TRUYỆN NGẮN HÒA VANG
Mèo hên
Tôi tên Cát. Vợ tôi : Mộng Hiền. Chớ gọi Hiền cộc lốc, trống không nàng không thích thế. Nàng đã trẻ hơn tôi những mười tuổi thì chớ lại chung thủy, sẻ đắng chia cay cùng tôi suốt một thời gian cam go đằng đẵng. Lại đã hơn 2 năm nay khi tôi thua thiệt lụn bại trong nghiệp riêng, đã nói xanh rờn và làm tuyệt hảo nu6oi phứt cả tôi và thằng trai đang học đại học năm thứ nhất. Nuôi đàng hoàng không có những kiểu “chính sách kham khổ” với “thắt lưng buộc bụng” gì gì cả. Hai bố con béo hú, phởn phợ Riêng tôi, thấy cái béo hú ấy nó thấm tẩm vào cả đầu óc mình. Sự suy nghĩ hình như cũng nùng nục ra, ngắn chùn đi. Mà có lẽ như thế tiện mọi nhẽ. Nghĩ ngợi làm gì, nhớ nhung làm gì cho nó hao tổn cái “miếng da lừa” đời mình vốn còn mấy tí. Trong khi nội cái bể tình vợ chồng mang tính thuần dưỡng ấy thừa đủ để phỉ chí bơi lội đầm đìa thỏa thích rồi. Cũng phải nêu rõ : Cái tình chồng vợ trong đó sự “nể”, sự “phục”, sự “lụy” đã theo nhau ào ạt chèn lấn rồi phủ trùm kín mít đến mấy tầng, đến không thể thở được cái sự “yêu” từ đời nảo đời nao rồi. ấy vừa là thực trạng, vừa là định hướng hành động vậy.
Do đó, 29 Tết, tăm tắp tháp tùng nàng lên tận chợ Bưởi, phiên chót, áp tết, là đương nhiên. Chẳng biết thánh nào, giá nào, mẫu nào đã giảng dụ thủ thỉ vào đôi tai chay xệ vì đeo đôi tòng teng to xấp xỉ cái các-tút 12ly7 của vợ tôi rằng : Muốn sang năm mới tài lộc như nước, lại liên tục phát triển nữa, thì trước giao thừa phải! rước kỳ được một Tiểu Hổ hội đủ 5 quý tướng về nhà. Diễn nôm na là phải mua kỳ được một “cậu” Mèo Lộc : đầu tròn, người tụ, hai rẻ quạt ria áp má, mặt phủ, bàn chân dày tròn như viên bán trôi bẹt…
Thân tôi tuổi 53, ngây ngất loạng quạng quanh đi vòng lại trong mê lộn chợ mèo ngày Tết. Đậm đà bản sắc dân tộc hay không thì tôi không hiểu, cũng không dám vói nghĩ tới. Nhưng âm thanh và mùi mẽ thì tôi cảm nhận được, và đi lại trung thành được. Tiếng mèo, tiếng người. Mèo đơn điệu, chỉ thể hiện một trạng thái : phẫn uất trộn bất lực. Người thì đủ vẻ : mồi chài, cò kè, cành cao, vây vo, kích đểu, uyên bác, lẩm cẩm : Nói ngọng, lẫn lộn “lờ”, “nờ” nhiều. Nói tục tương đối, nhưng chỉ ở mức những từ phổ cập khiến không khí sinh động hơn, rất đời. Điểm xuyết vài lời thanh cao rất muốn được lắng nghe nhưng lại quá khẽ, khàn, run run nữa của đôi ba ông cụ chống can, ngậm típ, chỉ đi ngắm chợ, tỉa tót ngôn, thưởng xuân chay, tịnh không màng tới mua bán. Vài mùi : mùi mèo, mùi phân mèo, mùi người, mùi mồ hôi tập thể, mùi nước hoa đủ cấp, mùi kẹo mềm bạc hà lẹp nhẹp trong miệng để tự tin hơn, mùi cơm hộp ăn dở buổi trưa.. Chợt nghe tiếng Mộng Hiền gọi là reo hay rú đều được :
– Đây rồi, đây rồi ! Mình ơi… Các già ơi.
Tôi dật dờ vịn theo tiếng nàng mà đến. Nhưng mà phải rúc ráy, chen lấn qua cả mấy vòng người ken xít. Khi thấy được “cậu” tiểu hổ “xịn” ước muốn của vợ tôi thì tôi chỉ còn chạm đất được một bên chân, chân kia phải gác ! ghếch l! ên ai đó thì mình không thể biết mà họ cũng chẳng haỵ tôi đứng như một vũ công thứ thiệt, ta lùng bùng nghe cuộc đấu giá đang đến hồi mưng tấy tột độ. Cách mặt vợ độ hai mét mà nêm kín những đầu người khoảng giữa, tôi thấy nàng trợn mắt muốn nứt kẽ, hô :
Hai triệu rưỡi !
Cả thớt người như bị đằn xuống, ắng đi. Tôi nghe một cảm xúc thiêng liêng trong mình cùng tiếng vo ve của một con ruồi mùa xuân đâu đó. Thứ tiếng eo éo rất “công công” của gã chủ mèo cất lên :
-… Hai triệu rưỡi lần thứ bạ “Xì tốp” ! Xin chúc mừng quý bà, tân chủ “vé-rì-nai” “vé-rì-rích” của Đệ Nhất Miêu Đế chợ Bưởi năm nay.
Miệng nói, tay gã gỡ chiếc lồng xì son thếp thổi nhủ, trong đựng con mèo Lộc đủ cả lệ bộ dây xích mắt nhỏ mạ vàng, vòng cổ da hươu mịn mượt đính chiếc lục lạc mạ bạc trổ bốn chữ triện : “Vạn sự như ý”, trao cho Mộng Hiền.
Vòng người rã ra, xuỵt xoạt hậm hực tí chút rồi vô tư hòa tan vào cảnh chợ tứ bề. Chiếc lồng mèo đến tay tôi, khi bên kia, vợ tôi móc ba cặp tiền ra, loạt xoạt đếm rút. Rồi gã chủ mèo lè lưỡi rất dài, thấm nước miếng liên tục vào những đầu ngón tay miết miết, đếm lại. Tôi rủn gối, muốn khuỵu xuống trong niềm tự hào về vợ mình, chợt sợ làm bẹp hoặc xước chiếc lồng mèo, bèn hít một hơi rõ dài, gân cốt được kích néo trở lại. Thì nàng bước tới, đặt vào tay tôi một tờ 50 ngàn sáng ánh như một lưỡi dao lam lớn :
– Đây, công xe ôm của mình đây nhá ! Em bắt được thằng cha lại quả đấy… Còn! đây n�! ��a này… nó thêm cho mình nữa đấy.
Tôi đẩy tờ bạc lớn vào túi quần không có gì của mình, rồi nhìn tay kia vừa chìa ra của nàng. Một con mèo nữa, màu tro lấm láp, khóe mắt mỗi bên vón một cục dử tưởng, đang phập phồng thở gấp và khe khẽ ưu ư? như rên :
Sự nghĩ, sự nhớ ngắn chùn của tôi chợt vươn ra được một đốt. Tôi nhớ tới một người và một con mèo. Chậm bước bên người vợ đang hân hoan tận hưởng bao ánh mắt trầm trồ nơi chợ Đời ngày xuân, tôi thẽ thọt thăm dò :
– Này, em a… Mộng a… (Riêng tôi, được nàng ưng gọi tên nàng trống cộc một âm tiết thế, nhưng phải là “Mộng”)… Con mèo thêm này trông nó cứ như cái dẻ lau cũ vừa ném vào xó nhà ấy nhỉ…
– Ô hay, cái nhà anh này, ăn với chả nói… Thì rồi mình phải tẩm bổ cho nó chứ. Của thêm là của được chứ lỵ.
– Là ý tôi… sợ là mình bị phân tán tình cảm, không dồn được hết vào cho “cậu” Lộc này này… Mà nhỡ ra, “cậu” ấy lại ghen, lại hờn. Đừng có đùa nhá, giống “cậu” ấy là tinh lắm đấy. Nhất là tinh tướng “cậu” này… Vậy… tôi mới nghĩ hay là để… tôi mang con mèo thêm kia xuống… xuống cho à… à quên xuống biếu bà Thảo, Mộng xem…
Không ngờ, vợ tôi reo lên ngay, nhân hậu và trong trẻo :
– Ô ! Đúng quá, phải quá… Có thế mà mình cứ ậm ự mãi. Để tâm san phúc cho người khác phúc đẳng hà sa tới mình. ấy Mẫu đền Thượng Vị hằng thường giáo dụ chúng con công đệ tử bọn này thế đấy. Ô-kê ! Em hoàn toàn nh�! �t trí. ! Mình, mình đáng yêu lắm đấy, biết không ? Vợ tôi liếc xéo sang tôi, tình tứ, lúng liếng, và búng hai ngón tay đánh tách một cái rất giòn vào sát mũi tôi. Em ngoẹo đầu, nghiêng sang tôi, y như những ngày đầu, y như cả một thời cam go đằng đẵng đã có. Tôi, rưng rưng trong lòng, lén khẽ nắm một bên tay vợ, thấy mồ hôi mình ươn ướt tứa ra tự lúc nào.
Một Hiền chợt thẳng đầu lại, nói tiếp :
– Mà này, Cát già ơi, mình anh xuống bà Thảo thôi đấy nhá… Dẫu sao thì cũng là bên đằng nhà anh, đúng không ?… Chứ nhà bá ấy thế, cảnh bà ấy thế, em mà cũng đến nốt sợ… xúi quẩy, vận áo xám quấn vào nhà mình thì bỏ mẹ. Thế nhá !
Tôi nén một nhịp thở dài thành tiếng, nhả đáp lời em như máy y giọng của những người lồng tiếng trong một bộ phìm truyền hình lê thê nhộn nhạo một dạo :
– Tất nhiên rồi !
“Hừ, hình như tên phim là “Cái gì… cũng khóc” ấy “.
o0o
“Cậu” Lộc đế xứng với lời Mẫu nhủ vợ tôi. Chiều qua, vừa rước “cậu” lọt cửa nhà, thì khách ập vào. Một nhóm bạn hàng thân cận của Mộng Hiền đến “Tết” trước bà chị. Khách về, gỡ các băng dính kiểm kê : trừ hoa hoét, tổng giá các vật phẩm và ngân lượng trong phong bì thì vừa vặn tròn một… “cậu” Lộc : Hai triệu rưỡi. Vợ tôi, mặt tái đi, mắt long lanh lên, thoăn thoắt thắp nhang, tra nhang, dâng nước, dâng rượu, lầm rầm tay chấp đầu cúi, chỉ nghe thấy những tiếng “xịp… xịp… ” gần như nghẹn ngào, hồi lâu. Lúc quay xuống, thấy những ngấn nước! mắt c�! �n chưa khô trên má. Quan sát tôi, tự dưng khẽ rên rít lên : – “Thấy chưa ? ứng khiếp chưa ?… ”
Và sáng nay 30 Tết, tôi vừa mở cửa định đi đổ rác thì đụng một thằng bé với chiếc hòm đánh giày sau đôi kheo chân, bó gối ngồi chực từ bao giờ. Cánh cửa xếp vừa đẩy kịch cỡ, nó đã đứng dậy, cười rất tươi mà không hề toát khí nịnh :
– Bố có giày cho con đánh. Con đánh lấy may tất niên, không lấy tiền của bố đâu ạ.
Tiếng nó lảnh lót, thổ âm một vùng trong, không xa.
“Sự lạ” – Đầu tôi mới lóe thầm được có thế thì đã nghe tiếng vợ thì thào sát tai : – “Khéo không nó lại “dọn” quang nhà bây giờ đấy. Thì cứ đưa giày cho nó đánh, rồi cứ đi đổ rác đi. Em trông cho đây rồi, đi… ”
Tôi đi, khi quay về đã thấy thằng bé cặm cụi, hì hụi những động tác đã quá quen mắt, khỏi tả. Mùi xi thơm thơm, xi ý “xịn”, tôi biết. Bên chân nó đã xếp hàng ba đôi giày dép nữa : 2 đôi của vợ tôi, một đôi của thằng con tôi. tôi ngước lên, gặp mắt nàng chào hất khẽ một nhát, tôi hiểu : ánh mắt bàn giao “Anh trông đấy nhé !”. ít nhất, giờ đây, tôi cũng được một mình, thanh tĩnh để ngắm nghía thằng bé. Tóc hoe, mắt xếch, mũi hếch, môi cong… những đường chỉ vắt chéo hình chữ X viền c63 tay áo đông xuân Tàu cũ kia nữa… Quái ! Mình đã thấy, đã gặp ở đâu nhỉ ? Chịu, đường trần ôi rất dài, người trần ôi quá nhiều… chịu thật sự. Có tiếng rơi chạm nước thánh thót đâu đó, ý nghĩ của tôi được gợi, thành khuôn : “Nỗi nhớ là c! ái thứ! mà đối ai cố rặn ra được”.
Thằng bé đánh giày chợt nói, mặt vẫn cúi úp : – Đôi giày của bố này một chiếc đen, một chiếc nâu… Có lần con đã đánh đánh một đôi y như thế.
– Ừ, đợt ấy họ bán đại hạ giá mà, chen mua như cướp… Được chiếc đen chiếc nâu là maỵ Có ông lại bị hai chiếc đều một bên chân mới khốn chứ. Thằng nọ vẫn giữ mạch chuyện của nó :
– Con nhớ mà, bữa ấy tối, trời mưa, con đánh giày cho một ông cùng trú mưa mà, ở đầu cái ngõ gì có cái…
– Ừa… thế à… – Tôi ngáp. Đêm qua, gần 2 giờ sáng tôi mới được thiếp đi vì dọn dẹp nhà cửa và ổn định nơi đặt lồng của “cậu” Lộc, sau đến 5, 6 lần xin âm dương, chọn hướng, chọn xó của vợ tôi. (Mỗi lần phải chờ cháy gọn một nén nhang).
Vừa lúc, Mộng Hiền ra, vừa sửa quần áo vừa cười cợt nhẹ nhõm :
– Này ông nhõn, may mân ra thế thì liệu mấy tiếng xong từng này đôi giày. Thôi, nhảo tay lên nhá, bọn tao đi cả bây giờ đấy. Lấy may hay lấy tiền thì cũng phải còn cho bọn tao đóng cửa chứ, chú mày.
Thằng bé thoáng ngẩng lên, không cười, “vâng” một tiếng vẩn nhẹ, và từ ấy, không thốt thêm một lời. Chỉ cắm cúi, hì hụi nhanh hơn, nhưng vẫn rất kỹ càng.
Rồi cũng đến lúc nó thu dọn đồ lề, đứng lên. Nó cười, không tươi như lúc đầu, ý chào. Vợ tôi, trong tay đã sẵn, xìa ngay ra một tờ 10 ngàn, nhét ngay vào túi nó, rồi rụt ngay tay lại, xua tía lia, giọng ngân như hát :
– Chỉ đánh lấy may không lấy tiền ý à… Khỏi cái trò b�! �� thí n! gược ấy đi, đàn em cơ nhỡ lang thang của chị ạ, xin cảm ơn. Này nhé, 2000 đồng một đôi chứ gì, 4 đôi vị chi là 8 ngàn nhé. Khỏi trả lại, mừng tuổi chú mày luôn. Bai nhé !
Thằng bé không trả lời lại gì cả. Nó xuôi tay, gập lưng cỡ 45 độ, chào hệt lối trong phim Nhật Bản hay Hàn Quốc, đáp rất ma cuội :
– Con xin bố, con xin cô ạ !
Mộng Hiền ngửa cả người ra, cười phe phé, sướng. Hơn đứt một lời khen “trẻ lâu” còn gì. Còn tôi, tôi nhìn theo thằng bé, thấy mặt nó có một thoáng quay lại trước lúc rẽ ngoắt khuất đầu ngõ. Chắc là mắt tôi lão hóa rồi, sao cái mặt nó lại vừa nghiêm, vừa gian gian thế nhỉ ?
… 10 giờ rưỡi đêm. Tôi y phục chỉnh tề, ấp con mèo tro trước ngực, thả bước thung dung, xuống nhà bà Thảo. Lại được một mình, thanh tĩnh, dẫu giữa bao người xe đang nườm nượp, tươi vui trẩy đón giao thừa.
o0o
Bác Thảo là chị mẹ tôi. Lúc còn nhỏ, tôi yên chí là chị ruột, sau hóa ra chỉ là chị nuôi. Mẹ tôi là con một. Nghe người ta bảo con một khó toàn, ông bà ngoại tôi mới về quê đón bác ra, nhận làm con nuôi. Bác lớn lên, ăn, ngủ, chơi, làm những việc vặt cùng mẹ tôi, chỉ không được đi học như mẹ tôi thôi. Đầu tiên, duy có mỗi cái khác ấy, sau, năm tháng xâu chuỗi vào bao nhiêu cái khác nữa. Mẹ tôi lấy chồng, bác về lại quệ Kháng chiến bùng nổ rồi hòa bình lập lại. Chị em gặp nhau thì mẹ tôi đã một đàn con, bốn đứa, bác kể : Chồng bác chết ngã nước, hai đứa con, một thương hàn, một uốn ván chê bác nghèo bỏ đi cả. “Bây giờ, tôi chỉ cô chú với các cháu trên nàyR! 30; cho t! ôi tựa cái tình, tựa cái tâm… “. Bác bảo thế, cười, răng đen, hiền khô, không nước mắt. còn mẹ tôi khóc vùi. Không ngày nào trên đường đi dạy học về mẹ tôi lại không ghé vào sạp hàng hương của bác ngay mé đầu chợ. Không Tết nào, bác không lên nhà bố mẹ tôi từ 28, 29, ngâm đỗ, ngâm gạo, gói bán, gói bánh tận xâm xẩm chiều 30 mới về nhà riêng mình. anh em chúng tôi lại đưa bác về cùng dọn nhà, bày bàn thờ Tết nơi nhà bác. Đến khi lần lượt anh em chúng tôi lấy vợ, lấy chồng, sinh con thì chẳng cô cháu dâu nào không được bác lên giặt giũ cho cả tháng đầu; chẳng đứa cháu sơ sinh nào không được bà bế ẵm nâng giấc cho hàng tháng trời. Cứ thế, cứ thế cho đến khi bà yếu, lưng còng gập, không ra chợ được nữa còn hóng chút khách quen đến mua tận nhà, thoi thóp dăm ba bó nhang một ngày. ấy cũng là lúc mẹ tôi sau khi nghỉ hưu được mấy năm, bị cảm, ngã, chịu di chứng não, nói không rõ, đi không vững nữa. Việc qua lại thăm nom bà Thảo chuyền sang anh em chúng tôi. Nhưng ba đứa em tôi, đứa công tác đối ngoại đi nước ngoài như điên, đứa kỹ sư cầu đường bươn chải trên từng cây số khắp mọi miền tổ quốc, đứa lấy chồng xa bằn bặt ngút mùa. Rốt cuộc chỉ còn mình tôi thực thi việc ấy. Cũng thỉnh thoảng thôi, lại cũng chỉ chớp nhoáng đảo nhoàng thôi. Vậy mà cũng đã thấy gồng mình cố gắng đến cùng rồi.
Cho nên, tôi mừng khôn cùng, khi thấy một chiều, bà Thảo lọ mọ đội nón chống gậy lên tôi, trong tay ấp ngực là một con mèo nhách, thả xuống, liêu xiêu đứng, lẹo dẹo đi, tam thể nhợt nhạt, đen, nâu, xám. Bà khoe : tự nhiên thấy nó ở ! trong nh�! � rồi nó không đi đâu nữa, mà cũng chẳng ai đến tìm, đến nhận. Tôi ướm : – Thế bà không sợ “mèo đến nhà thì khó” à ? Bà cười : – Ôi dào, tôi thì còn khó đến đâu được nữa cậu. Mà này, nói cậu biết để bụng nhá, cái cây đậu khế côi trồng làm giàn trước cổng ấy, mấy năm nay rồi chỉ ngụt những lá, có nó về được mấy ngày, giờ trổ quả lúc lỉu cả. Vậy có hay không chứ ?
– Hay đấy nhỉ. Cái con mèo này đến là gặp may, mà bà cũng thế, cái cây đậu khế cũng thế. Vậy bà đặt tên nó là con Hên đi. Hên là may mắn ấy mà.
Bà ưng ngay, mắt ngước nhìn tôi đầy vẻ biết ơn : – Cậu thông văn tự có khác, ý nghĩa quá, hay quá! Nào, Hên, miu, miu, miu, ra đây với bà nào…
Từ đấy, trong căn buồng hẹp nhà bà có một khay riêng đặt một chén cơm, một chén nước, ngày thay ba lần cùng một niêu con cá kho khô sem sém lúc nào cũng lưng lửng sẵn cho con Hên. Tối, nó cuộn trong lòng bà, ngủ. Bà có cả một chiếc khăn xinh xinh dành riêng để lau mép, lau ria cho no sau bữa ăn. Bà có cả một cái ấm gió cũ, sửa khéo lại thành cái ổ nằm mùa đông cho nó…
Bẵng đi, lâu lâu, chợt nghe tin bà ốm. Tối ấy, tôi mới thu xếp xuống được, hộp sữa cân đường trong tay là từ ví Mộng Hiền. được biết bà nằm bẹp đã hai ngày nay vì… con Hên đi lạc đâu không về đã ba hôm rồi. Nghe bà thều thào, cứ “Hên ơi, Hên ơi ời… “. Tôi rối cả ruột, cố nén dọn cho bà dĩa cá khô để phần mèo, bắc niêu đảo lại cho nóng, vì bà bảo : “Cậu làm ơn giúp tôi, nhỡ, nhỡ bây giờ nó về không có cái ăn nóng, nó lại bỏ đ! i… ! ” Sau, tôi cũng pha được cho bà một cốc sữa nóng và ép được bà uống hết.
Rồi tôi cũng phải về. Vừa ra đến đầu ngõ thì cơn mưa bất chợt ụp xuống. Chiếc vét-tông nhung “hàng thùng” là Mộng Hiền vừa sắm cho tôi, nàng dặn : “Anh mặc đi phải giữ, nước mưa vào là nó chết nhung đấy”. Tôi nhảy đại vào hàng hiên nhà hàng karaoke ngay đấy suýt đụng phải một đứa nhỏ ngồi bó gối lum lum áp góc trong thềm… à ! Thôi, tôi vụt nhớ, đúng là cái thằng bé đánh giày sáng nay rồi. Đúng ! Tóc hoe, mắt xếch, mũi hếch, môi cong. Mà thằng bé đã chẳng nhắc lại rất nhiều là gì… đôi giày chiếc đen, chiếc nâu… trời mưa… đầu ngõ… Ôi ! Tôi đã lãng trí, vô tâm biết chừng nào. Bây giờ thì mọi điều hôm ấy hiện lại tiếp tục rõ mồn một trong đầu tôi… Thằng nhỏ kéo hộp gỗ ra tán tỉnh tôi cho đánh giày. Lần lữa một hồi, rốt cuộc, tôi xuôi. Nó không thể biết, tôi không muốn ngồi yên để cứ như là buộc phải lắng nghe một tiếng mèo kêu đã thấy. Cuộc đánh giày trong hàng hiên đã diễn ra trên nền âm thanh tiếng mưa tẻ nhạt và… văng vẳng một tiếng mèo “ngoao nhoao” yếu ớt, rền rĩ, lúc khoan lúc nhặt, đâu đó, có thể rất gần. Tự nhiên, tiếng mèo ấy như một ám ảnh, như một cái bĩu môi, như một bụm nước bọ khinh miệt nhổ toẹt khi mình vừa đi qua, tôi muốn đánh trống lấp tiếng mèo đó. Và thực tế là để tiêu thì giờ, để đỡ canh cánh nghĩ cách sao giữ được không dính mưa chiếc áo nhung mới, đôi giài mới đang đánh đây nữa, tôi đã rỉ rả nói với đứa bé đánh giày về bà bác tôi, về ngôi nhà gầ! n đây c! ủa bà, về con mèo vừa lạc, về ý tưởng sẽ nhanh chóng tìm mua cho bà một con mèo khác, và cũng sẽ rất nhanh chóng mang xuống cho bà… Đang vậy thì có chiếc xích lô lừ lừ đi quạ Tôi vội la lên, vội trả tiền thằng bé, vội xỏ đôi giày còn đang đánh bóng dở, vội nhón gót, nhún ba bốn bước hết sải chân, tót lên thềm xe, thu chân, buông bạt, rành rọt và to tát thông báo địa chỉ của mình cho người đạp xích lô trong một cảm giác trút gánh thanh thản.
Vậy mà thoáng cái đã gần nửa năm trôi qua rồi. Không phải tôi quên. Công việc của một gã “Ôsin đực” như tôi đâu có giản đơn. Mộng Hiền gặt hái nhiều, tiếp khách lu bù tại nhà. Mỗi khách một khẩu vị cho cả ăn lẫn uống. Thằng con tôi đi học thêm tiếng Nhật và ma-két-tinh, kín mít thời gian và hao nhiều calo, cần nhiều món bổ dưỡng thích hợp. Rồi cái trần gác hai nhà tôi lại nứt, mưa dầm là dột, tôi vốn là một chuyên gia chống thấm có hạng. Thế là trông nhà, đ chợ, nấu nướng, chạy hàng và loay hoay một mình chống thấm cho chính mình. Sáu tháng quần quật, lao động tự phục vụ cho gia đình nó có những niềm vui chân chính không thể tả, ai không làm, ai không thiết tha với gia đình, không hiểu nổi nó. Cái tế bào xã hội mang tên “Cát – Mộng Hiền và con” này là một tế bào đã 12 năm liền giữ vững danh hiệu “gia đình văn hóa mới” của phường, đang vững bước tiến lên con đường giàu có, văn minh, hiện đại. Dâng hiến cho một sự nghiệp như thế, đâu có thể không hết mình. Vì vậy, nhắc lại, không phải tôi quên bà Thảo, đừng nói thế phải tội. Tôi đã để lại số điện thoại ! nhà tôi! cho cả 4 bên hàng xóm nhà bà, có gì cần gấp là họ sẽ gọi cho tôi tắp lự. Vì vậy, tôi yên tâm, chắc mẩm bà đã khỏe lâu rồi. Ai lại đi ốm mãi vì một con mèo lạc được. Mà mèo nữa… thì đây, nó đang trong tay tôi, trong ngực tôi để đang đi xuống bà đây. Con mèo Tro (tên theo sắc lông của nó) vợ tôi mới thêm được hôm qua, tối qua đã hút ngon lành cạn cả bát sữa đầy mà “cậu Lộc quệt ria qua loa rồi bệ vệ từ chối. Nó đang ngoan ngoãn, ấm áp, thỉnh thoảng “meo meo” nũng nịu và tin tưởng, cùng tôi xuống mừng giao thừa bà đây… còn gì.
o0o
Hàng dậu nổi lên giàn đậu khế tươi tốt của nhà bà kia rồi. Trong nhà sáng choang, hương nhang tỏa thơm thoang thoảng ấm cúng ra cả ngoài này. Từ ngoài dậu tôi đã thấy dáng bà đang loay hoay nhanh nhẹn bày bàn cúng giao thừa ngoài thềm. Dáng ấy cho thấy ngay bà khỏe và vui trên mức nghĩ của tôi nhiều lần. Tôi chậm biết, lòng chợt nao nao chút gì đó không rõ ràng… Rồi cành cạnh cộm lên : sao mình với bà chợt xa xôi quá thế. Vừa lúc, thấy bà ngừng tay vươn vươn mặt trên cái lưng còng, ngóng ra cửa, như bà linh cảm thấy tôi. Tôi bước hẳn vào quầng sáng, bà cuống quýt trên thềm reo :
– Ô, đây ! Lạy trời, cậu Cát xuống đây rồi đây này. Con ơi, Hên ơi ra đón cậu này.
“Sao ? con Hên về lại rồi ư ? Và nó biết nghe tiếng bà đến thế kia ư ?… ” Đúng ! Con Hên kia rồi, đang đủng đỉnh uyển chuyển bước ra, lông ánh mướt ba sắc đen, nâu, xám, đẹp thâm nghiêm, sang, sạch như một ý nghĩ đã trải nghiệm. Tôi ngồi xuống đón nó, vuốt vẹ Nó dụi vào tôi thân quen, không hề hấn gợn gạo. Và tôi nhãng ý, tụt tay, con Tro từ ngực tôi tuột xuống, đậu đất. Hai con mèo đứng cạnh nhau, hay thế, cũng không một chút thăm dò, xa lạ. Nhưn gkìa, tôi rời tay ra khỏi cả hai con mèo, đứng xốc dậy. Từ nhà trong, một thằng bé vừa chạy tót ra, vòng tay, khom chào tôi rất dáng, giọng lảnh lót :
– Con chào bố ạ !
Tóc hoe, mắt xếch, mũi hếch, môi cong… Thằng bé đánh giày sáng nay, sáng nay và sáu tháng trước.
Tôi cố chào nó tự nhiên, lại cố chưa lập tức hỏi tên gì. Theo cài đà cố tự nhiên ấy, tôi �! �ịnh bước thêm vào nhà trong cũng không biết là để là gì. Thì thấy tay bà giật vội tôi :
– ấy, cậu, khéo không giẫm vào pháo của cháu nó đấy. Tôi nhìn xuống : Hai dẫy khoảng hơn mười nắm đất tròn lum lum như những niêu đất con úp xuống còn ươn ướt. Tôi biết ngay, nhớ ra ngay, mắt tự dưng cay cay, người sởn gai. Câu đồng dao từ thời thơ ấu thơ vang lên “pháo tập tàng, cả làng chịu chưa”, cái giọng ra oai con nít ấy như đe dọa thật sự tôi, làm tôi e sợ.
– Bà yên tâm, con nhìn thấy rồi…
Chỉ ít phút sau, nơi bàn nước, trà nóng, mứt, bánh, thuốc lá nữa, được bày ra. Tôi rút một điếu thuốc, châm lửa. Thằng nhỏ cũng cười lỏn lẻn, làm một điếu, bụm môi, bập bập, phà vội hết khói, bà ưng thấy nó thế. Trong khói thuốc, hương trà, tôi lắng nghe khi lập cập tiếng bà, lúc liếng láu tiếng nó, câu chuyện về con Hên từ lúc tôi nhảy lên xích lô, ra về tối ấy.
… Chiếc xe chở tôi đã khuất đầu đường nhưng tiếng mèo ngoao ngoao văng vảng vẫn không dứt. Thằng bé xếp hòm đồ rồi lội mưa ra thẳng chỗ góc tường mấy ông bà công ty môi trường đô thị để dụng cụ, gỡ mượn tạm cái sào thông cống vác chạy về. Nó đến cái khe hở chỉ khoảng nửa gang tay giữa ngôi nhà cao không chung tường với bên nhà hàng karaoke, áp tai, cố định vị cái tiếng mèo gào to hơn hẳn, khe khẽ lùa cái sào dài thượt vào, khe khẽ khua quẹt hồi lâu… nghe “bập” động, cảm một sức bám chặt nơi ngọn sào, nó lại lựa thật khéo, thật thong thả, từng tý một, rồi rút dần sào ra. Hết ngọn, con mèo lướt thướt, móp máo, lả và! o tay nó! như chiếc lá bánhtrong sọt rác – con Hên đấy ! – Khoảng gần tiếng đồng hồ ngoài mưa, thằng bé cũng ướt hết. Nó ấp lấy con mèo, gỡ chiếc giẽ bông đánh giày, bao lau hồi lâu. Vừa lúc mưa tạnh. Nó lóp ngóp đi vào trong ngõ, toan gõ cửa từng nhà, hỏi xem đâu mất mèo thì trả cho người ta mà cũng còn để kiếm một chỗ hơ tạm quần áo và xin ngủ nhờ lại một đêm, vì khuya rồi, nhà trọ lại xa, mưa có thể lại sắp trút xuống. Thì vừa lúc bà Thảo lập cập ra. Bà vừa uống sữa xong, ngấm, thấy gượng dậy được lại mưa tạnh, thế là chống gậy, quyết ra hẳn đường tìm gọi con mèo một lần nữa. Bà bảo bà nằm ở giường trong nhà mà cũng cứ rõ ràng nghe thấy tiếng nó kêu ở đâu xa lắm. Thế là bà cháu gặp nhau, cùng nhau về nhà, vừa vào nhà thì trời lại ụp mưa xuống.
Nó về ở với bà từ đêm ấy. Bà cũng gọi nó luôn là thằng Hên, lại không quên không ngớt khen công lao tôi đặt cái tên ấy rõ hay, rõ “rất là có ý nghĩa vô cùng lắm đấy”. Còn tên trước của nó xấu lắm, tội lắm, chẳng nhắc lại làm gì..
Tôi đăm đăm nhìn hai cổ tay áo đông xuân Tàu cũ của thằng Hên lại bồi hồi… ngày xưa, dễ phải đến 30, 35 năm trước, khi những viền cổ tay áo đông xuân cũ của tôi đã rách xơ ra, bác Thảo bao giờ cũng lấy kéo khéo léo cắt cho bằng bặn lại, rồi ngồi viền gấp bằng những đường chỉ đôi khâu vắt hình chữ X đều tăm tắp như máy. Bây giờ, n7i đây, nhà bà, tôi mới nhớ ra. Sáng nay, nhà tôi, đã nhìn thấy mà tôi chịu. Sáng nay cũng chính bà vẽ đường, nói địa chỉ cho thằng Hên “đến thăm” hai vợ chồng tôi đấy chứ.! Nhưng b! à bảo : – “Cậu mợ ấy nhiều công to việc lớn lắm, con không được để cậu mợ ấy bận tâm gì đâu đấy nhá. Mà… Tết, thế nào cậu ấy chả xuống với bà, chưa Tết nào cậu ấy thiếu đâu. Không tối 30 thì sáng mồng 1, nhất định thế mà”.
Bây giờ thì bà cười, phô cả hai hàm răng đen :
– Đấy, Hên xem bà nói có đúng không ?
Thằng Hên cườn nhăn cả mũi, nó chỉ vào cành đào to đẹp cắm trong cái hũ sành đựng muối tích trữ của bà :
– Con đố bố cành đào này con mua bao nhiêu. Đào vét, rẻ ợt, con chờ đến tận vừa rồi mói rinh về đấy. Tròn mười ngàn cô cho con hồi sáng đấy ạ.
Công đánh bốn đôi giày và hai nghìn đồng “thưởng” thêm, cành đào đẹp mà rẻ đến không ngờ. Tôi ắng đi, rút thêm điếu thuốc nữa, nhưng chưa kịp châm thì… tiếng đồng hồ, tiếng chiêng trống ào lên. Giao thừa rồi !
Thằng Hên nhảy phắt vào nhà trong, lẹ làng cả hai tay lượm những vụ trái pháo đất chạy ra thềm, vung rất điệu nghệ đập xuống nền gạch lát. Những tiếng pháo nhịp đôi vang động, sáu đôi 12 trái cả thảy. Bà bảo : Cho nó đủ cả 12 con giáp. Thằng Hên thêm : Mà đất sét con ngàu vẫn còn thừa đấy, bố ạ.
Lấp ló ngoài dậu, nhiều gương mặt trẻ con, cả người lớn nữa đổ sang, ngó vào. Toàn những gương mặt hàng xóm quen thuộc, rạng rỡ, vui tươi. Có cả những tiếng vỗ tay vô tư, bộc phát “Đáng hoan hô quá đi chứ. Pháo ở nhà bà Thảo, pháo của thằng Hên giao thừa này là thứ pháo, thứ tiếng nổ không cần tiền và ngoài lệnh cấm”. Tôi thoáng bỡ ngỡ khi thấy những lờ! i rành r! ọt vậy tia ra vang động trong đầu mình, rồi thấy tự thú vị, yên tâm, lại còn tự thấy yêu yêu mình hơn chút đỉnh.
… Thoáng hương bay ít nhiều thấy như gần như xa, một lời, một dáng Mộng Hiền : – “Mình, mình đáng yêu lắm đấy, biết không ?”… Em nghiêng sang tôi y như những ngày đầu, y như cả một thời cam go đằng đẵng đã có, đã qua…
Mắt tự chớp mấy nhịp, tay dụi mắt mấy cái, thấy… Giờ đây trước mắt, bà Thảo ngồi xếp bằng chĩnh chện giữa giường, thằng Hên đứng khoanh tay đằng sau. Trong lòng bác tôi là con mèo thêm, con Trọ Hai tay bà đang vuốt ve, ấp nó. Bà cười, khe khẽ nhủ :
– Bác cháu cậu ham pháo, quên cả. Tôi mà không ôm giữ con mèo này thì pháo nổ thế, nó hoảng khéo nó chạy mất tăm rồi, nhỡ ra lại lạc, lại kẹt tường, kẹt khe đâu đấy thì khổ. Nó mới đến, còn la…
Chứ như con Hên đây này, đấy, có họa là động đất cũng chẳng làm sao. Nó biết là nhà nó lâu rồi mà.
Người ngu ngơ
Cả nhiệm sở có 18 nhân mạng, thì có 16 tận tâm với mọi loại xổ số kiến thiết trung ương, địa phương, đầu tư, từ thiện. Lẻ ra một đôi người thờ ơ: Cô Vĩnh và anh Vũ. Tên cả hai đều có dấu ngã. Thảo nào. Cả hai lại cùng chưa xây dựng gia đình, khi mà cô đã mấp mé ba mươi và anh thì sắp tròn bốn sáu. Hèn gì. Chuyện vậy thì còn gì mà nói nữa.
Tuy nhiên, đời không phải dễ suy lý một chiều xuôi như thế. Hãy cứ để yên xem sao…
Cô Vĩnh thì đương nhiên không thể màng tới bất cứ một cái gì ngoài khối lượng công việc đồ sộ, ngổn ngang đầy ắp cả không gian ba chiều của thân phận cô: thư ký giám đốc, kế toán trưởng, thủ quỹ công đoàn, trưởng ban thanh tra nhân dân, chi hội trưởng phụ nữ nữa. Tức là cô bận lắm, mà lại còn ham nữa, thấy vui trong công việc nữa, lại còn đang năng nổ nhúng vào một vụ đấu tranh chống tiêu cực động trời nữa. Đến một đức ông chồng mà cô còn không có thì giờ nghĩ đến để mà sắm về, thì còn ai nỡ trách cô không đoái hoài gì đến xổ số, thế giới xổ số, không khí xổ số đang sôi động, ấm áp, chan chứa quanh mình, vào cả hơi thở mình.
Mà cô xinh chứ! Không. Cô đẹp, với tuổi ba mươi phải nói thế! Toàn thân lằn mình trắm. Da màu ô liu. Mắt to, đen thắm. Môi hồng mọng, hươi hươi lên chỗ đót giáp nhân trung. Ngực nhỏ mà rắn rỏi, thầm mời gọi hoặc gọi mà như xua đi. Một vẻ đẹp lai Ấn khiêu khích. Cho nên, kể đã có đến cả một huyện những anh chàng, ông chàng… lăn lóc đến xin ghi danh ”đấu thầu” trái tim cô. Rốt cuộc, cũng không h�! �n gì một tấm vé xổ số, chưa hề được biết đến ánh mắt cô thoáng lướt qua, chưa hề một lần được những ngón tay cô vân vi kỳ ảo, ve vuốt. Đêm ngủ một mình, còn thức là còn nghĩ tới những công việc của ngày mai, mãi đến lúc mắt đã liu diu, đầu đã bảng lảng chập chờn, cô bỗng bật cười một mình khi chợt nảy ra trong đầu hình ảnh Vũ. Mà đã nhiều lần như thế, cứ phải bật cười xong trong chăn riêng, trên gối đơn, thì anh ta mới hiện ra.
Đúng là Vũ có nhiều cái buồn cười thật. Đầu tiên là cái họ của anh, họ Hùng – cái họ hình như là cổ nhất, oai nhất mà bây giờ không mấy ai có, ai nhớ, nghe lại cứ như cái thứ họ mượn. Rồi đến hình dung hơi quái quái, tóc dài, râu rậm, mắt to mắt nhỏ, cái nhìn lờ đờ mà xóc thẳng. Bất chợt đụng trong đêm thì có thể vãi linh hồn tức thì. Mới thấy giữa ban ngày cũng không thể bén mảng nghĩ đến sự cười. Nhưng đi cùng một quãng, ngồi cùng một lúc, lại ở cùng cơ quan nửa đời nữa… thì cười lắm, cười quá lắm.
Hùng Vũ ngu nga ngu ngơ đi giữa đời. Lỡ vội chưa chùi dép mà bước vào sàn mới lau thì tự dưng nghiên đầu ngay xuống phía đất, miệng buột ra: ”Xin lỗi”. Trời đang oi ngột, chợt đổ mưa rào mát thoáng, lại ngửa mặt lên hướng trời, miệng buột ra: ”Cảm ơn”. Lên xe buýt, toàn đứng, vì với ai anh cũng thấy có lý do để nhường chỗ ngồi. Dạo còn đi xếp hàng mua gạo, mua dầu, bao giờ cũng cùng kiệt tối mới về, với lý do tương tự.
Một bữa, đi trên vỉa hè chật lèn, đầy xe dựng trước những cửa hiệu sáng choang. Có mấy cô cậu rửng mỡ nô nhau, đu�! ��i chạ! y như trong phim lúc tình yêu hé nở ban đầu, xô đổ kềnh một chiếc xe đạp ngay trước mắt Vũ, rồi kệ, chạy tiếp, mất hút. Vũ bước tới, nâng cái xe dậy, gạt lại chân chống cho nó. Thì chủ nó đùng đùng từ trong vầng sáng cửa hiệu vọt ra, thét như băm vào mặt anh: ”Đi đứng thế nào thế? Mù à?”. Vẫn chưa buông tay khỏi ghi đông, sợ nó chưa thật vững, Vũ điềm đạm: ”Tôi không đánh đổ xe ông đâu. Chỉ là người đỡ hộ nó lên thôi”. Và câu thứ hai của ông chủ xe khiến anh ngớ ra: “Thứ người ấy hóa thạch lâu rồi, đào đâu ra nữa thế. Thôi, thu vén miệng lưỡi lại rồi biến đi, bố bịp ạ!”.
Lại một bữa đi qua cầu hẹp, thấy một cô bé đạp xe đạp cứ bám quá sát chiếc xe tải đi trước. Vũ buột miệng: ”Khéo đấy cháu ạ. Nó mà phanh đột ngột thì khốn đấy”. Cô bé đảo mắt lại, nguýt dài: ”Việc gì đến bố già hả? Rỗi hơi à?”. Khổ, những lời như thế đã chao vào mặt nhau, lòng nhau rồi mà vẫn buộc phải đi cùng nhau, cạnh nhau. Đường độc đạo, cầu hẹp, xe thô sơ như đời. Vũ lủi thủi đạp, ngậm cái hơi rỗi của mình lại. Thì cái xe phải phanh gấp thật. Cô bé nhao cả người vào thành sau xe. Cái xe đạp đổ kềnh. Vũ hấp tấp xuống xe, chạy lại đỡ cô bé dậy, lại buột miệng như một tiếng thở dài: ”Đấy, tôi đã bảo mà…”. /à câu thứ hai từ đôi môi chúm nhọn như cái mỏ chim của cô bé nọ lại làm Vũ ngớ ra: “Chỉ tại cái mồm ông gở đấy! Thôi, buông ra, bầy hầy lắm chuyện vừa vừa chứ”.
Tóm lại,
Vũ tựa như thứ lông mọc đầy trên mặt ”Người lông! 8221;, c�! �i đuôi thừa dài dưới đốt sống cùng ”Người có đuôi” – hiện tượng bảo lưu quá lâu những đặc điểm sinh học của chặng tiến hóa trước, của nguồn cội, của thứ người đã hóa thạch. Hiển nhiên, anh như không biết trên đời thời này có một thứ gọi là xổ số.
* *
*
Ấy vậy mà chiều nay, Vũ mua xổ số. Mua hết cả 60.000 đồng tiền thưởng năng suất anh vừa lĩnh ở bàn giấy của Vĩnh ra. Ngay cửa phòng. Vĩnh nhìn, nghe thấy tất cả. Và cô không cười.
Chắc là lúc mà Vĩnh đang đếm tiền để trao cho Vũ cũng là lúc cháu gái mù ấy đã lọc cọc, lần mò lên được hết cầu thang. Vũ nhận tiền quay ra thì đụng ngay mũi gậy dẫn đường của nó ở cửa phòng. Tay kia, nó xòe ra một tập vé số. Miệng nó nói thật dẻo, thật tươi, như hướng vào một ai đó vô hình đang đứng cạnh Vũ?
– Cô ơi, chú ơi, mời chú mua vé số ủng hộ cho trường trẻ em mù của chúng cháu. Tối nay mở thưởng – Giải đặc biệt 100 triệu. Tập vé của cháu nhiều số đẹp lắm. Cô ơi, chú ơi…
Vũ sững lại, đặt tay lên vai đứa bé mù. Thế là nó ngước lên. Hai gương mặt như đã nhận ra nhau. Vũ nhìn hút vào hai trái nhãn đã bóc vỏ, trơ cùi, đang hấp háy hy vọng và mời chào trên gương mặt đứa bé. Anh hỏi sẽ sàng, lại có gì ngu ngơ nữa:
– Mỗi vé của cháu là bao nhiêu?
– Dạ, một nghìn đồng ạ!
– Ở đây cháu có bao nhiêu vé?
– Dạ, 60 vé ạ.
Vũ ắng đi, đầu óc anh chậm chạp, lờ mờ thấy có hai con số 60 trùng nhau. Nhưng sự yên lặng của anh khiến đưa bé mù thảng thốt, nó tưởng anh đã bỏ đi. Đột ngột, hai tay nó huơ huơ lên trước, và một giọt nước mắt rưng rưng:
– Chú ơi, chú nghe cháu nói đã. Kỳ này, công ty xổ số dành tất cả tiền bán vé cho chúng cháu tăng tiền thức ăn hằng ngày, tiền sách vở, đầu năm học sắp tới mà… t! hế mà cả ngày hôm nay, chẳng ai mua cho cháu lấy một vé. Bây giờ, sắp đến giờ phải trả lại vé rồi. Thế là… cháu… cháu chẳng góp được một đồng nào cho trường cháu cả… cháu…
Tiếng Vũ đột ngột:
– Cháu đưa cả tập vé của cháu đây và cầm lấy cả tập này. Sáu mươi ngàn đồng đây đấy nhé!
Vũ đã dắt cô bé mù xuống rồi. Từ dưới chân cầu thang vang lên tiếng lảnh lót:
– Chú ơi, chú mà không trúng số thì cháu buồn lắm. Chú trúng số thì chú phải báo tin cho chúng cháu đấy nhé!
Và thứ tiếng trầm ấm:
– Được, được. Nhất định là như thế. Cháu về đi.
Vũ quay lên, anh đưa cho Vĩnh cả tập vé số:
– Cô hộ tôi. Tôi có biết theo dõi cái thứ này thế nào đâu.
Vĩnh từ nãy, vì không thể cười, nên nay như bị ám thị. Cô ngước lên định nói gì thì đã chẳng thấy Vũ đâu nữa.
Tối ấy, lần đầu tiên cô xếp hết mọi việc, ngồi bật truyền hình đúng giờ thông báo xổ số, theo dõi căng thẳng. Không tin ở tai, mắt mình một lần qua đi như thế, cô đón cả những tiếng rao lanh lảnh chạy trên hè phố: ”Kết quả đê… ê…” mua một tờ. Lại về phòng, lẩn mẩn lật tìm, soi chiếu. Không một vé nào trúng, dẫu là một giải cuối, hoặc khuyến khích.
Bây giờ thì cô bật cười thành tiếng. Tiếng cười không hướng về Vũ nữa. Cô cười chính mình. Trong lòng cô như có gì vừa mở ra, ào chảy tưng bừng, một dòng sông nhỏ ngọt ngào và có hương thơm. “Nhất định, nhất định mình phải làm cho anh ấy ngớ ra một lần nữa. Ngớ ra, nhưng theo! chiều ! ngược lại, đối nghịch với những lần ngớ ra trước kia, những lần ngớ ra đã quá nhiều của anh ấy”.
Và… như trời xếp để ủng hộ ý định của cô, trong khu tập thể chỗ cô ở, một bà nghèo đông con, hôm đó tình cờ bớt tiền chợ mua một vé xổ số và trúng thưởng 100.000 đồng. Cô nài nỉ với chị ta hãy cầm số tiền 100.000 đồng cô đưa và cho cô tấm vé số may mắn đó. Thế rồi cô tức tốc đạp xe ra quầy, xếp hàng lĩnh thưởng, đủ 100.000 đồng. Rồi đến thẳng nhà Vũ.
Anh ngớ ra thật. Và Vĩnh cười đằm thắm:
– Có gì đâu anh. Quy luật của muôn đời. Ở hiền gặp lành mà.
– Ở hiền gặp lành, đúng thế, chứ có phải ở hiền gặp may mắn đâu. Này Vĩnh ơi, em có thể đi cùng tôi xuống trường trẻ em mù một lúc được không?
– Sao lại không? Anh!
* *
*
Hôm ấy hai người đã không đi một lúc. Họ về khuya. Sau cuộc gặp gỡ rất vui với đội văn nghệ của các cháu trường trẻ em mù đang tập luyện, trong đó có cả bé gái bán vé số hôm trước. Họ đã mua về nhiều nước ngọt và hoa quả chia vui với các cháu. Vĩnh chỉ cầm về một trái táo hồng thắm, thơm phức. Chỉ có một trái táo ấy mà đôi người về rất khuya.
* *
*
Một tháng sau, đám cưới Vĩnh – Vũ diễn ra thật vui ở Hội trường lớn trường trẻ em mù. Đi đến tặng hoa cô dâu chú rể là những bước chân không nhờ mắt mà nhờ ở những lối đi đã quen và do nơi đến là những con người đã quen, đã thương yêu gắn bó.
Chú rể phát biểu:
– Tôi là một người ngu ngơ hạnh phúc. Xin ghi ơn tất cả: người bán vé số và người nhận thưởng hộ tôi rồi trao thưởng cho tôi, tận nhà, tận tay, trọn vẹn…
Cô dâu nhìn chú rể. Mắt to, đen thắm. Môi hồng mọng. Da ô liu. Một vẻ đẹp lai Ấn hiền thục, không khiêu khích.
Nhân sứ
Giải nhì báo Văn Nghệ 1991
Tây Du ký, đã là một niềm đam mê mãn tính của bao nhiêu thế hệ người. Chặp này, lại đang bột phát. Khắp thôn cùng, xóm vắng đều vang lên những tiếng cười sảng khoái, như là gốc của Nhạc.
Nghe những tiếng cười, tự nhiên trong lòng thấy xúc động, cứ muốn nằng nặc đi tìm những thư tịch cổ để được ngõ hầu đọc thêm chút gì về cái Bộ Tứ đi thỉnh kinh ấy?
Chẳng có nhẽ, khi Đường Tam Tạng đã được gia phong Thiên Đàn Công Đức Phật, Tôn Ngộ Không thành Đấu Chiến Thắng Phật, Trư Bát Giới được là Tịnh Đàn sứ giả, và Sa Ngộ Tĩnh cũng được thành Kim Thân La Hán, thì bọn họ không có chuyện gì nữa sao?
Thư tịch cổ đâu không thấy, lại thấy một thiếu phụ như Thích Ca chìa cổ tay ra mà bảo:
‘Anh nắm lấy đi’. Nghe. Nắm. Liền được cô lôi đến một ngôi đền. Vốn ngại đền chùa miếu mạo nhưng đã có cô, nên không buông cái bàn tay nắm của mình ra. Vào đền. Cô bảo tiếp: ‘Em hay đến lễ ở đây. Cốt cho tĩnh tâm’. Thấy mắt cô lúc ấy thẳng băng, trong sáng và hệ trọng, liền hỏi khẽ: ‘Vậy anh ngồi thế này liệu có ảnh hưởng gì đến cái tĩnh tâm em?’. Nàng lắc đầu, tiếng nhẹ như hơi thở: ‘Không đâu!…Anh!’
Ra ngoài tiền sảnh, bà thủ nhang thoạt đầu có ý hãi vì nhìn thấy hơi nhiều râu tóc, sau lại cởi mở vì thấy biết xin một miếng trầu. ăn, nhai, lại xin thêm chút vôi và không nhả, nhổ chút gì….
– Nước trầu cau ai ưng là nuốt được lửa đó! Ông ăn trầu cách ấy thì tôi muốn đưa ông đọc thử cái này – bà thủ nhang sẽ sàng nói vậy r! ồi nhẹ bước vào nhà trong. Khi bà ra, thì thấy trên tay bà một tập giấy mỏng nhẹ the, kẹp nẹp xông cọ bóng láng.
Về, một mình đọc, gấp gáp, y hẹn ba hôm sau phải trả lại bà.
Lại về. Khép biệt thất, khoá trong đủ ba vòng, uống rượu một mình với Ông Địa, rồi muốn chép lại những gì nhớ được….
1. Chứng mất ngủ là bệnh ngứa tay ở Tây Thiên.
Bấy lâu nay, giữa Tây Thiên trong đêm tĩnh lặng huyền không – mây bạc, hương ngát trăng thanh và đàn – ở Chính đại Đại chùa Lôi Âm – trùng đạo phăng phắc, uy nghi những toà sen đại định – chẳng ngờ có một toà sen nhỏ cứ dọ dạy, oằn lên, lả xuống.
Ấy là toà sen của Kim Thân La Hán Sa Ngộ Tĩnh. Người mắc chứng mất ngủ – chứng mất ngủ chưa từng có ở Tây Thiên.
Căn bệnh quái ác khởi từ một ngày….
Nhàn cư quá đỗi, Sa Ngộ Tĩnh chợt trật vạt cà sa, ngó xem đôi vai mình. Người thấy nó trắng nhễ nhại, nõn nường như da thịt đàn bà nhà phú hộ đang thời kỳ chửa đẻ. Nắn véo, thấy mềm thún thín như lườn hươu, vú nai những ngày vắt sữa cúng thần. Nỗi nhớ tấm vai xưa – gồ lên cả vầng, cứng như sừng, rám sắc đồng hun – cùng chuỗi tháng năm Tây Du gian nan mà sôi động thuở nào, ngùn ngụt cháy lên, thông thốc kéo về…
Và thế là, cái đêm mịt mù từ khi ấy, chợt đội thốc tất cả lên cái đêm…Đường Tam Tạng đã khẽ khàng dén bước đến bên đống xương trắng của Bạch Cốt Tinh, rồi phục xuống mà khóc tầm tã ào ạt như mưa, như gió.
– Ôi chao! Với di cốt tan nát của một yêu quái đã bị Tôn sư huynh đánh chết,! lại c�! � thể khóc than, thương xót như thế, đến thế được chăng? Đêm ấy….chỉ một mình ta đã đứng chết, sững sởn hết gai người…Và bây giờ, nhớ lại, càng thấy ghê rợn, kinh khiếp. Phải chăng? Hay là?…Có lẽ nào, Sư phụ ta, Đường Tăng, lại chính là một siêu yêu quái?
Cái mảy ý nghĩ sau cùng ấy, thế là đã vọt ra. Nó bằng cái mắt muỗi, nhưng trọn vẹn, rạch ròi. Nên nó thành ngay một tia chớp xé toang rồi không chịu tan lãn, nhằng nhằng vĩnh viễn thứ ánh sáng loá mắt. Nên nó thành ngay thứ hạt giống biết cười khanh khách, đậu đất là nảy mầm, vươn lên vù vù thành cây cành cổ thụ, túa ra đủ thứ rễ, bám riết lấy tâm trí, không thể lắc giũ phủi tẩy, cấu vứt.
Chứng mất ngủ bắt đầu hành hạ Kim Thân La Hán từ ấy…
Ngày vào hạ, Phật Tổ Như Lai đi ra Lộc Uyển vui chan hoà cùng chúng tì khưu. Ngài thấy Sa Ngộ Tĩnh ngồi thừ lừ, rũ bờm râu tóc dưới một gốc cây, bèn vẫy tay gọi lại:
– Này Sa Tăng!Hãy khá nhìn xem, chung quanh tất thảy các gương mặt đều hồng tươi nhuận sắc, an lạc phồn thực. Cớ sao riêng con vóc hạc mình gầy, trán nhăn, má trũng?
– Dạ! Thưa Thống phụ chí tôn, ít lâu này con mắc chứng mất ngủ.
– Hơ! Mất ngủ! Mất ngủ ngay giữa cõi này? Sao lại đến nông nỗi thế?
– Dạ! Một ý nghĩ hành hạ con.
– Ý nghĩ gì vậy?
– Con không dám thưa. Nơi đây đông người quá. Và ý nghĩ ấy thật tội lỗi.
– Hơ! Sa ngộ Tĩnh. Há ngươi không biết, ở tĩnh thổ tầy oan này không có tội lỗi. Và đám đông ư? Cho ngươi được vinh hạnh như Cá Diếp khi xưa: Biến đám đông chung quanh thà! nh vô ng! hĩa trước ta để được giao hoà riêng một mình với ta.
– Trời! Thế thì đó là một trọng tội rồi. Xoá đi như không thấy nhân thân, từng thấy gương mặt hồng tươi nhuận sắc, an lạc, phồn thực…Kinh khủng quá. Một trọng tội ở chính cõi cực lạc này rồi. Thống phụ là chính phạm, và con a tòng nếu nghe Người.
– Người vơ phạm tội cùng ta chăng? Sa La Hán – Gọng Như Lai thoáng run lên – Hãy rời gót tức khắc!
Bực bõ, đêm ấy đến lượt Như Lai thao thức…
Chợt ngón tay ngài ngứa ran lên. Đẩy mấy ngón tả hữu lên day gãi mãi chẳng đỡ thì chớ lại càng ngứa đẫy. Ngài bật cười thầm: Ờ hay nhỉ? Rồi khẽ dướn người, nhìn xuống toà sen thấp tè, toen hoẻn tận tít tịt phía dưới của Sa Tăng, thấy nó chốc chốc lại ngọ nguậy, bèn khẽ đưa tay lên vẫy vẫy.
Kim Thân La Hán tức khắc đến bên, sụp lạy chờ lệnh.
– Lại gần đây, leo hẳn lên đây nào. – Quàng tay lên vai Sa Tăng, Như Lai thủ thỉ, – thế này thì hẳn nhà ngươi không còn áy náy gì về một đám đông bị xoá nữa đi nhé. Bây giờ, rõ là chỉ có hai người đồng bệnh mất ngủ, tâm sự với nhau khi tất cả an giấc. Ngươi sẽ nói cùng ta ý nghĩ nào đã khiến ngươi mất ngủ chứ? Bù lại, ta đi nước trước, ta sẽ cho ngươi duy nhất, nghe một bí mật của riêng ta. Ta bị ngứa một ngón tay…
Đó! Càng nói đến thì càng ngứa quá lắm….
– Thưa Thống Phụ, phải chăng người ngứa ở ngón giữa bàn tay phải?
– Trời! Sa Ngộ Tĩnh, Huệ nhãn ngươi siêu đạt đến thể thấu được tâm linh ta chăng? Đúng. Đúng vậy. Nó tiếp đi, La Hán mình vàng th! ân yêu&! #8230;
– Dạ…Con đang nói đây. Chẳng hay thống phụ còn nhớ ngày Người đến cứu giá, trấn yên vụ Đại náo Thiên cung của sư huynh Tôn Ngộ Không con?
– Ôi! Có thể nào quên? Đó là một ký ức sinh động.
– Nếu thế thì Người phải biết tại sao lại ngứa tay rồi chứ?
– Ta không biết. Ta chưa biết đến phút này mà…
– Vậy thì Thống phụ ơi, nghe con đây. Khi Người xoè ngửa cả bàn tay ra, rồi đố anh con nhảy vượt khỏi được, thì cũng ngay lúc ấy, toàn nội lực Người thảy đều đã dồn một ý hướng quyết liệt: Phải úp xuống, phải đè dập được con khỉ yêu quái này. Chính lúc xoè ra, ngửa lên mà lại chỉ nghĩ đến cách cụp vào, úp xuống thì còn làm sao cảm nhận được hết những gì đang diễn ra. Thống phụ đã thấy anh con nhổ một chiếc lông vạch mấy chữ lên đầu ngón tay Người – anh con nhầm là một cột chống trời cao nhất – sau khi ngỡ mình đã vọt lên hết chín tầng trời. Thế là Thống phụ dim mắt cười nhạt, bắt đầu triển nội lực…Chính lúc đó. Chính lúc đó…Trên cao, gió thổi, mây bay, lồng lộng. Mát quá, anh con thích chí quá độ, phởn lên,bèn vén áo bào, đái vào đỉnh ‘cây cột chống trời’ nọ một bãi thoả thuê. Thống phụ đã không hay biết điều đó. Rồi Thống phụ úp gọn được anh con, bắt thành lão yêu hầu trọc lóc sọ, trụi sơ lông, vươn cổ ngẩng, ăn rỉ sắt, uống rỉ đồng năm trăm năm dưới Ngũ Hành Sơn. Rồi Người vào dự An Thiên đại hội do Ngọc Hoàng chiêu đãi tạ ơn. Hình như yến tiệc tưng bừng rực rỡ ấy khiến Người nhãng ý không lau rửa ngay những ngón tay vừa bận b�! ��u biế! t bao của Người. Trộm nghĩ: Dẫu sao anh con cũng đã trải mấy nghìn tuổi, lại lạ lùng hơn cả Thống phụ, nứt ra từ một hòn đá giữa trời đất, lại tu luyện đắc bảy mươi hai phép thần thông, lại nhảy ra, nhảy vào lò Bát Quái của Lão Quân như ở chợ, lại đập mẻ cả Chiếu Yêu Kính của Thác Tháp Lý Thiên Vương, lại ăn hơi nhiều đào chín cây trong vườn Tây Vương Mẫu…Lại…Lại…Chẳng nhẽ cái dấu tích – dẫu là một chút nước thải – của một nhân thân như thế, há lại không để lại một chút di chứng nào ư?
– Hay, hay! Đúng, đúng! – Như Lai bật thốt lên, hứng khởi rồi giọng điệu lại điềm đạm lăn ngay vào nụ cười an hoà – Nhưng vì đến những ngày này nó mới phát ra nên phải nói thêm: Tại bãi nước đái khô của lão khỉ ngày ấy và chứng mất ngủ của nhà ngươi những ngày này nữa đó.
– Dạ! Con xin thú nhận. Công hay tội, vinh hay nhục cũng vậy. Con nhận rồi.
– Thôi, Sa Tăng…Ta đã nhớ ra một lời đồn thổi của đám thường nhân vùng núi Ngũ Hành…nơi tảng đá đã bóc lá bùa của ta ngày giải thoát Tôn Ngộ Không đó, có mọc lên một cây lá dấu. Giờ thi ta đoán chắc chỉ thứ lá dấu ấy mới chữa khỏi cho ta chứng ngứa ngáy ngón tay này.
Nhưng…Lại chỉ đám chúng sinh thường nhân mới bẻ hái được lá ấy. Riêng ta, đủ quyền phép để tức khắc bốc cả Ngũ Hành Sơn về đây. Nhưng như thế thì còn che mắt được ai. Ta- Đấng chí tôn toàn năng, thượng đẳng – Ta, ta mà lại mắc một chứng bệnh rận rệp ấy ư?…Đó! Ngươi thấy không? Thực là không tiện.
Lặng nghe, mắt Sa Tăng ánh lên nỗ! i đồng! cảm chân thành. Nhưng khi nhận ra điều ấy thì Như Lai liền tạt chuyện:
– Giờ đến lượt nhà ngươi đó? Nào, ý nghĩ gì hành hạ con, Sa Tăng? Chí ít thì cũng phải như đáp lại những gì ta ngỏ cùng con chứ?
– Dạ, đương nhiên là vậy, cả cuộc đời con thôi. Một chuỗi dài đáp lại. Đáp lại công tu luyện thần lực và phục vụ chư tiên là hàm Quyển Liên đại tướng. Đáp lại cái lỡ tay vỡ chén lưu ly là kiếp đày đoạ dưới sông Lưu Sa tăm tối, bùn lầy. Đáp lại cái quỳ bái nhận sư phụ là cả chuỗi đầu lâu người tanh tưởi thoắt biến thành tràng hạt Đại Bồ Đề thơm sáng. Đáp lại cái công ngày gồng gánh, đêm canh gác suốt cuộc Vạn lý thỉnh kinh là toà sen Kim Thân La Hán. Và…đáp lại nỗi nhớ là chứng mất ngủ , là ý nghĩ khủng khiếp nghi ngờ Đường Tăng, thầy con…
Sa La Hán đã nói hết lòng mình với Như Lai…
Nghe xong, Phật Tổ ngửa đầu cười ngất, hồi lâu, rồi cất lời khuyên dụ thật trang trọng:
– Bớ Sa Ngộ Tĩnh, con trung thực xiết bao nhưng huệ nhãn cũng cũng thấp kém xiết bao. Con đã không thấy được phẩm thượng thừa siêu việt của sư phụ con. Khi tu hành đã chứng đạo quá như Đường Tăng thì lòng từ ái sẽ bao trùm lên tất cả: Tiên Phật, thường nhân và khắp chúng yêu quái nữa. Hãy nghe ta: Phải dốc lòng yêu kính tin tưởng nhiều hơn nơi thầy Tam Tạng, nay là Thiên Đàn Công Đức Phật đó…
Sa Ngộ Tĩnh dập đầu tạ phúc. Sự nghi ngờ đường Tăng lập tức tan biến. Lòng yêu kính hồi sinh tuôn về dâng lên những nước triều đông dào dạt trong lòng.
Nhưng khi về đến toà sen nhỏ của mình thì Sa Tăng vẫn k! hong ch�! �p mắt được. Đã có những mớ bòng bong ý nghĩ khác cuộn rối lên. – Ôi chao! Nếu như ở tầng thế giới thường nhân không phân biệt được yêu quái với người thường thì ắt táng gia, vong mạng; lầm lẫn Tiên Phật với ma quỷ thì không thể thoát khỏi thiên la địa võng, trừng phạt khốc hạ! Ấy vậy mà, tu mãi tu mãi, tu đến như ta đây chưa nhằm nhò gì, còn tu nữa, mãi nữa, thì sẽ đến một thái độ nhập cả ba: Tiên Phât, người thường và yêu quái thành một. Vậy thì đặt ra ba loại tên gọi khác nhau ấy để làm gì nữa? Chia ba tầng thế giới ra làm gì? Và tu để làm gì nữa? Lịch trình tinh tấn của tâm não con người há lại giống như một thứ nhiễu sự vậy chăng?….Than ôi, lời Đức Chí Tôn thật chí lý! Chẳng qua là tại huệ nhãn ta thấp kém, phẩm hạnh ta ven xo, nhợt nhạt đó thôi. Ta đang đáp lại chính nó – Huệ nhãn ấy, Hạnh phẩm ấy – đấy thôi.
2. Hội tuyển nhân sứ.
Rạng sáng, trời nắng đẹp.
Chuông chùa Lôi Âm bỗng gióng giả từng hồi dài. Có một đoàn thường nhân đủ nam phụ lão ấu tới chiêm bái Tây Thiên, kính mong được tiếp kiến đàm luận thân ái hoà đồng với một Nhân Sứ.
Nghe báo, Như Lai điềm đạm:
– Một Nhân Sứ – một sứ giả, một đại diện của con người nơi Tây Thiên này ư? Để ta ra trước xem.
Như Lai xuất hiện, hào quang ngũ sắc toả sáng loà nơi thềm cơ Lộc Uyển ngay trước Lôi Âm tự. Ánh sáng cũng làm phừng phừng lung linh luôn cả đoàn người đang dập đầu bái Phật. Tiếng Ngài lồng lộng:
– Chính ta ra tiếp các ngươi đây.
Vị trưởng lão dẫn đầu đoàn người bèn chắp tay, ! thưa lê! n:
– Kính lạy Đức Chí Tôn, vinh hạnh này thật khôn kể xiết, nhưng…Chúng tôi muốn được gặp một Nhân Sứ đích thực. Ngài đã từng là Thái tử Tất Đạt Đa xưa, từng có vợ, có con, từng đã là một người. Nhưng điều đó đã quá lâu rồi. Bây giờ tượng Ngài ở khắp mọi nơi, và dẫu bằng gì: đát, đá, đồng đen hay gỗ mít phủ sơn then, bê-tông cốt thép hoặc nhựa tái sinh…thì bất phân chất liệu, mọi người cứ thấy là đã tự nhiên hương khói nghi ngút, chắp tay quỳ rạp, mọp đầu thổn thức hoặc ríu rít cầu khẩn. Đối với một người ai lại như thế? Xin Đức Chí Tôn lượng thứ.
Như Lai gật gù, đoạn khoan dung hỏi tiếp:
– Vậy, liệu kẻ nào nơi đây gần gũi nhất với các ngươi? Hay là bốn thầy trò cái đoàn đã đi lấy kinh của ta về phổ độ cho các ngươi?
– Dạ…Có lẽ là vậy.
Như Lai quay lại phất áo:
– Bớ Thiên Đàn Công Đức Phật!
Từ sau lưng Phật Tổ, Đường Tăng khoan thai đi ra, từng bước như nhún theo tiếng nhạc. Nhưng cả đám thiếu nhi bỗng nhao nhao:
– Chúng cháu không nói chuyện với ông này đâu. Miệng ông ấy luôn bảo: Thật thà là căn cốt của người tu hành, nhưng chính ông ấy lại mở đầu việc thâu nạp đồ đệ bằng một điều dối trá, lừa Tôn Ngộ Không mặc vào bộ quần áo trấn yểm và đội chiếc mũ Kim Cô…Trùm bịp bợm, xấu lắm!
Khi mắc nạn vụ mấy quả nhân sâm, ông ấy đã đe Tôn Ngộ Không: ‘Nếu không tìm được cách thoát thì ta lại niệm chú!’ Người nhân hậu tử tế ai lại lấy cái đau đớn lăn lộn của đồ đệ làm sức ép bắt bí, cốt hòng thoát cái thân ! mình nh�! � thế bao giờ….Ông ấy chỉ nhằm đạt được mục đích của mình bằng toàn công sức người khác, toàn những người tài giỏi, hữu ích hơn ông ấy bao nhiêu….Ông ấy là một con người giả. Chúng cháu ghét ông ấy lắm.
Như Lai còn dang ngạc nhiên thì Đường Tăng đã xấu hổ, che mặt quay vào.
Phật Tổ hướng về phía đám trẻ:
– Chắc bọn bay chỉ thích gặp Tôn Ngộ Không.
Chúng thiếu nhi liền vui sướng dạ ran.
Một cái phất tay của Như Lai. Đấu Chiến Thắng Phật nhảy phóc ra, quắp một chân, còng tay, nhún mình chào:
– Lão Tôn đây!
Nhưng lão trượng trưởng đoàn đã đứng dậy vòng tay:
– Kính thưa Đại Thánh, lòng chúng tôi xảy xiết bao yêu kính, thích thú Đại Thánh không riêng gì đám trẻ con kia, Nhưng há có thể gọi là người được chăng? Hẳn Đại Thánh còn nhớ thuở Ngài qua Đông Hải thần châu, dạt vào bờ, phải ra chợ nhót lấy áo quần mũ hài của đám người lơ đễnh, rồi học đi, học đứng, học nói, học ăn đũa… sao cho tạm ra dáng Người mà trà trộn được. Rồi đến khi đã đầy đủ quyền phép, Ngài cũng vẫn phải để cái đuôi mình thành một ngọn cờ đuôi nheo sau miếu. Tóm lại, xin Đại Thánh tha lỗi, trước sau Ngài vẫn chỉ là một con khỉ, không thể gọi được một con Người.
Đấu Chiến Thắng Phật gãi tai cành cạch rồi cười khẹc khẹc vang động:
– Chí phải! Cái lãogià chắt chút của ta này nói phải. Ta biến nhé!
Dứt lời, nhún mình mất tăm dạng. Chỉ còn thấy dư âm khẹc khẹc đã lẩn vào phía sau Như Lai.
Dưới một tán lá bồ đề mé cạnh, Tĩnh Đàn Sứ Giả Trư Bát Giới cũng lúc cúc c�! �p tai l�! ��i. Bụng nghĩ: ‘Anh ta như chuông khánh còn chẳng ăn ai vì lốt khỉ, huống ta, mảnh chĩnh thối lốt lợn, lười biếng, tham ăn, háu gái còn bề bề in đậm trong tâm não lũ thường nhân này, thì còn ló mặt ra làm gì. Thôi, đi về toà sen, làm một giấc ngủ ngày, há chẳng sung sướng tênh tang hơn không?’
Thế là chỉ còn mỗi một danh tính: Kim Thân La Hán Sa Ngộ Tĩnh.
Lão trượng vòng tay:
– Xin cho chúng tôi được gặp Người.
Như Lai thoáng cau mày, rồi hiền hoà cất lời:
– Chẳng hay nhà ngươi không biết Sa Tăng là nhân vật nhạt nhẽo nhất trong số bốn thầy trò Tây Du chăng?
– Dạ, chúng con biết rõ như vậy. Nhưng còn biết rõ hơn: nhạt nhẽo là thuộc tính thứ nhất của con người. Đức Chí Tôn thử ngẫm xem: Trong một cuộc quyết chiến, số người chết được ghi đúng họ tên so với người táng mạng vô danh quả là hạt cát giữa sa mạc. Rồi gộp tất tật những cuộc huyết chiến vì nghĩa cả ấy lại, thì tổng số người chết lại chẳng thấm tháp vào đâu so với người chết vì dịch hạch, vì bão châu chấu, vì sóng thần, động đất, núi lửa, vì các lục địa nứt ra trôi dạt, vì những hố đen trên mặt trời tự nhiên cựa quậy, những đám bụi mặt trời lả xuống hay cuộn lên không hề dự báo…Thử hỏi, muôn triệu sinh linh ấy, sau khi tan biến, liệu có để lại chút xíu dư vị hơn một hạt muối. Sa La Hán nhạt nhẽo, tức đích thị con người. Xin Đức Chí Tôn cho phép….
Như Lai chép miệng đĩnh đạc:
– Lão già mồm mép kia, ngươi lại không biết cả chặng vạn lý Tây Du, Sa Tăng chỉ suốt suốt gồng gánh?
– Dạ, gồng gánh, v! ai hằn ! lên vết bầm, vết chai của các sức nặng, là âm bản của nhạt nhẽo. Gồng gánh suốt đời là thuộc tính thứ hai của con người. Vả lại, chính các Đại Đức, Thượng toạ thường dạy cho chúng con rằng: ‘Đứa hài nhi vừa được sinh ra đã có chiếc đòn gánh vô hình nơi vai, và chiếc đòn nọ chỉ rời ra khi nó đã nằm trong quan tài’ Xin Đức Chí Tôn cho chúng tôi được gặp Nhân Sứ gồng gánh ấy: Sa La Hán.
Phật Tổ nén một nhịp thở dài, xuất ngôn chiêu cuối cùng:
– Này, lão đầu đàn đáo để, các ngươi mời gọi một người đã từng ăn thịt người …tha thiết đến thế hay sao?
– Dạ. Chúng con biết rõ và nhớ: Sa Tăng đã từng ăn thịt người. Nhưng chúng con còn biết và nhớ hơn: Khi người bị hãm vào cảnh cùng cực đói khát, ở cảnh ấy thì đã có biết bao nhiêu kẻ đồng hành ăn thịt nhau! Chồng ăn thịt vợ, mẹ ăn thịt con…
Đức Chí Tôn ơi! Đau đớn thay! Có thể ăn thịt người khi đói khát, cùng cực cũng là thuộc tính của con người.
Chợt không thấy Như Lai đâu nữa. Hào quang ngũ sắc cũng tan biến….
Và trong ánh sáng thường tình. giữa sắc xanh cây lá, cỏ hoa thường tình….Sa Ngộ Tĩnh bước ra, nhập vào đoàn người, cả bọn kéo nhau vào Lộc Uyển, râm mát quây quần trò chuyện…
3. Tống biệt hành.
Đã tròn một tuần trăng. Một đêm….
Sa Ngộ Tĩnh đến trước Như Lai, áp hẳn đầu vào vế đùi Ngài, ngước lên khẩn nài:
– Thống phụ chí tôn…Xin Người cho con được phế bỏ toàn bộ công lực của một La Hán, hạ sơn, độc cô hành Đông Du về lại sông Lưu Sa xưa, làm một người thườn! g chài l! ưới trên sông nước, chiều chiều thổi một ống tiêu, nhấc một ngụm rượu, nướng con cá nhỏ, và đợi một người đàn bà, lấy vợ sinh con….sau nữa, con sẽ hái được lá dấu gửi về cho Người.
Như Lai thấy nao lòng. Ngài cúi xuống, đặt lên vầng trán Sa Ngộ Tĩnh thần ban thiện phước, rồi khẽ khàng:
– Thôi, con đi. Cảm ơn con đã nghĩ đến ta. Việc đó nếu tiện, cũng nên làm.
Phút giã biệt giữa bốn thầy trò thật là bịn rịn.
Đường Tăng trao tấm Cẩm Lan cà sa:
– Này con, đây là áo khoác đi đường, cuộn lại làm gối, trải ra làm chăn khi ngủ, vải xé băng bó và lau rửa những vết thương….
Ngộ Không tháo vành Kim Cô:
– Xưa, đây là nỗi đau, là sức ép, nó mạnh hơn cả ta. Nay, nỗi đau không còn, sức mạnh vẫn vẹn nguyên đó, lại thêm vào cả tình anh em của ta. Khá giữ lấy, phòng khi thậm nguy nan.
Bát Giới thót bụng, há miệng, ợ một tiếng. Quả nhân sâm hồng tươi, nguyên vẹn liền vọt ra:
– Đó! Phàm những thứ nuốt chửng, dẫu có được ngự trên toà sen rồi, vẫn không thể tiêu biến. Chú cầm lấy đừng chê, nhỡ khi lỡ bữa đói lòng….
Sa Nhân bái tạ thầy và hai anh lần cuối hồi lâu, rồi quay gót thoăn thoắt xuống núi.
Như hơi ấm đã quấn bám, đã đi theo bước chân họ Sa xuống dần, tít tắp tận dưới kia – nơi đám bụi vẫn hồng hồng khoả lấp, vừa thâu nhận thêm một hạt bụi người – nơi xóm chợ chân núi, xao xác đủ tiếng chó gà, tiếng ngựa trâu, tiếng vẹt yểng…và tiếng Người.
Chỗ thầy trò giã biệt trên núi cao ấy, mãi sau mới có người biết! Có ba pho tượng đá, b! a cặp m! ắt đá không có con ngươi, nhưng vẫn rõ hướng ngong ngóng dõi theo con đường xuống núi. Nhiều người đem đèn nhang hương hoa tới bái tạ, cầu cúng. Lâu lâu, nhận ra rằng: Phàm việc cao khoát quảng đại đều không thấy ứng nghiệm. Có chăng cũng chỉ ang áng lơ mơ. Vận vào bảo đúng bảo sai đều được. Nhưng những thỉnh cầu nhỏ rõ, cấp bách thì thực linh ứng.
Ví dụ như: Đói rã, khát lả. Lại ví dụ như: Mất ngủ, lở ngứa, đau đầu, đầy bụng thì chỉ thành tâm lễ khấn trong vòng một tuần nhang cháy trọn ắt đều được như nguyện.
Những người bạn
Tôi không phải dân du học, không phải dân 75 tới Mỹ, nhưng là một thuyền nhân. Trên bước đường xuôi ngược tôi vẫn nhớ những người bạn ở quê nhà, những người bạn quen ở Mỹ, hoặc trong giấc mơ vẫn tình cờ gặp lại họ, ” những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ” ấy. Tôi nhớ cái không khí của ngày xưa, nhớ ghé lại café 38 – dù rằng ở đó có nhiều người còn hút thuốc lá, mà tôi thì đã bỏ thuốc từ lâu rồi. Bên cạnh ly café tôi chia sẻ những mẫu chuyện vui buồn về một vài người bạn có liên quan tới tôi.
Có lần trên tay cầm tờ báo Xuân, lướt tới trang tử vi, nhìn tuổi Nhâm Thìn tôi lại sực nhớ đến thằng bạn: Nguyễn Trường Phi. Hắn có máu rượu chè, mạng của nó là trường lưu thủy – thôi thì hắn uống rượu rất hào phóng, uống như nước, phải nói là hắn có tửu lượng rất cao. Tuổi này thích cảnh bướm nguyệt vì số đào hoa. Nhờ vào các sao Tứ đức hội với Tứ đổ tường mang lại hên may, cũng như cứu giải những trì trệ cho hắn, bởi vì hắn ta phong lưu và mọi chuyện đều nhờ có vợ chăm lo. Đây cũng là phước phần của hắn. Sau năm 1975, bạn tôi trở về vườn, nhờ có đất đai ông bà để lại, hắn cứ thế mà lần hồi bán đi tiêu xài.
Tôi thì không có gì cả, chỉ lo giúp việc nhà cho cha mẹ và trở thành một anh nông dân độc thân bất đắc dĩ, buồn đời nhiều hơn vui. Phi thường ghé nhà và rủ tôi tới quán nhậu. Chỉ có dĩa nhộng và vài ba xị rượu, tuy đơn sơ nhưng thắm tình bạn bè và huynh đệ chi binh. Người nông dân như tôi sau ngày đồng áng mệt nhọc có chút men vào thì ăn! cơm độn sắn ngon miệng và đánh giấc ngon lành cho đến sáng. Còn bạn tôi, không hiểu có phải vì uống rượu ” giảm” và ăn cả nhộng ” dâu tằm” nhiều không, nên chúng đã cắn phá và hủy hoại hàm răng trắng tốt tươi của anh, để hôm nay anh phải trở thành một người có cái tên gọi đệm là hăng-rết: –Phi hăng-rết!
Vì tật uống nhiều làm sao tránh khỏi cái say đến chó ăn chè, bạn một vài lần xỉn nằm lăn dưới đất được những chú vện mừng rỡ đến chào hỏi, liếm môi liếm miệng và anh trả lời lè nhè với chúng nó: ” tao… không uống nữa đâu…, tao …không uống nữa đâu…” . Không biết có phải vì Métox (tên thuốc trừ sâu rầy) trong rượu tích lũy hay là dịch vị ở miệng chó không, mà ngày nay người bạn này không còn cái răng nào nữa? Giờ nghĩ đến chuyện này tôi đã hối hận là không biết có nên dùng lời ca ” Người cho tôi tạ lỗi” của nhạc sĩ Từ Công Phụng để gởi đến bạn một chút tâm tình xin gọi là ăn năn vì đã không ngăn cản bạn. Phi không phải là người nói năng nhiều, không phải thầy địa lý, nhưng than ôi! bạn lại mang nặng nghiệp chướng của một người phá sản đất đai ông bà, làm cho đất đai phải biết nói, ” cục đất mà biết nói năng, thì thầy địa lý hàm răng không còn” . Thôi thì xem đó là duyên nợ của anh bạn vậy.
Mới ngày 13 tháng 10 năm 2002, trời hơi lành lạnh, cơn gió nào thổi tới không biết, tôi tình cờ gặp lại một cô bạn; cô từ Seattle xuống để dự buổi Hội Luận ở Tacoma tổ chức. Cô hỏi thăm tôi bây giờ có còn liên lạc với Phước, người rất ái m�! �� hoa kh! ôi Diệu Hương của làng Phú Thượng, Hòa Thanh, Hòa Vang năm nào không? Tôi trả lời rằng: ” Biết chứ, anh chàng Nguyễn Xuân Phước ấy mà” . Thuở học trò anh đã từng si tình Diệu Hương và ghi lại những dòng thơ trong nhật ký của anh :
” Ôi con chiên nhỏ ngoan hiền
Ngày hai buổi lễ rũ phiền toái ta
Ta, tên tình si thật thà
Ngày hai buổi lễ tim ta rũ phiền.”
Ở tuổi đệ tứ anh đã bắt đầu ong bướm làm thơ rồi, và lại còn trốn học theo đuổi tình nhân nữa chứ. Anh là người ngoại đạo, nhưng rồi anh trở thành con chiên ngoan đạo, để tim anh rũ phiền… Khổ cho anh bạn nhỏ này bị cha biết được, rầy la thậm tệ, ” Mầy không thích học thì tao sẽ mua một con bò cho mầy để nuôi… còn có lợi lộc cho gia đình hơn…” . Thế rồi ông mua một con bò cho anh chăn giữ thật, trông anh bạn tôi thật là tội nghiệp! Anh trông giữ con bê suốt mấy tháng hè, nhờ vào đó mà anh mới hồi tâm chuyển ý và trở lại trường học bình thường hay có thể nói là xuất sắc thì đúng hơn:
” Ôi con bê nhỏ ngoan hiền
Ngày hai buổi cỏ, ưu phiền kém ăn
Ta, gã học trò ăn năn
Ngày chăn hai buổi siêng năng tội tình
*
Cha ôi, duyên phận ở mình
Con không bỏ học theo tình nữa đâu.”
Rồi anh bạn cũng lấy được hai mảnh bằng Tú tài và nhập ngũ vào mùa hè đỏ lửa năm 72, ra trường về ngành Pháo binh. Gặp anh, tôi vừa cười vừa nói : ” Ai ơi, đừng lấy Pháo binh, đêm đêm họ bắn rung rinh cả giường!” lập tức đám bạn trai cười ồ lên, ai dè còn một số bạn gái đứng gần cũng nghe được, họ bẽn lẽ! n. Tôi b! uộc phải nói xin lỗi nhé, tôi không cố ý đâu.
Xui khiến gì bạn và tôi còn gặp nhau trong cảnh tù đày ở trại An Điềm, tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng. Tôi không còn nhớ thơ Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, nhưng bạn tôi hay ngâm nga mấy câu cho đỡ buồn và cho đỡ ” vã” cái cảnh nhớ bồ, nhớ người yêu khi bọn tôi đang còn ở một nơi đau khổ tận cùng của cuộc đời. Vì lây cái tật nhớ vặt đó mà tôi hay bị véo – khi vô tình ngâm trở lại mấy câu thơ bất hủ dưới đây – trên đường đưa vợ về nhà dưới ánh trăng rằm:
Vân Tiên ngồi dưới bụi môn
Chờ cho trăng lặn rờ … Nguyệt Nga
Nguyệt Nga thích quá không la
Vân Tiên tiện thể rờ ba bốn lần.
Các anh bạn thử ngâm những câu thơ này xem, chắc chắn sẽ có người đả thông kinh mạch cho các anh và các anh sẽ thấy trẻ trung yêu đời, mà phải đúng vào ngày trăng tròn mới công hiệu đó nha!
Cách đây không lâu tôi có gởi thư về VN nhắc anh bạn rằng mầy cần phải đi chùa tu tập thật nhiều, cũng như tao đây vậy, khi nào mầy tu thì nhớ hú cho tao một tiếng nghe! Và, tôi tự cười một mình khi viết đến dòng chữ nầy.
Tôi lại có một anh bạn tên Quan. Anh sang đây theo diện HO, ở Tacoma một thời gian, rồi chọn về Texas. Anh lớn hơn tôi vài tuổi. Ngày xưa, anh đánh giặc rất hăng, rất giỏi, giặc nghe danh anh mang quân đi đánh, chúng đều rét cả. Anh và tôi thường liên lạc với nhau bằng điện thoại hay thư từ. Đây là bức thư tôi đã viết cho anh:
” Tacoma, ngày… tháng… năm …
Anh chị Quan thân mến,
Nhận thư anh, tôi rất là mừng. Bởi vì b! ạn bè ! có được bao nhiêu người ở Mỹ đâu. Liên lạc với nhau như vậy thật là quý. Tình thật mà nói, anh chị về Texas, bọn này buồn lắm, vì thiếu đi người để tán dóc. Kể từ mùa thu anh chị đi về bên ấy cho đến nay cũng đã mấy thu qua rồi. Bây giờ lại mùa thu đến, lá vàng rơi rụng đầy đường, không gian chuyển màu ảm đạm, thật buồn. Chắc anh chị vẫn còn nhớ đến xứ cao – nguyên – tình – xanh nầy chứ?
Nơi đây vẫn mang tiếng hiền hòa- chỉ tội mưa dai dẳng, mây mù và lạnh buốt khi vào đông. Đó là đặc điểm thiên nhiên của Tacoma, Washington. Nhưng anh chị có thể biết qua báo chí, điện đài thì Tacoma hiện giờ không còn gọi là nơi hiền hòa theo nghĩa chính trị nữa…
Không biết ở Texas, hình ảnh một người như anh trong cảnh trời lạnh ngắt đứng hút thuốc lá, co ro cúm rúm lại, rít từng hơi dài – mong cho mau hết điếu thuốc để trở vào phòng – có còn tiếp diễn ở Dallas nữa hay không nhỉ? Thú đau thương nầy anh bỏ đi chắc là khó lắm. Nó là một trong bốn món ăn chơi của đấng mày râu. Anh đã bỏ đi ba thứ rồi, nếu bỏ luôn món thuốc lá này thì chẳng khác gì một ông thầy tu. Anh biết không, hình ảnh anh, tôi thấy giống mấy người bạn tôi ở Việt Nam quá: tuổi còn trẻ nhưng đa phần tóc đã bạc, bạc tình – có, bạc vì thời thế – có, bạc tiền chưa khá – có. Âu cũng là số phận anh ạ. Còn anh, tôi không nghĩ anh có những cái bạc đó, chắc là cái bạc nào khác.
Anh có còn nhớ Tolstoi không, chắc anh đã đọc truyện của ông. Tôi nghĩ ông ta cũng bạc đầu rất sớm, bạc không phải thiếu tiền, thiếu tình, nhưng bạc vì có! cô vợ! thương yêu ông và chăm sóc ông quá kỹ – kỹ đến nỗi khiến ông cảm thấy bị quản thúc tại gia. Nhưng theo tôi, anh Quan- đầu – bạc có cái phong độ riêng, có cái ” đặc sản” riêng đáng quý của nó.
Bên quê mình, sau này chủ trương khai thác các đặc sản của từng địa phương như: bò tái Cầu Mống, nước mắm Nam Ô, v.v… Viết tới đây tôi tự dưng cười một mình, tại vì tôi nhớ tới một chuyện tiếu. Câu chuyện tiếu lâm nó như thế nầy:
Một hôm có đám cháy nhà, người vợ bèn giải thích cho người chồng vừa mù vừa điếc biết là nhà của ai bị cháy. Trước hết bà ta vào bếp gắp ra một cục than hồng huơ qua huơ lại trước mặt ông chồng, ông chồng hiểu được ý la lên:
– Cháy, cháy nhà! cháy ở đâu?
Bà vợ lanh tay, đưa tay vào quần chồng và bẻ… cong. Ông chồng phản ứng lanh như chớp:
-À, cháy bên kia cầu! Nhà ai bị cháy!?
Theo cái mánh cũ, bà vợ đưa tay vào quần chồng lần nữa và nâng hai…bi lên. Ông chồng hình như có áp phê, như máy computer với Windows XP, trong tích tắc ông lại la lên:
-Nhà Hai Viên, nhà Hai Viên cháy! mà Hai Viên nào?
Bà vợ tự nhủ thầm dễ ẹt thôi. Bà vờ ngó quanh có ai không, rồi đưa tay vào quần mình một cách chớp nhoáng và sau đó đưa lên gần mũi chồng. Ông chồng trông tỉnh táo hẳn và hiểu ngay:
-Trời! Nhà Hai Viên bán nước mắm bị cháy…
Bà vợ ông sử dụng một thứ ngôn ngữ mà người vừa mù vừa điếc hiểu được, quả thật người vợ trong câu chuyện nhỏ tiếu lâm nầy rất là tài tình. Có phải vì bà biết tới cái đặc sản mà ai cũng biết cũng nhớ là vậy đó!
T! ôi thì lại quý trọng các huynh, chủ trương ” kính lão đắc thọ” cho nên tên anh Quan – đầu – bạc là một biểu tượng khó quên trong các mẫu-chuyện-trên-trời-dưới-đất của anh em chúng mình. Mình thường hay nhắc câu:” hữu xạ tự nhiên hương” , anh có cái đầu bạc đó là quý. Xin anh đừng nhuộm nó, miễn là chị Quan thích là được rồi.
Nghe anh chị kể chuyện nếp sống bình thản bên đó, tôi mừng cho anh chị. Thời vận có lúc thăng trầm, nhưng mình vẫn trước sau như một với tấm lòng thanh thản. Sống ở đâu cũng có người quý mến, không bon chen vụ lợi đến nỗi quên đi cả lương tri làm người. Có lần anh chị đã nói: ” Có bạn thà ít mà tốt, còn hơn nhiều mà chẳng ra gì. Điều đáng quý, đáng kính trọng là làm sao mình giữ cái tâm của mình cho thật trong sáng là được rồi.” Vậy là tốt anh chị ạ.
Bây chừ gần cuối năm 2002. Sắp tới ngày lễ Tạ Ơn, rồi sẽ tới lễ Giáng Sinh và Tết dương lịch ngay. Chúc anh chị và gia đình vui đón những ngày lễ đoàn tụ thật trọn vẹn và vui vẻ.
Thân mến, Nguyễn Hòa Vang”
Phải nói là đường đời muôn vạn nẻo, trong ” giang hồ ” ai biết được ai, tôi nhớ lại hai câu đối của người xưa:
” Ai công hầu, ai khanh tướng, trong trần ai ai dễ biết ai
Thế Chiến quốc, thế Xuân Thu, gặp thời thế thế thời phải thế”
với hai câu nầy đã giúp tôi học được chữ nhẫn trong thời gian gọi là học tập cải tạo. Sau nầy qua đến Mỹ, tôi lại gặp một anh bạn, tuy anh lớn tuổi hơn nhưng vẫn còn ham thích nghiệp sách đèn, anh học UW. Anh cho tôi biết anh ở đơn vị! Biệt �! �ộng Quân trước 75, dù sao anh và tôi cũng là người trong binh nghiệp và rất căm ghét bọn vô thần đã làm thui chột đi đất nước của chúng ta- đất nước mà bây giờ đã trở thành một trong những nước nghèo nhất trên thế giới. Anh bảo tôi rằng: ” Ngày trước mình có sai lầm ở chiến trận thì sẽ làm mất đi mạng sống của mình; nhưng ngày nay mình đi học, nếu có sai lầm bị gãy môn học nào thì cố lấy lại môn đó – có sao đâu!” Câu nói nầy nghe rất có lý, nên tôi quyết học cho xong, rồi đi kiếm việc làm. Vừa mới gặp lại anh ở Seattle, trông anh vẫn như hôm nào đạo mạo như một hiền nho. Từ những kinh nghiệm đau thương, anh bạn và tôi đồng ý áp dụng câu nói của người xưa rằng: ” Tài cần phải học, học cần phải tĩnh; không học không rộng được tài, không tĩnh không thành việc học.”
Học hành thức khuya nhiều, cần café để thức qua đêm, tôi đâm ghiền café. Bây giờ nhớ café, đôi lúc cần phải tới quán. Đó là quán café 38, bên cạnh phòng mạch bác sĩ Dũng, vẫn đông người vào buổi sáng sớm và vào những ngày cuối tuần. Tôi lại có những anh bạn café, gặp nhau gọi bằng lão huynh lão đệ. Một lão huynh của tôi thân cao lêu nghêu, cũng là dân cựu tù, trông có vẻ gầy, tưởng chừng như đói ăn, hỏi ra mới biết chị nhà nuôi anh rất kỹ. Lão có thú làm thơ và thích nhâm nhi ” Nữ nhi hồng” vào những ngày thu ở xứ mưa rơi lạnh lẽo nầy; lão thường gọi tôi là lão đệ và mời tôi tới nhà lão đối ẩm và ngâm vài bài thơ của tiền bối Nguyễn Khuyến tả về cảnh trời mùa thu rất là độc đáo để nhớ về quê hương đất nước mình:
! THU VỊNH
Trời Thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu:
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào,
Nhàn hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra sợ thẹn với ông Đào.
THU ĐIẾU
Ao thu lạnh lẽo, nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Từng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần câu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Tiếp theo là bài thơ của Huy Cận:
THU RỪNG
Bỗng dưng buồn bã không gian,
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u.
Nai cao gót lẫn trong mù,
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
Sắc trời trôi nhạt dưới khe;
Chim đi, lá rụng, cành nghe lạnh lùng.
Sầu thu lên vút, song song
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu.
Non xanh ngay cả buồn chiều
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.
Lão huynh của tôi sau vài hớp rượu, vỗ đùi một cái rồi ngâm bài thơ của lão sáng tác:
DẠ KHÚC TƯƠNG TƯ
Ta ngồi tính nhẩm lại những năm
Trời xanh dệt mộng dưới trăng rằm
Những tưởng thần tiên cài vai áo
Nào ngờ nhân thế đổi người chăm
Lao lung mấy kẻ đời ngăn cách
Lữ thứ bao người Việt vắng tăm
Ly hương năm, tháng trôi đi mãi
Đường về quê cũ vẫn xa xăm.
(CHT)
Đáp lại lời thơ sảng khoái của lão huynh, tôi có hai bài thơ mang ra tặng lão:
NHỚ TRĂNG XƯA Cách! biệt nhau rồi mấy chục năm
Mình ngồi tâm sự dưới trăng rằm
Kể chuyện hành quân tiêu trừ giặc
Mong ngày nghỉ phép ghé thăm em
Đường xưa lối cũ còn trong mộng
Hình bóng em yêu mãi biệt tăm
Đất khách quê người đầu đã bạc
Mỗi độ trăng về nhớ xa xăm.
THU CẢM
Cây ơi ai nhuộm lá cây vàng
Ôi mùa thương nhớ lật từng trang
Trời thu ảm đạm buồn tê tái
Còn lại cho nhau chuyện dở dang
Nhớ từng kỷ niệm nhớ bâng quơ
Mắt biếc vòng tay lúc đợi chờ
Đốt thuốc gọi mây về than thở
Môi nghe vị đắng thấm hồn thơ
Uống thêm hớp rượu để ấm lòng
Đâu còn gì nữa để đợi mong
Những giấc mơ buồn anh thầm nhắc
Đừng khóc nghe em nhạt má hồng
Rót trao tâm sự cuộc tỉnh say
Mượn chút men nồng bớt đắng cay
Ngõ vắng hàng phong màu đỏ thẫm
Ngoài sân cây lá đã đổi thay!
Không gian xoay chuyển vật đổi dời
Tình theo năm tháng cuốn mù khơi
Gió thu vờn nhẹ kêu xào xạc
Mang lá xa cành bay khắp nơi
Ánh trăng chênh chếch rọi hiên nhà
Đêm khuya thao thức với Hằng Nga
” Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà ?” (*)
Buổi tiệc nào rồi cũng tàn, trước khi ra về tôi tặng thêm lão huynh 4 câu thơ với ý mừng cho gia đình lão sống trong cảnh đoàn tụ vui tươi, mà ở quê người không mấy người Việt mình có được như sau:
Bốn mùa hoa nở trước thềm,
Quanh năm cây lá xanh thêm sau nhà.
Chủ nhân trông đẹp xinh ra,
Gia đình hạnh phúc vui ca sum vầy.
Xin chào các lão huy! nh và c�! �c bạn, hẹn ngày tái ngộ nhé!
*******
(*) Thơ Hàn Mặc Tử
Sự tích những ngày đẹp trời
Như mọi người đều biết: trong hội thi kén rể của Hùng Vương, phần thắng về Sơn Tinh, Thủy Tinh là người bại. Rồi theo cái lẽ thắng thua, định phận, định phần ấy mà Mỵ Nương theo Sơn Tinh về núi Tản, nên vợ nên chồng. Còn nước các triền sông lớn thì cứ hằng năm, đến kỳ, lại sôi sục, cuồn cuộn dâng lên như ghen cuồng, uất hận khôn nguôi…
Lại cứ theo thế mà suy, sai cũng coi là cố nhiên, không còn gì phải đôi hồi, bàn cãi, và không thế, thậm chí không được nghi ngờ; vợ chồng Sơn Tinh sống rất hạnh phúc, tốt đẹp, mẫu mực tuyệt vời…
Mà sự thực quả đúng là như thế.
Nhưng, có điều, còn có một cái lẽ cố nhiên khác nữa, riêng nhỏ âm thầm, cái lẽ cố nhiên trong lòng những người con gái lấy chồng xa: nỗi nhớ nhà.
Mỵ Nương nhớ nhà, nhớ cha mẹ lắm. Mà Sơn Tinh thì bận lắm. Vợ lại hết mực trọng chồng, không muốn một bợn nhỏ làm bận lòng chồng. Chồng thì xiết bao tin vợ và tự tin mình. Niềm tự tin lúc nào cũng dày dặn, bền chắc. Cho nên nỗi nhớ của Mỵ Nương cũng phải chịu phận sống len lỏi âm thầm, có lúc còn phải tàng hình, tan biến vào những ánh mắt chào đón rạng rỡ, vào những nụ cười hơn hớn tươi vui. Mà càng như thế, thì nỗi nhớ ấy, cái lẽ cố nhiên ấy, lại càng day dứt, ngún cháy nồng đượm, cồn cào.
Mỗi năm, Sơn Tinh đưa vợ về thăm lại quê nhà một lần. Là người trí lực kiên cường, quảng kiến và ngăn nắp, đã bao nhiêu năm Sơn Tinh chưa một lần thực hiện sai chệch những ấn định của mình. Những ngày về thăm Phong Châu ấy bao giờ cũng thật huy ! hoàng, chu đáo, tuyệt hảo.
Mỵ Nương biết ơn chồng lắm. Nàng cố nương theo, khuôn mình, không để cợn cạo trong cái dòng chung huy hoàng, chu đáo, tuyệt hảo ấy… Để chờ cái phút được chạy gấp tới, ùa vào lòng cha mẹ, mặc những giọt nước mắt mừng tủi ứa ra… Chưa nói đến những ngày vui ấy trôi qua thật nhanh, thật bé xíu, ngắn ngủi. Bao giờ, bao giờ cho đến ngày này sang năm nữa?
Tự nhiên một hôm Mỵ Nương đánh bạo xin phép Sơn Tinh cho nàng về thăm quê một mình. Và Sơn Tinh, như thường khi, lập tức bằng lòng.
Đường về Phong Châu, Mỵ Nương đi như gió chạy, nhẹ bỗng, tung tăng. Miệng chỉ chực cười, chực reo, chực hát.
Về được một ngày, trọn vẹn riêng tư với cha mẹ, anh em, sớm hôm sau, buổi sớm đầu tiên thức dậy tại quê cha, chợt Mỵ Nương xốn xang muốn dạo ngược lên núi, tới tận con suối nhỏ đầu nguồn, nơi nàng nhớ mình đã tắm lần đầu, từ khi biết nhớ, biết nghĩ, từ khi mình còn là một cô bé. Từ xa, đang còn nhón gót lướt trên những giọt sương mai long lanh đầu những ngọn linh thảo xanh mởn, Mỵ Nương đã nghe tiếng róc rách. Tiếng róc rách như cả tuổi thơ thóc mách, giòn giã mà thổn thức, đang đợi nàng đã bao nhiêu năm…
Khoang suối trong vắt như vành gương trước mặt. Hơi nước lượn vờn như sương khói khơi vơi huyền ảo. Cái mát tinh khôi thấm vào da thịt. Tự nhiên Mỵ Nương nghẹn ngào. Diềm mi ấm dội lên, nước mắt ứa ra. Mà môi nàng là nét cười, nét cười thơ dại, ngây ngây.
Ngoắt đầu, phẩy tay điệu đàng và thoáng chút nghịch ngợm, ra hiệu cho những thị nữ theo hầu cuối cùng r! ời gót! . Bước xuống viền suối, để nước vờn liếm quanh bàn chân đỏ dậy của mình. Mắt nhìn xuống, như hút lên, như thấm cái mầu đỏ hồng ấy lan tỏa cả lên gương mặt. Thong thả ngoái lại sau… không còn ai cả.
… Mỵ Nương cởi xiêm y.
Ngấn nước vừa chớm chạm ngực thì, như không nén nổi nữa, Mỵ Nương bất giác đưa hai tay vuốt xõa đổ suối tóc mây bồng bay lên, giang hai tay, mắt nhắm nghiền lại, nàng nhảy ào, trằn mình uốn lượn giữa dòng suối và buột lên tiếng hát trong vắt.
Chợt tiếng hát ngừng bặt, Mỵ Nương thốt rùng mình. Nàng hoàn toàn cảm thấy, không thể nhầm lẫn, dòng suối đang ôm xiết vuốt ve lấy thân thể nàng là một đôi tay cường tráng mà đắm đuối, dịu dàng của một da thịt, một con người… Mỵ Nương thoáng nghe thấy, lọc qua tiếng nước rì rào, róc rách, có tiếng đập gấp gáp rộn ràng, như dưới đáy suối có một trái tim bồi hồi. Tự nhiên, Mỵ Nương giang rộng đôi tay ôm nước, như đón nhận… rồi đột ngột quẫy mình, quay ngoắt vào bờ, với lấy váy áo.
Mỵ Nương đã ở trên bờ đá. Những giọt nước tí xíu vẫn đang trôi bịn rịn trên da thịt nàng, trước khi tuột hẳn, nhập lại vào dòng suối. Những giọt nước ấy ánh sắc hồng ngọc, dần tụ lại và đột khởi, trong không gian tĩnh lặng, như dội cả dòng suối lên. Nước suối cuộn sóng, dựng đứng lên, thành một chàng trai tuyệt vời đẹp và buồn.
“Trời, Thủy Tinh… Sau biết bao nhiêu năm rồi…” Mỵ Nương khẽ cúi đầu, bắt gặp bờ vai trần của mình vẫn ngời ngợi sáng lên và nàng thấy không còn một chút sợ hãi bỡ ngỡ n�! �o nữa ! trong lòng. Nàng chợt thấy mình e ấp mà chủ động, mà ở ngoài mọi cương tỏa, như phút nàng đứng sau rèm ngày vua cha kén rể. Nàng thấy mình trinh nguyên. Mắt tai thông thính sáng láng lạ thường…
– Mỵ Nương em có nhận ra tôi không?
– Dạ…
– Vậy thì tôi là ai? Em hãy gọi tên tôi. Hãy gọi tên tôi một lần.
– Chàng đã không tin em rồi…
Mỵ Nương khẽ ngước mắt lên. Mắt nàng không định mà hơi chau lại. Mỵ Nương không tự ái, nàng chỉ nghĩ rằng mình có quyền nghịch ngợm một chút. Nhanh nhẹn, dứt khoát, Mỵ Nương mặc váy áo, đứng dậy chắp tay, thi lễ:
– Em về.
Mỵ Nương bước đi và lắng nghe sau lưng mình, tịnh không có một tiếng động. Chỉ một làn sương bụi nước ấm thơm ngát bỗng lan tỏa, hồng hồng bao lấy Mỵ Nương mà không lấp, không che lối về của nàng.
Nhưng chỉ bền gan được chừng mươi bước chân, Mỵ Nương quay phắt lại. Làn sương ấm đã cuồn cuộn thành một bồng mây óng ánh ngũ sắc chợt tan biến. Gương suối lặng tờ. Thủy Tinh đã biến mất.
Mỵ Nương chạy ào xuống suối, thảng thốt:
– Ôi, Thủy Tinh…
Suối cuộn sóng, một bồng nước dâng, đưa Mỵ Nương giạt lên bờ, ở chỗ lúc nãy nàng ngồi. Những đọt nắng sớm xuất hiện, tãi ấm trên xiêm y, thân thể nàng. Những giọt nước óng ánh trên tóc Mỵ Nương, như châu ngọc li ti.
– Thế là được rồi. Tôi đã được nghe tiếng em gọi tôi thật lòng… Sau bao năm…
Tiếng Thủy Tinh vang lên, trầm ấm. Và Mỵ Nương thấy chàng lại sừng sững đứng đó, giữa ti! m suối.! Thật đẹp và thật buồn.
*
– Hãy nghe tôi… Hãy ngồi yên đó và nghe tôi thôi. Không thì không sao tôi bình tĩnh nổi… Tôi hoàn toàn hiểu rằng chỉ có lần gặp gỡ này thôi, muôn đời tôi sẽ không còn gặp được em nữa. Tôi hiểu em là gái đã có chồng, em sống tuyệt vời hạnh phúc và mẫu mực. Còn tôi: một kẻ bị muôn đời gớm ghiếc, nguyền rủa và cô đơn. Nỗi cô đơn mênh mông, cồn cào, như cả xứ sở đầy sóng gió, biển cả và đại dương của tôi. Nhưng tôi yêu… Tôi đã yêu em, từ lâu lắm rồi cho đến mãi mãi. Từ khi em còn là một cô bé con… Ngày ấy, ngày em lần đầu tiên lên tắm ở tận con suối đầu nguồn này, em còn bé và tôi còn trẻ lắm, tuy cũng đã là Chúa Biển rồi… Ngày ấy, tôi đã biết em, đã tan hòa trong những giọt nước, nô giỡn, cười vui thỏa thích cùng em. Vì ngày ấy, tôi đã tự nhiên cứ muốn một lần được lang thang từ biển vào sông, muốn đi ngược lên mãi và tôi đã đến tận đây, tận nguồn này, gặp đúng ngày đầu tiên em được phép phụ vương nhào mình xuống suối. Rồi tôi phải về biển… Nhưng lòng ước tính từng năm để rồi quyết, để rồi không nén được sẽ phải đến nói cho em, cho phụ vương em rõ tình yêu của tôi. Tôi lên bờ đất Phong Châu để nhận tin phụ vương đã dựng lầu kén chồng cho em. Tôi đã gặp Sơn Tinh nơi quán dịch. Biết bao chàng trai khi nhìn thấy hai chúng tôi đã đành ắng lặng xếp khăn gói, lủi thủi ra về. Thật tội, nhưng biết làm sao? Họ là những người thường và họ biết rõ thứ hạng của chúng tôi: những thần nhân. Sơn Tinh thì chỉ nói với tôi: Chàng nghe nói vua Hùng kén rể, ! lại cũ! ng nghe nói cô con gái vua ngoan lắm, đẹp lắm. Sơn Tinh còn nói thêm: “Người thần mà lấy con vua, thực là một việc hợp lẽ”. Rồi chàng đi ngủ, thật thanh thản, đàng hoàng, dáng nằm thật thư thái, uy nghi. Chàng ngủ rất ngon. Còn tôi lúc ấy, tôi đã không sao ngủ được, lòng chỉ còn cồn cào một ý nghĩ làm sao gặp được em, thấy được em. Đã bao lần tôi định lẻn trốn ra ngay trong đêm tìm đến chỗ em. Nhưng rồi tôi biết em đã ở trong cung cấm. Và… ý nghĩ cuối cùng khiến tôi đành nén lòng nằm yên chờ sáng… “Biết đâu, em cũng đang ngủ rất ngon, rất say. Thực vô duyên nếu quấy rầy em, nếu làm em dở giấc”.
– Không, thưa chàng, đêm ấy em cũng không sao ngủ được…
– Cảm ơn, cảm ơn em. Đó, tôi và em cứ có những cái giống nhau, những cái trùng nhau vô bổ, vô tích sự, những cái tương hợp chẳng để làm gì ấy như thế đấy… Ô hô! Cuộc đời… Và buổi sáng đã đến… Cả hai chúng tôi được gọi vào chầu phụ vương em cùng một lúc. Cái đường bệ, thong thả ung dung của tôi chỉ là cái dáng vẻ bên ngoài. Mắt tôi đầu tiên đã đặt vào khoảng rèm thoáng lay động sau lưng nhà vua. Có phải em đứng chỗ đó không?
– Dạ, đúng…
– Chợt nhớ phải giữ ý, không thể nhìn vào đó mãi, tôi đành đăm đăm dõi vào gương mặt cha em. Và như đền bù cho tôi, hai cha con em giống nhau lắm. Tôi gạn được biết bao nét từ cha em thành em. Tôi quên mất, ánh mắt của tôi đã làm ông ở ngay phút đầu dễ có gì ngài ngại, thậm chí khó chịu với tôi. Vừa thi lễ xong, đã nghe lời cha em hỏi: “Chẳng hay hai vị t�! ��i đây! có việc gì?”. Tôi đã không hiểu ngay lúc ấy. Mãi sau này tôi mới thấy trong câu hỏi ấy có cái oái oăm của một đấng quân vương, cái nếp quen triệu tập mọi người đến vì ý mình rồi lại bâng quơ hỏi nói như phải miễn cưỡng tiếp người ta như không, lẫn cái lối giữ giá của nhà có con gái, dẫu đang ở ngôi chúa tể… Và điều không may mắn nhất, điều lú lẫn nhất của tôi là tôi đã không thấy trước ở đó một lời gợi ý, một điểm nếu thuận theo thì lợi, nếu trật thì mất điểm, thua thiệt ngay thuở đầu. Tôi chỉ lăm lăm bộc bạch, không màng tới đua tranh, khi thua rồi, khi mất em rồi, mới nghĩ lại tất cả. Tôi đã không để ý tới tiếng “việc” (chẳng hay hai vị tới đây có việc gì?) Và Mỵ Nương ơi, có phải là hôm ấy, tôi đã bước lên trước và trả lời trước…
– Vâng, thưa chàng, đúng như vậy. Em cũng có thể nói thêm để chàng rõ: chính vì thế mà trong hai chàng, kỳ thực và tính thật đúng đến từng khắc, thì chàng lại là người mà em biết trước, biết tên, nhìn được mặt, được người trước. Bởi vì chỗ em đứng khuất một thân cột và viền rèm, khiến chỉ có ai bước lên một bước nữa hôm ấy mới qua chỗ khuất và em mới được nhìn thấy. Vì vậy mà em hoàn toàn nhớ: chính chàng đã bước lên trước, đã trả lời trước…
– Và em có còn nhớ câu trả lời của tôi không?
– Thủy Tinh ơi, em không muốn một lần nữa nhắc rằng: chàng đã không tin em, cũng không muốn một lần nữa rời gót khỏi nơi đây, để rồi lại phải chạy lại… Em muốn nói với chàng một lời: Vì sao chàng cứ thích nhắc ! lại nh�! ��ng lời ấy, nó có làm cho chàng dịu bớt được một điều gì đâu? Không nhắc lại thì nói cũng có làm cho chàng mất mát thêm điều gì đâu?… Thủy Tinh ơi, chàng đừng giận nhé, em cảm thấy chàng chẳng có gì khác ngày ấy cả. Chả có gì lớn hơn, từng trải hơn, điềm đạm hơn, thiết thực hơn cả… Không nên như thế, em cảm thấy thế, mong cho…
– Thôi thì tôi sẽ đè bẹp nốt cả cái mong muốn cứ chốc lát lại được nghe tiếng em, dù chỉ một tiếng “có” hay “không”… Thôi thì em lại nghe tôi nhé…
Tôi đã bước lên, nói ngay điều có từ hơn mười năm trước. Tiếng tôi là tiếng sóng cồn lên, va đập:
– Tôi đến đây để bộc bạch với Người tình yêu của tôi với Mỵ Nương, con gái Người.
Và Sơn Tinh, quả thật, thâm trầm điềm đạm như núi và khôn ngoan vững vàng như đất, đã thong thả cất tiếng sau tôi:
– Kính thưa bệ hạ, thần đến đây để xin được cưới công chúa Mỵ Nương, được trở thành con cái trong nhà của triều Hùng.
Thế đấy! Tôi thoáng thấy nhà vua khẽ gật đầu, ánh mắt dành cho Sơn Tinh mềm mại, ưu ái lắm. Tôi cảm thấy mình bị thất thiệt. Phụ vương em quả không hổ tiếng là người đứng đầu trăm họ, lo toan biết bao công việc. Cho nên đã trọng việc hơn trọng tình. Cái việc nó cộn lên lồ lộ, còn cái tình thì vô hình vô ảnh. Tôi thì thổ lộ cái tình, Sơn Tinh xin lo việc và còn hứa sẽ xếp mình vào cùng đội ngũ. Thế là dường như không thể khác, các món sính lễ đã được đặt ra thật dễ hiểu: Voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao…
Đú! ng bình ! minh hôm sau… Ai đến trước sẽ được đón Mỵ Nương về…
Tôi không thể ngờ phụ vương em lại thiên lệch, lại thiếu công bằng, lại rẽ tình tôi với em tàn nhẫn và không trong sáng đến như vậy.
– Thủy Tinh, chàng chớ quên em là…
– Chính vì thế… Và đây, em hãy gắng trả lời tôi từng câu nhé. Một: voi ở núi hay ở biển?
– Dạ, ở núi.
– Ngựa ở núi hay ở biển?
– Dạ, ở núi.
– Gà ở núi hay ở biển?
– Dạ, cũng ở núi.
– Hừ, câu cuối cùng: Núi Tản và Biển Cả, nơi nào xa Phong Châu hơn?
– Dạ, biển xa hơn, xa hơn nhiều. Chàng ơi… đừng hỏi em nữa.
– Thế đấy, tôi ngước lên thì phụ vương em đã phất áo quay vào nội điện rồi. Vả lại, dù cho Người còn đứng đấy thì phỏng tôi nói được gì? Làm sao tôi có thể cãi lại cha của người mình yêu ngay trong lần đầu gặp gỡ. Chưa nói làm sao tôi có thể bộc lộ cái kém cỏi của tôi trước Sơn Tinh ngay tức khắc như thế.
Tôi chỉ thấy ngực mình nóng dội lên, hình như có lửa cháy trong tim tôi. Tôi nhìn vào khoảng rèm, không còn thấy lay động nữa, tôi cảm thấy em không còn ở đó nữa.
– Vâng, cha em vào là vẫy tay bắt em theo sát gót ngay. Người cũng thấy em muốn nán lại, và chắc chính vì thế mà nhất định gọi em cùng vào nội điện ngay…
– Em đã muốn nán lại. Vì sao vậy?
– … Em cũng không biết nữa, cho đến tận bây giờ…
– Còn tôi thì cứ đứng sững bên thềm đại điện. Mãi một lúc lâu, khi giật mình quay ! ra thì c! hỉ thấy trống trơ có một mình mình. Sơn Tinh đã ra về tự lúc nào.
Tôi về biển, lòng rầu rĩ, thẫn thờ. Cầm bằng như đã bị cướp mất em. Đám bầy tôi, đàn em của tôi xúm lại hỏi mãi, tôi mới dật dờ nhớ lại được, kể lại mọi việc lần lần. Tức thì có ba đứa bước ra, đập đầu loang máu: Thuồng luồng, Ba ba, Cá Ngực. Chúng tôi xin nguyện hiến mình cho tôi, cam hóa thân thành voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao.
Quyền phép thì tôi có tu luyện đủ đầy, nhưng phàm việc hóa thân thì phải có lửa. Mà dưới Thủy Tinh cung của tôi, chẳng lửa nào cháy được. Tôi ôm lấy lũ đàn em, nước mắt cứ vỡ ra. Bỗng lồng ngực tôi nóng rực. Tôi sững sờ: trái tim tôi đã cháy lên, ngùn ngụt. Ngọn Hỏa Tâm ấy đã làm được tất cả. Đêm ấy, ba tầng nước Thủy Tinh cung thẩy đều sôi động. Tầng trên cùng đen cháy, sôi sục, hứng trọng lều bều những lớp vẩy vỏ của những xác hóa thân. ở tầng giữa, nước đỏ bầm mầu máu cháy. Và ở dưới cùng, cõi nước lung linh sáng rực nơi lò luyện. Gần sáng thì cả ba con vật đã hiện hình, đã đi, đã thở rống lên, đã gục gặc đầu vai, đã ra hẳn sự sống voi, ngựa, gà… Lồng ngực tôi thoáng đãng như những buổi sớm mai ở biển. Tôi dẫn đầu đoàn sính lễ vội trẩy ngược Phong Châu, nghe gió lướt tràn rạt hai bên mang tai mình.
Nhưng tôi đã đến chậm bốn khắc.
Tôi đến để vừa kịp nhìn Sơn Tinh cưỡi ngựa đi trước, kiệu hoa của em uyển chuyển theo sát, như có dây buộc, đằng sau… Cái uyển chuyển do vai một cỗ bốn người khênh tài giỏi theo nhịp nhạc lễ, mà tôi lại cứ nghĩ từ em, e! m uyển ! chuyển theo sau Sơn Tinh.
Lòng tôi tuyệt nhiên không một mảy may oán hận Sơn Tinh. Tôi chỉ đau xót cho tôi. Tôi đứng chết sững, và không thể cầm được nước mắt ào ào dâng lên, túa ra giàn giụa. Tôi khóc như một người thường. Tôi quên mất mình là thần Biển, thần Nước… Mỵ Nương, em có thấy không, hôm ấy, mưa trước hay nước dâng lên trước, hãy nói tôi nghe!
– Chàng đã nói lại hoàn toàn đúng… Em ngồi trong kiệu, đã thấy chàng đến sau, rồi đứng sững nơi ngã ba Phong Châu… Và trước lúc khuất hẳn, em ngoái lại, khẽ vén rèm kiệu nhìn về phía chàng lần cuối thì thấy trên mái kiệu của em, tiếng nước rơi, tiếng mưa mỗi lúc một dồn dập, rào rào… Cũng lúc ấy, Sơn Tinh giục cả đoàn phải đi mau. Chồng em bảo: “Phải đến được địa giới núi Tản trước khi Thủy Tinh kịp dâng nước lên…”. Và đúng như thế, vừa khi ngước lên thấy ngọn Tản Viên, thì nhìn xuống đã thấy sóng trắng cuồn cuộn sôi sục, gần bén sát chân ngựa… Chồng em đã nói đúng. Chàng làm sao chối được tội lỗi tàn sát bao sinh linh, hoa lợi, mùa màng, chỉ vì một chút… em…
-… Tôi đã chỉ đứng khóc. Tôi không bao giờ cho lệnh dâng nước lên… Nhưng phía sau tôi lúc ấy đã có nhiều điều xảy ra. Tôi không biết rằng khi tôi vừa sững sờ thấy cảnh Sơn Tinh đón mất em, khi tôi vừa rùng mình lần đầu, thấy mất hết sức mạnh lần đầu, thì cũng lúc ấy, cả thuồng luồng, ba ba, cá ngựa đã cùng thoắt rùng mình trút lốt, hiện lại nguyên hình. Những thân hình mạnh mẽ duyên dáng khi uốn lượn giữa sóng nước ấy nay đột ngột chềnh ề! nh ra tr�! �n cạn, trông quằn quại, nhãy nhợt, gớm ghiếc, tanh tưởi lắm. Và những người dân Phong Châu đã kéo ra xem đám cưới em, lúc ấy cũng cất tiếng cười ồ cả lên. Tôi vĩnh viễn trở thành kẻ gian manh, giả trá, kẻ làm đồ giả đầu tiên, từ phút ấy. Thật kinh khủng. Một thần nhân mà đang tâm lừa vua, dối Chúa, toan cướp đoạt công chúa đẹp xinh nhất nước bằng quỷ kế, bằng thủ đoạn đốn mạt, lập lờ đánh lận con đen.
Tiếng cười ồ lan rộng vang mãi của bao người Phong Châu hôm ấy khiến tôi không thể đứng mãi đó mà nhìn theo em được. Tôi đành gạt nước mắt, giơ tay ra hiệu cho các bầy tôi quay trở lại biển khơi.
Nhưng không được, các bầy tôi, đàn em của tôi vốn đều là những Thủy thần, Thủy quái có uy lực nhất định. Những kẻ đã sẵn sàng hóa thân vì tôi nay hoàn toàn có lý phẫn nộ trước tôi – vị thủ lĩnh thất bại và cam bó tay, nước mắt chan hòa, đầu cúi, chân rã rời lê bước về chỗ xuất phát.
Tôi đã một mình về biển.
Và Thuồng luồng, Ba ba, Cá ngựa cùng muôn loài Thủy quái đã phẫn nộ ào ạt dâng nước lên, ngược với chiều tôi đi, xối xả nghiêng về núi Tản.
Sơn Tinh cùng em và muôn loài ở núi đã vất vả chống chọi như thế nào và đã chiến thắng vẻ vang ra sao, tất cả mọi người đều đã biết.
Nhưng đấy hoàn toàn không một chút gì là chiến thắng Thủy Tinh. Thủy Tinh không hề có mặt trong những con nước ấy.
Tôi biết Sơn Tinh có thể khiến nước dâng đến đâu núi cao lên đến đấy. Nhưng đấy chỉ là nước do sức của loài Thủy thần, Thủy quái dưới tôi.
Trời ơi! Nếu! quả th! ật có một chút tôi điên cuồng triển hết sức mình động biển, thì, Mỵ Nương ơi, cơn đại hồng Thủy ấy sẽ biến tức khắc tất cả núi Tản, nơi đây, Phong Châu nữa, thành lãnh địa của tôi, nghìn trùng sóng vỗ, mãi mãi. Nhưng như thế để làm gì? Tôi sẽ mất em, nỗi nhớ em, lòng mong muốn hướng về em, mất hết, mất vĩnh viễn.
Và… Lại lần nữa, tôi không thể chối bỏ được trách nhiệm của người thủ lĩnh. Người Phong Châu và mãi mãi đến sau này, lớp lớp cháu con những người thường, đời đời nguyền rủa tôi: tên chúa trùm của nạn lụt hung bạo. Người đời đã vẽ hình tôi, truyền lại cho con cháu, găm vào bia cho các tráng sĩ tập bắn, tập ném đá, cho nên ác độc, xấu xí, hung tợn dị thường. Nanh tôi mọc dài, mặt tôi xanh lét, mắt tôi ti hí gian giảo, đầu tôi úp một con ốc vặn xoắn xuýt hèn mọn. May sao… hôm nay, em vẫn nhận ra tôi, cái tôi thật là của tôi.
Đã bao lần tôi can ngăn, thậm chí có lần tôi đã van xin các bầy tôi, đàn em của mình, đừng tháng tháng năm năm, đến kỳ lại dâng nước về đất liền như thế nữa. Nhưng Mỵ Nương ơi, đến mùa ấy, những vết đau nhức của một lần hóa thân lại tấy lên dữ dội. Cơn điên khùng bệnh lý của muôn loài Thủy tộc lại kịch phát… Những ngày ấy, tôi náu mình trong biệt điện tận cùng Thủy Tinh cung, day dứt nhớ về em và tin ở những triền đê ngày càng vững chắc của Sơn Tinh.
Bây giờ thì tôi đã từ bỏ tất cả. Tôi đã quyết trả lại ngôi Chúa Biển. Tôi về đây, cố hướng mãi, cố nhỏ bé mãi con người mình đi tìm được tận đến suối nguồn này, hy vọng gặp em. Và… duy! ên phậ! n đã cho tôi… Em đây rồi. Tôi đã được nói hết lòng mình, những lời phải nén sâu chôn chặt bao năm, riêng em… Thế là hết, tôi chả còn gì để nói nữa, để mong nữa. Tôi chẳng biết mình sẽ làm gì bây giờ. Chỉ biết rằng chưa chắc tôi đã có thể trở nên có ích hơn, nhưng sẽ được sống thanh thản hơn, nhẹ nhõm hơn. Lại biết đến bao giờ, đến bao giờ nữa, tôi mới có thể gặp lại em…
- Thủy Tinh ơi… em hiểu chàng và mong chàng hiểu em. Em phải về ngay bây giờ đây. Em không thể khuyên chàng điều gì. Những thần nhân như chàng và chồng em, làm sao em lại có thể có lời khuyên. Em chỉ mong chàng đừng rời biển cả. Em chưa thấy biển bao giờ… Nhưng… nếu không có chàng thì ngọn Hỏa Tâm ấm nóng, sức sống, tiếng gọi hóa thân ở biển sẽ ở đâu, biển còn trong sạch, phóng khoáng, đẹp, quyến rũ, tràn đầy tình yêu nữa hay không? Biển có còn đáng hướng tới nữa hay không? Em không hiểu, em không biết là mình vừa nói gì nữa. Thủy Yinh ơi, đừng nghĩ là em muốn đuổi chàng, đừng nghĩ là em không muốn gặp lại chàng nữa, đừng… Nhưng, cũng đừng để em thấy như mình đã bắt đầu có lỗi, bắt đầu mang tội với…
– Hãy bình tâm, Mỵ Nương. Tôi hiểu em hoàn toàn. Hãy trở về đi và gắng sống như đã sống. Tôi cũng vậy. Tôi sẽ nghe lời em. Còn nếu nhớ tôi, thì mỗi năm một lần, đúng tiết thu, ngày này, em hãy ở một mình và mở cửa sổ phòng riêng. Em s! ẽ thấy những giọt mưa đầu trong vắt thả như buông rèm trước mặt. Đó là tôi, là Thủy Tinh này. Chúng ta sẽ gặp nhau như thế. Và chỉ gặp nhau như thế.
*
Mỵ Nương đã thầm lặng, riêng tư theo lời ấy. Và đó chính là nguồn gốc của những giọt mưa thu thánh thót ngoài hiên, đem cái se lạnh gợi nhớ để tôn thêm giá trị cái ấm áp của những ai đang trong khuôn cửa. Độ phong sương trong vắt của tiết giao mùa kề bên mái ấm, thế thôi.
Mỵ Nương mở cửa, không đừng được, đưa tay hứng một giọt mưa. Hạt nước mọng tròn đọng giữa lòng bàn tay nàng tiếp hơi ấm bàn tay, tỏa bụi nước ấm. Chút bụi trắng tinh lấp lánh giữa lòng bàn tay, Mỵ Nương đưa lên môi. Vị mặn của muối. Mỵ Nương mấp máy, gọi thầm: “Thủy Tinh! Thủy Tinh!…“.
Những giọt mưa Thủy Tinh ấy nhỏ bé, tí xíu mà vẫn trọn vẹn mang hồn biển, nên nó rây bột muối lên cả thành cửa sổ, làm mặn cả ngoài hiên… Và, dẫu chỉ có một ngày mà khiến quanh năm vách gỗ phía đông cứ ầm ì tiếng sóng. Chỉ riêng Mỵ Nương nghe thấu tiếng sóng ngậm trong các thớ vách gỗ ấy. Hằng giờ, hằng ngày, nàng áp má vào vách gỗ phía đông ấy, nghe, mà cồn cào tưởng đến biển, mà khát khao được thấy biển một lần…
Nàng đã không thể sống như đã sống.
Và Sơn Tinh – thần nhân trầm tư, chắc chắn, đầy khôn ngoan và thiên lương – thấu hiểu tất cả. Chàng không mảy may thấy lạ lùng, ! sửng s�! ��t. Nhưng nỗi niềm của Mỵ Nương là nỗi niềm của mỗi một người thường… Chàng chỉ thầm nhủ: “Rõ ràng bên cạnh những việc lớn bộn bề ta phải có trách nhiệm, phải để ý đến vợ ta hơn. Nàng đi đâu, chạy đến đâu, làm gì, hãy để nàng đi, nàng chạy, nàng làm, nhưng đừng để nàng thiếu ánh sáng chỉ có thể chiếu ra từ mắt ta, từ tâm não ta, ánh sáng chưa bao giờ vẩn đục, chưa một phút mờ ám. ánh sáng lúc nào cũng tinh khôi của núi, ánh sáng soi rọi mọi nẻo đường cho nàng, từ khi nàng về với ta”.
Rồi đến một buổi sớm quang mây, Sơn Tinh thấy Mỵ Nương đứng kề bên cửa sổ, chàng đứng sau cất tiếng gọi mà không nghe nàng trả lời… Có một ngọn gió thơm mát, không từ ngoài trời thổi vào, mà vừa từ trong phòng riêng này cộn lên và bay qua cửa sổ, tung tăng bay đi, chạy đi. Mắt Sơn Tinh bừng lên, sáng trong và khoan dung, dõi theo ngọn gió thơm đang chạy. Chàng biết: người thường giao duyên với thần nhân lâu ngày thì đến lúc nào đó, hội với khát vọng, cũng đủ sức phân thân. Ngọn gió ấy chính là Mỵ Nương đấy!
Trong ánh sáng trầm tư trong như lọc của núi, ngọn gió thơm mát bay dọc theo suối, ùa tới cánh đồng rộng, vập vào những triền đê cao vững chắc – những triền đê che chắn bình yên một thời, và cũng che khuất tầm mắt một thời – ngọn gió rướn lên, bay dọc triền đê, hồ hởi ào theo những con sông tới biển.
Biển mênh mông, xanh thẳm đến tận mí trời, cợn lên những cụm hoa trắng muốt, trải đến tận bờ đón ngọn gió nhỏ. Những tiếng rì rào khe khẽ lặn vào tĩnh mịch vô! biên! 230;
*
Người ở biển bảo tôi:
– Đó là những ngày đẹp trời.
Hết
Nguồn: truyenso.com
Thực hiện ebook: Metquathantanay
Thuvien-ebook.com
Hanoi, 27/10/2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét