Thứ Ba, 1 tháng 10, 2013

Tim hieu ve thi truong chung khoan My.html

Tìm hiểu về thị trường chứng khoán Mỹ

Nguồn: www.univn.com

Tác giả: Tiến sĩ Tôn Thất Đán

Thị trường chứng khoán Mỹ: Phản ánh của tiến bộ kinh tế

Thị trường chứng khoán là một mạng lưới người mua và người bán cổ phần sở hữu công ty. Tại Mỹ có 3 thị trường chứng khoán chính là thị trường chứng khoán New York, thị trường chứng khoán Amex và thị trờng chứng khoán NASDAQ (Hiệp hội những nhà môi giới kinh doanh chứng khoán yết giá tự động). Cơ quan quốc gia chịu trách nhiệm giám sát và hoạch định chính sách liên quan đến các giao dịch chứng khoán là SEC (Uỷ ban Chứng khoán và Giao dịch).

Thông thường, thị trường chứng khoán là một địa điểm giao dịch, nơi người bán và người mua cổ phiếu có thể một cách trược tiếp thương lượng mua bán với nhau, như thị trường Wall Street, tại New York; thị trường Bay Street, ở Toronto, Canada; tại thị trường chứng khoán London, thị trường chứng khoán Paris và tại hàng loạt địa điểm khác trên thế giới.

Ngày nay, với sự phát triển của các phương tiện liên lạc hiện đại, người bán và người mua không cần gặp nhau tại một địa điểm cụ thể, họ có thể tiến hành mua bán trực tuyến (online), như trên thị trường NASDAQ, người bán và người mua có thể tiến hành các giao dịch trực tuyến. Thị trường chứng khoán là một thể thống đa dạng bởi các thành phần tham gia; nó có thể là thị trường phức tạp nhất hoặc có thể hoạt động phi lý nhất, tuỳ theo trí tưởng tượng của con người. Lý do là thị trường chứng khoán là sự phản ánh hành vi của những người tham gia mua bán cổ phiếu mà quyết định của họ ảnh hưởng đến mức độ của hoạt động kinh tế.

Người bán và người mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoán hành động chủ yếu dựa vào dự đoán về thu nhập tương lai của những cổ phiếu được niêm yết và giao dịch trên một thị trường chứng khoán nhất định mỗi ngày. Khi dự đoán về thu nhập tăng giảm, giá trị cổ phiếu cũng biến động theo.

Nhìn chung, xét về mặt dài hạn, thị trường chứng khoán có xu hướng trở thành hàn thử biểu của nền kinh tế quốc dân. Nếu nền kinh tế quốc dân tăng trưởng và hứa hẹn tiềm năng, giá cổ phiếu tăng và ngược lại nếu nền kinh tế trì trệ, cổ phiếu có xu hướng sụt giá.

Những nhà quản lý những khoản tiền khổng lồ, cũng như những nhà quản lý những quỹ trợ cấp, quỹ tương hỗ với hàng trăm tỷ USD trong tay thực sự có thể có tác động đáng kể đến mức giá cổ phiếu từng ngày. Những công ty lớn tham gia vào thị trường vốn tìm kiếm những khoản đầu tư mới cũng có thể tác động đến giá cổ phiếu. Tuy nhiên, về ngắn hạn, có thể không có sự liên hệ giữa hiện trạng kinh tế và mức giá chung của cổ phiếu. Trong thực tế, giá chứng khoán thường hay rất bất ổn. Nhưng thị trường chứng khoán trong dài hạn có khả năng cung cấp những tín hiệu về tương lai nền kinh tế.

Dự đoán và những yếu tố ngắn hạn cũng chính là những nhân tố quyết định giá cả một cổ phiếu. Dự đoán và thực tế không nhất thiết là một. Thu nhập của một công ty là một chuyện nhưng dự đoán của những người tham gia thị trường chứng khoán lại là chuyện khác.

Tuy nhiên, cho dù bất ổn thế nào, thị trường chứng khoán vẫn là một cơ chế kỳ hạn phức tạp và hữu ích. Một nhà quan sát kinh tế ưu tú không thể bỏ qua mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán và nền kinh tế. Thực tế, những mô hình kinh tế của các nền công nghiệp hiện đại đều bao gồm ít nhất 1 chỉ số chứng khoán với tư cách là một chỉ số kinh tế dự đoán (leading economic indicator). Tại Mỹ, chỉ số Standard and Poor 500 được sử dụng như là một chỉ số dự đoán hàng đầu của Chính phủ nước này. Tại Canada, chỉ số TSE 300  của thị trường chứng khoán Toronto cũng được sử dụng như một chỉ số dự đoán chính thức của nền kinh tế Canada.

Thị trường chứng khoán là kết quả cuối cùng của quyết định chung giữa người bán và người mua cổ phiếu, ảnh hưởng mức độ của các hoạt động kinh tế. Ngoài ra, còn có mối liên hệ giữa biến động trong đầu tư và biến động trên thị trường chứng khoán. Giá cổ phiếu phản ánh những cơ hội của nền kinh tế đối với đầu . Giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi có nhiều cơ hội đầu tư sinh lợi nhuận trong nền kinh tế. Điều ngược lại cũng đúng, nghĩa là khi cơ hội đầu tư giảm hoặc bị đe dọa, hoặc được nhận xét như vậy, giá chứng khoán có xu hướng giảm. Số liệu công bố hàng quý của Mỹ cho thấy, sự biến động theo năm của chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones phản ánh những thay đổi hàng năm trong tổng sản phẩm quốc gia thực tế. Nhà kinh tế Mỹ đoạt giải Nobel, James Tobin, đã đề xuất là, các công ty nên đưa ra quyết định đầu tư dựa vào một tỷ lệ (sau này nổi tiếng là chỉ số q của Tobin) được định nghĩa là kết quả của việc định giá của thị trường chứng khoán về nguồn vốn hiện tại so với chi phí thay thế của nguốn vốn này.

q = Giá trị thị trường của nguồn vốn hiện tại/Chi phí thay thế của nguồn vốn hiện tại

Trong công thức trên của Tobin, giá trị thị trường của nguồn vốn hiện tại do thị trường chứng khoán quyết định trong khi chi phí thay thế của nguồn vốn hiện tại là giá của nguồn vốn nếu nó được bán đi trong ngày hôm nay.

Đầu tư nên dựa vào việc so sánh giá trị q với 1. Nếu q lớn hơn 1, thị trường chứng khoán định giá nguồn vốn cao hơn chi phí thay thế của nó. Trong trường hợp này, các nhà quản lý có thể tăng giá trị cổ phiếu bằng cách mua thêm vốn, đào tạo nhân viên mới, mua thiết bị mới, mua thêm nhà máy… bằng cách tăng cường đầu . Nguyên do là vì thị trường đánh giá rất cao sinh họat do thành lập vốn đầu tư hiện hửu, so với số tiền chi phí đầu tư hiên tại nhằm đem lại lợi nhuận tương lai. Ngược lại, nếu giá trị của q nhỏ hơn 1, tử số nhỏ hơn giá trị của mẫu số, tức là hiện nay thị trường đánh giá vốn hiện hửu nhỏ hơn chi phí nhằm thay thế số vốn đó. Trong trường hợp cụ thể này, đầu tư sẽ không được khuyến khích. Bởi vì nếu nhiệm vụ chính của nhà quản lý là tăng giá trị của công ty, nhà quản lý ấy sẽ không nhận thấy một nhân tố kích thích nào để thay thế nguồn vốn hiện tại khi đã khấu hao hết. Chúng ta cũng biết rằng, đầu tư là động cơ quan trọng nhất của tăng trưởng kinh tế dài hạn. Trong khi đó, tăng trưởng tổng sản phẩm quốc gia phụ thuộc vào mức độ đầu tư và tiêu dùng.

Tại sao thị trường chứng khoán lại bất ổn?

Thực tế, về ngắn hạn, thị trường này có thể bất ổn và có vẻ hoạt động rất phi lý. Nguyên nhân, một mặt là mỗi người mua đều cần một người bán để tiến hành giao dịch, mỗi người bán lại cần một ngời mua để hoàn thành giao dịch. Mặt khác, thông tin mới trên thị trường và cách thức mà con người diễn giải chúng có thể thay đổi dự đoán của người bán và người mua.

Chúng ta cần thiết phải có hai quan điểm khác nhau về một loại chứng khoán được mua và bán, hoặc ít nhất hai nhu cầu khác nhau, một nhu cầu tung tiền mặt để đầu tư (mua chứng khoán) của người mua và một nhu cầu bán chứng khoán để lấy tiền mặt của một cổ đông. Đó cũng là một lý do, tại sao thị trường chứng khoán có thể bất ổn. Dự đoán tác động đến giá chứng khoán nhưng dự đoán nào, sớm hay muộn cũng phải được kiểm chứng bằng thực tế; trong khi đó, dự đoán hiện tại có thể đẩy giá chứng khoán chệch hướng. Ngoài ra, dự đoán được hình thành và điều chỉnh theo dòng thông tin liên tục cập nhật trên thị trường. Nếu mọi người đều tin rằng, một công ty sắp sửa làm ăn phát đạt và nếu giả định này lan rộng trong công chúng, khó có thể tìm thấy một người bán cổ phiếu của công ty, trừ khi người mua trả giá rất cao. Điều ngược lại cũng không sai khi dự đoán có tác động tiêu cực.

Tuy nhiên, về dài hạn, dự đoán nhất thiết phải đáp ứng được với thực tế. Vì vậy, trong khi thị trường chứng khoán có thể là cơ chế dự đoán trước sự kiện kinh tế trong tương lai thì trong ngắn hạn, nó lại trở nên vô cùng biến động. Khi một người quyết định mua cổ phiếu, người này dự đoán sẽ thu lợi nhuận từ khoản tiền người ấy bỏ ra, dưới dạng lên giá vốn hoặc dưới dạng hưởng nhận cổ tức (phần lợi nhuận mà công ty chia cho các cổ đông), hoặc cả hai. Cả hai trường hợp sẽ chỉ xảy ra trong tương lai.

Người mua cổ phiếu là người mong đợi; họ không chỉ trông chờ ở nơi giá trị hiện tại của cổ phiếu mà chủ yếu là mong đợi thu nhập tương lai từ cổ phiếu này sinh ra. Một cổ phiếu có thể có giá trị hiện tại cao hơn nếu công ty chia tách ra từng mảnh và được bán đi như những phần tài sản riêng biệt; nhưng giá trị thị trường hiện tại của cổ phiếu đó có thể thấp hơn nhiều so với giá trị của tổng tài sản, nếu những tài sản này được ngay lập tức bán cùng một lúc. Đó là trường hợp của những công ty sản xuất ô tô Mỹ cuối những năm 1970 sau cuộc khủng hoảng năng lượng. Giá cổ phiếu của một công ty như Chrysler đã được bán trên thị trường với giá bằng 1/3 giá trị của nó, nếu tính theo giá trị trong trương hợp khi công ty nầy được chia nhỏ và bán đấu giá ngay lúc ấy.

Khi thông tin thị trường được cập nhật hàng ngày hoặc thậm chí từng phút trong ngày, dự đoán được điều chỉnh theo tính sẵn có của thông tin. Vì vậy, nếu tất cả người tham gia trong thị trường được thông tin hoàn hảo và đều nhạy bén trong việc dự đoán xu hướng của mỗi công ty trong tương lai thì thị trường chứng khoán sẽ trở thành một cơ chế dự đoán hoàn hảo. Tuy nhiên, thực tế không hoàn thiện như vậy.

Thị trường chứng khoán cho phép người mua và người bán phương tiện sản xuất có thể thuận tiện liên lạc với nhau. Các công ty hoặc các cá nhân cần vốn để đầu tư cho kinh doanh và những người tiết kiệm không biết làm gì với khoản tiền của mình cần một địa điểm và một mạng lưới tổ chức tốt để gặp gỡ vay mượn. Thị trường chứng khoán là câu trả lời cho nhu cầu này.

Tuy nhiên, để thu hút người tham gia một cách hiệu quả, chúng ta cần một tổ chức danh tiếng và hoạt động tốt. Sự thống nhất, sự tín nhiệm của người tham gia và lòng tin công chúng là những ưu tiên hàng đầu của bất kỳ thị trường thành công và nổi tiếng nào.

Chúng ta cũng cần tính thanh khoản và chiều sâu của một thị trường chứng khoán hoạt động với một công suất cao. Tính thanh khoản, nghĩa là nếu người mua một cổ phiếu XYZ muốn mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, người bán loại cổ phiếu này luôn sẵn sàng tiến hành giao dịch này. Sự sẵn sàng, trong thời buổi hiện đại, nghĩa là ngay giây phút mà nhu cầu phát sinh, trong cùng ngày, chứ không phải ngày mai hay một tuần tới.

Một cổ phiếu có thể được bán và mua dễ dàng trên thị trường chứng khoán được coi là có tính thanh khoản. Một thị trường chứng khoán mà tất cả các giao dịch đều có tính thanh khoản được ưa chuộng hơn nhiều, so với một thị trường chứng khoán ít giao dịch, hoặc không có giao dịch nào. Nguyên nhân là thị trường chứng khoán là một cơ chế mà người có nguồn lực tài chính có thể bình thản cho vay để đầu tư dài hạn mà không cần sự cam đoan hoàn trả vốn trong tương lai nhưng vẫn có thể thay đổi ý kiến và lấy lại tiền bất kỳ lúc nào. Thị trường chứng khoán là nơi mà những nhu cầu như thế này được thương lượng. Những khoản vốn lớn có thể được huy động để đầu tư trong thời gian dài với khả năng hoàn trả lại người cho vay bất kỳ thời điểm nào họ mong muốn.

Một ưu điểm nữa của thị trường chứng khoán danh tiếng là chiều sâu của nó. Điều này có nghĩa là nếu một người cần mua hoặc bán một khối lượng lớn cổ phiếu XYZ, người ấy có thể thực hiện trong vài phút bằng cách gọi điện cho nhà môi giới, đặt lệnh và nhận một báo cáo rằng lệnh đã được thực hiện, thông báo số lượng cổ phiếu được mua, hoặc bán tại một mức giá và thời điểm chính xác. Nếu giao dịch này được thực hiện trực tuyến, lệnh sẽ được thực hiện trong vài giây. Thực tế, hàng triệu cổ phiếu và hàng tỷ USD có thể được giao dịch trong mỗi phút trên thị trường New York, hoặc NASDAQ.

Tính bất ổn trên thị trường chứng khoán và hiệu ứng sòng bạc

Do thị trường chứng khoán cần tính thanh khoản và chiều sâu, những công ty danh tiếng niêm yết cổ phiếu trên một thị trường chứng khoán danh tiếng cần phải có những chuyên gia có nhiệm vụ đảm bảo rằng bất kỳ lệnh bán hoặc mua nào, một vài cổ phiếu hay hàng triệu cổ phiếu đều được thực hiện ngay lập tức. Và điều đó cũng có nghĩa rằng ngay khi giây lệnh chạm sàn giao dịch chứng khoán, lệnh đó ngay lập tức được thực hiện và báo cáo.

Thực tế là giá chứng khoán thay đổi trong mỗi giao dịch trong ngày, với một khối lượng lớn giao dịch là cơ hội kiếm lời của các nhà hoạt động chứng khoán có thông tin đầy đủ. Thực tế này cũng làm nảy sinh tư tưởng cờ bạc trong thị trường chứng khoán. Do đó cũng không quá cường điệu khi nói rằng, những biến động ngắn hạn của thị trường chứng khoán cũng giống như một hình thức đánh bạc.

Đầu cơ có vẻ như là bản chất bất di bất dịch của một thị trường chứng khoán. Chừng nào đầu cơ có giới hạn, cũng giống như mức ô nhiễm thấp trong không khí mà chúng ta hàng ngày vẫn hít thở, nó sẽ không gây hại.  Đầu cơ là một cách để chia sẻ rủi ro thị trường cho tất cả những người tham gia: các nhà đầu tư dài hạn, những nhà kinh doanh ngắn hạn và các nhà đầu cơ. Nhà đầu tư trong thị trường chứmg khoán, nói chung là người vạch ra kế hoạch thu lợi từ thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư dài hạn là người mua cổ phiếu bằng nguồn lực tài chính của mình trong một thời gian dài nhằm góp phần tạo ra của cải cho xã hội. Các nhà môi giới là người góp phần giúp thị trường hoạt động hiệu quả hơn, làm tăng tính thanh khoản và chiều sâu của thị trường này. Nhà đầu cơ là người chỉ lợi dụng những điểm yếu của thị trường và ít khi cung cấp một dịch vụ nào, trừ việc chia sẻ rủi ro mà nhờ đó sinh ra cơ hội kiếm lời.

Một ví dụ của việc chia sẻ rủi ro trong việc quản lý Quỹ trợ cấp, là công cụ bình ổn giá cả cho những người sản xuất nông nghiệp: công cụ này có thể bảo vệ tài sản trong ngắn hạn trước biến động giá cả bằng cách đặt cược mức giá cổ phiếu mà họ đang sở hữu. Ví dụ, Quỹ có thể cần 100 triệu USD trong vòng 12 tháng tới để trả lợi tức cho những người nghỉ hưu. Nếu quỹ thanh toán ngay số tiền này, quỹ sẽ mất đi khoản lợi nhuận trong 12 tháng, giả định là 9%. Nếu lãi suất ngắn hạn chỉ là 3%, quỹ sẽ mất đi 6% lãi. Các nhà đầu cơ có thể vào  cuộc bằng việc đánh cuộc rằng giá trị cổ phiếu mà quỹ này nắm giữ sẽ tăng 9% như dự đoán. Khi đó, họ sẽ đảm bảo với quỹ về giá dự đoán của cổ phiếu trong12 tháng sắp đến. Vì vậy, các nhà đầu cơ có thể thu lợi hoặc thua lỗ, trong khi quỹ có thể yên tâm với mức giá cổ phiếu dự đoán trong 12 tháng tới.

Một điểm khác biệt cơ bản giữa thị trường chứng khoán và một sòng bạc, là người chủ sòng bạc trong thưc tế là người quyết định tỷ lệ thắng. Vì thế chủ sòng bạc sẽ luôn luôn đặt mình vào thế thắng. Điều đó lý giải vì sao sòng bạc (casino) có khả năng xây những toà nhà lớn, thuê một đội ngũ nhân viên khổng lồ để thu hút người chơi và còn có thể kiếm những khoản lời kếch sù: nguyên tắc của casino luôn luôn là đặt thế thắng vào người chủ sòng bạc, vì vậy cho phép họ có thể thắng bạc so với số đông những kẻ chơi bạc khác.

Một ví dụ cụ thể là quy luật của trò roulette trong các sòng bạc, trong đó kết quả dựa trên 38 số: từ 1 đến 36 cộng với số 0 và số 00. Người chơi có thể đặt cược vào một số nào đó, từ 1 đến 36 và số 0 và 00; nếu thắng, người ấy được trả gấp 36 lần số tiền đặc cược. Nhưng casino có 38 kết quả khác nhau, vì vậy, nếu người chơi đặt cược 1 USD vào mỗi số, người ấy sẽ mất 2 USD mỗi lần: lý do là chỉ lấy lại được 36 USD sau khi đã chi 38 USD.

Có một cách để người chơi tăng tỷ lệ thắng bạc của mình, đó là giải pháp ”đai ghì đầu ngựa”. Nó đòi hỏi người chơi phải có trong tay một số lượng tiền lớn, để tăng xác suất thắng bạc. Nó đòi hỏi người chơi liên tiếp đặt cược vào một con số với một số tiền như nhau, cho đến khi người ấy đạt đến giới hạn tối đa thanh toán, khi đó sẽ tăng tỷ lệ đặt cược vào đúng con số đó cho đến khi thắng bạc. Tuy nhiên, casino quy định giới hạn tối đã đối với mỗi lần đặt cược, vì vậy, trò này trở thành vô tác dụng trong sòng bạc.

Thị trường chứng khoán lại hoàn toàn khác với một sòng bạc, ít nhất ở những nền công nghiệp hiện đại, với luật sở hữu tài sản hoàn hảo và quy tắc kinh doanh rõ ràng, dưới sự giám sát của những cơ quan luật pháp quốc gia. Các quy tắc cũng được thiết lập mà không ưu tiên cho bất kỳ nhóm đầu tư nào. Bất kỳ thông tin liên quan nào cũng được công bố rộng rãi và tất cả đều có cơ hội tiếp cận chúng. Nếu bạn biết thu thập tất cả thông tin liên quan và biết cách phân tích chúng để ra quyết định, xác suất thắng cuộc chắc chắn sẽ nghiêng về phía bạn.

Tuy nhiên, còn đó hai vấn đề: a) làm thế nào và lấy thông tin ở đâu (thực tế này không phổ biến cho lắm) và b) làm gì với thông tin nhận được. Nếu biết cách phân loại, lựa chọn và xử lý một khối lượng lớn thông tin, bạn có thể hành động trong thị trường chứng khoán như một chủ sòng bạc như đã đề cập ở trên. Mặt khác, nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán mà không quan tâm đến việc thu thập thông tin hoặc không biết cách phân tích thông tin, họ có xu hướng hành động như người chơi bạc: xác suất thắng của họ cũng chẳng hơn những kẻ đánh bạc. Tuy nhiên, thực tế là trong khi nhiều sòng bạc kiếm được tiền, thì một số vẫn thua lỗ, ít nhất là tạm thời, khi một số khách hàng của họ gặp hên, hoặc do kết quả của việc quản lý yếu kém của sòng bạc.

Chơi bạc như một người chủ sòng bạc hay trên thị trường chứng khoán đều đi kèm với rủi ro. Tuy nhiên, tỷ lệ được, mất đều phụ thuộc vào hiểu biết của nhà đầu tư chứng khoán, cũng như người chủ sòng bạc.

Kinh doanh chứng khoán là một nghề rủi ro

Trong lý thuyết tài chính và kinh tế, giả thuyết nổi tiếng là thị trường chứng khoán là một quy trình ngẫu nhiên, đó là giả thuyết Bước Đi Ngẫu Nhiên (Random Walk). Theo giả thuyết này, thị trường chứng khoán là kẻ chiết khấu những sự kiện tương lai rất hiệu quả, vì vậy, giá chứng khoán hiện tại luôn phản ánh lợi nhuận tương lai, do đó, không ai có thể kiếm lời với một tỷ suất lợi nhuận liên tục quá cao trong thời gian dài. Không ai có thể phủ nhận thực tế rằng, thị tường chứng khoán là một kẻ chiết khấu những cơ hội của tương lai.

Thực tế, thị trường chứng khoán cung cấp những tín hiệu đầu tiên của bất kỳ một cuộc suy thoái kinh tế nào trong lịch sử. Cuộc suy thoái hiện tại cũng không phải là ngoại lệ.  Thị trường chứng khoán bắt đầu suy sụp trước khi một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra. Và thông thường giá cổ phiếu bắt đầu nhích lên trước khi kinh tế phục hồi.  Tuy nhiên, những thông tin được công bố rộng rãi cũng không cho phép một người bình thường dự đoán được tương lai. Nếu bạn bán cổ phiếu trong thời kỳ suy thoái đã chính thức được thừa nhận và mua cổ phiếu khi nền kinh tế đã đang trên đà tăng trưởng, bạn đã bỏ lỡ nhiều cơ hội và những gì bạn nắm bắt được không sinh lời cho lắm. Thậm chí, bạn sẽ có thể gặp phải kết cục khá tồi tệ so với một nhà đầu tư nắm trong tay một danh mục đầu tư đa dạng trong một thời gian dài. Mặc dù thời điểm mua cổ phiếu là một yếu tố quyết định sự thành công thì việc bán cổ phiếu lại là một thách thức khác. Trong một chiến lược đầu tư, thời điểm bán ra là thời điểm quyết định toàn bộ tỷ suất lợi nhuận của quyết định đầu tư của bạn.

Một nhà đầu tư trung bình trên thị trường chứng khoán không thể nào thu nhập được hơn tỷ suất của thị trường. Một nhà đầu tư trung bình hành động theo thông tin có sẵn trên thị trường mà không có sự phân tích sắc sảo nào. Một nhà đầu tư chứng khoán sắc sảo suy nghĩ và hành động hơn hẳn đám đông và thường đối lập với quan niệm và nhận thức của quần chúng.

Trong số những nhà đầu tư chứng khoán sắc sảo lại có một số sắc sảo và đại hơn: trong số những nhà đầu tư thành công, có một số nổi bật hơn cả. Đó là những tên tuổi lớn trong quá khứ cũng như hiện tại. Hai tên tuổi lớn danh tiến là: nhà kinh tế người Anh, David Ricardo, của thế kỷ 19, một trong những người sáng lập Kinh tế học cổ điển, được biết đến như là một nhà đầu tư chứng khoán bậc tài: ông ta thu được những khoản tiền khổng lồ khi còn rất trẻ. Một người khác, nổi tiếng gần đây hơn là nhà kinh tế người Anh, John Maynard Keynes, của thế kỷ 20. Ông là người sáng lập ra thuyết kinh tế mới thay thế kinh tế cổ điển của thời đại Ricardo. Ông cũng là một nhà cố vấn kinh tế quốc tế, có ảnh hưởng rất lớn đối với quan điểm kinh tế và đối với nhiều viện kinh tế phương Tây được thành lập sau Đại chiến thế giới thứ 2. Ông cũng nổi tiếng là giáo sư giàu có của Đại học Cambridge và từng là một nhà kinh doanh chứng khoán ngắn hạn kỳ tài. Ông thậm chí còn kiếm lời cho trường đại học của mình khi đầu tư ngắn hạn vào một quỹ thừa kế bằng cách tăng giá trị của quỹ lên 10 lần dưới sự quản lý của ông.

Nhà kinh tế người Mỹ Bernard Baruch, thế kỷ 20 cũng là một trong những người nổi tiếng trong giới đầu tư chứng khoán. Ông cũng nổi tiếng vì  đã cứu Thủ tướng Anh, Winston Churchill, khỏi phá sản do không hiểu biết về thị trường chứng khoán. Winston Churchill, một chính khách đại, thủ lĩnh của nước Anh trong Đại chiến thế giới thứ 2 đã có dịp trở thành nạn nhân của việc đầu cơ chứng khoán. May thay, ông đã kể chuyện mua bán của mình cho người bạn Bernard Baruch; ông này rất ngưỡng mộ Churchill như một nhà lãnh đạo chính trị nhưng không tin tưởng vào khả năng đầu tư chứng khoán của bạn mình. Khi Churchill kể cho Baruch về việc mua quá nhiều một loại cổ phiếu, Baruch đã bù đắp lại khoản tiền mua này ày bằng cách bán một khối lượng tương tự loại cổ phiếu trên. Sau đó, khi thị trường sụp đổ, ông Baruch đã lấy lại được đúng khoản tiền mà nhà chính khách Anh đã bỏ ra để mua loại cổ phiếu mà sau đó đã trở thành vô giá trị.

Ngày nay, nhà đầu tư chứng khoán George Soros là một tỷ phú (bằng USD) nổi tiếng vì sự sắc sảo trong đầu tư, không chỉ trên thị trường chứng khoán mà còn trong những lĩnh vực đầu tư khác. Tỷ suất thu nhập dài hạn của quỹ tương hỗ của ông ta lên tới gần 30% hàng năm trong nhiều thập niên liên tiếp trở lại đây. Ông ta cũng nổi tiếng là nhà kinh doanh khôn ngoan trong giao dịch ngoại hối và một số lĩnh vực khác. Tuy vậy, cũng có khi ông ta thua lỗ hàng trăm triệu USD.

Warren Buffet là một nhà tỷ phú khác của Mỹ và có thể là nhà đầu tư chứng khoán thành công nhất trong lịch sử chứng khoán hiện đại. Chèo lái con thuyền Berkshire Hathaway, một công ty đầu tư, ông ta đã biến khoản vốn nhỏ đi vay từ đầu những năm 1960 thành một khoản đầu tư hàng tỷ USD và thậm chí đã tránh được hàng loạt rủi ro đầu tư. Ông cũng nổi tiếng là một nhà đầu tư chứng khoán giàu có nhất trên thế giới. Tài sản cá nhân của ông có thể ước đoán bằng số cổ phiếu mà ông nắm giữ tại tập đoàn Berkshire và có thể biến động quanh con số 40 tỷ USD. Trong chiến lược kinh doanh của mình, ông Warren Buffet tuyên bố mua cổ phiếu của những công ty mà ông ta thích dựa vào tính toán ban đầu về giá trị của chúng và tiềm năng phát triển dài hạn của những công ty này.

Trong lĩnh vực quỹ đầu tư tương hỗ, chúng ta cũng có thể tìm thấy những nhà quản lý có khả năng liên tục đạt được tỷ suất thu nhập 25% đến 30% trung bình hàng năm, trong suốt cuộc đời hoạt động 20 đến 25 năm của họ. Trong đó có tên Peter Lynch, cựu giám đốc quản lý của Quỹ Fedelity Magellan. Trong lúc chỉ có những nhà đầu tư xuất sắc trong giới đầu tư thị trường chứng khoán như nói ở trên mới có thể đạt được tỷ suất này, những nhà kinh doanh danh tiến đã có thể kiếm được những khoản tài sản hàng tỷ USD, nhưng chỉ thủ nhập được một tỷ suất lợi nhuận trung bình hàng năm là 15%.

Nhóm những người nổi tiếng và giàu có trên thị trường chứng khoán thường đạt được một tỷ suất thu nhập cao vượt trội. Họ là những người từng tiên đoán được biến động của thi trường trước quần chúng. Tháng 3/2000, trong một buổi phỏng vấn trên truyền hình, một nhà kinh tế học đoạt giải Nobel của Mỹ, Giáo sư Franco Modigliani, đã cảnh báo công chúng về nguy cơ sụp đổ của thị trường chứng khoán NASDAQ. Cảnh báo của ông ta đã rất hợp thời, vì thực tế là chỉ số NASDAQ từ mức 5.000 hồi tháng 3/2000 đã giảm xuống đến một mức giá quá thấp xa như hiện nay. Giáo sư Modigliani không phải là kẻ ngoài cuộc của thị trường chứng khoán. Tại thời điểm đen tối của thị trường chứng khoán đầu những năm 1980, ông cũng đã dự đoán hoàn toàn chính xác mức giá thị trường của Mỹ sẽ lên một cách mãnh liệt. Tất cả những thực tế nói trên cũng đã đưa ra nhiều thắt mắt cho giả thuyết Bước Đi Ngẫu Nhiên.

Đầu tư và khả năng tạo ra của cải của thị trường chứng khoán

Về dài hạn, đầu tư vào thị trường chứng khoán với một danh mục đầu tư đa dạng đại diện cho nền kinh tế quốc dân chính là đầu tư vào nền kinh tế. Trong khoảng thời gian vài thập niên, thực tế là thị trường chứng khoán của những nền kinh tế phát triển luôn luôn đạt được một tỷ suất thu nhập hấp dẫn. Một tỷ suất thu nhập không nhất thiết làm cho bạn trở nên giàu có trong một đêm, nhưng nó nhất thiết cao hơn tỷ lệ lạm phát dài hạn, hoặc tỷ suất thu nhập trái phiếu hoặc của kim loại quý.

Thực tế này đã được kiểm chứng trong lịch sử và không chỉ đúng với nền kinh tế Mỹ trong thế kỷ 20 mà còn luôn luôn đúng trong quá khứ của những nền công nghiệp hiện đại. Đối với thị trương Mỹ, sự kiện nầy có thể được kiểm chứng dùng một số chỉ số đại diện cho thị trường Mỹ. Những chỉ số nổi  tiếng thi trường chứng khoán Mỹ là:

  • Chỉ số NASDAQ
  • Chỉ số thị trường chứng khoán New York, chỉ số của tất cả các loại cổ phiếu giao dịch trên thị trường Wall Street
  • Chỉ số Standard and Poor 500
  • Chỉ số trung bình Dow Jones, chỉ số lâu đời nhất và nổi tiếng nhất.

Chỉ số Dow Jones ban đầu chỉ là trung bình cộng giá cổ phiếu của 65 tập đoàn lớn giao dịch trên thị trường Mỹ: 30 công ty trong ngành công nghiệp, 20 công ty trong ngành vận tải và 15 công ty trong ngành dịch vụ công cộng.

Chỉ số NASDAQ, một phần lớn đánh gía hoạt động của lĩnh vực công nghệ cao tại Mỹ là chỉ số mới nhưng ngày càng có tầm quan trọng tính về khối lượng và giá trị trong mấy năm gần đây. Tuy nhiên chỉ số chứng khoán lâu đời và nổi tiếng nhất tại Mỹ là chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones, đánh giá giá trị trung bình cổ phiếu của 30 công ty công nghiệp hàng đầu của Mỹ. Chỉ số này có lịch sử lâu đời từ thế kỷ 19. Trong hai thập niên vừa qua, tỷ suất lợi nhuận của những loại cổ phiếu hàng đầu này là trung bình trên 18%, trong đó gồm cả lợi tức và tăng giá vốn. Nguyên nhân lý giải cho tỷ suất cao kỷ lục này là nền kinh tế Mỹ trải qua một giai đoạn phát triển dài từ đầu những năm 1980, với một năng suất lao động thần kỳ. Lịch sử cho thấy, kinh tế Mỹ có xu hướng rơi vào suy thoái kinh tế với chu kỳ từ 3 đến 5 năm. Từ năm 1980 kinh tế Mỹ đã trải qua 4 cuộc suy thoái: 1980, 1981-1982, 1990 và cuộc suy thoái hiện nay. Cuộc suy thoái năm 1990 khá nhẹ nhàng và ngắn ngủi và theo những dữ liệu hiện nay, cuộc suy thoái lần này cũng vậy.

Lần tăng trưởng kinh tế Mỹ trước đây kết thúc với một cuộc khủng hoảng là một kỷ lục trong lịch sử. Thành tựu sử dụng máy vi tính, việc áp dụng công cụ sản xuất công nghệ cao trong hàng loạt hoạt động của con người, sự xuất hiện của nền kinh tế Internet trong những năm gần đây, tất cả đã lý giải tỷ suất lợi nhuận tăng bất thường trên thị trường chứng khoán trong 2 thập niên vừa qua. Điều này dường như cũng bày tỏ ra rằng, một nền kinh tế trì trệ có thể được tiếp sức trở thành một nền kinh tế năng động tăng trưởng nhanh bằng một phương thức quản lý kinh tế tích cực, mở cửa và hướng về thị trường cùng với việc áp dụng hàng loạt những phương thức sản xuất công nghệ cao.

Mức tỷ suất lợi nhuận 18% của thị trường chứng khoán Mỹ trong hai thập kỷ vừa qua cao gấp hai lần tỷ suất tiêu chuẩn trong lịch sử. Tỷ suất lợi nhuận trung bình từ cuối thế kỷ 19 là chỉ độ 9%, nhưng vẫn cao hơn tỷ lệ lạm phát, lúc đó là khoảng 3%/năm trung bình và tỷ suất trái phiếu.

Thành tích của thị trường chứng khoán Mỹ từ thời kỳ Đại khủng hoản kinh tế đến nay

Sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929, tiếp đó là Đại khủng hoảng năm 1930, chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones, đã giãm từ mức 400 điểm trước suy thoái, và đã mất đi 90% giá trị của nó. Mãi đến năm 1953 mới phục hồi được mức giá cũa trước cuộc Đại khủng hoảng. Từ năm 1966 đến 1982, chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones, gồm có 30 tập đoàn lớn và co uy tín nhất của Mỹ dao động ở mức 1036.27 (đạt được trong lần tăng trưởng kinh tế của năm 1972) và 577.60 ( mức đáy của cuộc suy thoái của năm 1974-1975). Cũng trong giai đoạn này, nền kinh tế thế giới cũng sa vào thời kỳ trì trệ vì lạm phát và năng suất thấp. Từ mức thấp nhất của thời kỳ khủng hoảng kinh tê năm 1981-1982, chỉ số Dow Jones bắt đầu nhích lên và tăng vọt lên đến mức 10.000 điểm, tại thời điểm của bài viết này.

Một trong những cách ước lượng tổng tỷ suất lợi nhuận dài hạn của chứng khoán Mỹ (bao gồm lợi tức và tăng giá vốn) là nghiên cứu hoạt động của chỉ số Dow Jones 30. Bằng cách tính toán đơn giản, chúng ta có thể ước tính tỷ suất lợi nhuận của thị trường chứng khoán tại từng thời điểm. Kết quả rất khác nhau phụ thuộc vào thời gian, ngắn hay dài, nắm giữ cổ phiếu và sự tăng trưởng của nền kinh tế. Giai đoạn từ đầu năm 1967 đến cuối 2001 (35 năm) vượt qua một thời kỳ trì trệ khá lâu 1966-1982 (kinh tế suy thoái và lạm phát tăng vọt). Mặc dù trong thời kỳ 15 năm này, kinh tế hoạt động kém hiệu quả, danh mục chỉ số Dow Jones 30 vẫn đạt được một tỷ suất lợi nhuận cao là 11%/ năm (bao gồm lợi tức và tăng giá vốn). Cổ tức trả hàng năm của các cổ phiếu Dow Jones 30 tăng dần theo từng năm, vì vậy, nếu so sánh với số vốn đầu tư ban đầu, riêng cổ tức đã đạt được mức 14%. Vì vậy, bạn càng giữ được những cổ phiếu hàng đầu trong thời gian dài, bạn càng có nhiều cơ hội gặt hái nhiều lợi tức, và khoản này cao hơn nhiều so với thu nhập cố định từ các phương thức đầu tư khác như trái phiếu hay chứng khoán ký gửi. Hình thức chứng khoán ký gửi có thể đảm bảo về danh nghĩa khoản vốn đầu tư của bạn nhưng không đảm bảo sức mua thực tế: nếu tính toán cả mức lạm phát, sức mua của khoản vốn ban đầu sẽ phải trừ đi tỷ lệ lạm phát.

Một thực tế được kiểm nghiệm trong nền kinh tế Mỹ và ở bất kỳ nền công nghiệp phát triển nào là một danh mục đa dạng cổ phiếu mang lại biện pháp bảo vệ hữu hiệu hơn, chống lại sự mất giá của đồng tiền, với tỷ suất lợi tức cao hơn so với thu nhập cố định từ trái phiếu và những hình thức thu nhập cố định khác. Một lý do của sự ưu việt này là thu nhập từ cổ phiếu và thu nhập cố định rất khác nhau, và hơn nửa bản chất con người không thích sự bất ổn khi xét về lợi ích thu được. Điều này đã lý giải phần thưởng mà thị trường dành cho các cổ đông  vì họ là những người chấp nhận tính bất ổn của thu nhập cổ phiếu. Cổ tức chỉ được thanh toán cho cổ đông khi doanh nghiệp có lãi, trong khi tiền lãi của trái phiếu phải được trả bất chấp doanh nghiệp đó có sinh lợi hay không. Nếu không trả được lãi của trái phiếu của mình, doanh nghiệp đó coi như đã đứng trên bờ vực phá sản. Thậm chí, chậm trả lãi cũng đủ khiến cho một doanh nghiệp bị phá sản, bởi vì trong tài chánh, thời gian là tiền bạc và thời gian đã được thoả thuận để thưc hiện hứa hẹn trả tiền là một sự kiện cực kỳ quan trọng. Một hứa hẹn tài chánh không được tôn trọng, hoặc thưc hiện chậm trể là một bước đến bờ lề của cuộc phá sản trong những hệ thống kinh doanh có uy tín. Một lý do nữa dẫn đến  tỷ suất cao hơn hẳn của cổ phiếu là vì chúng đại diện cho sự sở hữu của thành phần năng động nhất của nền kinh tế. Đó là các doanh! nghiệp tư nhân, đó là những người chấp nhận những rủi ro khi tạo ra của cải cho xã hội, vậy còn ai có thể có sự khích lệ nắm giữ và bảo vệ phần của cải tốt đẹp hơn là bản thân những người đã tạo ra của cải như họ? Ngoại lệ có thể xảy ra là vai trò của Chính phủ trong việc thu thuế. Thậm chí quyền đánh thuế của Chính phủ cũng bị hạn chế bởi khả năng di chuyển của các doanh nghiệp giữa những khu vực có ưu đãi thuế hơn, đặc biệt trong thế giới đầy cạnh tranh và mở cửa như hiện nay.

Trong bất kỳ giai đoạn 10 đến 20 năm nào trong lịch sử, một danh mục đầu tư đa dạng trong thị trường chứng khoán luôn luôn hiệu quả hơn những hình thức đâù tư khác, tính về tổng thu nhập thực tế. Trong lịch sử gần đây của kinh tế Bắc Mỹ, cổ phiếu từ thời kỳ cuối những năm 1960 đã đạt được một tỷ suất lợi nhuận trung bình là 11% /năm. Trong bất kỳ giai đoạn 10 năm nào, chỉ số  Dow Jones 30 từ năm 1967 đến 2000, tỷ suất lợi nhuận luôn luôn cao hơn 11%. Nổi bật nhất là thời kỳ 20 năm vừa qua, tính từ cuộc suy thoái kinh tế 1981-1982. Điều này là do tăng trưởng kinh tế đáng kinh ngạc của Mỹ trong giai đoạn này. Ví dụ, một danh mục đầu tư của Chỉ số chứng khoán Dow Jones 30 trị giá 786 USD đầu năm 1967. Lợi tức phát cho cổ đông trong năm đầu tiên của danh mục là 30,19 USD. Sau đó, lợi tức hàng năm tiếp tục tăng cho đến khi đạt 110 USD/năm kể đến vào ngày 31/1/2000. Nói cách khác, chỉ tính tỷ suất lợi tức không mà thôi, đã đạt được gần 14% dựa trên nguồn vốn đầu tư ban đầu năm 1967 (cổ tức 110 so với vốn đầu tư 786). Và chỉ số Dow Jones 30 được định giá 10.024 vào đầu năm 2002, gấp 12 lần giá trị giá trị của nó ở đầu năm 1967. Tuy nhiên, chỉ số tổng hợp Dow Jones đã biến động quan hệ với bối cảnh kinh tế thay đổi của Mỹ. Tuy nhiên, chúng ta có thể điều chỉnh để phản ánh trung thực hơn danh mục đầu tư trên. Đặc biệt trong những năm gần đây, những công cụ tài chính mới và thuận tiện đã được thành lập và giới thiệu trong gi�! �i đầu tư nhằm phản ánh hoạt động của một số chỉ số thị trường, trong đó có chỉ số Dow Jones 30.

Trong vòng 10 năm qua, tính đến 31/1/ 2002, theo báo cáo chính thức của Công ty Dow Jones, chỉ số công nghiệp Dow Jones  đạt trung bình tỷ suất lợi nhuận là 16,12%/năm.

Hiệu quả của việc tạo ra của cải của thị trường chứng khoán được Ban quản lý của Quỹ thừa kế của Giải thưởng tài năng Nobel hiểu rõ hơn ai hết. Trong những năm đầu, việc quản lý vốn đòi hỏi an toàn và do đó, Quỹ chỉ đầu tư vào trái phiếu và những thu nhập cố định có đảm bảo. Kết quả là giải thưởng Nobel được trao trong những năm đầu phải mất nhiều thời gian để đối phó với vấn đề lạm phát. Sự đổi hướng trong chính sách đầu tư cho phép quỹ này có thể đầu tư vào cổ phiếu. Kết quả là quỹ này đã có thể tăng giải thưởng hàng năm từ mức 40.000 USD trong những năm 1960 lên tới hàng triệu USD như ngày nay.

Chính sách đầu tư ở những thể chế danh tiếng trong lĩnh vực công cộng cũng như trong khu vực tư nhân ở Bắc Mỹ đã khéo dùng những công cụ đầu tư đa dạng, trong đó có tham gia vao việc duy trì tỷ số lớn các cổ phiếu cúa thị trường chứng khoán Mỹ. Kết quả của chính sách này đã đem lại một khả năng thích hợp hơn về tìm năng trợ cấp và lợi tức khác của các thể chế ấy cho nhân công của họ.

————————————-

Chỉ số và tín hiệu của thị trường chứng khoán

Bản chất của thị trường chứng khoán là một sinh hoạt rất cầu kỳ, đặc biệt trong những nền công nghiệp hiện đại, cho phép giao dịch một khối lượng lớn cổ phiếu do hàng loạt các công ty hoạt động trong tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế phát hành: mỗi ngày diễn ra hàng loạt giao dịch trên sàn chứng khoán, với một giá trị hàng tỷ USD Mỹ vượt qua biên giới mọi quốc gia.

Thách thức của thị trường chứng khoán đối với nhu cầu quan sát của nhà đầu tư là xây dựng một số công cụ thống kê có thể phản ánh, một cách trung thực, kết quả thực tế của sinh họat đầu tư và cùng một lúc cho phép tiến hành so sánh kết quả ấy theo thời gian. Nhằm hiểu rõ hoạt động của thị trường này và đặc biệt là xu hướng vận động của chúng, chúng ta cần có một hệ thống công cụ thống kê. Những chỉ số hiện hửu đã đươc sử dụng nhằm đánh giá hoạt động của thị trường chứng khoán cũng có thể giúp chúng ta tìm ra vị trí của nó so với quá khứ. Những tín hiệu của thị trường chứng khoán dựa trên các công cụ hệ thống kê cũng có thể giúp chúng ta có đầu mối để tìm ra hướng đi trong tương lai. Những tín hiệu chứng khoán ấy phải thực sự có ích với sự trợ giúp của một số phương pháp đánh giá chính xác theo thời gian. Nếu một chỉ số hoặc một tập hợp chỉ số được xem là tín hiệu có ích, chúng phải hỗ trợ dự đoán xu hướng biến động của giá chứng khoán. Mặt khác, công cụ thống kê sẽ không phản ánh trung thực hoạt động thị trường chứng khoán, nếu chúng bóp méo nghiêm trọng sự thực.

Những chỉ số chứng khoán của thị trường chứng khoán Mỹ

Ngày hôm nay, thị trường chứng khoán hoạt động như thế nào? Làm sao chúng ta biết được điều đó? Một khách du lịch tại một khách sạn hạng sang tại Mỹ có thể được cung cấp chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones hoặc chỉ số NASDAQ ngay tại bể bơi của khách sạn mỗi ngày. Tin tức TV hàng ngày cũng cung cấp những thông tin tương tự vài lần trong ngày.

Hiện nay một số thước đo hoạt đông chứng khoán của Mỹ đã đươc phổ biến rông rải trên báo chí và TV. Thước đo cổ nhất và nổi tiếng nhất là chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones; và chỉ số mới nhất và đang ngày càng chứng tỏ tầm quan trọng ngày nay là chỉ số tổng hợp NASDAQ. Một số chỉ số hữu ích khác được phổ biến trong các phương tiện truyền thông là chỉ số Standard and Poor (S&P), chỉ số Sàn giao dịch chứng khoán New York (NYSE), chỉ số thị trường chứng khoán Amex, chỉ số Wilshire 5000, chỉ số Value Line, chỉ số Advance/Decline, và chỉ số New High/New Low. Một chỉ số khác không được phổ biến lắm nhưng rất hữu dụng là Chỉ số Tổng Thu nhập của kết quả đầu tư chứng khoán, giúp đánh giá tổng hiệu quả sinh hoạt tạo ra của cải của thị trường chứng khoán. Nếu muốn đánh giá hoạt động của một thị trường, chúng ta sẽ cần một loại các công cụ thống kê để đo lường hoạt động của nó.

Có 3 phương pháp chủ yếu để xây dựng chỉ số chứng khoán: phương pháp đánh giá trung bình cộng toán học, tưc là dựa trên giá trị cổ phần dùng toán cộng, phương pháp thứ hai dùng chỉ số trung bình dựa trên giá trị mức vốn trên thị trường và phương pháp thứ ba dùng kiểu đầu tư đa dạng bình đẳng, bất chấp mức giá của mổi công cụ đầu tư hiện hữu trên thị trường. Chỉ số Dow Jones là chỉ số trung bình cộng toán học. Chỉ số NASDAQ, chỉ số S&P, chỉ số NYSE, chỉ số Wilshire 5000 là những chỉ số có chú ý đến mức giá vốn trên thị trường của mổi công cụ thành phần của chỉ số. Chỉ số Value Line là một loại chỉ số khác: đó là một trung bình hình học không tính đến vốn của tất cả cổ phiếu phổ biến mà tập đoàn điều tra và tư vấn đầu tư, Value Line, nghiên cứu và đánh giá. Theo một nghiên cứu về  giá những cổ phiếu phổ biến mà Đại học Chicago tiến hành trong những năm 1960, những loại chỉ số thị trường biểu hiệu cho công cuộc đầu tư bình đẳng không tính đến mức vốn, dựa trên giá cổ phiếu hàng tháng và thu nhập đầu tư của tất cả các loại cổ phiếu NYSE niêm yết từ năm 1926 cũng giành được sự tin tưởng trong giới tài chính. Sau đó, Viện Nghiên cứu Toán Kinh tế đã thường xuyên công bố chỉ số tổng thu nhập cho thị trường NYSE và thị trường Amex trong tạp chí Market Logic của họ. Chỉ số tổng thu nhập có một bản chất khác biệt những chỉ số khác ở chỗ chúng bao gồm cả biến động của giá cổ phần cùng với tiền lời cổ phần và những hình thức! phân phối khác thu nhập được trong thời gian đầu tư: chúng không những diễn tả thay đổi giá cả của các cổ phần, mà còn thống kê tất cả các nguồn thu nhập khác đựơc hưởng thụ trong thời gian của cuộc đầu tư.

Đánh giá thị trường chứng khoán Mỹ bằng chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones

Chỉ số Dow Jone ban đầu là giá trung bình các cổ phiếu giao dịch tại Wall Street. Chỉ số này do Charles Dow thiết lập vào cuối thế kỷ 19, nhằm mục đích mô tả sự biến động giá trị của cổ phiếu các công ty công nghiệp giao dịch trên thị trường Wall Steet. Trong buổi khai sơ, chỉ có một số ít các công ty hoạt động và một số lượng hạn chế cổ phiếu được giao dịch trên thị trường này; tương tự như trong những nền kinh tế kém phát triển hiện nay. Cùng với sự tăng trưởng của kinh tế Mỹ, hàng loạt các công ty đã mở rộng kinh doanh. Cùng một đà tăng trưởng với kinh doanh, số lượng cổ phiếu ngày càng có tính đại diện hơn cho các lĩnh vực của nền kinh tế ngày hôm nay. Hiện nay trên thị trường NYSE có hơn 2.000 công ty niêm yết và trên thị trương NASDAQ có hơn 4.000 công ty niêm yết với các hàng loạt cổ phần của chúng đựơc giao dịch mổi ngày. Nhưng hiện nay, chỉ số Dow Jones chỉ gồm có tất cả 65 công ty hoạt động trong kinh tế Mỹ: 30 công ty đại diện lĩnh vực công nghiệp, 20 công ty đại diện ngành vận tải và 15 công ty đại diện ngành dịch vụ công cộng của Mỹ.

Sau một thời gian hoạt động, đem lại thành công tài chánh, những cổ phiếu của công ty này đã tăng giá trị trên thị trường chứng khoán. Các công ty phát hành cổ phiếu ấy có xu hướng chia nhỏ giá mỗi cổ phần để giảm số giá tiền USD của một cổ phiếu, vì vậy, cho phép cổ phiếu luôn luôn giữ một mức giá tương đối thấp, có tính cách hấp dẫn đối với nhà đầu tư.

Một nguyên nhân của việc chia nhỏ giá mỗi cổ phần là khi giá cổ phiếu tăng lên cao, thường được suy luận là cổ phiếu quá đắt, và khi giá giảm, người ta thường cho rằng cổ phiếu không đắt, thậm chí khi điều này không hẵng đúng. Tuy chỉ số Dow Jones thật sự bao gồm tất cả 65 công ty, gồm có 30 công ty công nghiệp, 20 hãng vận tải và 15 đơn vị dịch vụ công cộng, chỉ số thường được nhắc đến nhiều nhất, như một thước đo hoạt động thị trường chứng khoán Mỹ và nền kinh tế nước này, là chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones 30.

Chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones

Chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones ban đầu là chỉ số trung bình toán học đơn giản giá cổ phiếu của 12 công ty đường sắt và 2 công ty công nghiệp giao dịch tại Mỹ từ năm 1885. Sau đó, với sự phát triển của kinh tế Hoa Kỳ, con số những công ty công nghiệp tăng dần; do đó, số lượng những tập đoàn khổng lồ được chọn lựa nhằm đại diện cho khu vực công nghiệp Mỹ đã tăng lên 30.

Một trong những nhược điểm của chỉ số trung bình toán học là những cổ phiếu hoạt động tốt trong số 30 cổ phiếu thành phần, có xu hướng tăng giá trị quá nhanh theo thời gian; do đó, giá trị cổ phiếu của chúng có ảnh hưởng lớn dần đối với các cổ phiếu thành phần khác của chỉ số.

Kết quả của việc tăng giá cổ phiếu là các công ty phát hành có xu hướng chia cổ phiếu thành 2, hoặc nhiều cổ phiếu nhỏ để giảm lượng USD trong mỗi cổ phiếu với hy vọng chúng trở nên hấp dẫn hơn. Vì việc chia cổ phiếu hiện tại thành những đơn vị cổ phiếu nhỏ hơn, giá tương ứng của loại cổ phiếu của công ty cũng bị chia ra từng những mức giá thấp hơn.

Khi một công ty quyết định chia nhỏ cổ phiếu, số cổ phiếu phát hành của công ty tăng và giá cổ phiếu tương ứng giảm. Tuy nhiên, tại thời điểm chia nhỏ cổ phiếu, tổng giá trị của công ty không thay đổi. Xét về mặt hiệu quả sinh hoạt thị trường, mức giá trung bình cổ phiếu đã giảm chỉ vì một thành phần trong chỉ số trung bình giảm giá trị mặc dù tổng giá trị trung bình của các thành phần không thay đổi.

Ví dụ, một thị trường có 3 công ty A, B và C. Giá trung bình của 3 loại cổ phiếu A,B và C trong thị trường đó được tính vào tháng 1/2001 như sau:

  • Giá cổ phiểu của công ty A: 100 USD
  • Giá cổ phiểu của công ty B: 45 USD
  • Giá cổ phiểu của công ty C: 35 USD

Trung bình cộng của 3 loại cổ phiếu trên là 60 USD ((100+45+35) chia 3) và mẫu số là 3 tại thời điểm tháng 1/2001. Giả sử rằng, vào tháng 1/2002, 3 loại cổ phiếu trên được định giá trên thị trường như sau:

  • Cổ phiếu A: 110 USD
  • Cổ phiếu B: 55 USD
  • Cổ phiếu C: 45 USD

Mức trung bình giá thị trường đã tăng từ 60 lên 70 ((110+55+45) chia cho 3), tức là tăng 16,68% trong năm vừa qua.

Nếu công ty A quyết định chia nhỏ mổi cổ phiểu của mình biến thành hai cổ phiếu, giá cổ phiếu niêm yết của công ty A sẽ trở thành 55 USD, thay vì 110 USD như trước đây. Nguyên do là vì giá trị của công ty A đã được chia ra hai lần nhiều hơn so với trước đó. Một nhà đầu tư nắm 1 cổ phiếu A cũ sẽ đươc 2 cổ phiếu A mới, trong lúc giá trị của công ty không có gì thay đổi. Giá trung bình của 3 loại cổ phiếu sẽ là 51,67 USD ((55+55+45 )/ 3), trong khi giá trị của mức trung bình trước đây là 70 USD ((55×2+55+45)/ 3). Kết quả của việc chia nhỏ cổ phiếu A, nếu không điều chỉnh thích hợp, sẽ đưa đến sự kiện phi lý là giá trị trung bình của thị trường giảm 13,88% trong năm vừa qua (tức là 51,67 USD so với 60 USD), chứ không phải là tăng từ 60 USD đến 70 USD: đây là một kết quả phi lý của việc chia nhỏ cổ phiếu A, bóp méo thực tế sinh hoạt của thị trường.

Để điều chỉnh kết quả phi lý nói trên, có hai phương pháp: một là nhân giá cổ phiếu A với 2, để đem lai giá trị của thị trường trước khi chia, hai là tìm ra một mẫu số mới để loại bỏ sự bóp méo về giá do việc chia nhỏ cổ phiếu A gây ra. Nếu không có một trong hai phương pháp trên, kết quả trung bình mới sẽ không thể đại diện một cách hợp lý hoạt động của thị trường chứng khoán. Giá trị thực tế của mức trung bình mới phải được giữ nguyên, nhằm phản ánh thay đổi giá trị thực trong mức trung bình của thị trường, từ tháng 1/ 2001 đến tháng 1/2002.

Phương pháp điều chỉnh của chỉ số Dow Jones

Trước tháng 9 năm 1928, chỉ số Dow Jones được điều chỉnh bằng cách nhân cổ phiếu chia nhỏ với một nhân tố để phục hồi giá trị trước khi chia nhỏ. Tuy nhiên, phương pháp này có nhược điểm là một số ít cổ phiếu lại có ảnh hưởng lớn hơn đối với thay đổi của giá trị trung bình của tất cả nhóm: một thành phần có giá trị lớn hơn thì có ảnh hưởng lớn hơn đến biến động của giá trị trung bình. Trong ví dụ trên, % thay biến động giá cổ phiếu A có tác động lớn hơn đến mức trung bình so với biến động của những cổ phiếu có giá trị nhỏ hơn. Ví dụ, 15% biến động cổ phiếu A là 15 USD trong khi 15% biến động ở cổ phiếu C chỉ là 5,25 USD. Khi mọi yếu tố khác không thay đổi, việc tăng 15 USD giá cổ phiếu A có tác động lớn hơn đến mức trung bình hơn việc tăng 5,25 USD của cổ phiếu C. Do đó, phương pháp này có thể đánh giá quá thấp của hoạt động thị trường chứng khoán, nếu kết quả của hoat động thi trường đựơc đại diện bởi mức trung bình với phương pháp điều chỉnh như mới nói ở trên.

Điểm đáng chú ý là trong kết quả của cuộc nghiên cứu gần đây đã đưa đến nhận xét là cổ phiếu giá thấp của các công ty quy mô nhỏ có xu hướng hoạt động tốt hơn những cổ phiếu giá cao của các tập đoàn lớn. Nguyên nhân là chúng đang ở giai đoạn đầu chu kỳ tăng trưởng: mức tăng trưởng ban đầu chậm chạp sau đó trở nên mạnh mẽ hơn vào giai đoạn tăng tốc và cuối cùng là chậm dần khi đã trưởng thành vào cuối chu kỳ tăng trưởng.

Phương pháp thứ hai nhằm giữ nguyên giá trị trung bình là tìm ra một mẫu số mới X, vì vậy tổng giá trị của 3 cổ phiếu thành phần chia cho mẫu số mới sẽ bằng với giá trị trung bình trước khi chia nhỏ cổ phiếu. Trong ví dụ của chúng ta về 3 cổ phiếu A, B và C, mẫu số mới sẽ là 2,214285714. Tổng giá mới của 3 loại cổ phiếu (55+55+45), chia cho một mẫu só mới thích hợp (2,214285714) sẽ đem lại một mức giá trung bình là 70: mức trung bình giá đại diện chính đáng của thị trường gồm 3 cổ phiếu A, B và C tính tại thời điểm tháng 1/ 2002.

Phương pháp thứ hai này (tìm một mẫu số mới, nhỏ hơn làm nhân tố điều chỉnh việc chia nhỏ cố phiếu) đã được chỉ số Dow Jones chấp nhận từ năm 1928: một mẫu số mới được tính toán để phản ánh biến động thực tế giá trị cổ phiếu theo thời gian, sau khi tiến hành phân chia cổ phiếu. Trong những điều kiện này, mẫu số của chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones trở nên ngày càng nhỏ hơn theo thời gian, do kết quả của nhiều lần chia nhỏ các cổ phiếu thành phần. Ban đầu, khi mới hình thành, mẫu số của chỉ số Dow Jones 30 là số 30. Tuy nhiên, khi giá trị của các cổ phiếu thành phần tăng vọt và được chia nhỏ nhiều lần qua các năm, mẫu só hiện tại đứng ở mức thấp hơn nhiều so với giá trị mẫu số ban đầu. Tính đến 17/8/ 2001, giá trị mẫu số là:

+ 0.14452124 đối với chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones 30.

+ 0.20545179 đối với chỉ số vận tải trung bình Dow Jones 20 và

+ 1.6041980 đói với chỉ số dịch vụ công cộng trung bình Dow Jones 15 (Chi tiết, xin tìm hiểu tại http://www.djindexes.com).

Chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones 30, bao gồm những công ty lớn nhất đại diện những ngành đa dạng của nền kinh tế Mỹ. Sau đây là báo cáo của Dow Jones về tiêu chí lựa chọn cổ phiếu để tính toán chỉ số:

”Trong khi không có quy tắc nào để lựa chọn thanh phần của chỉ số, một công ty được lựa chọn chỉ khi có một danh tiếng tốt, thể hiện tăng trưởng bền vững và là mối quan tâm của phần lớn các nhà đầu tư đồng thời đại diện chính xác cho những lĩnh vực hoạt động được chú trọng của chỉ số”.

Trên thực tế, những công ty được lựa chọn là những tập đoàn kinh doanh thành công đã đạt tới một giai đoạn tăng trưởng có thể giúp họ vượt qua được thời kỳ kinh tế khó khăn, tuy nhiên chúng quá cồng kềnh trong việc điều chỉnh với những biến động của nền kinh tế. Chúng thường đại diện cho những ngành công nghiệp, mà tiềm năng tăng tưởng khá hạn chế hoặc ít nhất không phải là ngành công nghiệp có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong nền kinh tế; chúng cũng đại diện cho những ngành công nghiệp đã trưởng thành tại một giai đoạn phát triển cao của chu kỳ tăng trưởng. Thành phần của chỉ số Dow Jones đã thay đổi qua nhiều năm nhằm phản ánh chính xác mức độ quan trọng và tính đại diện kinh tế của mỗi cổ phiếu thành phần trong nền kinh tế Mỹ. Chúng có thể được coi là công cụ đầu tư vào những ngành công nghiệp chính của Mỹ. Tuy nhiên, sự tăng tiến của chỉ số Dow Jones 30 trong 2 thập niên vừa qua đã đem lại một ấn tượng sâu sắc.

Một số ưu điểm của chỉ số trung bình Dow Jones là tính đơn giản, sự phản ánh những ngành công nghiệp trưởng thành và lịch sử lâu đời của nó. Thậm chí nó không phải là chỉ số mà các nhà nghiên cứu ưa thích nhứt,  nhưng lịch sử lâu đời của nó cho phép người ta so sánh được hoạt động của thị trường chứng khoán Mỹ theo thời gian. Vì thế, chẳng có gì ngạc nhiên khi chỉ số Dow Jones được thông báo trên những phương tiện truyền thông tài chính hàng ngày và thậm chí còn được coi là một thông tin kinh tế tài chính quý giá mỗi ngày.

Câu chuyện của Wal-Mart

Năm 1997, Wal-Mart được lựa chọn để thay thế tập đoàn Woolworth trong chỉ số Dow Jones 30. Tập đoàn bán lẻ Wal-Mart hiện là một trong 30 thành phần của chỉ số Dow Jones thường xuyên chia nhỏ cổ phiếu của mình kể từ lần đầu phát hành cổ phiếu. Công ty Wal-Mart đã được niêm yết năm 1970 tại mức giá 16,50 USD/cổ phiếu. Kể từ đó, đã 11 lần công ty chia nhỏ cổ phiếu của mình. Cổ phiếu của công ty này đã tăng trưởng rất nhanh. Từ khi ra đời cho đến đầu tháng 3/ 2002, giá cổ phiếu tăng với tốc độ chóng mặt là gấp 7.720 lần so với giá trị ban đầu. Một khoản 1.000 USD đầu tư vào cổ phiếu Wal-Mart trong lần phát hành đầu tiên năm 1970 đã trở thành 7.720.000 USD; chưa tính cổ tức mà công ty thanh toán hàng năm. Tập đoàn bán lẻ Wal-Mart khởi nghiệp từ những cửa hàng nhỏ và phát triển như một tấm gương thành công đáng kinh ngạc. Đây là một công ty đã áp dụng một mô hình quản lý độc đáo ngay từ khi khởi nghiệp. Đây cũng là một bằng chứng cho thấy, quản lý tốt sẽ tạo nên sự khác biệt trong một ngành kinh doanh rất là bình thường và lâu đời nhất, đó là sinh hoạt bán lẻ. Chất lượng quản lý là một nhân tố quan trọng trong việc lựa chọn cổ phiếu để đầu tư dài hạn.

————————————-

Nhìn thị trường chứng khoán với một quan điểm kinh tế

Thị trường chứng khoán là một mạng lưới người bán và người mua cổ phiếu sở hữu các công ty. Trong những năm gần đây, thị trường chứng khoán xuất hiện ở nhiều nước. Chúng hoạt động vì mục đích phát triển kinh tế bằng cách huy động vốn và đầu tư trong nền kinh tế quốc dân, bằng việc phát hành cổ phiếu ra công chúng.

Thị trường chứng khoán cho phép những người tiết kiệm lớn và nhỏ trực tiếp tham gia vào quá trình tạo ra của cải bằng cách nhận thu nhập trực tiếp từ những công ty kinh doanh thành đạt, dưới dạng lợi tức và tăng vốn. Mặt khác, các doanh nhân giỏi, có ý tưởng hay với sản phẩm và dịch vụ tốt có thể tiếp cận một nguồn vốn khổng lồ thông qua thị trường chứng khoán: đó là thế hai bên cùng có lợi của những người có nguồn lực tài chính nhưng không biết đầu tư một cách hiệu quả và những doanh nhân biết cách cung cấp dịch vụ và sản phẩm mà thiếu vốn. Đây cũng chứng tỏ là một cách hiệu quả để xã hội hoá đầu tư, sản xuất và phân phối thu nhập.

Tại Mỹ, nền kinh tế lớn nhất thế giới, 3 thị trường chứng khoán chính là NASDAQ (Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán ra giá tự động ), thị trường chứng khoán New York và thị trường chứng khoán Amex. Cơ quan quốc gia giám sát và quyết định chính sách đối với tất cả những hoạt động liên quan đến giao dịch chứng khoán là SEC (Uỷ ban Chứng khoán và Giao dịch). Thông thường, thị trường chứng khoán được tổ chức tại một địa điểm hữu hình, nơi người bán và người mua gặp gỡ để thương lượng về việc mua bán như Phố Wall, ở New York, Phố Bay, ở Toronto (Canada), thị trường chứng khoán London, thị trường chứng khoán Paris và ở hàng loạt thị trường khác trên thế giới. Ngày nay, với sự phát triển của các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại, người bán và người mua không cần gặp gỡ tại một địa điểm cụ thể để thương lượng; họ có thể tiến hành những hoạt động này trực tuyến (online), như tại thị trường NASDAQ, người bán và người mua lên mạng để thực hiện những giao dịch của mình.

Thị trường chứng khoán, bản thân nó là một thể thống nhất, và đa dạng bởi số người tham gia; nó cũng phức tạp nhất hoặc có thể hoạt động phi lý nhất, tuỳ theo trí tưởng tượng của con người. Nguyên nhân là thị trường chứng khoán là tấm gương phản chiếu hành vi của những người tham gia vào quyết định mua bán cổ phiếu và hành động của họ có tính chất quyết định mức độ các hoạt động kinh tế. Người bán và người mua trên thị trường chứng khoán cũng hành động chủ yếu dựa vào những gì họ hy vọng thu được trong tương lai từ cổ phiếu được niêm yết trên từng thị trường chứng khoán cụ thể và các phiên giao dịch mỗi ngày. Khi những dự đoán này tăng hoặc giảm, giá trị của các cổ phiếu giao dịch trên thị trường cũng biến động theo. Nói chung, về dài hạn, thị trường chứng khoán là một biểu sồ của nền kinh tế quốc dân. Nếu nền kinh tế mạnh và hứa hẹn nhiều tiềm năng, điều này sẽ được phán ánh trên mức giá cổ phiếu tăng, và ngược lại, nếu nền kinh tế trì trệ, giá chứng khoán sẽ giảm mạnh. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, có thể không có sự liên hệ giữa hiện trạng nền kinh tế và mức giá chứng khoán nói chung. Trong ngắn hạn, giá chứng khoán có thể rất bất ổn, và thị trường chứng khoán không cung cấp những tín hiệu giả về tương lai nền kinh tế.

Các nhà quản lý những khối lượng vốn khổng lồ cũng như những nhà quản lý các Quỹ tương hỗ, Quỹ trợ cấp với hàng trăm tỷ USD dùng để mua bán cổ phiếu thực sự có thể gây ảnh hưởng đáng kể đối với mức giá cổ phiếu mỗi ngày. Những công ty lớn tìm kiếm nguồn vốn đầu tư trên thị trường vốn cũng ảnh hưởng đến giá chứng khoán. Dự đoán và những yếu tố ngắn hạn cũng chính là những nhân tố quyết định giá cả một chứng khoán. Tuy nhiên, dự đoán và thực tế không nhất thiết là một. Thu nhập của một công ty là một chuyện nhưng dự đoán của những người tham gia trên thị trường chứng khoán lại là chuyện hoàn toàn khác.

Tuy nhiên, cho dù bất ổn thế nào, thị trường chứng khoán vẫn là một cơ chế kỳ hạn phức tạp, nhưng hữu ích vì nó vẫn có một mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán và nền kinh tế. Thực tế, những mô hình dự báo kinh tế của bất kỳ nền công nghiệp hiện đại đều bao gồm ít nhất 1 chỉ số của thị trường chứng khoán với tư cách là một biểu số dự báo trước của nền kinh tế tương lai sắp đến. Tại Mỹ, chỉ số Standard and Poor 500 được sử dụng như là một biểu số tiền báo của nền kinh tế quôc gia của chính phủ nước này. Tại Canada, chỉ số TSE 300 của thị trường chứng khoán Toronto cũng được sử dụng như một biểu số tiền báo của nền kinh tế Canada.

Thị trường chứng khoán là kết quả cuối cùng của quyết định chung giữa người bán và người mua cổ phiếu, góp phần quyết định phần lớn mức độ của các hoạt động kinh tế. Có mối liên hệ thực sự giữa biến động trong đầu tư và biến động trên thị trường chứng khoán. Giá cổ phiếu phản ánh những cơ hội của nền kinh tế đối với đầu . Giá cổ phiếu có xu hướng tăng khi doanh nghiệp có nhiều cơ hội đầu tư sinh lợi nhuận trong nền kinh tế. Điều ngược lại cũng đúng, nghĩa là khi cơ hội đầu tư giảm hoặc bị đe doạ, hoặc được hiểu hoặc nhận xét như vậy, giá chứng khoán có xu hướng giảm. Dựa trên số liệu hàng quý của nền kinh tế Mỹ, sự biến động theo năm của chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones phán ánh những thay đổi hàng năm trong GDP thực tế.

Nhà kinh tế Mỹ đoạt giải Nobel James Tobin đã đề xuất các công ty nên ra quyết định đầu tư dựa vào một tỷ lệ, sau này nổi tiếng là chỉ số q của Tobin, được định nghĩa là kết quả của việc định giá nguồn vốn hiện tại so với chi phí thay thế của nguốn vốn này. Khi thị trường chứng khoán đánh giá cao hoạt động kinh doanh hiện tại, điều này cũng có nghĩa là những chỉ số chứng khoán hiện tại có giá trị cao, điều đó kích thích đầu tư và tạo việc làm. Kết quả ngược lại là chỉ số chứng khoán giảm không kích thích được đầu tư mới và việc làm trong nền kinh tế quốc dân. Vì vậy, thị trường chứng khoán là một chỉ số kinh tế quan trọng mà chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu trong những bài viết tiếp theo.

Tại sao TTCK đầy bất ổn mà vẫn có thể đem lại những phần thưởng rất cao?

Tại sao thị trường chứng khoán lại bất ổn trong ngắn hạn, tuy là thị trường chứng khoán đươc xem là một biểu số dự báo kinh tế trong dài hạn khá tốt? Tuy nhiên, thực tế, về ngắn hạn, thị trường này có thể bất ổn và có vẻ như hoạt động rất phi lý.

Nguyên nhân là, một mặt, mỗi người mua đều cần một người bán để tiến hành giao dịch, mỗi người bán lại cần một người mua để hoàn thành giao dịch. Mặt khác, thông tin mới trên thị trường và cách thức mà con người diễn giải chúng có làm thay đổi dự đoán của người bán và người mua. Chúng ta cần thiết phải có hai quan điểm khác nhau về một loại chứng khoán, hoặc ít nhất hai nhu cầu, một nhu cầu tung tiền mặt để mua chứng khoán của nhà đầu tư và một nhu cầu bán chứng khoán để lấy tiền mặt của một cổ đông.

Đối với bất kỳ người mua chứng khoán nào, chúng ta cần một người bán loại chứng khoán này. Đó cũng là một cách để hiểu rằng tại sao thị trường chứng khoán có thể bất ổn, dự đoán tác động đến giá chứng khoán nhưng dự đoán nào, sớm hay muộn cũng phải được kiểm chứng bằng thực tế; trong khi đó, các dự đoán đúng hay sai, chúng có thể đẩy giá chứng khoán chệch hướng. Dự đoán được hình thành và điều chỉnh dựa theo dòng thông tin liên tục cập nhật trên thị trường. Nếu mọi người đều tin rằng, một công ty sắp sửa làm ăn phát đạt và nếu giả định này lan rộng trong công chúng, khi đó, khó có thể tìm thấy một người bán cổ phiếu của công ty, trừ khi người mua định trả giá rất cao. Điều ngược lại cũng không sai khi dự đoán có tác động tiêu cực. Tuy nhiên, về dài hạn, dự đoán nhất thiết phải đáp ứng được thực tế. Vì vậy, trong khi thị trường chứng khoán có thể là cơ chế dự đoán hiệu quả những diễn biến kinh tế trong tương lai thì về ngắn hạn, nó lại trở nên vô cùng biến động.

Khi một người quyết định mua cổ phiếu, người ấy dự đoán sẽ thu lợi từ khoản tiền bỏ ra, dưới dạng tăng giá vốn hoặc dưới dạng cổ tức (phần lợi nhuận mà công ty chia cho các cổ đông), hoặc cả hai. Cả hai trường hợp sẽ chỉ xảy ra trong tương lai.

Người mua cổ phiếu là người mong đợi; họ không chỉ trông chờ giá trị hiện tại của cổ phiếu mà chủ yếu là mong đợi thu nhập tương lai từ cổ phiếu này. Một cổ phiếu có thể có giá trị hiện tại cao nếu công ty chia tách và nếu tài sản của công ty được bán lẽ ra như những tài sản riêng biệt; nhưng nếu những tài sản này không được bán cùng một lúc ngay lập tức, giá trị thị trường hiện tại của cổ phiếu có thể thấp hơn nhiều so với tổng giá trị của tổng tài sản của công ty. Đó là trường hợp của những công ty sản xuất ô tô Mỹ cuối những năm 1970 sau cuộc khủng hoảng năng lượng. Giá cổ phiếu của một công ty như Chrysler được bán với giá bằng 1/3 giá trị của nó khi công ty được chia nhỏ từng bộ phận, từng mảnh tài sản riêng biệt và bán đấu giá. Khi thông tin thị trường trở nên cập nhật hàng ngày hoặc thậm chí từng phút trong ngày, dự đoán cũng được điều chỉnh theo tính sẵn có của thông tin. Vì vậy, nếu tất cả những người tham gia trong thị tường đều được thông tin hoàn hảo và đều nhạy bén trong việc dự đoán xu hướng của mỗi công ty thì thị trường chứng khoán có thể trở thành một cơ chế dự đoán hoàn hảo.

Tuy nhiên, thực tế không hoàn thiện như vậy. Chỉ những nhà đầu tư và những nhà hoạt động thị trường có thông tin mới và đu kinh nghiệm va kiến thức mới có được những quyết định đúng đắn. Điều này lý giải vì sao, đầu tư vào thị trường chứng khoán về dài hạn là một chiến lược hấp dẫn trong bối cảnh nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng; trong ngắn hạn, hoạt động mua và bán cổ phiếu vì lợi nhuận ngắn hạn chỉ có thể là chiến lược đúng đắn khi nhà môi giới có đầy đủ thông tin chính xác va môt trinh độ phân tích khá nhạy bén.

Thi trường chứng khoán là cho phép người mua phương tiện sản xuất và người bán phương tiện sản xuất có thể liên lạc với nhau. Các công ty, hoặc các cá nhân cần vốn để đầu tư cho kinh doanh và những người tiết kiệm không biết làm gì với khoản tiền của mình cần một địa điểm và một hệ thống tổ chức tốt để gặp gỡ vay mượn. Thị trường chứng khoán là câu trả lời cho nhu cầu này. Tuy nhiên, để thu hút người tham gia một cách hiệu quả, chúng ta cần một tổ chức danh tiếng và hoạt động tốt. Sự thống nhất, sự tín nhiệm của người tham gia và lòng tin công chúng là những ưu tiên hàng đầu của bất kỳ thị trường thành công và nổi tiếng nào.

Chúng ta cũng cần tính lỏng và chiều sâu của một thị trường chứng khoán hoạt động hết công suất. Tính lỏng nghĩa là, nếu một người muốn mua cổ phiếu XYZ trên thị trường chứng khoán, người bán loại cổ phiếu này luôn sẵn sàng tiến hành giao dịch trên. Sự sẵn sàng, trong thời buổi hiện đại ngày nay, nghĩa là ngay phút mà nhu cầu phát sinh, cùng ngày, cùng giờ, cùng phút, cùng giây, chứ không phải ngày mai hay trong thời gian một tuần tới. Một cổ phiếu có thể được bán và mua dễ dàng trên thị trường chứng khoán được coi là có tính lỏng. Một thị trường chứng khoán mà tất cả các giao dịch đều có tính lỏng được ưa chuộng hơn nhiều so với một thị trường chứng khoán ít giao dịch hoặc không có giao dịch nào. Nguyên nhân là thị trường chứng khoán là một cơ chế mà người có nguồn lực tài chính có thể bình thản cho vay để đầu tư dài hạn mà không cần hoàn trả vốn trong tương lai nhưng vẫn có thể thay đối ý kiến và lấy lại tiền bất kỳ lúc nào. Thị trường chứng khoán là nơi mà những nhu cầu như thế được thương lượng. Những khoản vốn lớn có thể được huy động trong thời gian dài với khả năng hoàn trả cho người cho vay và nhà đầu tư bất kỳ thời điểm nào họ mong muốn, thông qua thị trường chứng khoán.

Một ưu điểm nữa của thị trường chứng khoán là chiều sâu của nó. Điều này có nghĩa là nếu một người cần mua hoặc bán một khối lượng lớn cổ phiếu XYZ, người ấy có thể thực hiện trong vài phút bằng cách gọi điện cho nhà môi giới, đặt lệnh và nhận một báo cáo rằng lệnh đã được thực hiện, thông báo số lượng cổ phiếu được mua hoặc bán tại một mức giá và thời điểm chính xác. Nếu giao dịch này được thực hiện trực tuyến (online), lệnh sẽ được thực hiện trong vài giây. Thực tế, trong mỗi chốc lác, có thể vài phút, trên thị trường Phố Wall, hàng triệu cổ phiếu và hàng tỷ USD có thể được giao dịch.

————————————-

Nhìn TTCK với một quan điểm của nhà kinh doanh

Thị trường chứng khoán cần tính thanh lỏng (tính thanh lỏng tức là nhu cầu của người mua và người bán đều đứợc đáp ứng tức khác, không phải chờ đợi ngày này qua ngày kia) và chiều sâu (tức là nhu cầu mua và bán một số cổ phiếu rất lớn vẩn được đáp ứng tức khắc). Do đó những công ty danh tiếng có cổ phiếu niêm yết trên một thị trường chứng khoán cụ thể cần phải có những chuyên gia làm nhiệm vụ đảm bảo rằng, bất kỳ lệnh bán hoặc mua nào, một vài cổ phiếu hay hàng triệu cổ phiếu đều được thực hiện ngay lập tức. Và điều đó cũng có nghĩa rằng ngay khi giây lệnh chạm sàn giao dịch chứng khoán, lệnh đó ngay lập tức được thực hiện và báo cáo. Cũng vì nhu cầu tính lỏng và chiều sâu này, một thị trường chứng khoán danh tiếng cần một khối lượng giao dịch khổng lồ mỗi ngày.

Trong thực tế giá chứng khoán thay đổi trong mỗi giao dịch trong ngày, với một khối lượng lớn giao dịch, là cơ hội kiếm lời của các nhà hoạt động chứng khoán có thông tin đầy đủ. Thực tế này cũng làm nảy sinh tư tưởng ”cờ bạc” trong thị trường chứng khoán. Do đó cũng không quá cường điệu khi nói rằng, những biến động ngắn hạn của thị trường chứng khoán cũng giống như một hình thức ”đánh bạc”.

Đầu cơ có vẻ như là bản chất của một thị trường chứng khoán. Chừng nào đầu cơ có giới hạn, cũng giống như mức ô nhiễm thấp trong không khí mà chúng ta vẫn hit thở, nó sẽ không gây hại. Đầu cơ là một cách để chia sẻ rủi ro thị trường cho tất cả những người tham gia: các nhà đầu tư dài hạn, những nhà môi giới ngắn hạn và các nhà kinh doanh to nhỏ. Nhà đầu tư trong thị trường chứng khoán, nói chung là người vạch ra kế hoạch thu lợi từ thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư dài hạn là người mua cổ phiếu bằng nguồn lực tài chính của mình trong một thời gian dài nhằm góp phần tạo ra của cải cho xã hội. Các nhà môi giới và kinh doanh là người góp phần giúp thị trường hoạt động hiệu quả hơn, làm tăng tính lỏng và chiều sâu và đáp lại nhiều nhu cầu khác của thị trường và xã hội. Nhà đầu cơ là người chỉ lợi dụng những điểm yếu của thị trường và ít khi cung cấp một dịch vụ nào, trừ việc chia sẻ rủi ro.

Tính cách chia sẻ rủi ro cũng có phần giúp ích xứng đáng cho một nền kinh tế lành mạnh. Kỷ thuật mà đã dùng từ lâu trong các kinh tế thi trường để chia sẻ rủi ro, để bình ổn giá cả cho những người sản xuất nông nghiệp củng có thể dùng trên thi trường chứng khoán để chia sẻ rủi ro trong việc quản lý quỹ trợ cấp: quỹ này có thể bảo vệ tài sản trong ngắn hạn trước biến động giá cả của các cổ phiếu của quỹ bằng cách mua một hợp đồng bảo hiểm để bảo vệ mức giá cổ phiếu hiện có của quỹ. Hợp đồng đó có thể được chia ra từng đơn vị nhỏ, để có thể đưa ra bán lại dễ dàng trên thi trường cho bất cứ ai có nhu cầu muốn mua, trong số đó lẽ tất nhiên có một số người đầu cơ. Những người đầu cơ mua các đơn vị của bảo hiểm đó chính là những người xung phong chia gánh nặng của mức rủi ro của quỹ.

Ví dụ, Quỹ ABC có thể cần 100 triệu USD tiền mặt trong vòng 12 tháng tới để trả lợi tức cho những người nghỉ hưu. Quỹ cần phải thanh toán một số cổ phiếu để có thể đáp lại nhu cầu tiền mặt. Nhưng vì tính chất bất ổn của thị trường, đến ngày cần tiền mặt để thanh toán thì mức giá thị trường có thể tạm giảm, làm cho Quỹ bị phải bán các cổ phiếu với giá rẽ, phải thua lổ, thiếu hụt. Trái lại, nếu thanh toán ngay các cổ phiếu này trươc ngày thì Quỹ lại mất tiền lời: Quỹ sẽ mất đi khoản lãi trong 12 tháng, giả định là 9%. Nếu lãi suất ngắn hạn của tiền mặt chỉ là 3%, và nếu quỹ thanh toán ngay cổ phiếu này để lấy lại tiền mặt trước và cho vay tiền mặt đó trong lúc chờ đợi, thì quỹ sẽ chỉ nhận được 3% tiền lãi, mất đi 6% lãi trên 100 triệu USD, tức là 6 triệu USD. Trong khi đó, các nhà đầu cơ có thể vào cuộc bằng việc đặt cược rằng, giá trị cổ phiếu mà quỹ này nắm giữ sẽ tăng 9%  như dự đoán, hoăc tăng lên cao hơn mức dự đoán. Khi đó, họ sẽ đảm bảo với Quỹ bằng cách mua các đơn vị của hợp đồng bảo hiểm mà Quỹ đã bán ra, hy vọng kiếm lời khi giá dự đoán của cổ phiếu sau 12 tháng sẽ tăng lên như họ tiên đoán, hoặc tăng lên cao hơn. Vì vậy, các nhà đầu cơ có thể được lãi hoặc thua lỗ, trong khi Quỹ có thể yên tâm với mức giá cổ phiếu dự đoán, đáp lại được nhu cầu ổn định giá cổ phiếu.

Một điểm khác tách biệt cơ bản giữa thị trường chứng khoán và một sòng bạc, đấy là người chủ sòng bạc là người quyết định tỷ lệ thắng cược, vì thế người chủ sòng bạc luôn chủ động đặt mình vào thế thắng. Điều đó lý giải vì sao sòng bạc có khả năng xây những toà nhà lớn, thuê một đội ngũ nhân viên khổng lồ để thu hút người chơi và có thể kiếm những khoản lợi nhuận kếch sù như ỏ khu Las Vegas, hoặc Atlantic City ở Mỹ và nhiều nơi khác: nguyên tắc của casino luôn luôn là đặt tỷ lệ thắng vào cho tổ chức của họ, vì vậy cho phép họ có thể thắng bạc trước số đông những kẻ chơi bạc.

Một ví dụ dành tỷ lệ thắng về nhà chủ của casino là quy luật của trò roulette, trong đó kết quả dựa trên 38 số: từ 1 đến 36 cộng với số 0 và số 00. Người chơi có thể đặt cược vào một số nào đó, từ 1 đến 36 và số 0 và 00; nếu thắng, người khách được trả gấp 36 lần số tiền đặc cược. Nhưng casino có tất cả 38 kết quả, vì vậy, nếu người chơi đặt cược 1 USD vào mỗi số, người âý sẽ mất 2 USD mỗi lần và chỉ lấy lại được 36 USD sau khi đã chi ra 38 USD. Có một cách để người khách chơi bạc tăng tỷ lệ thắng bạc của mình, đó là giải pháp ”đai ghì đầu ngựa”. Nó đòi hỏi người chơi phải có trong tay một số tiền lớn, để tăng xác suất thắng bạc. Người chơi sẽ liên tiếp đặt cược vào một trong 38 con số với một số tiền như nhau, cho đến khi mức chi đạt đến giới hạn thanh toán tối đa, sau đó sẽ tiếp tục tăng tỷ lệ đặt cược vào đúng một con số đó cho đến khi thắng bạc. Tuy nhiên, casino lại có quy định giới hạn tối đa đồng tiền mỗi lần đặt cược, vì vậy, cách đặt cược này không được phép sử dụng trong sòng bạc casino.

Thị trường chứng khoán lại hoàn toàn khác với một sòng bạc. Hoặc là nếu thị trường chứng khoán có xu hướng trở thành một casino, thì mỗi thành viên họăc thân chủ của thị trường đều có thể trở thành một người chủ của casino ấy, ít nhất đối với những nền kinh tế công nghiệp hiện đại, với luật sở hữu tài sản hoàn hảo và quy tắc kinh doanh rõ ràng, dưới sự giám sát của những cơ quan luật pháp quốc gia. Các quy tắc cũng được thiết lập mà không ưu tiên cho bất kỳ nhóm đầu tư nào. Mọi thông tin liên quan nào cũng được công bố và tất cả mọi người đều có cơ hội tiếp cận chúng. Nếu bạn biết thu thập tất cả thông tin liên quan và biết cách phân tích chúng để ra quyết định, xác suất thắng cuộc chắc chắn sẽ nghiêng về phía bạn. Tuy nhiên, còn phải biết: làm thế nào mà lấy thông tin gì, ở đâu và làm gì với thông tin nhận được. Thật sự, thông tin dù có đầy đủ và được phổ biến rộng rải trong thực tế, việc này có thể không đươc phổ biến cho lắm trong đại quần chúng.

Làm gì với thông tin? Nếu bạn biết cách phân loại, lựa chọn các thông tin cần thiết và biết cách xử lý một khối lượng lớn thông tin, bạn có thể hành động trong thị trường chứng khoán như một chủ sòng bạc, như đã đề cập ở trên. Trái lại, người đầu tư vào thị trường chứng khoán mà không quan tâm đến việc thu thập thông tin hoặc không biết cách phân tích thông tin đã từng phổ biến rọng rải trong công chúng, người ấy sẽ hành động như người chơi bạc trong một sòng bài: xác suất thắng của họ cũng chẳng hơn những kẻ đánh bạc. Tuy nhiên, trong khi nhiều sòng bạc kiếm được tiền thì một số vẫn thua lỗ, ít nhất là tạm thời thua lỗ, khi khách hàng của họ gặp hên hoặc do việc quản lý yếu kém.

‘Đánh bạc trong sòng bạc hay trên thị trường chứng khoán đều đi kèm với rủi ro. Tuy nhiên, tỷ lệ được, mất, lời, lổ phụ thuộc vào trình độ hiểu biết của nhà đầu tư chứng khoán, cũng như người chủ sòng bạc.

Bài học từ những nhà kinh doanh chứng khoán sắc sảo

  Trong lý thuyết tài chính và kinh tế, giả thuyết nổi tiếng với cái tên ”Bước đi ngẫu nhiên” (Random Walk) coi thị trường chứng khoán là một quá trình ngẫu nhiên. Theo giả thuyết này, thị trường chứng khoán là một kẻ chiết khấu hữu hiệu của những sự kiện tương lai, giá chứng khoán hiện tại luôn phản ánh lợi nhuận tương lai, vì vậy không ai có thể thu nhập lớn thường xuyên trong tương lai dài. Không ai có thể phủ nhận thực tế thị trường chứng khoán là một kẻ chiết khấu những cơ hội của tương lai.

Thực tế, thị trường chứng khoán đã chiết khấu bất kỳ một cuộc suy thoái kinh tế nào đã xẩy ra trong lịch sử. Cuộc suy thoái hiện tại cũng không phải là ngoại lệ. Thị trường chứng khoán bắt đầu suy sụp trước khi một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu xảy ra. Và thông thường giá cổ phiếu bắt đầu nhích lên trước khi kinh tế phục hồi. Một nhà đầu tư trung bình thường hành động theo những thông tin trên thị trường mà không có một phân tích sắc sảo nào. Một nhà đầu tư chứng khoán khôn ngoan thường suy nghĩ và hành động hơn hẳn đám đông và thường đối lập với sự nhận thức và lòng tin công chúng. Nếu giả thuyết ”Bước đi ngẫu nhiên” hoàn toàn đúng, khó có thể phù hợp với thực tế là có nhiều nhà đầu tư thường xuyên gặc hái đươc thắng lợi rất cao cho danh mục cổ phiếu của họ. Một số nhà đầu tư khác thì liên tục hốt bạc khi đầu tư vào thị trường chứng khoán.

Trong nhóm các nhà đầu tư chứng khoán ưu tú, ta có thể nhận thấy một số tên tuổi lớn trong quá khứ cũng như hiện tại. Trong số những nhà kinh tế nổi tiếng, có hai tên tuổi lớn là: nhà kinh tế người Anh David Ricardo, của thế kỷ 19, một trong những người sáng lập Kinh tế học cổ điển, được biết đến như là một nhà kinh doanh chứng khoán bậc tài: ông đã thu được những khoản tiền khổng lồ khi còn rất trẻ. Một người khác, nổi tiếng gần đây hơn là nhà kinh tế người Anh John Maynard Keynes, của thế kỷ 20. Ông là người sáng lập ra lý thuyết kinh tế mới thay thế lý thuyết kinh tế cổ điển thông dụng từ thế kỷ 19 đến thế kỷ 20. Ông cũng là một nhà cố vấn kinh tế quốc tế danh tiếng, có ảnh hưởng rất lớn đối với chinh sách kinh tế và trong nhiều tổ chức kinh tế phương Tây được thành lập sau Đại chiến thế giới thứ 2. Ông cũng nổi tiếng là giáo sư giàu có của Đại học Cambridge và từng là một nhà đầu tư ngắn hạn danh tiến của thị trường chứng khoán. Ông thậm chí còn kiếm lời cho trường đại học của mình khi đầu tư ngắn hạn cho một quỹ vốn của trương và làm tăng giá trị của quỹ lên 10 lần khi ông quản lý quỹ này.

Nhà kinh tế người Mỹ Bernard Baruch, của thế kỷ 20 cũng là một trong những người nổi tiếng trong giới đầu tư chứng khoán. Ông cũng nổi tiếng vì đã cứu Thủ tướng Anh Winston Churchill khỏi nạn phá sản do không hiểu biết về thị trường chứn khoán. Winston Churchill, một chính khách lừng lẫy, thủ lĩnh của nước Anh trong thời Đại chiến thế giới thứ 2 đã có dịp trở thành nạn nhân của việc đầu cơ chứng khoán.  May thay, ông đã kể chuyện mua bán của mình cho người bạn Bernard Baruch, ông này rất ngưỡng mộ Churchill như một nhà lãnh đạo chính trị nhưng không tin tưởng vào khả năng đầu tư chứng khoán của bạn mình. Khi Churchill kể cho Baruch về việc mua một số quá nhiều một loại cổ phiếu, cũng vì cổ phiếu ấy đã bi giảm giá, Baruch đã bù đắp khoản mua này bằng cách bán một khối lượng tương tự loại các cổ phiếu trên. Sau đó, khi thị trường sụp đổ, ông Baruch đã nhận lấy lại được đúng khoản tiền mà nhà chính khách Anh đã bỏ ra để mua các cổ phiếu, nhưng không mấy lâu về sau đã trở thành vô giá trị.

Ngày nay, nhà đầu tư thị trường chứng khoán George Soros là một nhà tỷ phú nổi tiếng vì sự sắc sảo trong đầu tư, không chỉ trên thị trường chứng khoán mà còn trong những lĩnh vực đầu tư khác. Tỷ suất thu nhập của các quỹ tương hỗ của ông ta lên tới gần 30% hàng năm trong nhiều thập niên liên tiếp trở lại đây. Ông ta cũng nổi tiếng là nhà kinh doanh tinh ranh trong giao dịch ngoại hối và một số lĩnh vực khác. Tuy nhiên, cũng có khi ông ta thua lỗ hàng trăm triệu USD.

Warren Buffet là một nhà tỷ phú khác của Mỹ, và có thể là nhà đầu tư chứng khoán thành công nhất trong thời hiện đại. Chèo lái con thuyền Berkshire Hathaway, một công ty đầu tư, ông ta đã biến khoản vốn nhỏ đi vay từ đầu những năm 1960 thành một khoản đầu tư hàng tỷ USD và thậm chí đã tránh được hàng loạt rủi ro khi đầu tư. Ông cũng nổi tiếng là một nhà đầu tư chứng khoán giàu có nhất trên thế giới. Tài sản cá nhân của ông có thể ước đoán bằng số cổ phiếu mà ông nắm giữ tại tập đoàn Berkshire: khoảng 40 tỷ USD Mỹ tiền giá trị cổ phiếu của riêng ông ta nắm giữ. Trong chiến lược kinh doanh của mình, ông ta tuyên bố mua cổ phiếu của những công ty mà ông ta thích sau khi tính toán giá trị cơ bản của chúng và tiềm năng phát triển dài hạn của những công ty này. Ông ta chỉ bán cổ phần của mình để mua những cổ phiếu khác mà ông ta thích hơn, trong công cuộc liên tục kiếm tìm giá trị trên thị trường chứng khoán.

Trong lĩnh vực quỹ đầu tư tương hỗ, chúng ta cũng có thể tìm thấy những nhà quản lý có khả năng liên tục đạt được tỷ suất lợi nhuận 25% đến 30% trung bình hàng năm, trong suốt cuộc đời hoạt động 20 đến 25 năm của mình. Mặc dù chỉ có những nhà đầu tư xuất sắc như trên mới có thể đạt được tỷ suất thu nhập 25 đến 30% như trên, trong thế giới kinh doanh Mỹ, người ta có thể lập nên cơ nhiệp bằng tỷ USD với những khoản suất lợi nhuận hàng năm chỉ là 15%. Trong khi đó, nhóm những người nổi tiếng và giàu có trong thị trường chứng khoán thường đạt được một tý suất cao vượt trội hơn.

Mội nhận xét khác gần đây: tháng 3/ 2000, một nhà kinh tế học đoạt giải Nobel của Mỹ, Giáo sư Franco Modigliani, trong một buổi phỏng vấn trên truyền hình, đã cảnh báo công chúng về nguy cơ sụp đổ của thị trường chứng khoán NASDAQ. Cảnh báo của ông ta đã rất đúng thời, vì thực tế là chỉ số NASDAQ từ mức 5000 hồi tháng 3/2000 đã giảm xuống dưới mức 1500 hiện nay. Giáo sư Modigliani không phải là kẻ ngoài cuộc của thị trờng chứng khoán. Trong thời điểm đen tối của thị trường chứng khoán đầu những năm 1980, ông cũng đã dự đoán hoàn toàn chính xác giá thị trường chứng khoán của Mỹ sẽ tăng lên mạnh mẽ trong tưông lai: chỉ số Dow Jones luc ấy còn thấp hơn 1,000 so với mức 10,000 trong may năm gần đây.

Tất cả những sự kiện nói trên đặc nhiều câu hỏi cho giả thuyết ”Bước đi ngẫu nhiên”. Giả thuyết nầy có thể diển tã tình trạng của một nhà đầu tư trung bình so với tỷ lệ lợi nhuận của thị trương. Lẽ tất nhiên, một nhà đầu tư trung bình, có mốt trình độ hiểu biết trung bình không sao đem lại một phần lợi nhuận to hơn kết quả của thị trường chứng khoán được, vì kết quả của thị trương chứng khoán là kết quả trung bình của mọi thành phần của thị trường. Thực tế kinh nghiệm cho ta biết có một số dấu hiệu có thể giúp các nhà kinh doanh chứng khoán liên tục thu được những khoản lợi nhuận khá cao. Một số liệu đơn giản như số lượng cổ phiếu tăng giá so với cổ phiếu giảm giá, con số 52 tuần mức giá cao nhất, 52 tuần mức giá thấp nhất, thu nhập hiện tại so với giá cổ phiếu hiện tại, tổng cổ tức liên quan đến giá cổ phiếu hiện tại và một số thống kê khác có thể giup người kinh doanh chứng khoán nhân xét xu hướng vận động cuả thị trường chứng khoán, và vì vậy có thể giúp các nhà đầu tư ấy ra quyết định chính xác. Chúng ta sẽ bàn đến những vấn đề này ở phần sau.

Xét về mặt ngắn hạn, mặc dù tính bất ổn thường kéo theo rủi ro đối với một nhà đầu tư trung bình, những nhà đầu tư xuất sắc vẫn có thể lợi dụng tính bất ổn trong ngắn hạn để kiếm lời. Về dài hạn, đầu tư vào thị trường chứng khoán với một danh mục đầu tư đa dạng, đại diện cho cả nền kinh tế chính là đầu tư vào cả nền kinh tế. Điểm đáng lưu ý là đầu tư một cách đa dạng và dài hạn trong thị trường chứng khoán bao giờ cũng có hậu, và không mất nhiều công sức: chỉ việc mua và giữ một danh mục phong phú cổ phiếu của những công ty danh tiếng đại diện cho nền kinh tế với mục đích tham gia tạo ra của cải cho nền kinh tế quốc dân.

————————————-

Đầu tư và tạo ra của cải trên thị trường chứng khoán

Xét về mặt ngắn hạn, mặc dù tính bất ổn thường kéo theo rủi ro đối với một nhà đầu tư trung bình, những nhà đầu tư xuất sắc vẫn có thể lợi dụng tính bất ổn trong ngắn hạn để kiếm lời.

Về dài hạn, đầu tư vào thị trường chứng khoán với một danh mục đầu tư đa dạng, đại diện cho cả nền kinh tế chính là đầu tư vào cả nền kinh tế. Trong một nền kinh tế năng động và tăng trưởng, những người nắm giữ cổ phiếu xứng đáng được hưởng thu nhập từ đầu tư chứng khoán. Về dài hạn, trong khoảng vài thập niên, thực tế cho thấy, thị trường chứng khoán của các nước kinh tế phát triển đạt được một tỷ suất lợi nhuận rất hấp dẫn. Tỷ suất lợi nhuận không nhất thiết làm bạn trở thành tỷ phú trong một đêm nhưng nó vẫn là cao hơn tỷ lệ lạm phát hoặc tỷ suất lợi nhuận từ trái phiếu hoặc từ kinh doanh kim loại quý.

Lịch sử đã chứng minh điều này và điều đó không chỉ đúng với nước Mỹ trong thế kỷ 20 mà còn được khẳng định trong quá khứ của những nền công nghiệp phát triển.  Ta có thể chứng minh đều đó bằng các chỉ số đại diện cho các thị trường Mỹ, trong đó có các chỉ số nổi tiếng sau:

- Chỉ số trung bình Dow Jones, chỉ số chứng khoán thông dụng nhất và lâu đời nhất của thị trường chứng khoán Mỹ.

- Chỉ số Standard and Poor 500.

- Chỉ số NASDAQ.

Chỉ số đầu tiên là mức giá trị trung bình của một danh mục giá cổ phiếu và hai chỉ số còn lại là chỉ số tính toán vốn trung bình, nghĩa là mỗi loại cổ phiếu có một giá trị riêng được tính dựa trên số cổ phiếu phát hành nhân với giá trị thị trường. Chỉ số thứ ba, chỉ số NASDAQ tính toán hoạt động của 4000 loại cổ phiếu, hầu hết trong ngành công nghệ cao của Mỹ, là chỉ số khá mới nhưng đã nhanh chóng tăng tầm quan trọng về khối lượng và giá trị.

Chỉ số Dow Jones ban đầu chỉ là giá trung bình của 65 tập đoàn lớn hoạt động và giao dịch trên thị trường Bắc Mỹ: 30 công ty trong ngành công nghiệp, 20 trong ngành vận tải và 15 trong ngành dịch vụ công cộng. Chỉ số nổi tiếng nhất và lâu đời nhất của Mỹ là chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones 30, hiện tính toán trung bình của giá cổ phiếu 30 tập đoàn lớn nhất của Mỹ. Chỉ số này có một lịch sử lâu đời từ thế kỷ 19.

Trong hai thập niên vừa qua, tổng tỷ suất lợi nhuận của những cổ phiếu hàng đầu của Mỹ là trung bình trên 18% một năm, bao gồm cả lợi tức và tăng giá vốn. Nguyên nhân lý giải tỷ lệ cao khác thường này là nền kinh tế Mỹ trải qua một giai đoạn tăng trưởng ”dài hơi” và mạnh mẽ kể từ đầu những năm 1980, với năng suất lao động rất cao. Lịch sử kinh tế cho thấy, cứ 3 đến 5 năm, Mỹ có xu hướng rơi vào chu kỳ suy thoái, nhưng kể từ giai đoạn 1981-1982, chỉ có 2 lần suy thoái là 1990 và cuộc suy thoái hiện nay. Cuộc suy thoái năm 1990 khá nhẹ nhàng và ngắn ngủi và theo những dữ liệu hiện nay, cuộc suy thoái lần này cũng vậy.

Lần tăng trưởng kinh tế trước đây kết thúc bằng khủng hoảng hiện nay là một kỷ lục trong lịch sử. Thành tựu máy tính, việc áp dụng công cụ sản xuất công nghệ cao trong hàng loạt hoạt động của con người, sự xuất hiện của nền kinh tế Internet trong những năm gần đây, tất cả đã lý giải tỷ suất lợi nhuận tăng bất thường trên thị trường chứng khoán trong 2 thập niên trở lại đây. Điều này cũng chỉ ra rằng, một nền kinh tế trì trệ có thể được tiếp sức trở thành một nền kinh tế năng động tăng trưởng nhanh bằng phương thức quản lý kinh tế tích cực, mở cửa và hướng về thị trường cùng với việc áp dụng hàng loạt những phương thức sản xuất công nghệ cao.

Mức tỷ suất lợi nhuận trung bình 18%  mỗi năm của thị trường chứng khoán Mỹ trong hai thập kỷ qua cao gấp hai lần tỷ suất tiêu chuẩn trong lịch sử.

Gần một thế kỳ trước, tỷ suất lợi nhuận trung bình kể tư thế kỷ 19 là gần 9%, cao hơn hẳn tỷ lệ lạm phát, lúc đó là trung bình khoảng 3%/năm và cũng cao hơn tỷ suất từ trái phiếu.

Xem lại lịch sử của nền kinh tế Mỹ, sau sự sụp đổ của thị trường chứng khoán tháng 10 năm 1929, tiếp đó là Đại khủng hoảng của thập kỷ 1930. Chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones đạt 400 điểm trong năm 1929, trước suy thoái, đã mất 90% giá trị của nó và mãi đến năm 1953 mới phục hồi được mức cũ. Giữa năm 1966 và 1982, chỉ số Dow Jones của 30 tập đoàn lớn nhất của Mỹ dao động ở mức 1036.27 (đạt được trong lần tăng trưởng kinh tế 1972) và 577.60 ( mức đáy của cuộc suy thoái 1974-1975). Cũng trong giai đoạn này, nền kinh tế thế giới cũng sa vào thời kỳ trì trệ vì lạm phát và năng suất thấp. Từ mức thấp nhất của thời kỳ 1981-1982, chỉ số Dow Jones bắt đầu nhích lên và liên tục tăng vọt. Tại thời điểm của bài viết này, chỉ số Dow Jones đứng ở mức 10.000 điểm.

Một trong những cách dự đoán tổng tỷ suất lợi nhuận dài hạn của chứng khoán Mỹ (bao gồm lợi tức và tăng giá vốn) là nghiên cứu hoạt động của chỉ số Dow Jones 30. Bằng cách tính toán đơn giản, chúng ra có thể ước tính tỷ suất lợi nhuận của thị trường chứng khoán tại từng thời điểm. Kết quả cũng rất khác nhau, phụ thuộc vào thời gian, dài hay ngắn, nắm giữ cổ phiếu và sự tăng trưởng của nền kinh tế.

Xét lại giai đoạn 35 năm qua, từ đầu năm 1967 đến cuối 2001, kinh tế Mỹ đã vượt qua một thời kỳ trì trệ khá lâu 1966- 1982 (kinh tế suy thoái và lạm phát tăng vọt). Mặc dù trong thời kỳ 15 năm này, kinh tế hoạt động kém hiệu quả, danh mục chỉ số Dow Jones 30 vẫn đạt được một tỷ suất lợi nhuận cao là 11% / năm ( bao gồm lợi tức và tăng giá vốn). Cổ tức trả hàng năm của chỉ số cổ phiếu Dow Jones tăng dần theo từng năm; vì vậy, nếu so sánh với số vốn đầu tư ban đầu, riêng cổ tức hiện nay đã đạt được mức 14%, so với khoản đầu tư ban đầu từ năm 1967, mà chưa tính đến tỷ lệ tăng giá vốn từ thời điểm đó. Vì vậy, càng giữ được những cổ phiếu hàng đầu trong một thời gian càng dài, bạn càng có nhiều cơ hội gặt hái nhiều cổ tức; và hơn nữa, khoản này sẽ cao hơn nhiều so với thu nhập cố định từ các phương thức đầu tư khác như trái phiếu hay là các loại ký gửi ngân hàng. Hình thức chứng khoán ký gửi có thể đảm bảo về danh nghĩa khoản vốn đầu tư của bạn nhưng không đảm bảo sức mua thực tế của đồng tiền: nếu tính toán cả mức lạm phát, sức mua của khoản vốn ban đầu sẽ phải trừ đi tỷ lệ lạm phát.

Một thực tế đã được kiểm nghiệm trong nền kinh tế Mỹ và ở bất kỳ nền công nghiệp phát triển nào là cổ phiếu mang lại biện phát bảo vệ hữu hiệu hơn cả, chống lại sự mất giá của đồng tiền qua thời gian. Tỷ suất cổ tức cũng cao hơn thu nhập cố định từ trái phiếu và những hình thức thu nhập cố định khác. Một lý do của tính ưu việt này là sự biến động của thu nhập từ cổ phiếu và bản chất con người không thích sự bất ổn khi xét về lợi ích thu được. Do đó, các cổ đông là những thành phần xứng đáng nhận được phần thưởng từ thị trường với tỷ suất lợi nhuận cao hơn vì họ là những người chấp nhận tính chất bất ổn của nguồn thu nhập của cổ phiếu đem lại. Lợi tức của cổ phiếu chỉ được thanh toán cho cổ đông khi doanh nghiệp có lãi, trong khi tiền lãi của trái phiếu, hoặc tiền lời của ký gửi, là tiền doanh ngiệp phải trả bất chấp doanh nghiệp đó có sinh lợi hay không.

Nếu không trả được lãi của tiền vay nợ, doanh nghiệp đó coi như đã đứng trên bờ vực phá sản. Thậm chí, chậm trả tiền lãi của nợ cũng đủ khiến cho một daonh nghiệp bị phá sản, bởi vì trong môi trường kinh doanh, thời gian là tiền bạc và thất hứa trả nợ đúng ngày tháng là một lý do có thể đưa đến nạn phá sản. Một lý do nữa dẫn đến  tỷ suất cao hơn hẳn của lợi tức do cổ phiếu đem lại, đó là cổ phiếu đại diện cho sự sở hữu của một phần năng động nhất của nền kinh tế.  Trong khi các doanh nghiệp tư nhân là kẻ chấp nhận rủi ro của việc tạo ra của cải cho xã hội, còn ai có thể có phần khích lệ nắm giữ phần lợi cho mình hơn là chính bản thân những thành phần trực tiếp hay gián tiếp đã tạo ra của cải đó? Ngoại lệ có thể xảy ra là vai trò của Chính phủ trong việc thu thuế. Thậm chí quyền đánh thuế của Chính phủ cũng bị hạn chế bởi khả năng di chuyển của các doanh nghiệp và sự khích lệ của những khu vực có ưu đãi thuế, đặc biệt trong thế giới đầy cạnh tranh và mở cửa như hiện nay.

Trong bất kỳ giai đoạn 10 đến 20 năm nào trong lịch sử kinh tế Mỹ, một danh mục đầu tư đa dạng luôn luôn tỏ ra hiệu quả hơn những hình thức đầu tư khác, tính về thu nhập thực tế. Trong lịch sử gần đây của kinh tế Bắc Mỹ, kể từ cuối năm 1960, đầu tư vào cổ phiếu đã đạt được một tỷ suất lợi nhuận trung bình  tối thiểu là 11%/năm. Nổi bật nhất là thời kỳ 20 năm vừa qua, tính từ cuộc suy thoái kinh tế 1981-1982.  Điều này là do tăng trưởng kinh tế đáng kinh ngạc của Mỹ trong gia đoạn này. Ví dụ, một danh mục đầu tư dựa lên trên chỉ số chứng khoán Dow Jones 30 trị giá 786 USD đầu năm 1967: tiền cổ tức công bố trong năm đầu tiên của 30 công ty của chỉ số là 30,19 USD. Sau đó, cổ tức hàng năm tiếp tục tăng đến 110 USD/năm vào ngày 31/1/2000. Nói cách khác, tỷ suất lợi tức đạt gần 14% (tức là 110/786),  dựa trên nguồn vốn đầu tư ban đầu, từ năm 1967. Chỉ số Dow Jones 30 được định giá 10024 vào đầu năm 2002, gấp 12 lần hơn giá trị của nó ở đầu năm 1967. Lẽ dĩ nhiên, trong những năm vừa qua, thành phần của chỉ số tổng hợp Dow Jones có biến đổi theo biến đổi của bối cảnh kinh tế của Mỹ. Tuy nhiên, ta cũng cô thể điều chỉnh hoặc thay đổi các cổ phiếu nắm giữ, theo chỉ số Dow Jones, nhằm phản ánh trung thực hơn danh mục đầu tư trên. Công việc nầy không còn khó khăn hiện nay, đặc biệt trong những năm gần đây, những công cụ tài chính mới và thuận tiện nhằm phản ánh hoạt động của một số chỉ số thị trường, trong đó có chỉ số Dow Jo! nes,  đã được phổ biến trong giới đầu tư.

Trong vòng 10 năm qua, tính đến 31/1/ 2002, theo báo cáo chính thức của Công ty Dow Jones, chỉ số công nghiệp Dow Jones đạt trung bình tỷ suất lợi nhuận là 16,12%/năm.

Một chỉ số lâu đời khác, và bao gồm 500 công ty họat động trên thị trường Mỹ, là chỉ số S&P 500 cũng có thể được sử dụng để đánh giá hoạt động của thị trường chứng khoán Mỹ. Thực tế chỉ số S&P 500 đại diện cho nhiều thành phần của kinh tế Mỹ hơn là chỉ số Dow Jones và được xem là một biểu số tiên đoán tương lai kinh tế Mỹ (leading indicator). Chi số S&P 500 đã đi từ mức 101,09 vào tháng 1/1972 lên đến 1.148,08 vào tháng 1/ 2002: tăng hơn 11 lần trong vòng 30 năm, với tỷ lệ tăng vốn trung bình 8,40%/năm. Khi khoản vốn đầu tiên được đầu tư vào chỉ số này, cổ tức hàng năm chỉ là 3%. Tính toán thu nhập hàng năm theo chỉ số S&P 500, chúng ta cũng nhận xét tỷ suất lợi nhuận vược quá 11% trung bình hàng năm trong vòng 30 năm qua. Nếu một lượng vốn nhỏ 101,09 USD đã được đầu từ vào S&P 500 tháng 1/1972, và luôn luôn phản ánh chỉ số nầy, khoản tiền vốn này đã tăng lên 1.248,08 USD vào đầu tháng 1/2002. Nếu mua cổ phiếu vào tháng 1/1972 và giữ đến năm 2002, không chỉ danh mục đầu tư này đã lên giá mà còn được mang lại một khoản tiền cổ tức ngày càng tăng kể tư ban đàu. Kết quả là nguồn vốn đầu tư ban đầu năm 1972 sẽ có lãi suất là 21%, trong đó 8,40% do sự tăng giá vốn trên thị trường hàng năm và 13% thu nhập lợi tức đã công bố đầu năm 2002.

Nếu một danh mục tương tự được mua vào tháng 1/ 1982, thời điểm bắt đầu chu kỳ tăng trưởng kinh tế, tỷ suất lợi nhuận nói chung được tính toán như sau:

- Vốn đầu tư ban đầu vào chỉ số S&P 500 từ tháng 1/ 1982: 122,55 USD.

- Bắt đầu tháng 1/2002, giá trị thị trường của khoảng vốn trên đã trở thành: 1.248,08 USD.

- Cổ tức hàng năm trả cho người sở hữu danh mục cổ phiếu là: 15,83 USD (tức là 12,92% trên số vốn ban đầu).

- Giá trị vốn tăng hơn 10 lần (tỷ lệ tăng giá trị vốn là 12,30%).

- Tổng tỷ suất lợi nhuận, dựa trên số vốn đầu tư từ đầu năm1972 và tiền cổ tức công bố đến tháng 1/2002: 25,22%.

Như chúng ta biết, giai đoạn 1966 – 1982 là giai đoạn kinh tế yếu kém trong lịch sử kinh tế của Mỹ, hoạt động chứng khoán trong giai đoạn này vì thế cũng suy yếu, tuy vậy tổng tỷ suất của cổ phiếu của thời gian nói trên gồm tất cả 30 năm trong đó có 17 năm kinh tế thật là yếu kém, cũng rất là cao.

Với những Quỹ chứng khoán (ETF), một loại công cụ đầu tư mới ra đời, các nhà đầu tư hiện giờ có thể đa dạng hoá danh mục cổ phiếu đầu tư của mình nhằm theo dõi chặt chẽ hoạt động của những chỉ số chính như chỉ số Standard and Poor 500, chỉ số Standard and Poor Global 100 (phản ánh hoạt động của 100 công ty lớn nhất thế giới trong những ngành kinh doanh toàn cầu), chỉ số Nasdaq 100, và chỉ số công nghiệp trung bình Dow Jones 30.

Trước đây, hoạt động của thị trường được đánh giá dựa trên những chỉ số chứng khoán, tiêu biểu họat động của thi trường; chúng ít ảnh hưởng đến một nhà đầu tư trung bình, vì trên thực tế, họ không thể mua được một danh mục gồm 500 loại cổ phiếu trong chỉ số Standard and Poor 500, hoặc thậm chí 30 cổ phiếu trong chỉ số Dow Jones 30. Ngày nay, quỹ chứng khoán ETF tạo ra cơ hội cho các nhà đầu tư: các nhà đầu tư nhỏ cũng có thể mua một danh mục đầu tư phản ánh hoạt động thị trường nhờ các quỹ chứng khoán ETF.

Hiệu quả của việc tạo ra của cải của đầu tư thị trường chứng khoán được các tập đoàn lớn và những viện nghiên cứu danh tiếng hiểu rõ hơn ai hết, trong đó có quỹ Giải thưởng tài năng Nobel. Trong những năm đầu, tính an toàn được đặt lên hàng đầu trong việc quản lý vốn nên quỹ chỉ đầu tư vào trái phiếu và những thu nhập cố định có đảm bảo. Kết quả là giải thưởng  Nobel được trao trong những năm đầu phải mất khá nhiều thời gian để đối phó với vấn đề lạm phát. Sự đổi hướng trong chính sách đầu tư cho phép quỹ này có thể đầu tư vào cổ phiếu. Kết quả là Quỹ đã có thể tăng giải thưởng hàng năm từ 40.000 USD trong năm 1960 lên tới hàng triệu đôla như ngày nay.

Chính sách đầu tư ở những thể chế danh tiếng trong lĩnh vực công cộng cũng như trong khu vực tư nhân ở Bắc Mỹ đều có quy định sử dụng những công cụ đầu tư tổng hợp, trong đó có việc duy trì một tỷ lệ lớn cổ phiếu nắm giữ . Kết quả của chính sách này đã tăng cường khả năng trả trợ cấp và các hình thức lợi tức khác đã được cải thiện đáng kể.

————————————-

Luu ý: Thông tin và dữ liệu cung cấp trong bài viết chỉ là mang tính chất thông tin, từ những nguồn đáng tin cậy và chính xác. Chúng tôi không nhằm cung cấp bất kỳ lời khuyên đầu tư nào. Các nhà đầu tư và những người hoạt động trên thị trường chứng khoán nên tự nghiên cứu trước khi ra quyết định và tìm kiếm tư vấn từ những chuyên gia được phép tiến hành việc này.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét