thành : 28/07/2008

Nơi hoàn thành : Hà Nội

http://www.thuvien-ebook.com

Mục Lục

Giới thiệu

Bụi đời

Ngày đã qua

Những mảnh vỡ

Thiên đường xanh

Trưa Sài Gòn

Anh em

Dã quỳ đỏ

Đất lạnh

Gió lạnh

Nơi mặt trời mọc

Miền đất xương rồng

Mưa lạnh

Cánh bướm ma

Giới thiệu

"Đất lạnh" là một trong những truyện ngắn hay trong tập truyện Cánh bướm ma của tác giả Quân Thiên Kim viết về những bức xúc, trăn trở… của những người trẻ trước con người và cuộc sống mà nhân vật Thùy Dương là một đại diện. Những bài học có được từ cuộc sống có thể đôi khi quá đắt vì để có được nó, người ta đã phải đánh đổi quá nhiều thứ. Nhưng cũng nhờ vậy mà người ta trưởng thành thêm lên, đủ để nhận biết cuộc sống thật sâu sắc, và vẫn cháy bỏng niềm tin, hy vọng vào những điều tốt đẹp…

Một số truyện ngắn khác: Ngày đã qua, Thiên đường xanh, Nơi mặt trời mọc…

Bụi đời

Đang ngồi học bài, nghe ai hỏi tên mình phía ngoài, Nguyên lật đật mở cửa, vừa lúc thằng Trọng bước vào hành lang.

- Ủa, sao kiếm ra chỗ của cô hay vậy?

- Tối hôm đó con thấy cô đi vào con hẻm  cụt này mà. Mới đi học về là con chạy ngay vào đây tìm cô. Con hỏi được rồi!

Thằng bé liến thoắng. Nguyên mừng rỡ kéo tay nó vào phòng.

- Cô biết sao không?

Nguyên lắc đầu cười, dĩ nhiên là không biết mới nhờ nó khai thác giùm, còn làm bộ bí mật lắm. Thằng nhóc lém lỉnh cười hồ hởi:

- Không phải riêng gì cô đâu, cứ hễ con gái là nó ghét à! Tại vì nó có bà dì ghẻ ác lắm, bả có đứa con gái nhỏ hơn nó. Suốt ngày nó bị dì ghẻ đánh, tại vì bả bênh con gái bả. Nó làm gì cũng bị chửi hết, còn con em nó cứ kiếm chuyện cho dì nó đánh nó. Vậy là nó ghét nó mới bỏ nhà đi. Mà má ruột của nó cũng bỏ nhà đi từ hồi nó còn nhỏ. Nó nói nó ghét con gái ghê lắm.

Hèn gì, cái đêm đầu tiên tiếp xúc, thằng Minh nhất định không cho Nguyên hay Thúy đến gần. Đêm ấy, nhóm Nguyên họp xong đã muộn nên mọi người đưa Mai – người địa phương duy nhất trong nhóm về nhà. Nhà Mai ở ngoài phố. Đưa Mai về xong, cả bọn kéo nhau tạt qua khu chợ âm phủ. Tình cờ nhìn thấy hai đứa trẻ bụi đời đang giỡn rượt nhau, Nguyên rủ bạn bè thuyết phục chúng về trung tâm bảo trợ xã hội. Nhóm Nguyên đã đến trung tâm giao lưu một lần. Anh Hoài phụ trách ở đây kể cho nhóm Nguyên nghe những lần đi thực tế, việc thuyết phục trẻ bụi đời chịu vào trung tâm không đơn giản chút nào.

- Không phải là công việc của tụi mình, nhưng mà thử một lần xem nghe?

Khi hai thằng nhóc thấm mệt, ngồi bệt xuống đất, nhóm Nguyên lại gần bắt chuyện. Một đứa vùng dậy bỏ ra xa. Thằng bé có nét lanh lợi hỏi:

- Cô là bạn anh Hoài hả?

- Không có, nhưng mà….

- Con mới bỏ đi khỏi trung tâm mấy bữa nay nè.

Nguyên giật mình. Ra là thế! Nguyên cố gắng nói chuyện thân mật hơn với thằng bé. Nó mồ côi cha mẹ, ở với bà ngoại. Thằng bé đi bụi hơn một năm nay, khi ở Đà Nẵng, lúc Sài Gòn, cuối cùng lên đây và được anh Hoàng đưa vào trung tâm. Chán cuộc sống gò bó ở trung tâm, nó lại trốn ra. Nguyên khéo léo hỏi thằng bé về những ước mơ của nó, cuối cùng cũng thuyết phục được thằng bé quay về trung tâm. Trọng – tên thằng bé – thú nhận đã bán cặp vở. Nguyên hứa sẽ bảo lãnh cho nó vào lại trung tâm.

Con rủ bạn Minh cùng về được không?

- Con mới quen nó mấy bữa nay à. Nó lì lắm! Để con hỏi nó thử xem.

Dưới ánh đèn, Nguyên có thể nhìn thấy khuôn mặt cau có nặng trịch của thằng Minh. Sương muối bóc từng lớp trên mặt nó. Thằng Minh không chịu về trung tâm. Nó bỏ chạy ra xa, nhìn mọi người với đôi mắt ngờ vực.

Quá nửa đêm, Nguyên và các bạn đưa Trọng về sau khi biết không thể nào thuyết phục được thằng Minh. Trọng vui vẻ ôm lấy cánh tay Nguyên quàng lên vai nó như thân thiết từ lâu lắm. Được một đoạn, Nguyên phát hiện thằng Minh đang lầm lũi theo sau. Mọi người đứng lại. Thằng bé lẩn nhanh vào hốc tường. Nó tiếp tục trốn tìm, thậm chí bỏ chạy khi Tường định lại gần. Gần đến phố sinh viên, thằng Minh đột ngột ngồi xuống ôm bụng nhăn nhó. Nó không phản ứng khi Tường và Vinh đến gần. Nguyên kéo Trọng lại phía Minh một cách thận trọng. Thằng Trọng giật tay Nguyên thì thào:

- Nó đói đó cô. Hôm nay tụi con chưa ăn gì. Con cũng đói lắm!

Nguyên xoa nhẹ lưng thằng Minh khích lệ:

- Con ráng đi thêm một chút nữa được không? Sắp tới nhà trọ của cô rồi. Đến đó cô sẽ lấy cho con ăn tạm gói mì tôm, với lại có dầu thoa cho con đỡ lạnh nữa.

Lần này thằng Minh chịu cho Tường đi bên cạnh. Đến đầu hẻm nhà trọ, Nguyên nói mọi người chờ rồi chạy vội vào. Chị Ngọc đang ngủ, dặn Nguyên nhớ về sớm.

Hai đứa nhỏ xé gói mì ăn ngấu nghiến. Nguyên định xức dầu cho thằng Minh, nó giật lấy đòi tự làm.

- Tụi con không lạnh à?

- Tụi con mặc mấy lớp lận cô, có bao nhiêu quần áo là mặc hết.

- Ôi trời, vậy thì chắc là đứa nào cũng ốm nhách, cô cứ tưởng…

Con đường dài hút thưa thớt nhà cửa. Gió từ những vườn rau dưới thung lũng thổi lên lồng lộng, lạnh buốt. Còn hơn hai cây số. Những sinh viên run rẩy. Thằng Trọng vẫn vô tư cười nói.

Nguyên bảo lãnh cho hai đứa nhỏ vào trung tâm. Người bảo vệ đưa chúng vào phòng ngủ. Minh hồ hởi leo lên giường nhưng vẫn không thèm trả lời Nguyên. Cô gọi Trọng ra, dặn nó phải chăm sóc, nhắc nhở thằng Minh vì Minh là người mới đến, lại cứng đầu. Trọng gật đầu, nói nó vẫn còn thèm món mì tôm sống.

- Mai cô sẽ mang vào cho con.

- Mang cho con nữa.

Nguyên nhìn vào phòng. Thằng Minh chui tọt vào mùng.

- Minh nói hả con?

Im lặng. Thằng bé bướng bỉnh không trả lời.

Khi Nguyên về nhà trọ, đã hơn 3 giờ sáng. Trưa hôm sau Nguyên vào thăm, thằng Trọng đang ngồi chờ cô ở cổng. Nguyên đưa mì tôm cho nó, dặn chia cho Minh cùng ăn. Như lời hứa, cô đưa thằng bé ra chợ tìm chuộc lại cặp sách. May mắn những thứ đó vẫn còn nguyên vẹn, sạch sẽ.

- Tôi đoán thế nào phụ huynh nó cũng lại mà.

Chị chủ vựa ve chai cười. Khi biết thằng Trọng là trẻ bụi đời đang ở tại trung tâm, chị nhất định không nhận lại số tiền chuộc.

Đưa Trọng về, Nguyên thấy Tường đã tới từ hồi nào, đang ngồi nói chuyện với anh Hoài. Thằng Minh chạy lại khoe sợi dây thắt lưng Tường vừa mới cho. Thấy thằng bé thay đổi thái độ, Nguyên đưa nó ra ngoài sân chơi. Thằng Minh vẫn lầm lì không nói nhưng cũng không tỏ vẻ xa lánh Nguyên nữa. Một lúc sau, Nguyên tình cờ nhìn lên thấy thằng Trọng đứng trên ban công nhìn xuống với ánh mắt hằn học. Nó nín thinh khi Nguyên lên lầu hỏi chuyện.

- Con sao thế? Cô phải nói chuyện với Minh để biết về hoàn cảnh của nó chứ. Con biết cô là người bảo lãnh cho hai đứa con vô đây mà, nhưng nếu không biết gì về Minh thì cô phải nói làm sao với anh Hoài đây? Con không giúp cô mà còn giận cô, buồn ghê! Cô thương cả hai đứa như nhau, tụi con lại so bì rồi.

- Ai thèm so bì? Con đâu có cần cô thương – giọng thằng Trọng đầy uất ức – Cô thương mà cô còn nói với anh Hoài chuyện con bán cặp vở. Vậy mà nói là hứa!

- nói bao giờ? – Nguyên ngạc nhiên.

- Anh Hoài vừa kêu con vô la một trận kia kìa.

Nguyên đi tìm Tường. Đúng như Nguyên nghĩ, Tường đã vô tình nói điều này với anh Hoài. Nguyên cố gắng an ủi thằng bé, nhận lỗi đã không dặn trước để Tường giữ kín chuyện.

- Thôi nào, bây giờ thì con giúp cô hỏi chuyện hoàn cảnh của Minh nghe?

- Con sẽ hỏi, còn chú Tường con không chơi nữa đâu.

Thằng Minh đứng dưới cầu thang hóng chuyện. Khi Tường dắt xe về, nó chạy lại dúi sợi dây thắt lưng vào tay Tường.

- Trả cho chú đó, con không lấy đâu.

Tường không hiểu chuyện gì. Nguyên chưa kịp phản ứng trước sự nhạy cảm của thằng bé, nó đã chạy đi mất.

*

Nguyên vừa khóa cửa định đi ăn cơm thì hai thằng nhóc kéo nhau tới, mặt đứa nào cũng ra bộ nghiêm trọng lắm.

- Có chuyện gì nữa đây? Lại trốn trung tâm đi chơi nữa phải không?

- Con xin đi đàng hoàng – Thằng Trọng vùng vằng – Con muốn nói chuyện với má, chuyện quan trọng.

- Ghê ha, sao, chuyện gì mà cái mặt ngầu vậy ta? – Nguyên đùa.

Thằng Minh lừ lừ nhìn Trọng:

- Nói đi! – Nó lẩm bẩm gì đó trong miệng – Làm như mỗi mình mày có quyền. Má Nguyên !

- Mày vừa phải thôi – Trọng giận dữ xô Minh – Mày không được kêu má Nguyên là má nữa.

- Sao má Vân ai cũng kêu bằng má mày không cấm hết đi, để cho mình mày kêu thôi.

- Má Vân khác, má Nguyên là má của tao.

Nguyên vội ngăn chúng:

- Nói từ từ cô nghe, cái gì má này má nọ ở đây?

- Con kêu má bằng má trước. Thằng này lúc đầu má nói nó không thèm nghe, gọi nó không thèm đến, vậy mà bây giờ nó cũng đòi kêu má là má của nó.

- Mặc kệ tao.

- Mày muốn hả?

Thằng Trọng sấn đến. Nguyên giằng tay nó lại:

- Con làm cái gì vậy? Cô là cô, có thương tụi con như thế nào cũng vẫn là cô thôi, cô đâu có sanh tụi con ra đâu mà kêu bằng má.

Giọng thằng Trọng suýt khóc:

- Nhưng mà con muốn gọi cô bằng má, má con đâu có còn nữa đâu.

Không được, má con mất, nhưng không phải vậy mà con gọi cô là má. Con vẫn phải kính trọng má con, chỉ được gọi người sinh ra mình là má thôi.

- Con không biết, nhưng con vẫn xem má là má, má không cấm con được.

- Con cũng vậy! – Minh hùa theo.

Nguyên gạt chuyện qua bằng cách kéo chúng đi ăn cơm. Hai đứa ăn ngon lành, vừa ăn vừa giỡn. Trẻ con mau quên, giữa chúng như chưa hề có gì xảy ra.

- Như vậy có phải vui không. Hai đứa con đều xa nhà, phải coi nhau như anh em, rồi phải biết thương yêu nhau nữa chứ.

- Nhưng nó không được kêu má – Thằng Trọng trợn mắt nuốt vội miếng cơm, như chợt nhớ ra điều gì – Tụi con tìm má để nhờ má làm chứng.

Nguyên ngạc nhiên. Hai đứa trẻ gườm gườm nhìn nhau.

- Chút nữa má lên đồi với tụi con. Hai đứa con đánh nhau một trận, đứa nào sống thì có má.

Nguyên suýt bật cười:

- Tụi con suy nghĩ kỹ chưa? Có đáng làm thế không?

- Tụi con không giỡn – Thằng Trọng quả quyết.

Thằng Minh rút con dao nhỏ trong người ra. Mặt nó vẫn vẻ lạnh lùng khó gần. Nguyên lạnh sống lưng.

- Điên hả? Thật trẻ con quá sức, chuyện không đâu mà đã đòi chém giết nhau, hóa ra tụi con là côn đồ à? Đã du côn thì cô không thèm nhìn mặt đứa nào nữa, ăn xong tụi con muốn đi đâu, muốn làm gì mặc kệ, không thương cô thì thôi.

Hai đứa hoảng hốt ra mặt, vội vàng hứa không đánh nhau nữa. Nguyên bắt chúng coi nhau như anh em, hai đứa nhìn nhau một lúc rồi gật đầu. Thằng Minh đưa con dao cho Nguyên. Hai đứa lại nói cười vui vẻ.

Ra khỏi quán, thằng Trọng nói gì đó, Minh bất thần cúi xuống nâng cục đá xanh chặn dưới chân tấm bảng hiệu lên. Thằng Trọng cũng nhấc lên một cục:

- Tao chơi mày luôn, muốn kiểu nào cũng được, có má làm chứng.

Nguyên nổi cáu, gắt lên:

- Đánh đi! Cô làm chứng coi hai thằng anh em đòi đánh nhau nó ra cái gì? Đánh cho mạnh vào, chẳng ai thèm thương cái thứ du côn đánh nhau, có thắng cũng chẳng ai dám lại gần đâu. Đánh đi!

Mặt Nguyên đanh lại nhưng tim đập rộn lên. Cả ba đứng im, căng thẳng. Một lúc, thằng Minh thả cục đá xuống bên đường. Thằng Trọng làm theo. Mặt Nguyên giãn ra, giọng như khóc:

- Tụi con làm cô buồn quá.

Thằng Trọng ôm cánh tay Nguyên giật khẽ:

- Mình về đi má, tụi con không làm như vậy nữa đâu.

Thằng Minh ôm cánh tay còn lại, riết chặt như sợ Nguyên biến mất. Nguyên chợt thấy ngường ngượng. Bọn chúng không biết Nguyên chỉ hơn chúng vài ba tuổi. Ở cái tuổi mười ba mười bốn, bọn chúng như những đứa nhỏ mười tuổi ngây ngô. Nguyên không nghĩ có ngày chúng lại đánh nhau chỉ vì muốn giành phần gọi Nguyên là má. Chỉ với chút thương yêu, quan tâm của Nguyên, bọn trẻ đã đòi gọi Nguyên bằng từ thiêng liêng ấy.

*

Vài hôm sau, thằng Trọng dẫn một đám nhóc đến phòng Nguyên. Chị Ngọc đã đi học. Nguyên phát hoảng khi thấy vẻ mặt buồn bực, lo lắng của những đứa lớn. Chúng tranh nhau kể lại những chuyện xảy ra trong trung tâm. Lời nọ xọ câu kia, Nguyên chỉ hiểu được phần nào: má Vân – má nuôi của chúng không hiểu sao bị thôi việc, một cô gái khác vào thay nhưng cô này chửi tục luôn miệng vì quá khứ là gái giang hồ. Người bảo vệ suốt ngày la mắng, đánh bọn chúng. Ngày hôm qua bọn trẻ đã kéo nhau lên sở thương binh. Ở đó người ta hứa với chúng đủ thứ rồi lấy xe đưa chúng về. Ngay khi người trên sở vừa đi, tay bảo vệ lại trút nỗi tức giận lên chúng. Sáng nay, bọn trẻ chui rào kéo nhau đi, chỉ còn lại những đứa đã đi học. Đứa bé năm sáu tuổi không hiểu gì, chỉ biết các anh chị kéo đi thì đi.

- Tụi con đến chào má, xong rồi tụi con tìm nhà má Vân thăm má Vân, tụi con không ở trung tâm nữa đâu, tụi con đi bụi tiếp.

- Rồi tụi con sẽ làm gì? Ở đâu?

- Thì mạnh đứa nào đứa đó sống.

Nguyên ngồi thần người nhìn đám trẻ. Thằng Khoa nhỏ nhất, chỉ mới năm tuổi, cười giỡn vô tư với bé Hạnh. Chúng càng nói Nguyên càng rối. Hơn một tiếng đồng hồ trôi qua, Nguyên không nghĩ ra được cách gì.

- Có lẽ cô phải nói chuyện với anh Hoài.

Sau khi nhận được điện thoại của Nguyên, anh Hoài và hai người nữa đi xe jeep lại. Bọn trẻ chạy ra khỏi phòng. Nguyên dặn theo:

- Chỉ chạy chơi trong sân thôi nghen!

Hai người lạ đứng ngoài sân nhìn tụi nhỏ. Nguyên giải thích với Hoài nguyên nhân bọn trẻ tới tìm.

- Chuyện có thật như thế không anh Hoài? Tại sao hôm qua người ta đã hứa với bọn trẻ là sẽ giải quyết mọi chuyện, nhưng rồi mọi chuyện càng tệ hơn. Anh không quan tâm đến bọn trẻ à?

- Không phải thế, thật ra anh đi công tác mới về tối hôm qua. Anh có nhờ anh bảo vệ coi chừng bọn trẻ giùm, nhưng anh không ngờ chuyện lại xảy ra như vậy. Còn nhiều chuyện khác trong trung tâm, bọn trẻ con không hiểu được nên chúng đã nghĩ sai.

Anh Hoài kể rõ mọi chuyện. Nguyên cười buồn:

- Không phải là bọn trẻ nghĩ sai mà là vì bọn chúng quá nhạy cảm. Lẽ ra các anh phải hiểu chúng hơn em và có cách giải quyết nào đó tốt hơn để bọn trẻ không bị sốc chứ. Bây giờ thì anh giải thích với chúng đi. Anh là người phụ trách trung tâm mà.

Bọn trẻ không nghe anh Hoài nói. Chúng chạy dạt ra ngoài đường.

- Em thuyết phục giùm anh đi Nguyên.

- Anh sẽ cho tay bảo vệ không có tình thương với trẻ ấy thôi việc chứ?

- Anh không có thẩm quyền quyết định chuyện này, nhưng mà anh hứa mọi sự sẽ không tệ như thế nữa đâu.

Nguyên đến cạnh Trọng, nói chuyện một lúc. Thằng Trọng tỏ ý nghi ngại. Đám trẻ nhìn chằm chằm vào nó chờ đợi.

- Thôi nào, nghe cô, trung tâm là của tụi con, không tội gì mà phải bỏ đi lang thang đầu đường xó chợ hết. Tụi con phải ở lại, ai không tốt thì phải đi. Kẻ phải đi là anh chàng bảo vệ, mình cứ quay về, để xem anh ta có bị tống cổ đi không rồi tính tiếp, được chưa?

Trọng nhìn Nguyên ngập ngừng. Nguyên liền cứng giọng:

- Đàn ông là phải cương quyết. Về là về!

Nguyên chìa tay ra. trước thái độ dứt khoát của Nguyên, thằng Trọng đập bàn tay nhỏ bé của nó lên tay Nguyên. Cả đám trẻ theo Nguyên và thằng Trọng lên xe. Trọng ngồi bên cạnh, săm soi chiếc đồng hồ trên tay Nguyên. Nguyên gỡ đồng hồ đưa cho nó. Thằng bé thích thú đeo chiếc đồng hồ vào tay.

Đến cổng trung tâm, xe dừng lại. Trọng và Minh thình lình nhảy xuống xe bỏ chạy, biến mất vào con đường nhỏ. Bọn trẻ nhốn nháo.

- Anh cho xe chạy vào trung tâm đi – Nguyên giục anh Hoài – Hai đứa nó thế nào cũng sẽ tới tìm em.

Tối hôm ấy, hai thằng nhóc mò đến với cái bụng đói meo. Nguyên dẫn chúng đi ăn cơm. Thằng Trọng gỡ đồng hồ trả cho Nguyên.

- Má không sợ con lấy luôn à?

- Sao lại sợ?

Trọng không nói gì. Ăn xong, nó hất hàm ra hiệu cho Minh đứng lên:

- Lẽ ra bọn con đi luôn, nhưng vì chiếc đồng hồ nên con ghé tìm má, bây giờ tụi con đi đây.

- Đi đâu?

- Đi bụi. Tụi con không về trung tâm nữa đâu, đi bụi còn thích hơn, khỏi phiền tới ai hết.

Chúng kéo nhau ra ngồi lên đống đá xanh đổ bên vệ đường. Nguyên đến, ngồi bên cạnh. Thằng Minh thỉnh thoảng xì xào với Trọng. Nguyên hỏi bâng quơ. Ba người ngồi phơi sương lạnh. Nguyên hy vọng sẽ làm thay đổi được ý định đi bụi của chúng dù cô đã hứa sẽ không nhắc đến chuyện quay về trung tâm nữa. Sương mù xuống dày đặc. Nguyên ngồi bó gối, quên mất thời gian. Đường phố vắng tanh. Hai người con trai đạp xe ngang qua, huýt sáo rồi đột ngột quay lại.

- Nguyên phải không?

Nguyên không nhận ra ai. Hai người mới đến giới thiệu là sinh viên khóa trên, có biết Nguyên.

- Sao gần nửa đêm rồi em còn ngồi đây? Hai đứa nhỏ này là gì với em?

Thằng Minh chun mũi bỏ đến cột điện gần đó. Thằng Trọng cũng đi theo. Nguyên kể sơ về lũ trẻ. Trung cau mày nói rằng anh cũng đang tham gia nhiều hoạt động công tác xã hội nhưng chưa thấy ai thờ ơ như Nguyên.

- Sao em không nói tụi nó về trung tâm mà lại cho tụi nó đi bụi? Để tụi anh nói chuyện với chúng thử xem.

Hai đứa trẻ không để hai người lạ tới gần. Chúng bỏ đi hoặc chỉ ngồi im thít.

- Anh chịu thua rồi, Nguyên giúp tụi anh đi.

Nguyên nhập cuộc. Màn làm quen dễ dàng hơn. Trọng và Minh mê tít màn trồng chuối ngược của Bảo. Mãi đến nửa đêm thằng Trọng mới chịu quay về trung tâm. Minh vẫn cau có lầm lì không thuận ý. Khi thằng Trọng khoác tay Trung định về, thằng Minh hét toáng lên:

- Mày phản bội nghe Trọng, nhớ nghe chưa, đồ phản bội!

Nó vụt chạy ra xa. Trọng nói để nó kéo Minh cùng về. Hai đứa rù rì một lúc rồi bỗng nhiên bỏ chạy:

Chào má Nguyên, tụi con đi đây.

Trung nhảy lên xe định rượt theo. Nguyên cản:

Để Nguyên tính cho.

Nguyên chạy theo hai đứa trẻ. Khoảng cách ngắn dần. Thằng Trọng có vẻ cố tình chậm lại.

- Má, đừng có chạy nữa, tụi con không về đâu.

- Tụi con đi đâu cô theo đấy.

Nguyên khuỵu xuống, thở hổn hển. Thằng Trọng quay lại ôm chầm lấy Nguyên.

- Má, có sao không má – nó hét lên – mày còn chạy nữa hả Minh, má sắp xỉu rồi đây này!

Minh hối hả chạy trở lại. Hai đứa rối rít bên Nguyên. Giọng Nguyên đứt quãng:

- Tụi con đi bụi, cô làm sao yên tâm được?

Thằng Trọng khóc, thằng Minh khóc theo. Chúng đồng ý quay lại trung tâm. Nguyên cùng hai người sinh viên đưa hai đứa vào trung tâm.

- Anh Hoài đừng phạt tụi nó nghe.

Nguyên xin lỗi cho hai đứa trước khi rời trung tâm. Trung đưa Nguyên về phố sinh viên.

- Anh không hiểu bọn trẻ bằng em nên vụng về quá!

- Có gì đâu, em cũng đâu có hiểu chúng, chỉ cần mình có tấm lòng là đủ. Anh đã hứa vào trung tâm dạy võ cho bọn chúng thì phải giữ lời đấy.

Trung cười, gật đầu.

- Tụi anh sẽ vào thăm bọn trẻ thường xuyên. Hy vọng sẽ có đứa chịu gọi mình là… ba.

Nguyên bật cười. Bảo cũng cười. Những tiếng cười ấm áp giữa màn sương lạnh. Trên con dốc đầy gió, Nguyên thấy mình không đơn độc.

Gia Kiệm, 2 – 2002

Ngày đã qua

Gần ba năm. Cuộc gặp gỡ tình cờ, tôi buồn muốn khóc. Tất cả đã qua rồi, vậy mà tôi cứ mong một ngày gặp lại. Tiến cười với tôi như một người bạn sơ giao. Bao nhiêu điều muốn nói nghẹn ở cổ. Tôi quay về công việc của mình, mắt lén nhìn theo Tiến, vẫn hy vọng chỉ vì đang bận rộn công việc nên Tiến chưa hỏi chuyện tôi được. Tiến phát tướng hơn ngày trước nhiều. Mọi tin tức tôi biết về Tiến trước ngày gặp lại chỉ là những bài thơ của Tiến trên những tờ báo có tiếng tăm. Vẫn là giọng thơ rất riêng không thể lẫn với những cây viết trẻ khác. Ngô Liêm Khoan nói Tiến làm thông dịch viên trong Đami, tin này cũng đã lâu. Hai năm rồi tôi không gặp Khoan, thỉnh thoảng thấy thơ cậu ấy trên trang Bút Mới, ngòi bút "lớn" hẳn. Không hiểu Tiến chuyển về làm ở đây lâu chưa?

Rời khỏi nhà hàng, tôi chẳng muốn nói gì nữa. Sau bữa cơm trưa, khách ngả đầu thiu thiu ngủ. Tôi ngồi nghĩ vẩn vơ. Trọng hỏi:

- Em quen với anh chàng ấy à?

Tôi gật đầu.

- Bạn hồi đại học. Tụi em cùng trong nhóm sáng tác. Anh ta làm trong đó lâu chưa anh?

- Cũng lâu rồi, hình như quản lý khâu lễ tân thì phải.

Đoàn tôi đi khá đông, lúc vào nhà hàng thấy Tiến đang phụ bày biện bàn cùng anh em, có thể Tiến ngại nên chỉ bắt tay tôi. Câu chúc mừng đành ngưng ở cửa miệng. Tiến có hiểu tôi mừng thế nào khi gặp lại anh em trong nhóm cũ không? Nhất là khi ra trường rồi vẫn thấy anh em viết đều tay, ngòi bút trưởng thành hơn rất nhiều. Ngày mới vào trường, mới thành lập nhóm, có những buổi sáng chủ nhật nằm lăn trên rừng thông, mỗi đứa một gốc cây. Những trang sáng tác còn non nớt, nhưng lúc ấy thơ Tiến đã có giọng riêng, lạ mà không khó hiểu. Tôi thích thơ của Tiến, dù từ trước đến giờ tôi không có hứng đọc thơ. Lúc ấy Tiến là thành viên duy nhất trong nhóm có thành tích đáng nể: là một me trong Vòm Me Xanh - bút nhóm của một tờ báo học trò có tiếng. Rồi thân thiện hơn. Một câu lạc bộ sáng tác ra đời, một cuộc thi sáng tác lần đầu tiên của đoàn trường. Sau cuộc thi, chúng tôi thêm được một Ngô Liêm Khoan đầy nhiệt huyết, một Trần Lâm Hoa Vinh trầm lắng. Những buổi gặp gỡ giao lưu với các nhà văn tại trại sáng tác, chúng tôi ngồi say theo những bài thơ, câu chuyện trong không khí các vị "tiền bối" đang say rượu, say thơ. Những tâm hồn trải ra không khách sáo, gượng ép, chỉ có niềm phấn kích. Nhà thơ Thu Bồn hào sảng, nhà văn Chu Lai chân chất… Năm cuối cùng, tôi nghe La Văn Tuân nói mấy anh em hay kéo nhau lên ký túc xá nhậu say mèm rồi leo lên sân thượng ngắm sao trời, rồi cứ thế với cái áo ấm ngủ say dưới sương lạnh Đà Lạt. Tôi thành kẻ ngoại đạo, bởi tôi không biết làm thơ, không biết nhậu, không thể leo lên sân thư! ợng ngủ với gió sương. Thỉnh thoảng nhậu tại nhà trọ, Tuân nhắn tôi lại phá mồi, rồi bảo cái con bé này sao không làm thơ để những lúc như thế này đọc cho anh em nghe, chứ truyện ngắn đọc làm sao được. Tôi ngồi phá mồi, chỉ một tí là hết nhẵn. Hết đọc thơ nổi vì xỉn thì hát. Không có tay đàn khá, ai cũng biết đàn đủ cho mình hát… "Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn – Hai đứa ở hai đầu xa thẳm – Đường ra trận mùa này đẹp lắm…".. Hát đi, hát nữa cho hả hết hơi rượu! - Tuân gật gù, không hát nhưng gõ đũa gõ chén theo nhịp. Say. Nhưng chưa bao giờ phá phách. Những bài hát lúc nào cũng đầy ắp lửa, đầy ắp tâm hồn. Chúng tôi không thích những bài hát của giới trẻ sau này, những bài hát được mở khắp nơi nhưng chỉ một thời gian sẽ bốc hơi như chưa từng tồn tại. Khi về, Chương thường nói anh thích viết nhưng anh không thích sống như Tuân, như Vinh… Sau này, không còn thấy sáng tác của Chương ở đâu nữa, trên báo cũng như trên bản thảo, có lẽ anh ấy đã bị cuộc sống cuốn đi, không còn thời gian để nhớ: anh đã có một thời viết những bài thơ cháy lòng, một thời làm trưởng nhóm sáng tác, đã từng vui với sáng tác đoạt giải của một tờ báo học trò. Mà cũng có thể vì sau mối tình đầu thầm lặng của tuổi mười chín, Chương không còn cảm xúc để viết. Những tình cảm sau này dường như không thể hết lòng được nữa. Còn Tuân thì khác, tôi rất ngạc nhiên khi nghe tin anh đã có vợ ngay sau khi ra trường, nhưng chẳng ngạc nhiên khi nghe "lão" tuyên bố vợ thì có thể bỏ chứ rượu thì không. Tuân ốm o gầy còm, vậy mà cũng có ng! ười t�! �nh nguyện sống với một "nhà thơ" dù biết rõ về cách sống của lão. Một người phụ nữ như thế không phải là dễ tìm trong thời đại này. Tôi thầm quí mến chị dù chưa một lần gặp mặt. Nghe Tuân nói thì chị học cùng khóa, cùng trường. Có một điều tôi biết chắc chắn là chị không phải là người ngại khó, không phải là người sống bề ngoài. Tuân hay nói tôi có dịp ghé qua nhà anh chơi. Phan Thiết không xa lắm nhưng tôi chưa có dịp đi. Lâu rồi không được nghe Tuân đọc thơ, anh là người mê thơ, và hình như tôi luôn là con bé anh hồ hởi đọc cho nghe những sáng tác mới nhất của anh. Bây giờ, tình cờ gặp lại một người bạn cũ, tôi đành cười mỉm rồi đi. Có phải vì … hay vì…?

*

Gọi điện. Thảo Quỳnh mừng rỡ:

- Xin sếp đêm nay đi, tôi với bà đi dạo phố đêm. Gớm! Lâu lắm rồi mới chịu ló mặt lên. Nguyễn Vĩnh Nguyên nó cũng muốn gặp bà đó, Quỳnh gọi điện cho nó nghe?

Quỳnh cũng là người trong nhóm sáng tác nhưng không thích tham dự những lần say khướt, ngâm thơ, hò hét của chúng tôi. Cô gái Hà Nội chỉ thích cùng tôi đi lang thang trên những con đường nhỏ vào ban đêm, nghe hơi thở của đêm,hoặc ghé hàng quán ăn vặt. Chiều Quỳnh, có lần tôi phải ngồi ở quán nhậu vỉa hè, mặc kệ cánh đàn ông ngồi xung quanh trố mắt lên nhìn dù từ nhỏ đến giờ tôi không có thói quen ăn hàng quán cóc. Thói quen Hà Thành dễ gây ngạc nhiên ở mảnh đất lạnh nhưng cũng cho tôi biết một cảm giác mới lạ khi ngồi dưới sương ăn khô đuối, ốc luộc, cháo cá… Nguyên vào trường sau tôi vài khóa, là cây viết trẻ đang viết rất sung sức. Nơi gặp gỡ cũng là quán vỉa hè ngày trước. Quỳnh có vẻ mệt mỏi.

- Sao lâu rồi không thấy viết lách gì vậy?

Quỳnh thở dài:

- Không có thời gian, suốt cả ngày cứ bù đầu với đám học sinh, muốn mà có được đâu.

- Tại chưa đủ mặn mà thì có, đến yêu cũng chưa thèm yêu nữa là.

- Không, nói thật đấy, bây giờ có ai hỏi là tớ cưới liền.

- Ai thèm bà cưới, chừng nào bà biết yêu đã bà mới có quyền cưới. Ngoác rồi, lo mà nấu chảy trái tim bằng sắt của bà đi.

Nguyên cười. Tôi cười, thấy buồn buồn. Không còn thời gian đi lang thang nữa, ai cũng có một núi công việc phải làm. Quỳnh nói, bạn bè trong trường thì có, nhưng không có ai cùng lang thang dưới sương đêm, không có ai để ngồi nói chuyện vẩn vơ như ngày xưa. Ai cũng thực tế đến trần trụi. Cảm thấy cuộc sống nặng những lo toan, mệt mỏi.

Đêm. Nhắm mắt mà không sao ngủ được. Những hình ảnh ngày nào cứ quẩn quanh. Bây giờ, phải ngủ cho ngày mai đầy công việc. Sao cứ muốn gặp lại, biết có còn nhớ đến nhau, có còn nhớ một thời lăn trên đồi thông và viết? Gặp lại, có gì hơn cái bắt tay và nụ cười không?

Gia Kiệm 6-5-2001

Những mảnh vỡ

Ba mẹ tôi cùng làm công nhân, chỗ làm xa. Bữa cơm trưa chỉ có nội và tôi. Cơm người già nấu, bữa khô bữa nhão. Tôi thường ngúng nguẩy chê cơm dở. Nội dỗ dành, rồi cặm cụi muối dưa, cà, làm mắm để bữa cơm có thêm phần ăn cho tôi. Buổi chiều đi làm về, mẹ ghé chợ mua đồ ăn. Bữa cơm tối bao giờ cũng trễ. Tôi ngồi ăn một cách nghiêm chỉnh, không phải vì đói hay vì mẹ nấu ngon hơn nội, mà vì sợ ba, mẹ, sợ cái không khí im lặng ngột ngạt bên mâm cơm.

Một tối, không hiểu thế nào nội lại làm rơi cái chén đầy cơm mà nội đang ăn. Mẹ liếc nội, im lặng. Nội luýnh quýnh phủi những hạt cơm rơi vãi trên bàn. Ba vội vã ngồi xuống nhặt những mảnh vỡ.

- Mẹ ngồi im đó đi, để con nhặt cho, coi chừng miểng chai đâm lại khổ.

Tôi nhìn mẹ. Môi mẹ hơi mím lại. Tôi dợm nhảy xuống ghế. Tiếng mẹ gắt nhỏ làm tôi giật mình:

- Ngồi im, muốn xuống cho miểng chai đâm à? Để đó bà mày dọn.

Ba ném một tia nhìn giận dữ về phía mẹ. Nội xua tay, đẩy ba ra xa:

- Thôi mà, lên ăn đi, để đó cho mẹ! Lên ăn cho cô ấy ăn với.

Tôi len lén nhìn mẹ, chờ những câu la lối bực dọc và thầm lo cho nội. Mẹ chỉ hơi hếch mũi rồi lẳng lặng gắp miếng rau cho vào miệng. Tôi thở phào nhẹ nhõm.

*

Tiếng huýt sáo của thằng Tân vang lên ngay đầu cổng. Biết nó mang đến cho tôi xem con dế chiến như lời hứa hồi sáng, tôi vội vã nhảy xuống ghế.

- Đi đâu?

Tiếng mẹ chặn ngang. Tôi chỉ về phía cổng:

- Con chỉ ra cổng một chút thôi… nha mẹ?

- Ăn cơm xong uống nước chưa?

Tôi chạy lại ấm nước. Cái ấm đặt trên cao, đầy nước nên nặng trịch. Nước tràn vào ly nóng bỏng. Cái ly tuột khỏi tay tôi, vỡ choang một tiếng sắc lạnh.

- Trời ơi là trời, con với cái!

Tôi hoảng hốt quay về phía ba cầu cứu:

- Không phải tại con, nước trong ấm nóng quá ba à.

Ba nhìn tôi nghiêm nghị:

- Tại nước nóng hay tại con hấp ta hấp tấp?

Tôi nhìn mẹ sợ hãi. Mẹ luôn lạnh lùng đến gai người.

- Làm vỡ ly mấy roi?

- Mẹ à…

- Mấy roi?

- Dạ thưa mẹ hai roi.

Tôi mếu máo đưa mẹ cây chổi lông gà. Ba thờ ơ. Chỉ có bà nhìn tôi, đôi mắt nhăn nheo:

- Thôi, chị tha cho nó đi, tại tôi quên, nấu nước trễ nên nước còn nóng, nó không biết.

- Có lỗi thì phải đánh, tha cho nó lờn đi à?

Bị hai roi quất vào mông đau điếng, tôi đâm giận lây cả nội. Tại sao nội làm vỡ chén không ai la rầy, còn tôi làm vỡ ly thì lại bị đánh cơ chứ? Cũng từ đó, tôi rút kinh nghiệm, nếu lỡ làm hỏng vật gì tôi đều đổ cho nội, nếu không bị phát hiện. Cái chữ "nội" đã đỡ tôi không biết bao nhiêu lần khỏi bị ăn đòn. Mỗi lần như thế, mẹ chỉ cắn chặt răng lầm bầm điều gì đó. Ba thì xuề xòa:

- Thôi em, mẹ già rồi.

*

Mấy bữa nay, tôi toàn trốn ngủ trưa đi bắt dế với lũ bạn. Nội biết nhưng chỉ rầy sơ chứ không mách ba mẹ. Đến khi tôi bị cảm nắng, mẹ phát giác, cằn nhằn nội cả bữa cơm chiều qua. Thương nội nhưng vẫn cái tật ham bắt dế, trưa nay tôi lại trốn nội đi. Con dế tôi bắt được bữa nay chắc chắn sẽ là một con dế chiến. Lũ bạn ghen với sự may mắn của tôi. Thằng Tân lớn tiếng khiêu khích. Tôi hất mặt:

- Được rồi, chiều đá, bây giờ tao phải về.

Về nhà, tôi rón rén ôm chặt hộp dế tìm chỗ giấu. Nội mà biết được hẳn lần này tôi sẽ bị la dữ lắm. Căn nhà thì nhỏ, nội lại ngủ ở phòng trong. Tôi loay hoay trong phòng khách một lúc vẫn chưa biết nên giấu con dế ở đâu. Chỉ sợ nó buồn tình gáy te te lên thì khổ. Chợt thấy cái bình xanh to đùng trên kệ gỗ sát tường, tôi nảy ra ý định thả hộp dế vào trong đó. Ở đó chắc là tiếng gáy ngẫu hứng của nó sẽ chẳng ai nghe được.

Có tiếng cựa mình trong phòng. Tôi vội vã trèo lên ghế, cố kiễng chân thả hộp dế vào lòng chiếc bình xanh. Rầm! Choang!… Tiếng vỡ đục ngầu. Tôi thảng thốt nhận thấy mình té bệt trên sàn nhà, bên cạnh là những mảnh vỡ ngổn ngang màu xanh. Con dế bật ra khỏi hộp không chút ngơ ngác, vội vã búng tanh tách.

- Ôi! Con dế!

Tôi nén đau, quên cả nỗi sợ hãi, nhảy lóc chóc theo con dế. Đến khoảng trống trước nhà, con dế vụt biến mất vào đám cỏ xanh. Tôi bật khóc mếu máo. Chợt nhớ đến cái bình vỡ, tôi lạnh người nghe đau nhói ở mông. Chẳng kịp suy nghĩ gì, tôi bỏ chạy thục mạng sang nhà thằng Tân. Thì con mèo đen làm vỡ, không thì nội. Không phải tôi là được rồi.

*

Tiếng mẹ gào lên như khóc:

- Em đã nhịn mẹ từ trước đến giờ rồi, bà làm đổ làm vỡ cái gì có bao giờ em nói một tiếng nào đâu? Nhưng bữa nay thì em không thể nhịn được.

- Nhưng mẹ lỡ tay làm vỡ rồi, em lớn tiếng như vậy được cái gì? Anh không muốn em nói với mẹ cái kiểu xóc óc mà đến anh còn chịu không nổi huống chi mẹ. Em thật là quá quắt!

- Thì tôi quá quắt. Đó là kỷ vật của bố tôi, có phải của bố anh đâu mà anh xót. Anh chỉ biết bênh mẹ anh thôi.

Tôi sợ hãi nép chặt ở trong góc phòng. Lúc đầu, khi mẹ quát hỏi ai làm vỡ bình, tôi quýnh quáng:

- Con đi chơi đá dế từ trưa đến giờ, con không biết, mẹ hỏi thử bà xem.

Mẹ nghiến răng:

- Thằng Hải không làm vỡ thì còn ai? Con mèo à? Cái thân nó không lay nổi cái bình con nữa là cái bình cổ này.

Lúc đó thấy nội im lặng, tôi đã mừng rỡ vì thoát khỏi sự nghi ngờ của mẹ. Và thế là sự giận dữ của mẹ trút xuống nội cho đến khi ba đi làm về. Tôi cố thu mình lại, không hiểu sao lần này mẹ lại giận dữ với nội như vậy. Rồi tôi sợ. Nếu như nội biết kẻ làm vỡ cái bình cổ là tôi, hẳn tôi sẽ chẳng thể nào thoát khỏi một trận đòn khủng khiếp. Cũng may là nội không biết.

*

Đêm. Tiếng dế gáy vang ở góc hiên nhà, nơi bãi cỏ dại. Quên mất cả chuyện ban tối, tôi ôm chặt lấy nội thì thào:

- Đúng là con dế của cháu rồi. Cháu làm nó xổng ra, chạy thoát vào bụi cỏ dại bên hiên nhà mình hồi ban trưa ấy, nó vẫn còn ở đó, đúng là tiếng của nó, nghe oách quá nội ơi!

Rồi tiếc con dế, tôi hậm hực khóc rấm rứt. Nội vỗ về tôi:

- Ngủ đi, cháu yêu của bà, rồi bà sẽ bắt con dế cho cháu.

Tôi vẫn không thôi khóc. Cơn mưa đêm đổ xuống làm tắt mất tiếng dế rộn rã. Tôi ngủ thiếp đi trong tiếng mưa, trong vòng tay của nội.

*

Một tiếng thét lớn làm tôi choàng tỉnh. Tiếng vỡ ngổn ngang. Trời mờ mờ sáng. Tôi dụi mắt định gọi nội nhưng không thấy nội đâu cả. Tiếng khóc vỡ òa ở ngoài hiên. Nhận ra tiếng ba, tôi vội vàng tốc mùng chạy ra.

Mẹ đang đứng tựa vào vách nhà, tay còn cầm cái mâm, chung quanh đầy miểng chén, bát, đũa. Ba gục xuống bên cạnh một người. Cả người tôi lạnh toát. Trên nền đất ẩm ướt, nội nằm bất động, tay cầm chặt cái hộp trống rỗng – cái hộp dế của tôi…

Đà Lạt, tháng 12 – 1997

Thiên đường xanh

1.

Khi tôi đến, người phụ nữ mở cửa với dáng vẻ mệt mỏi, tiều tụy. Khác với giọng nói trong vắt nhẹ nhàng rất cuốn hút mà tôi nghe qua điện thoại, nhìn người phụ nữ dường như không có sức sống. Nét mặt vẫn thoảng vẻ gì đó khiến người đối diện phải chú ý, nhưng hình như cái vẻ ấy ẩn hiện rất nhanh. Tôi ấp úng không biết phải xưng hô như thế nào. Lúc nghe điện thoại, tôi gọi bằng chị vì giọng nói rất tươi trẻ của người phụ nữ, nhưng khi đối diện tôi lại e ngại cho cảm giác của mình. Biết đâu con bé sáu tuổi ấy là một đứa con muộn, và có lẽ tôi nên gọi người này là cô thì tốt hơn. Tôi còn đang phân vân do dự, người phụ nữ nhỏ nhẹ:

- Em vào trong nhà đi.

Ngôi nhà nhỏ rộng rinh. Ngoài chiếc ghế sofa dài đặt sát tường, căn phòng khách trĩu nặng bởi màu gạch đỏ sẫm dán trang trí trên tường. Chiếc ghế cũng màu đỏ bầm. Chị kéo cái bàn nhỏ nằm bên cạnh sofa ra, nói tôi ngồi chơi rồi đi xuống bếp. Dáng đi của chị nhẹ tênh. Lúc xuống bếp, chị đi ngang qua căn phòng nhỏ khép cửa, căn bếp cũng có cửa khép lại cao ngang bụng, chắc là để ngăn con bé không vào trong bếp. Tôi chìm trong không gian vừa ngột ngạt vừa trống trải. Không hoa, không tranh, không còn thứ gì khác ngoài dãy sofa và cái bàn con. Người phụ nữ này có lẽ rất sạch sẽ, ngăn nắp, nhưng tại sao ngoài những chiếc rèm màu đỏ rượu chát, những bức tường dán simili giả gạch nữ hoàng, những chiếc đèn trang trí, cách sắp xếp bàn ghế cho thấy một con mắt thẩm mỹ cao, căn phòng không còn gì khác? Tôi nối từ thắc mắc này sang thắc mắc khác. Chị ra, bắt gặp vẻ mặt ấy của tôi. Không gay gắt cũng chẳng niềm nở, chị ngồi xuống bên cạnh. Không thể quan sát thái độ của chị khi ngồi bên cạnh chị, tôi bỗng thấy lo lắng. Trước đây tôi vốn rất tự tin nhờ vào cách luôn nhìn thẳng vào mắt người nói chuyện.

- Em có biết kể chuyện cổ tích không?

Tôi bất ngờ vì câu hỏi không dự đoán trước này. Tôi và chị đã trao đổi trước vài điều qua điện thoại, chị nói chị không đòi hỏi nhiều ở tôi, chỉ cần tôi đến và con bé đồng ý tôi là được. Tôi cứ nghĩ hẳn con bé bướng bỉnh lắm, chẳng biết phải làm gì để nó có thiện cảm với mình. Mẹ nó bảo đã nhiều người tới nhưng nó chẳng thân thiện được với ai, thành ra cứ vài bữa là họ nghỉ. Nhưng nếu con bé mê cổ tích thì tốt thôi, tôi biết khá nhiều cổ tích, lâu rồi cũng quên nhưng chỉ cần đọc lại là nhớ.

- Dạ, hồi nhỏ em cũng mê cổ tích lắm, chắc cũng còn nhớ nhiều. Bé thích nghe truyện cổ tích hả chị?

Chị thở dài:

- Nó thích, nhưng mà kể cho nó nghe không dễ đâu. Để chị dắt nó ra cho em gặp.

Chị đứng lên vào trong. Tôi giật mình. Con bé đã sáu tuổi rồi kia mà, sao không gọi mà phải dắt? Hay là nó bị bệnh? Nghe tiếng con bé giãy nảy bên trong, tôi càng ngờ vực. Lúc chị bồng con bé ra, nó úp mặt vào vai chị khóc nhèo nhẹo. Chị dỗ dành. Tôi không biết phải làm gì. Nghe chị nói qua điện thoại thì con bé trước đây chỉ theo một bà vú nuôi nó từ nhỏ, nhưng chồng vú ở quê vừa bị tai nạn nằm liệt nên vú phải về. Tôi nghĩ con bé khó tính lắm, nhưng không hình dung ra cảnh nó không thèm nhìn tôi mà cứ úp mặt vào vai mẹ khóc.

- Bé tên gì vậy chị?

- Chị gọi bé là Bi.

Tôi gọi bé Bi bằng giọng nhẹ nhàng nhất có thể:

- Nào, Bi ngoan, Bi cho cô bồng nghen, Bi nhìn cô nè…

- Bi không nhìn thấy được đâu em.

Giọng chị bình thản. Tôi bàng hoàng.

2.

Rồi bé Bi cũng tạm chấp nhận sự có mặt của tôi. Công việc gia sư của tôi không giống ai. Tôi không dạy bé Bi tập đọc tập viết mà tập cho bé Bi biết hòa đồng hơn. Chị nói chị muốn gửi bé vào trường thiểu năng nhưng vì bé không chịu quen với ai mà chỉ khóc ngằn ngặt, không ăn uống nên phải đón bé về. Bà vú già chỉ biết chăm sóc một cách cần mẫn cho bé nên thế giới của bé chỉ là những bức vách, vú và mẹ. Ngày đầu tiên kể chuyện cho bé Bi nghe, tôi tập nhìn vào đôi môi, nét mặt của bé. Tôi biết thêm một điều: không phải cứ nhìn vào mắt người nói chuyện là có thể hiểu được cảm xúc của họ. Tôi đọc được những tình cảm của bé Bi không phải từ đôi mắt. "Thế là cô bé khăn quàng đỏ vừa đi vừa hát, vừa hái hoa. Một con chó sói đang ngồi đói meo…" – "Nhưng mà con chó sói là con gì vậy cô?" – "À, nó giống như một con chó nhà, nhưng mà nó xấu xí hơn, dữ tợn hơn, nó có những cái răng nhọn hoắt" – "Con chó nhà như thế nào, răng nó có giống như răng con không?". Tôi chợt hiểu, bé Bi là cô bé thông minh hiếu động, nhưng cái thế giới của bé quá chật hẹp. Trong căn phòng nhỏ chỉ có chiếc nệm, bình nước và tủ quần áo bằng simili.

- Sao chị không mua đồ chơi cho bé?

Tôi hỏi. Chị nói chị có mua cho bé Bi nhưng bây giờ bé không chơi nữa. Tôi ngỏ ý muốn cùng bé Bi chơi những món đồ chơi ấy. Chị lên lầu lửng bê xuống một thùng giấy nhỏ. Tôi lục lọi. Những chiếc lục lạc nhựa. Một con búp bê biết khóc, biết nhắm mắt nhưng nó không còn kêu được, đôi mắt đã gãy hết lông mi. Chị xách túi đi làm:

- Bé Bi chán đồ chơi lắm rồi, em cẩn thận kẻo bé nổi cáu đấy.

Bé Bi nổi cáu thật. Nó ném đồ chơi và thét lên. Chị nói con bé rất dễ nổi cáu với mọi thứ. Bé làm chị mệt mỏi. Còn tôi chưa thể mệt mỏi. Tôi tìm mua một con sói bông. Chẳng ai làm sói bằng bông, chắc vì nó là một con vật gian ác không đứa trẻ nào thích. Tôi mua một con rùa bông. Bé Bi rất thích thú với câu chuyện khỉ và rùa, không còn vặn vẹo hỏi tôi nữa. Câu chuyện kể cả buổi mới xong. Dưới bếp có sẵn trứng, chuối. Tôi nói sẽ mua cho bé con khỉ bông và một khúc mía. Lần đầu tiên tôi thấy bé cười. Cái miệng nhỏ xíu cười như một đóa hoa. Căn phòng màu đỏ sẫm bừng lên niềm vui.

Ngày hôm sau tôi đến, chị đón tôi với khuôn mặt tươi tỉnh hơn.

- Bé Bi ríu rít suốt cả đêm. Nó bắt chị mua cho nó con khỉ.

Bé Bi ngồi "trả bài", tay nắn nắn con rùa nhỏ. Giọng nói bướng bỉnh biến mất, thay bằng giọng trẻ thơ ngây ngô:

- Cái này là đầu con rùa nè, cái này là đuôi nè cô. Con rùa núp dưới đất như vầy nè má, cái cổ nó đưa lên, thế là con khỉ láu vấp trúng, té đùng…

Chị nhìn tôi, cười theo tiếng cười của bé Bi. Tôi chợt nhận ra: chị rất đẹp, vẻ đẹp dịu dàng, duyên dáng. Nụ cười của chị chính là chìa khóa mở ra cái vẻ ẩn hiện làm tôi ngờ ngợ trong lần đầu tiên gặp gỡ. Bỗng nhiên thấy chị thân thiện hơn rất nhiều.

 Thùng đồ chơi của bé Bi ngày càng đầy. Những câu chuyện cổ tích không còn bị ngắt quãng nữa. Thế giới của bé Bi mở rộng hơn. Có cả hoa. Bé Bi đã biết nhận ra đâu là hoa hồng, đâu là hoa cúc. Căn phòng dần sinh động hơn. Trên bàn luôn có hoa. Có cả tivi cho bé Bi nghe các bạn nhỏ hát. Tôi tập cho Bi hát. Bé học hát rất nhanh, luôn miệng hát véo von suốt ngày. Chị không còn sợ bé vấp vào đồ đạc, còn mua cho bé chiếc xe nhỏ. Bé Bi leo lên đạp chạy loanh quanh khắp phòng. Được nghịch ngợm, có té đau bé Bi cũng cười ré lên. Chị nhìn sự thay đổi của con bằng đôi mắt ngạc nhiên. Tiếng cười, tiếng hát của bé Bi làm chị vui hơn. Không còn thấy vẻ mặt lạnh lùng bình thản của chị nữa, nhưng cũng từ ấy tôi hay bắt gặp chị nhìn đăm đắm vào khoảng không. Một người nhạy cảm như chị chắc có một thế giới riêng đầy nỗi buồn, đầy kỷ niệm. Có lần tôi hỏi vì sao mắt bé Bi như thế, chị nhìn tôi rất nhanh rồi quay đi, môi mím lại. Cùng là một người nhạy cảm, tôi vội xin lỗi chị, quay sang câu chuyện khác. Cũng không bao giờ tôi hỏi chị về ba của bé. Chỉ có lần tôi hỏi bé Bi có nhớ ba không, bé Bi lắc đầu. Tôi nghĩ không chừng bé Bi cũng không hiểu ba là "như thế nào" nữa.

3.

Sinh nhật bé Bi, tôi mang cho bé thật nhiều hoa ngọc lan.

- Tên của con là tên của loài hoa này nè. Con ngửi xem có thơm không?

Quà của chị là con búp bê biết hát. Bé Bi bắt chị tả cho bé nghe.

- Mắt màu xanh biếc là sao hả má?

Chị nhìn tôi cầu cứu. Tôi cố gắng diễn tả cho bé hiểu, đó là màu của biển, của những viên ngọc, của niềm hy vọng… Bé Bi cười, ôm chặt búp bê vào lòng.

- Vậy còn con, mắt con màu gì?

Mắt của con màu gì? Mắt của con màu gì? Những giọt nước mắt của chị ứa trào. Tôi nhớ đến bài hát "blessed" của Elton John – mắt của con sẽ màu xanh biếc nhất mà ta từng được thấy.

- Mắt của con màu đen, màu đen lóng lánh, giống như là mái tóc của con ấy.

- Nhưng mà con thích mắt con màu xanh biếc cơ.

- Vì con là con của má, nên mắt con cũng giống như mắt của ba của má vậy.

Tôi buột miệng. Bé Bi chững lại, chỉ một vài giây, sau đó phản ứng nhanh:

- Má không cho nói chữ đó.

Chị thở dài.

Những ngày sau đó, chị trầm lặng hẳn.

4.

Một lần đến nhà chị, tôi gặp một người đàn ông trong phòng khách. Đây là người khách đầu tiên tôi thấy đến đây. Tôi chào chị, đi vào phòng trong, nghe tiếng chị giới thiệu "Cô giáo của bé Bi đấy". Trong phòng, bé Bi đang mò mẫm cột tóc cho mình. Nghe tiếng tôi, bé Bi nũng nịu:

- Cô ơi, cô nói mẹ cho con đi học đi cô.

Tôi nửa vui nửa buồn.

Một tháng sau, bé Bi đến trường. Tôi ít đến ngôi nhà màu đỏ sẫm ấy.

5.

Giáng sinh, tôi đến thăm bé Bi.  Mở cửa đón tôi là người đàn ông ngày nào. Tôi bỡ ngỡ trước căn phòng màu xanh. Trong phòng trang trí rất nhiều hoa, những bức tranh, và cả một cây dương cầm. Chị đang treo những món đồ lên cây thông xanh. Bé Bi ôm chầm lấy tôi. Chị cười trách tôi lâu quá không ghé thăm.

- Em thấy thế nào? Giúp chị một tay đi chứ. Tại anh ấy mang đến muộn quá, ai mà đến ngày giáng sinh rồi còn vác lỉnh kỉnh đồ sang.

Bé Bi nhanh nhảu chen vào:

- Ba con mang cho con ông già tuyết nè cô.

Tôi giúp chị trang trí cây thông. Nhìn chị tươi tắn hơn trước nhiều. Giọng nói, dáng đi, nét mặt, nụ cười đều toát ra niềm hạnh phúc. Bé Bi gây cho tôi một bất ngờ. Nghe tiếng dương cầm khẽ kêu vài tiếng, tôi quay lại. Bé Bi ngồi trước cây đàn, bàn tay bé tí xíu gõ nhẹ lên phím đàn dọ dẫm. Chị ra hiệu cho tôi im lặng. Gõ vài phím, bé Bi hướng về phía tôi la lớn:

- Cô ơi, con đàn tặng cô nè.

Những âm thanh còn chậm, nhưng tôi đủ nhận ra giai điệu quen thuộc của bài "Jingle bell". Tôi thật sự ngạc nhiên về khả năng âm nhạc của bé Bi. Đàn xong, bé ngoảnh mặt lại cười. Tôi ôm chầm lấy bé, trong lòng vui đến khó hiểu.

- Bé Bi chơi đàn hay quá, giỏi ghê ta ơi!

- Ba con dạy con đó, mai mốt con sẽ chơi hay như ba con vậy.

Chị gật đầu:

- Bé Bi có gien giống ba nên có năng khiếu về âm nhạc.

Thấy đôi mắt tròn xoe của tôi, chị bật cười:

- Chị quên mất, thật là… Đây là ba của bé Bi.

Anh chị nhất định giữ tôi lại dùng cơm tối với gia đình. Anh đàn cho chúng tôi nghe. Những bài thánh ca ngân nga thanh thoát. Bé Bi chạy khắp phòng, ôm những con thú bông vào lòng lắc lư theo điệu nhạc.

- Cô ơi, cô có thích thiên đường màu xanh của con không cô?

Lúc tôi về, người đàn ông nhìn tôi, ánh mắt ấm áp thầm cảm ơn. Chị tiễn tôi ra cổng.

- Nhiều thay đổi quá phải không? Chị trang trí căn phòng như ý bé Bi muốn đấy. Nó với ba nó có nhiều sở thích giống nhau ghê.

Tôi hỏi chị ba bé Bi có về ở luôn với hai mẹ con không. Chị cười, nụ cười hạnh phúc:

- Chị vẫn chưa nghĩ đến, nhưng có lẽ khi mình biết thứ tha, mình sẽ tìm được hạnh phúc. Căn phòng của chị mang màu hy vọng mà.

Tôi chúc chị một giáng sinh an lành. Mặt chị ngời sáng như một ngôi sao nhỏ.

Gia Kiệm 27-10-2001

Trưa Sài Gòn

Tuân gọi điện về quê. Miên nói vẫn đang ở nhà.

Kỳ này làm gì, Miên?

- Làm biếng! Cái tội hồi sinh viên khoái lên núi học, bây giờ về quê chết dí luôn Tuân ơi. Tuân xem trên Sài Gòn có đất cho Miên không?

- Thật hay giỡn đây? Người như Miên mà ngán đất nào?

- Trước khác bây giờ khác, hồi học sinh khác xa nữa, ra đời cần thực tế lắm ông ơi!

- Vậy thì lên đây đi.

Hai ngày sau khi Tuân gọi về, Miên đi Sài Gòn tìm Tuân. Theo bản đồ, Miên đi lòng vòng tới trưa, tấp vào quán nước.

- Alô, Tuân hả? Làm ơn đi, Miên lạc đường rồi… Còn ở đâu nữa… Đợi Miên một chút, hình như là trên đường… Ừ, có mấy cái quán sát nhau, Tuân cứ chạy tới là thấy xe Miên ngay đằng trước, biển số tỉnh mà… Có mỗi xe Miên thôi… Rồi, Miên đợi, Tuân đừng ngủ quên là được.

Miên đùa, lòng lo lắng. Đất Sài Gòn thượng vàng hạ cám, Miên lên chơi vào mùa hè những năm còn nhỏ tí teo, bây giờ chẳng còn nhớ gì ngoài khu vực nhà thờ Đức Bà. Khói, bụi, ồn ào, đông đúc, căng thẳng.

Cô phục vụ mặc chiếc áo đầm ngắn hai dây hỏi Miên uống gì. Cái mặt phấn son lòe loẹt quê mùa, mồ hôi bợt ra nhờn nhợt. Miên nghĩ: "Cô ta mà đẹp thì đã chẳng vào cái quán này". Rồi chẳng ai quan tâm đến ai nữa. Ly sữa tươi bưng ra đặt cóc lên bàn, quay lưng đi mất. Miên lục giỏ tìm quyển sổ ghi địa chỉ bạn bè. Tuân chưa chắc đã tới, lúc nào cũng thấy than thở công việc nhiều quá. Công việc gì mà chỉ toàn thấy phải nhậu, phải chạy.

Thằng nhỏ gõ gõ tay ghế.

- Cô ơi, đánh giày không cô?

Thằng lớn hơn mặt choắt nhìn Miên lạnh ngắt rồi ngồi xuống dãy ghế phía ngoài quán. Thằng bé thấy Miên lắc đầu, kiên nhẫn ngồi xuống bên cạnh. Đôi giày giả da mới mua, đi lần đầu tiên mà đánh làm gì! Miên nhìn bộ đồ cũ xỉn của thằng bé, nhìn thùng đồ nghề rồi rút chân ra khỏi giày.

- Em đánh giày cho chị đi!

Thằng nhỏ hớn hở lấy đôi dép trong thùng đặt dưới chân Miên rồi cầm đôi giày đi ra đằng trước quán. Miên nhìn theo, nghĩ chắc nó rủ thằng bạn cùng làm cho vui. Bài nhạc trong quán đều đều một giai điệu dễ nghe, dễ hát, dễ nhàm. Trời nắng gắt như một bà cô già khó chịu. Miên kêu thêm hai ly sữa tươi. Thằng nhỏ đánh xong đôi giày chạy vào chỉ cho Miên xem phát hiện vĩ đại của nó. Miên giật mình ngẩn người. Chiếc giày bị bung toác bên hông, vết cạy còn thô vụng.

- Ở đâu ra thế này?

- Chắc cô đá vào đâu rồi. Dán lại không cô?

Đá vào cái… khỉ khô! Bày trò! Miên thoáng giận rồi thấy thương gì đâu, mặt bình thản mà như vừa nuốt phải thứ gì lạnh ngắt.

- Bỏ đó cho cô. Con ngồi xuống đây đi!

Thằng bé ngồi xuống tỉnh queo.

- Cô kêu sữa cho con rồi. Kêu bạn con lại uống luôn đi, có phần cho cả hai đứa đó.

Cô phục vụ váy ngắn mặt đầy phấn bưng nước ra nhìn thằng nhỏ chăm chú. Thằng lớn nghe kêu mấy bận vẫn không thèm đến. Thằng bé uống hai hơi hết ly sữa, đu đưa chân hỏi:

- Con uống ly của nó luôn nhá cô?

Miên gật. Nó nốc ngon lành, mặt mát rượi. Miên nhẹ nhàng hỏi chuyện. Vẻ lấc cấc của thằng bé mất hẳn. Nó trả lời Miên rất thành thật. Nó mới vào Nam được ba tuần, theo chân bọn đàn anh đi đánh giày. Hai mươi ngày chưa đủ nhuộm cho thằng nhỏ khuôn mặt lạnh lùng khinh khỉnh và trái tim vô cảm như thằng lớn.

Miên cúi xuống hỏi nhỏ:

- Ai bày cho con cái trò cạy giày của khách đây?

Thằng nhỏ rụt người lại vài giây, sau thò tay kéo Miên sát tới thì thào:

- Nó bắt con làm đó cô, không nghe nó đánh.

- Không sợ khách đánh hay sao?

- Không, nhìn cô hiền khô à.

Thằng lớn trừng mắt nhìn. Thằng nhỏ câm miệng, lặng lẽ cúi xuống cầm chiếc giày lên.

- Để con dán lại cho cô.

Nó lí nhí. Vội vã làm xong, nhổm dậy cầm thùng đồ nghề. Miên đưa tiền. Thằng bé cầm một tờ bạc.

- Con lấy tiền công đánh giày thôi.

Không biết lời cảm ơn, nó gật gật đầu, toan chạy theo thằng lớn vừa đi sang bên đường.

- Này, thế con ở đâu? Cô muốn thăm con thì sao?

- Thật nhá cô?

Nó kề sát miệng vào tai Miên. Miên nhét tờ bạc còn lại vào túi nó.

- Cầm lấy kẻo bị nó đánh.

Thằng bé lộ vẻ sợ hãi.

- Cô nhớ ghé thăm con nhá cô.

Nó chạy biến khỏi quán. Miên cúi đầu mệt mỏi. Cuộc sống rồi sẽ như thế nào nếu thiên hạ phải đạp lên cái tâm mà đi?

Tiếng một bà già mời mua quà bánh. Miên lắc đầu, cố nhớ địa chỉ toàn gắn với những biệt danh Tấn thẹo, Hùng sỏ gì gì đó của thằng nhỏ. Bà lão lọm khọm đi lòng vòng trong quán. Quán vắng khách, không ai mua. Miên đưa mắt nhìn mẹt quà. Vỏn vẹn vài gói chè nấu kiểu nhà quê, màu sắc ám khói. Chè Sài Gòn nhuộm xanh nhuộm đỏ, vị Tàu, hương Pháp, mùi Mỹ… Ai ăn chè này nữa? Miên lơ đãng nhìn ra cửa. Tuân chưa tới. Bà lão đi ra, liêu xiêu, đá phải chân ghế gần bàn Miên.

- Bà ơi!

Miên bừng tỉnh. Chè đậu xanh, đậu đen, đậu đỏ. Miên lựa hai bịch, hỏi thăm. Bà móm mém bảo ở gần đây, còn tên con hẻm là gì bà cũng không biết. Nắng bão miền Trung, bà theo trẻ trong xóm vào đây.

- Tụi nó biểu trong ni dễ kiếm tiền hơn. Tui già rồi, ngoài nớ không làm chi ra tiền hết, đói khổ lắm cô ơi.

- Thế con cháu của bà đâu?

- Tụi nó đi mần xa, chẳng biết khi mô về. Đứa nào cũng cực, tui còn lo cho tui được mà cô.

Bà kể hồi mới vào còn chút vốn bán vé số, bị tụi thanh niên giật cướp hết vé. Còn vài mươi ngàn bà xoay qua nấu chè bán.

- Không có nhà đâu cô, tui ở bên cầu với tụi nhỏ. Có người cho mượn cái hốc tường nhà, tui lấy giấy cứng che lại làm chỗ nấu. Bán cũng được cô à…

Bà lão đi rồi, Miên nhắm mắt, không hiểu mình đang nghĩ gì. Cô phục vụ mặt phấn son quê mùa dọn ly, hỏi hai đứa nhỏ khi nãy là gì của Miên.

- Chẳng là gì hết.

Giọng cô gái buồn buồn:

- Chị thương người nhỉ.

Miên nhìn theo cô gái. Mắt vẫn màu mạ và tâm còn thơm mùi rơm rạ đấy thôi. Miên ăn bịch chè ám mùi khói. Bữa trưa ngọt đường, ứ ở cổ.

Tuân hỏi chờ lâu không? Ăn trưa chưa? Miên gật, rồi lại gật. Tuân xin lỗi.

- Biết Miên sốt ruột nhưng mà Tuân không thể đến nhanh hơn được. Cuộc sống ở đây như vòng xoáy vậy, mệt lắm! Miên phải tập sống khác với cuộc sống ngày xưa, cái thời đi học của Miên ấy, hiền quá không chịu nổi đâu, thiên hạ sẽ bắt nạt, sẽ đạp mình xuống. Sống phải thực tế lên, ở đây ai cũng muốn vươn lên, cho nên… Rồi Miên sẽ thấy.

Miên cười gượng:

- Thì sẽ phải cố thích nghi với cuộc sống thôi. Có nhiều cách để vươn lên mà, đúng không?

Miên lên xe, cố che vết giày bung xấu xí. Tính Tuân nóng, nếu có mặt sớm chắc đã cho thằng bé một bạt tai. Miên lẩm nhẩm địa chỉ lạ hoắc của thằng bé, chẳng biết khi nào mới có dịp tìm đến vì có lẽ Tuân sẽ không chỉ đường cho Miên.

Gia Kiệm 4-2001

Anh em

Đó là một thị trấn nhỏ nằm trên quốc lộ, có cuộc sống không sôi động, cũng không buồn tẻ, người dân sau khi an cư lâu dài với đất vườn đã bắt đầu khấm khá. Hầu hết các hộ trong thị trấn đều có gốc gác ở một làng công giáo ngoài Bắc, năm 1954 di cư vào Nam. Bao năm trôi qua, chẳng còn ai bận tâm về chuyện quê quán của mình, nhất là lớp trẻ.

Ngày giải phóng, Thắng mới lên ba tuổi. Giai đoạn sống khó khăn thời đó, bây giờ Thắng vẫn có thể mường tượng được phần nào. Thập sinh sau Thắng sáu năm, lúc nhỏ cũng còi cọc, vậy mà sau này nó nhổ giò cao hơn Thắng cả tấc. Hết lớp 9, Thắng nghỉ học phụ ba làm rẫy. Mà có muốn học tiếp cũng chịu, có bổ đầu Thắng nhét chữ nhét số vào chắc cũng rơi hết ra. Thằng Thập với út Thy thì lại học khá, lúc nào cũng được làm lớp trưởng, lớp phó. Cùng cha cùng mẹ nhưng Thập cao ráo trắng trẻo, ăn nói lưu loát khác hẳn với anh trai. Đến năm nó vào lớp 10, ở thị trấn rộ lên việc cho con cái lên Sài Gòn học đại học. Thập được gia đình tính toán để vào đại học ngay từ đó. Nó suốt ngày ăn rồi học, rủ đi đâu, chơi gì nó cũng lắc đầu:

- Em mà không vào được đại học thì chẳng còn biết làm gì nữa anh ạ, chẳng lẽ đi làm rẫy? Làm gì còn đủ đất cho mình cày!

Thắng để yên cho thằng em tập trung học hành. Thị trấn đã có nhiều gia đình có con vào đại học. Khát khao của Thập cũng cháy bỏng hơn. Nó cặm cụi học thấy mà thương.

*

Thập vào đại học được hai năm thì khác hẳn. Nó đem về quê cái dáng vẻ giống như những sinh viên trước nó một vài khóa đã đem về: vẻ tự mãn, không hài lòng với cuộc sống ở thị trấn dù cuộc sống đó đã thay đổi rất nhiều trong vài năm gần đây. Quán cà phê mở ra liên tục. Những hôm chủ nhật đi lễ về, Thắng cũng như phần đông thanh niên khác ghé vào quán, vừa nhâm nhi cà phê vừa ngắm cảnh lễ tan. Những cô gái xứ đạo thật duyên dáng trong tà áo dài. Chính Thập cũng phải công nhận điều ấy.

- Quê mình chỉ có cảnh tan lễ là không đâu sánh bằng được. Ở Sài Gòn, người ta đi lễ mặc tùm lum đủ thứ đồ, còn ở đây toàn là áo dài, kiểu nào cũng đẹp. Em chịu! Ở thành phố cũng khó có những kiểu áo dài đẹp như vậy. Mà sao con gái xứ mình mặc áo dài nhìn đẹp thế không biết!

- Vậy sao không tìm cô nào ở quê mà quen, chạy theo các cô trên thành phố làm gì?

- Trời đất! – Giọng của thằng Thập đã pha âm sắc của người Nam bộ – Nói là đẹp dáng đẹp người chứ tiếp xúc nói chuyện thì… chán mớ đời lắm anh ơi!

Thắng không hiểu cái "chán mớ đời" của Thập nghĩa là gì. Chẳng hiểu ở nơi khác đi lễ họ ăn mặc ra sao, con gái thành phố nói năng như thế nào, chỉ biết Thắng vẫn thầm mong tìm được một người vợ hiền trong số những cô gái xứ đạo này. Thắng đã qua tuổi hai mươi lăm, tuổi mà bạn bè cùng lứa đã có vợ có con. Đám con gái mới lớn sau này đẹp hơn hẳn các chị lớp trước, có lẽ nhờ cuộc sống thoải mái, sung túc hơn. Họ cũng chẳng màng lấy chồng sớm. Ai lên thành phố học đại học cứ đi, phần đông còn lại nhàn rỗi, ngoài ba việc vặt chỉ còn chờ sáng sáng điểm trang, đi lễ.

- Chẳng phải là ngoan đạo gì đâu – Có lần Thập đã chun mũi nói như vậy khi bị mẹ mắng vì tội về thăm nhà mà không đi lễ sáng – Chẳng qua là cái cớ để ăn diện rồi đi cà đỏng cà đảnh cho người khác ngắm thôi.

- Đừng có hỗn, học cái thói vô đạo ấy ở đâu thế hả thằng kia?

Thắng biết Thập có thành kiến với con gái xứ này kể từ hồi nó đang học lớp 12, Diễm bỏ học đi lấy chồng. Diễm là một cô bé dễ thương trong lớp mà Thập đã thầm để ý vì sự thông minh, chăm chỉ. Hai người chị ruột của Diễm đều lấy chồng Việt kiều. Bạn bè trong lớp ban đầu cũng trêu chọc Diễm đang chờ một anh Việt kiều nào đó về rước đi như hai chị, Diễm chỉ lắc đầu. Thập tin Diễm là người sống rất có tâm hồn, sâu sắc. Vậy mà đùng một cái, gần cuối năm học thì Diễm đi lấy chồng. Lại là một anh chàng Việt kiều. Thập buồn rũ vì niềm tin ngây ngô của mình vỡ tan tành.

*

Tết năm rồi, Thập về với gương mặt hốc hác, tiều tụy. Tối, nó rủ Thắng chạy vòng vòng rồi ghé quán cà phê. Nhìn cách hút thuốc cũng biết nó lậm món này khá sâu.

- Kỳ này nhìn mày như ông cụ ấy, sao vậy?

- Năm tư rồi, cày dữ lắm, em muốn ở lại Sài Gòn lập nghiệp.

Tự dưng có cái gì đó chùng lại trong lòng Thắng. Thắng chợt thấy thương thằng Thập quá.

- Từ Sài Gòn về đây có bao xa mà gần cả năm trời không về thăm nhà được hở?

- Em ở lại kiếm tiền. Hè đi làm, đi dạy thêm, Tết làm trong hội chợ. Họ cần em làm đến qua Tết, tiền trả khá lắm, cũng ham mà không dám nhận, sợ qua Tết về, ông bà già giận đuổi đi luôn thì khổ.

- Tiền nhà gửi không đủ xài à?

Thập lắc đầu. Thắng chợt nhận ra đời ông, đời cha và cả lứa như Thắng cũng đã quen sống dành dụm, tiết kiệm, còn đám mới lớn ở thị trấn bây giờ khác hẳn. Chúng thích thụ hưởng cuộc sống trong khi bản thân chúng chẳng làm được tích sự gì. Những thanh niên ở tuổi Thắng sau khi lập gia đình đều mệt mỏi với cuộc sống. Họ không biết làm gì để gầy dựng một gia đình mới khi mà người cứ sinh ra đều đều còn đất vẫn như thuở nào. Vài nghề vặt như hớt tóc, sửa xe hay thợ may cũng chẳng thể đủ sống vì người học nghề mở tiệm quá nhiều. Còn biết làm gì nữa với thị trấn sống bằng rẫy bái này? Cuộc mưu sinh ngày càng khó khăn làm Thắng ngại lập gia đình.

Những tốp xe phân khối lớn chạy vụt qua với tiếng nổ giòn giã. Cách ăn mặc của đám lái xe giống như "dân Sài Gòn". Một tốp khác chạy rề rà ngang quán, đèn thắng nhấp nháy quanh đuôi xe, tiếng máy tè tè nghe phát bực. Mấy đứa con gái mặc đồ jean bùi bụi, nói cười ồn ào. Thắng biết đó là những sinh viên học ở Sài Gòn về quê chơi mỗi dịp Tết hoặc hè.

Thằng Thập nhìn dòng người chạy qua, gật gù:

- Hèn gì người ta nói xứ mình giàu.

- Xứ mình mà giàu?

- Thì anh coi, cứ mười chiếc xe chạy ngang qua đây là hết bảy tám cái đèn vuông. Còn mấy cái nhà xây như biệt thự anh chỉ em tuy so với Sài Gòn không có gì ghê gớm, nhưng ở cái thị trấn nhỏ này thì quá kinh khủng rồi còn gì. Liệu anh làm cả đời có nổi tiền tỉ để xây như họ không?

- Họ có tiền nước ngoài gửi về. Ở chỗ mình nhà nào chẳng có thân nhân ở nước ngoài? Mà không thì buôn cà phê cũng giàu sụ, mình bì sao được?

- Bởi vậy – Mũi thằng Thập lại chun lên – Tụi con gái bây giờ chỉ biết ăn với diện, đứa nào cũng mơ Việt kiều! Con trai xứ này riết rồi chỉ còn mấy cô xấu hoắc.

Thập chợt im bặt, quậy cái muỗng ào ào. Hình như nó cảm thấy có lỗi vì đã đụng chạm tới cái tuổi hai mươi bảy chưa vợ của ông anh. Rồi chẳng biết Thập nghĩ gì mà mặt cứ dài thượt ra.

*

Mấy ngày Tết, Thập kể cho Thắng nghe đủ mọi chuyện. Mới biết cuộc sống thật phong phú, chẳng ở đâu giống ở đâu!

Có lần Thập say khướt, mở nhạc giật tưng tưng như ma nhập một hồi rồi lục lọi moi ra một xấp bài cho Thắng xem. Người Thắng nóng bừng lên. Thằng Thập còn khoái trá tả lại những cảnh độc đáo mà nó xem trên máy vi tính hay video.

- Xem trên vi tính rõ lắm vì độ phân giải màu sắc rất cao, sống động từng chi tiết! Còn cái này – Thập giật phăng đám bài trong tay Thắng ném xuống đất – Cấp độ thấp, chẳng đáng quan tâm.

Nó phả vào tai Thắng hơi men ngập ngụa. Bất giác, Thắng thấy hai bên thái dương giần giật, say say. Thằng Thập biết quá nhiều, Thắng ghen tỵ với nó, nhưng nó biết cả những cái kinh khủng quá.

- Thế mày đã làm chưa?

- Làm gì?

- Tìm một ả làm tiền rồi quên đời với nó?

- Xì, cần gì hả anh trai? Con bạn gái em đủ bốc lửa hơn gấp trăm lần.

- Mày… đã… với nó rồi à? – Miệng Thắng bắt đầu run lên.

Thập cười, cái nụ cười hả hê của một thằng say.

- Hai mươi hai tuổi rồi đó, liệu mà sống nghe chưa Thập! – Thắng dằn ngửa Thập xuống, quát lên rồi bỏ ra hiên ngồi.

Đêm ấy, Thắng trằn trọc mãi không ngủ được. Nhìn sang, Thập đã ngủ ngon lành. Trông dáng nó ngủ như thể những xô bồ của cuộc sống chưa chen được vào tâm hồn của nó. Thập đã trưởng thành, nhưng chắc chắn không phải là người đàn ông sành sỏi, Thắng tin là như vậy.

Mấy ngày sau khi Thập đi, Thắng chặt bỏ cây ổi ngoài vườn. Thập bảo thời buổi này muốn mua gì ra chợ đều có, trồng làm gì cây ổi cả năm không có nổi mười quả. Hồi nhỏ, Thập rất thích cây ổi ấy. Những lần chơi con quay bị đứa khác bổ vỡ, nó về ngồi hậm hực bên gốc ổi con, ước mơ cây ổi lớn thật nhanh. Thắng biết Thập thích có một con quay làm bằng gỗ ổi, sẽ chẳng đứa nào có thể bổ vỡ được và Thập sẽ là vô địch.

Thắng bỏ mấy ngày liền tỉ mẩn đẽo con quay, rồi chợt nhận thấy mình xuẩn ngốc. Đã lâu lắm không còn ai chơi con quay nữa. Ước mơ của Thập bây giờ cũng không còn là con quay bằng gỗ ổi. Thương em nhưng chẳng biết làm gì, mỗi sáng đi lễ, mỗi tối đọc kinh Thắng đều cầu nguyện cho thằng Thập giữ được tâm hồn trong sạch, đứng vững được trên đất Sài Gòn đầy cám dỗ. Hôm dọn vườn, Thắng mang con quay ra, thoáng ngần ngại rồi quẳng vào đống lửa.

Tuổi thơ của Thắng và Thập đã đi qua lâu lắm rồi.

Đà Lạt, tháng 10-1999

Dã quỳ đỏ

Phúc đưa tôi đến thăm lớp đêm của anh. Những đứa trẻ đen đúa nhìn tôi với những đôi mắt tò mò, ngạc nhiên.

- Chị không khác dân ở đây tí nào.

Một con bé nhanh nhảu nhận xét. Tôi cứng mình. Phúc dẹp mấy đứa bé về chỗ. Chỗ của tôi ở cuối cùng, trong góc tối nhất. Tôi ngồi im quan sát. Học trò của anh đứa nào cũng lôi thôi, lếch thếch. Vài đứa bặm môi cặm cụi viết. Vài đứa lao nhao hỏi với vẻ háo hức. Còn vài đứa lại chăm chú nhìn tôi, có thằng nhe răng cười dụ khị.

Tôi bắt đầu chán đám trẻ, chán cái kiểu trân mình nhìn Phúc ngọt ngào hết mình với lũ trẻ nheo nhóc vô trật tự. Có lẽ Phúc và tôi khác nhau ở điểm này. Cả hai đều năng nổ trong hoạt động, nhưng mỗi người một hướng đi. Phúc muốn tôi cùng tham gia những hoạt động của anh nên kéo tôi đến lớp, điều ấy làm tôi chán cả chính anh. Chắc Phúc không nhận ra điều ấy, anh lôi tôi vào cuộc.

- Các em có bao giờ nghe kể về một thành phố đầy hoa chưa? Các em nói chị Quỳ kể đi, quê của chị Quỳ đẹp lắm!

Đám trẻ nhốn nháo hỏi. Tôi bị lôi ra khỏi góc tối. Nụ cười vô duyên giả tạo, tôi trả lời cho qua. Ừ thì nơi ấy có thông, có sương mù, có hoa, có gió… và lạnh, rất lạnh.

- Lạnh như thế này không chị?

Thằng bé so vai trong mảnh áo rộng tả tơi nhìn tôi, hình như nó đang lạnh.

- Lạnh hơn nhiều chứ em.

- Vậy làm sao mấy đứa bé nghèo như tụi em chịu nổi?

Tôi ấp úng. Thật sự tôi không biết.

- Chị thấy… ở quê chị ai cũng có áo ấm thật là dày, ấm áp lắm!

Những đôi mắt ánh lên. Có thể mùa đông ở đây làm chúng thèm một manh áo dày hơn. Thành phố hoa của tôi giống như một khu vườn cổ tích đối với chúng.

Cuối buổi, tôi chợt nhận ra một con bé ngồi lọt thỏm trong góc. Trừ đôi bím tóc rối dễ thương, nó cũng nhếch nhác như những đứa trẻ khác trong lớp. Con bé rụt rè đưa tay lên xuống. Cánh tay nhỏ chìm vào bóng tối, mãi sau tôi mới thấy.

- Tên chị có phải là hoa không ạ? Anh Phúc nói chị mang tên của một loài hoa ở quê chị, có phải không ạ?

Tôi cắn phải môi đau điếng:

- Ờ… tên chị là tên một loài hoa, hoa Dã Quỳ.

- Nó đẹp lắm phải không chị? Ai đặt tên cho chị thế?

Tôi vừa kể, vừa gật. Hoa dã quỳ mọc quanh nhà tôi, và vì mẹ thích loài hoa đẹp rực rỡ ấy nên đặt tên hoa cho tôi. Loài hoa kiêu sa, thơm ngát hơn cả hoa hồng… Phúc nhìn tôi. Tôi ngoảnh đi. Tôi không nói dối. Lũ trẻ hỏi và tôi gật đầu. Tôi không muốn kể về một loài hoa hoang dã mọc đầy trên đồi, bên rào, loài hoa không hương, hay đúng hơn là có mùi hắc rất khó chịu. Tại sao phải kể sự thật về một điều tầm thường trong khi đám trẻ đã có những tưởng tượng đẹp về điều ấy?

Tan học, Phúc đưa tôi về. Sự im lặng của anh khiến tôi thấy mình là một tay dối trá trơ mặt. Nhưng tôi biết nói gì? Cuộc sống không đẩy tôi đi về hướng anh đang đi. Con bé ngu ngơ ngày nào bây giờ đã vương bụi phố và phải quay theo vòng quay khắc nghiệt của cuộc sống ở đây. Tôi muốn nói với Phúc một câu gì đó, đại loại như tôi rời phố núi để học sống trong cuộc đời. Tôi cần tồn tại đúng nghĩa. Mà cũng thừa quá rồi, Phúc có thể tự nhận ra mọi điều. Hy vọng cuối cùng của Phúc về tôi đã tan biến khi anh thấy tôi cười nụ cười khói bụi với đám trẻ. Có lẽ chẳng nên nói gì nữa.

- Quỳ này, mỗi người tìm cho mình một hướng đi, một cách sống. Anh sẽ không làm phiền Quỳ nữa. Cảm ơn Quỳ đã đến thăm những đứa trẻ với anh.

Phúc đi. Tôi mệt mỏi bước vào căn phòng trọ chật chội. Có bao giờ Phúc nói một cách khách sáo như vậy với tôi? Thôi, bỏ hết đi!

Hải đến tìm, hắn nói Quỳ đến chỗ mọi khi, hắn chờ đấy.

Tôi cần sự sôi động như cách sống của Hải. Phấn chấn hơn, tôi cầm lọ nước hoa xịt lên cổ, vội vã thay đồ.

- Trễ rồi mà còn đi hả Quỳ?

- Ừ, đi cho bớt ngột ngạt.

Tôi thích những người như Hải, không miệt mài trong đống chữ nghĩa mà năng động trong cuộc sống. Hải nói xã hội thừa những kẻ có học nhưng thiếu năng động, tôi tán thành với ý kiến này. Vừa học, vừa quay cuồng trong những vụ làm ăn, tôi thấy mình trưởng thành hơn, kinh nghiệm hơn.

- Khép bớt áo vào!

Tiếng Vy với theo khi tôi ra đến cửa. Quay lại, tôi thấy Vy vẫn đang cặm cụi viết. Bỗng dưng gằn một nụ cười, tôi xốc áo, nhủ: cuộc sống mà! Rồi chợt hỏi mình: có cần phải kéo áo rộng thế không?

*

Ra trường, tôi ít gặp Phúc hơn, chỉ láng máng nghe nói anh đang làm ở chỗ này, chỗ kia. Công việc của tôi tuy chưa mấy ngon lành nhưng cũng là niềm mơ ước của nhiều sinh viên tỉnh lẻ mới ra trường. Sếp nói tôi có năng lực tốt. Nụ cười của sếp vừa ngạo mạn vừa tầm thường. Nụ cười của đồng nghiệp vừa thân thiện,vừa giả tạo, ganh tỵ. Tôi gồng mình, cứng như một cọc gỗ, tự nói mình sẽ không bao giờ gục ngã. Tôi xoay vù vù theo vòng xoáy, cảm giác sắp bị hút xuống phía cuối – nơi mình không thể bắn ra được nữa.

Phúc đến tìm tôi, moi ra một tờ giấy cuộn tròn. Nhắc mãi tôi mới nhớ ra con bé loắt choắt có bím tóc dày ngồi trong góc tối.

- Nó nói tặng em để em đỡ nhớ nhà.

Phúc đi vội vã. Tôi mở tờ giấy. Tranh vẽ non nớt, hình một cô gái chìm trong những đóa hoa rực rỡ. Phía cuối có một dòng chữ nắn nót "Chị và hoa Dã Quỳ". Trong tôi có gì đó bị bẻ gãy thô bạo. Những đóa hoa dã quỳ đỏ thắm. Tôi đứng ngay cửa phòng trọ. Gió không đủ thổi ngang, nhưng tôi thấy lạnh. Mùa đông, hoa dã quỳ nở đầy lối đi, ven rào, bên đồi. Loài hoa hoang dại của thành phố mù sương. Tôi thấy nhớ, hay là cảm giác gì đó – không định nghĩa được, nhưng nó làm tôi khó chịu, bứt rứt. Tôi phải về thăm phố núi!

*

Tôi tìm. Mẹ hỏi:

- Con tìm gì vậy?

- Hoa dã quỳ.

- Ờ, bây giờ là mùa hoa Dã Quỳ, nhưng không còn nhiều như ngày xưa đâu. Con đi lâu quá rồi còn gì.

Lâu ư? Chẳng lẽ mấy mùa đông tôi quên không tìm mà bây giờ dã quỳ đã xa đến thế sao? Tôi nhìn sang bên kia đồi, phía ruộng rau xanh, nhận ra màu dã quỳ quen thuộc. Những ngôi nhà mới mọc lên san sát, những hàng rào kẽm lạnh lùng. Mẹ chỉ:

- Hoa quỳ kia kìa. Những loại hoa khác có thể mất chứ loại hoa bình dị ấy không mất được đâu. Nó là hồn của phố núi này mà.

Tôi gật đầu. Nhưng hình như đó vẫn không phải là cái tôi muốn tìm. Ba nói:

- Con cứng cáp hơn nhiều, giỏi lắm, con gái cưng.

Mẹ cầm tay tôi nói như khóc:

- Con khác ngày trước quá!

Cô bạn thân giữ khoảng cách, nói giọng đều đều:

- Quỳ thay đổi nhiều lắm, mình tí nữa không nhận ra rồi.

Tôi đi giữa những cây thông. Gió mùa đông không còn lạnh như trước, nhưng xa phố núi lâu ngày, tôi run rẩy. Cứ tìm kiếm gì đó mà không thấy, tôi muốn khóc. Mà không được. Trước một bụi dã quỳ, tôi mở to mắt nhìn những đóa hoa. Đưa tay vò nát cánh hoa để ngửi lại mùi hắc nồng. Thấy thân quen, rồi thờ ơ, lạnh lùng. Tôi giật mình: trong hồn mình đã chai cứng đến thế sao? Chợt nhớ ngày chia tay, Phúc nói: "Em đã đánh mất mình". Có phải không?

*

Tôi đến lớp. Phúc không nhìn thấy tôi. Tôi đứng quan sát anh và đám trẻ. Vẫn những đứa trẻ lem luốc, lao nhao, những đôi mắt hồn nhiên và những nụ cười lém lỉnh. Mỗi người có một hướng đi. Tôi cần học cách sống trong cuộc đời, nhưng tôi đã tồn tại đúng nghĩa chưa? Tôi nhận ra cô bé có đôi bím tóc rối, tác giả của bức tranh hoa dã quỳ đỏ. Cái ý định kể cho các em nghe về loài hoa hoang dã trên đồi tan biến. Có thể là tôi có lỗi nhưng tôi không đủ can đảm đính chính lại những hình ảnh tôi đã gieo trong đầu đám trẻ một năm trước. Nhưng tôi thật sự muốn gặp Phúc để nói với anh rằng: "Hoa dã quỳ không phải màu đỏ. Em sẽ tìm lại mình".

Mùa đông, 2000

Đất lạnh

Tôi bước vào quán, Hằng theo sau. Hai đứa con gái ngồi dãy bàn đầu tiên nhìn theo với ánh mắt dò hỏi. Cặp kiếng cận và nét mặt ngao ngáo của Hằng không phù hợp với không khí ở đây. Tôi ngồi xuống, cố tỏ vẻ lạnh lùng khinh khỉnh. Những bức tranh trên tường toàn hình những tay rock hoang dại, rũ rượi. Nhạc heavy rock giật cục, nổi loạn. Hằng nhăn mặt. Tôi lắc đầu ra hiệu. Hằng ngồi im nhìn quanh. Một chốc, Hằng khều nhẹ:

- Chị ngồi phía trước mình dễ thương ghê Dương ơi.

Tôi có tính ít quan sát ai nếu không có chủ tâm. Nghe Hằng nói, tôi ngồi thẳng lưng lên. Đứa con gái đang ngồi quay ngang đưa chân ra lối đi nên tôi nhận ra nét mặt quen thuộc: mái tóc ngang tôi hay gặp trong discothèque. Nhỏ ngồi bên cạnh dựa lưng vào ghế nên tôi không thấy mặt.

Ba thanh niên bước vào quán. Đứa con gái nhìn lướt quanh rồi đổ phịch xuống ghế vẻ mệt mỏi. Hai gã trai vung tay om sòm với hai kẻ đến trước. Tiếng đứa con gái tôi chưa thấy mặt léo nhéo nghe quen quen.

- Đ.m tụi bay nói đến ngay mà làm đ. gì giờ mới đến?

Mái tóc ngắn lên tiếng. Hằng nhìn tôi, đôi mắt tròn vo. Tôi nhếch miệng cười, nhún vai. Tôi cũng đã từng tròn mắt như thế mà. Những tiếng chửi thề rôm rả theo câu chuyện của những thanh niên.

- Đi qua đánh billiards không?

- Đi trước đi!

Hai gã thanh niên bỏ đi qua bên kia đường. Mấy đứa con gái bật quẹt đốt thuốc. Mùi khói khét lẹt, nặng trịch. Tôi nói nhỏ:

- Tụi nó đang phê.[1]

Mặt Hằng nghệt ra. Đứa con gái mới vào nhả vài vòng khói điệu nghệ, hất hàm hỏi rồi đi qua bàn billiard. Hằng vẫn trố mắt nhìn. Tôi hiểu cảm giác của Hằng lúc này. Thế giới sách vở của chúng tôi nằm lơ lửng ở một tầng trời nào đó. Khi người ta nhìn thấy một thế giới khác, người ta dễ rơi xuống khỏi cái nơi lơ lửng ấy. Tôi chỉ khác Hằng ở chỗ tôi rớt xuống trước, vậy thôi.

Nhỏ tóc dài hình như biết có người nhìn mình. Giọng của nó nhão nhẹt:

- Ê, Trang, mày có bao giờ cảm thấy sống như thế này nó làm sao không? Đôi khi soi gương, tao nhìn mình tự hỏi chẳng lẽ mình cứ sống như vầy hoài? Tao thấy chán nản lắm.

Đứa con gái tóc ngang im lặng rít thuốc, vẻ buồn chán, bất cần. Tôi đã gặp nó trong discothèque Phương Lan. Nhóm của nó toàn những tay tự nhiên như ruồi. Trang làm tôi chú ý vì nét mặt dễ thương đượm buồn của nó. Nó nhảy không cuồng loạn như đám bạn.

- Tao nói thật – Lại giọng nói nhão nhẹt -  Tụi mình sẽ chẳng khi nào…

- Dẹp giùm tao cái giọng ấy đi! Đ. nói chuyện với mày nữa.

Trang đứng dậy uống cạn ly cà phê đen rồi bước qua câu lạc bộ billiard đối diện. Còn lại đứa tóc dài, nó bắt đầu ngọ ngoạy. Giọng nói của nó nghe quen quá. Chợt nó quay xuống. Bốn con mắt nhìn nhau chằm chặp.

- Em thấy chị quen lắm!

Nó nói như reo. Tôi buột miệng:

- Bé Na phải không?

- Đúng rồi, sao chị biết tên em?

Nó xuống chỗ tôi ngồi. Tôi nhắc lại chuyện hơn ba năm trước, khi tôi đang phụ bán cà phê ở quán Hương Thảo, nó đã xin việc tại đấy. Na không còn nhớ tên tôi vì tôi chỉ làm mươi ngày thì nghỉ nhưng nó rất hào hứng khi nhắc lại những ngày ngắn ngủi ấy.

- Bây giờ chị đang làm gì?

Tôi nhìn nó cười mà không trả lời. Hình như Na vừa chợt nhớ ra. Nó vội kín đáo dụi điếu thuốc trên tay. Hồi ấy nó rất quý tôi khi biết tôi là sinh viên.

- Na hút lâu chưa? – Tôi hỏi.

- Mới à, tại em buồn quá! Mấy đứa bạn nó cứ nói hút.

- Bồ đá?

Na nhìn tôi ngập ngừng:

- Sao chị biết?

- Mùi khói! Khách quán này đâu có hút loại thường.

Hằng nhìn tôi, có lẽ Hằng không ngờ giọng nói hàng ngày mà nó thường nghe bây giờ lại lạnh đến thế. Cũng như tôi không ngờ một con bé quê mùa, nhõng nhẽo rửa ly tách ngày nào bây giờ đã trở thành một đứa con gái ăn chơi, học đòi, tuy vẫn còn nhuộm màu cải lương. Tôi hỏi thăm về Trang. Na kể nhà Trang ở khu kinh tế mới dưới huyện, lấy chồng năm mười sáu tuổi, bị chồng đánh đập hành hạ nên ôm con bỏ lên thành phố. Đứa con của Trang vừa chết vì bệnh.

- Chị ấy bao nhiêu tuổi rồi? – Hằng hỏi.

- Bằng tuổi em, mười tám.

Tôi liếc Hằng, nuốt cục nghẹn vừa đưa lên cổ. Hằng hơn Trang bốn tuổi. Thật ngớ ngẩn khi hỏi tuổi của những đứa con gái như Trang, như Na. Tôi biết bọn họ làm gì để tồn tại, còn Hằng thì không. Na bỗng tự thanh minh:

- Thỉnh thoảng em đến Phương Lan chơi với tụi nó thôi. Hiện giờ em đang học uốn tóc.

Nghe nó nói tên tiệm uốn tóc, tôi thất vọng. Chủ tiệm này là một má mì nổi tiếng ở thành phố sương mù. Báo chí đã từng viết về bà ta. Bà má mì này kinh doanh ngay cả trên thân xác hai cô con gái của mình. Tôi không nói gì về điều này. Sau vài câu nói của tôi, Na mếu máo kể về hoàn cảnh của nó. Mẹ nó bỏ nhà đi, có con với người ta rồi đem cho. Ba nó biết tin đã tìm chuộc đứa bé ấy về. Na lên án mẹ nó gay gắt, cho rằng đó là nguyên nhân làm nó nên nông nỗi. Hằng ngồi nghe chuyện, mặt dài ra với niềm tin tuyệt đối. Tôi biết Na muốn bào chữa, nhưng đó cũng là điểm chứng tỏ ít ra Na còn biết hổ thẹn. Tôi nhẹ nhàng khuyên Na chuyện của người lớn, không thể vin vào cớ ấy để hủy hoại nhân phẩm, tương lai của chính mình. Na nói nó đang quen với một tay thợ máy nào đó. Anh chàng hứa sẽ cưới nó và khuyên nó đi học uốn tóc. Tôi động viên Na mà trong lòng thực sự chẳng tin nổi những lời hứa của hắn. Chắc cũng chỉ là một tay sở khanh nào đó đang lợi dụng sự cả tin của bé Na. Mà giờ thì Na làm sao biết được đâu là cái phao thật, phao giả khi mà nó rất muốn thoát ra khỏi cảnh nó đang sống. Na ghi cho tôi địa chỉ nhà trọ, cố gắng miêu tả đường đi tới.

- Chị sẽ tới nếu chị rảnh.

úc về, Hằng buột miệng thương cảm.

- Mai tụi mình ghé chỗ nó chơi đi?

- Làm sao được, Hằng không hiểu gì đâu, nhưng mà nghe Dương – Tôi không biết nên nói như thế nào với Hằng – Đến đó mang tiếng lắm. Hằng tin tụi nó hả? Cho em can, tin phần nào thôi!

Hằng thường đùa bắt tôi gọi là chị vì nó hơn tôi một tuổi. Giờ thì Hằng nói sẽ không xưng chị với tôi nữa.

- Đi chơi với Dương một lần mới thấy mình ngố, Dương biết nhiều hơn Hằng nhiều.

Tôi cười chua chát. Để có được cái "biết nhiều" ấy, tôi đã phải trả giá rất đắt: niềm tin vào con người và cuộc sống.

*

Lần đầu tiên vào discothèque, tôi gần như không dám bước xuống chiếc ghế cao ngồng. Ánh điện sấm sét làm mắt tôi nhoáng nhoàng. Tiếng bass nện thình thịch muốn nổ tung lồng ngực. Tôi quay ra ngoài nhìn hồ Xuân Hương qua lớp kính. Có lẽ chỉ có tôi mới một thân một mình đến sàn nhảy. Khi nhiệt độ trong phòng lên cao, mùi mồ hôi đẫm mùi khói, nhạc chuyển qua điệu slow dìu dặt. Tôi không dám quay lại, sợ ai đó sẽ đến… mời mình nhảy.

Tôi đến Phương Lan một tuần liền, cảm thấy quen dần. Hầu như đêm nào tôi cũng thấy những khuôn mặt quen thuộc. Chúng vừa nhảy vừa la hét, cười nói, trình diễn như tất cả mọi người đều là bạn thân của chúng. Tôi đến quầy bar làm quen với Phương – con ông chủ  - và Vân – cháu của ông ta. Một trong hai người phục vụ là sinh viên trường tôi, người kia tên Bình, khá hiền. Qua Bình, tôi biết được nhiều thông tin về những người thường lui tới Phương Lan. Trong thành phố nhỏ bé này chỉ có hai sàn discothèque, những ai thích nhảy nhót dễ dàng biết mặt nhau. Nhóm của Liêm là cộm cán của Phương Lan. Nghe mọi người gọi Liêm là pêđê vì hắn õng ẹo hơn cả con gái. Bình nói thật ra Liêm không hề thích ôm ấp một gã nào. Đôi khi tôi loáng thoáng nghe Liêm xưng là má mì. Bọn con gái nhóm Liêm trẻ đẹp, phớt đời số một. Mãi sau này tôi mới biết họ là cave hoặc những người thích sống về đêm, cuồng loạn trên sàn nhảy. Đám con trai toàn những vị công tử nhà khá giả. Tôi chưa nghe Liêm lớn tiếng với ai bao giờ. Hắn có thể nhún nhảy trình diễn hết sàn nhảy mà chẳng ai phật ý. Không một ai muốn đụng tới Liêm dù hắn mềm mại như một cọng bún. Ban ngày, tôi hay gặp nhóm Liêm trong karaoke Sáng. Có một tay hát rất hay với chất giọng khàn khàn đặc biệt. Tôi mê giọng hát của hắn. Bề ngoài hắn rất bình thường, thấp bé, đầu hớt cao, lúc nào cũng bận áo sơ mi. Có lần tôi đi hát với Hòa. Hòa thì thào:

- Con bé ghế trên nháy mắt với anh.

Tôi ngây thơ:

- Đẹp đấy chứ, làm quen đi.

Con bé sống sượng chồm xuống mời bọn tôi ăn chewing-gum, nhếch mép cười tán tỉnh Hòa. Dĩ nhiên Hòa không dại gì bắt chuyện trước mặt tôi, bởi vì Hòa mới từ Sài Gòn lên, Hòa biết con bé là ai, còn tôi lúc ấy ngốc như Hằng bây giờ.

*

Yên tìm tôi, khuyên tôi đừng đến Phương Lan nữa.

- Dương biết người ta nghĩ gì không? Bạn anh hỏi anh có phải Dương là cave ở đó không?

- Bạn anh?

- Thì mấy tay chạy xe thổ mộ Dương đã từng nói chuyện đó. Tụi nó hay đứng ở Thủy Tạ chờ khách đến nửa đêm nên thấy Dương hoài.

- Anh tin không?

- Đương nhiên là không – Yên khổ sở – Anh biết con người Dương mà. Mấy thằng bạn anh nói em chẳng giống ai, cứ đến một mình, ngồi một mình, nhìn ra hồ, khi về thì đột ngột. Dương không thích nhảy thì đến đó làm gì?

- Quen thêm bạn.

Yên tuy không phải là dân địa phương nhưng đã sống ở đây khá lâu, lặn lội đủ nghề nên biết nhiều người. Nghe tôi nói, Yên cười:

- Vậy thì Dương quen lầm người rồi. Dương có biết tụi thằng Trương làm nghề gì không?

Ra thế! Yên biết nhiều điều diễn ra xung quanh tôi. Tôi ngang bướng:

- Tại sao lại cần phải biết? Họ muốn quá giang thì có sao? Gặp nhau hoài trong Phương Lan, nói vài câu ảnh hưởng gì chứ?

- Dương nghĩ đơn giản như sinh viên tụi Dương có thể vô tư làm quen, hỏi han nhau chứ gì? Nó là tay giang hồ dữ dằn nhất phố đấy.

Tôi giật mình. Hắn trông lịch sự đàng hoàng, có gì khác người đâu.

- Nó hỏi thăm thằng Bình về Dương, xem Dương có phải là sinh viên thật không, có dễ ăn không. Thằng Bình nói Dương đúng là sinh viên, nhưng mà nuốt không dễ.

Tôi điếng người. Ra tay Bình chẳng hiền lành gì như hắn thường tỏ ra đối với tôi. Mà cũng có thể Yên nói quá sự thật. Tôi đã nghe quá nhiều điều giả dối, khoa trương, thấy tội nghiệp cho lòng tin của mình.

- Anh biết là Dương buồn – Yên xuống giọng khi thấy tôi ngồi im – Nhưng em đừng đến đó giải khuây nữa.

Yên biết gì về nỗi buồn của tôi? Tôi cần đến những nơi ấy đâu phải để khỏa lấp khoảng trống từ ngày chia tay tình yêu của mình. Tôi nhún vai:

- Bản thân Dương không thấy có gì sai trái thì tại sao lại phải sợ? Thiên hạ nói gì Dương không quan tâm. Miệng lưỡi người đời mà, chưa biết sự việc trắng đen đã thọc mạch bôi đen rồi, thấy người ta khổ sở nhục nhã mới vừa lòng. Cứ sống như mình thích, miễn không cắn rứt là được.

- Dương khác ngày trước nhiều! Dương biết tính toán đấy.

- Anh đến Phương Lan không? – Tôi nổi cáu. Yên là người đầu tiên nói về tôi như thế – Đến giờ em phải đi rồi.

*

Tôi đến Phương Lan, buồn bực vì những điều Yên nói. Bình cười vui vẻ khi thấy tôi. Bỗng dưng tôi muốn tống cho Bình một cú rồi gào lên: "Đồ giả dối!", nhưng chẳng có lý do gì để làm thế. Bình nói chuyện rất đàng hoàng.

Yên đến sau, lặng lẽ ngồi bên cạnh tôi. Tiếng nhạc quá lớn. Tôi nhìn Yên cười chào. Bình đem nước ra. Nhìn cử chỉ, tôi biết hai người quen nhau. Có lẽ vì vậy nên Yên biết chuyện của Bình và Trương. Tôi bỏ ra piste trút bực bội vào đôi chân. Liêm đến, nắm hai vai tôi xoay nhẹ để bước vào giữa vòng. Tay đầu đinh đi sau thô thiển đụng mạnh cánh tay vào ngực tôi. Tôi bỏ ra ngoài.

- Sao thế? Bực chuyện gì phải không?

Bình đi theo tôi hỏi. Tôi gắt:

- Cái thằng trời đánh lợi dụng!

- Ai?

- Tay đầu đinh ốm nhách hay đi với tay Liêm chứ ai?

Bình cười:

- Thằng gì, nó là con gái mà.

Tôi chưng hửng. Bình nói nhóm Liêm có mấy tay nữ giả nam, nhìn không phân biệt được. Tôi vỡ lẽ, hẳn cái gã có giọng hát làm tôi mê tít cũng là một đứa con gái, ngay cả bài hát hắn cũng chọn những bài có tone nam. Hèn gì bọn chúng chỉ mặc toàn áo sơ mi rộng thùng thình. Đêm trước có hai cô gái từ Sài Gòn lên, ăn mặc rất hở hang khêu gợi. Tôi khoái dáng người dong dỏng cao của hai nàng quá chừng. Họ nhảy lạ mắt, bạo dạn và cuồng nhiệt nếu không muốn nói là quá khích. Đến khi nhạc chuyển slow, họ thở dốc đến quầy bar ngồi cạnh tôi. Tôi suýt té khỏi chiếc ghế cao khi nghe hai giọng nói ồm ồm cất lên. Dưới ánh đèn quét nhè nhẹ, tôi căng mắt lên nhìn. Trời ạ! Hai cục yết hầu to chảng! Trong cái chốn này, tôi thật ngờ nghệch với những gì đã học được ở gia đình, nhà trường và đám bạn sinh viên.

Có khách mới vào. Bình vào theo. Thằng Bi con trai chủ quán chạy ra hỏi mượn xe tôi chạy đi mua vé xem ca nhạc. Tôi đưa chìa khóa cho Bi rồi len qua đống đồ lên sân thượng. Bình đã chỉ cho tôi lối đi này. Từ trên nhìn xuống, tôi thấy những cô gái trong nhóm Liêm đang mua thuốc lá. Những cô bé rất dễ thương chỉ mới mười sáu mười bảy tuổi mà nếu Bình không nói tôi ngỡ họ bằng tuổi tôi. Khói thuốc tan theo những tiếng cười giòn tan. Những lần ngồi trong discothèque tôi hay nhìn ra sân, quan sát những bà lão bán thuốc. Những lúc ấy trong cái hầm thịt đẫm hơi người, tôi không nhận ra cái lạnh buốt da đang đùa giỡn với những con người già nua ấy. Không hiểu họ nghĩ gì khi nhìn thấy cách sống của những thanh niên rất trẻ ấy? Nuối tiếc cho tuổi thanh xuân? Hay là khinh bỉ? Hay là thờ ơ thản nhiên?

 Sương xuống nhiều. Nhìn ra bùng binh, những ngọn đèn cao áp đông đặc lại. Sương nặng trĩu trong màu vàng vọt của ánh đèn. Trên hồ, sương phủ một màn trắng mờ. Tôi thèm đi lang thang bên đồi cù. Hoa tường vi ven rào mùa này nở nhiều. Tôi đã đi bao nhiêu vòng quanh đồi cù rồi nhỉ? Và bao nhiêu lần có anh đi bên cạnh? Hai tháng rồi chưa gặp anh, đúng hơn là tôi có nhìn thấy anh hai lần khi đang hối hả phóng xe trên đường. Chia tay, rồi chẳng còn biết gì về nhau nữa. Buồn cười thật, ngày trước lúc nào cũng có thể biết anh đang ở đâu, làm gì. Ngày trước… Lại là ngày trước, có bao nhiêu điều để nhớ về ngày trước. Ngày trước bắt đầu được tính từ đâu? Với tôi, đó là lằn ranh kể từ khi tôi phải biết về một thế giới khác không phải như tôi đã sống trước đó. Tôi đã rơi tòm xuống vực, từng chút một hoặc vài cú rơi ra trò.

Sương phủ lên tóc tôi ướt mềm. Có lần tôi cũng ướt mềm vì sương như thế, và run rẩy giữa rừng núi. Đứng một mình trên đỉnh Langbian, tôi chới với giữa những cơn mưa mù. Trời chiều, suốt từ chân núi lên đỉnh tôi không gặp một ai. Nỗi buồn đã đẩy tôi từ phố sinh viên lang thang suốt ngày lên đây, không mang theo áo ấm. Một người dân tộc giữ rừng nhìn thấy tôi. Tưởng tôi lạc đoàn, ông nói tôi phải xuống núi vì đang vào mùa trăng, ban đêm sẽ có chó sói từ rừng già ra. Ý định ở lại một đêm trên núi tan biến, tôi chạy xuống núi. Bóng tối của rừng phủ xuống rất nhanh. Ở một khe nước, tôi gặp lại người giữ rừng. Ông hỏi tôi có nhớ đường xuống núi không, tôi gật đầu. Ông chúc tôi may mắn rồi tiếp tục băng rừng về bản ở bên kia sườn núi. Tôi chạy. Rừng che phủ tầm mắt. Thỉnh thoảng từ trên núi tôi có thể nhìn thấy phố qua những ánh điện mờ mờ xa tít. Tôi thầm mong có nhiều khoảng trống để tôi có thể nhìn thấy vùng sáng ấy. Tôi chạy, hoang mang và cô độc. Khi sao đã đầy trời thì tôi xuống tới làng dưới chân núi. Nhưng sự hoang mang cô độc ấy không bằng đêm nay.

Lúc xuống sàn nhảy, Yên rối lên nói đi tìm tôi từ nãy giờ.

- Thằng Bi tông xe, Dương biết chưa?

Ông chủ Phương Lan xuất hiện, mặt căng thẳng.

- Cháu nghe rồi -  Tôi nói trước khi ông ta mở miệng – Bi có bị sao không chú?

- Nó đang ở bệnh viện. Cái thằng ngu hết sức – Ông lớn giọng – Khi không đi mượn xe người ta, bây giờ tiền đâu mà đền đây không biết?

Tôi khinh bỉ bỏ ra ngoài. Cô cháu gái đi theo xuống giọng nói với tôi thằng Bi không có tiền đâu, từ từ để thằng Bi làm rồi đền sau. Tôi căm ghét những kiểu nói sặc mùi toan tính ấy. Một chiếc taxi chạy vào sân. Họ đưa Bi về, đem nó lên trên lầu. Tôi đi theo. Yên níu lại:

- Dương xem cái xe đã, hư nặng lắm.

- Coi sau – Tôi gạt tay – Dương lên thăm thằng Bi xem nó bị sao.

Thằng Bi bị gãy tay. Nó có vẻ hoảng lên khi thấy tôi vào. Tôi trấn an nó. Bố nó kéo tôi ra. Cũng lại là cái xe. Tôi ghét cái mặt bị thịt của ông ta. Tôi nói ông lo cho thằng Bi đi, đừng bận tâm quá đến chuyện cái xe.

Nhưng đó là sự ngu ngốc, hay đúng hơn là một niềm tin điên rồ của tôi. Ông ta chẳng buồn đem xe của tôi đi sửa. Yên sốt ruột lại Câu lạc bộ nện đá vào cửa, la hét om sòm. Tôi đi học về, Yên vào nói ông ta đã đem xe của tôi cho đứa con riêng của ông sửa. Tay này ma mãnh lắm nên Yên đã phải đến đó ngồi trông chừng. Đồ trên xe hư nát đã thay nhưng chỉ toàn hàng lô. Hắn nói vì xe tôi toàn xài hàng nội. Tôi khẳng định với Yên đó là sự dối trá khốn nạn. Yên chở tôi ra lấy xe rồi chạy đâu mất. Một lúc sau bạn Yên đến báo tin Yên đang gây gổ với tay chủ Phương Lan. Khi tôi đến, ông ta đang sang sảng quát Yên:

- Con Dương nó không nói gì thì thôi, mày có quyền chó gì? Một thằng nhãi con mà đòi hỗn, tao kêu tụi nó xử cho mày biết. Kêu con Dương ra đây nói chuyện, tao đ. nói với mày.

Tôi không chịu được những kiểu cách nói chuyện như vậy.

- Chú làm sao coi được thì làm.

Tôi kéo Yên về. Mặt Yên đỏ gay. Yên nói phải chi tôi nói đó là xe của Yên, hoặc nhận là em gái của Yên thì không đến nỗi bị bắt nạt, xử ép như vậy. Yên còn chọc thêm một câu:

- Vậy mà còn lên thăm thằng Bi! Cũng may nhờ thế mới thấy vẫn còn là Dương ngày nào.

"Khờ khạo, ngu ngốc chứ gì?". Tôi mím môi chua chát.

*

Tôi ra ngoài thư viện, mệt mỏi dựa lưng vào chiếc ghế đá dưới tán cây tùng. Công việc còn quá nhiều mà sức khỏe tôi đã giảm. Điều tôi lo sợ là bệnh của mình sẽ phát mạnh vào lúc này. Những cơn đau đầu vẫn thường xuyên hành hạ dù ngày nào tôi cũng uống cả vốc thuốc.

Có tiếng chân. Tôi giật mình khi thấy anh ngồi bên cạnh. Đã lâu quá chúng tôi không nói chuyện với nhau. Tôi chợt nhận ra mình mệt mỏi lắm rồi, và nhiệt huyết cũng đã nguội lạnh từ bao giờ. Câu chuyện gay gắt dần. Đó là điểm yếu của anh và tôi, rất nhu mà cũng rất cương, khi cùng nóng thì chẳng ai là người chịu hạ lửa.

- Trong khi bạn bè em lao vào học cho kỳ thi tốt nghiệp hoặc là lo làm luận văn thì em lại la cà hết quán cà phê này đến quán karaoke khác, đêm thì đến sàn nhảy. Anh thật không hiểu nổi.

- Anh quan tâm đến làm gì?

- Em thay đổi cả vẻ mặt lẫn cách nói chuyện. Anh thất vọng quá Dương ạ.

- Còn nhiều lắm – Tôi khiêu khích – Em nhìn đời khác rồi. Cứ mộng tưởng như sinh viên tụi anh thì ra đời tha hồ mà thất vọng.

- Sinh viên tụi anh? Còn em thì là gì? Em đi chơi, tiếp xúc với những con người không ra gì đó để học cách nói chuyện như thế này phải không Dương?

Tôi nhắm mắt, quay cuồng trong suy nghĩ. Giá như anh đừng gay gắt, tôi sẽ kể cho anh nghe thật nhiều, sẽ nói tôi nhớ anh nhiều và thèm được đi bên cạnh anh trong những đêm mù sương biết bao. Anh gằn giọng:

- Tuấn nói đúng, em bây giờ sống bạt mạng, không phải là Dương ngày nào nữa.

Tuấn chính là tay sinh viên phục vụ trong Phương Lan. Tôi cười nhạt:

- Anh coi Dương chết rồi càng tốt. Dương bây giờ là người khác, bất cần lắm! Nếu có điều ước em sẽ ước mình có thể tàn nhẫn, độc ác, giả dối, thủ đoạn hoặc ít ra cũng có máu Chí Phèo để khỏi phải đau lòng trước cuộc sống thực. Chừng nào anh tỉnh mộng, anh cũng sẽ chẳng còn là mình như em thôi.

Tôi cảm nhận được sự đau đớn trong anh. Nhưng nó làm sao bằng được nỗi đau đớn dằn vặt tôi đang phải chịu đựng. Tôi đã luôn tin rằng cuộc sống là lòng nhân, là tâm linh, như những câu chuyện cổ tích tôi đã đọc, những bài học làm người tôi đã được dạy dỗ; tôi đã tin con người luôn biết cảm thông, chia xẻ, mở rộng tấm lòng với nhau. Để rồi luôn thấy con người đối xử với nhau bằng những toan tính thiệt hơn, bằng sự ganh tị, hẹp hòi, nhỏ mọn, bằng lòng đố kỵ, giả dối, hợm hĩnh, tham lam vật chất, quyền lực. Cuộc sống chỉ toàn sự phù phiếm, giả tạo, rỗng tuếch. Người ta đạp lên nhau để sống. Nếu biết lớn lên để phải nhận biết cuộc sống là như thế, tôi đã không lớn lên.

- Em bất cần, rồi cứ thế mà sống điên cuồng thác loạn à? Nay phải vào công an, mai vào trung tâm kế hoạch hóa gia đình, những điều đó bình thường quá phải không?

Cảm giác nhói ở tim, tôi kìm không vung tay lên. Anh biết những gì tôi làm, nghĩa là còn quan tâm. Sự quan tâm nửa vời có ích gì không anh? Tôi bỏ vào thư viện. Trời vẫn âm u sắc màu đầu mùa mưa. Tôi thèm một cơn mưa quá.

Anh đến bên tôi với bó hoa thạch thảo, đôi mắt nhiệt thành như ngày mới quen nhau. Anh chúc mừng tôi đã bảo vệ thành công luận văn "Tìm hiểu về lối sống và quan niệm của thanh niên Thành phố. D.L", và xin lỗi vì đã hiểu lầm tôi suốt thời gian qua.

- Em vẫn còn buồn anh phải không?

- Không – Tôi lắc đầu – Có điều em luôn day dứt khi làm luận văn này.

- Em nói cho anh nghe đi.

Tôi thở dài.

- Biết nói làm sao? Khi làm luận văn, em đã phải tiếp xúc, hòa mình vào những tầng lớp khác nhau của thanh niên. Thời gian tiếp xúc với đám người sống đốt cháy, phó mặc tương lai tuy không nhiều, nhưng nó thực sự làm em hoang mang, mất niềm tin.

Anh nắm chặt tay tôi:

- Có ai nói làm người dễ đâu, em vẫn nói thành nhân khó hơn thành danh mà. Cuộc sống thì vẫn thế thôi, chỉ có cách nhìn của mình là thay đổi. Quan trọng là mình biết chọn đúng hướng đi.

- Điều làm em suy nghĩ nhiều nhất là làm thế nào để chọn hướng đi đúng, trong khi mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau? Còn những thanh niên đang bế tắc trong cuộc sống ích kỷ, vô trách nhiệm ấy, làm sao họ có thể tìm được lối thoát cho bản thân? Cần có ai đó mở lòng ra với họ khi họ muốn tìm cho mình một niềm tin. Mà lòng nhân thì không có nhiều…

- Có nhiều chứ! Chúng mình vẫn nói với nhau rằng sống mà không có niềm tin yêu, không có sự cảm thông, không có lòng nhân ái, không có trách nhiệm thì không có hạnh phúc, nhớ không Dương?

Tôi ngửa mặt, nước mắt chảy ngược vào trong. Anh lau nước mắt cho tôi, bật cười, thả bó hoa thạch thảo tím hoang dại lên mặt tôi. Rồi như bao nhiêu lần xuất hiện trong giấc mơ của tôi, anh mỉm cười vẫy tay, bình thản bước đi, mờ dần giữa màu thạch thảo tím nhòe.

- Em trẻ con lắm, Dương ạ. Em chẳng hiểu gì về cuộc sống cả.

Tôi thất thần đạp mạnh chân, thấy mình rơi hẫng xuống, bị hút vào vực xoáy đen kịt.

- Dương, Thùy Dương! Cháu chưa tỉnh à?

Tôi mở bừng mắt. Bóng áo trắng mờ mờ. Màu trắng quen thuộc. Người bác sĩ đặt ống nghe lên ngực tôi. Tôi khẽ co tay. Chân tay tôi vẫn bị buộc chặt vào bốn góc giường. Tôi lảm nhảm:

- Cô thả cho cháu về làm luận văn đi, sắp hết hạn rồi cô ơi!

- Cháu phải nằm ở đây, bao giờ khỏe cô sẽ cho cháu về, bây giờ cháu vẫn chưa tỉnh mà. Cháu có nhìn thấy cô rõ không?

- Nhưng mà cháu không muốn bỏ cuộc.

Tôi gào lên nho nhỏ. Những bóng áo trắng đi xa dần. Tôi cố nhìn theo nhưng chỉ thấy mờ mờ. Bài luận văn dang dở của tôi! Tôi đã không thể. Thấy mình tuyệt vọng, nước mắt trào ra nghẹn ngào. Nghe loáng thoáng bên tai:

- Tội nghiệp, vẫn nửa tỉnh nửa mê, ba bốn ngày rồi còn gì.

- Tại cô bé dùng thuốc nhiều quá, ngộ độc khá nặng.

Tôi lại chìm vào cơn mê, vẫn kịp thấy ánh mắt anh đầy an ủi, động viên. Tôi đưa tay ra. Bàn tay tôi nắm vào hư vô.

Gia Kiệm 4-2000

Gió lạnh

1.

Huy nhìn ra ô cửa sổ nhỏ hẹp. Trong bến xe ồn ào náo nhiệt, nổi bật lên một cô gái dáng người cao ráo. Cô mặc áo thun màu vàng nhạt, chiếc quần jeans bó sát đôi chân thon dài, dải len trắng quấn quanh cổ. Đôi giày thể thao và chiếc áo jean khoác hờ trên vai càng tạo cho cô gái vẻ rắn rỏi khỏe mạnh.

Huy hà hơi vào hai tay rồi kéo rộng cánh cửa sổ xe. Anh khoanh tay tựa lên thành cửa sổ dõi theo từng bước của cô gái. Cô đang đi về phía Huy. Anh có thể nhìn thấy cái cằm chẻ xinh xắn trên khuôn mặt bầu bĩnh dễ thương, đôi gò má ửng hồng, chiếc mũi thanh tú, đôi mắt long lanh đầy nét quyến rũ. Tay lơ xe chạy ra nắm lấy giỏ xách của cô, vồn vã chỉ trỏ về phía xe như đã từng làm với anh. Hắn nhe hàm răng sạm đen ra cười toe toét. Cô gái cũng nhoẻn cười nói với hắn điều gì đó. Huy giật mình khi thấy chiếc răng khểnh và má lúm đồng tiền của cô. Sao lại có một người đẹp gần như hoàn hảo đến thế?

Cô gái lên xe và đến dãy ghế nơi anh ngồi.

- Có ai ngồi đây chưa anh?

Cô nhẹ nhàng hỏi. Huy vội vã toét miệng cười:

- Không, chỉ có mình tôi thôi, cô ngồi đi!

Huy lóng ngóng như một tay thợ vụng. Anh giúp cô gái để giỏ đồ lên kệ hành lý. Qua vài câu làm quen, anh biết cô gái cũng là người Sài Gòn, và cũng giống như anh, cô chỉ thích đi loại xe lớn rộng rãi, thoải mái.

- Em không quen đi xe, em hay bị say xe lắm.

- Thế hả? – Huy tỏ vẻ quan tâm.

- Anh…anh mở rộng cửa sổ xe được không?

- Được chứ, không sao.

Huy co tay đẩy cánh cửa. Luồng gió lạnh ùa vào. Cô gái ngả đầu vào ghế, thở mạnh, vẻ dễ chịu. Huy nhìn ra cửa sổ, không biết phải tiếp tục như thế nào. Giá như cô ấy không quá đẹp, hẳn anh đã rôm rả bắt chuyện với cô, nhưng…

2.

Người lên xe chật ních. Tay phụ xe dáo dác nhìn quanh:

- À đây, chỗ này còn! Chị vui lòng ngồi xích vào cho chị này ngồi với.

Hắn nói với cô gái. Một cô gái ăn mặc giản dị đứng sau lưng hắn, vẻ lúng túng. Cô gái bật ngồi thẳng dậy, chau mày:

- Ghế này mà ngồi ba người sao?

- Ngồi ba người, ghế nào cũng vậy hết, nếu không chị phải bao trọn băng.

Giọng của hắn chẳng chút thiện cảm. Cô gái nhăn mặt. Huy vội nhích người sát thành xe. Cô gái mới lên cười gượng gạo:

- Anh chị cho em ngồi với, hơi chật, nhưng biết làm sao.

7 giờ. Tiếng tay lơ xe váng lên:

- Cô bác anh chị đóng cửa sổ xe lại nhá, xe chuẩn bị chạy đấy.

Huy chồm người định khép cửa. Cô gái vội kéo áo anh.

- Anh đừng đóng, em chịu ngộp không được đâu.

- Nhưng xe chạy gió lùa vào lạnh lắm!

- Em chịu lạnh được, đóng cửa lại em say xe chết mất, anh đừng đóng.

Tiếng cô gái mới lên nhỏ nhoi:

- Xe chạy lạnh ghê lắm chị ơi!

Huy nhìn đôi mắt long lanh của cô gái rồi nhìn sang cô gái mới lên, bắt gặp một ánh mắt yếu đuối, nằn nì.

- Hay là khép bớt cửa lại, rồi cô đổi chỗ cho tôi nhé?

Một cái gật đầu. Cô gái mới lên thất vọng, bởi đổi chỗ là vẫn mở cửa. Cô buồn bã nhìn xuống manh áo len mỏng manh đã cũ của mình.

Xe chạy. Cô gái đắp ngược chiếc áo jean lên người, bình thản nhìn ra ngoài. Gió cao nguyên thốc vào, thổi bay mái tóc của cô. Huy hỏi khẽ:

- Lạnh không?

Cô gái lắc đầu. Huy quay qua cô gái lên sau:

- Cô có lạnh không?

- Giờ thì chưa, nhưng lát nữa thấm lạnh chịu không nổi đâu anh ơi. Hồi mới lên, em say xe nên cũng mở cửa xe, nhưng chịu không được lâu, phải đóng lại. Ban đầu nôn dữ lắm nhưng rồi cũng quen.

- Bộ cô hay lên đây lắm hả?

- Em là sinh viên trường Đà Lạt mà.

- Vậy quê cô ở đâu?

- Em ở ngoài Bình Định.

Huy có thể cảm nhận được cái nóng miền Trung trên màu da sạm nắng, cằn cỗi và mái tóc khô xác của người sinh viên. Đôi mắt cô nhìn anh vừa có vẻ già dặn của một người quen lam lũ, vất vả, vừa có vẻ ngây thơ, trung thực của một người còn tràn đầy niềm tin yêu cuộc sống.

3.

Gió quật tóc cô gái rối bù. Cô nhìn đăm đắm ra cửa sổ. Chiếc khăn quàng đã được kéo lên cao che chiếc cằm thon nhỏ. Một mảnh tóc mai vướng lên mi mắt. Cô gái đưa tay gỡ rồi xoa tay vào nhau. Anh vẫn lặng lẽ quan sát cô.

- Cô cảm thấy lạnh chưa? Tôi đóng cửa vào nhé? Một lát nữa lạnh lắm, cô sẽ bị cảm lạnh đấy.

- Không sao đâu, tôi không thấy lạnh lắm, chỉ lạnh vừa thôi.

Cô gái đùa. Huy cười, nén tiếng thở dài.

Xe vượt qua đèo. Những cơn gió vùng hoang vu càng thốc vào lạnh buốt. Người sinh viên ngồi cúi gằm mặt, hai tay ôm vòng giỏ đồ nặng trịch. Mái tóc của cô bị đánh rối, che lấp cả khuôn mặt. Huy thoáng thấy hai vai cô so lại vài lần. Anh đứng dậy sắp xếp lại những chiếc giỏ sắp rớt trên kệ hành lý. Cô gái quay vào nhìn rồi lại bình thản quay đi. Người sinh viên đứng lên giúp Huy kéo những chiếc giỏ xách. Huy cố gắng tạo một khoảng trống.

- Để cái gì nữa vậy anh?

- Để cái giỏ của cô. Ôm nó đường xa mệt lắm.

- Thôi đừng…

Cô ngồi xuống, ôm giỏ đồ vào người.

- Sao vậy? Chắc nhét vừa mà.

- Để em – Cô thì thào – Em che gió!

Huy nghe gió thổi buốt thái dương. Anh ngồi co lại, im lặng.

4.

Cô gái đã quấn khăn lên cao che hai gò má. Chiếc áo jean được mặc hẳn vào, kéo khóa đến tận cổ. Huy kín đáo nhìn cô gái. Trong lòng anh rộn lên một tình cảm khó hiểu, cảm giác lâng lâng nhưng lại mơ hồ đau đớn.

Trời chợt mưa nhỏ. Những giọt mưa đan chéo, quăng mình vào xe qua lối cửa sổ. Mặt Huy giãn ra. Anh chồm người kéo cửa sổ xe lại, cười thật tươi với cô gái:

- Coi chừng ướt áo sẽ lạnh lắm.

Mưa vùng cao thoảng đến rồi đi. Cô gái lại mở ô cửa. Huy liếc nhìn người sinh viên. Cô đang thẫn thờ nhìn ra phía trước, đôi môi xám nhợt nhạt.

Cái lạnh thấm dần. Cô gái liên tục xoa tay vào nhau rồi đưa lên miệng hà hơi, nhưng chiếc khăn len đã che hết hơi ấm. Cô nắm chặt hai bàn tay vào nhau. Những ngón tay bám lấy nhau như tìm một sự che chở. Có một khao khát thúc đẩy mãnh liệt khiến Huy muốn nắm lấy hai bàn tay nhỏ nhắn ấy, nhưng có cái gì lạnh toát trong người làm anh sợ hãi. Anh không còn kiểm soát được cảm xúc của mình nữa. Biết đâu… biết đâu đấy… Huy cúi người về phía trước, vội vã cởi chiếc áo khoác.

Người sinh viên gục đầu xuống, nét mặt chịu đựng, nhẫn nhục. Hai bàn tay cô tìm nhau, bấu chặt vào chiếc giỏ.

5.

Huy ngồi im, nghe hơi lạnh thấm dần qua lớp áo. Anh cảm nhận rất rõ sự run rẩy bên cạnh mình. Anh nhủ thầm: đến ngã ba Dầu Giây cô ấy sẽ xuống, rồi cô ấy sẽ xuống! Hình ảnh người sinh viên đơn độc đứng chờ xe bên khu rừng cao su nhảy nhót trước mặt Huy. Người Huy mềm nhũn. Anh nhắm mắt lại, hằn học với mình: thằng khùng! Chẳng phải mày đã bảo phải biết tàn nhẫn mà sống? Cứng rắn lên đi!

- Cô có đỡ lạnh chưa?

Huy buột miệng. Cô gái trẻ so vai dưới lớp áo khoác dày ấm áp của Huy, mỉm cười gật đầu. Nụ cười đẹp quá! Huy nhìn trân vào cô. Không có niềm vui, chỉ có cảm giác thắt nghẹn. Thật khốn nạn! Huy rũ xuống, thấy lạnh tê tái. Anh đã không hành động như ngày xưa. Huy không dám nhìn sang bên cạnh nên không thấy được đôi mắt của người sinh viên. Đôi mắt của gió, của giá lạnh, của một điều gì đó vừa vỡ tan…

Nơi mặt trời mọc

Cuối con đường, chỗ ngã rẽ của những lối mòn đầy cỏ, một cây vông đồng già lạc điệu. Những lối nhỏ mấp mô. Mùa mưa, cỏ mọc hai bên đường, mọc lên trên lối đi. Ban đêm, những chú dế ngoi lên ngồi gặm cỏ và i ỉ hát. Cào cào ăn sương sớm. Côn trùng ẩn mình trong cỏ. Bàn chân đi qua dính đầy lá cỏ mềm. Lối nhỏ càng mấp mô, trơn trượt. Mùa nắng, những bụi cỏ trơ gốc. Không có bụi mù. Những lối đi quá nhỏ. Cọc cạch những chiếc xe, những đôi dép mủ. Không có gì làm tung bụi mù ngoài những cơn gió xoáy hiếm hoi. Phía cuối con đường rất yên bình.

Buổi sáng, ngôi nhà nhỏ của lối mòn đầy cỏ phía bên phải cây vông đồng vang lên tiếng con nít khóc. Tiếng khóc trẻ con sớm hơn tia nắng ban mai. Bắt đầu thấy khói len lỏi từ chái bếp của những ngôi nhà nhỏ khác nằm trên những lối mòn. Khi ánh sáng còn yếu, ông lão ở ngôi nhà xa nhất lặng lẽ đi trên lối mòn đầy cỏ. Đến cây vông đồng, ông đặt chân lên con đường lớn và tiếp tục đi theo con đường ấy về phía xóm. Sau ông một lúc, những người hàng xóm dắt xe đạp men theo những lối mòn, cùng gặp nhau ở cây vông đồng và cùng đạp xe trên con đường lớn. Vài đứa trẻ ra sân quét xoèn xoẹt. Chẳng có gì ngoài đất và cỏ, mấy luống rau thơm thèm nước sớm. Ranh giới giữa những ngôi nhà là vài cọc gỗ lêu nghêu và khoảng đất đầy cỏ dại. Đứa trẻ nhà có cây xoài hú vọng sang nhà có cây chùm ruột. Trẻ con chẳng màng đến những lối mòn, chúng chạy tắt sang nhà nhau, trên những mảng cỏ, rồi dắt díu nhau theo những lối mòn ngoằn ngoèo đến ngã rẽ cây vông đồng. Chúng đợi nhau ở đấy, áo trắng quần xanh, đôi dép mủ dính đầy cỏ ướt. Khi ánh nắng xuất hiện trên ngọn vông, bọn chúng nhảy lưng tưng trên con đường đi vào xóm, nơi có ngôi trường của chúng nằm giữa đám phượng điệp mát rượi. Những người đàn bà sau khi dọn dẹp nhà cửa cũng theo những lối mòn ra cây vông đồng. Họ đi trên con đường lớn, nhắn gửi mua hàng chợ. Một lúc sau họ tách thành hai nhóm, một nhóm lên rẫy, nhóm ít hơn ăn mặc tươm tất ra chợ.

Chiều tối, những ngôi nhà trên bãi cỏ ngủ rất sớm. Không có điện, những ánh đèn dầu tù mù không xua được bọn muỗi đói. Cánh đàn ông uống vài ly rượu trong bữa cơm tối rồi đi ngủ. Đám trẻ tranh thủ xem bài rồi theo chân mẹ lên giường. Ông lão ở ngôi nhà xa nhất sau vài ván cờ, ngồi trầm ngâm nhìn những ánh sao. Một ngày nơi bãi cỏ đầy lối nhỏ ngoằn ngoèo qua rất bình yên.

*

Đến cuối con đường, nơi có cây vông già lạc lõng, chỗ ngã rẽ của những lối mòn đầy cỏ, Nhã đứng im. Từ chỗ cây vông đồng có thể nhìn thấy rõ bãi đất rộng. Những ngôi nhà nhỏ lúp xúp ngăn cách nhau bởi vài cọc gỗ và những khoảng cỏ dại. Những cây ăn trái lưa thưa. Những lối mòn ngoằn ngoèo. Nhã đạp chân lên cỏ, không theo lối mòn nào. Đi ngang qua ngôi nhà có cây chùm ruột, Nhã ê một tiếng với đứa trẻ trong nhà rồi nhe răng cười, tiếp tục đạp cỏ vượt rào sang nhà có cây xoài, nhà chú Hải, nhà cô Hoa. Đến nhà, Nhã loay hoay gỡ dây buộc cửa. Tiếng muỗi bay vo ve. Giờ này mọi người vẫn chưa đi làm về. Nhã thả giỏ đồ xuống giường, mở bung hai cánh cửa sổ. Trong nhà đỡ tối hơn. Cô xuống bếp. Những cái nồi trống trơn. Nhã cời tro than trong bếp. Có hai củ khoai vùi chín còn âm ấm. Nhã bóc vỏ. Mùi khoai nướng thơm quen thuộc.

- Chị Nhã! Chị Nhã!

Thằng Út chạy ào vào bếp ôm chầm lấy Nhã. Nó thở hổn hển, người đầm đìa mồ hôi.

- Ai cha, bỏ chị ra, lọ dính hết vào áo cưng rồi kìa.

Bữa cơm muộn đầy ắp tiếng cười nói. Ba nói năm nay trái cây thấp giá quá. Mẹ hứ một cái:

- Lo thì có lo, nhưng mà ăn thua có biết bằng lòng với những cái mình có không thôi.

- Sống như thế tha hồ thanh thản phải không bà?

- Mẹ đã già đâu mà ba kêu mẹ bằng bà?

- Còn không, cô lớn tướng thế rồi, chồng con tới nơi, tôi không già thì ai lớn!

Ba gắp miếng đậu cuối cùng bỏ vào chén Nhã:

- Lạc hậu quá bà ơi, thời buổi này tuổi như nó lấy chồng là sớm, là khổ. Chỉ có lo học thì tương lai nó mới sáng được phải không con gái? Ráng mà học đi, coi vậy mà từ trước đến giờ nhà mình vẫn sống khỏe, đừng có lo vớ vẩn ảnh hưởng chuyện học hành nghe con.

Nhã cười:

- Ba mẹ không sợ con học xong ở lại luôn trên thành phố như mấy anh chị trong xóm sao?

- Cái gì mà sợ? – Ba cười lớn – Sống ở đâu thấy thoải mái là được, thích thành phố thì cứ ở, chỉ sợ không tìm được cái cảm giác giống như ở nhà mình đâu. Ở đời mà, được cái này thì phải chấp nhận mất cái khác. Biết chấp nhận là thấy cuộc sống dễ chịu lắm.

Tối, thằng Út bám tay Nhã chạy theo lon ton, vỗ bụng bình bịch:

- Chị Hai, Út ăn chưa no đâu, còn ăn được nữa nè. Chị cho em sang nhà chị Hằng ăn chè nghe.

Nhã gõ đầu thằng Út. Cỏ ướt mềm. Nhã lê chân trên cỏ, nghe mát lạnh.

- Thằng Bo còn hay khóc không Út?

- Khóc hoài, sáng nào cũng khóc. Má nó đâu có sữa cho nó bú. Anh em nhà nó bị suy dinh dưỡng hết, ba nói vậy.

- Ông Hậu khỏe không Út? Út có qua học chơi cờ với ông không?

- Em ít qua lắm, em chẳng nhớ được mấy hòn đá như chị. Ông vẫn còn đi đào giếng trong xóm, sáng nào cũng thấy ông đi.

Dưới ánh đèn dầu tù mù, ông lão đang ngồi trầm ngâm theo quân cờ. Nhã sang thăm, ông rất vui. Cô là đứa học trò có khả năng nhớ rất nhanh các quân cờ "đặc biệt" của ông.

- Cháu có cái này biếu ông.

Nhã hồ hởi lôi ra gói cờ bằng nhựa. Ông lão bật cười ha hả:

- Có cái này chắc ông sẽ có nhiều bạn chơi đây. Ngoài con bé này không ai nhận mặt nổi các con cờ của ông. Từ hồi cháu đi học xa ông chơi một mình, còn tụi nhỏ này chỉ biết ngó thôi. Đây, con tướng là con này.

- Từ trước đến giờ cứ gọi ngựa xe pháo mã chứ có biết mặt cờ ra sao, kiểu này ông phải chỉ cho cháu nhận mặt quân cờ lại rồi.

- Ông tưởng cháu đã chơi cờ trên thành phố với bạn bè, đã biết nhận mặt quân cờ rồi chứ?

- Trên ấy, cháu không có thời gian để chơi ông ạ.

Nhã ghé thăm những ngôi nhà lụp xụp trên bãi cỏ. Khi trăng lên cao, Hằng đem nồi chè ra sân.

- Đãi mày, ăn đi, nhiều vào, mai mốt về không có nữa đâu.

- Mai mốt tới lượt tao nấu cho mày ăn.

- Ừ, nấu đi rồi ăn với mấy đứa nhỏ, tao không ăn được đâu.

- Sao thế?

- Tao sắp lấy chồng – Giọng Hằng buồn thiu – lấy người trong xóm.

- Chị Hằng lấy chồng sướng thấy mồ, vào trong xóm tối có tivi có điện sáng trưng.

Mấy đứa nhỏ nói chen vào. Nhã cay cay mắt.

- Không ôn thi nữa à?

- Tiền đâu mà đi học tiếp? Xóm nghèo, miếng ăn còn khổ sở nữa là.

Đám trẻ con vô tư khua khoắng nồi chè, cười giỡn ồn ào. Hằng kể, giọng rất buồn, về những ước mơ nhỏ nhoi của cô, về những con người trên mảnh đất đầy cỏ dại, hình như bao nhiêu năm chưa thể nào sống ăn ngon mặc đẹp. Nhã định nói: tại nghĩ mình khổ nên thấy khổ, nhưng rồi lại thôi. Con người ai cũng mơ ước được nhiều hơn những gì mình đang có, nhưng làm sao phân biệt được đâu là cầu tiến, đâu là an phận, đâu là để cuộc sống đi lên, đâu là để tìm thấy ý nghĩa thực sự trong cuộc đời.

*

Nhã đứng dưới gốc cây vông đồng già nhìn hút theo con đường lớn. Ngày còn nhỏ, Nhã thường đứng ở đây chờ ba mẹ đi làm về. Quà của ba khi là trái cứt lợn to bằng nắm tay màu đỏ rực rỡ, vỏ cứng như gỗ, khi là khúc dây leo ở trong có tổ của một con cánh cam óng ánh xanh đỏ tím, khi là tổ bọ ngựa, hoặc chú dế than hung hăng. Đến bây giờ thằng Út cũng nhận được những món quà như thế làm đám trẻ trong xóm thích mê đem hết quà bánh ra gạ đổi hoặc chơi chung. Nhã cúi xuống gỡ cọng cỏ bám ở chân. Những lá cỏ là rau thơm, mướp đắng, lá cải… chơi bán hàng ngày xưa. Những lá cỏ nằm trong lon đựng đất có con dế đá gáy inh ỏi.

- Chị Nhã! Chị Nhã!

Thằng Út chạy tắt qua những khoảng cỏ, nhấn vào tay Nhã một hộp giấy.

- Cho chị, con dế chiến nhất của em đấy. Em cứ tưởng hè chị về sẽ ở lại chơi lâu với em. Chị mang nó theo chơi, em tìm con khác.

Nhã đưa hộp giấy lại cho thằng Út.

- Út nuôi giùm chị đi, trên thành phố không có cỏ cho nó ăn đâu.

- Không có cỏ? – Mắt nó trợn lên – Ở đâu mà không có cỏ?

- À… Có, nhưng mà cỏ trồng. Với lại chị phải đi làm không trông nó được. Út giữ cho chị đi.

Đi thật xa, quay lại vẫn thấy cái dáng bé nhỏ của nó dưới gốc vông đồng. Sau lưng thằng Út, phía sau cây vông già, bãi cỏ mênh mông. Những lối mòn ngoằn ngoèo. Những ngôi nhà lúp xúp. Mặt trời đã mọc. Những tia nắng sớm lan trên ngọn vông già. Bãi cỏ ngập nắng sớm và sương.

"Tạm biệt! Tạm biệt xóm nhỏ bình yên, tạm biệt nơi mặt trời mọc."

Nhã quay lưng, tiếp tục đi theo con đường lớn…

Gia Kiệm 9-5-2001

Miền đất xương rồng

Xe xuống đèo khá nhanh. Sau mấy khúc quanh cùi chỏ, vài đứa con gái nôn thốc nôn tháo. Không khí trên xe im lặng hẳn. Hơi nóng phả vào rõ dần. Từ trên đèo đã có thể nhìn thấy con đường quốc lộ chạy ngoằn ngoèo giữa vùng đất Ninh Thuận. Nhìn lên cao, hai ống kim loại sáng lấp lóa bên sườn núi chảy dài xuống mềm mại.

Hoài bắt đầu thấy nôn nao khó chịu. Hai bên đường trống trải dần. Màu đất khô cằn, chỉ có những lùm cây dại đầy gai góc. Sự thay đổi khí hậu từ cái lạnh của Đà Lạt buổi sáng sang cái nóng khô khốc của Ninh Thuận làm mọi người bị sốc. Gần đến Phan Rang, đất hai bên đường càng sốt lên vì nắng. Đất hoang nối tiếp đất hoang. Cảm giác như mặt đường cong vênh lên dưới cái nắng gay gắt.

Xe qua thị xã, chạy về làng quê của Trung. Những cánh đồng lúa hai bên đường xanh mát. Trên xe ồn ào trở lại. Mọi người tươi tỉnh hát nghêu ngao bài hát mừng lễ Katê bằng tiếng Chăm.

- Sắp tới làng rồi! – Trung lên tiếng khích lệ.

Từ xa có thể nhìn thấy "cổng làng" vừa mới dựng lên bằng tre, gỗ, dán giấy màu trang trí. Hàng chữ bằng tiếng Chăm nổi bật nằm ngang cổng. Một đám đông đang tụ tập trước cổng. Khi xe chạy qua, đám sinh viên hát toáng lên. Người dân địa phương nhìn theo với đôi mắt lặng lẽ. Qua khỏi cổng một đoạn, một con kênh đục mờ vắt ngang qua đường. Đám con trai inh ỏi đòi dừng xe xuống tắm. Hai người đàn bà để ngực trần đang tắm dưới kênh ngẩng lên nhìn theo với con mắt thoáng vẻ tò mò, vẫn là nét gì đó rất lặng lẽ, cam chịu.

Xe chạy theo sự hướng dẫn của Trung,  ngang qua một bãi đất rộng, rẽ vào con đường lớn là đến. Nhà của Trung khá khang trang so với những căn nhà ở đây, nhưng nó nhỏ, chỉ đủ cho đám sinh viên chen chúc vào chào hỏi xong là phải ra ngoài ngay. Mọi người bắt tay vào chuẩn bị cho bữa cơm trưa. Hoài ra giếng rửa mặt. Em gái của Trung đang ngồi giặt khăn, kéo gàu nước lên cho Hoài. Thấy đám con trai lấy thùng đi gánh nước, Hoài ngạc nhiên:

- Nhà có giếng sao lại phải đi xách nước ở đâu nữa vậy Dung?

- Giếng phèn, không nấu ăn được chị ạ.

Dung lén nhìn Hoài. Nó thấy chị Hoài đẹp, vẻ đẹp lạ lẫm. Mấy chị sinh viên vừa xuống nhà nó ai cũng đẹp, nhanh nhẹn, liến thoắng, khác hẳn những gì nó từng thấy, hơn cả những gì nó có thể tưởng tượng ra khi nhận thư của anh Trung báo tin sẽ dẫn lớp về chơi tết.

Hoài vào bếp. Thủy đang loay hoay bên bếp lửa cháy hừng hực.

- Trời ạ, muốn cháy theo luôn!

Hoài ca cẩm rồi chui tọt sang chái bên cạnh. Cánh con gái đang sửa soạn đồ ăn. Hoài nhảy lên phản tre định với lấy rổ rau. Rẹc… rẹc… Hai chú heo con đột ngột phóng ra từ dưới phản gây nên trận cười ngả nghiêng.

- Có ai biết nhà vệ sinh ở đâu không?

- Ngoài đồng chứ đâu.

- Giỡn?

- Thiệt, không tin hả? Ai mà thèm giỡn lúc này. Nhập gia tùy tục, ở đây muốn thì "ra đồng".

Mọi người ỉu xìu. Nhặt được vài cọng rau, Hoài bỏ ra ngoài. Cô chúa ghét chuyện bếp núc, trời lại nắng và nóng đến phát điên.

Chiếc xe nằm phơi ngoài cổng. Bình thường chẳng ai nghĩ đến chuyện trốn nóng trên xe nhưng lúc này đó là nơi tốt nhất. Vài đứa con trai đang chơi bài trên xe cộng thêm một lũ nhóc la hét, nhún nhảy trên ghế. Hoài leo lên cabin ngả chiếc ghế nằm ra. Nằm nghỉ một chút thấy dễ chịu hơn, Hoài đưa mắt nhìn chung quanh. Nhà trong làng hầu hết được xây bằng gạch, lợp mái ngói nhưng khá nhỏ. Hàng rào được đan bằng những cây rừng dẻo và đầy gai. Quần áo phơi đầy trên rào. Đường trong làng rộng, đất tơi xốp, có lẽ là loại đất pha cát. Những con heo bụng thõng thượt đi lại ung dung trên đường. Trong sân nhà Trung cũng có ba bốn con đang nằm ngủ. Cách đầu xe vài mươi thước, hai đứa trẻ ngồi ngay bên đường thản nhiên làm "công việc đào thải". Những con heo ụt ịt sau lưng chờ đợi. Đám trẻ và đa số người lớn đi qua đều đi chân đất. Hoài rùng mình, thấy nhồn nhột ở gan bàn chân như bị giun móc bám vào.

Phía xa, gần cuối con đường có một đám đông, nghe được cả tiếng trống chiêng. Hoài quay xuống hỏi mấy đứa nhỏ. Chúng giương mắt nhìn không trả lời.

- Tụi nó không hiểu kịp đâu. Chị hỏi thằng nhóc này này, nó hiểu được nhưng mà nhát nói lắm.

Hưng ngưng đánh bài, chỉ cho Hoài thấy thằng nhóc đứng gần cửa xe. Hoài vừa hỏi, nó nhe răng cười rồi nhảy xuống xe chạy mất.

- Ở dưới đó có cái đền, chút nữa đoàn mình xuống dự đám rước ở đấy. Chị muốn đến xem trước không? – Hưng rủ Hoài đi.

Không khí ngoài đền thật náo nhiệt. Khách du lịch, khách nước ngoài, phóng viên… đứng quanh đền, co cụm ở những nơi có bóng mát. Một thanh niên trẻ trèo lên cây cột trước đền, cố chụp những bức ảnh thật bao quát. Vài cô gái trạc tuổi Hoài đang hí húi ghi chép, cũng máy ảnh, cũng áo gilê đầy túi, chắc là phóng viên tập sự. "Nóng thế này mà phải mặc kiểu ấy thật đúng là kinh khủng!" – Hoài lầm bầm. Cô trèo qua bờ tường thấp của đền, cố gắng lách đám đông để nhìn vào trong.

Một nhóm người Chăm đang ngồi khoanh chân im lặng trong ngôi đền nhỏ. "Sao giống như lò bánh mì thế này mà chịu nổi?" – Hoài buột miệng thương cảm. Cô nhảy trở ra, tìm một chỗ mát đứng quan sát. Một người đàn ông mặc y phục Chăm đứng bên cái trống lớn trước đền, đánh những hồi trống đều đặn. Cờ xí. Máy ảnh chớp lia lịa. Camera… Có thể dễ dàng nhận ra khách đến còn đông hơn người dân địa phương.

Sau bữa cơm trưa, đám con gái đòi đi tắm để chuẩn bị dự đám rước. Trung nói ở đây người ta tắm ngoài con kênh đầu làng. Hoài bật cười nhớ đến mấy chú heo dầm nước dưới kênh lúc nãy khi xe chạy qua. Chẳng còn ai thiết tha đến chuyện tắm rửa nữa. Cánh con gái lôi ra những tà áo dài nhăn nhúm. Không có điện, không có bàn ủi. Thủy nhất định bắt mặc cho nghiêm trang. Hoài trốn ra ngoài đền trước. Cô không có đủ can đảm mặc áo dài trong hoàn cảnh như thế này.

Gần đến giờ, người dân địa phương kéo tới đông hơn. Hoài nhìn thấy những cái quần tây dưới lớp áo trắng của đàn ông. Cái nắng ở đây hun đốt mọi thứ, thành ra con người cũng héo khô, sậm màu. Những đôi dép nhựa mới làm lộ màu da chân đen đúa, chai sần. Hoài nhìn hút theo những dáng đi lầm lũi, tất tả. Ở họ toát ra vẻ cam chịu, lặng lẽ, bé nhỏ. Hoài nghĩ mông lung: liệu họ có cảm thấy cuộc sống khó khăn không? Có mặc cảm thua kém không? Có lẽ họ chấp nhận những gì cuộc sống dành cho họ. Lớp trẻ như Hoài có cái nhìn về cuộc sống chỉ ở mặt nào đó khá đơn giản. Hoài chợt nhớ đến Diệu, đến Phương, đến Chân, những người bạn Chăm cùng lớp lúc nào cũng trầm trầm ít nói. Hoài cho rằng họ thụ động, nhưng thật ra Hoài có hiểu được họ chưa? Lần liên hoan tiếng hát sinh viên của khoa, Hoài không chấm điểm cao cho Phương. Anh Tuấn trưởng ban giám khảo quyết định chấm giải cho Phương. Hoài hỏi lý do, anh Tuấn nói vì Phương là người Chăm, được cộng điểm ưu tiên. Khi ấy anh Tuấn đã ba mươi còn Hoài chỉ mười bảy tuổi. Bây giờ thì Hoài đã hiểu được phần nào.

Đám rước y trang đi qua cổng làng. Những sinh viên lớp Việt Nam học đi rất nghiêm chỉnh sau võng rước. Hoài lẫn vào đám du khách theo sau. Đến một bãi đất trống, đám rước dừng lại chờ người anh em Raglai từ trên núi xuống chuyển y trang. Hoài tranh thủ hỏi han, ghi chép về phục trang, khăn trên đầu, màu sắc tua, quy định, địa vị của người Chăm như thế nào, nhưng không mấy thích thú vì những điều này cô có thể hỏi thầy hoặc tham khảo qua sách vở. Hoài chuyển qua hỏi những cảm nhận của từng người về tết Katê, về những tết trước đây. Thấy Hoài nói chuyện say sưa, những phụ nữ Chăm cởi mở hơn. Họ thích nụ cười thân thiện của Hoài. Một thanh niên bắt chuyện. Hoài nhận ra là người thanh niên trèo lên cây cột trước đền lúc nãy. Anh ta tự giới thiệu là hướng dẫn viên du lịch.

- Em là phóng viên đang thực tập phải không?

- Không có, em là sinh viên ngành Việt Nam học.

- Ủa, ngành này nghe lạ quá ta, chắc là ngành mới hả em?

- Khóa của em là khóa đầu tiên. Bữa nay em đi ké tụi khóa sau xuống dự lễ mừng tết của người Chăm. Tụi nó đang đứng gần kiệu kia kìa.

Người thanh niên đưa cho Hoài tấm danh thiếp rồi tạm biệt. Hoài thôi không ghi chép, ngồi bên cạnh những người dân địa phương xem đám rước. Những năm gần đây tết Katê được báo chí nhắc đến khá nhiều. Hoài muốn được tận mắt xem lễ hội này.

Bãi đất trống dừng kiệu có những vũng sình đọng lại. Những đứa trẻ nhốn nháo. Vài ba người đàn ông cầm roi rượt chúng chạy toán loạn. Những con heo nái và đám heo con quanh quẩn giữa những vũng sình. Hoài chau mày dưới cái nắng. Đám rước trông thật hỗn độn. Đám du khách, phóng viên càng làm nổi rõ sự cách biệt những cuộc sống khác nhau. Hoài thoáng hiểu vì sao những người bạn Chăm trong lớp Hoài thường hay im lặng.

Đám rước về. Hoài dừng lại ở cổng làng. Hội chợ mừng tết chỉ có những mảnh giấy trải dưới đất và từng nhóm người bao quanh. Những con xúc xắc và những trái bầu cua lật đật trong tay những phụ nữ, trẻ nhỏ cầm cái. Không thấy đàn ông cầm cái nhưng người chơi thì đủ cả già trẻ trai gái. Những chiếc xe bán đồ chơi bằng nhựa màu sắc rẻ tiền thu hút đám trẻ con đứng nhìn. Chúng hào hứng hơn với những chiếc xe bán nước sirô xanh xanh đỏ đỏ. Chúng có thể mua những bịch đá bào tẩm màu ấy, còn đồ chơi thì không đủ tiền mua. Khi Hoài về bãi đất trống trong làng, đám múa đã bắt đầu từ bao giờ. Những cô gái mặc trang phục xanh, hồng đứng khắp bãi đất rộng, nhún theo những nhịp đều đều. Người xem tạo thành một vòng rộng vuông vắn. Hoài kiễng chân nhìn vào. Một lúc lâu vẫn chỉ thấy những điệu múa đơn giản như nhau, Hoài vừa đi quanh vừa xem, rồi chợt cười một mình. Ở mảnh đất lạ này cô tha hồ vừa đi vừa ghi chép cũng chẳng ai cho là "dị", mà có nói cũng chẳng biết. Bất chợt thấy nóng sau gáy, Hoài ngẩng lên, bắt gặp những đôi mắt nhìn mình chăm chú. Quê quê, Hoài vội vã đi về nhà Trung.

Bữa cơm chiều khá muộn. Hoài bỏ bữa, uể oải leo lên xe ngồi. Mọi người ngồi ăn ngoài sân, những con heo õng bụng đi vòng vòng sau lưng, nhìn ngộ nghĩnh. Đêm có văn nghệ, đám sinh viên kéo nhau đi xem. Hoài đi sau, vừa tới bãi đất trống, mưa nhỏ giọt. Cô chạy về leo lên xe nằm ngủ. Đêm. Trời vẫn hầm hập nóng. Hoài thở dốc, người bừng bừng.

Dung ngồi bó gối trước nhà nhìn ra xe. Nó biết Hoài ngoài ấy nhưng không dám ra. Dung thích Hoài từ lúc thấy cô trốn ra ngoài đền không chịu mặc áo dài. Trong khi những chị sinh viên nghiêm trang trong bộ áo dài, nó thấy Hoài thoải mái áo thun trắng bỏ trong quần jean len lỏi khắp nơi. Dung thầm quan sát Hoài, lúc Hoài hỏi han ghi chép, lúc Hoài dừng lại ở hội chợ, nhìn ngó, mỉm cười, lúc Hoài đứng trên sân banh xem múa… lúc nào ở Hoài cũng có vẻ cuốn hút ấy. Dung biết không chỉ có nó mà còn nhiều người khác cũng chăm chú nhìn Hoài dù cô không đẹp như chị Lan, chị Hạnh trong làng. Nó bỏ cả buổi ca nhạc chỉ để thấy Hoài mờ mờ trong đêm. Dung nghĩ đến một ngày nào đó nó sẽ giống như Hoài, như những chị sinh viên mà nó đã gặp. Hoài sẽ nói chuyện với nó, sẽ cười – Dung rất thích nụ cười ấy. Đôi mắt Hoài không đẹp, nhưng ánh mắt của cô có sức mạnh kéo những ước mơ của Dung bay bổng. Nụ cười và ánh mắt của sự tự tin.

Đêm. Những sinh viên nằm ngủ trong nhà, ngoài hiên, trên xe. Muỗi làng Chăm hiếu khách nên không ai ngủ yên được. Vài lần Hoài giật mình dậy vì tiếng đập muỗi đôm đốp trên nóc xe, thấy bên cạnh mình một khoanh nhang muỗi đang cháy.

Sáng hôm sau xe chạy trở ra tháp Poklong Giarai dự lễ mừng tết Kate. Thủy đề nghị mọi người xếp hàng dọc đi lên tháp. Hoài mệt mỏi ở lại xe, tự hỏi không biết rồi có giữ được cái trật tự thẳng thớm ấy không. Rất nhiều người Chăm đổ về dự lễ. Cái nắng gay gắt dịu đi trong những màu áo trắng, xanh da trời, hồng nhạt. Hoài nhìn lên. Những ngọn tháp nổi bật trên ngọn đồi khô cằn đầy cây xương rồng. Những bông hoa xương rồng căng mọng. Đám sinh viên dừng lại bên tảng đá gần cổng tháp, hí hoáy ghi chép. Hoài định lúc nào bớt mệt sẽ lên. Cô lật sổ tay, viết những dòng chữ méo mó: "Có những điều không ghi hết được, có những điều không thể viết ra được, có những thứ phải nhìn thấy mới biết, mới hiểu, mới cảm thông, mới hy vọng".

Hoài thiếp đi trong cơn sốt, với những bông hoa xương rồng đỏ rực. Nắng vẫn chói chang, bỏng rát.

14-3-2000

Mưa lạnh

7 giờ. Xe bắt đầu chuyển bánh. Đám sinh viên trên xe hò hét inh ỏi. Hơn hai mươi người ngồi đối mặt nhau trên hai tấm gỗ dài kê song song thành xe, ai cũng tươi cười hớn hở. Phi – người phụ trách văn nghệ rất năng nổ – bắt nhịp những bài Đoàn ca hào hứng.

- Tuổi trẻ có khác!

Bác tài xế già lắc đầu cười. Anh vâng dạ, trong lòng nửa mừng nửa lo.

Xe xuống thị xã Bảo Lộc, nhận gạo chất đầy trên thùng xe. Trời kéo vài đám mây u ám. Mọi người lo lắng vì không mang theo bạt che. Phụng vào chợ mua bánh mì cho mọi người ăn thay bữa cơm trưa.

- Khỏi mất thời gian dừng lại ăn cơm, mình đi thẳng vào đó luôn kẻo mưa.

Anh rời cabin xuống ngồi cùng với cánh trẻ, ngất ngưởng trên những bao gạo.

- Cẩn thận, bao nylon trơn trượt dễ ngã lắm nghe chưa, tụi em phải ráng mà giữ chặt nhau. Bây giờ là bắt đầu mấy chục cây số đường rừng, không giống như ngoài quốc lộ đâu đấy.

Những cô gái phá lên cười, ngồi dính chùm ở gần đầu xe. Khánh, cô sinh viên nhỏ tuổi nhất nhảy lên gần cuối, nét mặt bướng bỉnh. Anh biết Khánh từ khi cô mới vào trường. Lúc ấy trường chưa có câu lạc bộ nào. Năm ấy lượng sinh viên vào trường tăng lên rất đông do nhà trường vừa được bộ cho phép đào tạo theo bảy chương trình. Khánh mới chân ướt chân ráo vào trường đã tự đứng ra thành lập Câu lạc bộ sáng tác và hoạt động công tác xã hội, thu hút một số lượng lớn sinh viên tham gia. Có lẽ vì vậy nên cô là một trong bốn sinh viên của khoa Đại cương được cử đến trong chuyến đi này. Các sinh viên có mặt trong chuyến đi đều đang hoạt động trong ban chấp hành Đoàn các khoa nên đều quen nhau. Anh hơi ngạc nhiên và khó chịu khi thấy Khánh có vẻ không biết người trong đoàn. Khánh không đẹp, chỉ có sự tự tin, trung thực trong đôi mắt, lời nói, cử chỉ là nét chinh phục mọi người. Cô hòa đồng rất nhanh.

Đường đi ngày càng gập ghềnh. Chiếc GMC không mui chậm chạp lắc lư. Những rừng thông ven đường thưa dần. Hai bên đường rải rác những lùm cây dại nở hoa tím hồng.

- Hoa sim, hoa sim kìa!

- Tầm bậy, hoa mua đấy bà!

Lại tranh cãi. Anh bật cười giải thích: cây mua gần giống cây sim nhưng hoa to đẹp hơn, trái mua giống trái sim nhưng không ăn được vì đầy lông cứng. Bình với tay giật được một nhánh hoa, hể hả dứ dứ vào Phụng:

- Nhìn rõ vào, đây là hoa mua chứ không phải hoa… bán nghen.

Một chiếc xe chở gỗ đi ngược ra. Chiếc GMC dừng sát vào bên đường. Bụi đỏ cuốn tung mù mịt. Không thể nhìn thấy gì. Bác tài xế phải chờ một lúc mới thấy đường chạy tiếp. Mặt đường lồi lõm từng hố sâu. Có lúc cả hai bên đường đều là vực. Những sinh viên nữ sợ hãi, mệt mỏi ngồi im thít.

Đến một con suối nhỏ, xe dừng. Người tài xế già đợi mọi người rửa mặt xong dặn dò:

- Sắp đến đoạn đường khó đi, mấy cháu phải cẩn thận với đám tre nứa rừng hai bên đường, coi chừng bị cứa cổ. Đã có người bị rồi chứ không phải bác nói chơi đâu.

Mọi người lên xe. Những bao gạo chất đầy nên chỗ an toàn duy nhất là trong ca bin nhưng chẳng có ai buồn dành chỗ. Hậu đứng ngay sau đầu xe làm nhiệm vụ báo động. Xe bắt đầu lên dốc, vừa bò vừa nhảy xốc lên. Những ngọn tre, nứa rừng hai bên đường rũ cành, thòng ngọn xuống tạo thành một vòm tua tủa đầy lá, gai góc.

- Báo động, địch đánh!

Hậu la lên. Tất cả nằm úp xuống những bao gạo. Cành lá, gai góc quất vào đầu xe, quất qua lưng những sinh viên trẻ rào rạo. Khánh ngồi gần cuối, bị quét trôi xuống. Những người ngồi trên chụp tay Khánh ghì lại. Qua đợt "rải thảm" đầu tiên, mọi người hoàn hồn nhìn nhau, cố gắng tìm một chỗ ngồi chắc chắn hơn. Khánh vẫn bướng bỉnh ngồi chỗ cũ. Một chiếc xe chở gỗ chạy ra. Mấy người ngồi trên xe gỗ chỉ trỏ. Khi hai bên chạy ngang nhau thì không còn nhìn thấy gì, chỉ nghe tiếng hét vọng qua:

- Cẩn thận kẻo bị nứa cắt cổ đấy anh em ơi!

Xe vẫn ì ạch lên dốc. Lại "địch đánh!", đánh liên tục, có khi vừa ngẩng lên chưa kịp nhìn ngó đã phải vội vàng thụp xuống, gai góc cành lá quật rát trên lưng. Độ dốc khiến Khánh phải bám chặt lấy các anh chị để không bị trôi xuống.

Xe gần đến Lộc Bắc thì một chiếc Mêkông vượt lên. Thầy hiệu phó chuyền bánh ngọt qua xe cùng những lời động viên. Mọi người phấn chấn hẳn.

Đến được Ủy ban nhân dân xã, đám sinh viên nhuộm màu đất đỏ, tóc vàng quạch, xơ xác vì bị nứa quất. Những bao gạo màu trắng đã phủ một lớp bụi đỏ như rây bột, in rõ những dấu chân. Chỉ có ít sách vở, quần áo, quà tặng để trong ca bin là thoát bụi. Người này nhìn người kia, phá lên cười, giễu cợt chán rồi kéo nhau ra giếng khoan trước Ủy ban xã rửa mặt.

Đang ngồi nghe phát biểu, phát hiện ra thiếu Khánh, anh vội ra ngoài tìm. Bên sân trường học cạnh xã, một đám trẻ con vây quanh một khung cửa sổ. Anh đến, thấy Khánh đang ngồi trong lớp với đám học sinh. Cô giáo trẻ nhìn ra, thấy anh liền mỉm cười. Lớp được ra sân sinh hoạt. Học trò vùng núi nhút nhát. Chỉ một thoáng sau, sự nhiệt tình của Khánh cùng những lời khích lệ của cô giáo đã giúp chúng năng động hẳn lên. Những trò chơi tập thể vui nhộn. Tiếng cười giòn tan núi rừng.

Thấm mệt, cô giáo trẻ đến bên cạnh anh ngồi nhìn lũ học trò chơi đùa. Anh trò chuyện, biết tên cô là Tuấn Khanh, gốc người Sài Gòn, mới chuyển về thị xã Bảo Lộc cùng với gia đình và được phân công vào dạy học ở Lộc Bắc. Ngay hôm đầu tiên đặt chân đến vùng đất heo hút này cô đã hoảng hốt đòi về. Chuyến xe trở ra bị pan. Ngủ lại ở Lộc Bắc một đêm, cô thay đổi suy nghĩ, quyết định ở lại với rừng núi. Hình ảnh những đứa trẻ sợ sệt, tò mò bám theo cô cứ ám ảnh suốt đêm. Không có thầy cô giáo người Kinh nào chịu ở lại đây. Những giáo viên người dân tộc lại không có trình độ học vấn cao. Cô thầm nghĩ: phải có một sự thay đổi nào đó cho những đứa trẻ ở đây, cho tương lai của chúng, tương lai của bản làng. Cách duy nhất cô có thể giúp là ở lại dạy học. Cũng giống như nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng cao khác, giáo viên phải đi tìm học trò. Học trò đi học theo mùa vụ, không quan tâm đến những quy định chung của sở. Càng học lên cao, học trò càng ít dần.

- Ở đây thiếu thốn đủ thứ, nhưng mà khổ nhất là thiếu thông tin, thiếu món ăn tinh thần. Thèm đọc báo lắm anh ơi!

Cô Tuấn Khanh rất xinh xắn, lại dịu dàng. Anh day dứt một điều mà không dám hỏi. Thời buổi chiến tranh, có bao nhiêu người con gái đã hy sinh tuổi xanh của mình. Còn bây giờ đang thời bình, người ta thường sống với những khát vọng thực tế. Ngọn lửa của tuổi trẻ không bao giờ tắt, nhưng chúng cháy theo những cách riêng của mình.

Anh đưa Khánh về Ủy ban. Khánh im lặng đi bên cạnh.

- Giận anh hả? Tại vì trời sắp mưa rồi…

- Không phải, em đang nghĩ về nơi này. Tại vì hồi sáng đi, em nghĩ mình sẽ thấy nào là nhà sàn, cồng chiêng, thổ cẩm, rượu cần. Em có đến bản làng dân tộc bao giờ đâu, chỉ xem báo xem đài rồi tưởng tượng thế thôi. Đến khi vào đây thì vỡ mộng, chỉ thấy rừng và rừng, vài ba khu nhà cũng bằng lá rừng. Trẻ con không biết tiếng Kinh. Tụi nó sợ em như sợ ông kẹ. Em đưa kẹo tụi nó cũng chẳng thèm, cứ vừa đến gần là chúng xô nhau chạy. Lúc em đến trường, may mà có cô Tuấn Khanh mời em vào lớp chơi chứ những lớp kia họ chỉ nhìn em. Lớp cô Tuấn Khanh là lớp lớn nhất trường mà tụi nó cũng chẳng dám nói gì, chỉ cười rồi lắc, rồi gật. Anh nhìn tụi nhóc kìa.

Anh nhìn theo hướng Khánh chỉ. Một đám trẻ con trần truồng đang đứng nhìn. Đứa nào cũng đen đủi còm cõi, chỉ có cái đầu và cái bụng là to ỏng ra.

- Ở đây người dân tộc chỉ mới định canh định cư được vài năm thôi Khánh ạ.

- Họ có ra ngoài thị xã không anh?

- Anh không biết, nhưng mà chắc là không, hoặc chỉ là một số ít muốn mua bán trao đổi gì thôi. Họ không có nếp sống như người Kinh nên nhu cầu họ cũng khác mình.

- Em hy vọng là thế.

Về đến xã, trời lất phất hạt mưa. Mây kéo đen kịt. Mọi người vội vã nhảy lên xe. Bên Ủy ban nhờ đưa gạo về kho ở lâm trường. Đây là nơi duy nhất trong xã có một khu hội trường được xây dựng khang trang. Đoàn sẽ nghỉ đêm tại đây.

Chiếc GMC quay ngược trở ra. Mưa nặng hạt ngay khi xe vừa chạy được một đoạn. Cơn mưa rừng đổ xuống xối xả, lạnh buốt. Mọi người dầm mưa chuyển gạo vào kho. Lúc này cơn đói đã cồn cào, vừa mệt vừa lạnh, chuyển đồ xong đám nam sinh viên nằm lăn ra trên những bao gạo bê bết đất đỏ quạch. Những cô gái sửa soạn đồ nấu cơm. Hỡi ôi! Gói thịt tranh thủ mua ngoài thị xã ban trưa đã rơi mất từ lúc nào.

Người nghỉ, người tắm rửa, người nấu nướng. Bữa cơm dọn ra, mọi người lập tức sà vào không đợi phải gọi mời.

- Úi trời ơi, món gì lạ vậy?

- Đặc sản rừng núi đó cha, ăn đi, hỏi nhiều quá hết phần bây giờ.

- Ê, biết rồi! Món này là mít non.

- Ăn ngon không? Sao nhăn mặt mà ăn nhanh quá vậy ta?

Bữa cơm canh suông, ai cũng ăn ngon lành. Tiếng húp xì soạt. Tiếng cười trong veo. Hình như chẳng còn ai thấy mệt mỏi. Ăn xong, mọi người tranh thủ tập hát. Phi bật cười ha hả:

- Tui chưa bao giờ nghe đồng ca kiểu này hết, có nhiêu đây người mà tới sáu bảy bè, kinh khủng quá!

- Thôi đi anh Phi ơi, tụi này là dân văn gừng văn tỏi chứ có phải là dân văn nghệ đâu.

- Ông cứ chê đi, có ngon kêu lính của ông vào đây. Ở đây chất lượng kém nhưng nhiệt tình thì không ai bằng đâu nghen.

Cơn mưa rừng đã dứt. Anh nghe tiếng ếch kêu nên bước ra ngoài ban công.

- Ủa, Khánh, sao không vào tập hát mà đứng ở đây?

- Anh coi nè, hồi chiều em đứng trên đây chỉ thấy có mấy nóc nhà, còn thì toàn là lá với cây, vậy mà bây giờ thấy quá chừng ánh đèn luôn, đủ mọi phía. Họ đến lâm trường xem văn nghệ với giao lưu chắc?

- Nghe ếch kêu ham quá định đi bắt – Anh tặc lưỡi – Nhưng mà thế này thì phải ở lại rồi.

Khánh reo lên, nằng nặc xin đi cùng. Anh hẹn biểu diễn văn nghệ xong sẽ đi. Đến mục sinh hoạt, anh đốt đống lửa xong liền kéo Bình đi soi ếch. Anh không muốn dẫn Khánh đi vì sợ đêm trong rừng núi lạ, lỡ có chuyện không hay, huống gì Khánh là dân thư sinh chưa từng lội sình lội ruộng. Vậy mà mới tìm ra vũng sình, bắt được một con ếch, đang lội bì bõm, anh nghe tiếng Khánh la lên. Không ngờ cô dám cả gan đi tìm anh. Anh cười xòa, đền cho Khánh con ếch. Khánh giật lùi:

- Nó có cắn không?

Mọi người phì cười. Khánh bặm môi cầm thật. Anh cảm nhận rất rõ cái rùng mình của Khánh khi chạm vào con ếch. Chợt có ánh đèn pin. Bình và hai thanh niên người dân tộc xách một xâu ếch đi lại.

- A, té ra là anh Bình trốn văn nghệ để đi bắt ếch – Khánh reo lên – Sao mà bắt giỏi vậy?

- Hai anh này chĩa chứ anh mà bắt được gì.

- Cây đèn pin… tặng người ta mà anh dám lấy xài trước nghen, hèn gì hồi nãy em thấy thiếu một cái.

- Em cũng lấy kìa. Tí về anh lau sạch rồi trả lại, không sao đâu.

Về đến lâm trường, đã 2 giờ sáng. Điện đóm tắt ngóm vì máy phát điện đã hết dầu. Hai người trong đoàn đang ngồi nói chuyện với vài thanh niên địa phương bên đống lửa. Mùi khoai nướng thơm lừng. Mọi người hăm hở cời khoai ăn. Một thanh niên đứng dậy bỏ đi, một chốc sau quay lại với bụi khoai mì trên tay.

- Hồi nãy có rượu cần, không thấy anh chị. Khoai mấy anh chị kia ăn gần hết rồi.

- Có món này đặc biệt, chị ăn thử.

Một người nhịp nhịp cái que dài mềm mềm bị nướng cháy sẹm trên than, đưa ra, cẩn thận bóc lớp vỏ cháy, lộ ra một lõi trắng ngà nhuộm khói. Khánh cắn thử, kêu trời:

- Đắng quá là đắng!

Anh nhận ra đọt mây nướng.

- Khánh nuốt xong sẽ thấy ngọt ngay.

Khánh gật đầu. Vị ngọt giống như đường phèn đọng lại trên lưỡi. Cô cầm đọt mây chạy lên hội trường, nơi mọi người đang ngủ. Không ai còn thức. Mọi người nằm trên sàn gạch, cuộn tròn trong những manh áo ấm. Đêm ở rừng núi lạnh buốt. Có lẽ thấm mệt nên mọi người nhanh chóng thiếp đi cho một giấc ngủ ngắn ngủi.

*

Sáng, trong lúc mọi người chuẩn bị bữa điểm tâm anh lại phải đi tìm Khánh. Anh lo cho cô sinh viên hiếu động. Ở dây nhà cửa thưa thớt, vắng vẻ. Anh gặp Khánh ngay chỗ con suối nhỏ khi đi theo con đường chính dẫn đến Ủy ban. Khánh nói vừa tranh thủ chạy lên trường tặng cô Tuấn Khanh vài quyển sách. Dự định gặp Khánh sẽ "la cho một trận" tan mất, anh trách Khánh sao không rủ anh cùng đi. Khánh liền rủ anh ghé vào nhà một người dân tộc tìm một món đồ làm kỷ niệm. Những căn nhà ở đây đắp đất, lợp lá rừng. Trước mỗi nhà có một căn chòi nhỏ nằm trên cao, dùng để dựng lương thực, hạt giống. Khi anh và Khánh vào một nhà, sự trống trải ở đây làm cả hai lúng túng. Những chiếc giường làm bằng cây lồ ô gắn thẳng vào tường đất, không cần làm chân. Ở giữa nhà là chiếc nồi đất to đùng. Khói từ bếp lên nhuộm đen những cây lồ ô đỡ mái. Không còn một thứ gì khác. Hai người phụ nữ ngồi ôm những đứa trẻ trần truồng ngồi thu trong góc giường nhìn với ánh mắt sợ sệt. Chỉ có bà cụ ngồi ngoài nhà là có vẻ thản nhiên nhưng cũng chẳng nói gì. Khánh hỏi thăm vài câu rồi kéo anh về.

Hai anh em nói chuyện, anh mới biết Khánh không phải là đoàn viên. Vậy là lúc đầu anh đã hiểu lầm Khánh.

- Vậy sao em biết chuyến đi này mà tham gia?

- Bên khoa gửi giấy mời cho nhóm em.

- Vậy là tụi em hoạt động "phi chính phủ" rồi – Anh đùa.

- Miễn có nhiệt tình là được phải không anh?

- Vậy chứ lý tưởng sống của em là gì?

- Nghe anh nói ghê quá! Tụi em thì cứ thấy thích là làm chứ có biết lý tưởng lý tiếc gì đâu. Tính em cũng không ưa hình thức, quan trọng là mình làm được cái gì thôi.

Câu trả lời chân thật, không màu mè, sáo rỗng như anh đã từng nghe biết bao nhiêu lần trong những cuộc hội họp. Anh tự hỏi phải chăng khi anh biết đắn đo, suy nghĩ thận trọng hơn nghĩa là anh đang trưởng thành, hay là đang già đi?

Chuyến về, xe dừng lại ở rừng sim. Những đồi sim hai bên đường cuốn hút đám sinh viên năng động. Tháng tư, mùa sim chưa chín rộ và vẫn còn nở đầy hoa. Anh ngồi trên xe nhìn đồi sim, lòng rộn lên, nhưng vẫn thấy thiếu một điều gì đó để có thể đẩy chân anh vào rừng sim. Anh nhớ đến những mùa hoa sim ngày xưa. Những tiếng cười. Những khuôn mặt rất trẻ. Những hình ảnh, kỷ niệm của tuổi trẻ luôn nằm trong ký ức, không thể nào phai.

Trời lại vần vũ. Chiếc GMC trở về thành phố, mang theo những sinh viên mệt nhoài. Không ai hát nữa. Mọi người dựa lưng ngủ gục.

- Bao giờ Lộc Bắc mới bằng ngoài này anh há?

Anh lúng túng trước câu hỏi bất ngờ của Khánh.

- Có bao giờ anh nghĩ anh sẽ về công tác tại những nơi như Lộc Bắc không?

Anh giật mình. Thật sự anh chưa bao giờ nghĩ đến điều này dù anh không phải là người ngại khó.

- Còn em thì sao?

- Em rất mến và phục cô Tuấn Khanh, nhưng nếu phải hàng ngày nhìn thấy bà con sống khổ cực như vậy mà mình chỉ có thể ngồi cần mẫn dạy học chắc em chịu không nổi. Tính em thiếu kiên nhẫn mà!

Anh hiểu. Khánh chỉ mới mười tám tuổi.

- Bà con không nhìn thấy cuộc sống ngoài này nên họ chịu được, nhưng cô Tuấn Khanh thì khác, chắc là cổ cũng khổ tâm lắm.

Nụ cười và khuôn mặt xinh xắn của cô giáo trẻ hiện rõ trước mặt anh. Anh nghĩ về tuổi trẻ, về đồng đội. Tuổi trẻ của anh đã qua đi, đồng đội của anh có những người mãi mãi ở lứa tuổi hai mươi, nhưng ít ra anh và bạn bè đã có nhau, có những tình đồng chí đồng đội. Anh đã không đơn độc. Còn Tuấn Khanh…..

Vài giọt mưa rơi xuống. Vài người cựa mình, lau giọt mưa trên má rồi lại say sưa ngủ. Anh nhìn Khánh. Đôi mắt cô đăm đăm vào khoảng trời đầy mây đen. Những giọt mưa rơi lên mặt anh. Mưa cao nguyên lạnh buốt.

Gia Kiệm, 6 – 1998

Cánh bướm ma

1.

Tám tuổi, chị đứng cao bằng chẽ hai cây khế già bên giếng. Mỗi sáng, chị ngồi vật lộn với thau đồ to đùng. Tôi ngồi bên hiên nhà nhìn chị. Mọi người bảo tôi là đứa bé trầm cảm. Tôi không hiểu. Ba và mẹ đi suốt ngày. Ngoại bán rau ngoài chợ cả buổi. Chị gầy gò đen đủi, giặt xong lại phơi nắng tưới rau. Rảnh rỗi chị tìm đất sét đưa tôi ra gốc khế chơi nặn hình. Những ngôi nhà đất sét được chị tỉ mẩn gắn những chùm hoa khế nhỏ li ti.

Ngoại tôi hiền, có lẽ giống như bà tiên nhân hậu trong những câu chuyện cổ tích chị kể, chỉ có điều ngoại không có phép lạ nào. Những phần quà nhỏ nhoi của ngoại luôn dành riêng cho tôi. Tôi ăn hết một mình. Chị không khi nào thích ăn những món ấy, chị nói với tôi như vậy.

Một lần, chị đưa tôi ra giếng chỉ lên cành khế. Một con bướm to đùng gớm ghiếc bám trên cành, ít nhất mỗi cánh của nó cũng dài bằng hai gang tay tôi. Chị bám vào gốc khế trèo lên định bắt cho tôi chơi. Gốc khế to, tay chị nhỏ. Chị trượt té bổ chửng, hai cùi chỏ xây xát. Tối về, ba tát chị thẳng tay vì tội con gái mà nghịch phá leo trèo. Ngoại dặn hai chị em không được tìm bắt hay chọc phá những con bướm như vậy.

- Đó là mấy con bướm ma, tụi con đừng có dại dột nữa nghe chưa.

Ngoại kể sự tích của loài bướm ma là do những cô gái trẻ đẹp chết oan khuất hóa thành. Họ không muốn đầu thai mà muốn sống cuộc sống gia đình trần gian. Họ luôn tìm cách tán tỉnh dụ dỗ đàn ông. Đôi khi hoặc vì say, hoặc vì lơ đễnh mà họ lại trở về cốt bướm ma của mình. Tôi tin những lời ngoại kể, chị cũng vậy.

2.

Ba đi làm về trễ dần. Chúng tôi thường lên giường ngủ trước khi nhìn thấy mặt ba. Có nhiều đêm tôi bị đánh thức bởi những tiếng chì chiết, nhiếc móc giữa ba và mẹ. Tôi sợ hãi nép chặt vào ngoại. Hình như ngoại không bao giờ ngủ, bởi lúc nào tôi thức giấc ôm ngoại là ngoại cũng vỗ về tôi. Chị ngủ bên giường mẹ. Những lúc ấy tôi lo cho chị phải nằm một mình, chắc chị sợ lắm. Sáng dậy, chị lại ôm thau đồ ra giặt. Tôi hỏi, chị nói chị ngủ say không biết.

- Em sợ hả?

Tôi gật đầu.

- Em cứ nhắm mắt ôm ngoại ngủ, có ngoại chẳng có gì phải sợ hết.

Giọng điệu của chị khiến tôi cảm thấy chị lớn hơn tôi rất nhiều.

Khi tôi quen dần với tiếng cãi cọ, giấc ngủ vẫn không đến bình yên. Những tiếng động lớn luôn làm tôi giật bắn mình. Ban đầu là chiếc ấm, rồi ly, rồi ghế, chén… Mọi thứ đều bị nứt vỡ hoặc bể tan. Mẹ đay nghiến và hay kéo tóc chị: "Mày đừng có mà đổ đốn giống thằng cha mày" – "Đồ hư thân, cha nào con nấy!". Mẹ nói chị giống ba, ba mắng chị giống mẹ: "Đồ mất nết, đểnh đoảng!". Chị không thoát được những cái tát thẳng cánh, những cái xách tai đau điếng của ba.

Năm ấy chị mười tuổi.

3.

Ba đi. Mấy đêm liền, mẹ cáu gắt la mắng lung tung. Những câu nói của mẹ thật cay độc, kinh khủng, như ba là quái vật ghê tởm vậy. Tôi vừa sợ vừa ghét mẹ. Sau, mẹ chua ngoắt:

- Đi thì rảnh nợ, chả thằng nào hơn thằng nào, rồi xem. Rảnh nợ, rảnh nợ!

Chị hỏi tôi có nhớ ba không. Tôi lắc đầu.

- Em chẳng muốn thấy ba, ba về sẽ lại đánh chị nữa, em sợ lắm.

Chị nói ba đã bị một con bướm ma dụ dỗ. Chị nói chắc vì ma ám nên ba mới như vậy. Ngôi nhà lại bình yên như ngày xưa. Mẹ đi làm về trễ hơn, có khi gần sáng, có khi cả đêm không về ngủ. Chị vẫn nằm bên giường mẹ. Tôi rủ chị qua ngủ với ngoại và tôi, chị không chịu.

Tôi hay lần ra gốc khế tìm những con bướm ma. Chị phụ đem rau ra chợ cho ngoại, về thấy lại quýnh quáng đưa tôi vào nhà. Chị sợ tôi té xuống giếng. Một hôm, phát hiện ra một con bướm ma trên cao, tôi lượm sỏi bên giếng ném. Mãi mà không tới, tôi tức giận nhoài người lấy hết sức ném mạnh. Mất đà, tôi té dúi xuống. Chị vừa về đến cổng, hốt hoảng chạy lại đỡ tôi dậy. Tôi gào lên:

- Chị bắt nó cho em, bắt cho em đập chết nó đi, cái con bướm kia kìa!

Nhìn cánh bướm rách toạc, chị ôm tôi bật khóc rồi đưa tôi vào nhà. Hai chị em cùng khóc. Chị nói chị không leo được, mà ngoại cũng không cho bắt. Tôi giận đẩy mạnh vào người chị. Cái đẩy bất ngờ làm chị té lộn xuống giường, trán toạc một đường. Thấy máu, tôi hoảng, nín bặt. Chị tự tay đắp lá, không la tôi một lời.

Vết thương của chị lâu lành vì máu chị độc. Vết sẹo non đang nhuộm màu thì mẹ đi. Người ta nói mẹ đi cùng với bác Thành. Bác gái đến nhà tôi hỏi han khóc lóc hồi lâu, rồi bác đùng đùng la hét, đập phá: "Quân dụ dỗ chồng người!". Chiếc ghế ném thẳng vào góc tôi đang ngồi co rúm. Khi tôi tỉnh dậy chỉ thấy chị và ngoại đang ngồi mếu máo bên cạnh.

4.

Tôi bắt đầu thấy nhớ, thấy thiếu. Ngôi nhà nhỏ im lặng khủng khiếp. Tôi hay lần ra giếng nhìn lên cây khế. Chị không bắt tôi vào nhà nữa. Chị lại tìm đất sét cho tôi, nhưng chị không cùng ngồi nặn mà loay hoay nấu nướng, quét dọn, tưới rau… bận rộn cả ngày. Tôi nắn những con búp bê bằng đất. Buổi tối, tôi đem ra khoe chị. Chị chỉ từng con:

- Con này là em đúng không? Nó ngồi trông dễ thương quá. Còn con gù cong cong này là ngoại, vậy con nào là chị?

- Con này.

Tôi chỉ vào một con rồi quơ tay túm hai con còn lại bỏ ra sau:

- Dư hai con.

Chị nhìn tôi rất lâu.

Chị bắt đầu tập leo cây. Cái thân hình loắt choắt gồng lên đu đeo bên gốc khế lâu lắm mới trèo lên chẽ ngang dược. Chị hái khế cho bà bán. Tôi cứ ngóng lên mỗi khi chị trèo cây.

- Chị kiếm coi có con bướm ma nào không?

- Không có đâu.

Tôi ngồi thần người ra. Lúc nào cũng không có. Những con bướm ma đi đâu hết, có lẽ chúng không muốn tìm đến ngôi nhà này nữa.

Một chiều, chị reo lên, chạy nhào vào nhà. Trên tay chị là một con bướm ma đang vùng vẫy.

Em xem này, xem này!

Chị bỏ con bướm vào lồng tre, mang ra hiên. Tôi ngồi bên háo hức nhìn. Rồi tôi phụng phịu khi thấy con bướm đã rách từng mảng cánh.

- Thôi mà, em xem nó đã đời đi rồi hai chị em mình cùng đập chết nó.

- Không! – Tôi hét lên – Không đập chết nó đâu, em nuôi nó.

Đêm, tôi không ngủ, mắt hướng về lồng bướm. Lâu thật lâu, tôi cảm thấy thật tò mò khó chịu. Tôi ngồi dậy mò ra mép giường. Con bướm đập cánh mạnh một tiếng. Tôi hớn hở nhào tới, té lộn xuống. Dây mùng đứt tung. Chị từ giường bên chạy qua đỡ tôi dậy. Ngoại và chị cuống cuồng xuýt xoa.

- Đem lồng bướm lại đây cho em, mau lên đi!

Chị ngạc nhiên mang lồng bướm lại. Tôi nhìn kỹ. Con bướm vẫn đậu trong lồng. Bất giác tôi òa khóc thật to. Chị xoa nắn đôi chân bất động teo quắt của tôi.

- Em đau lắm phải không? Em đau chỗ nào vậy?

Tôi nức nở:

- Con bướm… con bướm… Không phải là mẹ. Nó là con bướm ma!

Không dưng, chị tôi òa khóc.

Gia Kiệm, 5-2000

Q.T.K

– Hết –

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét