Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

TreChamPhatTrien.html

Trẻ Em Chậm Phát Triển

   Phương Thức Giáo Dục và Dạy Dỗ

 

                                                 Gs. Nguyễn Văn Thành

 

MỤC LỤC

 

Lời mở đường

Trẻ chậm phát triển làm được gì ?

 

Chương một

Khám phá môi trường và thiết lập quan hệ gắn bó

 

Chương hai

Thiết lập quan hệ tiếp xúc và trao đổi qua lại hai chiều

 

Chương ba

Diễn tả xúc động và tình cảm. Khẳng quyết bản sắc của mình “Tôi là ai?”

 

Chương bốn

Tư duy trừu tượng – Khả năng suy luận

 

Lời nói kết

Bầu trời và vầng trăng của trẻ em

 

Tủ sách : Tình Người

© Tác giả : Nguyễn Văn Thành

Trình bày : Phan Đức Thông – Phạm Hồng Lam

Ấn loát : Monastère Notre Dame de Fatima

Orsonnens – Fribourg – Suisse

ISBN : 2-9700230-5-9

Lausanne – Thụy Sĩ, Hè 2004

 

Lời Mở Đầu

 

Trẻ chậm phát triển làm được gì?

 

 

Khi một trẻ em mang nhãn hiệu “Khuyết Tật Tâm Thần”  hay là “Chậm Phát triển”  xuất hiện trong môi trường gia đình cũng như tại lớp học, người lớn như cha mẹ, thầy và cô tự khắc đặt ra rất nhiều câu hỏi chồng chéo lên nhau:

– Khuyết tật hay là chậm phát triển có nghĩa là gì?

– Tại sao EM nầy mà không phải các em  khác?

– Cái gì đã gây ra tình trạng ấy?

– Em sẽ ra làm sao sau này ? Tương lai của Em sẽ như thế nào?

– Em làm được gì? Em có khả năng học hay không?

Không có tham vọng giải đáp mọi thắc mắc chung quanh vấn đề khuyết tật hay là chậm phát triển, tập sách này chỉ nhắm một điều rất cụ thể là : Từ giây phút tôi biết được một trẻ em mắc hội chứng chậm phát triển, với tư cách là cha mẹ hay là người giáo viên của Em, tôi làm được những gì cho đời của Em? Tôi có thể dạy Em những gì?

Câu trả lời của cuốn sách nầy thật đơn giản, bao gồm những trọng điểm sau đây:

Thứ nhất, dù khuyết tật tâm thần bắt nguồn từ đâu ; dù chậm phát triển ở cấp độ nào… trẻ em ấy là CON NGƯỜI giống như tôi, cần được tôi tôn trọng và yêu thương. Em đã sinh ra làm người. Em có quyền làm người, được cư xử, đãi ngộ như một con người toàn phần “đang thành và sẽ thành”.

Thứ hai, với trách nhiệm làm cha mẹ và giáo viên, tôi đại diện cộng đồng nhân loại để giáo dục và dạy dỗ Em thành người, với tất cả vốn liếng hay là hành trang Em mang theo trên mình, khi xuất hiện làm người.

Thứ ba, giống như tất cả mọi trẻ em khác, hành trang của Em bao gồm bốn nội dung khác nhau, nhưng bổ túc cho nhau:

– Khả năng tiếp nhận và thu hóa, bằng các giác quan, những tin tức do môi trường mang đến. Nhờ khả năng đóng và mở nầy, Em sẽ làm quen dần dần với môi trường sinh sống chung quanh và tạo quan hệ gắn bó với những người thân yêu, bắt đầu từ người mẹ của Em.

– Khả năng tiếp xúc và trao đổi với những người thuộc gia đình và xã hội.

 - Khả năng khẳng định bản sắc độc đáo của mình, bằng cách trình bày và diễn tả nhu cầu, nguyện vọng, sở thích…để kẻ khác tôn trọng, lắng nghe và đáp ứng.

– Khả năng tác động trên môi trường, bằng cách vận dụng tư duy, để khám phá những qui luật thực tế cần tôn trọng và tuân hành, cũng như những ước mơ cần thực hiện trong cuộc đời.

Tất cả vốn liếng nầy không đồng đều, giống nhau cho mọi trẻ em. Cho nên phương pháp giáo dục và dạy dỗ một trẻ em là BƯỚC THEO Em, khởi đầu từ những điều Em đang LÀM được, một cách tự nhiên, dễ dàng và thích thú.

Một cách đặc biệt, thay vì áp đặt từ ngoài một chương trình dạy dỗ, do người lớn đề xuất và dự phóng một cách hoàn toàn tùy tiện và lý thuyết, cha mẹ và giáo viên cần lắng nghe, đồng cảm với trẻ em. Với nhiều phương thức như  « tác hành , diễn xuất »  đời sống xúc động và tình cảm, hay là diễn tả bằng ngôn ngữ, Em trình bày cho người hai bên cạnh, nhu cầu, sở thích và nguyện vọng của mình. Khi khám phá những điều cơ bản nầy và tìm cách đáp ứng, một cách trung thực, thích ứng với hoàn cảnh và thực tế của cuộc sống, chúng ta sẽ làm cho trẻ em VUI THÍCH và SUNG SƯỚNG, TOẠI NGUYỆN và TỰ TIN.

Và khi có những động cơ ấy thúc đẩy  từ bên trong, trẻ em sẽ có khả năng vượt qua mọi trở ngại, để học tập, phát huy ÝTHỨC về mình, về người và về môi trường sinh sống chung quanh Em. Nhờ đó, mai ngày vào tuổi lớn khôn, ít nhất Em sẽ có một đời sống làm người tương đối TỰ LẬP, với sự hỗ trợ liên tục của toàn thể cộng đồng xã hội và Đất nước. Cơ hồ một ngày nào đó trong quá khứ, họ hàng, bà con xa gần đã góp phần nuôi ăn nuôi mặc cho Thánh Gióng, còn được gọi là Phù Đổng Thiên Vương.

Trong chiều hướng dạy dỗ và giáo dục như vậy, tôi sẽ lần lượt trình bày bốn nội dung học tập của một trẻ em chậm phát triển hay còn  được gọi là khuyết tật tâm thần, từ lúc Em sinh ra đến ngày khôn lớn :

Chương Một: Khám phá môi trường và thiết lập quan hệ gắn bó.

Chương Hai: Tiếp xúc và trao đổi qua lại hai chiều.

Chương Ba: Diễn tả xúc động và tình cảm cũng như trình bày, nối kết những ý tưởng lại với nhau.

Chương Bốn: Phát huy khả năng suy luận để làm chủ tình hình và khắc phục những vấn đề do cuộc sống đặt ra.

Tôi hy vọng tập sách nho nhỏ nầy sẽ là người bạn đồng hành trung tín và đáng tin tưởng cho những ai đang mang trọng trách làm cha mẹ và giáo viên của một trẻ em chậm phát triển… thuộc bất cứ diện nào…nhất là trong những ngày bão táp mây mù che khuất mọi lối đi…Xin họ nhớ cho rằng : trong gần 20 năm, tác giả cũng đã đi qua những chặng đường lầy lội, mà hiện tại họ đang đi qua. Và trong những tình huống éo le như vậy, nếu chúng ta biết nhìn và can đảm nhìn… thì thế nào cũng có một đóa hoa tuyệt đẹp xuất hiện đâu đó, trên những chặng đường chúng ta đang và sẽ đi qua.


Chương một

Khám phá môi trường

và thiết lập quan hệ gắn bó

 

1- Chia sẻ niềm vui chung :

 

Với những trẻ em chậm phát triển, việc quan trọng đầu tiên cần tổ chức và thực hiện là tìm cách chia sẻ niềm vui thích và sung sướng thực sự với các em, nhất là trong những điều các em đang làm một cách tự nhiên. Khi làm những điều như vậy, chúng ta đang thiết lập quan hệ gắn bó với các em. Lúc ban đầu, thời gian chia sẻ chỉ kéo dài một vài giây đồng hồ. Nhưng ngày qua ngày, thời lượng của niềm vui chung hưởng giữa Mẹ và con cũng như giữa trẻ em và người lớn sẽ kéo dài và dần dần tăng thêm mãi mãi.

 

2- Mở rộng năm giác quan, để khám phá môi trường.

 

Một cách cụ thể, khi trẻ em thức dậy, chúng ta tùy vào tình trạng của các em lúc ấy, để tìm cách mở rộng những giác quan của các em : như tới gần, di động qua lại, cho các em đưa mắt nhìn và theo dõi. Nói chuyện trầm bổng cho các em lắng nghe và làm quen với giọng nói của chúng ta. Đưa tay vuốt ve êm ái và thoa bóp nhẹ nhàng, cho các em học tập xúc cảm. Đó là những bài học tiếp xúc và trao đổi đầu tiên trong cuộc đời của các em.

Sau đó một vài ba ngày, người mẹ sẽ dần dần khám phá những sở thích của đứa con. Dựa vào những điều em thích, bà đánh thức em dậy, giúp em trở nên linh hoạt, mở rộng các giác quan, để khám phá những gì đang có mặt trong môi trường chung quanh. Cũng dựa vào điều em thích, bà mẹ dạy cho em biết tìm lại tình trạng thoải mái, thư giản và bình lặng… nếu em đang khóc la rộn ràng, múa động và căng thẳng. Khả năng tự điều hợp của đứa con bắt nguồn từ cách làm tự nhiên và đơn giản nầy của bà mẹ.

Ý thích thay đổi tùy cá tính của mỗi đứa con. Em này thích nghe âm thanh, tiếng động. Em khác thích cử động, đu đưa qua lại. Em thứ ba trở về tình trạng bình lặng, thư thái… nhờ ánh sáng ở mức độ điều hòa hay là bóng nắng rung rinh phản chiếu trên vách tường…

 

3- Lấy trẻ em làm khởi điểm, làm trung tâm qui chiếu :

 

Chính trẻ em là người gợi ý cho chúng ta phải bắt đầu từ đâu, cần làm những điều nào cho các em. Cho nên, thay vì áp đặt, lèo lái từ ngoài hay là chạy theo ý thích một cách tùy tiện, tùy hứng… chúng ta hãy biết học tập lắng nghe, quan sát, cảm nhận nhu cầu của trẻ em, phát hiện những ý thích hiện tại của các em. ĐI THEO các em. SỐNG giây phút hiện tại với các em, một cách tròn đầy và sung mãn. Thở nhịp thở với các em. Chơi trò chơi của các em. Đừng vọng động tìm cách dạy dỗ, kích thích, uốn nắn… Đừng đuổi bắt những tiêu chuẩn tiến bộ lý thuyết, do sách vở quảng cáo, tuyên truyền và nhồi sọ chúng ta.

Chỗ nào trẻ em đang cười vui, thích thú, linh hoạt, sống động… chỗ ấy đang có mầm mống tiến bộ.

Chỗ nào trẻ em đang sinh hoạt, hoạt động, theo mức độ hiện thời của các em, ở đó chúng ta  thiết lập quan hệ, bằng cách đến với các em. Trân trọng các em như là những chủ thể đang cho và nhận.

Đôi khi chỉ cần CÓ MẶT với các em, ngồi bên cạnh, chúng ta đã làm rất nhiều điều cho các em.

Đôi khi chỉ ngồi nhìn con với tâm hồn tràn đầy sung sướng, người mẹ đã mang tới cho các em một quà tặng quí giá.

Đôi khi chỉ bồng con đi quanh một vòng ra ngoài, cho các em nhìn trời, nhìn đất, nhìn mây, nhìn hoa lá người lớn đã tổ chức một bài học mang lại nhiều thành quả lâu dài.

Đôi khi chỉ bi bô, khi trẻ em bập bẹ, đó là tạo quan hệ tiếp xúc và trao đổi.

Đôi khi chỉ cầm tay, cầm chân, thoa bóp nhẹ nhàng… chúng ta đã khởi đầu một tiến trình học cầm, học chỉ trỏ với ngón tay, học bước đi của trẻ em.

 

4- “Nhưng con tôi không làm được gì cả” .

 

Có trẻ em thấy mẹ là ngoảnh mặt đi nơi khác, nhìn xuống…bà mẹ có biết rằng : khi đến cuối góc phòng, em dừng lại nhìn vách tường, nhưng hai lỗ tai em đang mở to, nghe ngóng, chờ đợi… bước chân của mẹ tìm đến với mình ? Và bước chân ấy đã không đi theo, vì buồn, vì không hy vọng một cái gì sẽ đến cho mình từ phía đứa con.

Với một trẻ bại não, bà mẹ có cảm tưởng nói chuyện với cỏ cây, gổ đá… nhưng bà có ngờ đâu, sau khi ghi nhận lời nói của bà, con bà đang huy động toàn bộ giác quan, để tìm cách trả lời. Và câu trả lời đang từ từ thành hình trong liếc nhìn kín đáo, trong một cử động rụt rè, sơ phác…Nhưng bà không ghi nhận được, vì bà đã đi nơi khác. Đã làm việc khác. Đã nghĩ đến chuyện khác.

Với một trẻ tự bế (ô-ti-xơm), theo cách nói của tác giả G. Bateson, “không tiếp xúc, trao đổi”  cũng là một hình thức tiếp xúc và trao đổi « theo kiểu của em » . Có lẽ em chưa hiểu được mẹ nói gì, nhưng em cảm nghiệm được « mẹ buồn, mẹ khổ, mẹ thất vọng », vì sự có mặt của em trong cuộc đời của mẹ. Em đặt tai xuống đất, để nghe đất rùng mình than thở. Em nhìn qua cửa sổ, để nghe tiếng gió ồn ào tranh cãi và khua động. Em sửng sờ nhìn ngắm vài ba hạt bụi ở giữa một khe hở của bàn ghế. Cho nên em đọc được tâm tư kín đáo đang ẩn núp đằng sau cánh cửa của tâm hồn.

Loại trẻ em nầy thấy những điều chúng ta không thấy. Nghe những điều chúng ta không nghe. Cảm những điều chúng ta không cảm… cơ hồ một người Mỹ, người Pháp đang ở với chúng ta, đang thăm viếng chúng ta. Không cần hiểu ngôn ngữ của họ, chúng ta vẫn có thể tiếp xúc và trao đổi. Khi mọi phương tiện đang bị bế tắc ở một khâu nào đó, chúng ta chưa tìm ra, chúng ta vẫn nói chuyện được với nhau, bằng tấm lòng… cơ hồ hai cô cậu mới yêu nhau, họ có khả năng ngồi với nhau hằng giờ, không cần nói với nhau một lời, mà vẫn hạnh phúc, sung mãn với nhau.

Cũng vậy, với những trẻ em nào đang mang đến cho cha mẹ, thầy cô nhiều thách đố khổng lồ, khó hóa giải, chúng ta hãy trở lui, tìm lại bước đầu tiên là « HẠNH PHÚC VỚI NHAU ».  Bắt đầu từ khởi điểm nầy, chúng ta sẽ có khả năng khám phá , sáng tạo một loại ngôn ngữ riêng biệt, độc đáo, để tiếp xúc và trao đổi. BIẾT TRỞ LUI như vậy, để tìm bàn đạp và điểm tựa vững chắc, rồi từ đó, đi lên lại từng bước, THEO BƯỚC CHÂN của trẻ em, đó là khoa sư phạm tuyệt vời và hữu hiệu nhất cho mọi loại trẻ em.

 

5. Ba loại vấn đề khó khắc phục:

 

5.1-Lặp đi lặp lại :

Có nhiều trẻ em « bị thúc bách » lặp đi lặp lại suốt ngày một cử chỉ, một câu nói, một điệu bộ… như quay cuồng nhiều vòng, nhún tới nhún lui từ trước ra sau, lấy một cọng cây rung qua rung lại trước mắt…

Ý nghĩa thứ nhất : Đó là một hình thức tạo an toàn cho chính mình, một cách làm chủ tình thế rất bị hạn chế và thu hẹp. Nhưng thà làm chủ một việc nho nhỏ, còn hơn là bị tràn ngập, mất mát trong một khung cảnh xa lạ, lớn lao, thoát khỏi khả năng kiểm soát và hiểu biết của mình. Thà rằng  « bơi lội bì bạch trong ao nhà đã quen », hơn là bị mất hút giữa một bãi bể mênh mông, trên đó mình không còn là gì cả, không nhận ra mình đang ở đâu.

Ý nghĩa thứ hai : Về mặt học tập, sở dĩ trẻ em lặp đi lặp lại, vì  các em không biết làm gì khác hơn. Không có một động lực nào  thúc đẩy, ngoài nhu cầu và ý thích được an toàn. Đây là điểm duy nhất, luôn luôn tồn tại cho mình bám víu, nương tựa, giữa một cuộc sống luôn luôn thay đổi.

Ý nghĩa thứ ba : Lặp lại là một cách « tự kích thích », một cách nối dài niềm vui độc nhất vô nhị của em, mặc dù đó là điều hoàn toàn vô nghĩa đối với kẻ khác.

Xu thế thông thường của cha mẹ và thầy cô, khi đối đầu với một trẻ em « cố thủ »  như vậy, là cấm đoán, cản trở em tiếp tục. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức một cách sáng suốt rằng : đây là niềm vui độc nhất của em ấy. Càng cấm cản, chúng ta càng củng cố và gia trọng hành vi ấy mà thôi. Thêm vào đó, khi đánh mất niềm vui nho nhỏ nầy,  em sẽ đánh mất tất cả chính mình. Đánh mất chính sự sống đang có mặt trong em.

Thay vì cấm cản, chúng ta sử dụng cách làm ấy như một nhịp cầu trao đổi. Với em, chúng ta bắt chước, cùng làm. Nếu em chấp nhận, em đã bắt đầu chia sẻ và cho phép chúng ta tạo quan hệ với em. Như trong một vũ khúc, chúng ta vừa làm phối nhân ĐI THEO. Vừa làm một thành viên CHỦ ĐỘNG hướng dẫn, bước tới. Trường hợp em từ chối, đó cũng là một cách em đang trả lời : em đóng lại cái vòng tròn mà chúng ta đã mở ra. Ví dụ một trẻ em đang cố thủ với một câu nói lặp đi lặp tới suốt ngày. Chúng ta cũng lặp lại câu nói ấy,  với một tốc độ khác, hay là ngân vang câu nói ấy  bằng một cung điệu trầm bổng như trong tuồng cải lương…

Trong mỗi tác phong của trẻ em, chúng ta cần phân biệt hai thành tố luôn luôn có mặt: Thành tố thứ nhất là phần vụ hay là chức năng của tác phong. Ở bên dưới của mỗi phần vụ, chúng ta sẽ khám phá nhu cầu hay là sở thích của trẻ em. Khi các em chưa có ý thức rõ rệt về mình, đó là một sức ép hay là một sức đẩy bật cưởng bức trẻ em phải làm, phải nói…Thành tố thứ hai là hành vi cụ thể và khách quan bên ngoài. Nếu chúng ta tìm mọi cách đáp ứng nhu cầu cơ bản của trẻ em, chúng ta sẽ dần dần thay đổi toàn bộ tác phong bên ngoài của các em.

Năm vừa rồi, em Kh. đã đến gặp các bạn và tôi tại lớp học này. Em thường hay nhìn lên cửa sổ, với một ánh mắt có vẽ sững sờ, bị thôi miên. Và trong tình trạng như vậy, em không còn nghe ai, không còn muốn thấy một vật gì khác. Nếu đây là phòng học và tôi là một giáo viên của em, tôi sẽ suy nghĩ chế tạo ra một tấm màn đen vào chỗ ấy. Khi em Kh. nhìn lên một cách sững sờ, tôi bấm nút kéo màn lại và mở ra. Tôi biến bức màn thành một trò chơi hấp dẫn cho em Kh. Và từ sở thích ấy, tôi sẽ dạy cho em Kh. biết bấm nút mở ra và đóng lại, theo ý muốn của em và bất cứ khi nào em muốn. Chừng nào em làm được điều ấy, em đã trở nên chủ thể, ý thức mình có khả năng tác động trên sự vật, để thay đổi sự vật.

 

5.2.-Tự kích thích

Vấn đề thứ hai là kích thích chính mình một cách máy móc và tự động, thậm chí làm hại mình, gây thương tích trên mình hay là đập đầu vào tường. Thông thường, đó là những hành vi nhằm bù trừ tình trạng CHẬM PHẢN ỨNG, vì thiếu liều lượng và cường độ kích thích cần thiết. Ngưỡng sơ khởi của loại trẻ em nầy rất cao. Cho nên các em tạo cho mình những loại kích thích mạnh, vượt ngưỡng sơ khởi. Cơ hồ càng uống rượu, chúng ta càng thích uống và càng nghiện những loại rượu mạnh.

Để lập quan hệ với loại trẻ em nầy, chúng ta tìm cách điều hợp nguồn kích thích cho trẻ em và đồng thời dạy em phương cách tự điều hợp, như trong ví dụ về em Kh. trên đây. Mục tiêu chúng ta nhắm thâu đạt với loại trẻ em nầy là tận dụng tối đa quan hệ vui thích và gắn bó tình cảm, để dần dần hướng các em đến một hành vi có ý nghĩa,  thuộc khả năng điều hợp và kiểm soát của các em. Người lớn đảm nhiệm vai trò trung gian, tạo nhịp cầu, để cho phép trẻ em bước qua một vùng kích thích mới mẽ và thích hợp hơn, so với cách làm « bị thôi miên và khống chế »  trước đây. Ý hướng xem ra rất đơn giản, về mặt lý thuyết. Nhưng trong thực tế, để thành tựu, chúng ta cần đầu tư rất nhiều sinh lực và thời giờ trong công việc chuyển hóa nầy. Họa may, trẻ em mới mở ra, đón nhận những kích thích từ môi trường bên ngoài. Lúc bấy giờ, em mới có khả năng học hành, tiếp thu, ghi nhận…

 

5.3.-Bùng nổ và tràn ngập trong lãnh vực xúc động

Khi trẻ em đã có những quan hệ gắn bó với người lớn và khi các em đã biết mở đóng, điều hợp năm giác quan của mình, để tiếp thu, ghi nhận và học hành ,  chúng ta lại phải đối đầu với những vấn đề « tràn ngập và bùng nổ »,  trong địa hạt xúc động và tình cảm, nhất là từ tuổi sáu tháng trở lên.

Trong khuôn khổ của lớp học đặc biệt, dành cho trẻ em khuyết tật tâm thần, các thầy cô có thể quan sát những hiện tượng sau đây:

Một, trẻ em hay tức giận, đánh đập bạn bè,

Hai, trẻ em có thái độ lệ thuộc, bị động, thiếu sáng kiến trong những công việc bình thường hằng ngày,

Ba, trẻ em có nếp sống xa cách, lạnh lùng, lủi thủi, chỉ chơi đùa một mình,

Bốn, trẻ em buồn bã, sợ sệt, hay ghen tương với bạn bè,

Năm, trẻ em lăng xăng, hiếu động, không biết dừng lại, khi đã mệt nhoài, thiếu khả năng tự điều hợp.

Hóa giải tình cảm và xúc động là một tiến trình học tập lâu dài. Càng khởi sự sớm, chúng ta càng giúp trẻ em thâu lượm những thành quả khả quan, lúc các em lên 9-10 tuổi. Trong cuốn sách bàn về « Giáo dục con cái » , tôi đã trình bày khá nhiều chi tiết liên hệ đến những bước đi lên, những cạm bẫy cần đề phòng. Ở đây, tôi chỉ nhấn mạnh một ít điểm then chốt như sau:

– Nói đến tình cảm và xúc động, chúng ta không phân biệt xấu tốt, để rồi sử dụng những biện pháp cấm cản, la rầy, trừng phạt…

– Chỉ trong trường hợp trẻ em có hành vi bạo động với chính mình và người khác, chúng ta cần lập tức cô  lập trẻ ấy và khẳng quyết một cách rõ ràng qui tắc hành động : “Chơi với bạn. Thương bạn. Cấm nhặt không được bao giờ đánh bạn” .

– Có mặt với trẻ em, cho phép em bộc lộ ra ngoài, theo từng cấp độ phát triển:

– bằng tác động, tác hành

– bằng trò chơi hay là diễn xuất,

– bằng ngôn ngữ, gọi tên hay là đặt tên,

– bằng hóa giải, chuyển biến…

– Sau khi trẻ em trở lại tình trạng bình tỉnh, nhất là với những em có ngôn ngữ, giúp các em khám phá nhu cầu và nguyện vọng  của mình. Với trẻ em còn thiếu ngôn ngữ, dùng cử chỉ, trò chơi giả bộ đi kèm theo lời nói.

– Nếu trẻ em đã gây thiệt thòi cho kẻ khác, yêu cầu các  em tái lập quan hệ và tìm cách hàn gắn, sửa sai, tùy theo cấp độ phát triển và hiểu biết .

 

6.- Những loại trẻ em khác nhau

 

6.1.-Trẻ em nhạy cảm, nhưng khó tập trung tư tưởng

Chập chờn, nhảy vọt từ vật nầy qua vật khác,

Không lưu tâm, chú ý đến một cái gì,

Chạy vòng quanh, lui tới, để tránh mọi tình trạng căng thẳng, tràn ngập.

Về mặt nhu cầu, trẻ em loại nầy cần an toàn tình cảm,

Các em thích lời nói nhỏ nhẹ,

Thích những xúc giác mạnh,

Thoải mái khi được vận động, nhào lộn, chạy nhảy.

 

6.2.-Trẻ em nhạy cảm và tránh tiếp xúc.

Thích chơi một mình,

Thích lặp lui lặp tới một điều, cho đến khi quen thuộc,

Không dám nhìn thẳng mặt, sợ tiếp xúc.

Với loại trẻ em nầy, cần dùng trò chơi « chận đường », để tạo quan hệ,

Dùng lời nói nhẹ nhàng, dịu hiền,

Tổ chức những loại sinh hoạt thư giản.

 

6.3.- Trẻ em chậm phản ứng, quá bình lặng và xa vắng.

Có thể đứng hằng giờ nhìn qua cửa sổ,

Trương lực cơ dưới trung bình,

Thường thường trẻ em thuộc diện nầy chậm phản ứng trong một địa hạt, nhưng lại nhạy cảm trong địa hạt khác,

Cho nên chúng ta cần nhạy bén, khám phá ý thích của các em,

Yêu cầu, khuyến khích các em tìm ra nhiều sáng kiến, trong chiều hướng ý thích của mình.

 

6.4.- Trẻ em chậm phản ứng, nhưng lăng xăng, hiếu động, rời rạc.

Chạy lăng xăng khắp nơi,

Đưa tay đụng đến mọi đồ vật,

Thích bỏ vào miệng đồ quen dùng,

Không thích tiếp xúc.

Chúng ta cần dùng trò chơi đuổi bắt, trốn tìm, để tạo quan hệ tiếp xúc với các em,

Tận dụng sở thích của các em,

Dùng những trò chơi đòi hỏi phải làm, phải chủ động như chơi trống, thổi kèn, vũ khúc…

Tổ chức nhiều sinh hoạt tâm vận động, với hai hoặc ba giai đoạn và động tác khác nhau, để trẻ em loại nầy có thể hội nhập, ghi nhớ những qui luật, những cách thực hiện đa dạng…

 


Chương hai

 

Thiết lập quan hệ tiếp xúc

và trao đổi qua lại hai chiều

 

 

Diễn Tả Nhu cầu và Ý  định

 

Trong giai đoạn Một, mục tiêu của hoạt động giáo dục là tìm cách tạo quan hệ gắn bó và thân mật với trẻ em. Nhờ đó, người lớn như cha mẹ hay giáo viên trở thành một phối nhân tích cực và quan trọng có ý nghĩa đối với các em. Cũng nhờ quan hệ nầy, trẻ em cảm thấy sự có mặt của người lớn là một thiết yếu cho cuộc đời, khả dĩ mang đến cho các em niềm hạnh phúc, sung sướng và hân hoan. Ngoài ra, trong quan hệ gắn bó nầy, hai thành viên không những có mặt với nhau, mà còn có ảnh hưởng trên nhau. Chẳng hạn, con nhìn. Mẹ đáp lại bằng nụ cười. Và khi mẹ nhìn, con đưa tay vuốt tóc của mẹ. Mỗi quan hệ “phát đi và nhận lại”  như vậy được gọi là một chu kỳ, một vòng tròn hay là một đơn vị trao đổi có mở và có đóng, có khởi đầu và có kết thúc.

 

1.- Quan hệ hai chiều

 

Qua giai đoạn Hai mang tên là TRAO ĐỔI HAI CHIỀU, đơn vị trao đổi được nhân ra từ một thành hai, và từ hai gia tăng lên mãi về mặt lượng cũng như về mặt phẩm. Hình thức hay là phương tiện, nhằm thể hiện và diễn tả quan hệ trao đổi, lúc khởi đầu, là nét mặt, liếc nhìn… Mỗi khi trẻ em làm một cử chỉ, một điệu bộ, chúng ta lưu tâm, ghi nhận và trả lời với tất cả nét mặt linh động, hoạt bát. Chúng ta còn có thể thêm vào những âm thanh trầm bổng, nhằm thúc giục, khuyến khích và kêu mời trẻ em mở rộng những cánh cửa giác quan được bao nhiêu hay bấy nhiêu.

Trên nguyên tắc, người dẫn khởi là trẻ em. Chúng ta tìm cách trả lời và nới rộng tầm hoạt động của các em, thay vì áp đặt và điều khiển từ trên và từ ngoài. Và như trước đây tôi đã nhấn mạnh, chính lúc trẻ em bít kín mình, từ chối hay là ngoảnh mặt nhìn qua nơi khác, các em cũng đang diễn tả, theo phương thức đặc thù và riêng biệt của em, một tâm tình, một nhu cầu hay là một ý thích. Chính người lớn hãy học tập khám phá cách nhạy bén, một vài dấu hiệu của sự sống đang có mặt và vươn lên, dù đó chỉ là một hơi thở ra, một nhịp tim, một thoáng cử động. Theo lối nhìn của Bác sĩ D. Winnicott, bao lâu trẻ em ở trong tình trạng thức tỉnh, các em đang chủ động, đang làm chủ thể. Nghĩa là đang SỐNG.

Thấy được điều cơ bản nầy, chúng ta sẽ hiểu được rằng: TẠO QUAN HỆ, trả lời cho một trẻ em từ 0 đến 6 tháng, bao gồm những điều rất đơn giản nhưng rất thiết yếu:

– Thứ nhất là có mặt một cách tích cực, đặt trọng tâm vào trẻ em, sẵn sàng ghi nhận những gì đang xảy ra nơi các em.

– Thứ hai là nói chuyện với trẻ em : Mẹ đang thấy, đang nghe, đang cảm nhận những gì bắt nguồn và phát xuất từ nơi con.

– Thứ ba là LÀM. Nếu chúng ta khám phá một nhu cầu, làm có nghĩa là đáp ứng nhu cầu ấy, theo điều kiện hiện tại do thực tế cung cấp. Nếu chúng ta ghi nhận những cử điệu, những âm thanh, làm là phản ảnh, diễn tả lại theo cách của chúng ta, những gì trẻ em đang thực hiện. Nhờ mẹ BIẾT LÀM như vậy, đứa con mới có cơ may LÀM NGƯỜI. Theo nhận định của hai bác sĩ chuyên trách về nhi đồng là B. Cramer và T.B. Brazelton, cách phản ảnh cơ bản nhất là “ĐỒNG ĐIỆU và HÒA ỨNG” , cơ hồ những ca sĩ và nhạc sĩ đang trình diễn một bản hòa tấu. Mỗi người, tùy vào giọng hát và tiếng đàn của mình, đều đóng góp phần tích cực. Nhưng không một ai hoàn toàn tự do chủ động. Và không một người nào ở thế bị động  một trăm phần trăm. Giữa trẻ em và người lớn, loại quan hệ đồng điệu nầy là điều rất cơ bản trong vấn đề dạy dỗ và học tập.

 

2.- Nhiều cách mở rộng quan hệ hai chiều

 

Để bắt đầu, chúng ta hãy khảo sát một ví dụ :

– Đứa con đang đưa tay lên gãi đầu.

– Thấy con làm như vậy, người mẹ đề nghị : con đang ngứa chỗ nào, tới đây mẹ gãi đầu cho.

– Đứa con quay mặt nhìn chỗ khác.

– Người mẹ đến trước mặt con, quì xuống ngang tầm mắt và nói : Mẹ thích ngắm nhìn con. Con của mẹ đẹp và có duyên lắm.

– Đứa con mỉm cười.

– Mẹ thoa đầu, vuốt ve cho con.

– Đứa con lại gần sát mẹ hơn.

Với những cách làm tương tự như vậy, chỉ trong chưa đầy một phút đồng hồ, hai mẹ con đã thay phiên nhau đóng và mở rất nhiều vòng trao đổi qua lại hai chiều. Ngoài cử chỉ đầu tiên do đứa con thực hiện một cách tình cờ, những cách trả lời tiếp theo, cùng một lúc có hai phần vụ : đóng lại một chu kỳ trao đổi và đồng thời mở ra một chu kỳ khác.

Khi kiến dựng những trao đổi như vậy, chúng ta cần tôn trọng một vài nguyên tắc điều hướng sau đây:

   – Tận dụng tối đa những sở thích hiện hành của trẻ em, trong lãnh vực giác quan : các em muốn nhìn gì, lắng nghe hay là phát ra những âm thanh nào, đang đưa tay đụng vào đâu…

   – Thay vì áp đặt ý định hay là sáng kiến của mình, chúng ta tìm đến với trẻ em, đi theo sáng kiến của các em.

   – Cho phép trẻ em dẩn khởi, chủ động hướng dẫn chúng ta càng nhiều càng tốt.

   – Với trẻ em có xu thế hay xa lánh, chạy thoát, tránh tiếp xúc, chúng ta sử dụng kỹ thuật chận đường, khuyến khích các em bộc lộ, diễn tả ý định, ý muốn, nhu cầu của mình.

Khi làm những điều ấy, chúng ta đang tìm cách tạo quan hệ trao đổi qua lại với trẻ em. Và khi cho phép các em làm chủ thể như thế, chúng ta đang tạo điều kiện thuận lợi, cho các em học hành, phát huy bản sắc của mình, tiếp thu những tin tức mới lạ,  do môi trường sinh thái cung ứng, nhất là trên ba bình diện Thấy, Nghe và Xúc cảm.

 

***

 

Lợi dụng mỗi sáng kiến của trẻ em :

 

Trẻ A đang nằm bất động trong một góc phòng.

Thay vì kêu em ra – và chưa hẳn em làm theo – cô giáo có thể mang đến cho em một tấm chăn, đắp lên mình em. Làm điều ấy, cô giáo hợp thức hóa hay là gọi ra ánh sáng một ý định hay là ý muốn có lẽ chưa rõ ràng, minh bạch, trong đầu óc của em. Mang đến tấm chăn, cô giáo đã tạo quan hệ với em, cho phép em làm điều em đã và đang làm.

Tiếp theo sau, cô giáo có thể bắt đầu chơi với em, bằng cách lấy tấm chăn trùm lên em, và hỏi :

– Cô đi tìm em A, cô không biết em A trốn ở đâu.

– Nếu A lấy tay cất tấm chăn, em đã bắt đầu trả lời.

– Trường hợp em vẫn nằm yên, cô giáo có thể đưa tay kéo tấm chăn và nói : Cu cù, em A ở đây…

– Nếu A chạy đi nơi khác, cô giáo lại tiếp tục trò chơi đi tìm. Khi em đi nơi khác như vậy, đó cũng là một cách em đang trả lời.

Trong lúc trao đổi như thế, chúng ta lưu tâm đến từng điệu bộ, từng phản ứng, từng nụ cười đang diễn tả niềm vui một cách kín đáo. Vừa ghi nhận những điều ấy, chúng ta phản ảnh lập tức cho em biết những gì em đã và đang thực hiện. Với thực tập và kinh nghiệm, người giáo viên có thể biến trường hợp nầy thành trò chơi trốn tìm hay là mèo chuột đuổi bắt nhau.

 

***

Đến với trẻ em, nhất là khi em có những hành vi máy móc, tự động, lặp đi lặp lại

Trẻ B có xu thế lắc lư thân mình từ sau ra trước. Thay vì cấm đoán, chúng ta có thể tìm cách tham dự, chia sẻ bằng nhiều hình thức khác nhau như :

   – Vỗ tay theo nhịp điệu lắc lư,

   – Cầm tay B và cùng lắc lư. Sau một hồi cùng làm, chúng ta chuyển hướng một cách kín đáo, từ mặt qua trái.

   – Hay là bảo B : Em có phép lắc lư. Nhưng vừa lắc lư, em vừa lau nhà, với cây chổi có cán dài nầy, cùng với cô.

   Mục tiêu của bao nhiêu cách làm ấy là:

   – Có mặt,

   – Gây ý thức, bằng cách phản ảnh,

   – Cho phép làm, cùng làm… Nhưng từ từ chuyển cái làm máy móc thành một công việc có ý hướng tạo niềm vui cho chính mình vàchia sẻ với người khác.

 

***

Kết hợp nhiều giác quan lại với nhau.

– Kết hợp màu sắc với các loại sinh hoạt. Ví dụ màu xanh : múa động, la hét, reo hò. Màu đỏ: dừng lại, đứng im, chờ đợi. Màu vàng : nhìn chung quanh, coi chừng.

– Kết hợp nhiều tin tức khác nhau về một con vật như chó, mèo và bò… có điệu bộ, tiếng kêu và hình vẽ thế nào ?

– Hình dung, gọi tên một đồ vật ở ngoài tầm mắt, chỉ tiếp xúc bằng tay mà thôi. Chúng ta có thể làm một cái hộc lớn có nắp đậy kín, khoét một lỗ tròn rộng vừa đủ cho bàn tay đưa vào và kéo ra. Chúng ta bỏ vào trong hộc ba vật dụng khác nhau như  cây bút chì, bàn chải đánh răng và cái muổng… Trẻ em đưa tay vào tìm lấy ra đồ vật được cô giáo kêu tên. Trẻ càng tiến bộ, chúng ta càng sử dụng những đồ vật có hình thể gần giống nhau và tăng lên dần dần số lượng của các vật được dùng. Nếu trẻ em chưa có ngôn ngữ, chúng ta sử dụng  hình vẽ hay là một vật tương tự : “Em đưa tay vào trong hộc tìm vật nầy cho cô, và lấy ra”.

 

***

Chính khi trẻ em ước muốn hay yêu cầu một điều gì, lợi dụng cơ hội để giúp các em học liên kết với nhau ba yếu tố như sự vật, tâm tình và hành vi:

 

– Con muốn gì?

– Đưa tay chỉ cho cô con muốn uống gì bây giờ ? Đây là sữa bò. Kia là nước cam. Nhìn cho kỷ và tìm cách chỉ cho cô biết ý con muốn uống gì ?

– Bây giờ cô đã biết ý con là muốn uống sữa. Nhưng đổ sữa vào đâu mà uống ? Con đi tìm cho cô đồ đổ sữa xem nào .

 

***

Khi trao đổi với trẻ em, chúng ta cần sử dụng mọi phương tiện để diễn tả một cách linh động : nét mặt, liếc nhìn, giọng nói, điệu bộ… Nói cách chung, chúng ta càng linh động, trẻ em càng dễ hiểu chúng ta. Chúng ta càng linh hoạt, trẻ em càng dễ chú ý.

 

3.-Với những trẻ em có nhiều khó khăn trong lãnh vực tiếp xúc.

 

Mục tiêu cần thường xuyên nhắm tới là tạo mọi điều kiện thuận lợi, để những trẻ em khó tiếp xúc có thể đáp ứng hay là bộc lộ ý định của mình.

 

***

Sáng tạo trò chơi CHẬN ĐƯỜNG

– Cố ý không hiểu, để các em tìm mọi cách trình bày, nhất là khi chúng ta đã biết các em muốn gì.

– Dùng trò chơi chận đường, tạo cản trở giữa các em và điều các em ước muốn.

– Tạo ra những hoàn cảnh đòi hỏi em phải tiếp xúc, diễn tả.

Ví dụ trẻ em đang chơi đánh đu. Chúng ta giả vờ làm cánh chim bay đến bên cạnh: « Làm ơn cho phép chim sơn ca nầy cùng đánh đu với bạn » . Nếu em từ chối, xô đẩy, chúng ta cự nự. Nếu em bằng lòng, chúng ta cùng chơi một lúc, rồi bảo em : « Ô, nhanh quá. Dừng lại thôi. Cô sợ lắm ». Chính khi trẻ em từ chối một cách cố tình, các em đã diễn tả ý định của mình.

Trường hợp trẻ em muốn tránh xa chúng ta, chạy từ nơi nầy qua nơi khác, chúng ta giăng hai tay chạy đuổi bắt, miệng làm tiếng mèo kêu ” meo meo” . Khi em dừng lại, chúng ta đưa hai tay đóng khung em lại, và nói : “Mèo này bắt được chú chuột rồi” . Nếu em vùng vẫy và chạy thoát, chúng ta khen em: “Chú chuột nầy bé mà mạnh quá”.

Với hai cách làm trên đây, chúng ta đã tạo điều kiện cho trẻ em đóng và mở nhiều vòng trao đổi với chúng ta. Chúng ta cũng có thể dùng tấm khăn lớn, đến gần, trùm lên đầu em và chờ em cất đi. Sau đó, cho phép em trùm đầu chúng ta.

 

***

Cho phép trẻ em tháo ra, lật đổ, gây tiếng động…

Có nhiều trẻ em có những khó khăn trong lãnh vực vận động, di chuyển… chúng ta mang lại gần những trò chơi kết ráp và cho phép các em tháo tung ra thành từng mãnh những gì chúng ta đã kết ráp. Cũng vậy, chúng ta dùng chất « mút » nhẹ làm ra nhiều tảng gạch lớn, có bọc vải lại. Sau khi cùng trẻ em xây lên một bức tường cao, chúng ta cho phép trẻ em lật đổ. Để kết thúc những trò chơi loại nầy, chúng ta yêu cầu trẻ em đi thu lượm và xếp đặt lại một chỗ với nhau, hay là xây cất lên một bức tường khác. Nói cách chung, chúng ta tập cho trẻ em để lại một quang cảnh có thứ tự, trước khi ra đi làm việc khác.

Trong tinh thần và ý hướng nầy, tất cả những điều trẻ em có khả năng làm  và thích làm, đều được chúng ta khai thác, tận dụng, nhằm giúp các em trở nên chủ động. Tuy nhiên, khi cho phép làm như vậy, chúng ta cần lưu tâm đến mục tiêu của giáo dục và dạy dỗ là XÃ HỘI HÓA hành vi của trẻ em, bằng cách từ từ đưa vào một số điều kiện học tập như : Làm với ai, làm ở đâu, làm thế nào, làm theo phiên của mình, bắt chước làm như người lớn, theo mẫu vừa mới được trình bày cho các em.

 

***

Khuyến khích diễn tả bộc lộ mọi loại tình cảm và xúc động :

Trong chương trình học hành hằng ngày, ấn định và tổ chức giờ sinh hoạt dành cho đời sống xúc động và tình cảm.

Cho phép trẻ em diễn tả dễ dàng những xúc động sau đây :

– Thích được gần gũi, bồng bế,

– Có quyền từ chối, tức giận, bày tỏ ý thích,

– Cười, vẫy tay, nhảy nhót …để bộc lộ niềm vui,

– Diễn tả bằng ngôn ngữ lòng ghen tức, khi người lớn âu yếm, săn sóc một con búp-bê, hay một em khác.

– Không cho chúng ta lại gần hay là bỏ chạy, nhằm khẳng quyết ý thích tự lập.

Một cách đặc biệt, khuyến khích, tạo điều kiện cho trẻ em bộc lộ những tâm tình đang còn bị dồn nén, cấm đoán hay là còn thiếu vắng trong các sinh hoạt hằng ngày của các em :

– Làm trò hề, chọc cười kẻ khác,

– Tổ chức trò chơi trốn tìm, hay là giấu trò chơi và bảo trẻ em đi tìm. Với trẻ em còn nhỏ, có cấp độ phát triển còn yếu, chúng ta đi giấu vật dụng trước mắt theo dõi của các em. Đồng thời, chúng ta đưa mắt quan sát trẻ em nào biết nhìn theo, lưu ý, ghi nhận…

– Khi trẻ em tức giận, bất bình, thay vì an ủi, dàn hòa, giải quyết những tranh chấp, xung đột …chúng ta hãy lợi dụng cơ hội, để giúp các em trình bày ý kiến, diễn tả ý muốn, ngoại hiện ước vọng của mình.

– Khi trẻ em buồn khóc, chúng ta lại gần, có mặt, lắng nghe. Tuy nhiên, không tìm cách an ủi, thoa dịu một cách bồn chồn, vội vã. Chúng ta chỉ chia sẻ nỗi buồn, phản ảnh, cho phép bộc lộ. Khuyến khích trẻ em tự giải quyết, theo mức độ hiện tại của các em.

 

4- Cử chỉ, điệu bộ dọn đường cho ngôn ngữ xuất hiện :

 

Để diễn tả tâm tình, ước muốn, ý định, nhu cầu… trẻ em bắt đầu sử dụng cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, liếc nhìn, tiếng khóc, trước khi có khả năng trình bày bằng ngôn ngữ.

Nói cách chung, để phát huy khả năng dùng phương tiện gián tiếp, hình tượng và trừu tượng, trẻ em phải đi qua giai đoạn bộc lộ một cách cụ thể, trực tiếp những ý hướng và sở thích của mình.

Nhiều trẻ tự bế đã có thể dùng ngôn ngữ. Nhưng ngôn ngữ của các em không phải là phương tiện trao đổi, diễn tả, tiếp xúc. Một trẻ em, có trình độ phát triển bình thường, đã biết đưa ngón tay chỉ điều mình mong muốn, sau một tuổi và trước hai tuổi. Trẻ ô-ti-xơm chưa có hay chưa biết dùng phương tiện nầy, để trao đổi với mẹ và các người lớn khác, lúc lên 3-4 tuổi. Cho nên, khi nói, các em chỉ lặp lại, không diễn tả, trình bày ý định và sở thích. Một số các em biết phát âm, nhưng chỉ phát âm cách may rủi, có khi đúng, có khi sai. Điều được phát âm không thích ứng với hoàn cảnh hiện tại.

Để trẻ em có thể sử dụng ngôn ngữ một cách thích ứng, tại lớp đặc biệt, người giáo viên cần tận dụng mọi hoàn cảnh cụ thể, nhằm khuyến khích, giúp đỡ các em diễn tả, trình bày ý nguyện của mình. Trước khi ăn, uống, chơi, người giáo viên trình bày hai hoặc ba chọn lựa khác nhau và kiên nhẩn chờ đợi cho đến khi trẻ em làm bất cứ một dấu hiệu gì bày tỏ ý kiến của mình. Trước khi trẻ em chạy ra ngoài, chúng ta chận đường hỏi em :  Em muốn ra ngoài để làm gì ?

Bao lâu người giáo viên chưa ý thức về tầm quan trọng của những điều cần học và cần dạy nầy, họ còn chưa hiểu trẻ chậm phát triển cần học gì, và chúng ta cần dạy gì, dạy thế nào, dạy vì mục đích gì…Một khi đã biết dùng tay, chân, điệu bộ, liếc nhìn, nét mặt… để diễn tả, trao đổi, trẻ em có thể sử dụng ngôn ngữ, với mục đích trình bày, thông đạt những gì đang có mặt trong nội tâm, như nhu cầu, ước muốn. Với cách HỌC NÓI có tiến trình và thứ tự nầy, lời nói mới trở thành  DỤNG CỤ TRAO ĐỔI hữu hiệu.

 

5-Lưu tâm đến vấn đề riêng biệt của mỗi trẻ em :

 

5.1.- Trẻ em loạn thính :

Nhiều trẻ em có khả năng thu nhận âm thanh, nhưng không hiểu ý nghĩa của âm thanh. Rối loạn nầy nằm ở khâu thuyên giải, nghĩa hiểu được ý nghĩa của lời nói. Rối loạn nầy trực thuộc đời sống nội tâm. Cũng như trong vấn đề ĐỒNG CẢM, nhiều trẻ em thấy mặt mẹ, nhưng không đọc được ý nghĩa vui buồn, tức giận, sợ hải… trên nét mặt hay liếc nhìn của mẹ. Ghi nhận âm thanh hay ghi nhận hình ảnh, đó là vai trò của các giác quan, khi tiếp xúc với các sự vật cụ thể và khách quan bên ngoài. Thuyên giải, trái lại, đó là một trong những phần vụ của nội tâm, khi trẻ em hiểu được giọng nói của mẹ khác với những âm thanh khác. Cũng nhờ khả năng thuyên giải, các em biết phân biệt nhiều ý nghĩa trong cùng một giọng nói của mẹ : giọng la rầy, giọng lo sợ, giọng an ủi dỗ dành.

Để giúp đỡ loại trẻ em loạn thính, chúng ta cần kết hợp âm thanh và hình ảnh lại với nhau. Khi nói, chúng ta cần dùng thêm nhiều cử chỉ, dấu hiệu, điệu bộ.

Và khi tiếp xúc trao đổi với các em, chúng ta cần ghi nhận những điểm thiết yếu sau đây :

– Tìm hiểu ý định và ý muốn của các em, nhờ vào những dấu hiệu rất kín đáo và tế vi như nụ cười, nét mặt, cử chỉ.

– Khuyến khích các em khám phá, mạo hiểm, dám làm.

– Vừa nói vừa dùng điệu bộ rõ ràng.

– Điệu bộ, cử chỉ là chính. Lời nói chỉ đi kèm theo. Khi trẻ em đã có nhiều tiến bộ trong ý hướng tiếp xúc và trao đổi, bấy giờ chúng ta mới thử nghiệm vấn đề sử dụng lời nói, không có điệu bộ đi kèm theo.

– Ở trường cũng như ở nhà, cha mẹ và giáo viên cần thống nhất một số dấu hiệu về những nhu cầu cơ bản, trong cuộc sống hằng ngày.

– Tận dụng những hình ảnh, để làm nhịp cầu trao đổi. Sáng tạo một tập hình làm con thoi liên lạc giữa gia đình và trường học. Dựa vào đó, trẻ em có thể kể lại cho giáo viên những gì các em đã làm ở nhà, hay là kể lại cho cha mẹ về chương trình sinh hoạt ở lớp học.

– Khi tiếp xúc, cần dùng nhiều cử chỉ âu yếm, thân mật, để bù trừ những thiếu sót trong địa hạt âm thanh, về mặt bộc lộ tâm tình.

– Nói cách chung, cần tạo ra nhiều vòng tròn tiếp xúc. Cách làm nầy sẽ mang lại nhiều thuận lợi, cho phép ngôn ngữ từ từ xuất hiện, một cách tự nhiên, theo những giai đoạn phát triển của trẻ em.

 

***

5.2.- Trẻ em loạn thị :

Loại trẻ em nầy không có hình ảnh rõ rệt về sự vật và khung gian xa gần. Nhiều hình ảnh không ăn khớp với nhau. Cho nên, các em thường có cảm giác xa lạ, không nhận ra được mình đang ở đâu. Trong khi bị lạc đường, nếu chúng ta nghe được tiếng người quen thuộc gọi, chúng ta sẽ an tâm. Cũng vậy, trẻ em nầy cần nghe chúng  ta hướng dẫn từ xa. Nhờ cách làm nầy, chúng ta sẽ giúp trẻ em có những sơ đồ tâm lý, những loại bản đồ đơn giản, rõ ràng ở bên trong nội tâm. Và khi bị rối loạn về hình ảnh, các em sẽ biết lắng nghe « lời chỉ dẫn »,  ở bên trong nội tâm. Đó cũng là những tấm bản đồ bằng âm thanh.

 

***

5.3.-Trẻ em có nhiều khó khăn trong vấn đề vận động (diện bại não):

Bị hạn chế trong vấn đề vận động, như quay đầu về phía tiếng động, đưa mắt theo dõi những cử điệu hay là những bước di chuyển của mẹ, loại trẻ em nầy không thể kiến dựng một cách dễ dàng hình ảnh toàn diện, có ba chiều kích ( cao, dài và rộng ), về các sự vật. Các em không thể thu lượm nhiều tin tức hoặc dữ kiện từ nhiều vị trí khác nhau, như từ trên, từ dưới, từ trước, từ sau.

Một trở ngại lớn lao thứ hai, rất khó khắc phục, cho loại trẻ em nầy, là vấn đề trao đổi, diễn tả những ý định và ước muốn của mình. Chẳng hạn, muốn được mẹ bồng, những trẻ em nầy cần mất nhiều thì giờ, để thực hiện cử động « giăng tay về phía »  mẹ. Khi các em đạt được kết quả mong muốn, bà mẹ đã đi nơi khác, hay là ngoảnh nhìn nơi khác, không còn có mặt, để ghi nhận ý hướng và đáp ứng nguyện vọng của đứa con.

Thêm vào đó, vì cử điệu thiếu tính thích ứng, mềm dẽo và chính xác, người đối diện có thể hiểu lầm, thuyên giải lệch lạc ý định của trẻ em. Chẳng hạn, khi đưa tay muốn diễn tả một cử chỉ âu yếm « vuốt mặt ba »,  trẻ em lại vụng về, va chạm mạnh vào mắt hay là lỗ mũi… Cho nên, người cha lại ngộ nhận : Đứa con không thích mình. Nó ghét mình…Dần dần, người cha không còn có mặt và tiếp xúc với con.

Để giúp đỡ những trẻ em nầy có cơ hội và điều kiện diễn tả mình, cha mẹ hay người giáo viên cần vận dụng tối đa khả năng đồng hóa, đồng cảm với các em. Đặt mình vào vị trí của các em và sáng tạo những cách làm chính yếu sau đây:

– Liệt kê một số cử điệu dễ dàng, đơn sơ mà trẻ em đã thực thi mỗi ngày. Cùng với trẻ em, chúng ta khoác vào đó một ý nghĩa ổn định và rồi chia sẻ, thông báo cho mọi người có quan hệ với trẻ em, để họ cùng sử dụng như chúng ta.Ví dụ : “Mỗi lần con cười như con đang làm, mẹ hiểu là con thích, con bằng lòng. Khi con nhìn xuống như vậy, mẹ hiểu là con không muốn” . Và từng ba tháng, cha mẹ và giáo viên gặp nhau, cập nhật hóa những điểm qui ước nền tảng ấy. Thêm vào những cách làm mới. Hủy bỏ những gì không còn giá trị

– Sau khi đã có những ước định cơ bản như vậy, tạo nhiều cơ hội trong ngày, để trẻ em chọn lựa, sử dụng cách làm của mình. Ví du : “Khi con BẰNG LÒNG, con làm thế nào cho mẹ biết? Và khi con không muốn, con diễn tả làm sao?” Chúng ta có thể từ từ sử dụng những hình vẽ, để trẻ em đưa tay cầm lấy hay là chỉ cho chúng ta hay biết điều mà các em ước muốn, chọn lựa. Nếu chưa chỉ được, các em cần đặt bàn tay lên tấm hình.

– Khi trẻ em sử dụng những qui ước, để trao đổi, diễn tả, chúng ta cần trả lời tức khắc, để cho các em hiểu rằng “việc các em làm có kết quả thực sự”. Nói cách khác, các em sẽ phát huy ý thức mình là nguyên nhân có thể tạo ra kết quả. Lòng tự tin sẽ xuất hiện. Và càng tự tin, trẻ em sẽ dám trao đổi, diễn tả, trình bày ý định của mình.

– Một cách đặc biệt, trong lãnh vực xúc động và tình cảm, quan sát và liệt kê những cử điệu diễn tả những xúc động chính yếu như buồn, sợ, lo, tức, vui sướng, bằng lòng…Và khi trẻ em làm những cử điệu ấy, chúng ta dùng ngôn ngữ, để phản ảnh lập tức tâm trạng củ


Chương ba

 Diễn tả xúc động và tình cảm-Khẳng quyết bản sắc của mình

“tôi là ai ?”

  1- Trò Chơi GIẢ BỘ

Khi trẻ em lấy vỏ sò, vỏ hến làm chén đĩa, và dùng mọi thứ lá xanh đỏ tím vàng… trong vườn nhà, để làm nhiều món ăn cao lương mỹ vị, các em đang diễn lại những ngày kỵ giỗ trong gia đình hay là những buổi lễ hội trong làng xã, mà các em đã có dịp tham dự và chứng kiến. Khi nhiều trẻ em tụ họp lại để vui đùa, trò chơi giả bộ là phương tiện để các em học tập phân chia công tác, tổ chức đời sống xã hội, phác họa lại tất cả những biến cố quan trọng đã thực sự xảy ra trong thế giới người lớn. Khi chơi như vậy, một đàng các em hiểu biết rõ ràng rằng : bao nhiêu món ăn soạn ra không phải là món ăn thực sự. Cho nên, không một trẻ em nào bỏ vào miệng để nhai và nuốt. Các em chỉ phác họa cử chỉ đưa lương thực lên miệng, và mời nhau ăn mà thôi. Đàng khác, mỗi em đều tham dự cuộc chơi một cách rất nghiêm chỉnh và đứng đắn.

Nhờ trò chơi giả bộ, các em hình dung, tưởng tượng, nhớ lại, tổ chức, sắp xếp, tiên liệu… Nói được mọi thành tố của tư duy trừu tượng đều có cơ hội phát huy và triển nở.

Điều kiện tiên quyết tạo nên khuôn khổ để trẻ em có khả năng tổ chức trò chơi giả bộ là sự xuất hiện của những ý tưởng trừu tượng trong nội tâm. Những ý tưởng nầy được rút tỉa từ thực tại, do các giác quan ghi nhận và kết tạo lại thành thực thể tâm linh. Thực tại bên ngoài như lá cỏ, sò hến… chỉ đóng vai trò đại diện, thay thế một thực tại cụ thể không có mặt ở đây và bây giờ. Chẳng hạn khi trẻ em đang chơi đám giỗ với nhau, đám giỗ là một biến cố thuộc quá khứ. Hay đó còn là một ước mơ cho tương lai sắp tới sau này.

Những trẻ em nào không có vấn đề chậm phát triển, sẽ có khả năng tổ chức trò chơi giả bộ, một cách rất tự nhiên, tự phát, sau khi đã nắm vững những cơ bản về khả năng trao đổi, tiếp xúc qua lại hai chiều, chung quanh 3 tuổi rưởi. Trái lại, đối với trẻ em thuộc diện khuyết tật tâm thần, từ bại não cho tới hội chứng tự bế, hay là rối loạn sắc thể số 21… nguời lớn như cha mẹ, giáo viên cần phải can thiệp, dạy dỗ, đóng vai trò bắc cầu, làm trung gian, họa may các em mới từ từ phát huy và thành đạt khả năng GIẢ VỜ, LÀM BỘ, giống như một trẻ em phát triển bình thường, ở vào lứa tuổi từ 3 đến 5 năm.

Điều khó khăn nhất trong trò chơi giả bộ là vai trò hay là phần vụ  hình tượng của các sự vật được sử dụng. Trẻ em thường xuyên đưa thoi giữa hai bình diện : thực tế và tưởng tượng, bên ngoài và nội tâm. Lá cây trở thành các món ăn như tôm, chả, cá, thịt. Đá trở thành bánh kẹo đủ mọi loại. Vỏ óc và sò trở thành bát, đĩa. Đây không phải là vấn đề lẩn lộn giác quan, còn được gọi là lầm tưởng. Ví dụ, giữa ánh trăng mờ nhạt của đêm khuya, nhìn khúc giây thừng, tôi ngờ đó là con rắn. Trái lại, trò chơi giả bộ đòi hỏi nơi những trẻ em tham dự, ít nhất ba khả năng đã thuần thành :

– Thứ nhất là khả năng nhận thức của giác quan. Khi nhìn ngọn lá, trẻ em biết đó là ngọn lá. Khi giả bộ đưa lên mệng ăn, các em biết rõ ràng lá không phải là của ăn thực sự. Trẻ em ở trong thực tế, không hoang tưởng. Khi có những rối loạn về giác quan, như tôi đã trình bày trong chương trước đây, trẻ em sẽ không có những phân biệt bén nhạy như vậy. Các em có thể ghi nhận sai những tin tức khách quan cụ thể. Đàng khác, trong vấn đề hiểu biết và thuyên giải,  các em có thể lầm tưởng cái nầy với cái kia.

– Thứ hai là khả năng tiếp thu và lưu giữ những kinh nghiệm phong phú đã xảy ra trong quá khứ. Ý niệm về thời gian với ba chiều kích – quá khứ, hiện tại và tương lai – đã bắt đầu có mặt trong nội tâm của các em. Chẳng hạn khi chơi kỵ giỗ, các em hình dung lại những cơ hội mà các em đã tham dự hay là chứng kiến trước đây, và bây giờ những kỷ niệm ấy còn sống động và tạo ảnh hưởng trong tâm tư của các em.

– Thứ ba là nối kết những hành động hiện tại với bao nhiêu hình ảnh có liên hệ mật thiết với nhu cầu, ước mong, ý thích và dự phóng của các em. Chẳng hạn, khi chơi kỵ giỗ, các em gợi lại ít nhất hai ý thích là được ăn của ngon, vật lạ và được gặp lại rất nhiều bà con .

Chính vì ba lý do quan trọng vừa được trình bày, trò chơi giả bộ còn mang tên là trò chơi hình tượng, bởi vì nó chất chứa, tàng trử nhiều tầng lớp ý nghĩa có liên hệ mật thiết với đời sống tình cảm của những người tham dự. Giống như trong một giấc mơ, nhờ trò chơi giả bộ, trẻ em đang diễn tả những ước vọng thâm sâu của mình và thể thức các em hình dung, dự tưởng,  nhằm giải quyết những trăn trở, khắc khoải do cuộc sống tạo ra. Thêm vào đó, xuyên qua việc tiếp xúc, trao đổi và cách xử trí với nhau, tính tình của mỗi em xuất đầu lộ diện, với những đường nét độc đáo và riêng biệt. Trẻ nầy thích điều khiển, làm chủ nhà. Trẻ kia thích những điều quen thuộc như quét nhà, nấu ăn, soạn bàn.

2- Để giúp trẻ em học tập và phát huy khả năng giả bộ :

Trong lãnh vực trò chơi hình tượng, cũng như trong địa hạt tiếp xúc và trao đổi, chúng ta luôn luôn khởi đầu với một hành động có sẵn của trẻ em. Tiếp theo đó, chúng ta đưa vào từ từ một yếu tố giả bộ.

Ví dụ một:

Trẻ em đang chơi với con búp-bê của mình. Chúng ta đến với một con búp-bê khác. Sau một hồi lắng nghe, quan sát, chúng ta cho con búp-bê của chúng ta vào đề, với một giọng nói hơi khang khác giọng nói bình thường của chúng ta:

– Xin lỗi, bạn tên gì nhỉ? Mình tên Xuân. Cho phép mình đến chơi với bạn, được không ? Bạn đang làm gì đó?

 Trường hợp trẻ em trả lời, chúng ta tùy vào hoàn cảnh để tiếp tục, sáng tạo. Nếu sau hai ba câu hỏi, trẻ em vẫn không trả lời.

– Bà ơi, sao con bà không trả lời cho cháu?

Truờng hợp trẻ em vẫn im lặng.

– Mẹ ơi, con buồn, con muốn chơi với bạn trước mặt. Bạn không trả lời cho con. Mẹ xin giùm cho con đi.

Theo nhịp điệu và cách thức ấy, chúng ta tiếp tục gợi ra ý kiến. Nếu trẻ em vẫn không phản ứng, chúng ta không quá nài nỉ. Hãy chờ đợi một dịp may khác. Sau nhiều lần làm quen, có lẽ trẻ em mới trả lời.

Ví dụ hai:

Trẻ em đang chơi xe. Chúng ta đến với con búp-bê, đưa tay chận lại và nói :

– Bà làm ơn chở cháu đi bệnh viện. Cháu ho quá nặng.

Nếu là em trai đang chơi xe, chúng ta dùng một chiếc xe khác, hay là một khúc gỗ làm xe, đụng vào xe của em.

– Ông này lái xe nhanh qua. Xuýt nữa gây tai nạn.

Ví dụ ba :

Chính lúc trẻ em đói bụng, xin ăn hay uống. Chúng ta bình tĩnh soạn ra một số vật liệu có sẵn, giả vờ làm kẹo bánh và nước cam. Sau khi soạn xong, chúng ta bắt đầu giả bộ ăn .

– Ngon quá, bánh này mẹ mua sáng nay ở chợ Bến Thành. Con ăn thử xem, có ngon không ?

Nếu trẻ em từ chối, chúng ta bảo em:

– Con chơi giả bộ một chút xíu. Sau đó, mẹ cho con ăn bánh thật, mẹ mua sáng nay.

Ví dụ bốn :

Khi có hai ba em, chúng ta mời :

– Mời Ông Bác sĩ uống trà.

– Mời Bà Y tá ăn bánh kẹo sô-cô-la.

– Mời Bác Công An ly nước cam sành.

Chúng ta gán cho mỗi trẻ em một chức vụ khác nhau, giống như những người láng giềng, trong cùng một khu phố hay thôn xóm.

Ví dụ năm :

Giữa lúc trẻ em chơi, chúng ta nhập cuộc, như một nhân vật của trò chơi, nói với con búp-bê của trẻ em , thay vì nói thẳng với trẻ em. Hay là chúng ta nói thay con búp-bê của trẻ em : Tôi đói quá. Tôi thèm ăn kẹo. Bạn thèm ăn gì bây giờ? Bạn  thích uống sữa  hay là trà đường ?

Giữa lúc trẻ em đang chơi xe:

– Bạn đang lái xe đi đâu vậy? Mình muốn đi Sở Thú. Cho mình đây quá giang, được không?

 ***

Khi trẻ em cứ lặp lui lặp tới một trò chơi.

Sau một hồi quan sát, chúng ta thử đưa vào một ý hướng mới, nhưng vẫn tôn trọng chủ đề hiện tại của trẻ em.

Chẳng hạn, trẻ em cứ chơi mãi hoài với xe chữa lửa và thấy đám cháy khắp nơi. Chúng ta biến mình làm chủ nhà có con mèo bị kẹt vướng trên một cành cây. Chúng ta điện thoại gọi xe chữa lửa đến đem con mèo xuống.

Vào tiệm ăn, các em cứ gọi lui gọi tới « chè bắp » . Chúng ta làm cô bán hàng :

-  Thưa Bà, cháu hết chè bắp rồi. Bà có mua bánh ngọt không ? Cháu cũng có sữa cho con của Bà, Bà mua sữa giùm cháu đi.

Trẻ em cứ đặt lui đặt tới con búp-bê vào giường ngủ. Chúng ta tới làm con búp-bê từ chối :

– Không, không. Ngủ đủ rồi. Không ngủ nữa. Thôi, đi dạo Sở Thú đi. Đi xem voi, xem cọp…

                                                   ***

Thoảng hoạt đưa vào trò chơi những VẤN ĐỀ thường ngày, những ý tưởng TRANH CHẤP và XUNG ĐỘT.

 Trẻ em đang chơi « Bác sĩ khám bệnh » :

Chúng ta mang tới con búp-bê từ chối không muốn vào khám.

* Thưa Bác sĩ, con tôi không nói được, nhờ Bác sĩ khám giùm. Ban đêm, cháu không ngủ. Cháu khóc nhè suốt ngày. Tôi cần làm gì?

Trẻ em đang chơi nấu ăn:

Khi con búp-bê của trẻ em mời ăn kẹo, con búp-bê của bạn từ chối.

* Thu này không ăn kẹo đâu. Thu này muốn ăn kem mà thôi. Đi mua kem cho Thu ăn đi.

Nhờ đưa vào những ý tưởng chống đối nầy, chúng ta có cơ hội phản ảnh cho trẻ em thấy được chính mình em và sau đó chúng ta lắng nghe cách thức em đề nghị giải quyết, trong trò chơi của em.

Đó cũng là một thể thức hành động, nhằm giúp trẻ em trở nên mềm dẽo và linh động hơn, biết học tập thích nghi với bao nhiêu vấn đề và nhất là với bạn bè khó tính trong cuộc sống hằng ngày.

 ***

Khi trẻ em chưa nói hay còn nói rất  ít :

Chúng ta dùng một vài câu, một vài từ rất ngắn và gọn, nhằm phản ảnh công việc em đang làm. Một cách đặc biệt, chúng ta lưu tâm nối kết ba yếu tố lại với nhau như  Ngôn Ngữ, Hành Động đang diễn tiến trong trò chơi và TÂM TÌNH XÚC ĐỘNG của trẻ em như vui sướng, hạnh phúc, bằng lòng, buồn nhớ mẹ, ghét và giận…Với phương thức phản ảnh, dần dần chúng ta tập cho trẻ em làm quen với những xúc động, công việc, đồ vật và những kinh nghiệm thường ngày.

 ***

Thương lượng :

Trẻ em càng tiến bộ về mặt ngôn ngữ, chúng ta càng tập cho các em biết thương lượng, bằng cách đặt ra những câu hỏi có liên hệ đến ý định và ước mong của các em.

Trẻ em muốn ra vườn.

– Tại sao em muốn ra vườn?

– Ra vườn để làm gì?

– Tại sao em ra bây giờ, mà không đợi ba về và cùng ra với ba.

Càng biết trả lời, trẻ em càng phát triển ngôn ngữ. Điều quan trọng hơn nữa là trẻ em biết suy nghĩ về hành động của mình. Và với cách làm nầy, trẻ em càng ngày càng phát huy tư duy hình tượng và trừu tượng của mình, nhờ  biết HÌNH DUNG những điều sắp làm.

Thay vì phản ứng bốc đồng, do hoàn cảnh bên ngoài thôi thúc, trẻ em từ từ thay đổi chiều hướng hành động : bắt đầu từ trong nội tâm. Các em ý thức mình có ý định làm gì, thích cái gì. Khi khởi sự từ bên trong như vậy, trẻ em sẽ dần dần phát huy đời sống tư duy, biết suy nghĩ trước khi hành động, biết đánh giá hành động.

 Ví dụ: Trẻ em không muốn đi ngủ.

Phương pháp cỗ điển : cầm tay kéo nó vào giường và tắt đèn.

Thay vào đó, chúng ta dùng phương pháp thương lượng : lắng nghe ước muốn và nhu cầu của em, chính lúc ấy. Sau khi hiểu biết, đồng cảm với em, chúng ta có thể đề nghị một lối đáp ứng khác, nhưng vẫn cương quyết về giờ đi ngủ.

– Sáng mai, sau giờ học bài, con có thể xem Tivi, ba sẽ mở chương trình Zôrô cho con. Nhưng bây giờ, đi ngủ như em con. Ba cũng tắt đèn, đi vào phòng trong với con.

3. Ba bước đi lên trong tiến trình học nói :

Bước Một : Phát âm một cách tùy hứng, gặp đâu nói đó, nhớ gì thì phát ra một cách lộn xộn, chưa hẳn phản ảnh những gì đang có mặt trong môi trường chung quanh. Trẻ em nói : “Trời mưa” . Đang khi đó, chưa hẳn trời đang mưa . Trẻ em giống như một người mới học một ngoại ngữ, gặp hay nhớ một vật gì, thì tìm cách nói ra một từ ngoại ngữ có liên hệ đến vật dụng ấy.

Bước Hai : Phát âm nhằm diễn tả, trình bày ước muốn và ý định của mình. Chẳng hạn một người vào tiệm ăn, ở nước ngoài. Vì họ đói, họ muốn ăn, họ tìm mọi phương tiện để diễn tả mình muốn gì. Có khi họ dùng chỉ một từ. Khi khác, họ đưa tay làm dấu. Hay là họ tìm cách vẽ ra điều họ muốn ăn.

Bước Ba . Phát âm để trao đổi qua lại, thương lượng. Chẳng hạn hôm ấy bạn vào một tiệm ăn ở Thụy Sĩ, nhân một chuyến đi công du. Bạn thèm ăn hột vịt lộn. Cô tiếp khách trả lời cho  bạn : không có trứng lộn trong tiệm ăn ở Thụy Sĩ. Nếu bạn có khả năng ngôn ngữ, sau khi bạn trình bày ý muốn, bạn tìm hiểu thực tế của người đoi diện, nhất là khi họ không có điều kiện đáp ứng lời yêu cầu của bạn. Làm được những vòng trao đổi qua lại như vậy, để diễn tả mình, tìm hiểu người, và cuối cùng đi đến một sự đồng ý; đó là  nội dung và ý nghĩa của thương lượng. Thay vì làm như vậy, bạn có thể tức giận, bất mãn bỏ đi, tìm quán ăn khác. Thêm vào đó, bạn còn có thể phê phán : Thụy Sĩ thật quê mùa, mọi rợ. Không có một tiệm ăn nào có khả năng cung ứng cho bạn bốn chiếc vịt lộn. Đương khi đó, tại Thành phố Sài Gòn, bạn chỉ cần đi ra ở đầu đường, bạn có thể mua hằng chục tá…Chừng ấy nhận xét chứng minh một điều: học nói chỉ có lợi ích thực sự, khi ngôn ngữ cho phép chúng ta trao đổi, thương lượng, hiểu biết nhau. Và đơn vị trao đổi thương lượng đầu tiên là CHO và NHẬN. Nói đúng hơn, cho để nhận. Nhận để cho.

Trong chiều hướng ấy, thay vì ép buộc trẻ em lặp đi lặp lại từ nầy qua từ khác, như keo vẹt sáo cưởng, chúng ta hãy trao đổi với trẻ em :

* Con muốn gì? Xin gì?

* Đi tìm và mang lại cho mẹ cái muổng.

* Con biết mẹ đang cần gì không?

* Con thích mẹ bồng con đi chơi, phải không?

* Bây giờ, mẹ bận. Ba về, hai mẹ con sẽ đi chơi một vòng.

Nếu chúng ta ngày ngày xoáy lui xoáy tới bài học trao đổi, tạo quan hệ ấy, trẻ em thế nào cũng trở thành một chủ thể có khả năng sử dụng một phương tiện tiếp xúc. Và phương tiện nầy chưa hẳn là ngôn ngữ có lời. Trong cuộc sống, còn nhiều ngôn ngữ không lời thích ứng với cấp độ phát triển của mỗi trẻ em.

4.- Diễn tả XÚC ĐỘNG và TÌNH CẢM :

Để giúp trẻ em phát huy tư duy trừu tượng, chúng ta có ba chiều hướng tác động khác biệt nhau, nhưng bổ túc mật thiết cho nhau.

Chiều hướng thứ nhất là trò chơi giả bộ, còn mang tên là tư tuởng hình tượng.

 Chiều hướng thứ hai là ngôn ngữ. Ngôn ngữ phải được hiểu như là phương tiện trao đổi, tiếp xúc, thương lượng. Nếu vì một lý do gì chưa thể xác định được, về mặt y khoa, trẻ em không thể phát huy ngôn ngữ có lời, các em sẽ phát huy một loại ngôn ngữ tương tự và tương đương, miển là từ ngày ra đời, nhu cầu tiếp xúc của các em được người lớn  coi trọng, nuôi dưỡng, khuyến khích và xúc tác bằng cách tạo ra mọi điều kiện thuận lợi.

Chiều hướng thứ ba là khả năng diễn tả, bộc lộ những xúc động và tình cảm. Lúc ban đầu, cách diễn tả còn mơ hồ, mông lung, lộn xộn. Nhưng dần dần, nhờ trò chơi, qua trò chơi, trẻ em sẽ bộc lộ rõ ràng hơn, bằng cách phân biệt nhiều tình cảm và nhiều khía cạnh khác nhau thuộc về một tình cảm duy nhất. Nếu quan sát trò chơi của trẻ em hay là lắng nghe các em phát biểu trong lúc chơi, chúng ta sẽ có thể khám phá những chủ đề sau đây :

– Nuôi nấng, đùm bọc:

Gấu mẹ đút cơm cho gấu con.

Búp-bê Mẹ thay áo quần cho con và đặt con vào giường.

Búp-bê ôm choàng mẹ, sợ mẹ ra khỏi nhà.

Với những trò chơi tương tự, trẻ em diễn tả nhu cầu được cha mẹ săn sóc lo lắng.

– Những chủ đề khác có liên hệ đến cuộc sống hằng ngày :

* Vui thích, reo mừng, nhảy nhót.

* Hiếu kỳ, mạo hiểm. Muốn khám phá những điều chưa biết.

* Quyền lực, sức mạnh, muốn làm cho kẻ khác vâng phục.

* Tức giận, tấn công, chinh phục.

* Trật tự, qui luật, điều có phép làm, điều không được phép.

* Lo sợ bị bỏ rơi, bị thương tích hay là bện hoạn.

* Tình thương, đồng cảm, chăm sóc kẻ khác.

* Làm chủ tình hình, điều khiển, kiểm soát, ra lệnh, trừng phạt.

***

Nhiều tình cảm khác nhau trong cùng một lúc :

Khi xúc động xuất hiện trong các trò chơi giả bộ, trẻ em đang DIỄN XUẤT một xúc động. Diễn xuất có nghĩa là đóng kịch. Cho nên, trong trò chơi giả bộ, trẻ em là một diễn giả.

Khi xúc động xuất hiện trực tiếp trong tác phong, trẻ em chỉ là tác nhân thừa hành, theo lệnh điều khiển của một sức ép đang khống chế các em. Trong những điều kiện sinh hoạt như vậy, theo lối nói của tâm lý học đương đại, trẻ em đang TÁC HÀNH một xúc động. Từ được dùng trong tiếng Anh là Acting out. Từ tương đương trong tiếng Việt Nam là “bùng nổ”.

Trong cả hai trường hợp trên đây, trẻ em chưa làm chủ xúc động của mình. Chừng nào trở thành chủ nhân, chủ thể, trẻ em sẽ diễn tả mình bằng ngôn ngữ thích hợp. Khả năng nầy đòi hỏi trẻ em phải biết tạo khoảng cách, nghĩa là nhìn mình, thấy mình, quan sát mình. Lúc bấy giờ các em mới có thể GỌI TÊN xúc động đang xuất hiện trong nội tâm. Khả năng tự quan sát như vậy mang tên là Ý THỨC về mình hay là LÀM CHỦ đời sống xúc động.

Trong thực tế, có khi cả ba loại trình bày, diễn tả ấy đang còn lẩn lộn, chồng chéo vào nhau, trong cùng một lúc. Để trẻ em thành đạt giai đoạn cuối cùng là diễn tả và hóa giải tình cảm, cha mẹ, thầy cô cần cho phép các em đi qua hai giai đoạn trước (tác hành và diễn xuất), một cách an toàn, theo cấp độ phát triển  và lứa tuổi. Cho phép có nghĩa là có mặt, gọi tên, phản ảnh và nhìn nhận xúc động của các em :

 ”Mẹ thấy con buồn. Con muốn khóc. Con cứ tự nhiên khóc, nếu con muốn. Sau đó, con nói cho mẹ biết con buồn thế nào. Con cần gì ? Mẹ làm được gì cho con?”

Trong cách phản ảnh nầy, người mẹ thực thi bốn động tác khác nhau như sau:

* Một là quan sát, ghi nhận : Mẹ thấy… mẹ nghe…

* Hai là nhận biết và gọi tên : Con đang BUỒN…

* Ba là lắng nghe nhu cầu của con : Chuyện gì đã xảy ra…Con CẦN gì ?

* Bốn là thương lượng : Con muốn gì? Mẹ làm được gì? Ngay bây giờ hay là sau này ? Con tự làm lấy hay là mẹ giúp con lúc đầu ?

Trong cách hành xử như vậy, người mẹ đã giúp trẻ em chuyển biến thể thức tác hành, diễn xuất thành diễn tả bằng ngôn ngữ. Từ đó, xúc động được tháo mỡ ra thành bốn thành tố : sự kiện, gọi tên, nhu cầu và ước muốn.

Khi làm được như vậy, trẻ em đang học chủ động, sáng tạo, trở nên một chủ thể.

 ***

Biết mình để giúp đỡ trẻ em

Diễn tả xúc động và tình cảm là một bài học thiết yếu cho cuộc sống thành người. Trong vai trò giáo dục, người lớn không những cho phép. Họ còn phải khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi và hướng dẫn trẻ em một cách liên tục, hữu hiệu. Tuy nhiên, như tôi đã nhấn mạnh từ đầu, đây là bài học rất khó dạy và khó học. Nếu người lớn không ý thức sáng suốt về mình và có khả năng làm chủ tình hình xúc động của mình, làm sao họ có thể hướng dẫn con cái hay là học sinh của mình?

Thêm vào đó, khi trẻ em tác hành và diễn xuất những xúc động của mình, rất thông thường chúng ta trở thành ĐỐI TƯỢNG của con cái và học sinh. Các em muốn tấn công chúng ta. Một cách thẳng thừng, các em  có thể sử dụng với chúng ta một giọng điệu ngang tàng, bướng bỉnh, đầy tức giận :

* Mẹ xấu, con ghét mẹ,

* Ba vũ phu, con không thèm nói chuyện với ba.

Trong lề lối giáo dục cỗ điển, cha ông chúng ta muốn tránh và đề phòng tối đa tình trạng hỗn xược nầy. Lối nói – có bề mặt khinh thường, nhưng chất chứa nhiều lo lắng và sợ hãi ở chiều sâu – mà quí vị thường dùng,  là « chơi với chó, có ngày chó liếm mặt ». Vì lý do tối thượng nầy, nhiều cha mẹ đã cố tình tỏ thái độ lạnh lùng, nghiêm khắc, và giữ khoảng cách với con cái. Tuy nhiên, đó chỉ là PHẢN ỨNG TỰ VỆ.

Ngày nay, nhờ Phân tâm học, chúng ta nhận biết rằng: Phản ứng tự vệ là một dấu hiệu bên ngoài của một tâm trạng lo sợ. Và khi lo sợ như vậy, chúng ta bóp méo, xuyên tạc thực tế khách quan bên ngoài. Thêm vào đó, khi phản ứng, chúng ta chỉ là đối tương. Chúng ta chưa làm chủ tình hình, chưa có khả năng nhận diện và đối diện một vấn đề, để giải quyết và khắc phục một cách tốt đẹp và hài hòa.

Cách chúng ta hằng trăm thế kỷ, về mặt thời gian, và hằng ngàn cây số về mặt không gian, người La Tinh đã có thái độ tương tự. Nguyên tắc giáo dục của họ còn lưu truyền đến ngày hôm nay là “DUM METUANT” . Miễn là chúng nó sợ.

Sợ và gây sợ hãi, cho dù phải dùng phương tiện khủng bố tinh thần, đó là nguyên tắc sắt thép, trong quan hệ giáo dục cổ điển.

 Nếu chúng ta chọn lựa con đường giáo dục trên đây  “Miển là chúng nó sợ”,  suốt đời con cái, học sinh của chúng ta sẽ không có bầu khí an toàn nội tâm, để diễn tả xúc động và tình cảm của mình, một cách hồn nhiên, trung thực và thoải mái.

***

Thể thức tạo an toàn nội tâm trong quan hệ giáo dục :

Để can trường nâng đỡ trẻ em, trong chiều hướng học tập diễn tả tình cảm, chúng ta cần ghi nhận một số nguyên tắc hành động sau đây :

Chính khi trẻ em có hành động tấn công :

Khi trẻ em có hành vi xúc phạm và ngôn ngữ làm tổn thương chúng ta, chính khi ấy chúng ta nên ý thức sáng suốt rằng : trẻ em đang bị tràn ngập, không có khả năng làm chủ tình hình. Hơn bao giờ hết, các em đang cần chúng ta nâng đỡ, đùm bọc, chỉ dẫn và soi sáng, trong những lúc như vậy, để học làm người.

Thay vì cắt đứt quan hệ, rút lui, chưởi bới, trừng phạt… chúng ta vẫn lắng nghe, tìm hiểu, phản ảnh, nhìn nhận nhu cầu của các em. Chúng ta bắc cầu, cho các em từ từ “làm người”, nghĩa là có khả năng từ chối những gì không thích hợp và chọn lựa những điều thích hợp.

Chỉ trong trường  hợp các em có hành vi bạo động thực sư :

Chỉ trong trường hợp nầy, chúng ta phải lập tức dùng biện pháp cô lập hóa hay là chế ngự hành vi đang bùng nổ, để bảo vệ chính mình các em và những bạn bè chung quanh. Chúng ta cũng tuyệt đối không cho phép các em TÁC HÀNH trên chúng ta. Ngoài ra, thái độ đáp ứng thường xuyên của chúng ta là ĐỒNG CẢM. Đồng cảm vô điều kiện. Nhờ vào cách chúng ta biết đồng cảm, các em mới có thể học đồng hành, chia sẻ, trao đổi, thiết lập những quan hệ hài hòa và tôn trọng lẫn nhau. Nếu chúng ta không biết tôn trọng trẻ em, làm sao các em học tôn trọng chúng ta ? Học với ai ? Học ở đâu ? Học khi nào ?

Trường hợp chúng ta cảm thấy mình sắp mất bình tĩnh:

Khi quân bình nội tâm không vững vàng, chúng ta sáng suốt nhìn nhận, thú nhận nhu cầu của mình VÀ LẬP TỨC DỪNG LẠI : “Mẹ đang  thấy khó chịu trong mình. Mẹ cần nghỉ xã hơi vài ba phút. Sau đó, Mẹ nói chuyện lại với con” .

Nếu chúng ta đang săn sóc trẻ em dưới 5 tuổi, chúng ta nhờ người nào đó tiếp tay trong vài ba phút : “Mẹ đang khó chịu trong mình. Nhờ con thay mẹ lo cho em con, trong năm phút” .

Ngoài những trường hợp khẩn trương, như vừa được nói tới, chúng ta không tìm cách giải quyết, thay đổi, thoa dịu, an ủi. Lý do cơ bản là trẻ em có quyền bộc lộ, diễn tả xúc động. Và diễn tả như vậy không phải là điều xấu, cần sửa sai, ngăn chận, cấm đoán.

Ngược lại, chúng ta còn cho phép và khuyến khích : “Mẹ thấy con tức giận với mẹ. Con có phép nói ra hết nỗi tức giận của con cho mẹ nghe, để mẹ hiểu con. Sau đó, mẹ sẽ nói cho con hay ý định của mẹ” .

Càng cho phép và khuyến khích như vậy, chúng ta càng tạo nên quan hệ tin tưởng, hiểu biết và thân mật đối với trẻ em.

Nói tóm lại, xúc động và tình cảm, như một dòng nước, luôn luôn cần phải biến thái và lưu chuyển. Bị ứ động – từ chuyên môn trong Phân tâm học là DỒN NÉN – xúc động và tình cảm sẽ làm ô nhiểm toàn thể đời sống nội tâm của con người. Trái lại, khi được diễn tả và hóa giải, tình cảm là ĐỘNG CƠ thúc đẫy chúng ta xây dựng bản thân, tô điểm và làm đẹp toàn thể cuộc sống làm người của mình và những người hai bên cạnh.

***

5- Những trẻ em có vấn đề học tập

5.1- Với trẻ em loạn thính

Chúng ta cần dùng ngôn ngữ vắn gọn, đơn sơ, rõ ràng, có điệu bộ kèm theo. Khi chơi với loại trẻ em nầy, chúng ta cần di động và làm nhiều điệu bộ với các em. Càng diễn xuất, đóng kịch nhiều chừng nào, càng hay bấy nhiêu. Khi trẻ em phát biểu một ý tưởng, chúng ta tìm cách xoáy lui xoáy tới với một hai từ, mà các em nầy vừa phát âm.

Ví dụ trẻ em đang chơi xe ô-tô và tình cờ phát biểu: NHANH. Chớp thời cơ, chúng ta thêm vào : “Vâng, xe em chạy nhanh. Rất nhanh. Xe của cô cũng chạy nhanh. Nhanh như xe của em” . Lặp lại từ NHANH bốn lần như vậy, chúng ta tìm cách củng cố một khả năng của em đang thành hình. Những ý tưởng được trẻ em phát biểu còn rời rạc, không ăn khớp với nhau và không thích ứng với hoàn cảnh cụ thể đang diễn ra. Với phương thức nhấn mạnh, chúng ta làm cho các ý tưởng ấy ăn khớp với nhau và thích ứng với thực tại của trẻ em.

5.2- Với trẻ em loạn thị:

Khó khăn lớn lao, loại trẻ em nầy cần từ từ khắc phục, là liên kết, phối hợp những sự vật, hình ảnh và ý tưởng lại với nhau. Các em thường không biết đi tìm, chọn lựa những trò chơi ăn khớp với nhau, nếu những trò chơi nầy được chồng chất lộn xộn, trong một hộp hay một thùng duy nhất. Để giúp trẻ em  thuộc loại nầy biết xếp đặt, kết hợp, chúng ta dùng nhiều thùng có màu sắc khác nhau, mỗi thùng dành cho một yếu tố nhất định. Khi đi tìm những thành phần rời rạc, từ thùng nầy qua thùng nọ theo thứ tự, các em có thể kết ráp lại với nhau.

* Trước tiên, em đi tìm đầu con mèo, trong thùng ĐỎ,

* Thân con mèo trong thùng XANH,

* Đuôi trong thùng VÀNG,

* Bốn chân trong thùng TRẮNG.

Với cách làm nầy, các em tập hình dung cấu trúc toàn bộ, trước khi đi tìm từng thành phần.

5.3- Với trẻ em có những khó khăn vận động :

Vấn đề của loại trẻ em nầy là hiểu biết việc nào làm trước, việc nào cần đến sau, theo thứ tự thời gian.

Ví dụ một : Trẻ em làm rơi một cái bát bể nát tan tành. Chúng ta đặt câu hỏi : “Rầm, tan nát hết. Bây giờ em phải làm gì? Đưa tay lên trán suy nghĩ, tìm đi và nói cho cô biết” .

Ví dụ hai: Trẻ em làm rơi con búp-bê. « Búp-bê bị thương, chảy máu. Bây giờ em làm gì? ».

Ví dụ ba: Chúng ta cho trẻ em nghe những bản nhạc đơn sơ, quen thuộc. Sau khi kiểm chứng ý thích của từng em và trước khi mở máy, chúng ta hỏi : “Em muốn nghe bài nào ?”. Em nào biết nói hay phát ra một dấu hiệu, chúng ta cho nghe một đoạn nhỏ, rồi tắt máy, hỏi em khác:

“Em thích nghe bài nào?”.

Trẻ em chưa biết nói, có thể ngân lên vài nốt nhạc, hay là làm một cử điệu…

5.4- Dùng chỗ mạnh bù đắp vào chỗ yếu :

Khả năng giác quan thay đổi, tùy từng em. Chúng ta sử dụng giác quan mạnh để tác động, khi trẻ em gặp trắc trở, khó khăn, để mang lại cho các em lòng tự tin, ý thức về điểm mạnh của mình. Với những trẻ em rất nhạy bén về thính giác, cho phép các em nầy điều chỉnh âm thanh, theo thính lượng của mình. Lợi dụng ý thích về âm nhạc của một em, chúng ta yêu cầu em chấp nhận một công việc mà em thường từ chối, thuộc một lãnh vực khác. “Em thích nghe Tam Ca, cô cho em nghe. Nhưng vừa nghe, em vừa lắp ráp bức hình nầy” . Trong vấn đề ăn uống, chúng ta cũng dùng một kế hoạch tương tự: “Con thích ăn thịt, mẹ cho con một đĩa thịt . Nhưng trước khi ăn thịt, con ăn một nữa tô canh nầy” .

5.5- Với  trẻ em chậm phản ứng, sống riêng rẽ, khó tiếp xúc :

Để có phản ứng trước những kích thích từ ngoài, trẻ em loại nầy cần một ngưỡng sơ khởi lớn hơn, đối với trung bình của những trẻ em cùng lứa tuổi. Cho nên trong tác phong bên ngoài, chúng ta gia tăng cường độ, trong mọi loại kích thích, khi muốn tạo quan hệ tiếp xúc trao đổi với các trẻ em thuộc diện nầy :

“Ta đây là Ông Cọp. Ta đến phá nhà của bé nầy. Giọng gầm của ta rất dễ sợ. Đây hai hàm răng của Ông, bé có sợ không?” .

5.6- Với trẻ em hiếu động, lăng xăng, chập chờn, khó tập trung tư tưởng

Loại trẻ em nầy múa máy tối ngày. Các em cần khung gian rộng rãi, thoáng thoát để vẫy vùng, chạy nhảy. Càng bị khép vào khuôn khổ chật hẹp, các em càng có phản ứng quấy rầy bạn bè chung quanh.

Với trẻ em thuộc diện nầy, chúng ta cần xử dụng hai phương tiện :

* Một khung gian rộng lớn cho phép các em tha hồ vận động. Đồng thời, đó cũng là một khung gian có lằn ranh và giới hạn rõ rệt, không thể vượt qua.

Trong khung gian nầy, một đàng các em có thể rời xa chúng ta bất cứ khi nào. Đồng thời, các em trở về khi nào các em ước muốn. Gần chúng ta, có những trò chơi, dụng cụ mà các em yêu chuộng. Dựa vào những sở thích nầy, chúng ta đưa ra những điều kiện làm việc và tìm cách kéo dài từ từ thời gian học tập của các em. Khi các em đi ra xa, người lớn có trách nhiệm vẫn an tâm lo cho các trẻ khác. Lòng họ không băn khoăn, xao xuyến. Họ không hồi hộp lo sợ các em sẽ bỏ đi và lạc mất.

* Sử dụng những phương tiện tâm vận động tại lớp học, vừa cho phép các em giải tỏa những nhu cầu bức thiết của mình, vừa biết chờ đợi và làm việc với bạn bè cùng lớp.

Nói tóm lại, chúng ta kết hợp hai mục tiêu lại với nhau : Thỏa mãn nhu cầu vận động cá biệt và tìm cách xã hội hóa tác phong của các em như biết nhìn, biết chờ đợi, biết lưu tâm đến bạn bè.

Thêm vào đó, trong khuôn khổ của địa hạt tâm vận động, chúng ta tổ chức cho trẻ em, những loại trò chơi giả bộ như :

* Đi xe lửa, ngưng lại ở mỗi nhà ga,

* Bay lên cung trăng và đi qua nhiều đám mây,

* Một hạt lúa gieo xuống đất, từ từ lớn lên thành cây lúa, theo tiếng nhạc kèm theo.

* Chúng ta dùng nhiều hình tượng, với nhiều dụng cụ khác nhau. Ví dụ, chạy với con búp-bê:

-Tiếng còi thứ nhất : dừng lại hôn con búp-bê,

-Tiếng còi thứ hai : cho búp-bê ăn,

-Tiếng còi thứ ba : cho búp-bê ngủ.

5.7-Với trẻ em nhạy cảm, nhưng sợ tiếp xúc, sống co rút lại:

* Dùng trò chơi giả bộ để tiếp xúc : dùng con gấu, con voi để nói chuyện với loại trẻ em nầy.

* Dùng kỹ thuật chận đường, từ chối, tạo mâu thuẩn, để gây phản ứng.

5.8- Với trẻ em nhạy cảm, nhưng dễ bùng nổ, tràn ngập :

* Sử dụng trò chơi dịu hiền : làm mẹ, săn sóc con búp-bê…

* Sử dụng vũ điệu với âm nhạc nhẹ nhàng, thoải mái, thư giản…

? Lưu tâm, có mặt và khuyến khích,

* Đề phòng những ngưỡng chịu đựng, bằng cách gây ý thức, học tập biết dừng lại, trước lúc đạt cao điểm tạo nên tình trạng bực bội và khổ đau.


Chương bốn

 

Tư duy trừu tượng

Khả năng suy luận

 

 * Trong các giai đoạn truớc đây, trẻ em thường  nhảy vọt lộn xộn từ ý tưởng nầy qua ý tưởng khác. Từ đây, các em học tập nối kết các ý tưởng lại với nhau một cách hợp lý, bằng cách tìm ra lý do và hậu quả :  Ghi nhận sự kiện, nêu lên ý nghĩa và rút ra  kết luận.

 

* Khi trẻ em diễn tả tình cảm và xúc động, chúng ta cần khuyến khích các em suy nghĩ, bằng cách học mô tả hoàn cảnh khách quan. Từ đó, tìm ra nhu cầu và ước nguyện. Và khi gọi tên các xúc động, các em cần xác định thêm cường độ.

 

* Mục đích của suy luận là giải quyết vấn đề : tại sao chọn lựa cách làm nầy và loại trừ cách làm khác?  Ảnh hưởng do cách làm ấy tạo nên, là những gì?

 

* Tìm hiểu mình : Tại sao? Cái gì là quan trọng? Ước mơ? Có thể biến ước mơ thành hiện thực không? Bắt đầu từ đâu?…

 

* Tìm hiểu người khác, nhất là khi phải thương lượng : Phân biệt yêu cầu và đòi hỏi, nhu cầu của chính mình và điều kiện thực tế của người khác. Sau 5 tuổi, trẻ em cần môi trường hóa,  mỗi lần diễn tả ý muốn của mình.

 

Tư duy trừu tượng:

 

* Khả năng trả lời những câu hỏi : Điều gì? Ở đâu? Khi nào? Thế nào? Tại sao?

 

* Khả năng so sánh, đối chiếu, xếp loại bằng cách phân biệt nhiều phạm trù khác nhau.

 

* Khả năng tìm hiểu, giải thích những tương quan nhân quả giữa hai yếu tố khác nhau. Nếu tôi thực hiện A, sẽ có B xảy ra. Vì A, tôi cảm thấy B.

 

* Khả năng phân chia những chủ đề rộng lớn thành nhiều chi tiết. Tôi vừa nhìn rừng bao la, đồng thời tôi cũng thấy được nhiều cây khác nhau.

 

* Khả năng nhận thức về số lượng, thời gian và không gian. Đồng thời tôi hiểu được những cấp độ lớn hơn, nhỏ hơn, nhiều hơn, ít hơn.

 

* Khả năng nhận thức và trình bày về đời sống xúc động và tình cảm, diễn tả các thể loại khác nhau.

 

 

Những cấp độ diễn tả tình cảm và xúc động :

 

* Thứ nhất là diễn tả bằng hành vi cụ thể còn được gọi là TÁC HÀNH. Trẻ em đánh đập lung tung vì tức giận, đến ôm choàng vì thương yêu. Với thể thức diễn tả nầy, trẻ em chưa ý thức và nhận biết thực chất của xúc động là gì. Các em cảm thấy bị thúc ép phải thực thi một hành vi. Các em bị khống chế và sai khiến do một động lực từ bên trong, mà các em chưa thể gọi tên, kiểm soát hay là điều hướng một cách chủ động, với tư cách là một chủ thể ý thức trọn vẹn về nội tâm của mình.

 

* Thứ hai là DIỄN XUẤT nghĩa là dùng những con vật hay là búp-bê, để bày tỏ những gì có mặt trong nội tâm. Chính trẻ em không làm trực tiếp, không đưa tay đánh đập …Các em chỉ « đạo diễn », nhìn từ ngoài một tình huống. Những hành động của búp-bê là một loại ngôn ngữ.

 

* Thứ ba là dùng ngôn ngữ trình bày xúc động như là thực trạng của chỉ một thành phần hay một bộ phận thuộc cơ thể. Tay tôi tức giận. Mắt tôi buồn. Tim tôi lo.

 

* Thứ bốn là diễn tả  xúc động như một tình huống bên trong của tâm hồn, bao gồm hai loại tiêu cực và tích cực đang còn rất mơ hồ và tổng quát. Hôm nay tôi thấy trong mình dễ chịu . Trái lại, ngày qua tôi rất khó chịu.

 

* Thứ năm là sử dụng một từ riêng biệt nhằm diễn tả một tâm trạng nhất định, không đồng hóa với những tâm trạng khác. Tôi buồn, tôi sợ, tôi tức giận, tôi sung suớng….

 

* Bao nhiêu tiến bộ của trẻ em không xảy ra một cách đồng đều, đồng dạng, trong cùng một lúc, với tất cả mọi xúc động.Trong lãnh vực tức giận, trẻ em có thể còn ở giai đoạn tác hành. Đương khi đó, nó có thể dùng ngôn ngữ khá chính xác, để mô tả lòng yêu thương của mình, với nhiều sắc độ khác nhau.

 

* Mục đích cuối cùng của công việc diễn tả là HÓA GIẢI hay là làm chủ tình hình xúc động, bằng bốn bước đi lên như sau:

 

– Bước Một là ý thức : tôi gọi tên xúc động đang xuất hiện.

 

– Bước Hai là mô tả hoàn cảnh còn mang tên là môi trường hóa : tôi đang thấy và nghe gì, nghe ai, ở đâu, thế nào …

 

– Bước Ba là khám phá nhu cầu : tôi cần gì? Ưu tiên 1, 2, 3 là gì? 

 

– Bước Bốn là ý định và ước vọng :Tôi chọn ai để giúp  đỡ tôi ? Tôi xin bằng cách nào ?

 

Trường hợp họ từ chối, lối thoát sẽ như thế nào?

 

Nói tóm lại, trong bất cứ hoàn cảnh nào, cho dù trầm trọng đến đâu, TÔI LÀ CHỦ THỂ, tôi không bao giờ là nạn nhân của một ai. Chính tôi là tác giả làm nên đời tôi. Khi hiểu được điều cơ bản nầy, trẻ em đang thành người.

 

NHỮNG GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA TƯ DUY TRỪU TƯỢNG

 

– Giai đoạn một : Trẻ em diễn tả quan hệ nhân quả giữa hai ý tưởng. Mặc dù đã biết dùng ngôn ngữ, các em vẫn còn bám chặt vào những đòi hỏi tức khắc của xúc động. Vào giai đoạn nầy, các em chưa biết trì hoản lại, chưa biết chờ đợi hay là hình dung, dự phóng một lối giải quyết sẽ chỉ đến sau này.

 

– Giai đoạn hai : Nhờ khả năng tư duy trừu tượng chớm nở, trẻ em bắt đầu hình dung một lối thỏa mãn chưa có sẵn, nhưng sẽ tới sau này. các em cũng có thể thấy mình trong tương lai và hình dung một lối giải quyết với những người và sự vật hiện  không có mặt.

 

– Giai đoạn ba : Tư duy của trẻ em, từ trước cho đến giai đoạn nầy, chỉ biết phân biệt rõ ràng HOẶC trắng HOẶC đen, hoặc xấu hoặc tốt. Từ đây, các em nhận thấy có nhiều sắc độ ở giữa hai  điểm cực đoan ấy. Cũng vậy, theo cách các em nhận xét, trong khi tức giận, các em có thể có những xúc động khác xuất hiện cùng một lúc. Nhờ những tiến bộ nầy, các em bắt đầu xếp đặt, so sánh những xúc động theo những tiêu chuẩn quan trọng và ưu tiên.

 

– Giai đoạn  bốn : Trẻ em biết phân biệt một điều đang thực sự xảy ra bây giờ và một điều đã xảy ra trước đây trong quá khứ. Hai điều ấy có thể rất khác xa nhau. Cũng vậy, trong chính bản thân của các em, cùng một lúc, các em có thể có hai ý kiến hay là hai tình cảm tương phản với nhau. Chẳng hạn, trong hiện tại, bạn làm tôi khó chịu, bực mình. Nhưng thông thường, trong những tiếp xúc trao đổi hằng ngày, bạn rất dễ thương. Cho nên tôi sẵn sàng tha thứ lỗi lầm của bạn.

 

Nhờ cân nhắc và biết suy nghĩ như vậy, trẻ em bắt đầu có ý thức về mình,  ý thức về những giá trị và chí hướng của đời mình. Từ đó, các em biết đánh giá những hành vi sai trái. Cũng dựa vào đó, các em có khả năng chế ngự những ý thích bột phát, những sức ép của bản năng.

 

Thay vì sợ bị phạt hay là muốn làm vui lòng người lớn, các em có thể chọn lựa và quyết định một hành động, theo những tiêu chuẩn đạo đức, do chính mình thiết định từ bên trong nội tâm.

 

Thông thường, nếu không có những vấn đề chậm phát triển, một thanh thiếu niên sẽ thâu đạt kết quả của giai đoạn nầy, vào lứa tuổi từ 12-14.

 

– Giai doạn năm : Trẻ em có khả năng GIẢ ĐỊNH, bằng cách hình dung, phác họa tương lai với bao nhiêu chân trời khác nhau. Người thanh niên từ 16 đến 18 tuổi, trước ngưỡng cửa của cuộc đời, biết cân nhắc những sở trường và sở đoãn của mình, để quyết định và chọn lựa con đường nào thích hợp cho mình. TRƯỞNG THÀNH có nghĩa là đảm trách một cách can trường và sáng suốt, mọi hệ lụy phát xuất tứ quyết định của mình.

 

Tư duy giả định ấy đòi hỏi chúng ta cũng như mọi người phải có khả năng sáng tạo cùng một lúc trong nội tâm, hai loại ý thức khác nhau : ý thức về thực tế, thực tại của mình và ý thức về một viễn tượng hiện thời chưa có, nhưng đang được chính mình tiên liệu, dự phóng và quyết chí thực hiện với từng bước đi lên hằng ngày.

 

***

 

Tiến trình hình thành của tư duy trừu tuợng qua năm giai đoạn trên đây, không thể xuất hiện một cách đột biến. Trái lại, đó là thành quả của một công trình học tập, tôi luyện lâu dài của con người, suốt thời gian từ 0 đến 20 tuổi.

 

Phần vụ của cha mẹ và thầy cô là hướng dẫn, soi sáng, nâng đỡ và vun tưới. Thay vì áp đặt từ ngoài và từ trên, cho trẻ em bao nhiêu là mộng mơ, dự định, nhu cầu của chính mình, chúng ta hãy bắt đầu từ những sáng kiến rất đơn sơ của trẻ em như một liếc nhìn, một cách phát âm, một cử động… Nhờ trao đổi qua lại hằng ngày với người lớn, trong một quan hệ hài hòa, tạo tin tưởng, vui thích, gắn bó và tôn trọng, mỗi trẻ em sẽ dần dần phát huy hạt mầm làm người, qua những giai đoạn và cấp độ tăng trưởng, tùy vận tốc riêng biệt của từng em


Lời nói cuối

 

Bầu trời và vầng trăng cho trẻ em

 

Để tóm lược tất cả chương trình giáo dục và dạy dỗ, mà tôi đã đề nghị, chúng ta cần ghi nhận những điểm thiết yếu sau đây :

 

* Có mặt với trẻ em, lắng nghe các em, sẵn sàng nâng đỡ, mỗi khi các em cần, tạo mọi điều kiện thuận lợi, để các em dần dần làm quen với môi trường sinh thái chung quanh.

 

* Không ngừng tận dụng mọi cơ hội, để thiết lập quan hệ tiếp xúc và trao đổi với trẻ em, nhằm tạo cho các em một đời sống vui thích và sung sướng, có đầy đủ an toàn nội tâm.

 

* Trong những sinh hoạt hằng ngày, trẻ em được khuyến khích trở nên chủ động, đưa ra những sáng kiến, thay vì ngồi chờ một cách bị động, mọi cái từ phía người lớn ban xuống…

 

* Với bất kỳ nội dung gì và trong tất cả mọi hoàn cảnh, trẻ em cần tiếp thu và hội nhập từ từ ba bài học sau đây : một là tiếp xúc và trao đổi, hai là diễn tả xúc động và tình cảm, ba là khám phá và tuân hành những qui luật tất yếu thuộc đời sống làm người.

 

Lẽ đương nhiên, không một ai trong chúng ta là con người hoàn hảo, không bao giờ sai lầm. Để có thể dạy trẻ em, chúng ta cần phải học suốt đời. Học với người có chuyên môn. Học với chính con em của chúng ta. Học từ những sai lầm hằng ngày.

 

Có lẽ, đây là vị thầy dạy hay nhất, nếu chúng ta biết mở mắt nhìn, biết lắng tai mà nghe.

 

Tuy nhiên, chúng ta cần mỗi ngày khắc phục hay là hóa giải bốn sai lầm rât hiểm độc, luôn luôn nằm vùng đâu dó trong tác phong  của chúng ta và khả dĩ làm băng hoại mọi loại mần non đang vươn lên nơi trẻ em:

 

* Thứ nhất là độc tài và bao che bằng cách điều khiển, lèo lái, kiểm soát tất cả. Trẻ em sẽ trở nên bị động, đồ vật… không có sáng kiến và nghị lực, hay là phản động, đập phá, bạo hành.

 

* Thứ hai là sống xa cách, lạnh lùng, lãnh đạm. Trẻ em sẽ cảm thấy mình vô phúc, bất hạnh, thiếu nơi nương tựa.

 

* Thứ ba la không tham dự vào những trò chơi của trẻ em. Trẻ em sẽ thiếu người nâng đỡ, hướng dẫn. Chơi với trẻ em là cách hướng dẫn tuyệt diệu  hơn mọi cách khác. Nhờ vào cách làm nầy của người lớn, trẻ em sẽ từ từ hội nhập những qui luật hay là những cấu trúc có mặt trong môi trường thực tế và văn hóa.

 

* Thứ bốn là không học cách hóa giải xúc động và tình cảm. Cho nên, khi chúng ta bị tràn ngập và bùng nỗ, chính con em trở nên những nạn nhân đầu tiên của chúng ta,  nhất là khi chúng ta có những hành vi bạo động…

 

Để kết thúc, tôi xin phép Thi sĩ Thanh Nguyên cho phép tôi sở hữu hóa nghĩa là nhận làm của mình những vần thơ  sau đây :

 

« Mẹ là người đã cho con cái tên riêng

« Trước cả khi con bật lên tiếng MẸ.

 

« Mẹ :

 

« Cái tiếng gọi từ khi bập bẹ

« Đến lúc trưởng thành

« Con vẫn chưa hiểu hết chiều sâu.

 

«  Mẹ :

 

« Có nghĩa là bắt đầu

« Cho Sự Sống, Tình Yêu, Hạnh phúc.

 

« Mẹ :

 

« Có nghĩa là DUY NHẤT

«  Một BẦU TRỜI

« Một MẶT ĐẤT

« Một VẦNG TRĂNG” .

 

« Mẹ:

 

« Có nghĩa là Anh sáng

« Một Ngọn đèn thắp bằng máu con tim

« Cái Đóm lửa thiêng liêng

« Cháy trong bão bùng, cháy trong đêm tối.

 

« Mẹ:

 

« Có nghĩa là mãi mãi

«  Là-cho-đi-không-đòi-lại-bao-giờ. » 

 

Thay mặt trẻ em chậm phát triển, tôi kính dâng bài thơ nầy cho những ai đang làm cha mẹ của những em ấy, cho những người làm giáo viên của các em và tất cả mọi người khác đang tiếp tay cho các bậc cha mẹ, từ ngày các em bước vào trường …

 

Lausanne, Mùa hè 2004.

 



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét