CÁC KỸ NĂNG HOẰNG PHÁP TRONG ĐẠO PHẬT: ĐÀM ĐẠO
TT THÍCH CHÂN QUANG
Mục Lục
1. Bốn mức độ tiến tu của đệ tử Phật 4
5. Ứng dụng khoa học kỹ thuật-nghệ thuật 7
6. Ước mơ về một thế giới Phật giáo. 8
THỰC HÀNH TIẾP XÚC VỚI ĐỐI TƯỢNG CHUNG QUANH CHÙA.. 13
1. Khả năng tiếp xúc trong phạm vi nhỏ là căn bản. 13
2. Những gia đình chung quanh chùa. 14
NÓI CHUYỆN VỀ QUY Y TAM BẢO.. 18
2. Nêu ra những ý nghĩa cao quý của việc Quy y Tam Bảo.. 19
NÓI CHUYỆN VỀ CHỦ ĐỀ NHÂN QUẢ.. 23
2. Dẫn vào chủ đề Nhân quả. 24
1. Trẻ em là tương lai của đạo pháp.. 28
NÓI CHUYỆN VỚI NGƯỜI TRÍ THỨC.. 33
1. Người trí thức là người có học thức và làm việc ở môi trường có chuyên môn.. 33
2. Người trí thức là Phật tử.. 34
3. Người trí thức chưa theo Phật. 36
NÓI CHUYỆN VỚI ĐỒNG BÀO SẮC TỘC.. 38
NÓI CHUYỆN VỚI BẠN KITÔ GIÁO.. 43
1. Những đặc điểm chính của Kitô giáo.. 43
NÓI CHUYỆN VỚI TÍN HỮU ISLAM… 49
1. Những đặc điểm của người theo đạo Islam… 49
LỜI NÓI ĐẦU
Hoằng pháp là một bổn phận quan trọng của đệ tử Phật, gồm cả xuất gia lẫn tại gia. Ý nghĩa chính của Hoằng pháp là đem đạo lý đến với mọi người, giúp mọi người hiểu Phật pháp nhiều hơn, thay đổi tâm hồn tốt hơn, sống vị tha nhân ái hơn, và khẳng định được lý tưởng giác ngộ giải thóat xác quyết hơn.
Hoằng pháp bao gồm nhiều phương tiện hoặc là bằng một tấm gương sống gương mẫu thánh thiện, hoặc bằng những lúc gặp gỡ chuyện vãn đàm đạo, hoặc bằng những buổi thuyết giảng hoành tráng, hoặc bằng cách giới thiệu các tác phẩm đạo lý hay, hoặc bằng cách tổ chức môi trường tu học cho nhiều người
Người làm công việc Hoằng pháp cũng có nhiều vai trò khác nhau. Có người đứng vai trò chính, có người đứng vai trò phụ, có người làm công việc ủng hộ gián tiếp, có người làm trung gian đưa đạo lý lan đi xa
Ai cũng có công đức khi tham gia vào công việc Hoằng pháp như thế. Chỉ có hai hạng người có lỗi, đó là không chịu làm gì để Hoằng pháp, và người cứ muốn giành lấy vai trò chính làm rối rắm mọi chuyện thêm.
Vì có nhân duyên giảng dạy tại trường Trung cấp Phật học tỉnh Long An, được sự ủng hộ khuyến khích của Ban Giám Hiệu, chúng tôi thử nghiệm giảng dạy môn Kỹ năng Hoằng pháp cho Tăng Ni sinh nhằm giúp Tăng Ni có thể phát huy sớm hơn khả năng Diễn giảng Hoằng pháp của mình. Có nhiều Tăng Ni tốt nghiệp Trung cấp Phật học rồi không có thời gian, điều kiện để học lên cao hơn, thì môn Kỹ năng Hoằng pháp này sẽ giúp Tăng Ni đó khi trở về trú xứ cũng làm được những côn! g đức Hoằng pháp lợi sinh. Ban Giám Hiệu đã thương tưởng đến mọi trường hợp Tăng Ni, dù họ sẽ học lên cao hơn hay sẽ đứng lại.
Trong giáo trình này, chúng tôi chia làm hai phần, phần đầu là Đàm Đạo, phần hai là Diễn Giảng. Lẽ ra còn những phần khác như Tổ chức Hoằng pháp, Kỹ thuật Hoằng pháp
nhưng những vấn đề đó lớn lao quá trình độ của Tăng Ni nên thôi.
Đàm Đạo là bước đầu của Diễn Giảng. Ai đã đi qua kinh nghiệm Đàm Đạo sẽ có thể ứng khẩu diễn giảng về sau. Đàm Đạo là Hoằng pháp ở quy mô nhỏ, thân tình, có thể len lỏi vào mọi nơi mọi lúc mọi đối tượng, và là căn bản của việc Hoằng pháp.
Diễn Giảng là Hoằng pháp ở quy mô lớn, nghiêm trang nghi thức hơn, nhắm tới đối tượng đông hơn, có vẻ chính thống hơn.
Cả hai đều tương quan hỗ trợ nhau không thể tách rời.
Giáo trình này là sự tổng kết kinh nghiệm sau nhiều năm giảng dạy của chúng tôi, với những cố gắng tối đa để đào bới nhiều góc cạnh bí ẩn của việc Hoằng pháp Diễn giảng. Thật vậy, giảng làm sao cho hay, cho hấp dẫn, cho đúng ý của Phật luôn luôn là nỗi ưu tư trăn trở của các nhà Hoằng pháp, và dường như là một bí mật khó hiểu. Chúng tôi cố gắng hết sức để phân tích mọi khía cạnh của vấn đề này với ước mong đóng góp thật nhiều cho giáo trình Hoằng pháp Diễn giảng của nền Phật học chung.
Khi giáo trình này đến với bạn đọc, đó là công đức thật lớn lao của Ban Giám Hiệu trường Trung cấp Phật học Long An, là công đức của những vị thầy đã có công dạy dỗ chúng tôi, là công đức của biết bao Phật tử đã ủng hộ giúp đỡ chún! g tôi, l! à công đức của các Tăng Ni đã chăm chú nghe giảng và thực hành, và trên hết, là công đức của Mười Phương Chư Phật Chư Bồ Tát đã gia hộ cho chúng tôi trên từng bước chân non nớt bao năm qua. Chúng tôi cũng cám ơn Nhà Xuất Bản Tôn Giáo đã nhanh chóng làm hết sức mình để Giáo trình này sớm ra mắt bạn đọc.
Xin nguyện cho Phật Pháp sáng soi, thế giới hòa bình, chúng sinh an lạc.
Kính ghi
Chân Quang
Hoằng Pháp Phần 1 (Đàm Đạo)
HOẰNG PHÁP 1
KHÁI NIỆM
1. Bốn mức độ tiến tu của đệ tử Phật
Ta có 4 mức độ tiến tu của người đệ tử Phật theo 4 chữ H như sau:
– Học giáo pháp
– Hành theo giáo pháp
– Hoằng truyền giáo pháp
– Hộ trì giáo pháp
Ở mức độ ban đầu là học hỏi giáo pháp thì ai có chút lòng đều có thể thực hiện được. Hoặc là ta đi nghe các vị giảng sư giáo thọ giảng dạy trực tiếp; hoặc là ta mày mò đọc các sách viết về Phật Pháp; hoặc là ta đọc trực tiếp các bản kinh gốc nếu đủ trình độ. Riêng những Tăng Ni sinh đang theo học các trường Phật học thì được đi theo một hệ thống quy cũ chặt chẽ chuyên sâu hơn. Nhưng vẫn chỉ là chữ H thứ nhất.
Mức độ thứ hai khó hơn, đó là thực hành giáo pháp. Học hiểu thì ai có chút tò mò hiếu học thì cũng học được, nhưng chỉ những ai gan dạ nhìn lại lỗi lầm của mình, thành thật nhận lỗi về mình, can đảm vượt qua lỗi của mình thì mới có thể thực hành tu tập được. Tính ra, mười người học chưa được ba người hành. Sự tu hành trong đạo Phật khó ở chỗ không thể hiện ra ngoài giống như người luyện tập thể thao hay võ thuật. Tu hành cốt yếu ở việc nhìn rõ nội tâm của mình, chuyển hóa nội tâm của mình. Khi tâm đã được chuyển hóa rồi thì tự nhiên lời nói và việc làm sẽ thuần hòa, khiêm nhu, từ ái, can đảm. Cái khó tiếp theo nữa là trong đạo Phật còn có công phu tu tập thiền định nhiếp tâm. Đây là cả một công trình kiên trì hết đời này sang đời khác. Chỉ ai chịu cực thực hành tu tập chiến đấu với lỗi lầm của mình thì mới thấm sâu đạo lý của Phật dạy, mới có thể sống như Phật! dạy mà không bị chấp trên ngôn ngữ.
Mức độ khó hơn nữa là hoằng truyền Chánh pháp. Khi có thực hành tu tập, ta có thể hiểu rất sâu lời Phật dạy rồi, ta thiết tha muốn giúp mọi người cùng hiểu giáo lý của Phật rồi, ta có lý tưởng Phật hóa cả thế gian này rồi, nhưng điều ta cần phải có tiếp theo nữa là khả năng truyền đạt của ta có hấp dẫn không, có dễ hiểu không. Thêm một điều khó nữa là ta có kết duyên lành với chúng sinh từ những kiếp xưa chưa? Nếu ta ít duyên với chúng sinh, nếu khả năng truyền đạt của ta kém thì xem như lý tưởng độ sinh của ta rất khó thực hiện. Tuy nhiên, không ai biết được duyên kiếp của mình rõ ràng. Ta cứ việc nuôi dưỡng lý tưởng độ sinh và biết đâu mọi chuyện sẽ tốt đẹp.
Mức độ khó cuối cùng là hộ trì Chánh pháp. Người có duyên hộ trì chánh pháp phải là những người cúng dường cả thân và tâm cho Phật. Cuộc đời này không còn là của mình nữa mà đã thuộc về Tam Bảo. Người như vậy lý tưởng đối với Phật Pháp là tuyệt đối, có thực hành tu tập để thấy sự nhiệm mầu của Phật Pháp, có khả năng truyền "lửa" cho bất cứ ai đến gần. Nhưng khó hơn cả, người hộ trì Phật Pháp phải là người cực kỳ gan dạ, khôn ngoan, biết xử lý tình huống, và quan trọng nhất, là biết đoàn kết một lòng với nhau.
Phạm vi môn học này không nói về Hộ trì Phật Pháp nên ta không nhắc đến, chỉ tập trung nói về những vấn đề liên quan đến công việc Hoằng pháp mà thôi.
2. Lý tưởng hoằng pháp
Nếu có ai nhìn thấy một vị giảng sư được nhiều người quý trọng rồi khởi lên ước muốn làm một giảng sư ngồi đường bệ trên bục giảng thì người đó không phải có lý tưởng Hoằng pháp. Đó chỉ là tham vọng danh lợi. Điều đầu tiên để làm một sứ giả chân chính của Phật là kiểm tra kỹ trong tâm mình có tham vọng danh lợi như thế hay không. Nếu quả thật thấy mình có tham vọng danh lợi đó thì phải tìm cách diệt trừ cho sạch. Nếu không diệt trừ sạch tận gốc tham vọng thầm kín đó thì thế nào cũng có ngày ta làm ngược lại những gì ta nói. Hậu quả cho sự tình như thế thật là cay đắng.
Do đâu ta có lý tưởng muốn hoằng truyền chánh pháp, nghĩa là muốn Giáo pháp của Phật được rất nhiều người tin hiểu và thực hành theo?
Chính bởi vì ta là lửa. Ngọn lửa đạo tâm của ta bừng cháy mãnh liệt nên dễ dàng cháy lây qua mọi người.
Chính bởi vì ta được lợi ích tuyệt vời từ nơi Giáo pháp, ta được hạnh phúc từ nơi giáo pháp, nên ta thiết tha mong muốn ai cũng được như vậy. Trên cuộc đời này, có rất nhiều niềm vui khiến con người ích kỷ chỉ muốn hưởng một mình. Riêng Phật Pháp thì ngược lại, ai đạt được niềm vui trong Phật Pháp đều thiết tha muốn chia sẻ với mọi người.
Vì đâu ta muốn chia sẻ đạo lý đến mọi người? Chỉ bởi vì ta là nước, nước đạo lý trong tâm đã đầy rồi thì phải tràn. Đó là chân lý luôn luôn đúng. Chỉ những ai đạo tâm còn yếu ớt, sơ sài, nông cạn thì chẳng muốn chia sẻ đạo lý đến người khác. Còn bất cứ ai! đã thấm nhuần đạo lý rồi thì lập tức cháy bỏng ước muốn giúp người cùng biết đạo lý.
Lý tưởng hoằng pháp cũng tùy theo trí tuệ của ta mà lớn hoặc nhỏ khác nhau. Có khi ta chỉ muốn san sẻ đạo lý với những người trong gia đình, đồng nghiệp, láng giềng; có khi ta muốn viết sách để phổ biến ở mức độ rộng rãi hơn; có khi ta muốn đi đây đi kia để gặp gỡ trực tiếp với nhiều người xa lạ mà tuyên giảng đạo lý; có khi ta muốn tổ chức những cuộc hội họp đông người nơi những hội trường để thuyết giảng vân vân
Những người càng có khả năng thì tự nhiên hay nghĩ đến số đông. Thậm chí những tài năng lớn thì nghĩ đến cả thế giới, nghĩ đến vận mệnh Phật Pháp vài trăm, vài nghìn năm sau.
3. Người hoằng pháp
Người hoằng pháp là bất cứ người nào làm cho người
khác hiểu đúng về Phật Pháp, không phân biệt xuất gia hay tại gia. Hơn nữa, người hoằng pháp chân chính là người đủ sức thúc đẩy người khác thực hành chứ không chỉ dừng lại ở học hiểu.
Có rất nhiều trường hợp người tại gia làm công việc hoằng pháp hiệu quả hơn người xuất gia vì có thể tiếp cận bất cứ đối tượng nào, bất cứ nơi đâu. Người xuất gia không thể đi vào những nơi xô bồ phức tạp, không thể tiếp xúc với những người ngang tàng bướng bỉnh. Người xuất gia phải thuyết pháp đúng nơi đúng chỗ, nói đúng đối tượng, chọn lựa đúng tư thế; trong khi người tại gia có thể hòa đồng vui vẻ và nói về đạo lý một cách bình thường như mọi điều trong cuộc sống.
Vì vậy, ngoài nhiệm vụ giảng dạy một cách trịnh trọng, người xuất gia còn phải kiêm thêm vai trò cố vấn hướng dẫn cho người tại gia làm công tác hoằng pháp nơi môi trường của họ. Chính số đông người tại gia cùng góp tay làm công tác hoằng pháp sẽ khiến cho Phật Pháp đi vào đời sống hiệu quả hơn. Vì vậy, trong môn học Hoằng pháp này, phần đầu chúng ta thiên về hướng dẫn cho người cư sĩ tại gia biết cách hoằng pháp. Còn tính cách trịnh trọng đĩnh đạc của người xuất gia sẽ được triển khai ở phần sau.
Hoằng pháp là tính cách tiêu biểu của người đệ tử Phật, ai không có tinh thần hoằng pháp thì chưa phải là đệ tử Phật chân chính. Một trong những tiêu chuẩn để chọn lựa đệ tử xuất gia của quý thầy cũng phải đánh giá trên khả năng hoằng pháp �! �� mai sau. Nếu người nào có thể tiếp xúc với nhiều ngưòi mà không bị ảnh hưởng, không bị ô nhiễm, lại còn có thể làm cho những người đó hiểu thêm Phật Pháp thì đó chính là những người có tiêu chuẩn xuất gia. Từ đây về sau, quý thầy phải chọn lựa đệ tử theo tiêu chuẩn này.
Như đã nói, Hoằng pháp là giai đoạn sau của Hành pháp. Chỉ những người vất vả chiến đấu với những sai lầm của mình mới là người hoằng pháp chân chính. Còn những ai chỉ cố học cho nhiều rồi đem ra nói lại thì không gây được cảm xúc cho người nghe, không khiến người nghe tin vào đạo lý cao thượng. Ai càng có lý tưởng hoằng pháp chừng nào thì lại càng phải ráng tu hành chừng nấy. Những lời được nói ra từ kinh nghiệm tu hành vất vả là cả một sức mạnh làm lay chuyển người nghe.
4. Đối tượng để hoằng pháp
Ta sẽ đem đạo lý đến cho những ai?
Bất cứ ai; tất cả chúng sinh; khắp thế giới này.
Trên lý thuyết và lý tưởng là như thế, còn trong thực tế thì ta phải tùy theo duyên của mình mà làm công việc hoằng pháp. Theo trình tự, ta sẽ hóa độ người chưa biết đạo lý trở thành người biết đạo lý.
Sau đó giúp cho người đã biết đạo lý thành người hiểu sâu đạo lý và bước vào thực hành.
Trên bước đường thực hành gồm có việc tạo phước, tu dưỡng đạo đức, thiền định. Ta cũng phải giúp cho người được thuận lợi với những việc như thế. Khi người đã vững vàng và có lý tưởng hoằng pháp như ta thì ta lại giúp người trong công việc hoằng pháp.
Tiến trình là như thế, nhưng thực tế thì nói chuyện đạo lý với người đã biết đạo thì dễ, còn nói về đạo lý cho người chưa biết gì thì rất khó. Chính vì vậy mà hầu hết chúng ta đều thích duy trì tình thân với người đã biết đạo, còn rất ngại làm quen truyền bá đến người chưa biết gì. Đây là nhược điểm lớn của người đệ tử Phật từ trước tới giờ khiến cho Phật giáo ít phát triển. Bây giờ ta phải vượt qua nhược điểm đó, phải tập đem đạo lý đến với những người chưa biết gì.
Người hoằng pháp phải giải đuợc bài toán đầu tiên là nói chuyện đạo lý với người chưa biết gì. Những bài kế tiếp ta sẽ phân loại nhiều hạng người, tâm lý từng hạng người, cách tiếp cận mỗi hạng người.
Sau đó là những Phật tử đã tin hiểu đạo lý, cần được nâng cao thêm để việc thực hành được sâu sắc kỹ lưỡng.
Cuối c�! �ng là Tăng Ni cũng cần được giảng dạy để nắm vững những giáo lý cao siêu làm hành trang tu tập. Riêng những Tăng Ni có tuổi đạo đã lớn thì hầu như chỉ tự tham khảo và trao đổi trong những dịp An cư hoặc các dịp lễ hội lớn mà thôi.
Một đối tượng đặc biệt của công việc hoằng pháp là những người ở tôn giáo bạn. Dĩ nhiên ta không có ý định làm cho họ chuyển qua đạo Phật, nhưng nếu giúp họ hiểu thêm về Phật Pháp thì cũng khiến cho sự đoàn kết loài người được tốt đẹp hơn. Nhất là một khi tin hiểu được Nhân quả thì những tôn giáo cực đoan sẽ chùn tay lại, không dám gieo rắc khủng bố tang thương cho đồng loại nữa. Việc đem Phật Pháp đến với những người khác đạo là đỉnh cao của sự hoằng pháp. Ai chưa đủ sức làm việc này thì chưa phải là người hoằng pháp trọn vẹn.
5. Ứng dụng khoa học kỹ thuật-nghệ thuật
Khoa học kỹ thuật là kết tinh trí tuệ của loài người qua nhiều thế hệ. Nếu ta không biết áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong việc hoằng pháp có nghĩa là ta cũng không có trí tuệ, hoặc là ta khinh thường trí tuệ của loài người. Nếu ta khinh thường trí tuệ của loài người thì quả báo xảy ra là ta sẽ không có trí tuệ.
Vì vậy, người hoằng pháp phải khôn ngoan biết ứng dụng những thành tựu của khoa học kỹ thuật vào công việc hoằng pháp của mình để tăng thêm hiệu quả. Nhờ phương tiện máy móc hiện nay, một bài pháp tuyệt diệu xuất thần sẽ không bay mất theo hư vô mà sẽ được giữ gìn, lưu truyền từ nơi này sang nơi khác, từ đời này sang đời khác.
Rồi những phương tiện phim video, âm thanh surround làm tăng thêm sự hấp dẫn sẽ giúp cho nhiều người được lôi kéo tìm hiểu đạo. Nhiều người chẳng bao giờ chịu lắng nghe một bài giảng âm thanh, nhưng lại rất thích thú khi theo dõi một cuốn phim video thể hiện bài giảng với những hình ảnh minh họa đầy sống động
Am nhạc có sức hút kỳ lạ với tất cả mọi người. Từ lâu nhiều nhạc sĩ Phật giáo cũng đã tạo nên những bản nhạc đạo bất hủ làm phong phú thêm phương tiện hoằng pháp trong Phật giáo. Các tu sĩ bây giờ phải am tường âm nhạc để mở ra một cánh cửa rộng cho giới trẻ đến với đạo Phật. Những bài tụng theo điệu ru xưa có giá trị không thể chối cãi, nhưng âm nhạc hiện đại ngày nay vẫn cực kỳ hấp dẫn. Đến lúc nào đó, âm nhạc hiện đại có thể thay thế điệu ru cổ trong nghi thức tụng niệm của Phật giáo. Vì vậy, trường Phật học p! hải có thêm bộ môn âm nhạc cho Tăng Ni sinh.
Rồi bất cứ đôi mắt ta nhìn vào đâu cũng đòi hỏi ở đó phải đẹp, từ mái chùa, bìa cuốn kinh, lễ đài Phật đản, tượng Phật, lọ hoa, lối đi, trang phục
Chính những ấn tượng mỹ thuật đó biểu hiện sự phong phú tâm hồn của những người tu Phật. Nếu nhìn một ngôi chùa xấu xí, luộm thuộm, người ta cũng nghi ngờ tâm hồn của những tu sĩ ở trong đó. Hơn nữa tâm lý ai cũng thích đến những nơi có cảnh trí đẹp đẽ. Vì vậy, có khả năng mỹ thuật để tạo ra một cảnh trí già lam đẹp đẽ cũng là phương tiện để hoằng pháp. Trường Phật học cũng phải cho dạy bộ môn Mỹ thuật.
6. Ước mơ về một thế giới Phật giáo
Muốn làm một người hoằng pháp giỏi, trong tâm ta phải biết mơ ước về một thế giới mà trong đó hầu hết mọi người đều tin hiểu Phật Pháp, đều biết thương yêu nhau theo đạo từ bi, đều biết kềm chế tránh ác làm thiện theo luật Nhân quả. Bây giờ thế giới bị phân hóa bởi nhiều tín ngưỡng, trong đó có những tín ngưỡng rất sai lầm quá khích đã khuyến khích tín đồ giết hại đồng loại không thương tiếc, hoặc có những tín ngưỡng mưu đồ thống trị thế giới một cách bí mật. Hơn bao giờ hết, đây là lúc con người cần một đạo lý diệt trừ lòng ác độc, diệt trừ tham vọng điên cuồng; đây là lúc con người cần đạo lý sống hiền hòa thanh thản với lòng thương yêu vạn loại, với trí tuệ kiểm soát lầm lỗi chính mình, với khát vọng vượt lên cao hơn về tâm linh để hòa nhập vào nền văn minh của vũ trụ.
Người hoằng pháp phải mang trong trái tim mình ước mơ cháy bỏng về một cõi Phật trên hành tinh đầy mây bay gió thổi này, đầy sông sâu biển lớn này, đầy núi cao đồi dài này, đầy cây xanh cỏ mượt này. Trái tim đó sẽ đưa ta đi đến mọi góc trời để ta nói với loài người rằng, hãy yêu thương nhau.
Câu hỏi: Hãy nói về lý tưởng hoằng pháp.
Hoằng Pháp Phần 1 (Đàm Đạo)
HOẰNG PHÁP 2
NGUỒN ĐẠO LÝ
1. Định nghĩa
Người hoằng pháp phải có một nguồn đạo lý sung mãn tràn đầy để có thể chia sẽ với mọi người mãi mãi. Khi mọi người tiếp chuyện hoặc nghe ta giảng thuyết, họ thấy rõ ta thật sự có trí tuệ sâu sắc, thật sự nhìn vấn đề tinh tế, không phải nói như học thuộc lòng. Khi tiếp chuyện với ta, mọi người cảm thấy được lợi ích, được sự thú vị, giải quyết được một số điều trong cuộc sống.
Muốn như vậy, ta phải tạo cho mình một nguồn đạo lý vô tận ở bên trong vì công việc hoằng pháp là trách nhiệm suốt đời của người đệ tử Phật.
2. Học hỏi
Để có đạo lý trong tâm mình, dường như trước hết ta phải học hỏi rất nhiều. Những giáo lý căn bản phải được học là từ kinh tạng nguyên thủy ban đầu của Phật như luật Nhân quả Nghiệp báo, Tứ Diệu đế, Bát Chánh đạo, Mười hai Nhân duyên, Ngũ căn Ngũ lực, Tứ Niệm xứ
Đây là những chân lý không thể sai lầm mà chư Phật khi xuất thế đều phải tuyên giảng. Dù sau này ta có học thêm được những đạo lý mới nào khác thì điều bắt buộc là giáo lý đó không được trái với những giáo lý nguyên thủy trên đây. Có một quan điểm rất đáng buồn là nhiều tông phái sau khi tiếp nhận những giáo lý mới, đã xa rời giáo lý gốc khiến cho sự tu hành trong đạo Phật lệch dần qua ngoại đạo tà kiến mà không hay. Ngày nay, nhờ các phương pháp sử học hiện đại, chúng ta hiểu thêm về giá trị của kinh điển nguyên thủy cao quý biết chừng nào. Vì vậy, tuy hệ thống kinh tạng Nikaya có vẻ khó hiểu và cô đọng, ta vẫn phải quyết tâm nghiên cứu tường tận để thiết lập một chánh kiến cho cuộc đời tu hành của mình.
Song song với việc tu hành theo năm tháng để có kinh nghiệm, đạo tâm của ta ngày càng phát triển, ta sẽ bắt đầu nghiên cứu học hỏi kinh tạng phát triển Đại thừa. Nếu kinh tạng Nikaya nhấn mạnh đến sự tinh tấn cho những người thiện căn dày dặn thì kinh tạng Đại thừa nhấn mạnh đến sự bồi tạo công đức song song với việc thúc liễm nội tâm. Kinh Đại thừa kết hợp sự nhiếp tâm bên trong và công đức hóa độ chúng sinh bên ngoài. Đây là quan điểm cực kỳ tiến bộ của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Nh! ững người thực hành theo quan điểm đó thì được gọi là Bồ tát, nhưng Bồ tát cũng có nhiều mức độ quả vị khác nhau. Ý niệm về thời gian của Bồ tát là vô nghĩa vì Bồ tát không bao giờ đòi hỏi phải nhanh chóng chứng ngộ. Đây là dấu hiệu của trí tuệ cao xa. Tuy nhiên, nhiều bài kinh thuộc hệ thống đại thừa lại hay nói về Nghĩa Không của vạn hữu và gây hiểu lầm lớn, khiến cho nhiều người trở nên thụ động, không quan tâm đến việc gây tạo công đức và giáo hóa chúng sinh. Điều này khiến cho đạo Phật suy yếu dần. Chỉ những ai có khả năng nhìn xuyên qua khỏi những chữ "Không" đó thì mới thấy cả một chân trời hạnh nguyện vô tận của Bồ tát.
Kế nữa, chúng ta học các luận bản của các vị Đại sư về sau này, cả Nam tông và Bắc tông để theo dõi sự ứng dụng của những thời đại sau Phật, và cận đại. Dĩ nhiên ta không có thời gian nghiên cứu tất cả kinh luận của Phật giáo vì sự đồ sộ phong phú trong đó, nhưng ta sẽ chọn những luận bản tiêu biểu nhất để xem qua. Ta cũng hiểu vì sao bắt đầu có sự phân phái của Đạo Phật kéo dài đến hôm nay. Ban đầu đạo Phật chỉ là duy nhất, nhưng theo kiến giải và hoàn cảnh mỗi nơi mỗi lúc mà tông phái xuất hiện. Ta cũng hiểu là ta không được phép gây thêm sự ngăn cách giữa các tông phái nữa, mà phải đi tìm sự hợp nhất trở lại cho một đạo Phật chung đồng về sau.
Tông phái nào buộc lòng phải nói mình là hay nhất; kinh điển nào cũng phải nói mình là thù thắng nhất, và đó là chuyện bình thường. Ta phải bình thản thoát ra ngoài những lề thói đó để khách quan xem xét mọi thứ, chứ không vì lời t�! �n dươn! g đó mà ta tự hạn cuộc mình trong một góc cạnh nhỏ bé nào. Một bản kinh dù hay đến đâu cũng không thể đại diện cho toàn bộ chân lý của Phật; một tông phái dù hay đến đâu cũng không thể bao trùm hết mọi đạo lý của Phật. Ta phải luôn nhắm đến một đạo Phật chung đồng cho muôn đời sau.
3. Tham khảo
Ngoài kinh luận của Nguyên thủy và Đại thừa phải học hỏi, chúng ta phải tham khảo thêm các kiến thức của khoa học thế giới. Dĩ nhiên khoa học chưa phải đã khám phá đến tận cùng chân lý của vũ trụ, nhưng những điều mà khoa học đã tìm thấy vẫn luôn là mực thước vững chắc. Đó cũng là tinh hoa trí tuệ của loài người qua biết bao nhiêu thời đại. Nếu ta ngạo mạn khinh thường khoa học tức là ta xem thường trí tuệ của loài người, và quả báo là nhiều đời sau ta sẽ không có trí tuệ.
Khoa học có 2 loại: Tự nhiên và Nhân văn.
Khoa học tự nhiên gồm các môn Hóa, Vật lý, Toán, Sinh vật, Địa lý, Kỹ thuật, Môi trường,
Khoa học Nhân văn gồm các môn Sử, Xã hội, Văn, Triết, Luật, Đạo Đức, Tâm lý
Dĩ nhiên không ai có đủ thời gian và khả năng để tìm hiểu hết mọi môn học như thế, nhưng người làm công tác hoằng pháp phải biết căn bản mỗi môn như thế. Chính nhờ kiến thức tương đối rộng rãi đó mà khi thuyết giảng, giáo lý ta nói ra có thể chặt chẽ, hợp lý, và phù hợp với văn minh của nhân loại. Như vậy người trí thức mới có thể được thuyết phục để chấp nhận lời nói của ta. Điều ta phải cám ơn Phật là Phật đã để lại cho muôn đời một hệ thống chân lý tuyệt vời khiến cho khoa học càng tiến bộ thì đạo Phật càng được sáng tỏ, không giống như một số tôn giáo bị lạc hậu khi khoa học tiến bộ.
Đối với những ai giỏi Toán thì lại càng là một lợi thế cho công việc hoằng pháp. Người giỏi Toán biết gạn lọc về đạo lý và lý ! luận khi họ còn là học Tăng hay học Ni. Đến khi bắt đầu đi giảng dạy, họ luôn cẩn thận khi đưa ra một luận cứ, có nhìn trước nhìn sau, rào trước đón sau. Chính họ đã tự phản biện để tìm chỗ sơ hở của mình trước khi đưa một bài giảng ra với công chúng. (sẽ nói tiếp về sau). Vì vậy lý luận của họ rất vững chắc.
Tạp chí sách báo xuất bản định kỳ cũng là nguồn tham khảo tốt cho người làm công tác hoằng pháp. Ta có thể chọn một vài tạp chí hay tờ báo có uy tín để xem đều đặn giúp cho ta theo dõi được diễn biến xảy ra ở mọi nơi. Không phải ta xem để thỏa mãn tính tò mò, mà để đối chiếu giữa giáo lý đạo Phật với tình hình xã hội. Giáo lý sẽ trở nên khô khan và thiếu thực tế nếu ta không chịu thường xuyên đối chiếu với tình hình thế giới. Mỗi khi nghe về một diễn biến xã hội, ta phải suy luận xem Nghiệp báo đã chi phối như thế nào, phải đánh giá xem loài người còn thiếu đạo lý gì, phải tự hỏi xem đạo Phật cần phải làm những gì trong hiện tình như thế. Ai biết thường xuyên đối chiếu giữa giáo lý và diễn biến xã hội sẽ là một giảng sư tài ba của tương lai.
Ví dụ khi ta nghe nói về chuyện các nhà sư Phật giáo ở miền Nam Thái lan bị bọn Hồi giáo chặt đầu, ta phải suy nghiệm trên 5 phương diện như sau:
– Nhân quả riêng của nhà sư đó ra sao.
– Sự cực đoan dã man của Hồi giáo do đâu mà có.
– Đạo Phật sẽ như thế nào nếu Hồi giáo cứ sử dụng bạo lực để lấn chiếm dần giống như thế kỷ thứ 8.
– Đạo Phật phải làm gì để tự bảo vệ trước việc Hồi giáo lấn dần bằng bạo lực.!
! 211; Có thể thay đổi giáo lý Hồi giáo được không
Rồi ta tự tìm câu trả lời.
Hoặc khi ta chứng kiến một người ít học mà có thể di chuyển cả những công trình phức tạp sang nơi khác, độc đáo hơn cả những người có bằng cấp, thì ta cũng tự suy nghiệm xem nhân duyên gì đã đem đến điều đó.
Nếu ta luôn luôn biết đối chiếu tình hình thế giới với giáo lý đạo Phật thì ta sẽ có nguồn đạo lý vô tận trong việc thuyết giảng mai sau. Nhược điểm của lối học kinh điển mà không đối chiếu với đời sống chung quanh đã khiến cho Tăng Ni sinh ra trường không đáp ứng được với tâm tình của quần chúng.
Vô số những chuyện xảy ra chung quanh ta đều là cơ hội cho ta suy nghiệm đạo lý. Chính sự đối chiếu thường xuyên như vậy khiến cho đạo lý trong tâm ta được củng cố và phát triển đến vô hạn.
4. Kinh nghiệm tu hành
Tu hành có ý nghĩa rộng rãi từ chuyện sửa chữa lỗi lầm nội tâm sâu kín, đến công phu nhiếp tâm trong thiền định, đến đời sống tử tế với mọi người, đến giải quyết mọi chuyện phức tạp trong đời sống.
Trước hết, tu hành có nghĩa là hoàn thiện đạo đức, dù bất cứ tôn giáo nào, bất cứ vị trí nào. Ai cũng có những khuyết điểm về đạo đức và ai cũng có bổn phận phải hoàn thiện đạo đức của mình. Người nào không có mục tiêu hoàn thiện đạo đức bản thân tức là người ác. Chắc chắn người đó sẽ làm khổ nhiều người chung quanh mình và cuối cùng đưa chính mình về đau khổ.
Trong quá trình hoàn thiện đạo đức bản thân, ta sẽ vượt qua rất nhiều khó khăn chướng ngại, và như vậy, sẽ có rất nhiều kinh nghiệm đầy mồ hôi nước mắt. Ví dụ khi ta phải chiến đấu với sự ích kỷ, ta phải tập san sẽ hy sinh, phải chịu cực khổ để giúp người, phải chấp nhận gánh vác nhiều trách nhiệm cho người. Những điều như vậy hoàn toàn không phải dễ làm.
Từng chút chiến đấu với chính mình để giành lấy điều thiện làm cho ta có kinh nghiệm xác thực, hơn hẳn sự thụ động êm ả trong lý thuyết. Sau này khi hướng dẫn cho người khác, ta sẽ nói được mạch lạc, chi tiết, sâu sắc và rất thuyết phục. Đây là giá trị căn bản của người hoằng pháp. Nhiều người lầm tưởng cho rằng cứ học thật nhiều rồi sẽ giảng hay. Thực tế đã chứng tỏ là không phải vậy. Do đó ai nặng lòng với sự nghiệp hoằng pháp phải biết tu sửa chính mình rất nhiều.
Kế đến là công phu nhiếp tâm trong thiền định. Nh�! ��p định tức là thoát ra khỏi bản ngã dần dần. Bản ngã là gì? Bản Ngã là cái tôi, từ cái tôi này mà ta phải tham lam thù hận biết là bao nhiêu; rồi từ tham lam thù hận, ta đã tạo vô số nghiệp để bị trôi lăn trong luân hồi mãi mãi. Vì thế, người càng thoát khỏi bản ngã chừng nào càng thánh thiện chừng nấy. Đỉnh cao của sự tu hành trong đạo Phật chính là chấm dứt bản ngã hoàn toàn. Người thoát khỏi bản ngã thì cũng thoát luôn luân hồi tái sinh, nghĩa là giải thoát thật sự.
Nếu đạo đức cho ta cái nền tảng của sự tu hành thì sự nhiếp tâm trong thiền định cho ta cái cốt lõi chính của sự tu tập, với điều kiện ta phải lấy mục tiêu diệt trừ bản ngã, không chọn lầm mục tiêu khác.
Trên bước đường gian nan tu tập thiền định, ta phải đối diện với sự phản kháng của bản ngã mình rất nhiều lần, rất tinh vi. Mỗi khi ta tiến bộ trong việc nhiếp tâm một chút thì lập tức ta cũng cảm thấy tự hào hơn một chút, và có nghĩa là bản ngã vẫn chiến thắng. Sự tinh tế sâu sắc trong việc nhận diện bản ngã luôn tìm cách trỗi dậy giúp ta có những kinh nghiệm cực kỳ phong phú, và trí tuệ sáng ra từng ngày. Do đó, sau này hướng dẫn giảng thuyết, ta sẽ trình bày rất tỉ mỉ sâu sắc.
Ta phải nhớ nguyên lý này, càng thoát ra khỏi bản ngã chừng nào, ta càng thánh thiện chừng nấy, và càng có trí tuệ chừng nấy. Chính trí tuệ này sẽ giúp ta rất nhiều trong công việc hoằng pháp ở mai sau.
Một công việc khác, cũng được gọi là tu hành, chính là sự đối xử tử tế với mọi người.
Tu là cái gì nếu ta không thể đối xử tử tế với mọi người chung quanh? D�! � nhiên ! muốn đối xử tử tế với mọi người, ta phải thành công trong việc hoàn thiện đạo đức trước đã, cũng như đã thoát dần bản ngã bởi công phu thiền định.
Tuy nhiên khi thật sự đối diện ứng xử với con người, bỗng nhiên ta gặp nhiều sự khác biệt vì tâm tình con người rất khác nhau. Ngay cả trong chính chúng ta, sự khác nhau giữa suy nghĩ và hành động cũng là rất đáng kể. Ví dụ, ta khởi lên được suy nghĩ rằng ta sẽ chia sẽ vật chất với ai gặp khó khăn thiếu thốn; nhưng khi thật sự gặp người đang thiếu thốn, ta lại bị một loạt các yếu tố khác tác động khiến ta bị do dự trong việc giúp đỡ họ. Có thể là lúc đó ta không có nhiều tiền lắm, hoặc người đó thiếu phước quá, tâm người đó hẹp hòi quá khiến ta ngần ngại không thương nổi. Hoặc có khi số tiền ta hạn chế mà người cần được giúp thì nhiều hơn, vân vân
Thực tế không dễ dàng như ta nghĩ, dù ta chỉ muốn làm điều tốt. Nhưng khi đã quyết tâm sống thương yêu tử tế với người thì ta sẽ vượt qua những khó khăn đó để làm được điều tốt đẹp cho con người. Chính những lúc vượt qua khó khăn để sống tử tế với người, ta lại càng có thêm kinh nghiệm đạo lý để nói với người sau.
Rồi trong cuộc sống bình thường, ta phải giải quyết biết bao nhiêu công việc, phải va chạm với biết bao nhiêu con người. Phải giải quyết mọi việc làm sao cho phù hợp với đạo lý Phật dạy từng chút một là cả một trí tuệ và thích thú. Nếu lúc nào ta cũng tỏ ra hiền lành nhẫn nhịn lại có khi sai với đạo lý vì sự cứng rắn đôi khi rất cần thiết. Đó cũng là lý do tại sao chư Tổ đã đưa hìn! h tượn! g Hộ pháp cầm gươm đứng trước cửa chùa. Rồi phải luôn luôn bình tĩnh, không nóng giận, không hơn thua, không tham lam
để nói năng hay xử lý công việc mới có thể đúng với đạo được. Bề dày qua nhiều năm tháng cố gắng xử lý mọi việc đúng với đạo lý khiến cho ta hiểu đạo sâu xa hơn. Đây cũng là một yếu tố làm tăng trưởng nguồn đạo lý của nội tâm ta phong phú hơn.
5. Kinh nghiệm hoằng pháp
Cuối cùng là khi bước ra làm công tác hoằng pháp, ta lại còn nhiều cơ hội để rút tỉa kinh nghiệm. Biết bao nhiêu tình huống, bao nhiêu căn cơ, bao nhiêu nhân duyên khiến cho việc hoằng pháp rất thú vị mà cũng rất phức tạp.
Chỉ riêng đi tìm giáo lý đề tài cho hay đã là khó rồi, ngoài ra ta còn phải đối phó với những sự ganh tị, bất đồng, ngờ vực của nhiều người khác. Chưa kể là thời đại hôm nay các tôn giáo cạnh tranh chiêu dụ tín đồ, sẵn sàng bí mật mưu hại những người ưu tú của Phật giáo.
Phải nói là một người muốn làm sứ giả cho Như Lai phải chịu rất nhiều khó khăn cay đắng. Nhiều năm qua đạo Phật ta chọn cách thức hành đạo ít năng động truyền bá, chỉ lo xoay vào trong. Bây giờ tình hình rất khác, không thể duy trì đường lối cũ nữa.
Khi cuộc sống êm ả thanh bình, mọi người đều hướng về Phật Pháp thì ta chuyên sâu tu tập để tìm sự chứng ngộ tâm linh là đúng; nhưng khi cuộc sống nhiễu nhương, Phật Pháp bị đe dọa bởi các tôn giáo cực đoan, còn rất nhiều người chưa biết đến Phật Pháp thì ta phải chọn lối tu Đại thừa, nghĩa là hiểu rằng việc thúc liễm nội tâm vơí việc giáo hóa chúng sinh chỉ là duy nhất không thể tách rời.
Câu hỏi: Làm sao để có nguồn đạo lý vô tận giáo hóa chúng sinh?
Hoằng Pháp Phần 1 (Đàm Đạo)
HOẰNG PHÁP 3
THỰC HÀNH TIẾP XÚC VỚI ĐỐI TƯỢNG CHUNG QUANH CHÙA
1. Khả năng tiếp xúc trong phạm vi nhỏ là căn bản
Người làm công tác hoằng pháp phải có điều kiện tiên quyết là thương yêu chúng sinh vô hạn, lúc nào cũng mong muốn cho chúng sinh được thấm nhuần Phật pháp. Vì thế, người hoằng pháp phải thường xuyên tiếp xúc với chúng sinh để gieo duyên hóa độ. Có hai dạng tiếp xúc để giáo hóa, đó là xuất hiện trên bục giảng trước số đông, và gặp gỡ nói chuyện với số ít người.
Thường thì việc xuất hiện trên bục giảng đòi hỏi phải có nhân duyên, điều kiện, tổ chức, và không nhiều. Còn việc gặp gỡ với mọi người trong phạm vi nhỏ là điều dễ làm, nhiều cơ hội, và là căn bản của công tác hoằng pháp. Nếu chúng ta thành công mỗi khi tiếp xúc với vài người, khiến cho những người đó hoan hỷ tăng trưởng đạo tâm tức là ta xây đắp nhân duyên hoằng pháp của mình ngày càng lớn mạnh. Ai không thể tiếp xúc thành công trong phạm vi nhỏ thì chưa đủ nhân duyên hoằng pháp lớn.
Thường thì ta nên tổ chức gặp gỡ mọi người bằng cách tổ chức thăm viếng gia đình. Tuyệt đối Tăng Ni sinh không nên tự ý đi ra thăm viếng gia đình cư sĩ. Việc này phải được các vị lãnh đạo tự viện, giám hiệu nhà trường tổ chức, điều phối. Các vị lớn sẽ sắp xếp cho vài ba Tăng hay Ni thành một nhóm; mỗi nhóm sẽ phụ trách thăm viếng bao nhiêu gia đình tùy theo sự phân bố dân cư ở khu vực đó.
Nhờ có vài huynh đệ đi chung như vậy, ta được bảo bọc trong giới luật và thể hiện sự trang nghiêm của người xuất gia. Sau này, có khi ta phải đi một mình vì hoàn cảnh gì đó, ta cũng phải giữ tâm vô nhiễm với mọi chuyện của thế gia! n.
Nếu vì lo sợ ô nhiễm mà ta không dám tiếp xúc để giáo hóa thì ta rơi vào quan điểm Tiểu thừa; nếu tiếp xúc mà bị ô nhiễm thì ta thất bại. Vì vậy, vừa tránh bị rơi vào Tiểu thừa, vừa tránh thất bại, ta phải làm sao tiếp xúc mà không bị ô nhiễm. Ta chỉ đem giáo lý đến cho người mà không nhận đem về những phiền lụy ràng buộc của thế gian. Đây là bản lĩnh của một tu sĩ mà ta phải giữ suốt đời. Nhưng muốn như vậy, ta phải có công phu tu hành thật sự tinh tấn. Một yếu tố quan trọng để giữ tâm vô nhiễm nữa là đạo đức khiên hạ. Tâm khiêm hạ hỗ trợ ta không bị ô nhiễm. Nếu sau vài thành công mà ta kiêu mạn thì ô nhiễm sẽ đến liền. Việc tổ chức thăm viếng các gia đình cư sĩ là một thái độ vừa tích cực của đạo Phật, vừa chứng tỏ rằng đạo Phật không quan liêu, không ở một chỗ để chờ chúng sinh đến với mình. Năng lực hoằng pháp của Tăng Ni cũng bắt đầu từ việc tiếp xúc thăm viếng này.
2. Những gia đình chung quanh chùa
Những gia đình ở chung quanh chùa là một đối tượng rất đặc biệt, và cũng là đối tượng ưu tiên hàng đầu trong việc giáo hóa của người xuất gia. Nếu tất cả những gia đình chung quanh chùa đều được cảm hóa theo Phật thì sẽ tạo nên từng khu vực Phật giáo ấm cúng vững mạnh. Chùa là hạt nhân đoàn kết và những gia đình là các mái ấm thương yêu. Chùa sẽ là nguồn đạo lý giữ gìn phong hóa đạo đức cho cả vùng, và mỗi gia đình là nơi thực hiện các phong hóa tốt đẹp đó. Đôi khi có những xung đột mâu thuẫn giữa con người trong vùng, nhưng có khi chỉ cần chùa hòa giải là xong, không phiền phức tới luật pháp kiện tụng. Trẻ sẽ tới lui với chùa để được học hỏi giáo lý thường xuyên hơn, chia sẽ với cha mẹ gánh nặng giáo dục đạo đức cho trẻ đang lớn.
Mà như thế, chùa cũng lại được bảo vệ bởi những tín đồ thân yêu của mình. Đó chính là thành quách vững chắc xây dựng từ tấm lòng của mọi người.
Vì thế, việc tiếp xúc gặp gỡ để gieo duyên hóa độ với nhưng gia đình cư sĩ chung quanh chùa là một yêu cầu bức thiết của Tăng Ni, nhất là trong tình hình hiện nay các tôn giáo bạn cũng có chủ trương bảo bọc chùa bằng tín đồ của họ. Họ đang siêng năng dẫn dụ các gia đình quanh chùa theo đạo của họ dần dần.
Những gia đình cư sĩ chung quanh chùa cũng rất đa dạng khác nhau. Ta phải phân loại để có phương cách tiếp xúc thích hợp theo từng dạng.
- Gia đình theo Phật:
Đối với những gia đình này đã từ lâu thờ Phật, đi chùa, thì việc ta đến thăm viếng nói chuyện là điều rấ! t hợp lý bình thường, và dễ chịu. Những cuộc thăm viếng như thế làm tăng thêm tình thương mến giữa chùa và gia đình cư sĩ, đồng thời cũng nhắc nhở Phật tử ráng giành thêm thời gian tới lui tu học ở chùa. Thực tế là có những gia đình cư sĩ ở gần chùa mà lâu rồi không sắp xếp đi chùa lễ Phật sám hối, nghe giảng, đôi khi chỉ chạy qua cúng ít gạo, nhang, đậu hủ rồi biến mất. Chính những lần viếng thăm của Tăng Ni sẽ làm họ nhiệt tình với chùa trở lại.
- Gia đình chưa theo Phật:
Ở gần chùa mà chưa theo Phật là lỗi của Tăng Ni. Họ không có duyên nhiều để tự tìm tới chùa học hỏi, mà Tăng Ni cũng không ai tới thăm viếng người láng giềng hờ hững này. Từ nay, Tăng Ni phải quan tâm nhiều đến những gia đình sống gần chùa mà chưa theo Phật này. Chẳng riêng gì Tăng Ni, những Phật tử cũng phải giúp quý Thầy Cô trong việc này, nếu thấy ai ở gần chùa mà chưa biết Phật Pháp thì cũng phải tới lui thăm viếng gây cảm tình và hóa độ.
- Gia đình nghèo:
Lòng từ bi của đạo Phật sẽ thể hiện trước hết đối với những gia đình nghèo ờ chung quanh chùa. Dĩ nhiên chùa không thể nào lo xuể cho những người nghèo như thế, nhưng sự quan tâm, sự thăm hỏi, hoặc quyên góp giúp người nghèo khi bức ngặt cũng là thể hiện của đạo lý. Mọi người nhìn vào sẽ cảm mến đạo đức của chùa từ đó.
- Gia đình giàu:
Nếu gia đình ở gần chùa mà vừa biết đạo vừa khá giả thì sẽ làm tăng thêm sức mạnh cho chùa vì họ sẽ là thí chủ tốt. Chùa phải biết động viên hướng dẫn để họ phụ giúp chùa trong các Phật sự, nhưng đừng nhiều quá làm h�! �� thoái! tâm. Tăng Ni đến thực hành tiếp xúc với các gia đình này phải giữ gìn oai nghi đĩnh đạc để họ có tín tâm.
– Rất nhiều thành phần mà ta không thể phân loại hết, ví dụ người trí thức hay người bình dân, người làm viên chức nhà nước hay dân sự, người có nghề phức tạp hay nghề hiền lành, vân vân
Nói chung, đứng trên nóc chùa mà mắt ta nhìn thấy bất cứ nóc nhà nào thì ta cứ xếp tất cả gia đình đó thuộc diện chung quanh chùa và phải sắp xếp tiếp xúc thăm viếng để thực hành công tác hoằng pháp. Tăng Ni sinh thực hành công tác thăm viếng tiếp xúc này phải cố gắng xin các vị lớn sao cho để mình có thể thăm được vài gia đình theo nhiều thành phần khác nhau để lấy kinh nghiệm cho phong phú. Nên đi cho gọn trong một ngày để còn thời gian viết bài thu hoạch nộp cho giáo thọ.
3. Gây thiện cảm
Công việc chính của sự thăm viếng chính là nói chuyện đạo lý, nhưng trước hết ta phải chiếm được cảm tình của gia chủ đã. Gây thiện cảm có 2 phương pháp: Đạo và Thuật.
– Thuật có nghĩa là những cách thức lịch sự, những câu nói theo công thức, những hành vi khuôn mẫu có sẵn để làm vui lòng người, mà thiếu một tình thương chân thật. Ví dụ ta mang theo ít quà bánh cho trẻ, mang theo bó hoa cho chủ nhà, hỏi thăm sức khoẻ đúng bài bản, nhưng lòng ta lạnh băng. Đó là thuật. Thuật thì không đem lại kết quả lâu dài. Người tu không nên dùng thuật, mà phải dùng đạo.
– Đạo là những việc làm đem niềm vui cho người phải xuất phát từ tình thương chân thật. Trước khi đi đến gia đình nào, ta phải tìm hiểu sơ qua những đặc tính của gia đình đó về gia thế, kinh tế, hoàn cảnh, số người
Ta có thể chuẩn bị ít quà nho nhỏ nếu có thể, còn nếu Tăng Ni sinh ta nghèo quá thì thôi. Ta lễ Phật cầu gia hộ sao cho ta thương yêu họ, đem đạo lý đến cho họ, và họ được hoan hỷ quý kính Tam Bảo.
Nên cố gắng có cuộc hẹn trước hơn là đến đường đột. Gia chủ sẽ lúng túng và không thoải mái khi tiếp chuyện với ta nếu bị ta viếng thăm thình lình, vì họ còn nhiều việc phải làm đã lên chương trình. Khi đã chọn sẽ viếng thăm ai, ta nên tìm cách báo trước và xin họ cho cái hẹn. Nếu họ hỏi có việc gì, ta trả lời thành thật là chùa thăm viếng một chút để hỏi thăm.
Với những cư sĩ Phật tử thì hầu như rất vui vẻ khi được quý thầy cô ghé thăm. Nhưng với những người chưa phải đạo Phật thì có khi h�! �� cũng không mặn mà việc thầy cô ghé thăm. Có thể họ thoái thác không chịu gặp. Đối với những trường hợp như thế, ta phải nhớ đến công ơn Tam Bảo mà kiên cường bền chí, không nản lòng, quyết độ cho được những người khó độ.
Các tôn giáo bạn hay tổ chức đến thăm đường đột vì sợ hẹn trước bị từ chối. Ta có cách khác khi bị từ chối, là vẫn cám ơn và viết vài chữ trong một cái thiệp gửi thăm hỏi gia đình khó chịu đó. Vài lần như thế thì họ sẽ đổi thái độ và sẽ cho ta gặp. Ai mà kiên nhẫn đến với chúng sinh như thế thì sau này được nhiều thắng duyên trên bước đường hoằng pháp.
Khi đến trước cửa nhà, chuẩn bị bấm chuông, ta nên âm thầm nguyện cho tất cả mọi người biết thương mến nhau. Nhớ tránh giờ cơm vì có khi gia chủ không chuẩn bị cơm để đãi khách, mà để ta ra về lúc đang dọn cơm thì họ ngại.
Khi vào câu chuyện, ta hỏi thăm sức khỏe và vài điều vui vui về gia đình, nhưng đừng giống như công an điều tra hình sự. Nếu ta biết gia đình có điểm đặc biệt nào thì nên chủ động hỏi để gia chủ vui miệng kể cho nghe, ví dụ như con cái đoạt giải thưởng, nhà có con chó đặc biệt, nhà có làm công tác từ thiện, gia chủ là nhà thơ, vẽ tranh vân vân
Có người vui tính tự kể tự nói tùm lum, nhưng cũng có người ít nói, đợi hỏi mới nói, nhưng nếu ta hỏi hoài thì lại giống như điều tra tội phạm.
Điều quan trọng là gia chủ sẽ vui khi thấy ta đồng cảm với họ, quý trọng sở thích của họ, tôn trọng phẩm giá của họ. Nói chung ta phải hỏi han về những vấn đề họ quan tâm. Bất ngờ là có khi từ những vấn đề c�! �a gia ch! ủ, ta lại có dịp đề cập đến đạo lý. Đó là sự khởi đầu tốt nhất.
Lời khen dễ gây được thiện cảm nhất, vì thế, không nên tiếc lời khen ngợi nếu hợp lý. Khen hoài thì lời khen hết giá trị, giống như nịnh, chỉ thích hợp cho những người mất cân bằng tâm lý. Đa phần, người có lòng tự trọng không thích ta khen quá lời. Ta cũng không nên khen những điều có tính thế gian quá, ví dụ như khen kiểu tóc đẹp, khen áo quần model bốc lửa, chiếc xe máy sơn màu rùng rợn
Chỉ nên khen những gì chuẩn mực đứng đắn, ví dụ khen nghệ thuật trang trí nội thất, con cái lễ phép, bức tranh đẹp, bàn thờ tổ tiên độc đáo, vợ chồng gương mặt phúc hậu vân vân
Nếu có vấn đề gì ta không hài lòng thì chỉ nên tránh né, hoặc thành thật nói rằng chưa am hiểu vấn đề đó lắm, mong sẽ được tìm hiểu thêm.
Nếu đó là gia đình nghèo thì ta cũng nên nghĩ đến phương cách giúp đỡ, khoan nói ra, nhưng để ở trong lòng.
Không nên nhìn chăm chăm vào mắt người đối diện, sẽ gây khó chịu cho người cùng phái, hoặc gây hiểu lầm cho người khác phái. Chỉ nên thoáng nhìn một cách minh bạch vừa đủ rồi nhìn sang chổ khác.
Không nên tranh cãi, tuyệt đối, dù ta biết họ sai trăm phần trăm. Chỉ khi nào họ và ta đã trở nên thân thiết thì ta sẽ quyết tâm sửa chữa những sai lầm của họ. Còn ở bước ban đầu, chưa nên phê bình gì vội.
Tuy ta rất muốn chiếm cảm tình của gia chủ, nhưng vẫn phải giữ phẩm giá của mình, không có vẻ quá cần, không ra vẻ mềm yếu. Quan trọng là lòng ta luôn thương yêu tất cả chúng sinh.
Tùy theo trí tuệ mà ta sẽ có những cách gây được ! thiện c! ảm với gia đình. Đây là năng khiếu riêng, và nhân duyên riêng. Tuy nhiên, là Tăng Ni sinh đang thực hành bộ môn hoằng pháp, ta phải cố gắng hết sức mình.
3. Trao đổi đạo lý
Mục tiêu chính của ta là trao đổi đạo lý với gia chủ. Tất cả sự vất vả của ta để đến với chúng sinh cũng là vì đem đạo lý đến cho họ.
Có những gia đình từ lâu theo Phật nên khi ta nói chuyện đạo lý thì họ rất thích, miễn ta đừng nói quá dài. Còn những gia đình chưa biết Phật Pháp thì ta phải khéo léo khi muốn đưa đạo lý vào lòng họ. Dưới dây là những nguyên tắc để nói đạo lý:
– Nên nói chuyện về cuộc sống và những điều gia đình cư sĩ quan tâm, rồi chụp lấy một chỗ nào đó để nói về Nhân quả Nghiệp báo. Giáo lý về Nhân quả là mênh mông vô tận, nói hoài không bao giờ cạn, và cũng là giáo lý sườn cốt nhất trong đạo Phật. Ví dụ khi nghe cư sĩ khoe về đứa con học giỏi, ta có thể chụp lấy để nói rằng, cũng do gia đình ông bà cha mẹ ăn ở có đức nên con cái giỏi giắn. Rồi sau đó nói tiếp một số nhân quả khác.
– Nên dùng những từ ngữ thông thường mà mọi người đang sử dụng trong cuộc sống, tránh dùng những từ ngữ quá chuyên sâu trong kinh điển cổ khiến cư sĩ ngơ ngác. Ví dụ thay vì nói theo kinh là nhất tâm bất loạn, ta nên nói là tâm cực kỳ bình thản.
– Nếu gia chủ thắc mắc hỏi về giáo lý của Phật thì chớ nên nói cái mình hiểu sâu, cái mình tâm đắc, mà nên đoán xem gia chủ đang ở trình độ nào, quan tâm về vấn đề gì mà nói đạo lý liên quan đến tâm tình của họ. Ví dụ gia chủ hỏi sao mấy thầy đi tu, ta thấy rằng gia chủ đang bị gia đình hôn nhân không hạnh phúc, nên trả lời rằng, quý thầy đi tu vì biết ở đời không có tình thương bền vững, yêu th! ương nhau cho mấy rồi có chuyện không vừa ý là sẵn sàng hại nhau; quý thầy đi tu để tìm tình thương yêu chân thật, đi tìm tâm từ bi thương yêu hết tất cả, vân vân
– Khi nói chuyện, phải luôn luôn cảm nhận tâm tình của gia chủ ra sao, xem gia chủ có thích không, có chán không, có uể oải, phấn khởi, chăm chú, thờ ơ, gượng gạo, chân tình
hay không. Mới ban đầu chưa quen, có thể ta chưa nhận ra, nhưng lâu ngày, cộng với công phu tu thiền, ta có thể theo dõi từng diễn biến tâm lý của gia chủ rõ ràng để có lời nói thích hợp.
– Phải nói đạo lý mà nghe nhẹ nhàng như đang nói chuyện cuộc sống, không phải là một bài thuyết pháp trịnh trọng. Ta nên nhớ rằng, sự lịch sự, trân trọng, khúm núm kéo dài sẽ làm mệt mõi. Sự thoải mái sẽ làm mọi người có thể tiếp ta được lâu hơn, và còn muốn gặp lại. Muốn nói đạo lý mà nhẹ nhàng như đang nói chuyện đời thì ta phải luôn luôn dùng những ví dụ thực tế từ cuộc sống để chứng minh cho đạo lý.
– Nếu gia chủ chưa đồng ý về chỗ nào, mà ta cũng chưa thể thuyết phục được, thì nên tránh qua, để dành lần gặp sau khi ta đã có đủ lý luận để giải thích, và cũng tránh mất lòng. Những ai có đức lớn thì mới có thể phản bác điều sai của người khác thẳng thắn mà người ta không giận, còn lại thì ta nên tránh.
– Vì đối tượng hôm nay là những gia đình ở chung quanh chùa nên ta sẽ gợi ý về việc mời gia đình đến lễ Phật, nghe thuyết pháp, dự lễ, sám hối vân vân
Nếu ai chưa quy y thì ta nên khuyên cả nhà về chùa quy y. (Nói thêm, chùa phải có sổ quy y ghi chi tiết về Phật tử để quản lý ! và hư�! �ng dẫn lâu dài).
– Ta phải biết chọn lúc thích hợp để từ giã ra về, đừng ra về khi mà người ta đã quá mệt mõi. Phải ra về khi gia chủ và gia đình đang vui vẻ. Trước khi về nên nói lời chúc lành cho gia đình, và hẹn gặp lại.
Các Tăng Ni sinh phải thực hiện cuộc viếng thăm như vậy để thực tập các kỹ năng hoằng pháp dần dần. Sau khi thăm được vài gia đình như vậy, mỗi người về làm bài thu hoạch hộp lên giáo thọ về phương cách, về ưu khuyết điểm. Bài làm càng dài càng tốt.
Chúc các huynh đệ thành công.
HOẰNG PHÁP 4
Khác với bài thực hành hôm trước là ta chỉ tiếp xúc với những dân chung quanh chùa để gieo duyên và gây thiện cảm. Bài thực hành hôm nay là đến thăm những gia đình nào mà ta nghĩ là thích hợp để nói về chủ đề Quy y Tam bảo. Dĩ nhiên đó phải là những gia đình chưa Quy y, nhưng cũng phải đã có chút tâm mến mộ Phật Pháp. Trách nhiệm của ta là làm sao thuyết phục họ về chùa làm lễ quy y để trở thành Phật tử thật sự.
Trước khi thực hành bài học này, ta phải chuẩn bị tại chùa những quan điểm về Quy y Tam bảo, về tổ chức quản lý Cư sĩ.
– Thứ nhất, lễ Quy y phải gây được ấn tượng suốt đời cho Phật tử. Không thể tổ chức lễ Quy y quá sơ sài. Phải giải thích mỗi điều kỹ lưỡng cho Phật tử hiểu. Phải trao cho Phật tử thêm Bảy điều nguyện để họ tích cực tu hành và hộ trì Phật Pháp.
– Thứ hai, sau khi làm lễ Quy y cho Phật tử xong,chùa phải có kế hoạch tổ chức quản lý Phật tử lâu dài về sau. Nên đưa Phật tử vào từng nhóm, từng chúng, từng đạo tràng thích hợp. Sự gắn bó nhiều người chung một nhóm để có trách nhiệm lẫn nhau giúp cho họ tinh tấn hơn, tránh được tình trạng quy y xong rồi lại lơ là với chùa.
– Giấy chứng nhận Quy y, mà ta quen gọi là lá phái quy y, phải được in thật đẹp, offset nhiều màu (xin tham khảo lá phái chùa Phật Quang).
– Chùa phải lưu lại ảnh của Phật tử quy y, lưu lại địa chỉ, chi tiết nhân thân, và đặc biệt là mối quan hệ giữa các Phật tử nếu có. Nên sử dụng một phần mềm chuyên dùng để quản lý hồ sơ Quy y của P! hật tử.
Yêu cầu của bài học này là sau khi nói chuyện về đề tài quy y Tam bảo, ta phải đạt được kết quả cụ thể là hầu hết những gia đình đó đồng ý về chùa Quy y. Nếu không thuyết phục được thì xem như ta không đạt yêu cầu về điểm số thực hành. Bài viết thu hoạch được chấm điểm cũng dựa trên số người đồng ý về chùa quy y.
Khác với một bài thuyết pháp hầu như một mình giảng viên nói liên tục, những cuộc tiếp xúc như thế này là cuộc nói chuyện có hỏi có đáp, có tùy cơ ứng biến, có những lúc pha trò lãng sang chuyện khác cho đỡ căng thẳng. Vì vậy, tiếp xúc đàm đạo có vẻ dễ hơn thuyết pháp, và cũng chính là sự chuẩn bị cho việc thuyết pháp sau này. Ai giỏi đàm đạo cũng dần dần sẽ giỏi thuyết pháp.
Ta sẽ tập triển khai từng đề tài giáo lý qua những lần đi thực hành tiếp xúc với gia đình Phật tử như thế. Nếu trong suốt quá trình đàm đạo như thế, ta có thể thu hút sự quan tâm chú ý của cư sĩ thì sau này ta sẽ thu hút sự chú ý của một cử tọa đông đảo hơn khi đứng trên bục giảng.
Ta cũng có thể chuẩn bị một ít tài liệu, kinh sách, CD, Tape
để gửi lại biếu tặng trước khi ra về.
2. Nêu ra những ý nghĩa cao quý của việc Quy y Tam Bảo
Muốn cho gia đình cư sĩ đồng ý về chùa làm lễ Quy y Tam Bảo, ta phải nêu ra ý nghĩa cao quý của việc Quy y là như thế nào. Tâm lý con người chỉ chịu làm điều gì khi thấy rõ điều đó là có lợi cho họ. Chừng nào gia đình cư sĩ thấy được sự thiêng liêng khi được trở thành một đệ tử Phật chính thức, họ sẽ đồng ý.
Trong cách nói của ta, nhớ đừng gây hiểu lầm rằng ta cần có nhiều tín đồ cho oai. Phải làm sao cho cư sĩ thấy rõ rằng ta khuyến khích họ quy y là hoàn toàn vì lợi ích cho họ.
Trước tiên ta hỏi gia đình đã quy y chưa, ai đã quy y và ai chưa quy y, nhưng thật ra ta đã phải biết trước là gia đình chưa quy y, hoặc còn người chưa quy y. Câu hỏi chỉ là cái cớ để bắt chuyện cho dễ dàng.
Cư sĩ sẽ đáp là còn chưa quy y, và sẽ hỏi lại quy y là gì, có phải cạo đầu vô chùa tụng kinh gõ mõ hay không. Ta sẽ đáp là Quy y là làm lễ để trở thành đệ tử chính thức của Phật, có lời phát nguyện làm nhân duyên cho muôn đời sau, có nhận lãnh giới pháp để gìn giữ, có nhận lãnh những lời nguyện đễ thực hành.
Cư sĩ sẽ hỏi là: Không cần quy y mà trong tâm vẫn tự xem là đệ tử Phật rồi có được không?
Đáp: Trong tâm kính Phật thì Phật cũng chứng, nhưng không bằng ở trong lễ quy y phát nguyện theo Phật và được chư Tăng hướng dẫn chứng minh. Khi phát nguyện như thế, ta đã gieo duyên với Tam Bảo vĩnh viễn vô lượng kiếp sau. Nhờ một lần quy y như vậy mà ta sẽ mãi mãi gặp Phật Pháp khi sinh ra bất cứ nơi đâu.
Hỏi: Nếu không thể giữ giới nên không muốn quy y bây giờ, đợi đến! khi nào giữ được giới thì quy y được không?
Đáp: Vô thường không chờ đợi ai. Quy y được sớm giờ nào hay giờ nấy. Những giới căn bản của người tại gia cư sĩ không có gì là khó, và cũng là những điều kiện cần thiết để ta làm một người có nhân cách giữa cuộc đời. Ta biết kềm chế một chút, chịu khó giữ những giới cấm một chút, vậy mà ta sẽ được an ổn về sau, được mọi người nể phục. Hãy mạnh dạn bước tới, bước về lẽ phải. Hãy từ bỏ những thói quen không thích đáng để có thể giữ giới đàng hoàng.
Hỏi: Nếu phạm giới thì sao?
Đáp: Khi nào phạm thì đến gặp quý thầy mà sám hối. Nhờ chân thành sám hối đó mà ta được bớt tội và thêm sức mạnh để tinh tấn hơn.
Hỏi: Giữ giới chưa xong mà quý thầy bắt giữ thêm năm bảy điều nguyện gì nữa thì làm sao giữ được?
Đáp: Giới có tác dụng để ta không làm điều xấu, còn bảy điều nguyện để ta có hướng làm những điều lành. Chính nhờ 7 điều nguyện này mà ta tạo được vô số công đức lành cho đời mình. Hơn nữa, giữ giới có vẻ trầm trầm, còn làm những điều thiện thì hào hứng phấn khởi hơn nhiều. Đây là sự bổ sung qua lại giữa giữ giới và phát nguyện.
Hỏi: Quy y Phật rồi Phật có phù hộ không?
Đáp: Đương nhiên con Phật thì Phật phải gia hộ rồi, tuy nhiên còn tùy thuộc vào phước nhiệp của mỗi người nữa. Nếu không quy y, ta bị tai nạn trăm phần trăm; quy y rồi mức độ ảnh hưởng giảm bớt. Nhưng ta phải làm phước gì đó để sám hối. Sự che chở của Phật là tạm thời qua cơn cấp bách, chính phước của ta sẽ che chở ta bền vững hơn. Những may mắn t! rong đ�! �i cũng vậy. Ta cầu xin thì Phật cũng ban cho, nhưng chỉ là tạm thời. Chừng nào phước do ta tạo ra thật dày thì sự may mắn là rất ổn định.
Hỏi: Quy y rồi mà bận quá ít đến chùa có sao không?
Đáp: Dĩ nhiên là có sao rồi, vì ít đến chùa làm sao học hỏi được đạo lý. Khi quy y, ta sẽ được dặn dò là siêng năng học hỏi giáo lý, vì vậy phải siêng đến chùa để học hỏi, nhất là những dịp chùa có thuyết pháp.
(Khi ta nhận thấy gia chủ có vẻ lười biếng, muốn quy y mà ngại đủ thứ chuyện, thì ta không nên chìu ý họ, cứ phải khuyến khích họ tinh tấn dũng mãnh tu học vì sự an lạc lâu dài cho họ. Hãy ca ngợi sự cao thượng của người biết siêng năng đi theo chánh pháp).
Đời rồi sẽ qua mau. Nhiều người đến tuổi già tiếc nuối tại sao lúc trẻ không biết tu hành nên về già hụt hẫng đau khổ đủ thứ chuyện. Ta may mắn biết được Phật Pháp sớm hơn giờ phút nào là hay giờ phút nấy, vì vậy phải gắng lên.
Hỏi: Quy y rồi được cái gì?
Đáp: Được là đệ tử Phật. Đó là niềm hạnh phúc nhất trên đời (coi chừng họ mỉm cười). Biết bao nhiêu người trên thế giới này sai lầm đi theo các con đường không chân chính. Nhân duyên đó sẽ kéo họ đi xa không hy vọng ngày dừng lại.
Hỏi: Mấy đạo kia cho tiền người nào theo đạo. Sao đạo Phật không làm như vậy?
Đáp: Họ cho tiền nhưng không bao giờ cho được chân lý. Giáo lý của họ cạn cợt và không phù hợp với sự tiến bộ của khoa học. Họ phải dùng tiền để mua tín đồ. Nếu ta để cho họ mua mất linh hồn của mình với giá vài triệu thì hóa ra giá trị ta rẻ quá. Hơn nữa, đồng tiền của họ ! nhiều k! hi có nguồn gốc tội lỗi do làm ăn phi pháp. Ta hưởng đồng tiền đó thì nghiệp càng nặng thêm. Quý thầy cô trong đạo Phật không chủ trương làm giàu, không chủ trương làm ăn phi pháp nên không có tiền để mua tín đồ. Quý thầy cô chỉ giới thiệu một chân lý, và ai là người có con mắt trí tuệ sẽ tự nguyện tìm về.
Hỏi: Nhiều khi kẹt quá, họ cho tiền cũng phải nhận để xoay sở.
Đáp: Nếu kẹt phải lấy thì cứ lấy, nhưng đừng theo đạo.
Hỏi: Lấy tiền rồi mà không theo đạo thì kỳ quá.
Đáp: Có một vùng đảo ở miền trung cũng vậy, người dân được phát tiền đều khắp cho từng gia đình, rồi yêu cầu phải theo đạo. Người dân đồng lòng lấy tiền, nhưng không theo đạo. Mấy người truyền đạo hỏi tại sao lấy tiền rồi mà không theo đạo. Dân cười trừ trả lời rằng không quen theo đạo khác bỏ ông bà, thôi từ từ tính, có tiền cho nữa xài chơi.
Hỏi: Sao thấy theo đạo Phật phải cúng dường không, còn theo mấy đạo kia thì được giúp đỡ?
Đáp: Ban đầu họ giúp đỡ, sau khi làm có tiền rồi thì phải nộp 10% tiền lương mỗi tháng đó, không ngon lành gì đâu. Còn việc cúng dường để giúp đỡ quý thầy cô tu học giáo hóa là hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc. Hơn nữa, khi ta cúng dường đúng người chân tu, ta được phước lành rất lớn, về sau những sự may mắn sẽ đến tìm ta đầy nhà, đừng lo. Tuy nhiên, Tăng Ni đạo Phật cũng phải bổ sung các hoạt động của mình, nghĩa là có thực hiện việc từ thiện xòa đói giảm nghèo, giống như Nhà nước. Chùa sẽ kêu gọi lập quỹ xóa đói giảm nghèo, giúp vốn cho các hộ nghèo làm ăn. Nếu các Phật tử bi�! �t giúp ! nhau làm ăn thì đạo Phật sẽ mạnh lắm.
Hỏi: Trước kia có quy y rồi, từ nhỏ, bây giờ không còn nhớ gì hết, muốn quy y lại được không?
Đáp: Nên quy y lại, vì ta phải nhớ buổi lễ quy y suốt đời mình.
Hỏi: Trong nhà có người quy y rồi, người chưa quy y, nên việc thờ Phật gặp khó khăn.
Đáp: Nếu gia chủ là người có quyền thì nên kêu gọi tất cả mọi người trong nhà về chùa quy y tất. Nếu còn có ai có quyền hơn mà chưa tin Phật thì ta nên khéo léo kiên nhẫn trao đổi đạo lý với người đó để tìm sự đồng thuận. Nếu quá khó thì nên cầu Phật gia hộ thêm. Quyết tâm của người Phật tử là đưa cả nhà về với Chánh pháp, không bao giờ lui bước.
Hỏi: Trong nhà có con cái lập gia đình rồi theo đạo khác mất, bây giờ làm sao?
Đáp: Hầu hết các đạo khác đều ngấm ngầm bắt buộc phải theo đạo nếu lấy người trong đạo của họ. Bên ngoài họ vẫn chủ trương đạo ai nấy giữ, nhưng con chiên của họ tỉ tê năn nỉ người yêu theo đạo dữ lắm. Đây cũng là sách lược toàn cầu của họ dùng hôn nhân để thu gom thêm tín đồ. Nếu việc đã lỡ rồi thì ta không cần phải làm gì thêm, chỉ việc cho con mình nghe thêm giáo lý của Phật, tự nhiên chính con mình sẽ là người giới thiệu đạo Phật cho bên xui gia. Nhiều cặp vợ chồng cũng như vậy, cuối cùng cả 2 đều yêu quý đạo Phật khi được hiểu ra vấn đề.
Hỏi: Quy y chùa này, nhưng thỉnh thoảng đi chùa khác có sao không?
Đáp: Đó là điều rất tốt. Phật tử đi qua chùa này chùa kia cũng góp phần làm cho Phật giáo chan hòa đoàn kết hơn. Một bổn sư tốt thường khuyên Phật tử biết xem tất cả các chùa! như m�! �t mà thôi. Tuy nhiên, Phật tử cũng phải biết chọn lựa nơi nào mình có thể nương tựa học hỏi được.
Hỏi: Sao không thấy chùa mở lớp dạy giáo lý cho Phật tử giống như các đạo khác hay có lớp giáo lý cho tín đồ của họ?
Đáp: Tuỳ theo điều kiện của mỗi chùa khác nhau. Có chùa mở, có chùa không. Tuy nhiên nguồn băng sách trong đạo Phật cũng rất dồi dào, Phật tử có thể tham khảo dễ dàng. Dần dần rồi Giáo hội cũng tạo điều kiện cho các chùa có những khóa giảng vào dịp sám hối hay chủ nhật cho Phật tử.
Hỏi: Làm sao cho trẻ có dịp học giáo lý cho lớn lên có đạo đức thêm?
Đáp: Chùa cũng có hướng sinh hoạt cho trẻ, vừa học giáo lý, vừa sinh hoạt văn nghệ, vừa làm từ thiện, vừa học các kỹ năng vân vân
Cha mẹ phải khuyến khích con mình tham gia sinh hoạt nhóm Phật tử trẻ của chùa. Nếu con đi dự đều đặn thì cha mẹ khen thưởng.
Hỏi: Quy y làm đệ tử Phật rồi, nếu biết thầy cô có lỗi, mình được quyền nói không?
Đáp: Đây là điều tế nhị. Phải làm sao có thể góp ý một cách riêng tư, chân thành, thân ái với vị đó nếu mình cho rằng vị đó có lỗi. Vì thật ra đó cũng chỉ là ý kiến riêng của mình chứ chưa chắc vị đó có lỗi thật. Ta phải trực tiếp lắng nghe vị đó trình bày cái đã. Tuyệt đối không nên đem nói ra bên ngoài làm mất uy tín của đạo.
Đôi khi ta phải lái câu chuyện qua vấn đề khác cho không khí thoải mái một chút trước khi trở lại thuyết phục gia chủ về Quy y. Thay vì để cho gia chủ hỏi, có khi gia chủ cũng không biết hỏi gì. Vì vậy, ta có thể lập câu hỏi để cho không khí đừng tẻ nhạt. Ta hỏi han vừ! a thân t! ình vừa không có vẻ tò mò soi mói vào chuyện riêng của gia chủ. Ta hỏi như thế nào để gia chủ nhận ra rằng ta quan tâm quý mến họ. Những câu hỏi về sức khỏe, về sự học hành của trẻ, về sở thích giải trí vân vân
Nếu ta hỏi: Sức khỏe ông bà tốt không? Sẽ nghe có vẻ máy móc và không chuyên sâu.
Nên hỏi: Ong bà vẫn kiểm tra đường huyết chứ ạ? Vâng, chúng tôi vẫn kiểm tra, có cao một chút nhưng chưa nguy hiểm lắm. Khi đường có dấu hiệu hơi cao như thế thì ta nên ăn uống theo nguyên tắc là chỉ ăn khi nào bụng đói thôi ạ. Nếu bụng chưa đói thì tuyệt đối không bỏ gì vô miệng, dù cho tới giờ ăn rồi. Chúng tôi vẫn tập thể dục đều đặn nên duy trì được thể trạng tạm ổn. Quý quá, thật vậy, không thuốc thang gì quý bằng tập luyện. Nếu ông bà cần nghiên cứu thêm khí công thì mời về chùa nhé. Khí công thích hợp cho tuổi cao, nhẹ nhàng mà hiệu quả. Thế các cháu học tốt chứ ạ, cháu lớn nhất học lớp mấy, hay đã đi làm rồi ạ?
Đại khái là trong khi nói chuyện về chủ đề Quy y, ta vẫn sử dụng các nguyên tắc gây thiện cảm của bài học trước xen vào cho thoải mái.
3. Vài điểm cần chú ý khi đàm đạo
– Đừng để gia chủ có cảm giác ta đang tranh luận
và quyết tâm chiến thắng họ. Có thể ta vừa trình bày điều gì đó rất mới mẻ đối với họ, nhưng vẫn nhẹ nhàng như là gia chủ đã biết rồi, và ta chỉ đi tìm sự đồng thuận mà thôi.
– Đừng để gia chủ nghĩ thầm trong bụng rằng ta
thuộc loại người nói nhiều quá. Ta phải biết nói vừa phải, biết tạo ra những khoảng dừng, khoảng trống hợ! p lý. V�! � khi cần phải kiên nhẫn lắng nghe gia chủ trình bày quan điểm của họ.
– Ta biết chăm chú nghe, và cũng biết giữ tâm
trạng thoải mái, không vút vắt chạy theo điều họ nói đến nỗi quên mất công phu chánh niệm tỉnh giác của người xuất gia. Có cái gì đó chừng mực, vừa quan tâm đến tâm tư tình cảm của họ, vừa tự tại với vô số việc trên đời.
– Những người có trí tuệ nhậm lẹ, có thể vừa nghe
xong câu hỏi là lập tức có dàn ý trả lởi hoàn chỉnh, không cần suy nghĩ. Nếu ta chưa phải hạng người đó thì phải biết cầu Phật gia hộ mỗi khi đi làm công tác hoằng pháp như thế này. Thật sự có nhiều câu hỏi ngoài dự kiến, ngoài những bài vở ta đã học. Ta cũng phải trả lời cho tốt để gây niềm tin cho gia chủ.
– Nếu cảm thấy chưa thuyết phục họ về Quy y
được thì chỉ nên giữ thiện cảm để lần sau đến nữa chứ không chịu thua.
– Còn ai đã đồng ý về chùa Quy y rồi thì ta lấy
danh sách về cho chùa chuẩn bị lá phái mọi thứ. Ta vẫn theo sát cho tới ngày họ làm lễ Quy y hoàn tất, kẻo không ai nhắc nhở, họ lại lơ là quên mất.
Đưa người về chùa Quy y là kết quả đầu tiên của công tác hoằng pháp. Chúc qúy Tăng Ni sinh thành công.
Hoằng Pháp Phần 1 (Đàm Đạo)
HOẰNG PHÁP 5
NÓI CHUYỆN VỀ CHỦ ĐỀ NHÂN QUẢ
1. Giáo lý nền tảng
Nói chuyện về luật Nhân quả Nghiệp báo là bản lĩnh chính của người làm công tác hoằng pháp. Luật Nhân quả có ưu điểm là:
– Lý giải nhiều điều trong cuộc sống đời thường.
– Làm nền tảng cho việc xây dựng Đạo đức xã hội.
– Định hướng cho sự tu hành giải thoát trong đạo Phật.
Vì vậy, không bao giờ ta sợ người khác nhàm chán nếu ta nói mãi về luật Nhân quả Nghiệp báo như thế. Chỉ có trí tuệ của ta bị giới hạn chứ đề tài về luật Nhân quả là vô hạn. Bất cứ việc gì trên đời cũng có thể nhìn bằng con mắt Nhân quả để lý giải và giải quyết. Người làm công tác Hoằng pháp phải giỏi về giáo lý Nhân quả để làm căn bản vững chắc cho toàn bộ giáo lý của mình về sau. Sau này, dù ta phải giảng rất nhiều đề tài khác nhau, nhưng tất cả đều phải phù hợp với giáo lý Nhân quả. Bất cứ giáo lý nào cũng phải đặt trên nền tảng Nhân quả.
Vì vậy, ngay từ bây giờ, ta phải thực hành nói chuyện về giáo lý Nhân quả với nhiều người để rèn luyện lý luận và trí tuệ về giáo lý Nhân quả. Bài học hôm nay chỉ yêu cầu ta đến tiếp xúc với Phật tử để trao đổi đàm đạo về giáo lý Nhân quả một lần rồi về viết bài thu hoạch. Nhưng ta phải biết khôn là phải tìm cơ hội để đàm đạo về luật Nhân quả thường xuyên. Mỗi khi gặp Phật tử, ta nên chủ động hỏi han trò chuyện rồi chêm vô vài giáo lý Nhân quả. Nếu họ thích thú thì nói thêm nhiều càng tốt. Nói chung, ta phải thủ sẵn một bụng Nhân quả để dùng suốt đời.
Phật cũng khen ngợi những ai biết truyền bá giá! o lý Nhân quả cho mọi người, vì vậy một giảng sư phải hiểu sâu sắc đường đi của Nhân quả để hướng dẫn giải thích cho mọi người. Ta phải đọc các sách nói về Nhân quả, các đoạn kinh do chính Phật nói về Nhân quả để hiểu về Nhân quả cho chính xác. Sau đó, ta quan sát cuộc sống và suy luận về đường đi của Nhân quả để càng ngày càng thấy rõ thêm.
Hiểu về Nhân quả không thôi thì vẫn chưa đủ để dựng thành Đạo đức cho bản thân, cần phải huân tập tư tưởng lành, tạo nên tư tưởng lành, khởi lên tư tưởng lành thường xuyên thì đạo đức mới xuất hiện. Tuy nhiên, chính vì hiểu Nhân quả mà ta mới yêu quý Đạo đức và đi tìm Đạo đức. Nếu rất nhiều người trên đời cùng tin hiểu Nhân quả thì xã hội sẽ thay đổi rất nhiều, mọi người sẽ tự biết tránh ác làm lành.
2. Dẫn vào chủ đề Nhân quả
Để tạo ra cơ hội nói chuyện về chủ đề Nhân quả cho việc thực hành hoằng pháp, ta phải chủ động đến với cư sĩ. Hoặc là ta hẹn trước một cuộc thăm viếng tại nhà, hoặc là ta nhân dịp đón tiếp Phật tử đến thăm chùa, hoặc bất kỳ một dịp gặp gỡ nào trên chuyến xe khách, nơi công cộng vân vân
để mở lời cho việc trao đổi về giáo lý Nhân quả. Thường là ban đầu ta chỉ hỏi han xã giao về sức khỏe, gia đình. Nếu khách có vẻ cởi mở trò chuyện, ta có thể đi sâu vào gia thế để tìm cơ hội. Cơ hội chính là khi khách kể về một đặc điểm nào đó hoặc vui hoặc buồn của đời họ. Nếu họ nói rằng họ hay được giúp đỡ, ta liền chụp lấy cơ hội để nói rằng:
– Chắc chắn kiếp trước đạo hữu hay thương người
– giúp người nên bây giờ đi đâu cũng được quý mến giúp đỡ.
Hỏi: Sao tôi vẫn hồ nghi về kiếp trước kiếp sau quá. Nghe trong đạo Phật hay nói về luân hồi nhưng chỉ là niềm tin chứ chưa có gì chứng tỏ xác thực.
Đáp: Thế đạo hữu cho rằng mọi việc ngẫu nhiên sao. Sở dĩ ta cho rằng ngẫu nhiên vì ta chưa tìm ra nguyên nhân thôi. Nếu ta biết việc gì cũng có nguyên nhân thì ta sẽ không chấp nhận chủ trương ngẫu nhiên nữa. Tại sao bao nhiêu người khác không được cái ngẫu nhiên may mắn giống như bạn?
Hỏi: Vì có thể tôi có đặc điểm nào đó như ngoại hình đẹp, thái độ dễ mến, khéo léo cư xử vân vân
Đáp: Vậy những ưu điểm đó ở đâu ra, ngẫu nhiên nữa chăng?
Hỏi: Có thể do gia đình tôi giáo dục un đúc tôi.
Đáp: Tại sao bạn sinh vào gia đình đó, ng! ẫu nhiên chăng?
Hỏi: Nếu cứ hỏi hoài thì không ai trả lời hết được. Tạm gác một bên, hãy nói thêm giùm tại sao người đau khổ người sung sướng?
Đáp: Chúng ta hỏi hoài để biết được rằng luôn luôn còn một lý do phía trước chứ không bao giờ là ngẫu nhiên. Trong những lý do để giải thích cho ta biết về đau khổ hay lầm than của chúng sinh chính là luật Nhân quả. Nếu ta đã từng làm cho người đau khổ thì ta sẽ bị dồn vào đau khổ mà không tài nào tránh được; nếu ta đã từng đem niềm vui đến cho người thì buộc hạnh phúc phải tìm đến ta.
Hỏi: Vị thần thánh nào lo việc thưởng phạt như thế?
Đáp: Nếu có thần thánh lo việc thưởng phạt cho con người thì vị đó cũng phải dựa trên sự công bằng, có nghĩa là vị đó phải thuận theo luật Nhân quả mà thưởng hay phạt. Vị đó không thể thưởng cho người ác, cũng như không thể phạt cho người thiện.
Nếu khách than thở về những ngang trái khổ sở trong đời thì ta cũng chụp lấy cơ hội để giới thiệu về giáo lý Nhân quả. Ta sẽ nói rằng hãy vững lòng chịu đựng vượt qua đau khổ mà không để cho suy sụp tinh thần. Đau khổ có thể lấy mất của ta bất cứ thứ gì, nhưng không thể lấy được của ta tâm hồn vững chải và kiên định. Tại sao, bởi vì ta biết những đau khổ hôm nay đều do một sai lầm nào đó trong quá khứ. Có lẽ ta cũng đã từng gây đau khổ cho ai đó nên bây giờ quả báo trở lại. Ta biết lỗi và can đảm nhận lỗi.
Hỏi: Trong khi tôi đang đau khổ, thầy lại trách tôi là đã sai lầm trong quá khứ.
Đáp: Không có gì làm ta bình yên hơn một khi ta can đảm nhận lỗi về mình. Khi nhận lỗ! i, ta b�! �ng có sức mạnh kỳ lạ để chịu đựng nghịch cảnh.
Hỏi: Nếu khi gặp nghịch cảnh, ai cũng buông xuôi chịu đựng thì còn gì là sự tiến bộ của loài người?
Đáp: Người hiểu Nhân quả sẽ biết chịu đựng đau khổ vì hiểu đó là nhân quả của quá khứ, nhưng cũng biết phấn đấu làm những điều lành cho vị lai. Họ không buông xuôi đâu, mà trái lại, luôn luôn phấn đấu để xây dựng một tương lai tốt đẹp. Chỉ khác với người không hiểu Đạo lý đã luôn luôn phấn đấu tranh giành hơn thua tham lam ác độc, người hiểu Nhân quả luôn luôn phấn đấu đem điều tốt lành cho mọi người trước rồi hạnh phúc sẽ đến với họ sau.
Hỏi: Làm sao biết chắc là ta đã làm điều gì sai trong quá khứ để mà chấp nhận và hối cải?
Đáp: Khi thấy ta phải chịu đựng đau khổ trong hiện tại là biết ngay ta đã từng làm điều sai trong quá khứ. Hãy can đảm nhận lỗi như thế và sẽ gặp may mắn hơn. Đây là điều lạ, ai chấp nhận mình có gây nhân xấu khi sự việc không hay xảy ra thì tự nhiên lập tức điều may mắn cũng xảy ra để hóa giải bớt.
Trước tiên ta phải nghe Phật nói nhiều về những trường hợp Nhân quả điển hình, sau đó rút dần ra các nguyên lý về nhân quả. Ví dụ, Phật nói người bỏn xẻn không biết bố thí sẽ đưa đến nghèo túng; nhưng Phật cũng nói cho tiền bừa bãi không đúng người đúng việc cũng gây nên nghèo túng (Nikaya).
Phật nói việc khinh bỉ người khác có thể khiến ta mắc bệnh lây nhiễm đáng sợ để cho mọi người xa lánh trở lại; còn những bệnh khác hầu hết do sát sinh hay làm tổn hại chúng sinh. Một cái chân tật nguyền có thể do phá đư�! �ng đi c! ông cộng, hoặc do đã dùng chân đó đá ai bị thương.
Phật luôn luôn xác định nguyên nhân ban đầu để đưa đến thánh quả giải thoát về sau là đã từng kính trọng một vị thánh giải thoát nào đó rồi. Dĩ nhiên từ lúc gây nhân đến lúc kết quả là ta phải nỗ lực trên nhiều phương diện tu hành khác nữa, nhưng chính cái nhân kính trọng bậc thánh vẫn là động lực đầu tiên.
Hỏi: Vì sao một người được ngoại hình xinh đẹp?
Đáp: Ngoại hình xinh đẹp có thể do một trong những nguyên nhân sau đây: Hoặc là người đó tâm hạnh hiền lành từ ái; hoặc là người đó hay làm đẹp cho người khác; hoặc là người đó hay trang trí cho những nơi thờ tự các bậc Thánh; hoặc là người đó hay khen những ưu điểm của người khác; hoặc là người đó hay giúp đỡ người cũng khiến mình có gương mặt đẹp. Suy ngược lại thì ta có nguyên nhân làm ngoại hình suy kém.
Hỏi: Có những người giàu nhưng tâm hạnh không tốt. Lẽ ra kiếp trước là người tốt thì kiếp này mới giàu. Kiếp trước là người tốt thì kiếp này cũng phải còn lại chút nào tính tốt chứ?
Đáp: Có nhiều nguyên nhân đưa đến giàu sang. Hoặc là người đó thật sự tốt bụng tử tế nên bây giờ giàu. Nhưng tốt gì tốt thì vẫn chưa thể tuyệt đối hoàn hảo, vẫn còn có nghịch duyên với ai đó, vì vậy, kiếp này họ vẫn tốt bụng nhưng lại dở hơi với vài người khác, có khi với ta, nên ta thấy họ giàu mà không tốt. Hoặc là người đó tốt xấu lẫn lộn nên cái phước giàu sang được hưởng mà cái họa nghèo khó vẫn lơ lửng đâu đây, tính tốt vẫn còn và tính xấu vẫn xen vào. Hoặc là người này làm điều tốt! do đư�! ��c phân công chứ không thật lòng. Bây giờ họ được giàu mà tâm địa không tốt.
Hỏi: Còn những người nhảy xuống sông cứu người rồi chết đuối luôn thì sao? Tại sao họ làm điều tốt mà không được hưởng phúc lành?
Đáp: Nếu làm điều tốt xong thì lập tức phúc lành xảy ra liền thì chắc cả thế gian này giành giật nhau để làm phúc lành cả. Lúc đó, người ta sẽ làm phúc để được hưởng phúc chứ không phải vì đạo đức nhân ái. Chính vì phúc lành không xảy ra liền nên ta mới có thước đo đạo đức thật sự của con người khi họ làm điều phúc thiện. Bất cứ việc làm thiện nào cũng phải có hao tốn. Bố thí phải tốn tiền; làm giúp thì phải tốn sức; cứu người trong cơn nguy hiểm thì có khi phải tốn luôn cả tính mạng của mình. Chính vì sự hao tốn đó, ta mới biết được ai là người tốt thật sự, và quả báo khi xảy ra cũng rất là xứng đáng. Nhất là những người hy sinh thân mạng mình để bảo vệ đất nước hay cứu người thì phúc lớn vô cùng. Ta thương xót và cảm phục những anh hùng đó, ta đau theo cái đau của những người thân còn lại, nhưng ta tin tưởng những anh hùng đó được nhiều vinh quang sau cõi chết và trong kiếp vị lai.
Hỏi: Do đâu một người được quyền chức địa vị?
Đáp: Khi có quyền chức địa vị, ta được nhiều người kính phục. Vậy chắc chắn kiếp trước ta phải là người biết kính trọng những người đáng kính. Khi có quyền chức địa vị, ta có quyền quyết định công việc của người khác, có quyền quyết định số phận của người khác, buộc người khác phải vâng lời mình. Vậy chắc chắn kiếp trước ta phải là người ban ! ân rất! nhiều khiến cho nhiều người nợ ta cuộc đời của họ. Chính vì nợ ta cuộc đời của họ nên bây giờ ta có quyền quyết định số phận của họ.
Hỏi: Tại sao có những người về già bệnh nằm một chỗ, có người khỏe mạnh chết nhẹ nhàng?
Đáp: Tình trạng tuổi già và cái chết có nhiều nguyên nhân. Trước hết, ai sống một đời tận tụy đóng góp công sức cho đời thì khi chết nhẹ nhàng. Ai sống nhàn nhàn qua ngày thì khi già bệnh hoạn khó chết.
Ai sống tốt thì chết nhẹ nhàng; ai sống ác thì khó chết.
Ai giúp người, hoặc làm nuôi gia đình mà kể công thì già bệnh nằm hoài để cho con cháu nuôi lại cho hết ân nghĩa; ai làm lụng nuôi gia đình mà không kể công thì già ít bệnh để khỏi làm phiền người nhà.
Hỏi: Làm sao cho có trí tuệ?
Đáp: Muốn có tài năng trí tuệ thì ta có nhiều cách để gieo nhân. Ta phải biết yêu quý phụ giúp người có trí tuệ tài năng; ta phải biết góp công nuôi dưỡng đào tạo tài năng cho trẻ; ta phải biết dùng khả năng của mình để làm những việc chân chính lợi ích cho đời; ta phải biết vui mừng hoan hỷ khen ngợi trước tài năng của người khác. Những ai góp công xây trường học, tặng quà khuyến học cho học sinh, giúp đỡ đời sống thầy cô giáo
đều sẽ có tài năng trí tuệ trong tương lai. Ai dùng tài mình ra để giúp đời, không giấu nghề, không dùng tài năng vào việc ác
thì sẽ có tài lớn trong tương lai.
Hỏi: Làm phước chừng bao lâu thì bắt đầu có phước để hưởng?
Đáp: Dĩ nhiên là tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu ta không có khả năng để làm nhiều, chỉ làm từng chút một thì phước chậm đến; nếu ta kh�! �ng thể! làm thường xuyên, chỉ làm thỉnh thoảng thì phước chậm đến. Những ai làm phước thường xuyên, làm được nhiều thì khoảng chừng ba đến năm năm sau là đã thấy những may mắn toại ý đã xuất hiện dần. Nhưng không có nghĩa là ta hưởng hết những gì đã làm năm năm trước đó, vì luật Nhân quả luôn sắp xếp quả báo lâu dài cho những kiếp về sau.
Hỏi: Định nghĩa thế nào là làm tội, thế nào là làm phúc?
Đáp: Làm phúc nghĩa là ta gây cho người được niềm vui, hạnh phúc, lợi ích, và đặc biệt là gây cho người được trở nên đạo đức thánh thiện. Ngược lại, làm tội nghĩa là ta gây cho người đau khổ, tổn hại, khó chịu, và đặc biệt là gây cho người trở nên mất đạo đức. Vì vậy, công đức lớn nhất là giáo dục giúp đỡ cho người có được đạo đức; và tội lỗi nặng nhất là lôi kéo người vào điều bất thiện.
Có đạo đức rồi, người đó sẽ tự làm nên những việc tốt và quả báo lành tự đến với họ. Ngược lại, khi đã trở nên ác độc rồi, họ thường làm điều xấu và quả báo thê thảm cũng chờ đợi họ ở tương lai.
Phúc hay tội là phải được xét trên tác động vào chúng sinh khác. Nếu ta làm những việc riêng cho mình, không gây ảnh hưởng đến ai thì không tạo thành tội hay phúc, chỉ tạo thành bản chất tốt hay xấu cho riêng mình. Chỉ khi nào gây ảnh hưởng lên đời sống và tâm hồn người khác thì lập tức tạo thành tội hay phúc.
Tuy nhiên, có những việc ta chỉ làm cho mình, nhưng lại ảnh hưởng đến nhiều người. Ví dụ, một người sống nghiêm túc, biết kềm chế, lâu ngày trở thành tấm gương cho người khác noi theo, và như vậy! đã gâ! y ảnh hưởng lên tâm hồn cho người khác để tạo thành công đức lớn.
Hỏi: Phúc tội ảnh hưởng đến việc tu dưỡng tâm linh giải thoát như thế nào?
Đáp: Nếu muốn hưởng phúc giàu sang phú quý, ta chỉ cần thong thả làm phúc tránh tội là đủ. Nhưng nếu muốn thành tựu công đức tâm linh giải thoát thì ta phải đem cả thân mạng, cả cuộc đời ra mà phụng sự tất cả chúng sinh. Việc tu tập giải thoát tâm linh đòi hỏi phúc phải lớn tột độ. Không thể làm phúc sơ sơ, hoặc vừa làm vừa hưởng mà có thể giải thoát được. Dĩ nhiên gây tội thì không thể giải thoát đã đành, mà ít phước quá cũng không thể giài thoát.
Nhiều người hiểu lầm cho rằng muốn giải thoát phải để tâm trống không, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, không tạo phúc, không tạo tội. Hiểu như vậy là chưa thấu suốt Nhân quả. Phải biết giải thoát tức là làm thánh, mà làm thánh thì không thể ít phước được.
3. Những điều cần lưu ý
Luật Nhân quả chi phối tuyệt đối tất cả phàm thánh. Phàm phu đương nhiên phải chịu sự chi phối của Nhân quả đã đành mà cả thánh hiền siêu xuất cũng không ra ngoài Nhân quả. Điều khác nhau giữa phàm và thánh là khả năng hiểu Nhân quả mà thôi. Phàm phu không hiểu hoặc hiểu rất ít nên sống trong mê lầm. Thánh nhân hiểu suốt Nhân quả nên biết chọn lựa cuộc sống tối ưu cũng như chọn lựa phương tiện hóa độ chúng sinh tối ưu.
Ai mở miệng nói rằng làm thánh thì không còn bị Nhân quả chi phối là rơi vào tà kiến trầm trọng. Ai nói rằng tu đến chỗ không phàm không thánh thì không bị Nhân quả, ta nên trả lời rằng người nào cứ muốn ra khỏi Nhân quả là người si mê tà kiến, vì sao, vì luật Nhân quả vừa là động lực chi phối ta khi ta mê, nhưng vừa là công cụ cho ta sử dụng để kết duyên hóa độ chúng sinh khi ta tỉnh.
Khi ta nói về luật Nhân quả với khách, ta vừa nhẹ nhàng khéo léo, nhưng vừa quyết tâm vô hạn trong niềm tin Nhân quả. Hãy tâm nguyện trong lòng rằng dù phải chết, ta vẫn bảo vệ niềm tin Nhân quả cho cuộc đời.
Có người tỏ vẻ chưa tin Nhân quả, ta hãy nói rằng có thể khoa học chưa chứng minh được luật Nhân quả, nhưng những ai yêu quý luật Nhân quả đều là những người yêu quý sự công bằng, và ai yêu quý sự công bằng tức là người tốt. Người nào tỏ vẻ cay cú với luật Nhân quả thì phải biết họ sợ sự công bằng, tức là họ có vấn đề về đạo đức và đời sống riêng tư.
Tăng Ni sinh sau khi nói chuyện, về viết bài thu hoạch nộp giáo thọ
HOẰNG PHÁP 6
1. Trẻ em là tương lai của đạo pháp
Ta tạm quy định rằng trẻ em là những người chưa đến tuổi trưởng thành, dưới 18, hoặc còn yếu kém trong nhận thức. Tuy nhiên trong thực tế, có nhiều người chưa đủ 18 mà khôn chịu không nổi, và cũng có những người hơn 30 tuổi rồi vẫn phạm nhiều sai lầm.
Dù sao thì Phật Pháp vẫn rất cần những thế hệ nối tiếp phát triển để kế thừa giữ gìn đạo lý cho chúng sinh. Vì thế, việc hoá độ trẻ là nhiệm vụ thiêng liêng của những người đi trước. Tăng Ni phải lo cho trẻ đã đành, mà bất cứ Phật tử nào đã hiểu đạo đều phải quan tâm tới trẻ.
Giúp cho trẻ hiểu đạo và biết tu dưỡng, ta đã giúp cho gia đình đó được an vui lâu dài, ta đã đóng góp cho đất nước những công dân tốt trong tương lai, ta đã xây dựng đội ngũ kế thừa trong Phật Pháp. Công đức này thật là vô biên vô lượng.
Tuy nhiên, trẻ có những đặc tính riêng, thể chất khác
mà ta phải biết để tạo nên sự thân ái khi tiếp xúc.
Thứ nhất trẻ hầu như chưa phải bương chải làm ăn nên chưa va chạm với những mặt xấu của đời nhiều, còn nhìn đời với ước mơ và hy vọng. Đây cũng là điểm đáng yêu của trẻ, và ta cũng không nên làm mất đi sự ngây thơ đó.
Thứ hai, trẻ đang trong giai đoạn phát triển nên cơ thể luôn bị thúc đẩy phải hoạt động, không thể ngồi yên lâu. Ta vừa phải thuận theo tính chất đó, vừa giúp trẻ biết chuẩn bị cho sự điềm đạm về sau. Sự hiếu động cần cho sự phát triển của cơ thể, nhưng cũng làm căng thẳng não bộ mai sau. Vì vậy trẻ phải được rèn luyện thiền định song song v�! ��i hoạt động thể chất.
Thứ ba, trẻ chưa đủ khả năng tư duy trừu tượng vì vậy khi nói chuyện, ta không nên nói lý thuyết nặng nề quá, mà phải dùng nhiều ví dụ hay chuyện kể cụ thể rõ ràng. Thật ra cả người lớn cũng thích chuyện kể và ví dụ rõ ràng. Người hoằng pháp mà có nhiều chuyện kể hay ví dụ cũng là một lợi thế lớn.
Thứ tư, trẻ cũng tò mò về những chuyện của người lớn và hay bị bạn bè đầu độc, sách vở, phim ảnh, internet gây ô nhiễm đầu óc. Vì thế, ta phải hiểu rằng bên cạnh sự ngây thơ đó cũng ẩn chứa một sự vẫn đục, nên ta phải khéo léo cẩn thận khi tiếp chuyện. Những trẻ đang vào giai đoạn dậy thì thì tâm sinh lý có nhiều biến đổi, là một phần của thiếu nữ, một phần của thanh niên, vì vậy ta cũng phải biết giữ sự chừng mực, khoảng cách.
Thứ năm, những ấn tượng ghi khắc vào tâm hồn trẻ thường sẽ ghi dấu suốt đời, định hướng cho trẻ suốt đời, vì vậy, ta phải hết sức cố gắng gieo vào lòng trẻ những gì tốt đẹp nhất, cho trẻ được chứng kiến những tấm gương cao cả nhất, để trẻ được một dấu ấn đúng đắn lâu dài về sau.
Có những trẻ hiếu động, năng nổ, và cũng có trẻ nhút nhát; có trẻ hay hỏi, và cũng có trẻ chẳng biết hỏi gì. Ta cũng tùy theo tâm tính từng em mà có lối nói chuyện cho thích hợp.
Trong một buổi tiếp xúc với trẻ, ta nên chia làm 3 phần. Một phần nói về giáo lý; một phần dạy trẻ một kỹ năng gì đó như khí công, võ thuật, âm nhạc, cơ khí gia dụng, điện gia dụng, nữ công gia chánh
; phần còn lại là vui đùa. Trong phần nói chuyện, ta nên kể chuyện nhiều hơn lý lu�! �n.
! Có những tổ chức Phật tử trẻ đã dành nhiều thời gian cho việc xếp vòng tròn vỗ tay ca hát. Việc đó đã không còn thích hợp khi mà bên ngoài nhiều trò chơi điện tử hấp dẫn hơn nghìn lần. Nhiều trẻ đã thẳng thắn bày tỏ ý kiến không hứng thú với trò chơi vỗ tay ca hát nhiều như thế. Bây giờ ta phải thực tế hơn, hoặc là dạy cho trẻ kiến thức âm nhạc vững chắc, hoặc là dạy những kỹ năng thường được sử dụng trong đời sống, hoặc là vui chơi có tính rèn luyện thân thể, nghĩa là phải có lợi ích thiết thực, vì thời gian bây giờ rất quý giá.
Nếu có nhiều em cùng đến, ta nên tập cho các em kỹ năng đội hình. Chính việc đứng ngồi bước chạy theo hiệu lệnh tập cho các em thói quen vâng lời và tinh thần kỹ luật. Tinh thần kỹ luật cũng là yếu tố quý giá cho các em bước vào cuộc đời mai sau.
Thời đại hôm nay rừng hoang dã đã hết dần, thay vào đó là nhà cửa phố thị chen chúc. Con người xa dần thiên nhiên cũng là mất dần cội nguồn mầu nhiệm của cuộc sống. Vì thế, nếu có dịp, ta nên cho trẻ cơ hội vui chơi trong rừng hoang để tìm lại cội nguồn của sự sống, để tập yêu thương cây cỏ thiên nhiên.
Trong việc tiếp xúc với trẻ, ta có 2 trường hợp: hoặc là tiếp xúc ngẫu nhiên số ít, hoặc là tiếp xúc với đội nhóm. Mỗi loại hình tiếp xúc như vậy đều cần một cách giao tiếp thích hợp. Tuy nhiên trong trường hợp nào, ta cũng phải cho trẻ được cơ hội nói năng hay hành động để phát huy sự chủ động. Đừng để cho trẻ ngồi im lắng nghe quá lâu.
Ta có vô vàn cách để bắt chuyện với trẻ khi gặp trẻ tại chùa hay tại gia đình. Nếu là đã quen biết thì dễ; nếu chưa quen thì phải làm quen. Thông thường ta gọi trẻ bằng con, xưng là thầy hoặc cô. Nếu ta cũng còn quá trẻ thì đành phải xưng là chú, là cô, và gọi trẻ theo tên vì không thể gọi là con. Nếu quý Phật tử cũng phát tâm dẫn dắt trẻ về với đạo thì xưng hô thích hợp với tuổi tác và vai vế của mình là được.
Ta sẽ hỏi trẻ học lớp mấy, thích môn nào nhất, có hay đi chùa không v.v
có nhiều khi trẻ lặng lẽ trả lời yes và no rồi im lặng chờ ta hỏi tiếp. Ta hỏi nguyên một câu dài ngoằn ngoèo mà trẻ chỉ đáp có một tiếng. Vì vậy, ta phải chủ động dẫn câu chuyện, làm quen, tạo tình thân. Có khi lần đầu chưa nói chuyện được nhiều, thì để dành lần sau vậy.
Hỏi: Con có hay đi chùa không?
Đáp: (lắc đầu)
Hỏi: Hôm nào con đến chùa lễ Phật nhé!
Đáp: (gật đầu)
Hỏi: Năm nay con học lớp mấy? Con thích môn nào nhất? Toán hả. Thầy cũng vậy, cũng thích môn toán. Chính vì thầy thích môn toán nên thầy hiểu được đạo Phật rất hay. Ai kém toán sẽ khó hiểu đạo Phật.
Trẻ: Bộ đạo Phật có học toán hả?
Nói: Đạo Phật không có học toán, chỉ học đạo đức sống ở đời, mà đạo đức sống ở đời cũng khó như toán vậy con à.
Trẻ: Đạo đức là gì vậy?
Nói: Đạo đức là khi gặp người lớn con cúi chào, khi thấy bạn khó khăn con giúp đỡ, khi thấy tiền rơi con nhặt trả lại, khi cha mẹ rầy con biết xin lỗi, khi bạn bè rủ rê điều xấu con quyết li�! �t khuyên can, khi thấy chúng bạn bất hòa con hòa giải, khi học tập con chăm ngoan
Trẻ: Nhiều quá làm sao làm cho hết được?
Nói: Đâu phải làm tất cả những điều đó một lúc mà sợ con. Có khi mỗi ngày chỉ làm một điều gì đó mà thôi. Hôm nay con gặp tiền rơi, nhặt tìm trả lại. Hôm khác bạn rủ con trốn học đi xem phim, con khuyên bạn phải làm đứa trẻ chăm ngoan không được làm điều gì mà chưa xin phép cha mẹ và thầy cô giáo.
Trẻ im lặng thì ta bắt đầu hỏi lại: Con thích xem phim gì nhất? (Thời đại hiện nay trẻ rất mê phim ảnh, ta mà thiếu kiến thức phim ảnh cũng khó nói chuyện. Nhưng nếu ta nghiên cứu phim ảnh nhiều thì bị loãng thời khóa tu hành)
Trẻ: Con thích xem phim đánh nhau.
Nói: Vậy con có tập võ không?
Trẻ: Con có tập sơ sơ.
Nói: Hôm nào con đến chùa quý thầy sẽ dạy thêm cho. Con có tập xoạc hai chân thẳng không? Con có tập uốn dẻo lưng không? Những công phu đó giúp cho những đòn đánh đá của mình phát huy hết công lực. Nhỏ mà không tập trước thì lớn lên gân cứng khó tập. (Ta có thể tập cho trẻ xoạc hai chân, uốn dẻo). Võ thuật giúp ta có sức khỏe và tự tin. Võ đạo giúp ta làm người có nghĩa khí.
Trẻ: Nghĩa khí là gì ạ?
Nói: Nghĩa khí nghĩa là sống rất can đảm, không hèn nhát sợ hãi, dám đương đầu với nguy hiểm, nhưng không làm điều gì sai trái hại người, chỉ giúp người mà thôi. Ví dụ, khi thấy người bị ăn hiếp ta dám bênh vực, thấy nhà bị cháy ta dám giúp dập lửa, nhưng tuyệt nhiên không bao giờ dùng sức khỏe để hiếp đáp người khác. Nếu ta hiếp đáp bắt nạt người khác thì sau này ta sẽ bị quả báo có ngư�! �i ăn hi! ếp ta trở lại. Trên đời này ta gieo nhân gì sẽ gặt quả nấy.
Trẻ: Nghĩa là sao ạ?
Nói: Đức Phật dạy rằng luật Nhân quả chi phối mọi điều trên đời. Ai sống đạo đức sẽ được hưởng hạnh phúc, ai sống hư hỏng sẽ bị đau khổ. Ví dụ như con hay giúp đỡ người khó khăn thì sau này tự nhiên con học giỏi và thi dễ đậu; ví dụ như con lễ phép với người lớn thì sau này con có thể làm quan; ví dụ như con hay hướng dẫn bạn bè thì sau này con thông minh trí tuệ
Từ đây có thể nói nhiều về luật Nhân quả cho trẻ giống
như bài trước, chỉ khác là ta không lý luận trừu tượng mà luôn luôn kể chuyện và cho ví dụ cụ thể. Nên nói nhiều về luật Nhân quả cho trẻ thấm nhuần. Những gì gieo được từ khi ấu thơ sẽ ghi dấu rất đậm suốt đời còn lại.
Nói: Khi con thấy bạn học giỏi, con có vui không?
Trẻ: Có khi con vui, có khi con ghét. Bạn nào thân với con thì con sẽ vui khi bạn đó học giỏi; bạn nào không thân với con thì con không thích.
Nói: Nếu con vui mừng khi bạn học giỏi thì sau này con sẽ học giỏi; nếu con khó chịu khi bạn học giỏi thì sau này con sẽ học kém. Đó là nhân quả. Vì vậy, con nên vui mừng khi bạn học giỏi, được thầy cô khen ngợi, được phần thưởng cao quý, dù bạn đó thân với mình hay không.
Nói: Lớn lên con thích làm ngành nghề gì?
Trẻ: (Mỗi trẻ sẽ có ước mơ khác nhau, thậm chí có trẻ không biết sẽ làm gì. Ta tùy theo tâm tính của từng trẻ mà trả lời thích hợp) Con thích làm Công an.
Nói: Vậy là con với thầy hợp tác được rồi. Thầy sẽ dạy cho mọi người đừng làm điều ác; con sẽ xử phạt nếu ! ai làm �! �iều ác. Nếu thầy dạy không có kết quả thì vẫn còn nhiều người làm ác, lúc đó công việc con sẽ nặng nề. Nếu thầy dạy có kết quả thì con sẽ đỡ vất vả hơn.
Trẻ: Con thích làm thầy cô giáo.
Nói: Tuyệt vời. Con sẽ đem kiến thức và đạo đức dạy cho biết bao nhiêu thế hệ mai sau. Con sẽ ươm mầm thương yêu hy vọng cho biết bao nhiêu học trò của mình. Nhớ là dù con dạy môn nào thì vẫn phải bỏ ra vài ba phút để dạy về đạo đức cho học trò nhé.
Trẻ: Con thích làm bác sĩ. Con thích làm thủ tướng. Con thích làm ca sĩ
Nói: Con có bao giờ bị bạn bè rủ xem phim đồi trụy chưa? (Có khi trẻ đã bị và tâm hồn đã bị vẫn đục; có khi chưa. Ta cứ đặt vấn đề như là trẻ đã bị, vì đây là tình huống khó). Con nên biết những phim đó là nanh vuốt của ác quỷ cấu xé tâm hồn ngây thơ của các con. Nếu bạn nào rủ con xem loại phim đó, con nên quyết liệt khuyên bạn phải tránh xa nó, phải để dành tâm hồn cho những ước mơ cao đẹp trong đời. Con kéo được một bạn ra khỏi sự sa ngã là con có thêm một chút phước.
(Hiện nay tình trạng trẻ bị lôi kéo xem phim ảnh đồi trụy khá nhiều. Đạo Phật phải có trách nhiệm góp phần ngăn chận hiểm họa này)
Nói: Ngày xưa có một đứa bé bướng bỉnh hay cãi lời cha mẹ. Vì đứa bé đó là con trai duy nhất nên được cha mẹ hết mực nuông chìu. Đứa bé đã không biết quý trọng tình thương yêu của cha mẹ nên càng xem mình như là vua, buộc mọi người phải theo ý của mình. Nếu ai không chìu, bé khóc lóc la hét. Lớn lên một chút, trong một lần đi chơi xa, cậu bé vì không vâng lời cha mẹ nên bỏ đi xa khỏi cha mẹ rồi! bị l�! �c luôn.. Chú bị người xấu dắt về nhà cho ăn uống nhưng hành hạ đánh đập bắt làm lụng cực khổ mà không giúp chú tìm lại cha mẹ. Chú muốn bỏ trốn thì bị họ đánh đập nhiều hơn. Suốt hai năm bị bắt làm nô lệ như vậy chú mới trốn được đến đồn công an nhờ đưa về nhà. Chú hối hận biết rằng trước đây chú bướng bỉnh vô lễ hỗn xược với cha mẹ là tội lỗi khủng khiếp. Chú đã phải trả quả báo thê thảm trong hai năm. Từ đó chú ngoan ngoãn lễ phép và hầu hạ cha mẹ rất mực chu đáo. Lớn lên chú học giỏi thi đậu và thành đạt. (Sau khi kể chuyện, ta giải thích thêm cho trẻ hiểu và áp dụng)
Nói: Ngày xưa có một đứa bé không vâng lời cha mẹ, ít khi chịu theo cha mẹ đi chùa lễ Phật. Những khi phải lên chùa lễ Phật, nếu cha mẹ mãi lo lễ Phật không để ý là chú chạy biến ra ngoài vườn bắt bướm. Một hôm cha mẹ gọi chú đi chùa, chú giả vờ kêu cha mẹ đi trước rồi chú sẽ đi sau. Cha mẹ đi rồi, chú theo chúng bạn đi ra bờ sông câu cá. Trong lúc đùa giỡn, chú bị nước xoáy cuốn ra xa dìm xuống. Mấy đứa bạn sợ bị liên lụy đã bỏ chạy về nhà im thin thít giống như không biết chuyện gì xảy ra. Trong cơn nguy biến đó, chú chợt nhớ cha mẹ chú có dặn là khi gặp tai nạn hãy niệm Bồ tát Quán Thế Am cầu cứu. Thế là chú niệm liên hồi. Chợt một khúc chuối cây trôi trên sông chạm vào người và chú bám lấy. Chú bơi được vào bờ và mãi hôm sau người ta mới đưa chú về nhà giúp. Từ đó chú siêng năng đi chùa, chịu làm lễ quy y, học hỏi giáo lý. (hình như bây giờ chú đi tu luôn)
Nói: Ngày xưa có một chú bé có lòng thương yêu thú vật và cỏ câ! y. Chú th! ương chó mèo chim chóc, và thương cả cá tôm, thậm chí bắt trùng dưới đất đùa chơi rồi thả. Chú thương cây cối quanh nhà, và thương những lùm bụi ven đường đi. Nhà chú lúc nào cũng có chim từ xa bay qua reo hót, hoặc mèo chó rượt đuổi vui đùa với nhau. Những cây hoa kiểng, dây leo lủng lẳng khắp vườn. Một hôm mẹ chú bệnh nặng, nhà nghèo, chạy chữa không nổi, và bà hấp hối chờ chết. Chú ngồi bên cạnh khóc lóc thảm thiết. Chợt một ngày sau, người mẹ tỉnh dậy đòi ăn và khỏe hẳn. Bà kể rằng, khi nằm mê man, bà trông thấy hàng chục con chim ngậm cây thuốc bay đến mớm vào miệng bà. Suốt đêm như vậy bà được chim trong mộng cho ăn cây thuốc và đến sáng thì hết bệnh. Chú bé hiểu rằng tình yêu thương thiên nhiên của chú đã được đền bù. Lớn lên chú làm nhà bảo vệ môi trường kêu gọi mọi người bảo vệ rừng và động vật hoang dã.
Đại khái quý thầy cô phải biến những giáo lý trừu tượng thành vô số chuyện kể để cho trẻ ưa thích lắng nghe. Sau đó ta mới phân tích đạo lý trong những câu chuyện kể đó.
Khi trẻ bắt đầu biết yêu quý đạo lý thì ta nên dạy trẻ ngồi thiền dần dần để giúp trẻ kềm chế khuynh hướng hiếu động sẽ làm trẻ căng thẳng về sau.
Nói chung, một tính chất không thể thiếu của nhà hoằng pháp là lòng yêu thương con trẻ. Mỗi khi nhìn thấy trẻ, ta phải bị thôi thúc một điều là sẽ gieo vào lòng trẻ những gì tốt đẹp nhất của nhân loại, của Phật Pháp. Ta mong cho trẻ được no ấm, được học hành tử tế, được thấm nhuần đạo đức, và lớn lên là người hữu
dụng cho cuộc đời.
Có thể ta không t�! �� chức! trẻ thành đoàn thể như tổ chức Gia đình Phật tử, nhưng ta cũng sẽ tạo điều kiện cho trẻ sinh hoạt theo nhóm để rèn luyện cho trẻ tính kỷ luật, biết vâng lời, biết đoàn kết, biết nhường nhịn, biết chăm sóc. Ta sẽ không thiên về tổ chức vui chơi mà khéo léo vừa dạy vừa cho vui chơi trong bài học.
Giáo dục trẻ chính là ta đang xây dựng tương lai cho Phật Pháp.
HOẰNG PHÁP 7
1. Người trí thức là người có học thức và làm việc ở môi trường có chuyên môn
Có 2 hạng trí thức, một là những người đã tin Phật và hai là những người chưa tin Phật.
Người trí thức tin Phật cũng sẽ làm nên một sức mạnh hỗ trợ cho các tu sĩ trong công tác Phật sự. Họ cũng là người giúp định hình Phật giáo sẽ đi theo chiều hướng nào trong tương lai. Phật giáo luôn luôn bị chia ra nhiều dòng phái, nhiều khuynh hướng tu tập mỗi khi có thêm những vị đại sư có sức lôi cuốn gây được ảnh hưởng vào đông đảo quần chúng. Chúng ta biết ơn các đại sư xuất hiện đã đóng góp làm phong phú thêm cho kho tàng giáo lý của đạo Phật, nhưng chúng ta cũng lo ngại tình trạng là các ngài cũng làm cho Phật giáo thêm nhiều ngã rẽ. Chính nơi vấn đề khúc mắc này mà vai trò người trí thức Phật tử được đánh giá cao. Họ có kiến thức về xã hội và khoa học nên sẽ kết hợp được với giáo lý tâm linh để giúp tìm ra sự cân đối thiết thực cho đạo lý. Giáo lý đạo Phật chỉ có ích lợi khi dễ ứng dụng vào cuộc sống, phù hợp với các kiến thức thời đại, và vượt lên trên để hướng dẫn loài người. Người Phật tử trí thức sẽ là người giúp chọn lọc cho đạo Phật loại đạo lý như thế.
Ngoài ra, người trí thức cũng thường là người có kinh tế ổn định nên dễ đóng góp vật chất cho các nhu cầu Phật sự hơn.
Khi người xuất gia đàm đạo trao đổi với người Phật tử trí thức cần phải để ý những đặc điểm như sau:
– Người Phật tử trí thức quý trọng ta vì ta là người xuất gia, có đức tu hơn, chứ chưa chắc họ đã khâm phục ta về kiến thức và giáo lý. Đời n! ay các Phật tử giỏi giáo lý nhiều khi không thua quý Tăng Ni.
– Trong khi nói chuyện, điều gì ta chưa biết thì hãy chân thành lắng nghe để biết thêm. Sự khiêm tốn của ta sẽ làm họ quý trọng, hơn là cứ ra vẻ ta đây không thua ai.
– Nếu ta nhận thấy họ có khả năng gì hay thì khuyến khích họ đem khả năng đó đóng góp cho đạo pháp, giúp cho việc hoằng dương Phật Pháp, ví dụ như khả năng âm nhạc, khả năng biên tập sách, điện toán, kiến trúc, mỹ thuật, cơ khí, v.v
– Nếu gặp người có vẻ kiêu mạn thì ta cũng nên khuyên họ trừ bỏ kiêu mạn để cho họ không bị đổ vỡ về sau. Nếu ta không khuyên họ trừ bỏ kiêu mạn thì ta sẽ mất một Phật tử trí thức khi mà họ trở nên hư hỏng.
– Không phải hễ là trí thức thì nhận định điều gì cũng đúng. Rất nhiều trí thức đã bị khuất phục bởi các tà sư khắp nơi trên thế giới. Rất nhiều trí thức đã chọn sai thầy để tôn thờ. Rất nhiều trí thức đã bảo thủ cố chấp như ai. Vì vậy, khi nói chuyện với trí thức, ta cũng tỉnh táo để giúp họ nếu phát hiện họ định hướng sai.
– Người trí thức hầu hết đều đã đi vào chuyên ngành, tập trung trong vài lĩnh vực nhất định, nên không phải là người chuyện gì cũng biết. Tuy nhiên, những người làm việc trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật sẽ nắm bắt vấn đề mới nhanh hơn và khách quan hơn. Còn những người đi trong lĩnh vực văn chương nghệ thuật thì vẫn dễ bị cảm tính chủ quan hơn.
Trong công tác hoằng pháp, nếu gặp người trí thức Phật tử thì dường như ta không cần phải tốn công sức giáo hóa nhiều vì họ đã quy y Phật rồi. Ta chỉ trao đổi về đạo pháp để kết thêm duyên lành mà thôi. Trừ trường hợp ta là bậc đại sư trí tuệ sáng ngời thì ta có bổn phận phải dìu dắt các Phật tử trí thức tiến xa thêm trên đường tu học để học có thể nhiệt thành đóng góp công sức cho Phật Pháp, cho chúng sinh, cho đất nước. Và cũng chỉ những bậc đại sư mới đủ sức thuyết phục Phật tử trí thức chỉnh sửa các sai lầm để hoàn thiện bản thân.
Đôi khi gặp người lợi khẩu, có khi họ nói ta nghe suốt. Dĩ nhiên đó cũng là bệnh của người giỏi mà thiếu tu. Người có dụng công tu thiền sẽ kiểm soát được tâm ham nói của mình nên không nói dai, không nói dư, không nói giành. Nếu ta đủ uy đức, chỉ cần ta nhắc thẳng cho họ biết về lỗi đó là giúp họ tỉnh lại. Nếu ta chưa đủ uy đức thì ta bày tỏ phong cách trầm lặng ít nói, không lạnh lùng, không hờ hững, có tỉnh táo, có quan tâm, có hoan hỷ khi tiếp xúc với người nói nhiều. Sau khi gặp ta ra về, họ sẽ bị phong cách trầm mặc của ta nhắc nhở và biết kềm chế lại.
Ta có thể hỏi Phật tử làm việc trong ngành nào, và xin họ giải thích về ngành nghề của họ cho ta nghe một tí để ta hiểu biết thêm. Ta sẽ thấy mỗi ngành nghề là một thế giới khác lạ phong phú, và có rất nhiều chuyện ngộ ngộ. Ví dụ bác sĩ có thể cho ta biết về chuyện giải phẩu xác chết, chuyện bệnh nhân nghèo, chuyện để quên dao kéo trong bụng bệnh nhân
P! hóng viên có thể cho ta biết về việc đồng tiền luôn luôn cám dỗ họ viết khác sự thật; kỹ sư có thể cho ta biết về sự chiến đấu để giữ chất lượng công trình theo thiết kế trong khi có những kẻ muốn thông đồng rút ruột
Rồi tùy theo những chuyên môn của họ mà ta sẽ nói chuyện đạo lý thú hơn. Ví dụ gặp thầy giáo thì nên nói về giáo dục chứ không nên nói về việc thóc cao gạo kém, gặp kiến trúc sư thì nên nói về nhà cửa phố thị chứ không nên nói về đánh bắt xa bờ
Nhưng điều quan trọng là cuối cùng ta phải dẫn câu chuyện đi về đạo lý, không đi lang thang ra chuyện thế tục rồi không còn đường về. Bản lĩnh của người xuất gia là kéo được câu chuyện quay về đạo lý dù ban đầu mọi người hào hứng kể đủ thứ chuyện trên đời của họ. Phật tử trí thức sẽ nể ta nếu ta luôn luôn đưa được câu chuyện quay lại đạo lý. Nếu ta theo họ đi ra ngoài thế gian thì họ ra về mà lòng sẽ xem thường ta.
Hỏi: Sao thầy (hay cô) phát tâm xuất gia vậy?
Đáp: Thì cũng như anh (hay chị) phải chọn một ngành, một hướng đi cho đời mình chứ. Đó là ngành mà chúng ta biết là phù hợp với con người mình vừa có thể làm lợi ích cho người khác.
Hỏi: Nhưng có khi thầy ở tại gia như tụi con mà lại làm được nhiều việc hơn. Xuất gia rồi bị hạn chế quá.
Đáp: Sự hạn chế của người xuất gia cũng chính là lợi điểm mà người tại gia không có được, đó là khi khép mình trong giới luật, người xuất gia nhận được sự kính trọng của cư sĩ, và như vậy, mỗi lời nói của người xuất gia sẽ có tác dụng giáo hóa mạnh hơn. Người tại gia thì có th�! �� trải! rộng hoạt động ra nhiều môi trường, nhiều lĩnh vực, và cũng dễ góp sức đắc lực trong việc hoằng truyền chánh pháp. Cả hai đều có ưu thế lợi điểm của mình, và phải biết chung sức với nhau.
Hỏi: Có nhiều chùa yên tĩnh quá, đến nỗi như đi vào thụ động. Thời đại ngày nay cuộc sống đi rất nhanh, khoa học kỹ thuật tiến bộ từng ngày, nếu chùa cứ thảnh thơi như ngày xưa thì người ta sẽ bỏ rơi chùa lại phía sau để họ tiếp tục bước tới.
Đáp: Bạn nói đúng, chùa phải thay đổi cho phù hợp với thời đại. Tuy nhiên điều khó khăn là dù cho chùa có phải năng nổ hơn, hoạt động hơn, tích cực hơn nhưng không được xa rời mục tiêu giải thoát, vẫn phải có hướng tu tập ổn định hằng ngày.
Quan niện ngày xưa là muốn được tịnh hóa nội tâm thì người ta phải ít bận tâm vào mọi chuyện, vì vậy chùa luôn tìm cách giấu mình trong thanh vắng thảnh thơi. Nhưng trong giáo lý Bát chánh đạo, Phật dạy là phải thuần thục Chánh nghiệp, nghĩa là phải làm phước cho dày, sau đó mới tu Chánh niệm Chánh định được. Do đó, ta có thể lấy cái nhược điểm biến thành cái ưu điểm, là lợi dụng sự bận rộn để làm được nhiều công đức cho đời. Đến khi đủ phước rồi thì tự nhiên nhiếp tâm dễ dàng trong hoàn cảnh náo động. Đây cũng là sự thực mà nhiều người có kinh nghiệm.
Hỏi: Hoàn cảnh tại gia như chúng con cũng khó tịnh hóa nội tâm vì phải bận lo nhiều việc, giờ giấc không đều đặn, trách nhiệm đối với gia đình nhà cửa, chạy theo sinh kế từng ngày từng tháng. Nhiều khi cũng muốn được thảnh thơi như quý thầy cô để tu hành.
Đáp: Thường thì ta! hay đ�! �ng núi này trông núi nọ. Ngay cả một vài người xuất gia cũng nghĩ là ở đời chắc vui lắm nên cũng xao động vọng tưởng. Thật ra nếu ai vô chùa tu mà tìm một đời sống thảnh thơi thì chắc không bao giờ đắc đạo. Thời mạt pháp này đâu có ai nhiều phước đến nỗi không cần làm phước mà vẫn đủ công đức để nhiếp được tâm đâu. Quý thầy cô cũng phải cố gắng tạo phước rất nhiều để có phước mà nhiếp tâm. Trách nhiệm của quý thầy cô đối với Phật Pháp là tự nguyện nên không bị áp lực tâm lý. Còn cư sĩ có trách nhiệm bắt buộc nên áp lực tâm lý nặng hơn. Nhưng nếu cư sĩ biết gắng sức tạo phước ngay trong hoàn cảnh bận rộn của mình thì cũng có ngày hoàn cảnh được rảnh rang mà tâm thì cũng nhiếp được rất tốt. Nói chung ai cũng vậy, biết tạo công đức thì đều được an tâm.
Hỏi: Thời đại này quý thầy cô cũng phải biết sử dụng computer hoặc nhiều loại máy móc khác, thậm chí còn phải tự lái xe chạy ào ào trên đường, vì phải áp dụng kỹ thuật để đạt được hiệu quả cao trong đời sống và trong việc giáo hóa. Nhưng không biết việc sử dụng máy móc có làm tâm loạn động thêm không?
Đáp: Đúng là ngày nay ta không thể đi bộ từ nơi này sang nơi khác để giáo hóa hay làm các công tác Phật sự; ta cũng không thể viết từng bức thư tay để gửi đi khắp nơi; ta cũng không thể gào thét khi giảng trong một hội trường. Nói chung ta phải biết áp dụng khoa học kỹ thuật trong việc truyền bá Phật pháp. Và ai càng khôn ngoan áp dụng kỹ thuật cao chừng nào thì càng đạt hiệu quả trong việc truyền bá chừng nấy.
Ta cũng không sợ khi sử dụng máy móc ph! ức tạ! p làm tâm ta loạn động vì bộ não ta có tiềm năng rất lớn, hơn hẳn sự phức tạp của máy móc. Chỉ khi nào ta dùng máy móc để làm điều xằng bậy thì bộ não ta sẽ bị phá vỡ. Nếu ta dùng máy móc để làm điều thiện thì bộ não càng lúc càng tốt lên, thậm chí ngồi thiền sẽ mau nhiếp tâm hơn.
Hỏi: Tăng Ni ngày nay cũng phải học nhiều việc bên ngoài để biết mà làm việc tốt hơn. Nhưng học nhiều quá lại chướng ngại việc tu. Có những vị Tăng Ni chỉ mải miết học để lấy bằng cấp.
Đáp: Nếu ai chỉ học để lấy bằng cấp thì thật là một sai lầm. Tu theo Phật, ta phải cân đối 3 việc là Tu, Học, và Công quả. Khi thì học nhiều hơn, khi thì tu nhiều hơn, khi thì công quả nhiều hơn. Nhưng mục tiêu chính vẫn là nhập được thiền định và giúp nhiều người đến với đạo lý Giác ngộ.
Tăng Ni cũng cần tránh tâm lý hơn thua về bằng cấp đến nổi bỏ qua việc Tu và Công quả. Thiếu Phước và công đức Tu tập, có khi một vị xuất gia hết phước làm Tăng nửa chừng và đành phải hoàn tục. Tuy nhiên, sở dĩ Tăng Ni chạy theo bằng cấp bởi vì các vị chức sắc lớn quá chú trọng bằng cấp khi chọn người làm việc. Nếu các vị chức sắc chú trọng nhiều hơn vào thực tài thực đức thì Tăng Ni sẽ hướng về đường tu nhiều hơn.
Hỏi: Ta cũng nên quan sát các tôn giáo bạn để học những cái hay và tránh những cái dở. Như vậy sẽ giúp phát triển Phật giáo hơn chứ ạ?
Đáp: Đạo Phật đâu có chủ trương kiêu mạn tự tôn mà không chịu học hỏi cái hay của người khác. Đúng như vậy, ta cũng phải thán phục tài tổ chức hệ thống nhà thờ và quản lý giáo dân một các kh! oa học ! nề nếp của Kitô, ta cũng phải ngạc nhiên khi sự cứng rắn của Islam khiến họ có đông tín đồ đến như vậy.
Sự vận dụng âm nhạc hiện đại vào nghi lễ vẫn là một ưu điểm của Kitô mà Phật giáo cần phải học hỏi. Rất nhiều thầy cô còn ngần ngại áp dụng âm nhạc hiện đại vào nghi thức trong khi Phật tử trẻ ngày đêm trông ngóng.
Rồi khả năng Hồi hóa xã hội tại các cộng đồng Hồi giáo vẫn là điều làm ta kinh ngạc. Nơi nào đạo Hồi xuất hiện, trước sau gì làng xã cũng phải thành tín đồ Hồi giáo và tổ chức cộng đồng của mình theo Hồi giáo. Nếu đạo Phật có những Tăng Ni quyết tâm cao độ như vậy thì việc Phật hóa cộng đồng cũng không thua kém vì ta có bề dày mấy nghìn năm hiện diện. Nhược điểm của Phật giáo là quyết tâm Phật hóa cộng đồng của đệ tử Phật quá yếu ớt, dường như bằng zero.
Giáo lý ta rất hay, nhưng ta thiếu những yếu tố phụ giúp cho giáo lý. Vì vậy ta phải quan sát học hỏi, sáng tạo, phát triển, đôi khi cải cách để phát triển Phật Pháp cho muôn đời sau.
Nói chung khi nói chuyện với Phật tử trí thức, ta có thể thoải mái trao đổi chân tình để giúp cả hai cùng hiểu biết thêm. Chính đức tu của ta sẽ giúp Phật tử thêm tinh tấn.
3. Người trí thức chưa theo Phật
Những người trí thức chưa theo Phật thì chưa tôn trọng Tăng Ni, thậm chí có những người còn xem thường tu sĩ. Nếu gặp cơ hội nói chuyện với những người này thì ta phải lường sức mình. Nếu ta cảm thấy chưa đủ trí tuệ đức độ để thuyết phục họ tin Phật thì ta chỉ cần giữ tư cách, giữ thiện cảm là được, không cần làm gì nhiều. Nếu ta cảm thấy đủ sức để "nói chuyện" với họ thì cố gắng thuyết phục họ tin Phật để chính họ được an lạc về sau, và cũng tìm thêm cho đạo một trí thức. Dưới đây là những đặc điểm cần lưu ý khi nói chuyện với trí thức chưa tin Phật:
– Không nên xưng là thầy hay cô với họ vì trong lòng họ chưa xem mình là thầy của họ. Chỉ nên xưng Tôi hoặc pháp danh là được. Gọi họ theo tên hoặc vai vế theo tuổi tác của họ. Và họ cũng chưa xưng con với người tu.
– Chưa nên nói về đạo lý vội mà chỉ nên nói về
những vấn đề họ quan tâm. Ví dụ họ thích bàn về khoa học, dân số, môi trường, kinh tế, giáo dục, nghệ thuật
thì ta cứ nói theo cái đã. Thế nào trong những vấn đề trao đổi cũng có một kẻ hở để ta đưa vào đó đạo lý nhân quả hay đạo đức Phật giáo làm cho họ bắt đầu chú ý.
– Có những giáo lý mà khoa học chưa thể chứng
minh và người trí thức hay nghi vấn về những giáo lý đó, ví dụ như luật Nhân quả Nghiệp báo, tình trạng tái sinh luân hồi mãi, trực giác thần thông, sự an lạc hạnh phúc trong thiền định
Ta nên có thái độ quả quyết xác tín đối với những giáo lý đó để họ phải đi theo vì đó là nhữn! g giáo lý quan trọng được Phật thân chứng.
Hỏi: Giáo chủ của một tôn giáo nào cũng có nguồn gốc loài người, có cha sinh mẹ đẻ hẵn hòi, cho nên họ cũng là một con người bình thường như mọi người mà thôi. Chỉ vì họ khéo dẫn dụ nên làm nhiều người tin vào sự thiêng liêng cao cả của họ.
Đáp: Anh (hay Chị) hãy tưởng tượng có một giáo chủ ở đâu trên trời, thỉnh thoảng hiện ra giảng đạo rồi biến mất vào hư vô. Liệu những người có tinh thần khoa học sẽ chấp nhận những đạo lý do một nhân vật có nguồn gốc mơ hồ như vậy không?
Ta cần những đạo lý do những con người bằng xương bằng thịt, có nguồn gốc rõ ràng tuyên giảng. Sau đó, đến lượt ta cũng là những con người xương thịt, sẽ chọn lựa đạo lý nào hợp lý nhất.
Hỏi: Thiên nhiên cho con người cuộc sống bình thường thực tế. Trai gái lớn lên yêu nhau, lập hôn nhân, sinh con nối dòng, làm ăn nuôi sống bản thân và gia đình mình, tìm vui với những nghệ thuật, v.v
Vậy là tốt rồi. Tại sao các nhà tôn giáo lại tìm cách lái cuộc sống con người đi qua một hướng không bình thường, không cho hôn nhân, chủ trương sống nhờ vào sự giúp đỡ của tín đồ, sống kham khổ ép xác không thú vui. Như vậy là đày đọa con người chứ đâu phải đem lại hạnh phúc cho con người.
Đáp: Hãy quan sát kỹ cái mà bạn cho là bình thường. Những mối tình đổ vỡ, những vợ chồng li dị, những đứa con mồ côi, những mảnh đời nghèo nàn bất hạnh, những trò vui trác táng sa đọa, những việc làm ác độc của người đối với người, v.v
Chính những cái mà bạn gọi là bình thường đó luôn chứa đựng bên trong n! hiều b�! ��t trắc, đổ vỡ và đau khổ. Những bất trắc đau khổ này dày đặc đến nổi tiểu thuyết nào cũng diễn tả kể lể.
Đạo Phật nhìn rõ những bất trắc đó và muốn tìm cho con người hạnh phúc chân thật hơn, bền bĩ hơn, cao cả hơn. Con đường đi đến hạnh phúc cao cả đó không giống với con đường bình thường, hơi khác thường, và vì thế bạn nhìn thấy đạo Phật có vẻ hơi lạ.
Hỏi: Thế tại sao không vừa tự làm ăn nuôi sống mình vừa tu hành, lại sống nhờ vào sự giúp đỡ của tín đồ?
Đáp: Thật ra chẳng ai lại không nhờ vào sự giúp đỡ của người khác. Ngay cả bạn có trồng được hạt lúa nào, dệt được miếng vải nào đâu mà bạn vẫn có cơm ăn áo mặc? Xã hội là một sự phân công đều khắp. Bạn đi dạy học (hoặc chỉ huy công trường, chữa bệnh, bảo vệ an ninh xã hội
) và xứng đáng được có cơm ăn áo mặc thông qua đồng lương. Các tu sĩ chân chính đóng góp cho cuộc đời đạo đức và đời sống tâm linh cao thượng nên cũng xứng đáng được có cơm ăn áo mặc thông qua sự cúng dường tự nguyện.
Hỏi: Cái gọi là đời sống tâm linh có vẻ mơ hồ quá. Tôi đi dạy học (hoặc kỹ sư bác sĩ
) là đem lại cho đời những giá trị thực. Còn các thầy tu đem cho đời điều mơ hồ và lấy lại cơm áo rất thực. Đổi cái mơ hồ để lấy cái thực coi bộ lời to.
Đáp: Bạn có thấy những ca sĩ chỉ đem cho đời cái cảm xúc khi được nghe một bản nhạc hay, cái cảm xúc rất chóng hết, vậy mà tiền cashier rất cao. Hoặc rất nhiều kiến thức mà bạn dạy cho học sinh nhưng có khi cả đời họ chẳng áp dụng tới. Đó cũng là điều mơ hồ vậy. Còn đạo đức là! điều ! cực kỳ quan trọng cho xã hội. Không có đạo đức, cả xã hội sụp đổ lập tức. Đời sống tâm linh lại còn mầu nhiệm hơn nữa, đó chính là một giai đoạn văn minh mà loài người sẽ bước tới. Các tu sĩ Phật giáo không phải đang làm điều mơ hồ, mà chính là đang làm điều lợi ích thiết thực cho đời. Trong cuộc sống và cả trong khoa học, có những điều rất thực mà ta lại tưởng là mơ hồ, ví dụ như sóng vô tuyến, tia hồng ngoại, v.v
Phải đợi đến khi con người nhìn thấy kết quả do những điều đó mang lại, người ta mới biết nó là thực tế.
Ngày xưa tôi cũng như bạn, cũng cho rằng những gì mình biết mới đáng tin, còn những gì tôi chưa biết thì không đáng tin. Sau này nghiên cứu đạo Phật, tôi có cảm giác giống như được đưa ra khỏi đáy giếng để nhìn thấy trời cao đất dày. Tôi cũng mong bạn bỏ thì giờ ra nghiên cứu đạo Phật để tìm thấy thêm được nhiều lợi ích khác nữa. Rất nhiều nhà khoa học trên thế giới phải công nhận sự hợp lý, sự cao siêu, lợi ích mà đạo Phật mang đến cho con người. Bạn hãy trực tiếp tìm hiểu đạo Phật để thấy rõ như thế nào, đừng đứng từ xa, đừng nghe qua trung gian một người nào. Hãy nhìn bằng đôi mắt tinh tường của mình, hãy hiểu bằng nội tâm trong sáng của mình, không thành kiến, không cả tin, không ác cảm và cũng không mê tín. Chúc bạn an vui và tiến xa hơn trong tri thức của mình.
Thật ra ta sẽ gặp nhiều nạn vấn rắc rối hơn nhiều mà tài liệu giáo khoa này chưa đưa ra đầy đủ. Lúc đó, chính trí tuệ và công đức tu hành của ta sẽ giúp ta giải quyết trả lời các câu hỏi, cũng như khéo léo chuyển hóa ng! ười tr! í thức chấp nhận tìm hiểu đạo Phật.
HOẰNG PHÁP 8
NÓI CHUYỆN VỚI ĐỒNG BÀO SẮC TỘC
1. Một số đặc điểm
Hầu như khắp nơi trên thế giới quốc gia nào cũng có một số sắc tộc ít người. Trong kinh Phật gọi người dân này là người sống ở vùng biên địa. Đúng như tên gọi, đồng bào sắc tộc không có dân số đông so với người Kinh chiếm đa số của quốc gia đó. Họ cũng thường ở ven theo biên giới xa, nơi mà người Kinh ít lui tới. Chính vì ở vùng ven nên theo sự biến thiên của lịch sử, lúc thì họ thuộc quốc gia này, lúc thì họ thuộc quốc gia khác, tùy theo quốc gia nào đủ mạnh để chiếm lấy vùng đất của họ.
Mỗi sắc tộc có ngôn ngữ riêng, tập quán riêng, tín ngưỡng riêng. Có những sắc tộc hiền lành và cũng có những sắc tộc hung hãn. Khi người Mỹ chiếm Mỹ châu, họ phải gần như tiêu diệt hết những sắc tộc da đỏ đầy khắp châu Mỹ vốn là cư dân lâu đời ở đó, chỉ còn lại một ít được chính sách bảo tồn đến hôm nay.
Trong những cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, các triều đình Việt Nam ta luôn liên kết với các sắc tộc biên giới để làm thành sức mạnh chung. Thậm chí có khi triều đình phải gả con gái công chúa cho các tù trưởng để tạo nên mối giao hảo bền vững. Chuyện đó xảy ra rất rõ dưới triều đại nhà Trần, nhất là hoàng tử Trần Nhật Duật, người có biệt tài am hiểu về các sắc dân biên giới.
Trong công tác hoằng pháp, với lòng từ bi của đạo Phật muốn đem ánh sáng của Phật Pháp đến với tất cả chúng sinh, với truyền thống của cha ông tôn trọng và gắn bó với anh em đồng bào sắc tộc thiểu số, nay chúng ta phải xác định hướng hoằng pháp về phía các vùng đồ! ng bào dân tộc mà lịch sử đã đưa đẩy chúng ta là anh em trong một quốc gia chung đến tận hôm nay. Hơn nữa, Nhà nước Việt Nam đã có một chính sách cực kỳ ưu ái đối với đồng bào dân tộc vì muốn cho đồng bào dân tộc nhanh chóng hoà nhập vào đời sống văn minh của quốc gia nhưng vẫn có quyền giữ gìn nét đặc thù văn hóa của mình.
Ngoài việc hoằng pháp là bổn phận thiêng liêng của người đệ tử Phật, việc đem ánh sáng Phật Pháp đến với các vùng đồng bào sắc tộc còn có ý nghĩa rất lớn khi mà ngày hôm nay có những thế lực ngoại bang xấu xa đang tìm cách dùng chiêu bài tôn giáo để kích động sự chia rẽ giữa đồng bào sắc tộc với anh em người Kinh. Họ đã truyền nhiều tôn giáo lạ nhằm thay đổi tín ngưỡng truyền thống lâu đời của người dân tộc, rồi xúi giục đồng bào chống lại anh em người Kinh. Việc truyền bá Phật Pháp đến các vùng dân tộc cũng giúp ngăn chận âm mưu hiểm độc của ngoại bang trong việc phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc của Nhà nước ta.
Trước khi đến với đồng bào dân tộc để có những cuộc tiếp xúc đàm đạo, ta nên hiểu qua một số đặc tính của đồng bào.
– Thứ nhất, điều lạ là các sắc dân thiểu số khắp nơi trên thế giới vẫn có một số điểm chung đồng dù họ có vẻ chưa bao giờ liên lạc với nhau. Ví dụ họ có sử dụng tên, nỏ, ná và rất thiện xạ.
– Thứ hai, người lãnh đạo bộ tộc, già làng, thường là người có khả năng tâm linh nhất định nào đó. Không hiểu sao hầu hết các bộ tộc trên thế giới đều có lưu truyền bùa chú thư ếm, nhưng hiện nay thì điều này có vẻ đang mai m�! �t dần.!
– Thứ ba, sự mê tín như là văn hóa. Nhiều truyền thuyết về ma lai, thần linh, niềm tin huyền hoặc in sâu vào tâm khảm của đồng bào. (vậy mà đạo Tin lành đang xóa được)
– Những vị thuốc thiên nhiên của họ, hoặc những cách chữa trị bệnh kỳ lạ đôi khi vô lý của họ cũng có khi đáng để ta nghiên cứu. Hiện nay các công ty dược phẩm trên thế giới đang tìm hiểu kho tàng kiến thức dược phẩm của các bộ tộc để bổ sung vào kiến thức của y học hiện đại.
– Người dân tộc có lối diễn đạt cụ thể hóa những điều trừu tượng. Họ dùng những hình ảnh dễ thấy để bày tỏ những ý niệm khó hiểu. Ví dụ, thay vì nói "giống như anh em một nhà", họ sẽ nói "giống như ăn chung một nồi cơm";
Thay vì nói "cầu cho nhà tôi đủ ăn", họ sẽ nói "cầu cho nhà mình một ngày đỏ lữa 3 lần".
Thay vì nói "rất khỏe mạnh" thì họ nói "vác được con nai về nhà".
Thay vì nói "đối xử tử tế" thì họ nói "chia đôi con cá khô"
Vì vậy, khi nói chuyện với anh em người dân tộc, ta nên tìm hiểu trước một số thành ngữ dễ thương như thế để việc giao tiếp thuận lợi hơn.
Nếu ai biết được ngôn ngữ của dân tộc thì cực kỳ hiệu quả trong việc hoằng pháp với đồng bào. Giáo hội ta nên có lớp dạy tiếng dân tộc cho những tu sĩ nào phát tâm hoằng pháp ở vùng sâu vùng xa. Giáo hội Tin lành ở tít bên Mỹ mà vẫn có lớp dạy tiếng Eđê cho các mục sư để đưa về xâm nhập truyền đạo tại Tây nguyên. Họ có chủ trương rất lớn và lâu dài đối với kế hoạch truyền đạo.
Rồi khi đi sâu vào các vùng dân tộc, ta sẽ thấy mỗi vùng ! dân tộ! c có ngôn ngữ riêng, sắc thái riêng, tập quán riêng, văn hóa riêng. Vì thế, khó ai có thể đi lang thang giáo hóa từ vùng đồng bào này sang vùng đồng bào khác, mà chỉ có thể chọn một sắc tộc nào đó để theo đuổi giáo hóa lâu dài. Đặc biệt dân tộc Dao (Mán) lại có gốc tổ tiên theo đạo Phật lâu đời nên rất dễ đón nhận anh em đạo Phật đến giao lưu trao đổi.
Dân tộc Khmer ở Nam bộ lại có truyền thống theo Phật giáo Nam tông từ lâu đời. Có thể họ là di dân từ Kampuchea sang định cư, và các Sãi đã đi theo đoàn di dân để chăm sóc tinh thần. Ta cứ tưởng như vậy là yên ổn rồi, không cần phải bận tâm lo về Phật Pháp cho đồng bào Khmer nữa. Nhưng không phải vậy. Các giáo sĩ từ đâu tới cho tiền cho gạo, phê bình các Sãi chỉ có nhận cúng dường mà không biết giúp dân, phê bình các Sãi dễ dàng hoàn tục. Thế là rất nhiều đồng bào Khmer đã lục tục kéo qua tôn giáo khác để rửa tội. Vì vậy, quý Thầy Cô vẫn phải lưu tâm giáo hóa để củng cố đạo tâm cho đồng bào Khmer.
Người đồng bào dân tộc không có nhiều đại từ xưng hô như người Kinh Việt Nam nên ta đừng ngạc nhiên khi họ gọi ta là mày, xưng mình, kêu cha mẹ hay già làng là nó
Gần đây do giao tiếp với người Kinh nên họ cũng có bổ sung thêm chút đỉnh về đại từ, ví dụ họ cũng có biết gọi là sư phụ, thầy, mặc dù sau lưng có thể gọi ông thầy là nó tuốt luốt.
Trong lòng người dân tộc tiềm tàng một mặc cảm bị người Kinh khinh rẽ, vì vậy, nếu ai đến nhà mà có thể hòa đồng được với họ thì họ sung sướng vô cùng. Còn ai có vẻ tránh né, xa lánh thì họ rất giận và buồn. Nhất là khi h! ọ mời! ăn uống với cái ly "có mấy chục cái miệng uống" rồi, hoặc ăn cơm nấu bằng nước ao gần chuồng heo thì ta cứ vui vẻ mà dùng.
Đa phần đồng bào dân tộc kém kinh tế, thậm chí có những buôn làng thiếu đói. Ai đến với đồng bào mà mang theo quà tặng thiết thực như thực phẩm, quần áo thì sẽ được họ yêu quý. Lợi dụng điều này mà các tôn giáo xấu đã đem tiền quà đến tặng, dụ đồng bào theo đạo, rồi xúi đồng bào nổi loạn chống người Kinh. Nhà nước cũng đang có chính sách hỗ trợ nâng cao đời sống đồng bào dân tộc để tránh cho họ bị lợi dụng theo kẻ xấu. Phật giáo ta cũng phải quan tâm đến việc giúp đỡ thiết thực đời sống đồng bào song song với việc hoằng truyền Phật Pháp. Nhiều Phật tử cũng rất sẵn lòng san sẽ khi ta kêu gọi cho những chuyến viếng thăm đồng bào.
Trong giai đoạn hiện nay, việc tiếp xúc hoằng pháp cho đồng bào dân tộc nên được gánh vác nhiều bởi các Phật tử thiện nguyện. Các Phật tử dễ len lỏi vào các buôn làng để gặp gỡ trao đổi và giúp đỡ đồng bào hơn là một tu sĩ với nhiều ràng buộc về giới luật. Nhưng quý Thầy Cô phải có bổn phận khuyến khích các Phật tử làm việc đó, rồi ủng hộ, phụ giúp, hỏi han, khen thưởng, động viên, để quý Phật tử có tinh thần dấn thân vào công việc vất vả này. Giáo hội phải có một chính sách hẳn hòi về công tác hoằng pháp cho đồng bào dân tộc.
Dưới đây là những mẫu hỏi đáp gợi ý bằng ngôn ngữ người Kinh vì nhiều người dân tộc cũng nói được tiếng Kinh theo phong cách rất dân tộc. Mẫu hỏi đáp này có vẻ dành cho các Phật tử nói chuyện với anh em dân tộc, ! hơn là ! dành cho tu sĩ. Tuy nhiên Tăng Ni cũng phải học và thực hành để biết mà hướng dẫn cho Phật tử làm việc.
Hỏi: Nhà anh chị làm rẫy được nhiều không?
Đáp: Cũng chút chút. Phát được miếng rẫy rồi ít bữa nghèo quá bán lại cho người Kinh hết. Rồi mình lại đi dọn miếng khác.
Hỏi: Sao anh chị không trồng cây ăn trái để thu hoạch lâu dài, khỏi mất công phá rừng làm rẫy hoài.
Đáp: Trồng cây biết chừng nào có ăn. Làm rẫy mùa nào ăn mùa đó. Phá rừng mới có đất tốt. Trồng hai ba mùa đất xấu thì bán lại cho người Kinh.
Hỏi: Hết rừng rồi sẽ bị khô nước sớm vào mùa nắng. Hết mưa là suối cũng khô luôn. Mình mà phá rừng hoài Giàng giận lắm vì Giàng cho mình rừng để có chim thú tre nứa mình dùng.
Đáp: Mấy năm nay trời vừa hết mưa là suối hết nước liền. Mình phá rừng trồng cà phê xong rổi thì không có nước tưới cà phê, khổ quá. Có mấy người tới cho mình tiền, nói mình thờ trời thì trời phù hộ. Còn anh thờ ông nào?
Hỏi: Chúng tôi thờ ông Phật. Phật là vị thánh cao cả nhất trên đời.
Đáp (đúng ra là hỏi lại): Phật với Trời với Giàng ai ở trong, ai ở ngoài?
Đáp: Phật ở ngoài, còn lại ai cũng ở trong hết. Có giáo lý Phật dạy rồi mới có người được phước làm vua, làm chúa, làm vua trên trời, làm vua dưới đất. Phật đem đến mọi điều lành, ai theo Phật là sẽ được mọi điều tốt lành.
Hỏi: Sao mấy ông kia nói là Trời ở ngoài?
Đáp: Tại vì mấy ông đó chưa biết, chưa nghe lời Phật dạy nên hay xúi giục con người bạo loạn chống đối nhau. Ai theo Phật thì chỉ xúi con người thương yêu nhau. Phật dạy mình tr�! ��ng cây! gì thì ra trái đó, trồng cây cà thì ra trái cà, trồng cây chanh thì ăn trái chanh. Nếu mình hay bạo loạn chống người ta thì người ta ghét mình, vì mình trồng cây ghét thì mình phải ăn trái ghét. Còn nếu mình vui vẻ, gặp ai mình cũng cười, thì người ta sẽ thương mình, giúp đỡ mình. Đó là vì mình trồng cây thương nên được ăn trái thương.
Mấy tay kêu mình chống đối bạo loạn chỉ cho mình ít tiền rồi kêu mình trồng cây ghét để cho mình bị ghét suốt đời. Còn theo Phật, mình trồng cây thương thì sẽ được thương suốt đời. Từ nay, mình theo Phật, thương hết mọi người, tự nhiên người ta sẽ thương yêu và giúp đỡ mình hoài.
Hỏi: Nhưng trời hạn hán khô khan như vầy Phật có cho mưa được không, chứ mình xin Giàng hay Trời gì cũng không được?
Đáp: Phật dạy cho mình biết là trồng cây gì ăn trái đó. Nếu mình trồng cây khô thì ăn trái khô, trồng cây ướt thì ăn trái ướt.
Trồng cây khô là tại vì mình chặt cây phá rừng nhiều quá làm cho đất đai khô khan cằn cỗi, nên bây giờ không có mưa nữa, nước suối không chảy nữa.
Trồng cây ướt là mình biết giữ rừng, không cho ai chặt phá. Ai mà cầm dao cầm cưa vô phá rừng là mình chận lại đuổi ra. Hoặc là mình biết trồng lại cây giùm cho rừng. Như vậy là mình làm cho đất đai xanh ướt, và trời sẽ mưa và suối sẽ đầy nước cho mình trở lại.
Hỏi: Như vậy lâu quá, làm sao cứu cho mình khỏi đói bây giờ rồi mình sẽ giữ rừng trồng rừng sau.
Đáp: Mình sẽ đi lên chùa xin gạo về biếu bà con liền.
Hỏi: Chùa là ở đâu?
Đáp: Chùa là nơi thờ Phật. Ơ đó có quý thầy (hoặc quý cô) tu hành và d�! �y dỗ c! ho mình biết trồng cây tốt lành để cho sau này cuộc đời mình gặp được điều tốt lành. Người dân tộc mà đến là quý thầy quý cô thương lắm. Hôm nào đến chùa với mình nhé!
Hỏi: Mình sợ đến chùa bị mấy người Kinh coi thường.
Đáp: Chỉ có mấy người kinh dị mới coi thường anh em người dân tộc, chứ người Kinh hiểu biết thì luôn luôn quý trọng anh em người dân tộc vì xưa kia chúng ta đều là con của mẹ Au Cơ đẻ ra trong một trăm cái trứng.
Hỏi: Tại sao có mấy người truyền đạo nói là chuyện một trăm cái trứng là chuyện bịa không có thật?
Đáp: Mấy người đó ác độc mới nói như vậy. Họ muốn anh em người Kinh và người Thượng chia rẽ nhau. Vì 50 người theo cha về xuôi làm người Kinh nên chúng tôi lấy họ cha. Còn 50 người theo mẹ lên nguồn làm người Thượng nên bây giờ các anh vẫn còn lấy họ mẹ. Chứng cớ rành rành đó mà cãi gì nữa. Muôn đời chúng ta là anh em, vì vậy phải thương yêu gắn bó với nhau, phải cột dính với nhau, không cho ai xen vào chia rẽ, không cho ai chẻ đôi anh em mình như chẻ tre. Đạo nào cũng không được chia rẽ tình anh em giữa người Kinh và người Thượng của chúng ta.
Hỏi: Năm ngoái mình lỡ theo đạo thờ ông trời vì được người ta cho tiền rồi, bây giờ đi chùa có sao không?
Đáp: Phật ở ngoài, Trời ở trong mà sợ cái gì. Đi chùa là mình bước lên cao hơn, giống như mình leo lên nhà chứ không còn ở dưới chân cầu thang nữa. Vì vậy anh em cứ mạnh dạn đi chùa, không sợ gì hết.
Hỏi: Bên mấy ông kia thì nói Trời lớn hơn Phật; anh thì nói Phật lớn hơn Trời. Mình không biết ai đúng nữa.
Đáp: Họ có nói tại sao ! Trời l�! ��n hơn Phật không?
Hỏi: Họ nói ông Trời làm ra tất cả, trời đất, mây gió, núi sông, Kinh hay Thượng, đều do ông trời làm ra.
Đáp: Nói họ kêu ông trời làm mưa cho dân nhờ đi. Sao trời không làm mưa được?
Hỏi: Vậy Phật làm mưa được không?
Đáp: Phật bảo mình phải trồng ướt mới ăn trái ướt; mình phải giữ rừng thì sẽ có nước và có mưa. Phật dạy mình cách làm ra những điều mình mong muốn chứ không cần xòe tay xin ai hết. Phật hay hơn trời thần là như vậy. Mấy ông kia bắt mình phải cầu xin, mà nhiều khi mấy ông đâu có cho được đâu. Phật dạy mình cách làm ra điều mình muốn để khỏi xin ai. Phật là đỉnh núi cao nhất. Phật là mặt trời sáng nhất. Phật là người cha nhân từ nhất.
Hỏi: Bây giờ mình muốn có nhiều tờ giấy có nhiều vòng tròn cầm mua đồ được thì Phật dạy phải làm sao?
Đáp: Muốn có nhiều tờ giấy có hình Bác Hồ có râu và có nhiều vòng tròn (ý là giàu có sung túc) thì mình phải chịu cực giúp đỡ đồng bào của mình. Ai bệnh mình tới lui chăm sóc; ai đói mình chia cơm; ai làm nhà mình tới giúp
lâu ngày tự nhiên mình có phước, sẽ có nhiều may mắn khiến cho mình giàu có sung túc, nhà lớn, gạo đầy bồ, cá khô chứa đầy tủ, có xe chạy chơi nữa. Còn tiền của mấy người tự nhiên đem cho mình rồi xúi mình bạo loạn là tiền xấu. Lấy đồng tiền đó rồi thì mình nghèo khổ hoài.
Hỏi: Nhưng mà kẹt quá, họ đưa phải lấy mua gạo cái đã.
Đáp: Nếu kẹt quá thì cứ lấy, nhưng đừng nghe lời họ theo mấy cái đạo xúi bạo loạn. Đạo thì phải hiền lành. Đạo mà xúi bạo loạn là đạo tầm bậy. Mình theo mấy cái đạo đ! ó ông b! à mình giận lắm. Tiền thì cứ lấy nhưng đạo thì đừng theo.
Hỏi: Họ hỏi lấy tiền rồi thì phải theo đạo, không theo họ đòi tiền lại, không có trả.
Đáp: Vậy là khác với đạo Phật. Nhiều lần đạo Phật đem gạo đem quà tới tặng biếu đồng bào nhưng không ép đồng bào theo đạo, không bao giờ đòi lại. Đạo Phật tốt hơn mấy đạo đó. Hôm nào mình dẫn anh em về chùa làm lễ quy y theo đạo Phật nhé.
Đại khái ta nói chuyện vừa đơn giản vừa dứt khoát rõ ràng để đưa họ về đạo Phật chứ không có e dè ngần ngại. Người phát nguyện đi vào vùng sâu vùng xa để độ cho đồng bào dân tộc là những Bồtát tại thế gian. Vì sao? vì đa phần ai cũng muốn độ những người thành thị giàu có để được cúng dường lợi dưỡng, còn độ cho đồng bào dân tộc thì phải xin tiền xin gạo đến tặng biếu rất cực. Ai độ được cho một người dân tộc bằng độ cho một trăm người thành thị.
Đã đến lúc ta phải có bổn phận đem ánh sáng Phật Pháp đến cho anh em người Thượng. Cùng là con người với nhau, thế mà ta được duyên lành có giáo lý của Phật để sống để tu, còn những anh em dân tộc thì chưa biết gì. Lòng từ bi của đạo Phật không cho phép ta bỏ mặc như thế. Ta sẽ rủ nhau phát nguyện đi đến với đồng bào dân tộc để đem đạo lý cao cả của Phật thắp lên các buôn làng ở đó, để cho không một góc đất trời nào thiếu ánh sáng Phật Pháp thiêng liêng.
HOẰNG PHÁP 9
1. Những đặc điểm chính của Kitô giáo
Kitô giáo có 4 hệ thống giáo hội chính: Vatican La mã, Chính thống giáo ở Nga và Đông âu, Anh giáo ở Anh, và Tin lành ở Mỹ. Ngoài ra Hy Lạp cũng có giáo hội độc lập với Vatican. Người khai sáng Kitô giáo là Jésus – Do Thái, được gọi là Chúa. Kitô tin vào một Thượng đế tối cao tạo lập nên tất cả trời đất, cây cỏ, chim thú, và người; Thượng đế cũng là đạo diễn bí mật chi phối số phận con người với tất cả khổ đau và sung sướng.
Thật ra Kitô có nguồn gốc từ đạo Do Thái dựa trên nền tảng kinh Cựu Ước. Cả sau này Hồi giáo cũng lấy Cựu ước làm nền tảng giáo lý. Cựu ước là cuốn truyện thần thoại do nhiều tác giả Do thái nối tiếp nhau viết qua nhiều thế kỷ trước Công nguyên cả nghìn năm. Trong cuốn truyện thần thoại đó, lịch sử lập quốc của Do Thái được kể lại, nhiều mẫu chuyện về Thượng đế được tường thuật với tính cách khá giống con người, cũng thương yêu, phẫn nộ, ban thưởng và hủy diệt.
Trước đó, vùng sa mạc Cận đông này có tôn giáo của Ai Cập thống trị với quyền lực và nền văn minh rất phát triển. Các kim tự tháp còn tồn tại đến ngày nay là bằng chứng hiển nhiên. Người Do Thái lúc đó chỉ là lực lượng nô lệ để lao động trên các công trường cho người Ai Cập. Họ làm nô lệ qua nhiều thế kỷ nhưng vẫn giữ riêng ngôn ngữ của mình. Đó chính là tiền đề cho sự ly khai về sau. Nguyên nhân sâu xa cũng vì sự phân biệt đối xử quá đáng của người Ai Cập khiến cho họ không còn cơ hội để hội nhập đồng hóa. Một nhân vật kiệt xuất của Do Thái xuất! hiện tên là Moise (đọc là Môi zê), đã dẫn người Do Thái trốn khỏi lãnh thổ Ai cập để đi tìm vùng đất riêng cho mình. Sau hơn 40 năm lang thang trong sa mạc, với nhiều khốn khổ và huyền thoại, Moise đã tìm được vùng đất Do Thái ngày nay. Các nhà khoa học test gène AND của người Do Thái với người Ả Rập (cả Ai Cập) phát hiện rằng tất cả họ đều có chung mã di truyền, nghĩa là họ có cùng nguồn gốc tổ tiên, nhưng không hiểu sao họ đã chia ra thành nhiều dân tộc tự bao giờ.
Trên đường lang thang đi tìm vùng đất hứa (promised land, Chúa hứa sẽ cho người Do Thái một vùng đất riêng để lập quốc), Moise đã dạy cho dân Do thái 10 điều răn, nói là được Thượng đế truyền lại từ đỉnh núi Sinai. Trước đó, không hiểu sao, người Do Thái cũng có tín ngưỡng thờ bò giống như Hindu An Độ. Moise đã ngăn cấm thờ bò, tiêu diệt phe thờ bò và áp đặt niềm tin Thượng đế quyết liệt vào dân Do Thái.
Lịch sử lập quốc Do Thái cứ như thế mà hình thành dần. Nhưng các nhà viết Cựu ước còn đi xa hơn, đã hy vọng viết luôn cả lịch sử của trời đất và muôn vật với nguyên nhân đầu tiên là Thượng đế. Trong phần Sáng thế ký, tác giả nào đó đã viết về Chúa trời bắt đầu tạo dựng trời đất, muôn thú, cuối cùng tạo nên con người đầu tiên là ông Adams. Sau đó, Chúa lấy xương sườn đàn ông để tạo nên đàn bà tên là Eva. (một câu chuyện khôi hài của Tây phương đã nói ngược lại là Chúa tạo đàn bà trước, tạo đàn ông sau, nhưng biết đàn ông hay tự ái nên giấu chuyện đó). Chúa làm tất cả điều đó trong 6 ngày, và nghỉ vào ngày thứ 7. Do đó, tục lệ chu kỳ 7 ngày sinh! hoạt c! ủa nhân loại đã hình thành theo sáng tác của Cựu ước.
Sau đó gia phả của Adam và Eva được viết liên tục qua các đời con cháu. Trong Cựu ước có nhiều điểm sơ hở rất non nớt bị các nhà nghiên cứu thời nay phê bình gay gắt. Ví dụ, con của Adam và Eva là Abel và Cain. Cain đã giết Abel vì ganh tị, rồi lấy vợ. Vợ ở đâu ra trong khi trên thế giới lúc đó chỉ có người phụ nữ duy nhất là bà Eva. Tiếp theo nữa, nếu căn cứ vào gia phả của Cựu ước kể thì tính ra, loài người chỉ mới xuất hiện khoảng vài nghìn năm trước công nguyên, mà khoa khảo cổ cũng như lịch sử của các dân tộc khác thì lịch sử loài người, văn minh loài người đã hình thành từ rất lâu. Ngay từ những giờ phút ban đầu của loài người, sự ác độc và loạn luân đã xuất hiện khiến cho sau này con người dễ bị ám ảnh bởi 2 điều đó.
Chưa hết, các chuyện thần thoại kể về Chúa trời, khi thì tên Elohim, khi thì tên Jehovah, đã có những hành động, những cuộc trừng phạt khốc kiệt khiến người chết vô số nếu dân tộc nào không chịu tin chúa trời. Những chuyện kể như thế đã hình thành một tính cách quyết liệt trong việc truyền đạo của Kitô và Islam về sau.
Bên cạnh những chuyện thần thoại như thế, cũng có chuyện về một trận đại hồng thủy dìm chết gần hết loài người. Gia đình ông Noah đã đóng một chiếc thuyền to, chứa trên đó nhiều người và súc vật. Nhờ như vậy mà Trái đất được duy trì sinh sản trở lại sau khi nước rút.
Hoặc chuyện về Chúa trời phóng lửa hủy diệt 2 thành đô tên là Sodoma và Gerome chỉ vì con người trong 2 thành phố này sống sa đọa và ác độc không cò! n cách c! ứu chữa. Chỉ có 3 cha con ông Lotte được thiên sứ báo trước nên trốn kịp. Để duy trì nòi giống, 2 người con gái đã lấy cha mình. Đại khái những chuyện loạn luân trần tục cứ xuất hiện đầy trong Cựu ước khiến cho bức tranh về đạo đức của loài người thật là bi thảm. Hai phần ba trong Cựu ước là chuyện giết chóc chinh chiến liên miên.
Điều may mắn cho nhân loại là Jesus đã xuất hiện. Sau này Jesus cũng được tín đồ gọi là Chúa, giống Chúa trên trời.
Đức Jesus là con đầu của người thợ mộc tên Joseph và bà Maria (Myriam). Đức Jesus cũng có 4 người em khác, tên là Jacques, Josephine (nữ), Judae và Simon. Đức Jesus sinh vào mùa lạnh, có tuyết rơi nhiều (sau này lấy ngày 25 tháng 12), tại một hang gia súc vì lúc đó các nhà trọ đã hết chỗ mà 2 vợ chồng đang gấp rút về quê để kê khai nhân khẩu. Một ánh sao lạ xuất hiện đồng thời khiến cho 3 đạo sĩ Trung Hoa tò mò tìm đến và khen ngợi về tương lai của đứa bé khiến cho quan La Mã đang cai trị lo ngại ra lệnh giết hết trẻ sơ sinh. Họ phải rất vất vả mới trốn được về quê. Lớn lên Jesus có nhiều khuynh hướng tâm linh, đã có lần về đền thánh ở Jerusalem lý luận với các giáo sĩ Do Thái giáo. Từ năm mười ba đến gần 30 tuổi có đi về An Độ nghiên cứu đạo lý, dường như có chịu ảnh hưởng đạo Phật. Năm 30 tuổi bắt đầu xuất hiện truyền đạo, thường hay chữa bệnh bằng thần thông; đến năm 33 tuổi thì bị các giáo sĩ Do Thái bắt nộp cho La Mã, rồi bị tử hình bằng cách đóng đinh lên cây thập giá. Tín đồ Kitô tin rằng 3 ngày sau Chúa Jesus sống lại rồi cả hồn và xác bay lên trời.
Sau này vua Const! antine c�! ��a La Mã chấp nhận Kitô và tổ chức Kitô thành một tôn giáo hùng mạnh trên thế giới.
Giáo lý của đức Jesus có vẻ như dựa vào Cựu ước để không làm mích lòng dân Do Thái, nhưng thực ra, Jesus đã cải cách gần như toàn bộ giáo lý đó. Từ một quan điểm cố chấp hiếu chiến của Cựu ước, Jesus đã biến thành một quan điểm ôn hòa, phóng khoáng. Từ một giáo lý thuần túy niềm tin, Jesus đã biến thành giáo lý có lý trí và thăng hoa tâm linh hơn. Tuy nhiên, phải hơn 40 năm sau khi đức Jésus qua đời mới có một số người viết kể lại cuộc đời và những lời dạy của Ngài. Sau này vua Constantine chọn giữ lại 4 tác giả là Mark, Mathew, John và Lucas.
Những mẫu chuyện trong Phúc âm cho ta một xâu chuỗi về quan điểm giáo lý cởi mở và hiền lành của Jesus. Ví dụ câu chuyện về ngày Sabbath vẫn được làm việc thiện, khi có người chất vấn Jesus tại sao chữa bệnh vào ngày nghỉ Sabbath.
Hoặc câu chuyện về câu trả lời Ai tát ta bên má này, hãy đưa luôn má kia cho người ta tát hoàn toàn ngược với quan điểm của Cựu ước.
Hoặc câu chuyện về việc ngăn cản Simon dùng gươm để bảo vệ thầy mình rằng Này Simon, hãy buông gươm xuống, vì ai dùng gươm sẽ phải chết vì gươm có vẻ hợp với luật Nhân quả trong đạo Phật hơn là Cựu ước.
Hoặc câu chuyện về lời giải thích Nước trời giống như một cô dâu chờ đợi chàng rễ thì không được ngủ vì không biết chàng rễ tới lúc nào có vẻ giống với việc tu tập Chánh niệm tỉnh giác thường xuyên trong đạo Phật. Sự giác ngộ không biết lúc nào xảy ra, do đó, hành giả phải thường xuyên tỉnh giác.
Hoặc câu chuyện về trả l�! ��i cho n! gười phụ nữ Samaria rằng Đã đến lúc không phải thờ Thiên chúa trong đền thánh hay trên đỉnh núi, mà phải thờ thiên chúa trong tâm và trong chân lý lại có vẻ giống với giáo lý đạo Phật cho rằng Tâm là chủ tạo tác mọi khổ vui thiện ác.
Sau này Kitô giáo trộn lẫn giữa Phúc âm của đức Jesus và Cựu ước của Do Thái giáo nên làm thành một tôn giáo thật kỳ lạ, vừa nhân bản, lại vừa khắt khe; vừa lý trí lại vừa cảm tính. Tuy nhiên, tài tổ chức giáo hội của Kitô thì thật tài ba. Các giáo hoàng áp dụng tài tổ chức theo đế quốc La mã nên cực kỳ chu đáo và hoàn bị.
Hiện nay Kitô giáo là tôn giáo có giáo dân đông nhất thế giới, gây ảnh hưởng lên văn hóa và đời sống của khắp nhân loại. Ngày lễ Giáng sinh trở thành ngày vui chung của mọi người. Tuy nhiên, gần đây đã xuất hiện sự báo động về việc bỏ đạo của các tín đồ Tây phương. Nhiều Nhà thờ đã phải đóng cửa hoặc bán lại cho tôn giáo khác, nhất là Phật giáo. Kitô đã khéo léo hợp tác với các lực lượng chính trị để phát triển và tồn tại, và vẫn đang ráo riết tìm cách có thêm nhiều tín đồ mới. Tin lành còn hăng hái gấp bội lần với những kế hoạch truyền đạo tỉ mỉ len lỏi khắp nơi. Có lúc hợp tác với nhau, nhưng bên trong Thiên chúa La Mã và Tin Lành Mỹ vẫn cạnh tranh nhau dữ dội.
Các giáo sĩ Kitô phát hiện một tâm lý quan trọng của con người là niềm tin tôn giáo thường hay lấn át được lòng yêu nước của tín đồ. Con người sẽ yêu đạo hơn yêu nước. Vì vậy, các nhà chính trị hay sử dụng Kitô giáo như một phương tiện đi tiên phong trong việc chiếm lòng người trước khi họ ! đem quâ! n sang chiếm đất nước đó.
Riêng Do Thái giáo thì là một biệt lệ vì tín ngưỡng và lịch sử đất nước của họ chỉ là một. Càng tin đạo, họ càng yêu nước. Đó là lý do người Do Thái giữ được bản sắc của mình suốt mấy nghìn năm lưu vong.
Đạo Phật thì không có tổ chức quốc tế chặt chẽ nên không cạnh tranh với lòng yêu nước; vả lại, giáo lý của đạo Phật cũng khuyến khích người dân biết ơn và trung thành với quốc vương đất nước, hay nói khác hơn, là khuyến khích lòng yêu nước.
Nếu ngày xưa tổ tiên ta phát triển huyền thoại Au Cơ Lạc Long Quân mãi thì có khi cũng lập nên một tôn giáo toàn cầu chẳng biết chừng! Như Kitô chỉ là lịch sử lập quốc của Do Thái thế mà đã trở thành tín ngưỡng toàn cầu. Những phong tục tập quán đời sống của dân Do Thái lúc bấy giờ thua xa các quốc gia Đông phương, nhất là thua hẳn đất nước và văn minh Trung Quốc vậy mà cả mấy tỉ người theo Kitô phải học mãi cái lịch sử đó.
Trên tinh thần từ bi của đạo Phật, ta không thấy trở ngại nào trong việc thương yêu và tiếp xúc với người Kitô giáo. Dĩ nhiên ta không bao giờ đánh đồng Kitô và Phật giáo là một, không đánh đồng Chúa và Phật là một vì giáo lý đạo Phật không dễ dãi và cũng không cho phép trộn lẫn những điều đúng và sai lại để có một hỗn hợp nửa đúng nửa sai. Ta luôn luôn đi tìm cái đúng hoàn hảo, và ta cũng muốn các anh em tôn giáo bạn có được chân lý hoàn hảo đó.
Tuy nhiên, tình cảm và niềm tin có sức mạnh kỳ lạ, đôi khi rất vô lý. Một khi đã tin và yêu rồi, con người không cần nhiều lý lẽ, logic, lập luận, và bằng chứng nữa, chỉ biết bảo vệ và đi theo niềm tin của mình. Nếu may mắn ta đặt niềm tin và tình yêu đúng chỗ thì công đức ta phát triển nhanh chóng; ngược lại, nếu ta đặt niềm tin và tình yêu sai chỗ rồi thì ta lẩn quẩn, thoái hóa, mất công đức.
Nhiều giáo phái tà vạy có cả một công nghệ chiếm tình cảm và niềm tin nơi quần chúng khiến cho nhiều người đi theo, mặc dù những giáo điều của họ rỗng tuếch và cực kỳ sai lầm. Họ biết cách tuyên truyền dụ dỗ, khoa trương, khoác lác, vỗ về, mua chuộc để có được tín đồ. Nói chung, họ tấn công ráo riết trái tim con người và bỏ qua bộ óc. Những người đi theo các giáo phái tà vạy thường mê mờ cuồng tín vì bị lấy mất quả tim, bộ óc thì bị trái tim kéo theo nên cũng ngây ngây dại dại.
Kitô giáo nhờ có sự cải cách đặc biệt của đức Jesus nên có nhiều điểm hợp với đạo Phật, r! ất dễ cho ta nói chuyện trao đổi. Tuy nhiên, ảnh hưởng của Cựu ước Do Thái cũng khiến cho anh em Kitô còn vướng theo quan điểm của thời sơ khai khi con người tin có thần linh làm ra hết mọi điều trong trời đất này. Điểm khác biệt căn bản nhất giữa Kitô và Phật giáo là đạo Phật cho rằng vạn vật do nhiều nhân duyên hợp thành, trong đó yếu tố nghiệp báo đóng vai trò quan trọng, trong khi Kitô cho rằng vạn vật do Chúa trời tạo nên tất cả. Từ ngày xưa, trong Thập nhị môn luận, ngài Long Thọ đã có vô số lý luận bác bỏ quan điểm thần quyền như thế chứ không phải ngày nay ta mới có lý luận đó. Tuy nhiên, nếu bác bỏ quan điểm Thượng đế tạo vật, hoặc là ta giúp bạn nhìn ra vấn đề thấy được lẽ phải, hoặc là ta trở thành kẻ thù của bạn ngay lập tức. Vì vậy, ta không dại gì gây thù chuốc oán bằng cách tranh luận những điểm khác biệt sinh tử đó, mà chỉ nên nói về những điểm giống nhau trước. Ta cũng phải khôn ngoan chiếm tình cảm cái đã. Nắm được trái tim rồi thì cuộc nói chuyện sẽ thoải mái và dễ có dịp gặp lại hơn. Mục tiêu của ta là giúp bạn hiểu về đạo Phật hơn, còn việc giúp bạn trở thành Phật tử quy y là việc chưa bàn đến vội.
Ta có thể hỏi bạn khỏe không, đi lễ nhà thờ chưa, cha xứ hay mục sư là vị nào, giáo xứ ta đông người không v.v
Bạn sẽ hỏi: Thầy cô ở chùa nào ạ, có gần đây không ạ?
Đáp: Vâng, Thầy ở chùa bên kia (hoặc xưng là tôi nếu tuổi tác người kia khá lớn), hay đi lại qua đây, thấy các bác đi lễ nhà thờ những ngày chủ nhật vui quá nên rất có thiện cảm, mong có dịp gặp nhau nói chuyện cho vui ạ.
H! ỏi: Ngh! e nói giáo chủ của đạo Phật là Phật tổ Thích Ca, vị đó là như thế nào ạ?
Đáp: Lịch sử đức Phật thì dài lắm, chúng ta không thể nói trong một vài lời (nếu ai có duyên và có thời gian thì cứ kể hấp dẫn càng tốt), chỉ nói sơ lược rằng Ngài là một vị thái tử, bỏ sự thừa kế ngai vàng để xuất gia tu hành và đắc đạo. Giáo lý của Ngài hiện nay được những người trí thức trên khắp thế giới nghiên cứu và ca ngợi.
Hỏi: Như vậy Phật chỉ là một con người. Chúa trời của chúng tôi là đấng tạo ra tất cả (ý nói tạo ra cả Phật).
Đáp: Thật ra vị giáo chủ lập nên tôn giáo nào cũng là con người có cha có mẹ đấy ạ. Đức Jesus cũng là con người. Còn Chúa trời là niềm tin xuất phát từ giáo lý, giống như bên đạo Phật chúng tôi cũng có đức Phật A di đà, không tồn tại trong lịch sử nhân loại, nhưng được biết đến từ kinh điển.
Hỏi: Nhưng phải có Chúa trời lòng lành tạo ra tất cả chứ ạ, nếu không thì muôn vật do đâu mà có?
Đáp: Thưa bác, mỗi tôn giáo đều có cách giải thích về sự xuất hiện của muôn vật không giống nhau, cũng như khoa học bây giờ cũng giải thích nguồn gốc vũ trụ khác luôn. Có lẽ chúng ta phải đợi đến một lúc nào đó nền văn minh loài người vượt lên xa hơn nữa thì ta sẽ có câu trả lời về nguồn gốc vạn loài giống nhau, ai cũng chấp nhận. Bây giờ ta chỉ nên cố gắng sống thiện, làm điều có ích, yêu thương nhau. Dường như đó là điều mà vị giáo chủ nào cũng dạy, phải không ạ.
Hỏi: Vâng, đạo nào cũng dạy như vậy. Thế tại sao người ta không theo một đạo cho khỏe nhỉ, nhiều đạo làm gì cho rắc rối! .
Đ! áp: Đúng thế, ước gì thế giới chỉ có một đạo chung cho khỏe bác nhỉ. Ngày nào đó nhân loại tìm được một tôn giáo đúng nhất rồi theo một đạo là hòa bình ngay. Điều rất lạ là nhiều khi cùng một nước mà khác đạo người ta vẫn đánh giết nhau được; có khi khác nước mà chung đạo người ta vẫn đoàn kết được đấy. Tôn giáo có sức mạnh thật kỳ lạ.
Tôi thì cho rằng đạo nào thì đạo, phải lấy quê hương đất nước làm chỗ dựa cái đã. Đạo nào làm cho ta biết đóng góp điều tốt đẹp cho đất nước mình thì đạo đó là chân chính. Nếu đạo nào phá vỡ tình yêu nước là đạo sai lầm, bác nhỉ.
Hỏi: Vâng, chứ sao nữa.
Đáp: Đạo nào ca ngợi sự công bằng là đạo chân chính, bác nhỉ. Ai làm điều tốt sẽ được hạnh phúc, ai làm điều bậy sẽ bị đau khổ. Đó là chân lý. Có mấy cái đạo gì cứ xúi người ta giết nhau ghê quá. Ta sẽ cùng nhau chọn một cái đạo nào thật sự đem an vui hạnh phúc đạo đức và thanh bình cho thế giới. Tôi rất thích lời chúa Jesus giảng giải về Thiên đường, có đoạn nói về Thiên đường giống như gieo hạt, hạt nẩy mầm lớn lên thành cây to, rồi thành trái. Đoạn này rất giống với đạo Phật nói về luật Nhân quả Nghiệp báo. Thiên đường của Chúa cũng là đạo lý về Nhân quả và công bằng đấy ạ.
Nói thật với bác, tôi không thích và không tin Thiên đường là nơi hưởng thụ, tôi tin thiên đường là nơi cao cả thanh khiết. Người nào sinh về thiên đường phải là ngưòi cao cả và thanh khiết.
Hỏi: Muốn về thiên đường thì chỉ có cách thờ phượng Chúa thôi ạ.
Đáp: Chúng ta có 3 cách thờ phượng Chúa trời. M! ột là ! thường xuyên quỳ cầu nguyện Chúa; hai là thường xuyên học lời Chúa dạy; ba là sống theo như lời Chúa đã dạy. Thật ra chẳng có ai nghe trực tiếp lời Chúa trời đã dạy, chúng ta chỉ nghe qua trung gian những vị giáo sĩ, tiên tri hoặc bậc thánh nào đó mà thôi. Nếu những vị đó nói đúng lời Chúa trời thì xem như ta may mắn vì theo đúng đường. Nếu những vị đó nói sai lời Chúa thì xem như ta bị rủi, tu theo hoài mà không có kết quả.
Hỏi: Làm sao ta biết là sai hay đúng được?
Đáp: Đây chính là vai trò và giá trị của ta, đây chính là chỗ ta phải làm chủ cuộc đời của mình. Không phải ở trên đời này, ai tự xưng là tiếp xúc được với thần thánh là họ có quyền nói gì ta cũng phải tin. Ta phải mạnh dạn xét lại hết mọi lời nói của những vị tiên tri để xem có thật họ đã nói đúng lời Chúa hay không. Nếu lời nói của họ kêu gọi con người thương yêu nhau, đề cao Nhân quả công bằng của Chúa, ca ngợi đời sống cao cả thanh khiết
thì ta tin. Nếu lời nói của các vị đó chủ trương hưởng thụ tầm thường, đưa đến lòng hẹp hòi cố chấp, không để ý đến tính công bằng Nhân quả
thì ta không công nhận đó là lời Chúa.
Hỏi: Thầy đạo Phật mà cũng tin Chúa à?
Đáp: Trong giáo lý Phật dạy có nói về Vua cõi trời, cai quản thế gian khắp nơi.
Hỏi: Phật với Vua trời thì ai lớn hơn ai?
Đáp: Phật là thầy của thế gian, của vũ trụ. Vua trời cai quản lãnh đạo các cõi thế gian. Thầy không có quyền lực, nhưng là chỗ dựa tinh thần cho tất cả. Theo giáo lý đạo Phật thì Vua trời cũng tôn kính Phật.
Hỏi: Nhưng Vua trời phải là người tạo ra trời đất k! hông?
Đáp: Vũ trụ xuất hiện theo một cách thức không đơn giản, không thể được kết luận trong vài lời ngắn ngủi. Hoặc là nhân loại phải văn minh gấp triệu lần hiện nay mới hiểu nổi, hoặc ai phải chứng đạo tận cùng mới thấy được. Điều quan trọng hiện nay của chúng ta là sống sao cho phải đạo, sống sao cho có ích với đời, sống sao cho cao cả thanh khiết để phù hợp với tâm các vị Thánh.
Một điều quan trọng nữa để chúng ta chú ý là một tôn giáo chân chính sẽ làm con người không xem tôn giáo đó như là một vỏ bọc, một thành trì ngăn chia. Tôn giáo chân chính sẽ làm cho tín đồ thấy rằng đạo là công cụ để yêu thương tử tế không biên giới.
Hỏi: Nhưng từ lâu chúng tôi có cảm giác rằng ai không theo đạo (Kitô) là người tội lỗi.
Đáp: Đó cũng là một loại vỏ bọc đấy bác ạ. Nhiều người không theo Kitô mà sống vô cùng tốt, và vẫn có những người theo Kitô mà làm nhiều chuyện sai lầm tội lỗi. Tâm hồn, phẩm chất, việc làm của mỗi người là giá trị của người ấy mà các vị thánh dùng để phán xét. Còn chúng ta hay phán xét theo vỏ bọc. Chúng ta nên bắt chước các vị thánh là xét người theo phẩm giá việc làm hơn là những nhãn hiệu. Nếu như vậy thì tất cả chúng ta đều là anh em, đều không bị ranh giới tôn giáo làm chia cách.
Hôm nào rảnh mời bác ghé chùa ăn bữa cơm đạm bạc cho vui. Đây là một ít phim đạo lý, mời bác xem qua cho biết nhé.
Bye bye.
HOẰNG PHÁP 10
1. Những đặc điểm của người theo đạo Islam
Đạo Islam, hay còn gọi là đạo Hồi, do giáo chủ Mahomet (Muhamad) sáng lập. Khu vực Trung đông có diện tích sa mạc bao phủ hầu hết, thỉnh thoảng có một ốc đảo (oasis) có nước và cây xanh nổi lên quy tụ được dân cư làm thành làng mạc hay thị trấn. Đời sống văn hóa của người A Rập gắn liền với sa mạc mênh mông.
Mahomet sinh năm 570, mất năm 632. Mahomet sinh ở Mecca, thủ đô xứ Saudi Arabie. Dòng họ giàu có, nhưng đến đời cha Mahomet thì làm ăn thất bại nên ông về ở với ông nội. Lên 12 tuổi, ông theo người chú đi buôn theo các đoàn lữ hành trong sa mạc. Công việc của đoàn lữ hành buộc ông phải rèn luyện rất nhiều về khả năng quân sự, võ thuật, chiến thuật, và đã thực sự trở thành một chiến sĩ warrior.
Năm 25 tuổi, người chú mai mối bà Khadija giàu có và lớn hơn ông 15 tuổi. Lúc đó bà Khadija đang cần một người đàn ông tháo vát để trông coi việc buôn bán của gia đình. Bà trở thành người nâng đỡ ông trong suốt thời gian thành lập đạo Hồi về sau cho tới khi bà mất năm 619, thọ 64 tuổi.
Tại Mecca vẫn tồn tại một đền thờ Kaaba nhỏ nhắn bên trong thờ một tảng đá đen vốn là một thiên thạch (meteorite) từ hơn hai ngàn năm trước. Mọi người tín ngưỡng tảng đá đó như là biểu tượng của Thiên chúa Allah. Năm 605, Mahomet 35 tuổi, ông lại là người góp ý kiến xây dựng lại ngôi đền trong khi mọi người khác đang lúng túng. Đến nay, đền thờ này vẫn là điểm hành hương cho tín đồ Hồi giáo trên khắp thế giới.
Năm 610, có lần Mahomet leo lên đỉnh núi Hira ngồi trầm tư trong một cái hang, và ! ông kể là đã tiếp xúc với thiên sứ Gabriel, người đã giao cho ông trọng trách xây dựng đạo Hồi. Ong đã bối rối về kể với Khadija. Sau đó, được bà khuyến khích, ông tiếp tục nghiên cứu để viết sách kinh Koran trong suốt 22 năm kế tiếp.
Kinh Koran được cho là những lời của Allah phán dạy cho Mahomet, nhưng thực ra ngày nay ta dễ dàng thấy rằng hầu hết là suy nghĩ của Mahomet, ví dụ ban đầu ông yêu cầu mỗi khi cầu nguyện phải hướng về Jérusalem, sau này ghét Do Thái và Kitô, ông lại yêu cầu phải hướng về Mecca.
Năm 612, Mahomet tuyên bố ông là tiên tri cuối cùng của thế giới. Những người sau chỉ có thể là kế thừa của ông chứ không thể ngang bằng hoặc khác với ông được. Giáo lý của Mahomet tôn xưng một thiên chúa duy nhất, độc tôn, không chấp nhận thờ nhiều thần linh nào khác, và vì thế, ông lên án các đạo thờ đa thần như Do Thái và Kitô. Lúc đó, tại Mecca, người ta cũng thờ nhiều vị thần ngay trong đền Kaaba.
Năm 616, Mahomet giảng đạo tại Kaaba, thuyết phục mọi người phá bỏ các tượng thần nên động chạm đến niềm tin của đa số người dân A Rập vốn tin Allah có 3 người con gái. Mahomet bị kết án và bị săn lùng. Ong cùng 53 người thân tín trốn đi tị nạn ở xứ Abyssinia (Ethiopia ngày nay). Sau đó ông phải chứng tỏ cho vua Negus thấy là ông ca ngợi Jesus. Ong cũng tìm cách chứng tỏ là đã chấp nhận đa thần để được trở về Mecca.
Bất ngờ tháng 9 năm 622, một phái đoàn 75 người từ Yathrib đến Mecca để mời Mahomet về đó để thành lập cộng đồng Hồi giáo đầu tiên. Mahomet cùng 100 gia đình Hồi giáo trốn trong đêm để đi về Yathrib vào ngày 24 tháng 9! năm 622! , và lịch Hồi giáo bắt đầu từ năm này. Yathrib cách Mecca 200 dặm về phía Bắc, nay được đổi tên là Medina.
Quãng thời gian 10 năm kế tiếp, Mahomet tổ chức cộng đồng Hồi giáo thành một lực lượng quân sự chuyên tấn công cướp hàng, lạc đà, giết người của những đoàn lữ hành đi buôn băng qua sa mạc. Không hiểu sao công việc này lại phát triển khấm khá và Medina trở nên hùng mạnh sung túc. Lần lượt, Mahomet áp đặt được sự cai trị của Hồi giáo lên các bộ tộc chung quanh. Mahomet buộc các tín đồ phải tin ông như tin Chúa, và tạo nên ý niệm Thánh chiến như là bổn phận của tín đồ. Trong suốt những năm này, ông cũng cưới thêm rất nhiều vợ, đặc biệt có người vợ Aisha mới 6 tuổi mà sau này lớn lên rất xinh đẹp khiến ông thương yêu nhất.
Giữa Medina và Mecca đã nổ ra nhiều trận chiến khốc liệt, người chết như rạ, cuối cùng thì Mahomet cũng chiến thắng. Có một lần Mahomet thua một trận ở Syria, bị đế quốc Byzantine đánh bại thê thảm.
Nhưng rồi dần dần, Mahomet cũng chiếm được quyền cai trị cả một dải đất Ả Rập lớn bằng 8 lần nước Việt Nam. Những bộ tộc chống lại ông đều bị thảm sát gần như sạch sẽ, nhất là những bộ tộc Do Thái.
Năm 629, Mahomet dẫn 2600 người về Mecca để làm lễ tại đền thờ Kaaba và chiếm được sự nể phục của người dân Mecca. Sau đó thì Mahomet bại trận trong cuộc chiến với Syria của đế quốc Byzantine. Rồi số vợ quá đông của ông cũng chia phe chống nhau rắc rối.
Năm 630, Mahomet dẫn 10,000 người có vũ trang về hành hương ở Mecca, phá bỏ tất cả hình tượng các thần hơn 360 cái, chỉ chừa lại tượng Jésus.!
Th�! �ng giêng năm 631, tất cả bộ lạc trên bán đảo Ả Rập đều bị đặt dưới quyền cai trị của Mahomet. Nhưng những chiến binh Hồi giáo cũng bắt đầu mõi mệt vì những cuộc chinh chiến liên miên bất tận như thế.
Năm 632, Mahomet qua đời trong vòng tay của Aisha, nguời vợ mà ông thương yêu nhất. Vì không hề chuẩn bị chọn người kế tục lãnh đạo nên ban đầu cộng đồng Hồi giáo lúng túng cho đến khi bầu được Abu Badr kế vị. Abu Badr cũng là giáo chủ của phái Sunni sau này. Còn người con rễ của Mahomet là Ali thì trở thành giáo chủ của phái Shiite (Shi-Ah, nghĩa là đảng của Ali). Caliph có nghĩa là vua đạo Hồi kế vị Mahomet.
Kinh Koran cũng là sự kế thừa các tín ngưỡng của Kinh Torah của Do Thái và Gospel của Kitô, nhấn mạnh đến sự sùng bái tuyệt đối một Thiên chúa Allah độc nhất. Các tín đồ Islam mỗi ngày đều được các Muezzin leo lên lầu cao bắt loa kêu gọi chỉ tin một Thiên chúa Allah duy nhất, riết rồi mọi người bị thấm sâu đến nỗi không còn khoan dung với bất cứ tôn giáo nào khác nữa. Thật ra cả thánh kinh Do Thái, Kitô và cả Hồi giáo đều bắt nguồn từ các truyện thần thoại của xứ Babylone xa xưa ở nam Baghdad 200 dặm. Babylone có một nền văn minh khá cao trước khi Ai Cập thay thế. Nhiều chuyện tích của Babylone đã được biến thành kinh điển của Do Thái giáo.
Koran cũng tin có các Thiên thần và ma quỷ, nhưng cũng tin Satan cũng được tha thứ trong ngày tận thế. Islam cũng tin các sách kinh của Do Thái và Phúc âm của Kitô, và xem Jesus cũng là một tiên tri đáng kính đứng sau Mahomet. Họ cũng tin các vị thiên sứ mang lời Chúa đến với loài người. Ba đạo Do Thái, Kitô, và I! slam đ�! �u tin có ngày tận thế, Chúa sẽ gọi người chết sống dậy để phán xử, sau đó cuộc sống trên trần gian dường như không còn nữa. Đặc biệt là Islam tin mọi việc do Chúa định liệu tạo tác nhưng con người vẫn có ý chí riêng.
Kinh Koran có những điều ngăn cấm giống như một bộ luật xã hội, ví dụ cấm cho vay nặng lãi, cấm ăn thịt heo, cấm ăn thịt cúng ngoại thần, cấm ăn huyết, cấm cờ bạc, cấm săn bắn trong thời gian đi hành hương ở Mecca, phải ăn chay trong tháng Ramadan, phải rửa chân tay trước khi cầu nguyện,
Các xứ Hồi giáo cũng cấm ruợu gay gắt và rất ghét các quán ruợu do người Tây phương đến mở phục vụ cho nhân viên Tây phương làm việc tại Ả Rập.
Trước kia, phụ nữ Ả Rập thường lấy nhiều chồng và đa số là đàn ông trẻ khỏe. Kinh Koran khẳng định quyền ưu thắng của đàn ông và cấm hẳn tục đa phu. Phụ nữ bị cáo buộc ngoại tình sẽ bị đem ra công chúng ném đá cho đến chết.
Koran quy định án phạt khủng khiếp cho ai "chống Thiên chúa Allah" hoặc "chống tiên tri Mahomet" là phải bị chặt đầu và chặt hết tay chân. Mahomet căn dặn trong Koran là nếu ai công kích ông thì phải giết kẻ đó lập tức. Tội trộm cắp vặt vãnh cũng bị chặt một cánh tay. Ngày nay, luật pháp của thế giới văn minh không chấp nhận cho việc hủy phạm cơ thể con người, vì những hình phạt của Hồi giáo là rất man rợ.
Kinh Koran không phải dễ đọc nên đã xuất hiện những bản giải thích gọi là Hadith. Hồi giáo có 3 bản Hadith khác nhau. Một của Bukkhari được giáo phái Sunni tin tưởng; một của Kulayni được Shiite công nhận; một của Ibn Harib được Khariji công nhận. Ba gi�! �o phái ! này đánh nhau thảm khốc vì bất đồng về các Hadith đó. Từ các bản Koran và Hadith, chính quyền Hồi giáo lập ra luật Sharia cực kỳ khắt khe.
Có lần sau một bữa tiệc vui, Mahomet thấy các đàn ông tỏ ra ve vãn các bà vợ của mình, vì vậy ông đã viết trong Koran là đàn ông đừng có la cà tán tỉnh vợ của tiên tri, và các bà vợ phải lấy khăn che mặt khi đi ra ngoài để không gây sự chú ý cho nam giới. Thế là Hồi giáo xuất hiện điều luật buộc các phụ nữ phải lấy khăn che mặt khi đi ra đường. Thậm chí họ buộc phải che kín từ đầu đến chân, chỉ chừa hai con mắt. Phụ nữ Hồi giáo phải mặc bộ y phục nặng nề như vậy nên thường bị ngộp thở và nhức đầu.
Đối với người không tin Hồi giáo thì Koran không chút thương xót. Trong chương 8, dòng 12, Koran cho rằng Chúa đã bảo: "Ta sẽ gieo kinh hoàng nơi trái tim của những kẻ ngoại đạo. Các con hãy chặt đầu chúng và cắt rời tất cả đầu ngón tay của chúng." Chính vì vậy mà sau này các đoàn quân Hồi giáo đánh giết khắp nơi, xâm chiếm khắp nơi, thảm sát khắp nơi mà không một chút áy náy vì được khuyến khích bởi Koran. Hoặc một đoạn khác, Mahomet kêu gọi tín đồ Hồi giáo núp chỗ khuất để đột kích các người ngoại đạo lúc mà lực lượng Hồi giáo chưa mạnh lắm. Nếu nhà Đường của Trung Hoa mà yếu một chút thì Hồi giáo cũng đã chiếm luôn Trung Hoa trong trận đánh năm 712 tại sông Talas.
Mười điều răn của Islam là: chỉ thờ 1 Allah; vinh danh và kính trọng cha mẹ; tôn trọng quyền của người khác; bố thí rộng rãi cho người nghèo; tránh giết người trừ lúc cần thiết; cấm ngoại tình; bảo vệ và chu cấp cho tr�! � mồ c�! �i; cư xử công bằng với mọi người; trong sạch trong tình cảm và tinh thần; khiêm tốn.
Koran không cho phép thờ ảnh tượng, nên đền thờ Hồi giáo không có gì cả ngoại trừ vài hình kỷ hà đơn giản. Người Islam rất hằn học với đền thờ các tôn giáo khác có thờ ảnh tượng, ghét luôn cả phim ảnh chiếu hình người, ghét tranh ảnh vẽ người, chống đối các cuộc thi hoa hậu người mẫu.
Có lần trong Koran, Mahomet kể là đã được thiên sứ cho cưỡi ngựa thần đi thăm đền thánh Jerusalem, rồi lên 7 tầng trời gặp các thánh trong kinh Cựu ước như Abraham, Moses, Jesus
rồi cuối cùng gặp Thiên chúa. Chúa dặn các tín đồ mỗi ngày phải cầu nguyện 50 lần, nhưng thiên sứ Gabriel dặn là 5 lần thôi. Vì vậy, cho đến nay, tín đồ Islam vẫn phải hướng về Mecca cầu nguyện 5 lần mỗi ngày. Lời cầu nguyện chỉ đơn giản là tôn xưng Allah vĩ đại và duy nhất.
Thiên đường của đạo Hồi cũng cực kỳ đơn giản, chỉ là nơi hưởng thú vui nhục dục của đàn ông. Ai có công với Allah, chết vì Allah, sẽ được thưởng 72 trinh nữ trên thiên đường để vui thú vĩnh viễn. Nhiều thanh thiếu niên của Islam sống trong nghèo khổ và bế tắc đã chọn cách tấn công cảm tử để nhanh chóng lên thiên đường cho rồi.
Người phụ nữ theo quan điểm đạo Hồi chỉ là sở hữu của đàn ông. Ơ các đất nước Hồi giáo, việc phụ nữ bị sát hại, đánh đập là thường xuyên và chẳng ai bênh vực. Khi Algerie dành lại độc lập từ thực dân Pháp và chuyển sang chế độ Hồi giáo, người phụ nữ mới biết rằng sống trong chế độ Hồi giáo họ bị ngược đãi hơn là sống trong ách thực dân, và phải biểu tình d�! �� dội ! mới dành được ít nhiều quyền lợi.
Mạng sống con người dường như ít quan trọng hơn niềm tin nên suốt thời gian phát triển của Hồi giáo, hơn trăm triệu mạng người đã bị giết. Giết người khác đạo đã đành, họ giết lẫn nhau vì khác giáo phái. Ai mà bị gài tội chống Allah thì coi như cầm chắc cái chết. Vào khoảng thế kỷ 11, giáo phái Assassin được thành lập tại Ba tư chuyên bí mật ám sát bất cứ người nào không tin Hồi giáo, gây kinh hoàng khắp cả 2 thế kỷ liên tiếp cho đến khi quân Mông cổ phá tan bản doanh của giáo phái này năm 1256.
Điều rất khác lạ so với Kitô là Mahomet lại khuyến khích tri thức chứ không lo ngại sự tiến bộ của khoa học. Ong cho đó là dấu hiệu của Thiên chúa. Vì thế, vào thời kỳ mà Au châu chìm trong sự tăm tối của tri thức vì các giáo hoàng ra lệnh đốt phá văn minh Hy Lạp, thì ở các quốc gia Hồi giáo, vua chúa ra sức học tập và phát huy văn minh Hy Lạp. Nhiều nhà khoa học Hồi giáo đã mở đường cho các ngành toán học, thiên văn, địa lý ngày nay. Tại Bagdad đã từng có trường đại học đầu tiên trên thế giới vào thế kỷ thứ 8.
Biên giới của Hồi giáo liên tiếp mở rộng sang các nước Trung Á, Nam Á, Au châu, Phi châu, hoặc bằng cách truyền đạo ôn hòa, hoặc bằng quân sự đánh chiếm rồi buộc theo đạo. Nhiều đế quốc Hồi giáo đã xuất hiện và tồn tại cả thời gian dài như đế quốc Mughul của các vua Mông cổ theo đạo Hồi, đế quốc Ottoman (1289-1924) xuất phát từ Thổ nhĩ kỳ, đế quốc Safavids của giáo phái Shiite (1501-1779).
Sau này, khi Au châu phát triển kỹ thuật vũ khí hùng mạnh và xâm chiếm các nước Hồi giáo làm thuộc đ�! ��a thì ! Hồi giáo tạm thời suy yếu. Hôm nay, khi các nước Hồi giáo cũng bắt đầu vũ trang hiện đại thì tư tưởng cực đoan cuồng tín xuất hiện trở lại với quyết tâm biến cả thế giới thành Hồi giáo. Đây là lúc những người có lương tri trên toàn thế giới phải chuẩn bị cho một hiểm họa Hồi giáo cực đoan đang đến dần dần. Nhiều người cho rằng chỉ khoảng 15% tín đồ Hồi giáo là cực đoan, nhưng như thế cũng có nghĩa là đang có 200 triệu người cuồng tín sẵn sàng tàn sát nhân loại để truyền bá đạo Hồi.
Ta rất hoan hỷ sống chung hòa bình với anh em Hồi giáo trong khi chờ đợi thế giới xác định một tôn giáo chân chính nhất để cho toàn thế giới phải theo, nhưng ta cũng phải đề phòng sự manh động của các nhóm chủ trương cực đoan chuyên dùng bạo lực khủng bố để truyền đạo. Muốn đối phó với Hồi giáo, ta phải có sức mạnh về quân sự để ngăn chận bạo lực của họ, và đủ lý luận để thuyết phục họ từ bỏ bạo lực.
Về quân sự, ta phải nhờ cậy vào Nhà nước, ủng hộ Nhà nước, góp ý kiến với Nhà nước. Riêng chúng ta với tư cách Phật giáo phải biết phát triển lý luận để thuyết phục anh em đạo Hồi mở rộng tầm nhìn qua một đạo lý cao cả vượt bực của đạo Phật. Trong Hồi giáo có một điều luật khắt khe là tử hình ai bỏ đạo, và phạt tù ai dụ người đạo Hồi bỏ đạo. Ta phải đủ lý luận để vượt qua điều này. Dưới đây là mẫu đối thoại tiêu biểu cho việc Hoằng pháp đối với các tín hữu Hồi giáo.
Hỏi: Tôi không tin ai khác ngoài Allah toàn năng vĩ đại. Các anh đừng mất công thuyết phục tôi.
Đáp: Vâng, tôi cũng giốn! g anh, kh! ông tin ai khác có thể cao cả hơn đức Phật. (im lặng một chút cho hồi hộp) Và bây giờ, để xem ai cao cả hơn, Allah của anh hay đức Phật của tôi, chúng ta phải làm cách nào? Có hai cách để giải quyết vấn đề này. Một là chúng ta đánh nhau, ai thắng thì đấng Chí tôn của người đó là cao cả hơn; hai là chúng ta thân ái bàn luận với nhau để tìm xem giáo lý nào hợp lý hơn thì đấng Chí tôn đó hay hơn.
Cách thứ nhất là cách của súc vật, mạnh được yếu thua. Tôi nghĩ người như anh bạn không dùng cách đó. Còn cách thứ hai thì đòi hỏi chúng ta phải rất là sáng suốt và muốn sống đúng như tư cách của con người, nghĩa là lấy trí tuệ làm giá trị chứ không phải lấy bắp thịt và bạo lực làm giá trị.
Muốn bàn luận với nhau để tìm ra lẽ phải thì cả tôi và anh từ giờ phút này phải thoát khỏi niềm tin chủ quan cũ. Tôi sẽ tạm thời không còn tin Phật của tôi là cao cả nhất nữa, và anh cũng tạm thời không còn tin Allah của anh là cao cả nhất nữa. Có như vậy ta mới khách quan để đàm đạo với nhau theo như cách thức của con người với con người chứ không phải của thú vật với nhau.
Hỏi: Xin lỗi, không một phút nào tôi có thể rời xa niềm tin vào Allah. Nói gì thì nói, Allah vẫn là cao cả vĩ đại nhất, không có một Thiên chúa nào ngoài Allah.
Đáp: Anh nghe điều đó từ chính Allah hay nghe cha mẹ anh, các imam truyền dạy?
Hỏi: Dĩ nhiên là từ cha mẹ và các imam. Có ai được nghe từ chính Allah bao giờ đâu!
Đáp: Đức Phật của tôi có dạy đệ tử là đừng tin bất cứ ai nếu chưa kiểm chứng kỹ lưỡng điều người đó nói, kể cả đó là những người đáng kính nh�! ��t. Ngay! cả lời Phật dạy mà Phật cũng không bắt phải chấp nhận liền, phải thực hành để xem kết quả ra sao cái đã. Phật luôn thúc đẩy con người sử dụng trí tuệ trước chứ không được tin vô điều kiện. Mà ta thấy, trí tuệ chính là giá trị của con người.
Hỏi: Phật cũng hay, nhưng Phật không phải là vị đã tạo ra tất cả. Allah mới là Thiên chúa toàn năng tạo ra tất cả.
Đáp: Các nhà khoa học thì cho rằng vũ trụ được tạo ra theo một cách hoàn toàn khác với kinh thánh, có thể là do một vụ nổ nào đó.
Hỏi: Nếu có vụ nổ đó thì cũng do Allah làm nên.
Đáp: Nhưng kinh thánh đâu có nói Thiên chúa tạo ra vụ nổ.
Hỏi: Nhưng ta phải hiểu là tất cả do Allah tạo nên.
Đáp: Như vậy anh vừa mới sửa kinh Koran một chút cho phù hợp với thời đại. Thánh kinh nói rằng Thiên chúa tạo ra trời đất trong 6 ngày, và Chúa nghỉ ngơi vào ngày thứ 7. Như vậy rõ ràng ngày đêm đã có trước khi Chúa tạo ra trời đất thì Chúa mới dựa vào ngày và đêm để tạo ra trời đất chứ. Bây giờ thì ta biết rằng ngày và đêm là do Trái đất quay quanh trục của nó trong 24 giờ. Nếu khái niệm ngày và đêm đã có trước khi Chúa tạo ra trời đất thì Trái đất và Mặt trời phải hiện hữu trước khi Chúa "tạo ra tất cả".
Do khoa học tiến bộ nên ta mới biết ngày đêm do đâu mà có. Vì vậy ta phải thay đổi lý luận của kinh thánh cho phù hợp với thời đại mà nói rằng Chúa tạo ra Trái đất và Mặt trời. Bây giờ khoa học nghi rằng Vũ trụ bắt đầu bằng một vụ nổ thì ta cũng bổ sung lý luận để nói rằng vụ nổ do Chúa làm ra. Nói chung ta phải uốn nắn kinh thánh cho phù hợp với thời �! �ại. Ch! ẳng ai có thể khư khư giữ mãi những lý luận xưa cũ của mấy ngàn năm trước để làm chân lý cả. Người nào khư khư cố chấp giáo điều của kinh điển đều là kẻ ngu xuẩn và tự hạ uy tín tôn giáo của mình. Anh cũng vậy và tôi cũng vậy, phải biết cải cách cho hợp với thời đại.
Ví dụ như ngày nay thế giới văn minh đã thù ghét bạo lực chém giết thì chúng ta không thể truyền đạo bằng cách chém giết. Bây giờ ta phải truyền đạo bằng sự khoan dung ôn hòa, phải thu phục người khác bằng lẽ phải. Ai dùng bạo lực thì sẽ bị coi là man rợ.
Cũng vậy, thế giới ngày nay tôn trọng người phụ nữ thì tôn giáo nào cũng phải nâng cao quyền lợi cho phụ nữ, không thể giống như ngày xưa mà chèn ép ngược đãi phụ nữ nữa. Ai ngược đãi phụ nữ là kẻ ác độc và lạc hậu.
Hỏi: Nhưng Phật chỉ là con người. Allah là thần thánh, là Thiên chúa duy nhất và vĩ đại nhất.
Đáp: Phật là con người nhưng đã giác ngộ để trở thành tuyệt đối, và mở ra con đường cho ai cũng có thể trở thành tuyệt đối như Phật. Thật là vui sướng khi ta đi theo một giáo chủ mà vị giáo chủ đó dành sẵn cho ta một vị trí vĩ đại như Ngài.
Hỏi: Không lẽ ai cũng có thể làm Phật hết sao? Nếu như vậy thì Phật tầm thường quá.
Đáp: Theo như suy nghĩ thông thường của con người thì cái gì nhiều sẽ không còn là quý hiếm nữa. Cũng như thiên đường của Hồi giáo cũng quá nhiều người nên đâu còn là quý hiếm nữa, vậy mà các anh ai cũng ước mong về đó. Nếu các anh ai cũng ước mong về đó thì thiên đường đâu phải vì đông người mà tầm thường.
Cũng vậy, sự Giác ngộ phi thường ! của đ�! ��o Phật không hề tầm thường khi có đông người đạt đến.
Hỏi: Nhưng giác ngộ nghĩa là gì? Làm sao giác ngộ sẽ có được hạnh phúc như thiên đường của Allah.
Đáp: Hạnh phúc của sự giác ngộ khác xa lạc thú tầm thường của trần gian. Nếu thiên đường chỉ toàn là chuyện tình dục thì có khác gì những xóm thanh lâu bẩn thỉu! Hạnh phúc của sự giác ngộ vừa là sự thanh khiết, vừa là sự thanh thản, vừa là trí tuệ, vừa là đạo đức, vừa là từ bi, vừa là sự giải thoát. Muốn đạt được sự giác ngộ như thế, người ta phải tu dưỡng thân tâm rất nhiều, qua nhiều kiếp, phải đối xử tử tế với tất cả mọi người, phải ngồi thiền nhập định rất sâu, phải vượt qua bản ngã. Những điều như thế không thể nói trong một vài lời. Nếu anh muốn tìm hiểu, tôi sẽ đưa sách cho đọc. Nhiều người trí thức ngày nay thích nghiên cứu đạo Phật vì những giáo lý cực kỳ hấp dẫn trong đó.
Hỏi: Tôi nghe nói đạo Phật tin có luân hồi. Điều này như thế nào?
Đáp: Luân hồi nghĩa là khi một chúng sanh chết đi không phải là hết mọi chuyện. Họ sẽ phải sinh về một nơi theo đúng nghiệp của họ. Nếu hay làm điều thiện, họ sẽ sinh về nơi có nhiều hạnh phúc; nếu hay làm điều ác, họ sẽ sinh về nơi đau khổ. Có khi họ lên cõi trời ở một thời gian, có khi họ bị trừng phạt ở địa ngục một thời gian; có khi họ đầu thai vào bụng một con thú; có khi họ trở lại làm người. Nơi thân phận con người, có khi họ sung sướng nhưng cũng có khi họ đau khổ, tùy theo nghiệp quá khứ của họ. Luật Nhân quả sẽ cho họ một quả báo công bằng.
Hỏi: AI lập ra luật Nhân qu�! �?
�! �áp: Luật Nhân quả là bản chất của Vũ trụ, không cần ai lập ra. Có vũ trụ là có luật Nhân quả. Ngay cả vua cõi trời cũng phải theo luật Nhân quả mà điều hành thế gian. Chính vì tin vào luật Nhân quả mà chúng tôi không bao giờ dám ngược đãi ai, không dám giết hại ai, chỉ nguyện với lòng suốt đời thương yêu tử tế với mọi người mọi loài.
Nói chung, ta vừa khéo léo vừa cứng rắn để thuyết phục họ. Ai thuyết phục được một người Hồi giáo tin Nhân quả sẽ có được công đức bằng độ 100 người thường vì đã tháo bớt một ngòi nổ bạo lực cho thế gian. Đệ tử Phật phải chịu khó làm quen với người Hồi giáo để đàm đạo nói chuyện với họ, đừng ngại ngùng rồi mất dịp hoằng pháp lợi sinh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét