Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

SuyNghiVeDaoKitoMartinHarris.html

SuyNghiVeDaoKitoMartinHarris.html

SUY NGHĨ VỀ ĐẠO KITÔ

Có phải đạo Kitô phi lý không? (Is Christianity Absurd?)

Michael Martin

Sự Hy sinh Lý trí (The Sacrifice of Reason)

Sam Harris

Phần Phụ Lục: Sự chấm dứt của một Nước Mỹ Kitô Giáo

  Jon Meacham (Lê Quốc Tuấn chuyển ngữ )

Tuesday, December 1, 2009

MỤC LỤC

Lời người dịch. 2

Dẫn nhập. 7

Nghĩa của từ phi lý. 7

Sự phi lý của đạo Kitô. 8

1. Con đường Cứu rỗi 8

2. Khái niệm về Thiên đường (Heaven). 10

a. Những khó khăn về khái niệm.. 11

b. Những khó khăn về đạo đức. 13

3. Đạo đức đạo Kitô. 15

4. Sự chuộc tội 17

5. Khái niệm về Gót 19

Kết luận. 22

Thursday, December 3, 2009.. 37

Sự Hy sinh Lý trí 37

Lời Người dịch. 38

Sự Hy sinh Lý trí  - Dẩn Nhập. 39

Chú thích. 43

Letter to a Christian Nation. 43

[7] Teresa hay Mẹ bề trên Teresa (1910–97): 45

Lời phụ cuối của người dịch:. 47

Phần Phụ Lục :Sự chấm dứt của một Nước Mỹ Kitô Giáo. 48

Jon Meacham.. 48

 

Suy Nghỉ về đạo Kitô: Có phải đạo Kitô phi lý không?

Is Christianity Absurd?         -  Michael Martin

Lời người dịch

Michael Martin là một trong những khuôn mặt tiêu biểu[1] cho giới triết gia học giả vô thần hiện nay đang giảng dạy trong các trường đại học nước Mỹ. Ngoài những luận văn chuyên khoa triết lý, các sách giáo khoa, hay tham khảo cho môn Triết, Triết lý tôn giáo và Tôn giáo đối chiếu, ông cũng viết những luận văn tuy ngắn, nhưng rất giá trị, những văn bản triết lý hướng đến độc giả phổ thông – mà tôi tạm gọi là "triết học cho những người không học triết".

Những ai muốn đào sâu các nội dung này – xin mời đọc hai tác phẩm cơ bản của ông do nhà xuất bản trường đại học Temple, Philadelphia xuất bản: Atheism: A Philosophical Justification (1990), The Case Against Christianity (1991). Đặc biệt về chủ đề đạo đức của những người vô thần đối mặt với truyền thống và huyền thoại Judaeo-Christian, ông có tác phẩm Atheism, Morality and Meaning. Tác phẩm của ông, chẳng những chỉ uyên bác thuyết phục, nhưng bảo vệ và xây dựng một triết lý và cơ sở đạo đức vô thần, đem lại phần thưởng hứng khởi thú vị cho người đọc.

Tốt nghiệp Harvard, dạy đại học Boston. Tác phẩm mới nhất của ông là The Impossibility of GodThe Improbability of God (viết chung) và tuyển tập the Cambridge Companion to Atheism (2007).

Trong một bài viết chuyên khoa năm 1996 – Ông là người đầu tiên đưa ra một luận chứng vô thần mới rất nổi tiếng The Transcendental Argument for the Non-existence of God (gọi tắt TANG) chủ trì logich, khoa học và đạo đức nếu chứng minh chỉ đặt trên quan điểm hữu thần là sai, ngược lại, phải đặt trên quan điểm vô thần – không-Gót – mới đúng được.

Đã nói qua về người viết, nay đến đối tượng người đọc.

Trong giới người Việt, gần như có một cấm kỵ (taboo) về phê bình tôn giáo. Bản văn như bài này – trong nội dung xã hội Âu Mỹ, nơi tín đồ Kitô chiếm tuyệt đại đa số, dù nhan đề có mạnh mẽ, nhưng vẫn được xem bình thường, vì coi là một đối thoại thẳng thắn, hùng hồn nhưng cởi mở, có thể gay gắt nhưng không có ác ý, vì trước sau những lý luận trong bài đều có chứng cớ hẳn hòi và đã trình bày thật mạch lạc, rõ ràng, và thận trọng để người đọc nếu như không giữ được bình tĩnh, dễ dàng đối chiếu. Nhưng đối với độc giả Việt Nam, nó có thể sẽ bị coi là quá khích hay khiêu khích. Phản ứng có thể đoán được của các người – nếu Kitô là giận dữ gạt phắt đi, ném vào sọt rác dán nhãn "bài xích tôn giáo" chẳng hạn; còn những người khác hiền lành hơn, hay không Kitô, sẽ chép miệng "Chậc chậc…đạo của người ta, mặc người ta, nói làm gì!". Hay những người tỏ ra hiểu biết, ít nhất cũng gán cho nhãn hiệu "chia rẽ tôn giáo", hay thêm "làm lợi cho X, làm hại cho Y, đổ dầu cho Z!…". Những phản ứng như thế là tự nhiên, hiểu được, vì xuất phát từ những tình cảm cá nhân chân thật, đáng tôn trọng, nhưng cũng đáng phê bình. Nếu chúng ta đều biết tôn giáo không chỉ đơn giản là sinh hoạt cá nhân, nhưng là chung của cả tập thể lớn rộng và thực sự là động cơ hành động của con người, định hướng cho tất cả các quan hệ hướng ngoại, nên nó bao trùm toàn bộ rất nhiều lĩnh vực sinh động của xã hội. Không ai phủ nhận vai trò, ảnh hưởng của tôn giáo trong – chỉ kể – văn hoá, chí! nh trị và cả kinh tế nữa của một quốc gia thật sâu rộng vô cùng. Thế nên, nếu tôn giáo không được tìm hiểu đúng đắn, phê phán nghiêm chỉnh, xem xét kỹ lưỡng, nghiên cứu thật chặt chẽ, mọi người trong xã hội cứ đóng cửa, thắp nhang, châm đèn, cầu nguyện với vị giáo chủ của mình, tôn giáo ấy không phát triển, xã hội ấy không thay đổi tốt đẹp hơn, và cá nhân ấy cũng không học được gì mới để làm giàu cho đời sống tự thân và cho cộng đồng mình đang sống. Lúc phẫn nộ, sẽ cầu nguyện ngoài trời, hay thắp đèn đốt nến trước đền tượng lộ thiên, trước hết quấy động an bình nội tâm, nếu có, của chính mình, và sau, cũng không đem được gì đến đóng góp vào an bình xã hội, như một trong những chủ đích của tôn giáo chân thực. Và những người vỗ tay hoan hô, hay hô hào đả đảo – đều vội quên rằng quyền lợi, hay ngay cả "tự do" cho các tổ chức – dù là tôn giáo – thường không dễ dàng đồng nghĩa với quyền lợi, hay tự do của con người trong tổ chức ấy, hay cả dân tộc, toàn thể xã hội.

Yếu tính của tôn giáo – có thể xem – nằm trong mối tương quan giữa con người và những gì nó cho là vô hạn, thiêng liêng, siêu thế và tin là có ở ngoài trần gian hữu hạn, phàm tục này. Các tính chất đó không tìm thấy ở một con người nào khác, hay có được trong bất kỳ tổ chức nào, nếu vẫn qua bàn tay con người dựng lên, dù lâu dài đến đâu, trong lòng nhân loại [2].

Thế nên, nếu chỉ xét về mặt tôn giáo; ở phương Tây, cách mạng Pháp 1789 – đã đẩy tăng lữ khỏi chính trường, cuộc cách mạnh này – trong tác động xã hội – đã nối tiếp với trước đó một thế kỷ, cuộc cách mạng tôn giáo – ở Đức và Thụy Sĩ – đã sớm đẩy tăng lữ khỏi guồng máy Nhà thờ, lập nên đạo Tin lành. Đó là hai cuộc cách mạng chính trị, và tôn giáo có ảnh hưởng thật lớn lao. Trong những dân tộc nhận ảnh hưởng của cả hai, Vùng các quốc gia Bắc Âu, rõ rệt có những tiến bộ về ưu việt về xã hội, văn hoá và khoa học,và cả nghệ thuật. Nhưng ở một mức độ kém hơn, là vùng không nhận được ảnh hưởng của cách mạng tôn giáo: các nước nam Âu, Sau khi là nguyên nhân tinh thần chính làm xụp đổ đế quốc La mã [3], dạng thức tôn giáo ở các quốc gia này, ven bờ bắc Địa trung Hải vẫn đứng vững nhưng với giá làm các văn minh tại đây một thời hoá thạch, mất hết sinh khí sáng tạo. Đừng quên, “Dark Age” đồng nghĩa với “Age of Faith”. Các văn hóa xã hội truyền thống từ những đỉnh cao Acropolis và Palatine Hill, đều xụp đổ tan tành, và trí tuệ châu Âu bị các Nhà thờ xiềng chặt đã phải tắt ngấm, kết quả là đẩy trọn phương Tây vào đêm dài trung cổ – Tôn giáo khi ấy chỉ còn là niềm tin độc tôn mù quáng, đã cho lịch sử thấy sức mạnh tàn phá vô bờ của nó; Hãy có dịp bước vào một bảo tàng viện Âu Mỹ, có bao giờ bạn tự hỏi – những bức tượng Hy lạp hay La m! ã tuyệt đẹp, sao lại vỡ đầu, mất tay, mắt bị móc, mặt bị phạt, mũi bị gãy.? Không phải chỉ là tàn phá vô tâm của thời gian đâu, nhưng chính dao búa một thời của những tín đồ tôn giáo vốn không chấp nhận một thần linh nào ngoài thần linh của họ – đã hủy hoại các hình tượng cổ thời. Những vàng rơi, ngọc xót ấy nay được trưng bày, phục hồi trang trọng, nhưng dấu tích của một thời hãi hùng mãi còn đó, đáng để cho tất cả chúng ta suy nghiệm [4]. Nhìn chung, gần bốn trăm năm qua, phương Tây đã đem tôn giáo từ bàn thờ xuống bàn học, từ giáo đường vào giảng đường, lấy lí trí làm đèn chiếu tan những góc cạnh u tối của nó, nên nó đã phải thay đổi, và đã góp phần mở ra những cuộc cách mạng vĩ đại, từ hai thế kỷ qua, đẩy cả nhân loại, trong đó có người Việt chúng ta, đi lên.

Một điều nữa, riêng trong giới người Việt, đã còn có một huyền thoại văn hóa – những người theo đạo Kitô hợm hĩnh, ít nhất đã một thời, cho mình là theo một tôn giáo "văn minh", không "mê tín", không "lạc hậu" như các tôn giáo cổ truyền. Nếu vài nén nhang thắp dưới gốc cổ thụ, dăm ngọn nến đơn sơ trên bàn thờ giữa trời đất, bị xem là mê tín, thì trong những gì tác giả Martin phân tích sau đây, chúng ta thấy một thứ mê tín đã kết tinh, trang trọng đóng cổ cồn, mặc áo thụng, đeo nhẫn vàng, so với "mê tín" xì sụp của áo tơi nón lá bản địa vốn gắn bó với thăng trầm của đất nước con người và lịch sử dân tộc. Thêm tự hào ngầm tôn giáo của họ là "tân tiến", đã xây những giáo đường ngạo nghễ, nhưng thường là trên nền cũ của những đình chùa bị chiếm phá tại những địa điểm trọng tâm ở những thành phố một thời thuộc địa, với những tháp chuông – vốn đã nhiều lần chưa quên được:

Giặc chiếm lầu chuông xây gác súng

Súng gầm rung đổ gạch nhà thờ [5]

Nay giặc đã tan chạy, súng kẻ thù ngoại xâm đã tắt tiếng từ lâu, nhưng di tích những gì đến từ phương Tây – không trên căn bản trao đổi bình đẳng, giao thương văn hóa tự do, nhưng của thời "tàu đồng" phá cửa biển, thời "súng sắt" đốt cửa thành với nội ứng, thời viễn chinh "Pha lang sa khai sáng" áp đặt của trăm năm trước vẫn còn đó. Vẫn còn chĩa nhọn lên vòm trời cao xanh yên tĩnh quê hương hình những thập giá, máu trên ấy đã khô lạnh nhưng quanh dưới, vẫn kết tụ những lòng tin mù quáng kiêu ngạo, và vẫn mê muội "uống máu tươi, ăn thịt sống" [6] nuôi dưỡng lòng sùng mộ một biểu tượng cứu rỗi của hứa hẹn đã-vẫn-và-sẽ-chưa-bao-giờ đến.

Bài viết chọn dịch có thể xem như tóm lược những phần chính yếu của tác phẩm triết học dài hơi hơn – The Case Against Christianity – của chính tác giả Michael Martin. Trong chương giới thiệu tác phẩm này, ông mở đầu bằng nhận xét – đạo Ki tô có tín đồ dẫn đầu thế giới và đông gấp đôi tôn giáo thứ nhì là Muslim – đây là các con số năm tác phẩm xuất bản, 1991 – nhưng ông cũng tiếp ngay – một tôn giáo đông đảo, có ảnh hưởng lớn rộng, có lịch sử lâu dài, có các con số thống kê lớn, vẫn không làm cho lý thuyết của tôn giáo ấy đúng. Ông thản nhiên viết thêm – một tỷ sáu trăm triệu người vẫn có thể sai lầm! vẫn có thể tin theo những điều phi lý. Nội dung của bài văn này là trình bày sự phi lý trong các lý thuyết nền tảng ở trọng tâm đạo Kitô, trình bày thật triết lý, điềm đạm và nhẫn nại, chấp nhận hay không là quyền người đọc, nhưng bản văn đã mở những cánh cửa suy nghĩ về những vấn đề rất dễ dàng bốc lửa tranh luận.

Trong chiều hướng đó, tôi chọn dịch bản văn phổ thông này, để giới thiệu với người đọc Việt ngữ, một mẩu nhỏ của mảng "discourse" vô thần lớn rộng – tiếp tục truyền thống Russell – Tại Sao Tôi Không là người Kitô?, và góp phần với những ai đang can đảm làm công tác giải hoặc Kitô – không vì thiên kiến tôn giáo cá nhân, nhưng vì đã sáng suốt nhìn thấy một hiểm hoạ văn hoá rất nghiêm trọng, chưa kể đến chính trị xã hội, cho tương lai đất nước, đặc biệt trong bối cảnh hậu-thực-dân – những vận động giải thực cần thiết về văn hóa, tôn giáo vẫn còn dở dang – trên quê hương chúng ta.

Người dịch

Lê Dọn Bàn

(Mùa Noel – Dec/2009)

Có phải đạo Kitô phi lý không?

Dẫn nhập

Nhằm mục đích cho các biện luận của tôi, tôi sẽ hiểu đạo Kitô theo nghĩa là một quan điểm tín ngưỡng có đặc điểm định bởi các thuyết như Christ Cứu rỗi [7], Thiên đường (Heaven), Sự Chuộc tội [8], những quan điểm đạo đức của Jesus, và niềm tin vào Gót [9] [10].Hiểu như thế có phải đạo Kitô là phi lý không ? Câu hỏi này – họạ hiếm mới đặt, nói chi đến trả lời. [11] Tôi sẽ biện luận rằng có thể thiết lập được một đề án hữu lý để tuyên bố đạo Kitô là xuẩn ngốc, phi lý, theo một nghĩa nghiêm trọng của từ này. Sau đây, tôi sẽ không nhiều về phần trình bày thêm các luận chứng, nhưng triển khai những luận chứng vô thần tiêu chuẩn trong những cách mới.

Nghĩa của từ phi lý

Khi giả định một điều nào đó phi lý (absurd) [12] có ý nghĩa gì? Có lẽ diễn tả này chỉ có nghĩa về mặt cảm xúc. Có lẽ nó cũng giống như nói "Khiếp"(Yuk) [13]. Nhưng từ "phi lý" thực có nghĩa về mặt nhận thức. Theo The American Heritage Dictionary, nghĩa chính của từ phi lý là "bất nhất lố bịch hay phi lý". Như thế, theo nghĩa từ điển này, nói rằng điều gì phi lý là nói – nó bất nhất, trước sau không như một, đến lố bịch buồn cười, và hoàn toàn không có chút nghĩa lý nào. Chúng ta hãy gọi đây là cái nghĩa bất nhất của phi lý. Bây giờ, cũng có thể đề nghị khi nói điều gì là phi lý, là đơn giản nói – nó vô nghĩa [14]. Ắt hẳn "phi lý" đã dùng với nghĩa này, thí dụ, khi các nhà lý thuyết bảo vệ đạo Kitô [15] nói đến sự phi lý của hiện hữu con người nếu thiếu Gót. Chúng ta hãy gọi đây là cái nghĩa vô nghĩa của phi lý. Có những nối kết logich đáng chú ý giữa hai nghĩa này mà tôi không tiện khai triển ở đây. [16] Nhưng trường hợp nào đi nữa, quan tâm của tôi trong luận văn này sẽ là với cái nghĩa bất nhất của từ phi lý, mà không với nghĩa vô nghĩa của nó. Dẫn đến hệ quả là các tranh luận của tôi sẽ không liên quan chi đến tuyên bố của các nhà lý thuyết bảo về đạo Kitô, rằng hiện hữu con người mà không có Gót thì phi lý, theo cái nghĩa vô nghĩa. Tuy nhiên, biện luận của tôi sẽ vẫn nằm trong đề tài. Công bình mà nói, nếu đưa tuyên đòi rằng – đạo Kitô là phi lý theo nghĩa bất nhất – đến cho các nhà lý thuyết bảo vệ đạo Kitô, họ sẽ phủ nhận nó. Vì vậy, tôi sẽ bảo vệ một quan điểm nghịch lại với những gì những đạo Kitô chủ trì.

Sự phi lý của đạo Kitô

Có phải đạo Kitô phi lý theo nghĩa từ điển là bất nhất lố bịch và phi lý? Theo như tôi nhận thấy, câu trả lời là "có". Cứ theo những phê phán tiêu chuẩn về đạo Kitô và một số những diễn giải đáng tin cậy về nó, đạo Kitô chồng chất những bất nhất lố bịch, và tin tưởng lẫn thực hành phi lý. Ở đây, tôi sẽ xét năm khía cạnh của đạo Kitô xem ra bốc lên mùi phi lý: Con đường cứu rỗi, Thiên đường, Hỏa ngục, Luân lý đạo Kitô, Sự chuộc tội và Gót. Sự bất nhất tôi bàn ở đây liên hệ đến một mâu thuẫn giữa tầm quan trọng hoặc trọng điểm của những ý niệm này trong đạo Kitô với tình trạng có vấn đề nan giải của chúng. Nói một cách khác, chính là sự bất nhất khiến những ý niệm này trở thành có vấn đề như thế, nhưng cũng lại là thật quan trọng đến thế trong tư tưởng đạo Kitô. Sự bất nhất này có thể khoác nhiều dạng khác biệt. Một dạng mang mâu thuẫn giữa sự quan trọng của Cứu rỗi và sự không rõ hay hàm hồ của lý thuyết đó. Một dạng khác quan hệ đến việc đặt thuyết Chuộc tội vào trọng tâm chủ yếu và sự thiếu xót một lý thuyết đứng vững có được về thuyết Chuộc tội. Lại một bất nhất phi lý quan trọng khác nữa là ý nghĩa quan trọng lớn lao gán cho Thiên đường và những vấn nạn về khái niệm và đạo đức của lý thuyết này. Một dạng khác gồm mâu thuẫn giữa sự quan trọng của đạo đức Kitô giảng dạy với đạo Kitô và các câu hỏi về đạo đức của chính Jesus. Vẫn chưa hết, còn một dạng nữa quan hệ đến mâu thuẫn giữa sự đặt Gót làm trọng tâm trong toàn khu! ng đạo Kitô và sự lệch lạc bất nhất trong khái niệm về Gót.

1. Con đường Cứu rỗi

Trong đạo Kitô không có ghi chép đồng nhất, trước sau như một – loài người nếu giả thử là sẽ được cứu rỗi – sẽ xảy ra như thế nào? mặc dù đây là điều khẩn thiết bậc nhất trong thực tế. Thật là phi lý khi mục đích của đạo Kitô là cứu rỗi loài người, dẫu thế lý thuyết Kitô lại không làm minh bạch ra điều này sẽ được hoàn thành như thế nào. Thực vậy, có những ý tưởng mâu thuẫn nhau về cứu rỗi đưa ra từ giáo điều, từ kinh thánh và từ những thư viết của Paul [17]. Lấy thí dụ, một quan điểm về cứu rỗi trình bày trong các phúc âm Synoptic (Matthew, Mark, và Luke) [18] bảo rằng một người sẽ được cứu rỗi nếu cứ tuân hành theo một quy luật đạo đức [19]. Một quan điểm thứ nhì, Paul, John và giáo điều tín ngưỡng chủ trương một người được cứu rỗi qua sự kiện có đức tin vào Jesus. Nói một cách khác, con đường cứu rỗi thứ nhất xem ra như có được qua hành động, trong khi ấy, con đường thứ hai đi đến cứu rỗi chỉ bằng vào đức tin mà thôi.

Con đường thứ hai là con đường phổ thông nhất được gắn với đạo Kitô. Thế nhưng, không có gì là rõ ràng – còn có gì can dự nữa không – ngoài tin tưởng. Dẫu vậy, khi một người chú tâm chỉ vào kích thước hiểu biết của lòng tin này không thôi, lại có những mù mờ. Tín ngưỡng giáo điều xem ra đòi một thứ tin tưởng như xác định trong đạo Chính thống; kể ra, tất cả mọi thứ, từ Sinh nở đồng trinh đến Chúa xuống trần lần thứ nhì (ngày tận thế), từ Chúa phục sinh đến giáng phàm làm người trần. Nhưng John xem chỉ đòi tin vào sự giáng trần và Paul lại xem chỉ đòi tin vào sự phục sinh thăng thiên. Cả hai, Paul và John, không ai đòi phải tin vào Sinh nở đồng trinh và vào Chúa có ba ngôi, nhưng giáo điều tín ngưỡng lại đòi phải tin thêm những thế.

Như thế, những người theo đạo Kitô, đọc kinh Tân ước và giáo điều tín ngưỡng của đạo Kitô thật cẩn thận lại thành ra hoàn toàn tối tăm mặt mũi chẳng biết đâu mà mò với những chủ thuyết mâu thuẫn này. Họ sẽ không biết có phải người ta được cứu rỗi vì hành động, hay vì lòng tin và, nếu vì lòng tin, tin vào những điều gì?

Lưu ý rằng những luận chứng của tôi không giả định trước về sự sai lầm của đạo Kitô. Dẫu như nếu đạo Kitô đã có đúng chăng nữa, đạo Kitô sẽ là phi lý vì mục đích của nó là sự cứu rỗi, thế nhưng trong lý thuyết đạo Kitô không có một con đường rõ ràng và nhất thống để đi đến nó cho được. Trong thực tế, có một bất nhất giữa các quan điểm về cứu rỗi và vị trí trọng điểm của cứu rỗi trong đạo Kitô. Nó cũng tự như đạo Kitô hô hoán "Trên tất cả, phải tìm lấy cứu rỗi!" Nhưng lại không có cách thức nào rõ ràng hay thống nhất để thực hiện điều này!

Một người Kitô có thể tránh được cái hệ quả này không? Dĩ nhiên, ông hay bà ta có thể gắng giải thích kinh Tân ước theo cái cách để các chủ thuyết về cứu rỗi này ăn khớp với nhau, hay một cách nào đó, một trong các chủ thuyết phải bị bỏ qua. Nhưng giải thích như thế không thể là tùy tiện. Phi lý không nên tránh bằng dựa vào tùy tiện. Lấy thí dụ, một tín đồ Kitô đọc bản thảo của bài này đã nói rằng ông thấy quan điểm của tôi – rằng Tân ước đưa ra những lời khuyên trái nghịch về cứu rỗi – thì gượng gạo. Thông điệp truyền thống, ông nói, là một người được cứu rỗi bằng tin tưởng Gót như đã khải thị qua Jesus Christ. Thế nhưng, ông chẳng dẫn câu nào trong Tân ước để chống đỡ lối giải thích của ông, cũng chẳng có cố gắng nào thử giải thích sao cho mất đi các mâu thuẫn lý thuyết tôi đã dẫn kể. Chắc là, một người may ra có thể tìm được những đoạn kinh chống đỡ lối giải thích của người bình luận. Nhưng lại có những đoạn khác lại chống đỡ cho lối giải thích đối nghịch. Có một mẫu thuẫn lịch sử dài lâu – ai cũng biết – giữa những người Kitô hô hào cứu rỗi qua hành động và những người Tin lành hô hào cứu rỗi qua đức tin. Thực chính thế, có một khối giấy mực kinh điển uyên bác rất to lớn hoàn toàn dành vào nỗ lực để hiểu sự mâu thuẫn này. [20] Sự tranh luận lâu dài truyền thống này và những phản biện đáp ứng rất bác học, ! chắc chắn thừa nhận luận đề của tôi rằng kinh thánh đã đưa ra các lời khuyên mâu thuẫn thì khó nói là gượng gạo được.

Một cách khả hữu khác để tránh khỏi phải gặp vấn đề, là chủ trương rằng – vì con đường cứu rỗi trong kinh thánh đã không chỉ ra cho rõ ràng, người ta nên đánh cuộc cả hai – bằng cách vừa có đức tin vào Jesus và vừa làm thêm những điều thiện. Trông vào tính cách huyền bí của Gót, không biết phán định như thế thì có phải là cẩn thận tốt đẹp không thì lại chưa rõ! Sau rốt, không chừng Gót có thể chẳng muốn chúng ta đi theo cả hai con đường một lượt! Nhưng dẫu sao đi nữa, nó không tránh khỏi vấp phải vấn đề chính yếu, Thật là phi lý rằng người theo đạo Kitô lại phải dùng đến "chiến lược" bắt cá hai tay này để tránh vấn đề. Nếu theo cả hai lối cùng lúc là điều Gót muốn, tại sao điều này lại không nói ra cho rõ ràng? Chắc chắn con đường cứu rỗi đã phải nên nói ra một cách trắng đen minh bạch cho dễ hiểu.

2. Khái niệm về Thiên đường (Heaven)

Mặc dù sự kiện lên thiên đường là mục đích chính yếu của đạo Kitô và nó được giương cao như tột đỉnh của vô vàn bất tận ước muốn, ý niệm Thiên đường có vấn đề rất sâu nặng, về tính cách trong cả khái niệm lẫn đạo đức [21]. Một lần nữa, điều này đập vào tôi như một phi lý. Và cũng một lần nữa, xin ghi chú là tôi không giả định trước về sự sai lầm của đạo Kitô. Ngay cả giả thử nếu những chủ thuyết chính của đạo Kitô có đúng chăng nữa, thật bất nhất và phi lý rằng Thiên đường chiếm một chỗ trung tâm trong toàn bộ khung dựng những vật liệu của đạo Kitô, nhưng bản chất của nó thì lại có nhiều vấn đề đến như thế.[22]

a. Những khó khăn về khái niệm

Trước tiên, có những khó khăn trong khái niệm về Thiên đường. Bắt đầu với cái ý niệm hiện hữu của con người trên Thiên đường – ở đấy, nó có mang thân xác hay không có thân xác – ý niệm này thì khó mà hiểu cho được. Trong lý thuyết phổ thông nhất về sự hiện hữu trên thiên đường của chúng ta – phần linh hồn phi vật chất của con người – không phải phần thân xác – đi lên Thiên đường không lâu sau khi người ấy chết. Trong cách hiểu này, Thiên đường được xem như "một nơi chốn" mặc dù nó không nằm trong thời gian và không gian. Trong lý thuyết thứ nhì – thuyết các nhà thông thái tin đây là quan điểm nguyên thủy của đạo Kitô – Thiên đường hiện nay chưa có nhưng sẽ có trong tương lai lúc (Chúa) xuống trần lần thứ nhì (the Second Coming). Lần xuống trần thứ nhì này, tất cả thân xác con người sẽ được dựng dậy, trong một hình dạng đổi thay nhưng sẽ được thưởng công trong chính không gian mà chúng ta đang sống bây giờ đây.

Đối với lý thuyết kể đầu tiên, đã có đầy khó khăn về tưởng tượng – dẫu một cách sống sượng thô sơ – một sự hiện hữu không thân xác nó ra làm sao – trong thời và không gian. Linh hồn di chuyển từ chỗ này qua chỗ khác như thế nào? Nó nhận ra các linh hồn khác như thế nào? Những linh hồn không thân xác làm gì cho hết ngày vì đã giả định là chúng không phải ngủ nữa? Vấn đề trở nên không thể khắc phục được khi nó cộng hợp với ý tưởng Thiên đường nằm ngoài chiều không và thời gian. Tất cả các khái niệm tâm thần của chúng ta – lấy thí dụ như – nghĩ ngợi, toan định, và ước muốn – là những ý niệm có tính thời gian – chúng phải cần thời gian để thành hình và xảy ra tại một thời điểm nào đó. Suy nghĩ và ước muốn phi thời gian đều không thể nhận thức được.

Xem xét lý thuyết coi Thiên đường bây giờ không có, nhưng trong tương lai sẽ có, khi tử thi người chết biến dạng đội mồ sống dậy trong không gian như chúng ta biết. Ở chỗ này, chúng ta không có những vấn đề với những linh hồn lìa xác, không thân thể và không gian phi thể chất, vì Thiên đường sẽ xảy ra trong không gian vật lý của chúng ta. Nhưng vẫn còn có những khó khăn. Xác người chốn cất lâu đã thối rữa hết rồi và các nguyên tử tạo thành chúng đã trở nên phân tán tứ phương. Thực vậy, những nguyên tử trong đám này có thể cuối cùng đã thành ra phần thân xác của những người đang hiện sống. Và tất cả những điều đó cũng đúng trong trường hợp những xác đã hỏa thiêu. Khi nhìn những vấn đề như thế này, ngay các triết gia hữu thần như Peter Van Inwagen[23] đành đã phải biện luận rằng cho dẫu có một Gót toàn năng cũng không thể tái dựng được một xác thân đã hoàn toàn phân rã. Nhưng chính vì thân xác con người phân rã thực, nên đấy là vấn đề.

Van Inwagen đã đề nghị một giải pháp cho vấn đề này thật quái đản đến nỗi, phải như không vì vị thế của ông trong học giới, ý tưởng đó không đáng được nhận xét nghiêm chỉnh. Ông đã đề nghị rằng, dù trái nghịch với những gì chúng ta thấy, thân xác con người không phân rã! Mà đúng ra, Gót bảo quản thân xác (thực) của chúng ta – có lẽ là ngay lúc chết – và đưa thay vào đó là một "bản sao" – bản sao này mới là thân xác chúng ta thấy – hoặc tan rã hoặc hỏa táng [24]. Thật không may, đề nghị này đem đến những vấn đề mới. Tại sao lại phải giả thử rằng cái xác người thối rữa hay đốt ra tro chỉ là "bản sao" và không phải là "bản chính" – không là thân xác thật của người chết? Hơn nữa, các thân xác bảo quản đem đi chứa ở chỗ nào? Nếu nói rằng chúng đem chất ở trên một tinh cầu nào xa lắm hoặc một không gian khác với của chúng ta, có những vấn đề nổi lên tức thì. Cái khả năng thứ hai đưa đến khó khăn là làm sao có thể có một không gian khác với không gian chúng ta? Còn đề nghị kể trước để mở ra một minh xác thực nghiệm có thể có trong tương lai, trong thám hiểm vũ trụ may ra – trên nguyên tắc – có thể tìm thấy hành tinh nơi Gót bảo quản các xác chết! [25]

Độc lập với những sự quái đản trong bản chất của nó và những điều hàm chứa đầy vấn đề, còn vài điều hoang mang về những đề nghị của Van Inwagen. Tại sao Gót lại phải đi lòng vòng đến xa xôi như thế với chuyện xem ra là người ta mất đi hoàn toàn vào hư không? Van Inwagen đề nghị rằng nếu thân thể đã không tan rã hoặc biến mất bí ẩn sau khi chết, điều này chắc sẽ là bằng chứng có một uy quyền siêu nhiên. Tác giả này nói mặc dầu Gót muốn chúng ta tin vào Gót, Ông này không làm hết tất cả những gì Ông có thể làm được, không muốn để lộ những bằng chứng không thể chối cãi cho chúng ta thấy. Van Inwagen kết luận bằng câu nói "có lẽ không có gì là khó khăn để nghĩ ra những lý do tốt đẹp cho chính sách như thế (của Gót) .”[26]

Có lẽ thực khó hơn là Van Inwagen đã giả thử. Theodore Drange [27] đã đưa ra một luận chứng rất hùng hồn trình bày rằng những luận chứng quen thuộc vẫn bào chữa chuyện Gót không đưa các bằng chứng mạnh mẽ ra cho chúng ta tin vào sự hiện hữu của Ông ta – các luận chứng như thế rất yếu [28]. Thí dụ, một người không thể biện hộ nếu đưa ra bằng chứng hùng hồn sẽ gây trở ngại cho ý chí tự do của người ta, vì tự do chọn lựa thì tương đồng với có bằng chứng hùng hồn. Trong trường hợp nào đi nữa, nếu đã như có ai thấy xác người không thối rã hay không mất đi sau khi chết, điều này khó mà có thể nói là bằng chứng không chối cãi được của phe hữu thần chủ trương có Gót, vì trạng thái của những chuyện như vậy tương đồng với nhiều cách giải thích của phái vô thần, thí dụ, một quỉ thần ma quái muốn làm chúng ta sửng sốt!

b. Những khó khăn về đạo đức

Thiên đường xem ra bất công bất kể cách nhìn ra sao. Theo như lối nhìn phổ thông về Thiên đường, có những người được đưa về đấy vì thưởng công cho những gì họ thực hiện trong thời sống ở trần gian, và có những người không được thế. Một quan điểm thứ nhì, Thiên đường là một tặng phẩm của Gót hoàn toàn không dựa trên công lao – có người được, có người không. Một quan điểm không-phổ-quát thứ ba – tất cả mọi người, cuối cùng đều lên Thiên đàng.

Trước hết xét quan điểm tặng phẩm không dựa trên công trạng, Một ông bố ban phát quà không-dựa-trên-công-trạng cho những đứa con này và không cho những đứa con khác, có thể xem là không công bình và tùy tiện. Chắc chắn cũng có thể nói như thế về Gót nếu Ông đã hành động một cách tương tự. Nhưng nếu giả thử chúng ta chấp nhận quan điểm lên Thiên đường do công trạng. Quan điểm này xem ra vẫn không công bằng. Giả thử Thiên đường là thưởng lệ cho niềm tin, thí dụ, tin Jesus là đấng Cứu thế. Triệu triệu người, không tự do lỗi của họ, chẳng bao giờ nghe đến danh Jesus cả, hay ít ra chẳng bao giờ được có dịp biết kinh thánh. Những người này hỏng dịp tin tưởng thì thật không phải là lý do khiến họ không được lên Thiên đàng.

Hơn thế nữa, ngay cả khi nếu người ta đã có cơ hội để biết, nhưng đã chịu thua không tin nổi, tại sao họ lại bị trừng phạt bằng cách không được thưởng công? Nhiều người vô thần, hay hoài nghi phủ nhận thông điệp của Phúc âm chỉ với lý do chính đáng, là có chứng cớ cho thấy tính chất khó mà đúng được trong nhiều lý thuyết chủ yếu của đạo Kitô: Phục sinh, Sinh nở đồng trinh và Chúa xuống thế [29]. Ngay cả như nếu các lý thuyết này có là đúng, và không phải là không thể xảy ra dưới ánh sáng của chứng cớ, những chứng cớ này có thể chắc chắn vẫn không lay chuyển được người có óc duy lý. Phải đi xa hơn, vượt quá những gì từ chứng cớ đọc ra – nếu không phải là mâu thuẫn với chứng cớ – để chấp nhận Jesus là "con trai của Gót". Xa hơn nữa, dẫu nếu như những người không tin đã có nhầm lẫn chăng nữa, khi cân nhắc bằng chứng và nếu chúng không thực đưa ra những nền tảng vững chắc để tin, rất nhiều người không tin, họ thành thực tin rằng chứng cớ đã không có đủ. Tại sao một Gót tốt lành lại muốn giữ lại sự vui sướng Thiên đường đối với những người thành thực, dẫu không tin; họ có thể đã không đủ sâu sắc, kiến thức hay óc phân tích để có thể phán đoán chứng cớ cho được đúng?

Giờ đây các nhà lý thuyết bảo vệ đạo Kitô như William Lane Craig [30] sẽ cãi rằng trường hợp mà tôi mô tả sẽ không bao giờ xảy ra trong thực tế. Không tin – cơ bản không là một vấn đề tri thức – nhưng là một chủ tâm từ chối có "tội lỗi", với chúa Thánh Linh. Tuy nhiên, như tôi đã cãi lại ở những chỗ khác; Craig kêu gọi đến chúa Thánh linh có vấn đề [31]. Một vấn đề cơ bản trong lý thuyết của Craig là ông đã giả định không phải chỉ có những tín đồ đạo Kitô, nhưng tất cả mọi người cũng đều biết đến chúa Thánh linh của ông. Thế nhưng không có lý do gì để tin rằng đến ngay cả những người tự xưng là "con chiên ngoan đạo" Kitô đã hẳn có được kinh nghiệm về vị chúa Thánh linh [32]này, nói chi đến tất cả những người không-Kitô lại phải có như thế!

Giả thử như phần thưởng lên Thiên đường không dựa trên niềm tin nhưng trên hành vi đạo hạnh. Điều này cũng vẫn còn bất công. Hàng triệu triệu người chưa, hay không có hoàn cảnh để biết đến các lời dạy về đạo đức của kinh thánh . Thế nên, nếu như họ không sống theo tiêu chuẩn đạo đức của kinh thánh – đó không phải tự là lỗi của họ. Hơn thế nữa, dẫu cho cả đến những người đã có dịp biết đến kinh thánh, cũng có thể tìm thấy các thông điệp đạo đức của quyển sách này không thể chấp nhận được trên chính nền tảng của đạo đức. Gót, như diễn tả trong Cựu ước, thường ác độc và tuỳ tiện, và trong Tân ước, ngay cả Jesus đã chân dung như có một tư cách đạo đức khiếm khuyết [33]. Thêm nữa, ngay cả với những người chấp nhận quyển kinh thánh, câu hỏi là – đâu là tư cách đáng được được ban thưởng? Nhũng gì dạy trong kinh thánh về đạo đức thì đã được diễn giải rất nhiều cách hiểu trái ngược nhau. Thế nhưng cho thật công bằng – làm sao Thiên đường có thể là phần thưởng vì tuân theo một tiêu chuẩn đạo đức đúng đắn chỉ dẫn trong Phúc âm – mà chính Phúc âm thì lại không chỉ rõ minh bạch?

Bây giờ, có thể cãi ngược lại rằng những người tuy chưa bao giờ có dịp biết đến các thông điệp đặc biệt về đạo đức của kinh thánh , vẫn có thể được cứu rỗi, nếu như họ tuân giữ theo những nguyên tắc phổ thông của luật đạo đức tự nhiên, mà cứ cho là ai ai cũng biết, vì Chúa Thánh thần của Gót khắc in kiến thức này trong lương tâm mỗi người. Dù cách gì, sự vặn lại này có vấn đề. Một điều, không có lý do nào để giả tưởng là Chúa thánh linh đã "in ấn" luật đạo đức phổ thông vào lương tâm mỗi người. Chưa kể rằng nếu – có chăng những nguyên tắc đạo đức phổ thông mọi thời, mọi nơi – là điều không chắc chắn. Nhưng nếu cứ cho là có, không có gì rõ ràng cho thấy tác giả của chúng lại là Chúa thánh linh! Lại thêm nữa, nếu thuyết cứu rỗi thật rộng rãi đến như thế, thật ngẩn ngơ không thể hiểu vì sao Chúa lại phải nhập thế, xuống trần giảng dạy – nếu thế còn cần chi nữa và cũng chẳng có gì là đáng ao ước nữa [34].

Một mặt khác, cổ vũ thuyết phổ quát lại cũng có những vấn đề của nó. Thiên đường để làm gì nếu cuối cùng rồi ai ai cũng lên hết trên đó? Nếu thế còn ý nghĩa gì của sự sống trần gian này với những đau thương, thử thách và khổ ải của nó? Mặc dù trong trường hợp này (ai cũng lên thiên đường) có lẽ không còn phàn nàn là bất công [35], người ta có thể phàn nàn về sự vô nghĩa của cuộc sống trần gian. Hiện hữu con người hiển nhiên trở thành phi lý và đầy bí ẩn khó hiểu. Tại sao chúng ta lại có đời sống trần gian (như bước trung gian) làm gì nữa nhỉ? Tại sao không bắt đầu đời sống ngay trong thiên đường cho xong?

Một độc giả đọc bản thảo của luận văn này đã phản đối rằng – những liệt kê kể trên, về sự bất công, hoặc sự vô ích của Thiên đường – không chứng tỏ rằng đạo Kitô thì phi lý về nghĩa bất nhất, vì con người vẫn có khát khao một sự sống vĩnh cửu dẫu cho có bất công, hay vô ích. Nhưng sự bất nhất tôi nghĩ đến trong trí không nẩy đưa lên bất cứ mâu thuẫn nào đối với lòng khát khao một sự sống vĩnh cửu. Thiên đường, dẫu nó là gì đi nữa, có nội dung là hàm chứa ý nghĩa về đạo đức, ý nghĩa đó trong thực tế đã dường không có khi xem xét thật sát gần. Thiên đường được giả định là đưa ra một tiêu điểm luân lý cho đời; nhưng nó lại không.

3. Đạo đức đạo Kitô

Một bất nhất khác nữa trong đạo Kitô là lý thuyết đạo đức của đạo Kitô tìm thấy trong Tân ước xem ra không thích đáng, hay không thể bênh vực được đối với nhiều người nhạy cảm về luân lý, kể ngay cả những người theo đạo Kitô thời nay. Thế nhưng lý thuyết này được giả định là căn bản cho luân lý Kitô. Những gì từ Jesus – về thế giới bên kia, sự khắc nghiệt, những đòi hỏi phải nhắm mắt tuân phục và báo thù phục hận đều không những không chấp nhận được về đạo đức, nhưng mâu thuẫn với tuyên bố rằng Ông là toàn hảo đạo hạnh [36]. Còn hơn nữa, sự chấp thuận ngầm – không nói ra – về nạn nô lệ khiến Ông bất xứng để làm một khuôn mẫu đạo đức.

Lại một lần nữa, là điều ghi chú quan trọng rằng luận đề của tôi không đặt giả định trước đạo Kitô sai lầm. Dẫu nếu đạo Kitô cứ tạm cho là đúng, vẫn đã có một bất nhất giữa những người Kitô giương cao Jesus như lý tưởng đạo đức và những quan điểm về luân lý có vấn đề của Ông. Những người Kitô tin tưởng Jesus là lý tưởng đạo đức của họ, nhưng Jesus lại có những tì vết đạo đức nên mâu thuẫn với lý tưởng này.

Chúng ta hãy cùng xem xét trường hợp về nạn nô lệ với chi tiết hơn. Mặc dù nạn này thực hành rất phổ thông ngay trong chính thế giới Jesus đang sống thời ấy, đã không hề có bằng chứng nào cho thấy Ông lên án nó. Như Morton Smith [37]đã ghi chú:

"Hoàng đế và nhà nước La mã có vô số nô lệ, đền thờ Jerusalem (của đạo Do thái) có những nô lệ của đền, Chủ tế đạo Do thái có những nô lệ của chủ tế (một trong những nô lệ này bị cắt tai kể trong chuyện bắt Jesus [38]); tất cả những người giàu có và hầu hết giới trung lưu có nuôi nô lệ. Theo như mức chúng ta được kể cho biết, Jesus không bao giờ tấn công tệ nạn này. Ông đã nhận hiện trạng của nó như sự đương nhiên và uốn nắn những câu chuyện của ông cho phù hợp. Khi Jesus trình bày các sự việc, vấn đề chính với những nô lệ không phải là lấy lại tự do, nhưng là phải chiếm được lòng chủ nhân khen ngợi. Đã dường có những cuộc nô lệ khởi loạn ở xứ Palestine và Jordan trong thời Jesus trẻ tuổi (Josephus, Bellum, 2:55-65); một thủ lãnh có tài làm phép lạ, ở một trong những khởi loạn như thế, hẳn đã lôi cuốn một đám người theo đông đảo. Nếu Jesus đã có lên án nô lệ hay hứa hẹn giải phóng, chúng ta đã nhất định phải nghe đến những gì Ông làm, Chúng ta tuyệt chẳng nghe gì cả, vậy giả định có lẽ đúng nhất là Ông đã không nói gì hết."[39]

Phán đoán của Smith được thái độ các học trò Jesus xác nhận. Nếu như Jesus chống lại chế độ nô lệ, có khả năng là các học trò ban đầu của ông hẳn đã làm theo lời dạy của thày mình về vấn đề. Thế nhưng, Paul (1Cor. 7: 21, 24) và các nhà viết kinh Kitô ban đầu khác, ra lệnh cho các người Kitô tiếp tục thực hành nạn nô lệ [40]. Chắc chắn là phi lý để một ai ngầm chấp nhận chế độ nô lệ, lại là đại diện cho lý tưởng đạo đức Kitô.

Có thể nào thử gắng đáp lại lời kết tội phi lý này được không? Một cách là giải thích lại những phần đạo đức trong đạo Kitô mà những người Kitô thấy khó chịu, thí dụ, tranh cãi là Jesus đã không ngầm chấp thuận nạn nô lệ. Nhưng mặc dù cách giải thích lại như thế phải là không tuỳ tiện và không có vấn đề, nhưng chúng thường phạm vào lỗi như vậy. Lấy thí dụ, một người đọc Kitô xem bản thảo bài văn này đã cãi rằng nếu Jesus đã có dạy rằng nô lệ là sai, Ông hẳn đã bị bỏ qua và chuyện đó, về lịch sử, đã "không đặt lên bàn mổ" (của thời đại đó)[41]. Điều này ném vào tôi giống như một sự chạy tội. Chúng ta tin là Ông hô hào "giơ thêm má bên kia", yêu những kẻ thù của mình, và đừng nhìn phụ nữ với thèm thuồng trong mắt. Ấy vậy những quan điểm này xem – cũng đúng phải giữ với khả hữu tính lịch sử – (lại được nhận ngay, không) như là giải phóng nô lệ. Vả lại, vài nhân vật trong cổ thời đã phát biểu sự chống đối của họ [42] . Một cách khác cho người Kitô tránh bất nhất, sẽ là thú nhận rằng họ chấp nhận thái độ của Jesus bất chấp cái xấu của tệ nạn này. Nhưng trong thực tế, khi phải đẩy đến quyết định, họ không làm theo như vậy! Do đó, thí dụ, những người Kitô thời nay đã chống lại chế �! �ộ nô lệ.

Tuy nhiên, tạm bỏ qua bằng cớ, chúng ta hãy cứ giả thử Jesus đã chống lại nô lệ và những gì Ông và các học trò lên án đã bị bỏ, không chép vào hồ sơ Tân ước. Như thế lại đưa ra một phi lý mới cho đạo Kitô: Jesus thực đã có chống nô lệ, mặc dù điều ngược lại xem ra mới đúng với hồ sơ trong Tân ước. Như thế, tín đồ Kitô chống nô lệ là đã theo gương Jesus nhưng lại không có gì trong kinh thánh để biện chính cho. Hơn thế nữa, nếu Gót thực đã chống nạn nô lệ và Jesus thực đã hô hào chống nó, tại sao Gót lại để cho các lời dạy bị bỏ qua không nhắc gì đến trong Tân ước? Chắc chắn, điều này đưa ra một phi lý khác nữa. Kinh thánh thiếu sót không ghi gì về sự Jesus chống đối một thực hành cực kỳ tàn ác, ghê tởm nhất trong lịch sử nhân loại, dẫu thế mà Jesus lại được giả định là lý tưởng đạo đức cho chúng ta!

Ngay nếu như chúng ta tạm hoãn qua những vấn đề này, và tập trung vào những gì đã được nhiều người xem là tinh yếu các giảng dạy của Jesus, kể tên, lời răn "hãy yêu láng giềng nhà ngươi", có nhiều vấn đề. Lởi răn này có tính không rõ rệt, cho phép nó đươc diễn giải nhiều cách khác nhau, trong số có những diễn giải ngầm chứa những nội dung không thể chấp nhận được, trong khi những lối khác thật không rõ ràng, đến nỗi không cách nào phân biệt được đâu mới là lởi răn diễn dịch ra. Nhưng phi lý ở chỗ là một lời răn nằm ở vị trí trọng tâm của đạo Kitô lại có những vấn đề như thế này [43].

4. Sự chuộc tội

Vẫn còn một bất nhất khác trong đạo Kitô là không có lý thuyết hữu lý về sự Chuộc tội [44]; đó là, câu hỏi tại sao Jesus lại hiện thân thành người trần, chịu chết trên thập giá và rồi sống lại [45]. Ấy nhưng nếu thiếu nó, thế giới quan của Kitô không có nghĩa gì cả và hiện thế, tử nạnphục sinh thành vô nghĩa.

Tấ cả những lý thuyết quan trọng đã có trong lịch sử về sự chuộc tội đều có những vấn đề nghiêm trọng. Đặc biệt, chúng thất bại không giải thích được tại sao Gót đã hi sinh đứa con trai mình để cứu chuộc những kẻ tội lỗi, hoặc nếu khác, họ làm sự hy sinh xem ra tùy tiện và vô nghĩa. Thế nên, họ không cung cấp một giải thích xứng đủ về sự chuộc tội, chết, và sống lại của Jesus. Lại một lần nữa, xin ghi chú rằng luận đề của tôi không đặt trước một giả định là đạo Kitô sai lầm. Điều tôi muốn nêu – đơn giản là – đã có bất nhất, phi lý trong sự thiếu vắng một giải thích hợp lý về thuyết Cứu chuộc và sự cần thiết phải có một lý thuyết như thể để làm cho đạo Kitô mới có ý nghĩa. Để làm sáng tỏ điều này, tôi sẽ xét đến Lý thuyết Toại Ý của St. Anselm[46] (Satisfaction Theory).

Mặc dù nội dung thuyết Toại Ý đã được các nhà tư tưởng trước đó có nói đến trong chừng mực nào đó, Anselm – ở thế kỷ 11 – đã khai triển nó một cách chi ly và thông thái [47]. Ông cãi rằng Gót phải cứu nhân loại qua sự hiện thân và chết của Jesus. Theo Anselm, trả món nợ với Gót, là làm theo ý Gót. Thế nhưng, ông lại biện luận rằng khi – con người Gót tạo – tội lỗi [48], ấy chính là điều họ không làm. Những tội lỗi của giống người Gót tạo, đã sỉ nhục Gót và làm giảm danh dự của Gót. Thế nên, phải có một trách nhiệm phục hồi danh dự cho Gót và gỡ bỏ sự sỉ nhục (phạm thượng!). Đây là sự Toại Ý. Thế nhưng, chỉ có cái chết của Người-mà-Gót (God-Man) Jesus mới có thể đưa đến sự vừa lòng thích đáng. Chỉ có Người-mà-Gót mới có khả năng, do sự linh thiêng của ông, mới dâng điều gì đó xứng mức với Gót, và lại do tính người của Ông, mới đại diện được cho giống người! Chỉ một con người bình thường mà thôi sẽ không có khả năng tạo ra sự vừa lòng thích đáng, vì người này phải tương ứng tỉ lệ với tổng số "tội" và tổng số "tội" thì vô cùng [49]. Ngoài ra, cái chết ! của Người-mà-Gót không có gì là bất công, vì Con-Gót chết hoàn toàn tình nguyện, ngõ hầu phục hồi danh dự của Gót. Những ai chấp nhận hy sinh của Jesus, những kẻ ấy được cứu chuộc.

Lý thuyết này tạo những giả định và chúng đều có vấn đề. Hãy để tôi kể bốn điểm:

Thứ nhất, không rõ rệt vì sao, nếu nhân loại làm các sai trái gây tổn thương Gót, lại không thể thỏa mãn thích đáng một cách đơn giản bằng trừng phạt những kẻ tội lỗi, cho đến mãi mãi. Chuyện hiện thân thành người trần thật không cần thiết.

Thứ nhì, cái chết của Jesus, mặc dù tình nguyện, xem ra bất công. Công bình chắc chắn đòi hỏi phía phạm tội, ở mức dù tối thiểu nhất, đem mãn nguyện đến – thật nhiều đến mức tối đa có thể đem được. Thêm nữa, một con người tốt đến mức toàn hảo (như Gót) sẽ không cho phép một kẻ hoàn toàn vô tội đem đến thỏa mãn, mà lại còn trong căn bản tình nguyện, dẫu ngay cả khi phía phạm tội không thể đền trả được gì. Thực vậy, ngay chính ý niệm về sự hãnh diện của Gót bị tổn thương và đòi hỏi phải được đền bồi thỏa mãn như thế, qua sự đòi hỏi chính đứa con vô tội của mình tự nguyện hy sinh, tất cả chúng giả thiết một quan điểm về bản chất đạo đức của Gót mà nhiều độc giả thời nay sẽ gạt bỏ.

Thứ ba, lý thuyết này không rõ ràng tại sao cái chết của Người-mà-Gót lại là cần thiết cho sự đền bồi thỏa mãn một sai trái lớn vô cùng đã phạm đến danh dự của Gót. Tại sao không là một vài hình thức trừng phạt nào khác cũng đủ? Nếu danh dự của Gót đã tổn thương vô cùng ghê gớm vì "tội lỗi" con người, tại sao nó không thể được hòa giải bằng sự trừng trị vĩnh viến vị Người-mà-Gót, Jesus ấy? Tại sao lại phải là tử hình? Thực ra có lẽ trừng phạt Jesus trong vĩnh cửu như thế xem ra nặng nề hơn biết là bao nhiêu – hơn sự trừng phạt tử hình – chỉ đau đớn tương đối ngắn ngủi và ít ỏi. Ngay cả dẫu như có người cãi lại, phạt tử hình có một sự khắc nghiệt mà không trừng phạt nào có thể sánh bằng, điểm quan trọng cần nhớ là Jesus đã chỉ chết trong một thời gian rất ngắn. Sẽ là trừng phạt tử hình khắc nghiệt hơn nhiều nếu như Jesus đã chết luôn và không sống lại.

Cuối cùng, không có gì rõ ràng là – tại sao những người chấp nhận sự hy sinh của Jesus lại được "cứu chuộc"? Dẫu như chấp nhận giả định là Jesus hy sinh đem đến mãn nguyện đối với những sai trái trong quá khứ đã xúc phạm đến danh dự Gót, tại sao tin tưởng vào Jesus bây giờ lại cứu được bất kỳ ai (tin theo)? Và tại sao chỉ những người-tin mà những ai không-tin lại bị loại trừ, không được phần thưởng đó?

Các lý thuyết khác như thuyết Penal Theory, thuyết Government Theory, thuyết Moral Theory, thuyết Christus Victor Theory, và thuyết Mystic Theory – tất cả cũng thế – đều đầy những đáng ngờ cùng cực [50].

5. Khái niệm về Gót

Điều bất nhất phi lý cuối của bài này, tôi sẽ nhắc đến ở đây là – mặc dù Gót là trung tâm điểm rường cột của đạo Kitô, khái niệm về Gót theo đạo Kitô thì hồ đồ, không mạch lạc. Xin ghi chú là tôi đang không chỉ nói rằng tin vào Gót là sai lầm. Đúng hơn, là có một bất nhất trong việc dựa tôn giáo của một người trên niềm tin vào Gót và lại có chính ý niệm này hồ đồ, không mạch lạc. Còn gì có thể phi lý hơn là chính cái khái niệm trọng tâm của một tôn giáo lại bất nhất?

Trước hết, một vài thuộc tính gán cho Gót trong kinh thánh, mâu thuẫn nhau, không trước sau như một.[51]. Ở vài chỗ, Gót được tả như là khoan dung, nhân từ [52]và ở một vài chỗ khác lại như là thiếu lòng tha thứ;[53] Ở vài chỗ, Gót được tả như một nhân vật biết hối hận và đổi ý,[54] ở chỗ khác lại như một nhân vật không bao giờ hối hận và đổi ý cả;[55] ở vài chỗ như một nhân vật biết lừa dối và tạo nên hỗn loạn và ác độc,[56] và ở những chỗ khác lại như một nhân vật không bao giờ làm như thế,[57] ở vài chỗ là một kẻ trừng phạt trẻ con vì hành động sai ! trái của cha mẹ chúng [58], và ở những chỗ khác lại là một nhân vật không bao giờ làm như thế.[59]

Thứ nhì, những thuộc tính nhấn mạnh trong liệt kê triết học về Gót – hoặc chúng mâu thuẫn điều này với điều kia hay chúng nội tại bất nhất. Trong quyển sách của tôi Chủ nghĩa vô thần: Một biện chính triết học (Atheism: A Philosophical Justification), tôi đã viết ba mươi trang phân tích chi tiết những bất nhất gắn liền với các ý niệm: toàn trí, toàn năng, và tự do thần linh. Ở đây tôi chỉ có thì giờ nêu đại cương những biện luận của tôi về toàn trí (omniscience).

Nói rằng Gót là toàn trí là nói rằng Gót là biết-tất-cả. Nói rằng Gót là biết-tất-cả lại kéo theo rằng Ông có hết tất cả những kiến thức có đấy. Hiện giờ, các triết gia đã phân biệt ba loại hiểu biết khác nhau: mệnh đề, tiến trình và kiến thức từ quen biết [60] . Vắn tắt, hiểu biết mệnh đề hay hiểu biết thật sự là – kiến thức về một điều gì đó là sự kiện, và được phân tích là đúng, theo như một loại tin tưởng nào đó. Ngược lại, hiểu biết tiến trình hay kiến thức làm sao là một loại tài khéo, kỹ năng, và nó không giản lược về thành kiến thức mệnh đề được.[61] Cuối cùng, kiến thức do quen biết là trực tiếp quen biết với một vài đối tượng nào đó, người hay hiện tượng.[62] Lấy thí dụ, để tôi nói rằng – tôi biết Ông A, bao hàm ý tôi có hơn, chứ không chỉ hiểu biết mệnh đề chi tiết về ông A; rằng tôi có một quen biết trực tiếp với ông A. Tương tự, khi nói – tôi biết sự nghèo khó – bao hàm ý rằng, bên cạnh kiến thức mệnh đề chi tiết về sự nghèo khó, tôi có một vài kinh nghiệm trực tiếp về nó.

Nói rằng Gót là biết-tất-cả, thế nên, là nói Gót có tất cả kiến thức trong đó gồm mệnh đề, tiến trình và kiến thức từ quen biết. Những nội dung bất mạch lạc, không ăn khớp nhau của liệt kê này về ý niệm Gót đã thường không được để ý. Nếu Gót toàn trí, vậy Gót phải có tất cả mọi kiến thức, gồm kiến thức bơi lội như thế nào. Thế nhưng điều này mâu thuẫn với trạng thái vô-thân-xác của Ông; vì chỉ một nhân vật có thân xác mới có thể có – kiến thức bơi thế nào – theo nghĩa kiến thức tiến trình (biết làm); nghĩa là, có thể thực có kỹ năng bơi lội. Do định nghĩa, Gót không có một thân thể, tính chất phi-thân-xác và tính chất biết-tất-cả của Ông mâu thuẫn với nhau, như thế, vì Gót có các thuộc tính mâu thuẫn nhau, ý niệm Gót thì bất nhất, không mạch lạc, vô nghĩa [63].

Giả thử người ta có thể sẽ phản đối luận chứng của tôi trên hai nền tảng. Thứ nhất, người ta có thể cãi Gót có thể nhập vào xác phàm và lấy được kiến thức làm sao – khi Ông ở trong trạng thái "nhập phàm" đó. Đúng, nhưng Ông sẽ thiếu, không có thứ kiến thức này trước khi Ông nhập xác. Thế nhưng, Gót vốn đã được giả định là vĩnh cửu biết-tất-cả! [64] Thứ nhì, một người giả thử tuyên bố là Gót có thể biết bơi thế nào bằng cách suy nghĩ về nó. Nhưng phản đối này đã dựa trên một sự lẫn lộn giữa hai thứ kiến thức biết làm sao. Dĩ nhiên, Gót có thể biết bơi làm sao trong cái nghĩa Ông giả thử biết, nếu muốn bơi – một người phải giơ tay và đạp chân theo cách thức như thế, như thế, rồi hít thở như thế, như thế,…vân vân. Nhưng điều này không thích đáng với nghĩa kỹ năng của kiến thức – biết làm thế nào – nó gồm có thật sự bơi được; nghĩa là, có sự khéo léo của bắp thịt vận động. Bởi vì Gót thiếu một thân xác, trừ khi Ông nhập xác, Ông không thể hiểu biết – theo nghĩa khả năng – bơi lội ra làm sao.

Thuộc tính là biết-tất-cả cũng mâu thuẫn với những thuộc tính đạo đức thường gán cho Gót. Bởi vì nếu Gót là toàn trí, Ông có kiến thức từ quen biết của tất cả các khía cạnh của thèm muốn và ghen tị. Đến đây, một khía cạnh của thèm muốn là tình cảm thèm muốn và một khía cạnh của ghen tị là tình cảm ghen tị. Thế nhưng, có phần của khái niệm về Gót là Ông toàn hảo về đạo đức, và là một vị toàn hảo về đạo đức phải không có những tình cảm thèm muốn và ghen tị này. Hậu quả là, khái niệm về Gót bất nhất, không ăn nhập đâu vào đâu.

Lại thêm nữa, Gót toàn trí mâu thuẫn với Gót toàn năng. Bởi vì Gót toàn năng, Ông không thể có kinh nghiệm về sợ hãi, thất vọng và tuyệt vọng.[65] Muốn có được các kinh nghiệm này, một người phải tin biết khả năng của mình có giới hạn, nhưng vì Gót là biết tất cả và quyền năng tất cả, Ông biết là Ông không chịu giới hạn nào về quyền năng. Hậu quả là, Ông không thể có toàn bộ kiến thức từ quen biết, của tất cả các khía cạnh của sợ hãi, thất vọng, và tuyệt vọng. Nhưng ở một mặt khác, vì Gót là toàn trí, Ông phải có các kiến thức này. Lần nữa, khái niệm về Gót đã thấy là không ăn nhập với nhau, bất nhất. Vậy nên, còn gì có thể phi lý hơn nữa? Khái niệm trọng tâm của đạo Kitô là Gót, và thế nhưng, khái niệm này thì bất nhất, không ăn nhập trước sau. [66]

Có thể trả lời cho các luận chứng của tôi không? Dĩ nhiên, một người có thể đưa ra một giải thích khác về Gót hoặc về kinh Cựu ước. Làm như thế người này hẳn sẽ gắng chứng minh rằng khái niệm về Gót thì không bất nhất. Nhưng một lối giải thích như thế phải không là tuỳ tiện, hoặc nếu không thì thành có vấn đề. Đối với các các đoạn văn mâu thuẫn trong kinh thánh, một tín đồ Kitô có đọc bản thảo của bài văn này, phê bình phương pháp của tôi trong cách diễn giải là bỏ qua những chủ đề trọng tâm và chỉ chú trọng vào những cái ông gọi là các chi tiết hợp hay không hợp pháp. Đáng tiếc, ông không cho ý kiến đi xa hơn – như làm sao các chi tiết này có thể hoà giải, hoặc làm sao một người có thể xác định đâu là các chủ đề trọng tâm.

Cũng vẫn độc giả này, đã thử cố gắng hoà giải sự mâu thuẫn giữa Gót toàn trí và các thuộc tính khác của Gót, bằng cách từ chối là Gót là biết-tất-cả. Đặc biệt, độc giả này chối rằng Gót không có toàn bộ kiến thức làm sao và kiến thức do quen biết. Nhưng sự giả định này có hàm chứa một nghịch lý rằng con người có kiến thức mà Gót không có. Nói một cách khác, nó hàm ý rằng một chủ thể vô hạn lại không có kiến thức mà một con người hữu hạn có. Một phi lý thay chỗ của một phi lý khác!

Kết luận

Những lý thuyết của đạo Kitô về Cứu rỗi, Thiên đường, Đạo đức, Cứu chuộc và Gót [67] đóng vai quan trọng trung tâm của chủ thuyết Kitô, thế nhưng những lý thuyết này có vấn đề. Nhưng đây là phi lý theo cái nghĩa thông thường tự điển định nghĩa của từ "absurd .”[68] Đây dĩ nhiên không phải là hết chuyện vì những người Kitô có thể từ chối một vài giải thích trưng ra từ các luận chứng của tôi. Nhưng rồi không biết họ có thể đưa ra các giải thích thay thế, và những giải thích này – hoặc phải không tuỳ tiện hoặc phải không nghịch lý – được hay chăng, lại là một chuyện khác nữa.

Michael Martin

Lê Dọn Bàn tạm dịch- bản nháp thứ nhất

(Dec/2009)

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

Các chú thích trong bài là của chính tác giả, Michael Martin, như trong nguyên văn – bản Anh ngữ – có thể đọc nguyên văn ở đây: Is Christianity Absurd? (2002).

Những chú thích khác là của tôi, hướng đến đọc giả người Việt – tất cả đề có phụ chú – (CTND) – chú thích người dịch – cũng thay cho sự thành thực nhận lỗi, nếu có, hoàn toàn do thiếu kém của người dịch.

[1] Một vị khác, thí dụ, Daniel Dennett, gần đây được biết đến rộng rãi hơn.(CTND)

[2] Xem thêm B. Russell – Yếu tính của tôn giáo – tôi tạm dịch (CTND)

[3] Xem Edward Gibbon – The History of the Decline and Fall of the Roman Empire (CTND)

[4] Có dịp đặt chân trên những hoang tàn của Parthenon, biểu tượng của văn minh Hy Lạp, và nay là cả nhân loại, vì là quê hương của toán học và triết học, vốn dựng thờ nữ thần Athena, hãy đừng quên – đến thế kỷ VI, Parthenon đã bị biến thành một nhà thờ Kitô, dâng thờ "Parthenos Maria" ("Virgin Mary").

Vậy, những câu chuyện như "tháp Báo Thiên, Nhà thờ lớn Hà Nội", hay "chùa Khải Tường, Saigon"… vì sao bị hủy, phá, chiếm, và mất dấu ở quê hương chúng ta, chỉ là lịch sử lập lại. (CTND)

[5] Thơ Kiên Giang- Hoa Trắng Thôi Cài Trên Áo Tím (CTND)

[6] Xem Sam Harris – The Sacrifice of Reason – "Khái niệm JC chết cho tội lỗi chúng ta và cái chết của Ông đã tạo nên sự hòa giải thành công với một Gót "nhân ái" – là hình thức trực tiếp và trá hình rơi rớt xót lại từ tục man rợ giết vật tế thần, vốn đã hoành hành ở những giống dân mông muội trong lịch sử. Nhìn theo quan điểm hiện đại, đây là một ý niệm vừa phi nhân vừa cuồng tín, phê phán nó, thật khó, không biết phải bắt đầu từ đâu. Thêm vào huyền thoại đê tiện xoay quanh một người chết vì cực hình – Những khổ hình của Christ – sự tượng trưng của tục ăn thịt uống máu sống, của lễ ban Thánh thế – (www.samharris.org)

[7] Salvation – Sự cứu rỗi, Trong đạo Kitô, Jesus là nguồn của sự cứu rỗi và nhấn mạnh vào sức mạnh của lòng tin này. Tương tự, trong đạo Islam nhấn mạnh vào sự phục tùng Allah. Cả hai trên bình diện cá nhân. Riêng đạo Do thái đặt một sự cứu rỗi tập thể cho toàn con dân xứ Israel. (CTND).

[8] Atonement (Christianity) – niềm tin trong đạo Kitô: Jesus đem cái chết của mình để "chuộc tội" cho con người và như thế hòa giải Gót với Người.

Dĩ nhiên, ý niệm này hoàn toàn xa lạ với các dân tộc Nam và Đông Á. Nói chung ở đấy, giữa trời và người không có liên hệ bệnh hoạn như thế. Chỉ kể những chủ thuyết phổ thông nhắc đến rất thường trong sách vở – "Thiên địa vạn vật đồng nhất thế", "Tiểu ngã và đại ngã hoà hợp", "nhận Tự ngã là Không, để biết Chân như", "cái Đạo lớn là không làm, không nói",….Dù chưa đi vào chi tiết, chỉ qua tên gọi thôi, đã thấy chúng là những memes từ Nho, Phật, Lão, Bà la Môn, đã ra sống giữa văn hóa nhân gian, trong lòng sinh hoạt tinh thần các dân tộc ở những vùng này, từ rất lâu đời (CTND)

[9] Cf. Michael Martin, The Case Against Christianity, (Philadelphia, PA: Temple University Press, 1991), Chương giới thiệu.

[10] Phiên âm từ God – thay vì dịch, vì từ Thượng đế – thường dịch – không hoàn toàn đúng nguyên nghĩa của từ God – xem thêm trong chú thích của tôi trong bản dịch: Russell – Có God Hay Không? (CTND).

[11] Một bản có trước đó, ngắn hơn, và có sửa đổi nhiều của văn bản này đã có trong The American Rationalist, May/June 2000, pp. 3-6, với nhan đề “The Absurdity of the Christian Life.

[12] Absurd: tính chất buồn cười, lố bịch vì trước sau bất nhất hay không thuận lý, xuôi tai, hợp lẽ phải (Ridiculously incongruous or unreasonable), cũng đông nghĩa với foolish. Trong tiếng Việt, đã dịch quen là phi lý, nên theo thói quen – thực ra còn có từ “xuẩn“ – nếu dịch “xuẩn lý“ thì linh động hơn – với nghĩa “lý của người xuẩn“, nó lố bich, buồn cười, không hợp lý thông thường (CTND)

[13] "Yuk" – tiếng tán thán từ – khi phá ra cười vì gặp, nghe chuyện khôi hài, hay thấy việc nhờm gớm, bất thường (CTND)

[14] Từ "absurd" – Nguyên văn Anh ngữ trong bài này, nhắc tôi đến hai câu nói của Bertrand Russell, tôi dám đoán, cũng không xa lạ gì với tác giả Michael Martin – tưởng cũng nên nhắc lại ở đây – vì có liên quan đến từ "phi lý" Michael Martin dùng trong bài viết này:

- "Sự kiện một ý kiến được phổ thông rộng rãi, không phải là bằng chứng gì hết, rằng nó không hoàn toàn phi lý, thực ra, cứ xét sự khờ dại của nhân loại, một tín ngưỡng phổ thông rộng rãi có cơ là điên rồ hơn là có ý thức"

- "Đây là một trong những quan điểm thực là phi lý đến mức cùng cực mà chỉ có những kẻ có học thật nhiều mới có thể chấp nhận chúng”.

Nếu câu thứ nhất ông nói về tín đồ, câu thứ hai – hẳn phải về những nhà thần học, bác học Kitô.

Trong Việt ngữ, sự phổ thông của từ "phi lý" có gốc khác – Trước 1975, ở miền Nam, từ "phi lý"– thành thời thượng khi thuyết Hiện Sinh dòng Pháp, được "nhập cảng". Từ này thường đi đôi với từ "buồn nôn". Gốc của chúng trong Albert Camus – Le Mythe de Sisyphe, và Jean-Paul Sartre – La Nausee. Hai đại diện của dòng hiện sinh vô thần thời hậu chiến ở nước Pháp, quen thuộc với các trí thức Việt bản xứ hay hồi hương từ Pháp giai đoạn 55-60 này. Theo tôi, đây là "thuốc cao đơn hoàn tán, trong uống ngoài xoa" để làm dịu đau đớn và tủi hổ của trí thức Pháp, trong thâm tâm, họ thấy khó chịu, nhục nhã ngấm ngầm, vì trong thế chiến thứ II, nước Pháp đã rất nhanh chóng đầu hàng, rồi "cộng tác" với nước Đức Quốc Xã, sau đó, phải chờ và nhờ liên quân Anh Mỹ giải phóng đất nước. Lực lượng gọi là "kháng chiến Pháp" do de Gaule đứng đầu, và các trí thức Pháp như Sartre lẫn Camus đều có tham dự, thực sự chỉ có vai trò rất khiêm tốn. (CTND)

[15] Christian apologetics – ngành thần học đặc biệt của Kitô – có mục đích đưa ra một nền tảng duy lý cho tín ngưỡng Kitô, bảo vệ niềm tin trước các phê bình, chống đối và đồng thời cũng tấn công những quan điểm các tôn giáo khác, bằng cách trưng ra những khuyết điểm của chúng. (CTND)

[16] Nếu một điều gì phi lý theo nghĩa bất nhất, vậy nó có phi lý theo nghĩa vô nghĩa không? Nếu một điều gì phi lý theo nghĩa vô nghĩa vậy nó có phi lý trong nghĩa bất nhất không?

[17] Xem The Case Against Christianity, Chương 7.

[18] Tên gọi chung ba tập sách trong kinh Tân ước: của Matthew, của Mark, và của Luke, vì chúng rất tương tự, có nhiều trùng hợp, giống nhau (CTND)

[19] Tôi có biết đến sự uyên bác tinh tế của các hội viên Jesus Seminar trong cố gắng phân định đâu là những gì Jesus thực có nói [Xem, lấy thí dụ, Robert W. Funk, Roy W. Hoover and the Jesus Seminar, The Five Gospels: The Search for the Authentic Words of Jesus (Harper, SanFranciso, 1997).] Thế nhưng, kết luận (mà tôi chấp nhận) rằng Jesus đã thực không có nói nhiều điều người ta kể là ông đã nói, sẽ không có một ảnh hưởng quan trọng nào cả vào điểm chính của tôi trong bài viết này. Hầu hết tất cả các tín đồ Kitô đều tin – ít nhất Jesus đã nói những điều này. Lấy thí dụ, hầu hết người Kitô thú nhận tin tưởng những gì được kể là Jesus đã nói trong Synoptic Gospels. Nhưng trong đó, Ông được kể lại là có nói rằng cứu rỗi có thể có được bằng tuân theo một bộ luật đạo đức. Thêm nữa, họ thú nhận đã tin Paul và John. Nhưng những vị này lại nói cứu rỗi chỉ có thể có được bằng đức tin. Như thế đó cũng là cương lĩnh của đạo Kitô mà hầu hết tín đồ Kitô tin tưởng. Luận đề của tôi chú trọng vào phơi bày một sự bất nhất trong tin tưởng phổ thông của đạo Kitô – không phải những gì các học giả quyết định nên theo, hay không nên theo dưới ánh sáng khảo cứu lịch sử.

Như tôi hiểu những kết quả của Jesus Seminar, quan điểm Jesus đã dạy về cứu rỗi bằng cách tuân theo một bộ luật đạo đức, có liên hệ với tuân theo những lời răn và không phải là làm giàu, có chống đỡ từ mức vừa phải (Matt.19: 21-24, Luke 13:24, 18:18-25) đến yếu (Matt.7: 13-14, 19:17). Về chuyện hội nghị có một hệ thống tô màu những đoạn kinh – hồng (Jesus có lẽ đã nói điều này) hay xám (Ông không nói – nhưng ý gần ý của chính Ông). Thế nhưng, thành viên hội nghị xem quan điểm Jesus dạy cứu rỗi chỉ qua niềm tin rất đáng ngờ. Như thế, phủ nhận John 14: 1-14 như đã trình bày những gì Jesus nói mặc dù đoạn này đã thường dùng để chống đỡ quan niệm cứu rỗi bằng đức tin mà thôi (Xem The Five Gospels, pp. 450-1.). Nhưng hầu hết các tin đồ Kitô không biết đến những quan điểm của Jesus Seminar và có lẽ sẽ không chấp nhận chúng nếu như có họ có biết được.

Thế nhưng, nếu chúng ta mang ra những kết quả của hội nghị Jesus Seminar lại xem gây ra một bất nhất khác: Rất nhiều tín đồ Kitô tin rằng cứu rỗi bằng đức tin mà thôi, nhưng giới học giả hàn lâm cao nhất của họ lại không ủng hộ một quan điểm được phổ biến rộng rãi nhất và tuân theo nhất về lý thuyết cứu rỗi của đạo Kitô.

[20] Điểm này tôi có, nhờ ở Robert Price trong thư tín trao đổi cá nhân.

[21] Xem Michael Martin, “Problems With Heaven,” July 22, 1997

[22] Xem chính tác giả khai triển chi tiêt nội dung đoạn này trong Problems With Heaven với bản dịch của tôi Thiên đường dậy sóng hoài nghi - (CTND)

[23] Peter van Inwagen (1942-) Giáo sư triết đại học Notre Dame (US). Ông nghiên cứu về Siêu hình, Triết lý luận lý, Triết ly thần học, và lý thuyết bảo vệ Kitô (Christian apologetics) – (CTND)

[24] Peter Van Inwagen, “The Possibility of Resurrection,” Philosophy of Religion, ed. Louis Pojman (Wadsworth Pub. 1994), pp. 389-92.

[25] Tuy nhiên, với vũ trụ quá bao la, nếu có thất bại đi tìm một tinh cầu như thế, không nghiêng về phủ nhận hiện hữu của nó. Lý thuyết mà nói, giả thuyết " Có một hành tinh nơi ấy Gót bảo trì các xác người đã chết từ địa cầu" là một mênh đề phi hạn-chế về hiện hữu và bằng chứng quan sát không chứng minh nó sai.

[26] ibid., p. 392

[27] Theodore Michael Drange (1934 – ) Triết gia về tôn giáo học, giáo sư đại học West Virginia University. Là người vô thần, ông có tác phẩm nổi tiếng Nonbelief and Evil: Two Arguments for the Nonexistence of God (1998) – Tác phẩm này trình bày chi tiết một luận chứng vô thần quan trọng xưa nhất và mạnh nhất – phủ nhận sự hiện hữu của Gót – dựa trên các thiên tai, bệnh tật, đau khổ hoành hành ở trần gian, nếu có Gót nhân ái và toàn năng – sao lại có Tà Ác ? – Luận chứng này gọi là Luận chứng về Tà Ác (CTND)

[28] Xem, Theodore Drange, “The Argument From Nonbelief,” Religious Studies, 29, 1993, pp. 417-432, và “The Arguments From Evil and Nonbelief,” 1996

[29] Xem The Case Against Christianity.

[30] William Lane Craig (1949-) Triết gia, giáo sư đại học, Người Mỹ, chuyên về triết học tôn giáo, triết lý thần học, và nghiên cứu nhân vật Jesus lịch sử.

[31] Michael Martin, “Craig’s Holy Spirit Epistemology,” April 15, 1998

[32] Holy Spirit (CTND)

[33] Xem The Case Against Christianity, Chương 6. Ở đây và những chỗ khác trong bài này, tôi giả định là Jesus hiện hữu. Mặc dù tôi đã biện luận chống lại sự hiện hữu của Ông trong The Case Against Christianity (Chương 2) Tôi đã nói (p. 67) tôi sẽ không dựa những luận chứng của tôi dựa trên sự phủ nhận hiện hữu của Jesus trong các phần sau đó cho đến hết quyển sách, vì phủ nhận sự hiện hữu của Jesus gây quá nhiều tranh cãi. Hơn thế nữa, tôi đã không dựa trên các luận chứng phủ nhận ấy sau thời kỳ ấy tôi viết về đạo Kitô. Thế nên, sẽ là hiểu nhầm rất sai lệch nếu giả thuyết là tôi đã bất nhất khi giả định là tôi chấp nhận Jesus có hiện hữu thật trong bài văn này.

Cho mục đích của bài văn này, tôi giả định như những gì tín đồ đạo Ki tô điển hình giả định (rằng Jesus) hiện hữu và nỗ lực là trình bày sự bất nhất liên hệ trong các giả định này.

Các luận chứng của tôi cũng giả định trong một phương cách khác nữa. Tôi giả định là chúng ta có một ý khá rõ về quan điểm đạo đức và hành vi của Jesus từ những gì đã nói trong Synoptic Gospels. Thế nhưng, tôi đã chống cãi trong The Case Against Christianity (Chương 6, p. 163) rằng ngay giả thuyết như thế thì đáng hồ nghi lắm. Như tôi lưu ý trong đó, hầu hết tín đồ đạo Kitô nhắm mắt trước vấn đề này và xem Synoptic Gospels như căn bản của đạo đức Kitô. Trong The Case Against Christianity (Chương 6). Tôi tuân giữ theo qui ước đó. Trong bài văn này, tôi cũng làm theo như thế. Tôi giả định Synoptic Gospels như căn bản của đạo đức Kitô và chứng minh rằng những quan điểm đạo đức và hành vi của Jesus đã trình bày trong đó, mâu thuẫn với hình ảnh Jesus như một lý tưởng đạo đức

[34] Xem, The Case Against Christianity, pp. 208-11

[35] Tôi nói "có lẽ" vì câu hỏi về công bình cũng có thể nêu lên theo hướng thuyết phổ quát nữa : Có công bằng không nếu tất cả mọi người đều được cứu rỗi, mặc dù có kẻ đã sống tàn ác không thể tưởng được trong khi có những người khác lại sống hoàn toàn một đời thánh thiện tuyệt vời? Về câu hỏi công bình trong cứ chuộc xem Richard Schoenig, “The Argument from Unfairness,” International Journal of Philosophy and Religion, 45, 1999, pp. 115-128.

[36] Xem The Case Against Christianity, Chương 6.

[37] Morton Smith (1915 –1991) giáo sư cổ sử tại đại học Columbia. Nổi tiếng vì phát hiện bản thảo thư tịch cổ tại tu viện Mar Saba.

[38] Matthew, chương 26: Kể chuyện đi bắt Jesus: Chủ tế và đông đảo quần thần đến tìm bắt Jesus, sau khi Judas ra dấu bằng cách hôn Ông, bọn họ xấn đến nắm bắt Ông, Một trong những học trò của Jesus rút kiếm vội vàng, nên cắt đứt tai một nô lệ trong đám tùy tùng của vị Chủ tế…(Matthew 26:47-52) – (CTND)

[39] Xem Morton Smith, “Biblical Arguments for Slavery“, Free Inquiry, 7, Spring 1987, p.30.

[40] Ibid.; Xem also Edward A. Westermarck, “Christianity and Slavery,” A Second Anthology of Atheism and Rationalism, ed. Gordon Stein, (Buffalo, N.Y.: Prometheus Books, 1987), pp. 427-437.

[41] Nguyên văn – “not in the cards.” – Ý nói, vấn đề nô lệ là một vấn đề của thời đại chúng ta, nên chúng ta đưa ra bàn cãi, lên "bàn mổ lương tâm" thời đại. Còn thời Jesus, cứ cho là có Jesus, và 2000 năm trước, Ông không nói gì, vì nó không là đầu đề bàn cãi của thời đó.

Nhưng Martin cho thấy là có những người đương thời, và cả trước đó (ở Hy lạp) đã lên tiếng.

Và Martin cũng chứng minh, có những vấn đề – xem ra hợp với thời nay hơn thời xưa – khi Jesus có ý kiến – đáng khen, lại không ai đặt vấn đề thời đại tính cả. (CTND)

[42] Xem thí dụ , Bertrand Russell, A History of Western Philosophy, London: George Allen and Unwin, Ltd, 1948), p.254. Theo như Russell, các đồ đệ của triết gia Antisthenes lên án tục nuôi giữ nô lệ. Hơn nữa, ngay cả Aristotle, người vẫn thường được xem là bào chữa cho nô lệ cũng đã chống lại tục nô lệ như hậu quả của chiến tranh và chinh phục Xem W. D. Ross, Aristotle, (London: Metheun and Co. LTD, 1956), p. 241.

[43] Xem The Case Against Christianity, pp. 172-191

[44] Trong đạo Kitô, đã gọi Jesus là "con cừu tế God" – “the Lamb of God that taketh away the sin of the world.” (John i. 29.) – di tích của tục lệ một thời mông muội, tìm thấy khắp nơi trên thế giới- người ta cúng Gót, Trời, hay các thần linh gọi bằng tên khác nhau – vật dâng cúng là người sống (trẻ em, phụ nữ, ..) rồi chuyển sang sinh vật sống (gà, lợn, trâu bò,…) – sau cùng mới dùng sinh vật nấu chín các thế kỷ gần đây.

Ngay vào thời các kinh thánh được chép – ở Do thái vẫn có tục tế dê (scape-goat), trước đó người Ai cập tế trâu.- trong kinh Cựu ước, còn ghi lại rất nhiều chuyện đem giết người tế Chúa – thí dụ Jephthah đem con gái đốt sống cúng Chúa (Judges 11:39). Lòng tin vào Chúa còn được xưng tụng trong một huyền thoại nổi tiếng – Chúa ra lệnh cho Abraham giết con trai mình ở Moriah. Abraham đã sẵn sàng, nhưng chỉ đến phút cuối, Chúa để Abraham giết một con cừu tơ (ram) làm lễ tế, thay chỗ đứa con trai.

Vậy chuyện cúng tế dâng hiến một vật hy sinh để xin tội, cầu phước là tập tục cổ truyền quen thuộc trong truyền thống Trung đông Do Thái, Ai cập.

Cúng tế xong xuôi, còn tục uống máu ăn thịt vật đã cúng tế để lấy phước, sức mạnh,… Tục đó trong đạo Kitô còn giữ đến ngày nay: Eucharist – tín đồ vẫn ăn bánh, nếm rượu – gọi là "bánh thánh, rượu thánh" – nhưng thực chất và mang ý nghĩa vẫn giữ là "uống máu, ăn thịt" của chính Jesus. Vì chính giáo hội Kitô dạy bánh và rượu đã thánh hóa, không là bánh và rượu nữa, nhưng là xác và máu thiêng của chính chúa Kitô.

Thế nên, Dưới các lớp nghi thức long trọng, các câu "thần chú" đọc bằng Latin – Tất cả là tàn dư của một thời mông muội lúc nhân loại còn ăn thịt sống, uống máu tươi những tế vật hạ xuống từ bàn thờ.

Do thế, và nhiều điều khác nữa, nhìn dưới khía cạnh nhân loại học, triết học, đã nêu lên câu hỏi nghi ngờ về một Jesus lịch sử – có nghĩa là – Jesus không là một người thật sống trong lịch sử, hay nếu có cũng không như những chi tiết mâu thuẫn, rời rạc ghi trong kinh thánh, Jesus chỉ là một nhân vật tưởng tượng của nhiều huyền thoại chắp vá lại mà thành.

Nói vắn tắt nôm na theo lối bình dân – Jesus chỉ là sản phẩm của tưởng tượng – cũng như Tôn ngộ Không, Trư ngộ Năng, hay Sa ngộ Tĩnh do Ngô Thừa Ân phóng bút vẽ ra, nếu không hoàn toàn huyền thì chỉ bán-thực – Jesus – tương tự, theo như xuất hiện trong kinh Thánh – cũng chỉ là Đường Tam Tạng của Tây Du Ký, không phải là Huyền Trang có thật của lịch sử. (CTND)

[45] Xem The Case Against Christianity, Appendix 2.

[46] Saint Anselm of Canterbury (1033-1109) Nhà thần học và triết gia Kitô. Ông được nhắc vì luận chứng bản thể (ontological argument) chứng minh Gót hiện hữu – Luận chứng này bị nhiều người lần lượt đánh đổ: Kant, Hume, Russell và gần chúng ta nhất là R. Dawkins (the God Delusion). Cũng như lý luận về Toại Ý, tác giả Martin trình bày trên đây – luận chứng bản thể dùng những từ và ý niệm rất thông thái (bản thể, tiền nghiệm) nhưng bình thản xem xét – chúng rất ngớ ngẩn.

Những tác giả như Anselm, vì tin trước rồi chứng minh sau – chứng minh một niềm tin đã chấp nhận trước ở ngoài, hay bất chấp lý trí – rồi sau mới dùng lý luận để thuyết phục lý trí người khác – nên quặt quẹo, kết quả là chỉ tạo những ngụy chứng. (CTND)

[47] L. W. Grensted, A Short History of the Doctrine the Atonement, (London: Manchester University Press, 1920) Chương s 4, 5, 6.

[48] Trong nguyên văn – "when God’s creatures sin" – sin là động từ – theo context Âu mỹ, làm, nghĩ,… bất kỳ điều gì trái với God là "sin". Dĩ nhiên Ý Gót ra sao?, có Gót không? … là chuyện khác.

Paul – một học trò của Jesus, là người đã đem ý niệm "Gót xuống làm người" – Người-Gót – để làm Jesus (lúc đó đã chết) thành linh thiêng, và ý niệm "Người-Gót" chết vì "tội" của con người – lúc ấy, chỉ dân Do Thái có mà thôi, sau này giáo hội do Paul thành lập, lớn rộng thành đạo Kitô, "người" mới chỉ cả nhân loại! Điều này cũng lố bịch như giảng dạy là "Adam và Eva là thuỷ tổ" nhân loại.

Một tôn giáo gần gũi xem như "anh em" của Kitô là Islam – xem ý niệm "tội tổ tông" và "chuộc tội tổ tông bằng chết trên thập giá" – chỉ là sự sáng tạo của Paul – một người trước kia theo đạo Do Thái, nay muốn lập đạo mới – mà thôi

Trong Islam – không có "tội tổ tông" (original sin), con người sinh ra lương thiện (nhân chi sơ tính bổn thiện – như Mạnh tử) – sau đó có tội hay không tuỳ mỗi người có làm theo ý Allah hay không. Chúng ta thấy có tiến bộ về tư tưởng và tôn trọng con người ở những điểm này.

Phải chăng vì thế nên tuy cả hai đều mạnh mẽ truyền đạo sang Á châu – rất sớm – nhưng Islam phát triển rất mạnh – từ Ấn (Pakistan) lên các xứ Trung Á, xuống Mã lai, Nam Dương và cả trung Việt Nam (dân tộc Chăm)

Trong khi ấy, đạo Kitô chỉ thành công ở Philippines – sau 400 năm nô lệ Spain và 100 năm nô lệ Mỹ, và vẫn chỉ là thành công một nửa, chưa trọn, vì phần phía nam Mindanao vẫn đang sôi sục là địa hạt của Islam. (CTND)

[49] Xem Joseph M. Colleran’s Introduction to Anselm, Why God Became Man and The Virgin Conception and Original Sin, dịch, giói thiệu và chú thích do Joseph M. Colleran (Albany, NY: Magi Books, 1969) pp. 44-45.

[50] Xem The Case Against Christianity, Appendix 2.

[51] Ở đây, tôi mang ơn với Ted Drange’s Nonbelief and Evil, (Amherst, NY: Prometheus Books, 1998), pp. 80-82.

[52] Ps 86:5, 100:5, 103:8, 106:1, 136:2, 145:8-9; Joel 2:13; Mic 7:18; Jas 5:11

[53] De 7:2, 16, 20:16-17; Jos 6:21, 10:11, 19, 40, 11:6-20; Isa 6:19, 15:3; Na 1:2; Jer 13:14; Mt 8:12, 13:42, 50, 25:30, 41, 46; Mk 3:29; 2Th 1:8-9; Re 14:9-11, 21:8

[54] Ge 6:6; Ex 32:14; 1Sa 2:30-31, 15:11,35; 2Sa 24:16; 2Ki 20: 1-6; Ps 106:45; Jer 42:10; Am 7:3; Jon 3:10

[55] Nu 23:19; ISa 15:29, Eze 24:14; Mal 3:6; Jas 1:17

[56] Ge 11:7; Jg 9:23; 1Sa 16:14; La 3:38; 1Ki 22:22-23; Isa 45:7; Am 3:6; Jer18:11, 20:7; Eze 20:25; 2 Th 2:11

[57] De 32:4; Ps 25:8, 100:5, 145:9; ICo 14:33

[58] Ge 9:22-25; Ex 20:5, 34:7; Nu 14:18; De 5:9; 2Sa 12:14; Isa 14:21, 65:6-7

[59] De 24:16; 2Ch 25:4; Eze 18:20

[60] Propositional (factual knowledge), procedural, and knowledge by acquaintance: Ba loại hiểu biết con người:

- Propositional (factual knowledge): biết thật – biết về một điều là, đã, sẽ, thường nói ra câu, phát biểu thành một mệnh đề xác định. Td. Tôi biết "Tôi biết hồ Trúc Bạch nằm cạnh hồ Tây". "Tôi biết 2 + 2 = 4"

- Procedural knowledge: biết làm – đây là cái biết động, khác với cái biết tĩnh ở trên. Td : "Tôi biết bơi, nhưng Gót không biết bơi vì nếu như Ông là thật đi nữa, ông cũng không có chân tay mình mẩy" Đây là sự chứng minh của GS Martin trong bài.

- Knowledge by acquaintance: biết vì quen biết – có kinh nghiệm trực tiếp với đối tượng hay nguồn biết. Td. "Tôi biết xoài tượng ăn chua lắm" vì tôi đã có ăn vài lần.

[61] Để có liệt kê về hai loại kiến thức này – xem Israel Scheffler, Conditions of Knowledge, (Chicago: Scott, Foresman and Co. 1965)

[62] Xem D. W. Hamlyn, The Theory of Knowledge, (Garden City, N. Y.: Doubleday, 1970), pp. 104-106.

[63] Luận chứng này đã khai triển trong Michael Martin, “A Disproof of the God of the Common Man,” Question, 1974, 115-124; Michael Martin, A Disproof of God’s Existence, Darshana International, 1970.

[64] Phi thời gian, cái biết nằm ngoài thời gian, lúc nào cũng biết, không trước hay sau. (CTND)

[65] Cf. David Blumenfeld, “On the Compossibility of the Divine Attributes,” Philosophical Studies, 34, 1978, pp. 91-103.

[66] Xem tóm tắt – gọn và đẹp – của chính tác giả – chứng minh Gót không thực vì mâu thuẫn giữa hai thuộc tính toàn năng và toàn trí này: A Disproof of God’s Existence (1970)

Chứng Minh

Tiền đề(1): Nếu Gót hiện hữu, Gót đã không có các xúc cảm của thèm muốn và ghen tị.

Tiền đề(2): Nếu Gót hiện hữu, Gót hiện hữu như một nhân vật có hiểu biết, ở mức ít nhất cũng biết tất cả những gì mọi người trần biết được.

Tiền đề(3): Nếu Gót hiện hữu như một nhân vật có hiểu biết, ở mức ít nhất cũng biết tất cả những gì mọi người trần biết được. Gót biết thèm muốn và ghen tị.

Tiền đề(4): Nếu Gót biết thèm muốn và ghen tị, Gót đã có các xúc cảm của thèm muốn và ghen tị.

(5) Gót hiện hữu .: Theo giả định.

(6) .: Gót đã có đã không có các xúc cảm thèm muốn và ghen tị. Từ (1) – (5).

(7) Gót KHÔNG hiện hữu. Do (5) & (6)


Q. E. D.

(quod erat demonstrandum – như thế đã chứng minh)

(CTND)

[67] Tôi có thể đã xem xét nhiều khía cạnh khác của đạo Kitô vốn chúng có những nội dung phi lý. Có lẽ đại biểu dễ chọn nhất sẽ là sự bất nhất chỉ nhìn qua cũng thấy trong khái niệm Chúa ba ngôi (Trinity), vốn là trung điểm trọng tâm giảng dạy của đạo Kitô. Thêm nữa, một ứng viên dễ dàng chấp nhận khác nữa, là sự phi lý trong sự quan trọng hoá lòng tôn sùng God trong đạo Kitô. Xem “God and Moral Autonomy” by James Rachels.

[68] Tôi đã nợ nhiều Jeff Lowder và ba độc giả ẩn danh cho những nhận xét hữu ích khi đọc bản nháp của văn bản này. Tôi cũng mang nợ Jeff Lowder đã đọc bản thảo sau cùng, và cho các nhận xét chi tiết.

Phụ Lục:

Đây là các lý thuyết thần học giải thích ý nghĩa sự cứu chuộc (tôi tóm tắt theo Michael Martin, The Case Against Christianity, Philadelphia, PA: Temple University Press, 1991, pp. 252-263.) Appendix 2.

1. Thuyết "Nộp chuộc" (The Ransom Theory): Đây là thuyết phổ thông nhất, thịnh hành trong thời kỳ nghìn năm đầu của đạo Kitô. Theo thuyết này, loài người bị quỉ ám, nên Gót phải đem con mình nộp chuộc, để quỉ buông thả con người. Tuy thế, quỉ dữ đã bị Gót lừa, con Gót lại về Thiên đường với Gót (Jesus phục sinh, thăng thiên), quỉ dữ không giữ nổi!

Hình ảnh Gót – trao đổi với, và lừa quỉ – như nội dung này của Origen, không đẹp, nên sau đó, Augustin chữa đi, chẳng có chuyện Gót lừa quỉ, chẳng qua quyền danh của Gót lớn quá, nên Quỉ phải buông bỏ đứa con hy sinh.

Sửa chữa hay không, vẫn lủng củng và thô sơ, và câu hỏi căn bản vẫn còn đó: Tại sao lại phải và chỉ tin vào Jesus mới được cứu chuộc?

2. Thuyết Hài Lòng (The Satisfaction Theory): Đã có trước đó, nhưng đến thế kỷ XI, Anselm phát triển thêm cho thành rắc rối. Trong bài, Martin đã phân tích các tính chất phi lý của nó.

Ông đưa thêm thí dụ đơn giản: X làm trái ý (gì đó với) Y, đáng phạt $1000, nhưng X không có đủ, chỉ có $100, nay có Z tình nguyện trả thế, trọn số $1000.

Nên cuối cùng Y có được bồi thường $1000, danh dự thỏa mãn; do Z vô can vô tội, nhưng tình nguyện trả, X (tuy có lỗi) không mất đồng nào. Từ nay về sau, tất cả mọi X cứ tin vào Z và câu chuyện này là tốt đẹp, được tha lỗi.,,,Ngoài các khái niệm không tưởng, bênh hoạn về tội, về chuộc, về danh dự, tự ái của Gót. Tất cả hoàn toàn phi ý.

3. Thuyết Chấp Nhận (The Acceptance Theoory): Thuyết trên (2), đến thế kỷ XIII, Duns Scotus đưa thêm dạng mới: Trong khi Anselm nhấn manh Jesus xuống thế và chịu chết để cứu rỗi con người, Scotus thêm, Gót chấp nhận và hài lòng với sự hy sinh này là tuỳ tiện, nên Jesus xuống trần, tội lỗi con người hay cả cái chết của Jesus cũng không phải là cần thiết, Gót chẳng cần những thứ đó, để trả lời những ai cứ hỏi tại sao – Tất cả hoàn toàn là ý Gót, Ông định thế, chấp nhận thế – tại sao? Anselm trả lời – Không tại sao cả, Gót có tự do tuyệt đối, nghĩa là Ông toàn quyền tuỳ tiện.

Tránh được khó khăn của (2) nhưng còn câu hỏi – Tại sao Gót lại chọn (dù cho Gót có quyền tuỳ tiện) cách này mà không cách khác? Thí dụ – Gót có thể sai các "thiên thần" xuống trần cứu con người – hay có thế chọn một người khác, không phải là Jesus, không ở thời điểm ấy, không ở đất ấy,.. Tại sao không?

4. Thuyết Hình Sự (The Penal Theory): Các nhà thần học Tin lành như Luther và Calvin nhấn mạnh vào ý niệm con người tội lỗi, và do đấy phải bị trừng phạt, và người đóng vai chịu tội thay là Jesus. Phải tin vào Jesus mới được cứu chuộc. Tại sao? – Vì đây là quà của Gót qua Chúa thánh linh. Giải thích niềm tin là quà! Thế nên cứ nhận chớ hỏi tại sao!

Thuyết này tương tự nên có cùng các phi lý tìm thấy như thuyết Hài Lòng.

5. Thuyết Cai quản (the Government Theory) thường cho là từ Hugo Grotius (1583-1645) – Gót có thế quyền, có trách nhiệm duy trì công lý trên trần gian. Thế nên, Jesus chết để cho con người biết Gót ghét tội lỗi, nhưng rồi Jesus sống lại để cho họ thấy lòng tha thứ của Gót.

Nhiều phi lí, hiển nhiên là nếu Gót toàn năng, toàn trí sao phải lập những chyện lòng vòng, lẩn quẩn như vậy.

6. Thuyết Đạo Đức (the Moral theory) Peter Abelard, thế kỷ XII, khai triển – theo vị này thập giá là hình ảnh của tình thương yêu Gót muốn khắc vào tâm khảm loài người. Thế nhưng yêu thương là phải được giải phóng khỏi tội lỗi và hòa giải với Gót. Jesus là sứ mạng được thực hiện đó.

Đến thế kỷ XVI, Faustus Socinus, cho vai trò của Jesus là tiên tri, Ông dạy con người lời hứa của Gót và lấy mình làm gương cho nhân loại. Cái chết của Ông làm trọn vẹn hình ảnh gương mẫu này, nếu ông không chết, không sao làm lòng người động tâm cho được.

Câu hỏi – không có cách nào khác ngoài cách "chết người" để dạy nhân loại sao? Một đời toàn hảo về đạo đức phải kết bằng cái chết giả? …vv.

7. Thuyết Christus Chiến thắng (the Christus Victor Theory) – thuyết này mới nhất, Gustaf Aulen trình bày – nhằm cứu chữa và đem lại ý nghĩa mới cho thuyết Nộp chuộc kể trên. Xuống thế, chết, phục sinh là chiến thắng bi thảm của Christ. Qua đó, chính là chiến thắng của Gót, giải phóng con người khỏi chết, tội lỗi, và quỉ dữ, và tự hòa giải với chính Gót.

Cứ cho là đúng đi – không có cách nào khác – ngoài cách để con mình phái xuống trần, chết thảm? và – tại sao phải tin mới được cứu?

8. Thuyết Huyền Bí (the Mystics theory): Thuyết này trở lại với Paul, một trong những vị học trò đầu tiên của Jesus – "Tôi đã lên thập giá với Christ, tôi không sống nữa, nhưng Christ sống trong tôi". Sau đó Aquinas phát triển thuyết này – vẫn dùng trong nhà thờ.

Dĩ nhiên khi khoác áo thần bí – là hoàn toàn dựa trên niềm tin, loại trừ lý trí, lý luận. Vẫn có những câu hỏi – thí dụ – có thể là một với Christ được không? – Nếu là một, có cảm nhận sự bất công của Gót, khi Gót bắt Jesus chết – và như Ông tuyệt vọng than trên đồi Golgotha lúc hấp hối – Cha bỏ con sao? Tại sao? (My God, my God, why have you forsaken me?) – hay không?

Về phương diện lý luận, theo tôi, các lý thuyết trên, vắn tắt phê bình trong dăm ba dòng, hay tràng giang đại hải dăm ba tủ sách, Không thể thoát được khuyết điểm có trong bản chất vì sự giải thích là:

1. Đến sau câu chuyện đã kể và

2. Nội dung câu chuyện phải được bảo toàn (cứu chuộc, phục sinh, ..) – không thay đổi.

3. Người giải thích là tín đồ – đã tin trước, nay giải thích một sự đã rồi là lòng tin của chính mình.

4. Thế nên, dù câu chuyện có phi lí, lủng củng đến đâu (1) các tác giả không có tự do (2), và không có khách quan (3) – nên không bao giờ đi đến một giải thích nào có giá trị về :

- nội dung: vì hai trói buộc trên trong tiền đề (1) và (2) và

- lý luận: vì quan điểm và phương pháp chủ quan (3)

Theo tôi, đây là chỗ người Việt, gọi nôm na là "cãi chầy cãi cối". Nếu bạn bỏ một điều gì vào cối, rồi dùng chày để giã, tôi luyện, dù "cứng chắc", "khéo léo", lâu dài đến đâu cũng chỉ thành từ méo đến tròn, và nhất định sẽ không thể nào vuông vắn cho được. Vì trong tự bản chất, phương pháp chày cối đã không chỉ giới hạn, mà loại trừ các thể dạng gãy gọn, minh bạch của khối vuông. (CTND)

           Thursday, December 3, 2009

Sự Hy sinh Lý trí

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhkkzLf8clqWHvIUDhSz5UzR3grzgcfDuJOjsg3pg81x3zJVx4rSHIrgJ0qcMYiFykzFe1Re7DVnl9rGXANapH8wWRZGopAxav9gVnsQmGiTtqjeHi_PNs_xdejwNQ0hMIy8Id0jYhs-mCW/s200/kito-phily-03.jpg

Sự Hy sinh Lý trí

The Sacrifice of Reason

Sam Harris

Lời Người dịch

Trong bài viết Có phải đạo Kitô phi lý không? – M. Martin chỉ ra sự phi lý trong lý thuyết về Sự Chuộc tội của đạo Ki tô – câu hỏi tại sao – giả định –Jesus lại hiện thân xuống trần, hy sinh trên thập giá để rồi phục sinh.

Một trong các câu trả lời có thể tìm được trong lịch sử về tục lệ giết vật tế thần – của nhân loại ở cổ thời. Bài viết này của Harris khai triển nội dung đó.

Ông cũng đưa ra nhận xét về trường hợp bà nữ tu Catô nổi tiếng Teresa, theo ông, nhật ký của bà thực sự cho thấy một con bệnh của khủng hoảng tâm thần, bệnh thông thường nên bà đã có thể giãi bày với chính mình và các đồng nghiệp – cho biết đã mất lòng tin từ lâu, không còn tìm được tin tưởng nào vào Gót, vào tình yêu của Gót, vào Thiên đường. Bà thú nhận, tìm chúng nhưng chỉ thấy hư không, tối đen và giá lạnh.

Những giòng nhật ký tâm linh đầy xúc động, những thống khổ, đau đớn tín ngưỡng chân thực đáng kính trọng, nhưng người ta vẫn tìm cách giải thích khác đi – nên Harris phải kết luận thật mỉa mai: "hoài nghi của kẻ chuyên nghiệp, vẫn đã được nghĩ là xác định cho một chủ thuyết, vậy cái gì nữa mà lại có thể phủ định được nó đây?"

Kết luận này gợi lại một câu hỏi Antony Flew , từ 1950, đã đặt ra với các nhà thần học Kitô "Cái gì phải nên xảy ra, hoặc phải xảy ra đề tạo thành cho quí vị một phản chứng về tình yêu của, hoặc sự hiện hữu của God?" – trong một luận văn nổi tiếng Thần học và Phản chứng.

Christ trên thập giá – chính là sự lập lại cho đến nay – một tục lệ dã man cổ thời – giết vật hy sinh – và ăn thịt đồng loại. Những ai bào chữa đây chỉ có ý nghĩa tượng trưng, hãy đọc định tín của hội đồng Trent – khi một tín đồ nhận bánh và rượu thánh trong lễ bí tích thánh thể (Eucharist) – họ thực sự ăn thịt và uống máu – chiên con của Ðức chúa Trời – là chính vị giáo chủ của họ.

Họ lấy chính lý trí của mình, giết đi và dâng làm hiến vật.

Theo tôi, đó là nội dung tác giả muốn cảnh cáo những ai còn mê muội, hàng năm vẫn tưng bừng kỷ niệm một vụ tự sát nổi tiếng nhất trong lịch sử nhân loại.

Người dịch

Lê Dọn Bàn

(Mùa Noel – Dec/2009)

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEjE9yl8lbpFVDFd2y3x9rJB8oP95q_V6Qi5VNpicMQGqr6oMSM7bRCr-Bth-JVGapPgy898p10cSmCpUZ7toCQ94FYhmUw8jWg-KdrIdRZZpIwHRgkPR3dw9LCJA-nNPsvkUX9BPJDasHHE/s200/kito-hily-05.jpg

Sự Hy sinh Lý trí  - Dẩn Nhập

Nhân loại vẫn đã có một sự mê hoặc lâu dài với dâng tế vật hy sinh đẫm máu [1]. Sự thật, không phải là họa hiếm, một đứa trẻ chào đời trong thế giới này, chỉ để được nuôi dưỡng thật nhẫn nại, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa, trong tay những kẻ cuồng tín tôn giáo, họ tin rằng cách hay nhất để ngày ngày, mặt trời nay lặn rồi mai lại mọc, hay để đảm bảo mùa màng thu hoạch tốt đẹp, là dịu dàng đưa tay dắt đứa bé, ra giữa một cánh đồng, hay lên một đỉnh núi, rồi chôn, hoặc chém, hoặc thiêu sống đứa trẻ, làm hiến vật dâng cúng một Gót vô hình (và hầu như chắc chắn giả tưởng).

Trong nhiều nền văn hóa cổ đại, khi một người quí tộc chết, những người nam và nữ khác được phép chôn sống theo chủ, để tiếp tục đóng vai hầu cận và tuỳ tùng, trong thế giới sắp đến. Trong cổ thời La mã, đôi khi trẻ con bị đem giết, mổ bụng xem ruột, đoán tương lai. Phụ nữ Dyak ở Bornéo sẽ không thèm nhìn đến người đàn ông cầu hôn, nếu anh ta không đến, mang một lưới đầy sọ người như dâng tỏ tình yêu. Dăm ba người tài ba xứ Fiji nghĩ ra một "tế vật" thật "thiêng" gọi là "Vakatoga", nó đòi hỏi chặt chân tay, rồi ăn sống ngay dưới mắt nhìn của nạn nhân đang hấp hối. Trong sắc dân Iroquois, tù nhân bắt được từ các bộ lạc khác thường được để cho sống trong nhiều năm, và có khi còn cho lập gia đình, trong khí đó, số phận chờ sẵn là tất cả sẽ bị lột da sống như lễ vật dâng lên thần Chiến Tranh; con cái họ, nếu có đứa nào, cũng sẽ chung số phận. Các bộ lạc châu Phi, quá nhiều không kể tên hết, có một lịch sử lâu dài giết người gửi đi làm sứ giả một chiều với tổ tiên đã chết của họ, hay lấy các phần xác người làm các bùa phép yêu ma. Lễ nghi giết người như loại này còn tồn tại đến ngày nay trong nhiều xã hội châu Phi.

Thiết yếu để nhận thức ở đây rằng, mạng người đã đem ra dùng một cách ngu xuẩn không thể tưởng được như thế, luôn luôn dứt khoát có tính cách tôn giáo. Chúng là sản phẩm của một số người nào đó nghĩ rằng họ biết về những thần linh vô hình nam hoặc nữ, và về những gì thần linh biểu hiện, nhưng không biết về sinh học, khí tượng học, y học, vật lý học,, và hàng tá những khoa học chuyên môn mà chúng có hơn là dăm điều để nói về những biến cố trong thế giới vốn chúng quan tâm.

Với một chân trên lịch sử thảm sát tôn giáo đáng kinh tởm này, và một chân kia trên sự ngu muội khoa học, mà đạo Kitô giờ đây dương cao như một thánh hoá thản nhiên phi lý. Như vẫn truyền tụng John the Baptist đã nói lần đầu tiên trông thấy Jesus "Kìa, chiên con của đức Chúa Trời, là đấng cất tội lỗi thế gian đi."[2] Với phần lớn tín đồ đạo Kitô, cái tin tưởng quái đản này vẫn tồn tại, và vẫn giữ làm cốt lõi niềm tin của họ. Đạo Ki tô gói ghém trong xác quyết là chúng ta phải yêu Gót và được Gót yêu, một Gót đã chấp nhận một vật tế thần chịu hành tội, tra khảo, và giết chết oan nghiệt – (vật tế thần đó là) một người – là con trai của Ông, như đền bù cho những sai trái và tội lỗi của tất cả những kẻ khác.

Hãy để "tin lành" truyền đi khắp cõi: chúng ta sống trong một vũ trụ, bao la đến nỗi chúng ta dẫu trong tư tưởng chỉ có thể mới chớm mường tượng ra, trên một hành tinh đầy sinh vật mà chúng ta mới bắt đầu tìm hiểu, nhưng toàn thể công trình đã thực đi đến viên mãn tuyệt vời hơn hai mươi thế kỷ về trước, sau khi một loài trong giống linh trưởng (của chúng ta) đã trèo từ cây xuống, phát minh ra canh nông và dụng cụ đồ sắt, đã phóng mắt nhìn (như qua một cái ly [3] , xẫm tối) đang kiếm xem có cách nào có thể được để giữ phân của nó khỏi lẫn với thức ăn [4], và rồi (ấy thế mà) lôi ra chỉ một người trong bọn, để đánh đập tàn nhẫn và đóng đinh treo lên một giá gỗ chữ thập.

Khái niệm Jesus Christ chết cho tội lỗi chúng ta và cái chết của Ông đã tạo nên sự hòa giải thành công với một Gót "nhân ái" – là hình thức trực tiếp và trá hình rơi rớt xót lại từ tục man rợ giết vật tế thần, vốn đã hoành hành ở những giống dân mông muội trong lịch sử. Nhìn trong một nội dung hiện đại, đây là một ý niệm vừa phi nhân vừa cuồng tín, phê phán nó, thật khó, không biết phải bắt đầu từ đâu. Thêm vào huyền thoại đê tiện xoay quanh một người chết vì cực hình – Những khổ hình của Christ – sự tượng trưng tục ăn thịt người [5] của lễ Bí tích Thánh thể (Eucharist) Tôi đã nói "tượng trưng?" Xin lỗi, theo như Vatican, nó đã đảm bảo là không hề tượng trưng chút nào. Thực sự, quan điểm của hội đồng Trent [6] vẫn còn hiệu lực:

Tôi cũng còn xưng nhận rằng trong lễ Mass, một tế vật là thực, là đúng và là nguôi lành đã dâng tế lên Gót, đại diện cho người sống và kẻ chết, và xác và máu đã cùng trộn với linh hồn và thánh linh của chúa Jesus Christ là chân, là thật và hiện diện bản chất trong lễ phước linh thiêng nhất của phép bí tích thánh thể, và có một thay đổi toàn bộ bản chất của bánh thành xác, và toàn bộ bản chất rượu thành máu; và sự thay đổi này giáo hội Ca tô gọi là sự hóa thể. Tôi cũng xưng nhận rằng trọn vẹn và toàn thể Christ và một lễ phước thực đã được nhận dưới mỗi loài riêng biệt.

Dĩ nhiên, đạo Catô đã tạo nhiều lý thuyết thần học vặn gãy lưng nhưng không công hiệu trong lĩnh vực này, trong một cố gắng tạo ý nghĩa cho làm sao họ có thể thực sự ăn thân mình Jesus, không phải chỉ là những miếng bánh qui dòn quấn bọc áo ẩn dụ, và thực sự uống máu Ông mà lại không, trong thực sự, là một sùng bái quái đản sự ăn thịt người đồng loại. Nói vừa đủ, dù sao, một thế giới quan trong đó nổi bật khuôn mặt "hy sinh dâng tế nguôi lành đại diện cho người sống và kẻ chết" khó mà chống đỡ trong năm 2007. Nhưng điều này đã không làm những người đầy thiện ý và thông minh ngừng lại sự chống đỡ nó.

Và bây giờ chúng ta được biết đến ngay cả bà Teresa [7], vị biểu hiện trứ danh nhất của chủ nghĩa giáo điều (Kitô) trong cả một thế kỷ, đã có những hoài nghi của bà về toàn thể câu chuyện – sự hiện diện của Christ trong lễ Bí tích Thánh thể, sự hiện hữu của Thiên đường, và đến ngay cả sự hiện hữu của Gót.

Ngài ơi, Chúa tôi ơi, tôi là ai đây mà ngài đã nỡ bỏ rơi tôi? Đứa con của lòng ngài yêu thương! – và bây giờ như thành kẻ bị ghét bỏ nhất – kẻ mà – ngài vứt đi xa như không muốn – không yêu. Tôi kêu, tôi bám, tôi muốn – và chẳng Ai để trả lời – chẳng Ai để tôi có thể bám vào, không, Không Ai – Một mình… Đức tin của tôi đâu – ngay dẫu sâu thẳm chính nơi đây – không có gì ngoài rỗng không & đen tối – Gót của tôi ơi – đau đớn biết chừng nào là nỗi đau chưa từng biết này – Tôi không có đức Tin – tôi không dám thốt những lời & những ý nghĩ mà chúng đầy trong tâm khảm tôi & và làm tôi thống khổ vô vàn hấp hối.

Quá nhiều những câu hỏi không thể đáp, sống trong tôi, sợ không dám mở chúng ra – vì sự báng bổ (blasphemy) – Nếu có Gót đó – xin tha thứ cho tôi – Khi tôi cố nâng ý nghĩ của tôi về thiên đường – có một thứ trống không chắc chắn đến nỗi những ý tưởng của chính tôi lại quay ngược trở lại như những dao nhọn & làm đau tận linh hồn tôi – Tôi được bảo Gót yêu tôi – và thế nhưng thực tại của những tối đen & lạnh giá & hư không quá lớn lao khiến không một gì có chạm hồn tôi. Có phải tôi đã phạm nhầm lẫn khi nhắm mắt tuân phục theo tiếng Gọi của Thánh Tâm (Chúa Giêsu)?

(gửi Jesus, theo lời đề nghị của một giáo sĩ nghe xưng tội, không đề ngày.)

Những thư mới xuất bản của Teresa để lộ ra một tâm trí bị xé nát bởi hoài nghi (đúng như nó phải nên như thế). Chúng cũng phơi bày một người đàn bà chắc chắn đã quằn quại vì căn bệnh thông thường suy nhược thần kinh, mặc dù ngay cả các người bình luận thế tục đã bắt đầu lịch sự khoác áo cho sự kiện này những màu sắc của thánh linh và thánh tuẫn đạo.

Hãy tự hỏi, ngay cả khi những hoài nghi của kẻ chuyên nghiệp vẫn đã được nghĩ là xác định cho một chủ thuyết, vậy cái gì nữa mà lại có thể phủ định được nó đây?

Sam Harris

Lê Dọn Bàn tạm dịch- bản nháp thứ nhất

(Dec/2009)

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

Nguyên Văn: trên Washington Post, Aug/2007 – Sam Harris – The Sacrifice of Reason

Sam Harris (1967 – ) tác giả người Mỹ thời danh, tác giả hai quyển sách đã tạo dư luận rộng rãi và thuộc loại bán chạy vào bậc nhất nước Mỹ các năm qua: The End of Faith (2004), Letter to a Christian Nation (2006).

Cùng với các tên tuổi như Richard Dawkins, Daniel Dennett, và Christopher Hitchens, ông được xem như một trong những người đại diện nổi bật nhất của phong trào Tân Vô Thần hiện nay.

Chú thích

Các chú thích trong bài, và các sai lầm nếu có, là của người dịch.

[1] Nguyên văn blood sacrifice

[2] John 1:29 – Qua ngày sau, Giăng thấy Ðức Chúa Jêsus đến cùng mình, thì nói rằng: "Kìa, Chiên con của Ðức Chúa Trời, là Ðấng cất tội lỗi thế gian đi."

(The next day John seeth Jesus coming unto him, and saith, Behold the Lamb of God, which taketh away the sin of the world.)

[3] Nguyên văn – a glass – tác giả muốn mỉa mai, nhắc ly đựng rượu (chalice) các tu sĩ Ki tô vẫn giơ cao trong lễ bí tích thánh thể.

[4] Đọc đến đoạn này, tôi sợ in lầm, hay tác giả viết vội, nhất thời, trên một bài báo mà thôi, nhưng không – ông giữ nguyên đoạn này – cho in trong tác phẩm nổi tiếng của ông:

Letter to a Christian Nation.

Tìm đọc và khá dễ dàng, sẽ tìm thấy thí dụ, dẫn một thôi – đoạn sau đây trong kinh Thánh nói về "phân người" – Deut. 23:12-14 – Quả là Gót (thực ra con người thời đó, ít nhất- và hiển nhiên, trong các bộ lạc vùng Trung Đông) trong kinh Thánh, dạy kỹ lưỡng vệ sinh về phân người cho quân sĩ nơi đồn trại Do thái, như sau:

"Chọn riêng ra một chỗ bên ngoài doanh trại làm chỗ nhà ngươi có thể "đi làm nhẹ gánh". Trang bị nên có dụng cụ nào đó để đào, và khi "nhẹ gánh xong", đào lỗ mà chôn phân của nhà ngươi. Vì Chúa – Gót của các ngươi đi quanh trong trại để bảo hộ cho ngươi và đem kẻ địch về cho ngươi. Trại quân của các ngươi phải thiêng liêng, làm sao để Ông ta không thấy trong đám các ngươi bất cứ cái gì dơ dáy và bỏ các các ngươi mà đi"

Lý do không chỉ thuần là vệ sinh, nhưng còn có dụng ý khác nữa và mới là chính, giải thích trong Verse 14. như sau: “Như thế là lý do thực của luật này, Nếu Yahweh có đạp lên cái gì (phân người) trong khi ông ta đi giữa trại quân Do thái, nó có thể làm kinh tởm ông ta quá đỗi, đến nỗi Ông ta sẽ bỏ mà đi khỏi những người ông đã chọn (làm dân ông)"

Các nhà khoa học có thể xem như đây là bằng chứng tiến bộ về – chẳng hạn – phòng ngừa dịch tễ – nhiều vi trùng lan truyền qua phân người – như cholera và dysentery. Thế nhưng, hầu hết các học giả xem đây đơn giản chỉ là hậu quả từ sự kinh tởm mạnh mẽ về phân của con người. Kinh tởm này gần như phổ quát khắp các giống dân.

Vậy nên Sam Harris mỉa mai như trên – lúc trình độ "văn minh" của con người còn bán khai như thế, vẫn còn suy nghĩ về chuyện "phân người" như thế, trí tuệ con người ở thời ấy, sắc dân ấy, lại đưa ra chuyện "hy sinh, cứu thế", chẳng qua – nếu có – thực chất chỉ là chuyện giết vật hy sinh cúng thần, man rợ. Cái lo lắng về "phân người" sao cho đừng lẫn lộn với thứ ăn – và lo lắng "sao cho đẹp lòng Gót" để mùa màng tốt đẹp, đánh thắng quân thù, lo lắng "dâng vật tế thần" sao cho đẹp lòng Gót,.. – chúng xảy ra cùng thời điểm trong lịch sử, ở cùng trình độ trí thức. Thời điểm là bán khai, trình độ là mông muội. Ông vẫn có giọng mỉa mai như thế – thí dụ:

"Bất chấp cả một thế kỷ phát kiến khoa học chứng thực cho tình trạng cổ xưa của quả đất, hơn quá nửa láng giềng chúng ta (theo Kitô ) tin rằng toàn thể vũ trụ được tạo lập sáu nghìn năm trước (theo kinh Thánh). Điều này, ngẫu nhiên, xảy ra vào khoảng một nghìn năm sau khi văn minh Sumerian phát minh ra keo dán!"

Dơ bẩn thải ra từ con người có nhiều ý nghĩa – về hiện thực, lẫn tượng trưng. Đặc biệt trong tôn giáo phương Tây, đã có nhiều tài liệu nghiên cứu, thí dụ – về phân, máu ,.. và ý nghĩa cùng tác động của nó trong sinh hoạt tín ngưỡng, truyền thống. Chúng tạo nên những cấm kỵ (taboo) từ đây lan ra xã hội.

Có một lịch sử – ít nhất là về văn hóa – lý thú nếu chúng ta theo dõi cách thức con người giữ vệ sinh, liên quan đến những đào thải , thí dụ, từ bộ máy tiêu hóa của chính mình. Tiến bộ của nó, cũng là tiến bộ của con người. Sắc thái của nó, qua từng văn hóa, giống dân, cũng là sắc thái của văn hóa, giống dân đó.

[5] Nguyên văn cannibalism

[6] Công đồng Trent (11/Oct/1551) định tín như sau:

"Ai chối rằng bí tích Thánh Thể cực thánh không đích xác, thực sự và chắc chắn (vere, realiter et substantialiter) chứa đựng mình, máu cùng với linh hồn và thiên tính của Chúa Giêsu Kitô tức là toàn vẹn Chúa Kitô, mà cho rằng chúng (bánh và rượu) chỉ như dấu hiệu (sign) hoặc biểu tượng (figure), hoặc do hữu hiệu, thì kẻ đó sẽ bị vạ tuyệt thông."

“Thánh Thể là "Mầu Nhiệm Đức Tin," mầu nhiệm này lật nhào mọi lý giải của con người. Bánh và rượu sau khi được truyền phép đã là Mình và Máu Chúa Kitô.” (Thánh thể và sự hiện diện thực của chúa Kitô)

(http://vietcatholic.net/News/Clients/ReadArticle.aspx?Id=55675)

[7] Teresa hay Mẹ bề trên Teresa (1910–97):

Nữ tu Catô, tên tôn xưng trong đạo Ki tô: Blessed Mother Teresa of Calcutta.

Sinh trưởng tại Macedonia, nhũ danh Agnes Goxha Bojaxhiu. Cha mẹ người Albania. Nhà truyền giáo Catô tại Ấn độ, khởi đầu dạy học ở Calcutta. Năm 1948, rời chủng viện, sáng lập Missionaries of Charity, quyên tiền từ nhiều nguồn rộng rãi, mở trường, nhà thương, nhà mồ côi và trung tâm phát chuẩn cho người bất hạnh, nghèo, ở nhiều quốc gia. Bà được ca ngợi nhiều về những công trình phước thiện này. Giải Nobel về Hòa Bình 1979. Năm 2003, John Paul II phong á thánh (đạo Kitô) cho bà.

Tuy vậy, có nhiều dư luận mạnh mẽ và rộng rãi từ cá nhân và tổ chức, đã chỉ trích các hoạt động của bà về nhiều mặt. Có thể kể: Christopher Hitchens, Michael Parenti, Aroup Chatterjee, và Vishva Hindu Parishad.

Mục đích của bà là truyền đạo, chứ không phải làm xã hội, hay từ thiện. Và bà tuân theo giáo điều Catô một chiều – thí dụ – chống phá thai, chống ly dị, chống ngừa thai, tin vào sự nghèo khó mở cửa tâm linh con người (nên nuôi dưỡng sự nghèo khó), tin sự đau khổ làm người ta đến với Chúa, nên không thực chữa bệnh, rửa tội, nhập đạo những người hấp hối,.. Các tạp chí chuyên y khoa cũng phê bình những tiêu chuẩn y tế trong các cơ sở của bà.

Phê phán và phản đối mạnh mẽ và khách quan nhất là về nguồn gốc bất chính và sự chi dùng các nguồn tặng phẩm tài chính dồi dào đã thu thập được.

Christopher Hitchens đặc biệt dành ra một tác phẩm viết về bà Teresa The Missionary Position: Mother Teresa in Theory and Practice.

Theo Hitchens dẫn kể – Teresa hoạt động đơn giản là một nhà truyền giáo đúng hiệu – để làm tăng tín đồ Catô. Chính bà nói" Tôi không phải là một cán bộ xã hội, tôi không làm xã hội vì lý tưởng xã hội, tôi làm vì phụng sự giáo hội, tôi làm vì chúa Christ ('I’m not a social worker. I don’t do it for this reason. I do it for Christ. I do it for the church.') Cũng theo phê bình của Hitchens, bà dùng tiền để mở nữ tu viện chứ không phải cơ sở giáo dục y tế.

Trong bài này – Sam Harris – dựa trên nhật ký của bà – để cho thấy cuối cùng bà đã tìm ra chân lý – mất lòng tin vào Gót, Thiên Đường, …

Mười năm sau khi bà qua đời – Thư tín cá nhân trong thời gian 66 năm của bà với các bề trên và một số người khác đã được phổ biến, xuất bản thành sách Mother Teresa: Come Be My Light (Doubleday), 2007. Những lá thư bí mật cho thấy bà Teresa đã không cảm thấy có sự hiện hữu của Gót trong đời bà trong xuốt gần 50 năm trời.

Ở các trang mở đầu, Come Be My Light – The Private Writings of the Saint of Calcutta, Những giòng sau đây "If I ever become a Saint—I will surely be one of "darkness." I will continually be absent from Heaven—to lit the light of those in darkness on earth ." Chân thực, nhưng cũng có nghĩa bà không dấu mục đích thành thánh của mình, và có lẽ còn tiên đoán được .

Phần bà – đã đi đến tin tưởng mình có cùng một "khổ hình của chúa Jesus", chỉ trạng thái tâm thần đặc biệt của Jesus, lúc hấp hối, đã than "Gót ơi, Gót của tôi ơi, sao người bỏ rơi tôi?".

Sep/1979 – chỉ ba tháng trước ngày nhận giải Nobel – bà viết cho tu sĩ Michael Van Der Peet: "Jesus có một lòng yêu đặc biệt vói cha, Còn phần tôi, sự im lặng và trống không thật quá lớn lao đến nỗi tôi nhìn và không thấy gì và không nghe gì ".

Vẫn còn nhiều điều về bà đã vẫn còn giữ trong vòng bí mật, – thí dụ – tháng Sep/2001, nhân ngày kỷ niệm bốn năm ngày bà mất., giám mục Calcutta, Henry D’Souza, tiết lộ là chính ông đã thực hành một "lễ trục quỉ ám" (exorcism) cho bà Teresa với sự đồng ý của bà, khi bà nằm trong bệnh viện tại đây năm 1997.

Cũng nên nhắc lại, giáo hội Catô chỉ làm lễ này cho một ai tin là bị quỉ ám mà thôi. Dĩ nhiên chi tiết này cũng như nhật ký của bà – đã được tiếp nhận nhiều cách trái nghịch nhau.

Lúc còn sống, chính các hành động của bà đã cho thấy một kiên định nhằm tô vẽ và bảo vệ hình ảnh và tiếng tăm quốc tế của bà đã có được. Thí dụ, bà Teresa rất kín tiếng về thân thế và đặc biệt về thuở thơ ấu mồ côi của mình.

Lời phụ cuối của người dịch:

Hoạt động của bà Teresa có thể được nhìn và phê phán từ nhiều quan điểm khác nhau, trong và ngoài tôn giáo. Có vài câu hỏi triết lý đáng suy nghĩ về lĩnh vực xã hội, đạo đức, tôi nêu vội ra , nhân đây:

Những công trình xã hội (nhà mồ côi, viện phát chuẩn, nhà dưỡng lão) và giáo dục (trường dạy nghề, trường học) và y tế (phòng phát thuốc, bênh viện), dù có những thành công ngoài mặt nổi về xã hội, y tế, giáo dục, chúng có giá trị gì về đạọ đức? Nếu có – đến đâu? cho những ai? có những giới hạn nào? Nghĩa là chúng ta hãy xem mặt trái của tấm huân chương, dĩ nhiên huân chương nào chẳng có mặt trái, nhưng có những mặt trái cho thấy chúng gây tai hại sâu xa hơn những gì mặt phải đã xây dựng được.

Thí dụ về trường hợp bà Teresa, chống ngừa thai, phá thai trong một quốc gia bị nhân mãn nhất thế giới, chống ly dị trong một quốc gia phụ nữ vẫn chưa có được tự do hôn nhân và ngay cả tục tảo hôn còn thịnh hành, có ý nghĩa gì về đạo đức? về xã hội, con người (nhân phẩm hạnh phúc phụ nữ).

(Cuối thế kỷ XX, thừa hưởng kỹ thuật tuyên truyền chính trị của Nazism và Cộng sản, nên quảng cáo thương mại đã thành một nghệ thuật, và siêu nghệ thuật trong sự tạo dựng divas, idols, và – ở đây – thần tượng tôn giáo. Nhất cử nhất động, cái ăn cái nói, cái đi cái đứng, tất cả đều là kết quả của suy tính sâu sắc, đầy khôn ngoan toan tính, xếp đặt thiện nghệ, nhằm đến hiệu lực tối đa trong dư luận, quần chúng. Hoặc gây ảnh hưởng chính trị, bành trướng tôn giáo, cụ thể là thu tiền và tín đồ, trong các tổ chức truyền giáo hải ngoại.

Vì bà Teresa là thần tượng tôn giáo, một thứ diva, idol, icon có cả một guồng máy quốc tế đưa tay tạo dựng. Nên chúng ta có quyền hỏi: Bao nhiêu phần của Teresa là thật, ngay cả các trang nhật ký tôn giáo (trao đổi suốt 50 năm với nhiều người) bao nhiêu phần là kịch – lừa mình và lừa người? Bao nhiêu phần là của Vatican, một tổ chức, lúc ấy, đang muốn có một thần tượng khác, dịu dàng, nữ tính hơn, đã tìm thấy và đặt hy vọng vào người đàn bà nhỏ bé, có dáng khiêm tốn, vẻ đạo hạnh và tư cách bình dị đó?

Trong lịch sử trong lịch sử đạo Kitô, chưa có ai thành thánh gấp gáp nhanh chóng như bà Teresa. Phải chăng vì một thần tượng khác, tạo dở dang, không thành, không chịu nổi thử thách thực tế, đã mất màu, mỗi khi đến đám đông, phải dùng Popemobile, phải che mình sau kính chống đạn, dù đã có an ninh hộ vệ tiền hô hậu ủng, xem không khác mấy phương cách của các nhà độc tài chính trị trong lịch sử cận hiện đại ?)

Suy nghĩ về những câu hỏi đó – sẽ dẫn chúng ta đi đến câu hỏi thực tiễn: Các hoạt động y tế, giáo dục, và xã hội, có nên để cho các cơ quan tôn giáo – đặc biệt là các tổ chức truyền đạo quốc tế – thực hành không? ở Việt Nam?

Câu hỏi cuối là về tôn giáo – nhất là đạo Ki tô: Một tôn giáo đi nhặt nhạnh, gom góp những người bất hạnh về tinh thần lẫn vật chất, cho kẻ đói miếng ăn, cho kẻ không nhà chỗ ngủ, cho trẻ thơ mất cha, thiếu mẹ một bàn tay thương yêu, cho người đau thuốc uống, hay người già cô đơn niềm an ủi, … tất cả có thể là hậu quả của thiên tai, hoặc chiến tranh, hoặc xã hội còn bán khai, quốc gia còn chậm tiến. Và tất cả những cao đẹp thánh thiện vị tha đó trong thực chất là nhằm vào mục đích tối hậu – truyền đạo, kiếm thêm tín đồ – ngay cả khi trên giường hấp hối.

Những điều đó có ý nghĩa gì? Giá trị đạo đức chân thực ra sao? Giá trị tôn giáo ra sao?

Tôn giáo đó có giá trị gì, những niềm tin của tôn giáo đó đáng giá bao nhiêu? Khi phải rao bán, dụ dỗ, ép buộc và mua chuộc – dù bằng các hình thức vẫn được dễ dãi xem là "đẹp đẽ, cao thượng" đó ?

Có thực đẹp đẽ và cao thượng không?

Cứu rỗi rao bán, tôn giáo chiêu dụ – những phi lý , mâu thuẫn đó – làm giá trị chân thực tự tại của chúng không thể nào không bị ngờ vực, ngay cả với những người đã hy sinh lý trí như Sam Harris phê bình trên đây.

                                 

       Phần Phụ Lục :Sự chấm dứt của một Nước Mỹ Kitô Giáo

                                                                                         Jon Meacham

                                                    Lê Quốc Tuấn chuyển ngữ

ngày 21 tháng 1, 2010

http://sachhiem.net/SACHNGOAI/Hinhanh/PEOPLE/Jon_meacham.jpgSH giới thiệu: Jon Meacham là biên tập viên của tờ Newsweek. Ông đã đến với tạp chí này như là một nhà văn vào tháng 1 năm 1995, đã trở thành biên tập viên về các vấn đề quốc gia vào tháng Sáu năm đó. Ông phụ trách biên tập viên cho tạp chí trong tháng 10 năm 2006. Cuốn sách mới nhất của ông, Con Sư Tử Mỹ: Andrew Jackson tại Nhà Trắng (American Lion: Andrew Jackson in the White House) đã được Random House xuất bản ngày 11 tháng 11 năm 2008, đứng vị trí # 2 trên danh sách bán chạy nhất theo tờ The New York Times. Ngày 20 Tháng Tư năm 2009, quyển này được trao giải Pulitzer. (http://www.newsweek.com/id/192583)



 

Tỉ lệ bách phân của những người tự nhận mình là một Kitô hữu đã tụt 10 điểm trong hai thập kỷ vừa qua. Con số thống kê này cho thấy chúng ta là ai trong hiện tại và, với tính cách một quốc gia, chúng ta sẽ trở nên như thế nào trong tương lai.

 

Tác giả Jon Meacham | NEWSWEEK

Số ra ngày Apr 13, 2009

Lê Quốc Tuấn dịch Việt Ngữ

 

Đấy chỉ là một chi tiết nhỏ nhặt, một điểm so sánh vùi sâu nơi câu thứ năm trên trang thứ 17 trong bản tổng kết 24 trang của Bản Khảo sát về Bản sắc Tôn giáo của Người Mỹ năm 2009 (2009 American Religious Identification Survey).   Nhưng khi R. Albert Mohler Jr.- Chủ tịch dòng Thần học Baptist phương Nam, tổ chức lớn nhất trên hành tinh – đã hốt hoảng chỉ vì dòng ngắn ngủi sau khi đọc tài liệu vừa phổ biến trong tháng Ba này. Đối với một người tin đạo như ông Mohler- một người Kitô giáo bảo thủ, vững vàng, từng miệt mài với khoa thần học trong vương quốc đức tin đặc thù của mình, đã hiến mình vào công cuộc đào tạo các giáo sĩ nhằm rao giảng những điều không thể sai lầm của Kinh thánh và Phúc âm của đấng Kitô như là những phương cách duy nhất cho sự sống đời đời thì nội dung thông tin của bản khảo sát ấy quả là hết sức đáng lo lắng: con số những người Mỹ tự nhận mình không có tôn giáo đã tăng gần gấp đôi kể từ 1990, từ 8% đã tăng đến 15%. Sau đó, bản khảo sát đã đi đến một điểm khiến ông không thể xua khỏi tâm tưởng: theo lịch sử, dù những thành phần không nhập đạo này từng tập trung ở vùng Tây Bắc, bản tường trình cho thấy "mô hình này nay đã dịch chuyển, và vùng Đông Bắc đã nổi lên từ năm 2008 như một thành trì vững chắc của những người tự nhận mình không có đạo". Theo Mohler, nền tảng lịch sử của nền văn hóa đạo giáo Mỹ đang rạn nứt.

http://sachhiem.net/SACHNGOAI/LeQuocTuan/SAMHARRIS/IMG/post-christian.jpg"Chuyện ấy thực sự khiến tôi bị choáng mạnh" Tuần qua ông đã bảo tôi như thế. " Vùng tây bắc chưa từng là một khu vực đạo giáo, chưa bao giờ được giáo đoàn hóa như vùng Đông Bắc, vốn là một khu vực có nền tảng, có tính căn cứ địa của đạo giáo Hoa Kỳ. Ðể mất vùng New England đã thực khiến tôi choáng váng". Nặng nề với bản báo cáo trong tâm tư, ngay trước Tuần Thánh Mohler đã chuyển lên mạng internet một bài viết tuyệt vọng than tiếc cho sự suy thoái – và, ám chỉ rằng, sự xụp đổ sắp xảy ra – của một nước Mỹ từng tạo được dựng và thấm đẫm bởi Kitô giáo. "Một sự thay đổi quan trọng về văn hóa đang xảy ra chung quanh chúng ta" Mohler đã viết "Những khúc quanh quan trọng nhất của nền văn hóa Mỹ đã thay đổi đế tận gốc rễ. Cái gọi là mối nhất trí của Judeo-Christian trong thiên kỷ qua đã phải nhường chỗ cho một loại khủng hoảng văn hoá hậu-hiện đại, hậu-Kitô giáo, hậu-tây phương khiến đe dọa đến cốt lõi của văn hóa chúng ta". Khi tôi và Mohler nói chuyện với nhau một vài ngày sau khi ông viết những điều trên, ông còn tỏ ra buồn chán hơn nữa. "Rõ ràng có một giai thoại mới, một giai thoại hậu-Kitô giáo đang tạo sức sống cho một bộ phận đa số của xã hội này" ông phát biểu như thế từ văn phòng của mình trong khu đại học ở Louisville. Tiểu Bang Kentucky.

Sự thể chính là ở đây, Hậu – Kitô giáo, một ý nghĩa xưa cũ nhưng mang chứa một bức thiết mới. Điều này không phải để bảo rằng Thiên chúa của Kitô giáo đã chết rồi, nhưng để nói rằng ngài đang kém đi cái sức mạnh trong nền chính trị và văn hóa của Hoa Kỳ so với những thời kỳ khác trong ký ức gần đây. Đối với sự ngạc nhiên của những người tự do vốn sợ hãi sự giáng lâm của một loại chính trị thần quyền và đối với sự mất tinh thần của những người bảo thủ tôn giáo đang mong mỏi nhìn thấy đức tin của mình được tỏa lộ trong đời sống công cộng, chính những người Kitô hữu đang tạo nên tỉ lệ sụt thoái trong dân số Hoa Kỳ.

Theo Bản Khảo sát về Bản sắc Tôn giáo vốn gây lo lắng cho Mohler, tỉ lệ bách phân của những người tự nhận mình là Kitô hữu đã tụt giảm 10% kể từ năm 1990, từ 86% xuống còn 76%. Dân số Do Thái giáo là 1.2 %; Hồi giáo 0.6%. Một bài riêng trên Pew Forum đã xướng họa lại những kết quả của bản Khảo sát ấy, cho thấy rằng tỉ lệ phần trăm những người tự nhận mình không hề tham gia vào bất cứ loại đức tin cụ thể nào đã tăng đến 16%, nghĩa là gấp đôi trong những năm gần đây; trong phạm vi bầu cử, nhóm này đã tăng từ 5% trong năm 1988 đến 12% trong năm 2008 – gần bằng tỉ lệ các đại biểu cử tri người Mỹ gốc Phi Châu. (Bảy mươi lăm phần trăm những cử tri không theo một tôn giáo nào đã bầu cho Barack Obama, một người Kitô giáo). Trong khi đó, con số của những người tự nhận mình là vô thần hoặc theo thuyết bất khả tri đã tăng gần 4 lần từ năm 1990 đến 2009, nghĩa là từ 1 triệu người đến 3.6 triệu người. (Nghĩa là vào khoảng gấp đôi số dân Episcopalian ỡ Hoa Kỳ).

Dù chúng ta vẫn còn là một quốc gia được định khuôn mạnh mẽ bởi đức tin tôn giáo, nền chính trị và văn hoá của chúng ta, trên dòng chính, đã ít bị ảnh hưởng bởi các phong trào, các tranh cãi từ một tính cách Kitô giáo cực đoan như từng có chỉ ngay trong năm năm trước đây. Tôi cho rằng đây là một điều tốt- tốt cho nền văn hóa chính tri của chúng ta, một nền văn hoá chính trị phức tạp và đủ nặng nề và không cần đến các nỗ lực o ép, cưỡng bức để tôn kính hoăc đi theo các loại đức tin tôn giáo- như những Vị sáng lập nên đất nước Hoa kỳ đã từng nhìn thấy- Điều này cũng tốt cho Kitô giáo trong phương cách mà nhiều người Kitô hữu đang tái khám phá ra các hiệu quả tốt của việc tách rời nhà thờ khỏi thế quyền vốn bảo vệ được cho điều mà Rogers Williams, người sáng lập Rhode Island như một nơi an toàn cho những người bất đồng tôn giáo, được gọi tên là "vườn hoa của nhà thờ" từ "chốn hoang dã của thế gian". Tôn giáo đã và còn là quan yếu  đối với sinh mệnh của tổ quốc nhưng sức mạnh đoàn kết của Hoa kỳ chưa từng là vì một đức tin đặc thù nào, trừ ý nguyện cho tự do – không phải thứ tự do nhỏ  bé của tín ngưỡng. Bằng hết sức mình, chúng ta loại bỏ tôn giáo ra  không phải vì sự hữu ích hay hư hại cá biệt nào; trong lịch sử chúng ta đã từng xử lý các tranh cãi có căn bản từ đức tin như một yếu tố giữa nhiều yếu tố khác trong môi trường cộng hòa của sự tranh luận và tạo quyết định. Sự suy thoái và xụp đổ của ý niệm về tôn giáo quyền hiện đại c�! ��a Kitô giáo Hoa kỳ tạo nên được một môi trường chính trị trầm tĩnh hơn, và đối với nhiều người theo đạo, điều này sẽ giúp mở ra con lộ trình mới cho một đời sống tôn giáo nghiêm túc, thần học hơn.

Ta nên rõ ràng như thế này: chừng nào tỉ lệ bách phân những người Kitô giáo có thể co hẹp lại, những đồn đãi về cái chết của Kitô giáo đang được cường điệu lên rất nhiều. Trở thành kém Kitô giáo hơn không cần thiết là phải mang ý nghĩa rằng Hoa Kỳ là hậu-Kitô giáo. Một phần ba dân số Hoa kỳ tin rằng mình đang được sống lại; con số này, cùng với sự xuống dốc của những người Tin lành dòng chính từ trung hòa đến tự do một cách chính trị, đã khiến những người soạn nên  Bản Khảo sát về Bản sắc Tôn giáo người Mỹ ghi nhận rằng "những chiều hướng này…cho thấy một biến động đến những niềm tin bảo thủ hơn, cụ thể là đến một dự phóng có tính "Phúc âm" nhiều hơn giữa những ngưòi Kitô hữu". Với sự gia tăng của những di dân Mễ chống đỡ cho giáo hội công giáo ở Mỹ, đồng thời đơn cử sự phổ biến của phái Pentecostal, môi trường tăng trưởng nhanh của Kitô giáo trong Hoa kỳ và trên toàn thế giới, chắc chắn rằng đất nước này vẫn còn là một đất nước tôn giáo sinh động, hơn nhiều so với các nước Âu châu.

Vẫn theo thăm dò của Newsweek, hiện nay ít người còn nghĩ rằng Hoa kỳ là một "quốc gia Kitô giáo" hơn là dưới thời gian George W. Bush làm tổng thống (62% trong năm 2009 so với 69% trong năm 2008). Hai phần ba công chúng (68%) hiện nay cho rằng tôn giáo đang "mất ảnh hưởng" trong xã hội Hoa Kỳ, trong khi chỉ có 19% cho rằng ảnh hưởng của tôn giáo đang tăng lên. Tỉ lệ những người Mỹ tin "tôn giáo có thể giải đáp được tất cả hay hầu hết những vấn nạn của ngày nay" giờ đang ở mức thấp nhất trong lịch sử. Trong thời của Bush là 43%, dưới thời Clinton, con số ấy chưa bao giờ xuống thấp hơn 58%.

Nhiều người Kitô giáo bảo thủ tin rằng họ đã thua cuộc trong cuộc chiến đấu với những vấn đề như phá thai, cầu nguyện trong trường học và ngay cả vấn đề hôn nhân đồng tính, và họ tin rằng đất nước hiện đang đi vào giai đoạn hậu-Kitô giáo. Chistopher Hichens – một người bạn và có lẽ còn là một người thích trêu chọc duyên dáng nhất mà quý bạn từng gặp- đã viết một tập sách vô cùng nổi tiếng về vô thần vài năm trước "Thượng đế không Vĩ đại" (God is Not Great). Là một người Tân giáo ngoan đạo (dù đã rạn nứt sâu sắc), tôi không đồng ý với nhiều luận điểm của Hitchens- Tội không nghĩ là ta sẽ đạt được ích lợi gì khi coi thường niềm tin tôn giáo như một thứ sai lầm và mê tín- nhưng Hitchens quả là một người trí thức chân chính nghiêm túc, người mà trong cuộc du hành đến Texas vừa qua, được thuật lại rằng đã lẩm bẩm có tính Phúc âm về sự xuất hiện của một nưóc Mỹ "hậu-Kitô giáo".

Ðể trở thành Hậu-Kitô giáo đã từng có những ý nghĩa khác nhau trong những thời điểm khác nhau. Vào năm 1886 nguyệt san Atlantic đã mô tả George Elliot như một người "hậu-Kitô giáo", mang ý nghĩa đồng nghĩa với vô thần hoặc bất khả tri. Ý nghĩa rộng rãi hơn- và thích đáng nhất cho đúng mục đích của chúng ta là định nghĩa rằng "hậu-Kitô giáo" tiêu biểu cho một giai đoạn tiếp theo của sự suy thoái tầm quan trọng của Kitô giáo trong một khu vực hay một xã hội. Việc xử dụng đến nhóm từ này lần đầu xuất hiện trong cuốn "Nước Mỹ được Tự do ( "America Set Free") vào năm 1929 bởi nhà triết gia Ðức Hermann Keyserling.

Ý nghĩa này được phổ thông hoá trong giai đoạn mà các nhà học thuật gọi là phong trào "cái chết của Thượng Ðế" trong giữa thập niên 1960- một phong trào vẫn còn ảnh hưởng trong phương cách của nó. Rút ra từ tuyên ngôn "Thượng đế đã chết" của Nietsche trong thế kỷ 19, một nhóm nhà thần học Tin lành đã cho rằng về thực chất, Kitô giáo đã phải sống còn mà không có một hiểu biết chính thống về Thượng đế. Tom Alitzer, giáo sư tôn giáo ở Ðại học Emory, là một thành viên quan trọng của phong trào Kitô giáo không có Thượng đế, đã truy tìm những căn nguyên trí thức trước tiên từ kiekergaard sau đó là đến Nietzsche. Ðối với Alitzer, kỷ nguyên hậu-Kitô giáo là một thời đại mà cả Kitô giáo và chính bản thân tôn giáo đều được tháo gỡ khỏi xiềng xích của các nền tảng lịch sữ trước đó". Năm 1992, nhà phê bình Harold Bloom đã xuất bản một tác phẩm có tựa đề "Tôn giáo Hoa Kỳ: Sự xuất hiện của môt quốc gia hậu-Kitô giáo". Trong tác phẩm này, ông dẫn chứng định nghĩa của William James về tôn giáo trong cuốn "Sự đa dạng của kinh nghiệm tôn giáo": " Tôn giáo… đối với chúng ta sẽ có nghĩa là những cảm giác, hành vi và những chứng nghiệm của các cá nhân trong sự cô độc của mình, chừng nào họ còn hiểu được chính mìn! h để đứng được trong mối liên hệ đến bất kỳ điều gì họ quan niệm là sự thiêng liêng".

Ðấy đúng là điều đã khiến Mohler lo lắng nhất, "Giai thoại hậu-Kitô giáo hoàn toàn khác biệt; chúng đem đến tính tâm linh nhưng được xác định lại mà không có sự ràng buộc thẩm quyền nào" ông bảo tôi "Giai thoại này được đặt căn bản trên một hiểu biết về lịch sử vốn giả định một quá khứ ít thứ tha và một tương lai nhiều khoan dung, với hiện tại này như một bước chuyển tiếp quan trọng". Hiện tại, trong ý nghĩa này, là một hiện tại ít đi về cái chết của Thượng đế nhưng lại nhiều lên về sự sản sinh của nhiều thần linh khác. Những con số tăng lên của người Mỹ tự nhận mình không gia nhập tôn giáo nào là những người có nhiều khả năng tự nhận họ là "tâm linh" hơn là "có đạo" (Theo thăm dò của Newsweek, 30 phần trăm tự nhận mình theo cách này, vượt hẳn từ 24 phần trăm trong năm 2005).

Nói một cách đại cương, giai thoại Kitô giáo là câu chuyện của con người – tấn thảm kịch của sự sáng tạo, vấp ngã và chuộc tội – như đã dược ghi chép trong Kinh thánh Hebrew và Tân Ước. Phái chính thống cố gắng để sống cuộc đời mình theo những nguyên tắc về đức hạnh chung trong Thánh kinh (hoặc tối thiểu theo những nguyên tắc mà họ chấp nhận được) đồng thời dự phần vào sự phán xét cuối cùng của Thiên chúa-một sự phán xét vốn có thể đem lại sự quyết định cho việc họ sẽ vĩnh viễn ở vào chốn thiên đàng hay địa ngục.

Vậy thì nói đến "Nước Mỹ Kitô giáo" là nói về cái gì ? Những người Kitô rao giảng Phúc âm từ lâu đã tin rằng Hoa kỳ nên là một đất nước có đời sống chính trị đặt căn bản và được cai quản bởi những nguyên tắc thần học và những giải thích về thánh kinh của họ. Chẳng hạn như nếu giáo hội tin rằng uống rượu là có tội thì luật pháp nên cấm mua bán rượu. Nếu giáo hội cho rằng thuyết tiến hóa là xung khắc ngược lại với nghĩa đen của sách Sáng thế, thì các trường công lập nên cắt xén bài giảng dạy cho phù hợp. Nếu giáo hội cho rằng nên đặt phá thai ra ngoài vòng pháp luật, thì toà án của đất nước này nên tuân thủ như thế. Cường độ của cảm giác về việc đất nước này nên Kittô giáo đến mức nào đã tăng lên rồi giảm xuống từ vụ Jamestown: quả đúng như Thánh kinh đã từng viết, không có gì mới lạ dưới ánh mặt trời. Trong suốt hơn 40 năm, cuộc tranh cãi bắt đầu từ quyết định của Toà án tối cao từ năm 1962 để chấm dứt việc bắt buộc cầu nguyện trong trường học (rồi căng thẳng dần đến phán quyết trong vụ kiện giữa Roe và Wade 11 năm sau đó) có lẽ đã không còn là điều mới lạ nhưng thực đã là một sự tàn nhẫn. Lo sợ đến việc nước Mỹ có thể trở nên giống như một đất nước thế tục kiểu Âu châu, cánh hữu đã miệt mài lèo lái sự quay về điều họ tin là một nước Mỹ Kitô giáo của ngày xưa cũ.

Nhưng tối thiểu là trong hiện tại, dự án ấy đã thất bại. Ở Texas, các chính quyền đã đứng vế phía khoa học chứ không phải phiá thần học trong cuộc tranh chấp về việc giảng dạy thuyết tiến hóa. Thời đại khó khăn ghê ghớm về kinh tế này đã không hề dẫn đến sự gia tăng những người đi lễ nhà thờ. Ngày thứ sáu vừa qua ở bang Iowa, toà án tối cao đã phán quyết ngược lại với lệnh cấm hôn nhân đồng tính, một sự đánh bại những người Kitô giáo bảo thủ. Bằng chứng ấy là những gì mà người theo đạo khó chịu về khả năng của một thời đại được thống trị bởi những một chủ thuyết thế tục mới và mạnh mẽ. "Việc giảng dạy đạo lý của Kitô giáo đã phải xử dụng đến một ảnh hưởng không kể xiết được vào nền văn minh Tây phương" Mohler nói như thế. "Khi những giảng dạy đạo lý ấy mờ nhạt vào trong ký ức văn hóa, một nền đạo lý kiểu thế tục sẽ thay thế. Một khi tính cách Kitô giáo bị rỡ bỏ bởi một phần dân số đáng kể, bức hoàng tráng của đạo lý sẽ thay đồi một cách cần thiết. Ðể là những nơi chốn tốt đẹp hơn của thế kỷ 20, các nước Tây Âu đã dẫn đạo trong việc từ bỏ đi những ý nguyện Kitô giáo. Ðạo lý Kitô phản hồi và những nguyên tắc đạo lý đã nhường bước cho sự kém thu hút của loại ký ức Kitô giáo. Hiện thời, ngay cả ký ức Kitô giáo cũng đã vắng mặt trong đời sống của hàng triệu con người"

Tuy nhiên, sự chia rẽ và nghi ngờ tôn giáo đã luôn luôn là một phẩm chất Hoa Kỳ. Alexis de Tocqueville đã cho rằng "không khí đạo giáo của một đất nưóc là điều đầu tiên thu hút tôi khi đến Hoa kỳ" nhưng ông cũng khám phá ra "một mối nghi hoặc và khác biệt sâu sắc" đến đức tin. Jefferson trước đây cũng từng nắm bắt được tinh tuý của tinh thần Mỹ về tự do tôn giáo khi ông nhận định rằng đạo luật của ông về tự do tôn giáo ở Virginia là "để bao hàm được, trong phạm vi che chở của sự bảo bọc, Do Thái giáo và ngoại Do, Kitô giáo và Hồi giáo, Ấn độ giáo và những người phản giáo của tất cả các loại"- cùng những người không có một thứ đức tin gì. Nền văn hóa của Hoa Kỳ về tự do tôn giáo đã giúp tạo nên một thị trường tự do rất bận rộn về đức tin: chính từ các nhà thờ đứng ngoài tổ chức mà đất nước này đã tạo cho tôn giáo trở nên phổ biến hơn chứ không kém đi.

Vậy thì Hoa kỳ không phải là một xã hội hậu-Kitô giáo – và không thể là như thế chừng nào xã hội Hoa kỳ còn có con người ở trong đó, bởi vì đức tin là một thôi thúc nội tại của con người. Loại niềm tin từ mệnh lệnh, hay từ một thực tế vượt ra khỏi không thời gian là cổ xưa và cố chấp. "Tất cả mọi người", Homer đã nói "cần đến các thánh thần". Câu hỏi thiết yếu của chính trị và văn hoá về các thánh  thần này – hay nói cho chính xác hơn, một kiến thức hiểu biết chung về các thánh thần này -  là các ngài sẽ chi phối đến tính tự nhiên của đời sống trong một gian đoạn, một không gian cho sẵn như thế nào ?

Nếu áp dụng một loại kiểm tra tính quốc gia kiểu Augustine cho mình, chúng ta sẽ thấy rằng chính tự do, chứ không phải tôn giáo, là điều đã giữ được chúng ta lại với nhau. Trong tác phẩm "Thành của Chúa" ("The City of God"), Augustine – một kẻ tội lỗi biết hối cải, vị Giám mục thành Hippo – đã nói rằng một đất nước nên được định nghĩa như "một hỗn hợp của những con người có lý trí trong một đồng thuận chung theo các mục đích yêu thương của họ". Ðiều mà chúng ta đánh giá cao nhất – điều mà chúng ta cùng chung yêu thương nhất – chính là trọng tâm của cuộc kiểm tra về sự thỏa thuận xã hội.

Ðánh giá từ hình dạng rộng của đời sống Hoa kỳ trong thập niên đầu thế kỷ 21, chúng ta quý trọng tự do cá nhân, tự do (hoặc thật tự do) kinh doanh và có khuynh hướng thiên về chủ nghĩa tự do trong những vấn đề đạo đức cá nhân. Các tài liệu nền tảng là Bản Tuyên Ngôn Ðộc Lập chứ không phải bản Kinh thánh tiếng Hebrew và Sách Tân ước (dù có những liên quan không thể chối cãi giữa các tài liệu này). Phương cách sống này khác xa với cách sống mà những người Kitô giáo bảo thủ ưa thích. Nhưng đấy chính là sức mạnh của cơ chế Cộng hòa vốn đã được lèo lái bởi James Madison vào cuối thế kỷ thứ 18; rằng Hoa kỳ sẽ tồn tại trong mối liên quan trực tiếp đến khả năng kiểm soát được sự cực đoan và gìn giữ được sự tối đa cho tự do cá nhân của mình. Những người theo đạo nên hân hoan đón nhận điều này; tự do cho một giáo phái phải có nghĩa là tự do cho tất cả các giáo phái. Như John F. Kenedy đã công bố trong diễn văn đọc trước Hiệp Hội các Giáo sĩ ở Houston năm 1960 : "Nếu như năm nay có thể là một năm người Công giáo phản đối lại những ai dơ lên cánh tay nghi ngờ, những năm khác đã từng như thế,một ngày nào đó có thể là một người Do thái giáo- một người Quaker-  một người Theo thuyết nhất thể – hay một người Baptist… Hôm nay tôi có thể là nạn nhân – nhưng ngày mai có thể quý vị là nạn nhân – cho đến khi nào toàn thể cơ cấu hoà hợp xã hội của chúng ta được xé toang ra".

Ðạo giáo đã từng là một nhân tố trong đời sống và chính trị Hoa kỳ kể từ khởi đầu. Kính trọng Anh Giáo là một điều bắt buộc ở Jamestown, và những người theo Thanh giáo ở New Endland đều dứt khoát hy vọng xây dựng một Jerusalem mới. Nhưng tin mà bị ép buộc là không tin gì cả; đó là sự chuyên chế bạo ngược. Roger Williams đã  nói " Tôi ca tụng người nào, dù là Do thái, Thổ nhĩ kỳ, thờ Giáo hoàng, hay bất cứ ai, không hướng về nơi nào ngoài sự thử thách tự lương tâm chính mình".

Vào thời điểm những nhà lập quốc như Jefferson và Madison nhìn thấy được cái tinh hoa trong sự bảo đảm một nền tự do cho lương tâm, và một trong những thành quả đáng kể của nền cộng hòa non trẻ là đã tạo nên một nội dung trong đó tôn giáo và chính trị được trộn lẫn nhưng giáo hội và nhà nước thì không. Sáng suốt của những bậc dựng nước là người ta có thể cũng cần cố gắng dựng nên một bức tường ngăn giữa kinh tế và chính trị như bức tưòng giữa tôn giáo và chính trị, bởi vì cả hai lãnh vực này đều là những gì dân chúng cảm nhận và nhìn được thế giới như thế nào. Hãy đề những người ngoan đạo tự mình đứng lên trong các võ đài chính trị và tư tưởng và đấu tranh cho các quan điểm của mình trong nền tảng công bằng với các quyền lợi của người khác. Ðời sống công cộng của Mỹ không phải là toàn đạo giáo cũng như không phải toàn thế quyền như là một dung dịch mãi mãi hỗn hợp của cả hai. Lịch sử cho thấy rằng khó khăn có khuynh hướng xảy ra khi một trong những thế lực này trở nên quá mạnh trong đối trọng với thế lực kia.

Do đó các chiến thắng chính trị là sự nhất thời tự bản chất. Vào giữa thế kỷ 19, nhà truyền giảng Phúc Âm Charles Grandison Finney lập luận rằng "công việc cao cả nhất của giáo hội là cải tạo thế giới – nhằm loại bỏ đi tất cả mọi hình thức tội lỗi"; Ông nói Kitô giáo "cần tăng cường ảnh hưởng của mình để bảo đảm một nền lập hiến phù hợp với luật của Thiên chúa".

Thành công thế gian có khuynh hướng đánh dấu giai đoạn bắt đầu sự kết thúc cho tính công khai đạo giáo trong chính trị. Luật Cấm Rượu (Prohibition) khởi đầu được xem như một chiến thắng về đạo lý, nhưng sự thất bại và sau cùng bị bãi bỏ cho thấy một phong trào nên luôn cẩn trọng về những gì mình mong muốn : ở Hoa kỳ, ý chí của khối đông rộng lớn có khuynh hướng thắng thế đến ngay cả các nỗ lực kiên quyết của những quyền lợi nhỏ hẹp.

Khi thế kỷ 20 trôi qua, những người Kitô giáo thấy chính họ ở trong một vị trí tương đối không ai còn bãn cãi gì về sự đối đầu với "chủ nghĩa cộng sản vô thần", và lòng nhiệt tình hăng hái về các Luật cấm rượu thời đại vụ án của Scopes như đã nguội đi một chút. Các vấn đề về đạo lý các nhân chứ không phải chính trị quốc tế, sẽ đặt nền tảng cho công cuộc vận động cho nưóc Mỹ Kitô giáo mà chúng ta biết đấy là sự nổi dậy của tôn giáo quyền. Hiện tượng ly dị trong những năm 60 cùng phán quyết Roe năm 1973 rất nghiêm trọng và đức tin tái-sinh của Jimmy Carter đã mang tính Kitô giáo của Kitô giáo Phúc âm đến dòng chính trong năm 1976.

Lớn lên ở Atlanta trong những năm 60 và 70, Joe Scarborough, nhà cựu lập pháp đảng Cộng hòa, đã cảm thấy lo sợ cho cha mẹ và những bạn bè theo giáo phái Phúc Âm của họ – chính những nỗi sợ ấy đã giúp xây dựng lên sự ủng hộ cho phong trào Kitô giáo Mỹ bảo thủ. "Mối lo lớn nhất ở vùng trung Mỹ là chúng tôi bị vây hãm – cha mẹ chúng tôi nhìn thấy bọn trẻ đi dưới phố vốn là nhũng hướng đạo ba năm trước giờ bỗng như bọn Hippy và họ sợ hãi lắm", Scarborough nói: " Về mặt văn hóa, tình hình giống như tháng 10 năm 2001 trong một thập niên. Trong cả một thập niên dài. Và một khi cha mẹ tôi nhận ra là chúng tôi không hề biến mất đi vào trong chủ thuyết cấp tiến và ma túy thì nỗi lo ấy tan biến đi. Ðó chính là thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay – các bậc cha mẹ của thế hệ baby boomer vốn chưa hề uống một ly rượu đỏ 30 năm trước giờ uống đến vodka. Họ đã được giải phóng".

Và họ đã học được rằng chính trị không hề có sẵn mọi lời giải đáp – một bài học mà, cùng với một số mối nhẹ nhõm từ các lo lắng của văn hoá nổi lên trong nhũng năm 60, 70, khiến từng có khuynh hướng kìm hãm lòng nhiệt thành chính trị phát sinh tự tôn giáo. "Lỗi lầm trần trọng nhất của những người theo Phúc âm trong các phạm trù chính trị trong 30 năm qua đã là sự ngây thơ đáng kinh ngạc về chính trị, các chính khách và các đảng phái" Mohler nói "Họ đã đầu tư quá nhiều hy vọng vào một giải pháp chính trị cho các vấn đề và khó khăn vượt quá chính trị (transpolitical). Nếu được ở trong một tình huống mà chúng ta Âu châu hơn, nơi mà các đảng phái khác nhau căn bản từ những vấn đề chính trị truyền thống hơn là các vấn đề đạo lý, hoặc nếu như chúng ta có được nhiều đảng phái hơn, có lẽ chúng ta đã có một bức tranh tốt đẹp hơn. Nhưng khi việc phá thai và một hiểu biết đạo lý về cái tốt của con người trở thành liên đới đến một đảng phái, thì về chính trị người Kitô giáo đã không có nhiều chọn lựa"

Khi đảng phái ấy thất bại- và thực đã thất bại – một số người trong phong trào phản ứng bằng cách rút lui về phía chủ nghĩa cấp tiến, bị  chinh phục bởi sự yếu kém và sự mua chuộc bằng tài lợi của thế giới chính trị đã khiến họ rơi vào hết thất bại này đến thất bại khác. (Tương tự xảy ra như thế với nhiều người công hòa sau năm 1968: điên tiết vì tínhcách bảo thủ của quốc gia, cánh tả đã phản ứng giận dữ và trở nên tả phái hơn).

Nhà bỉnh bút Cal Thomas là một nhân vật cũ của Khối Ðạo Ðức Ða số, người đã phải nhìn nhận phong trào Kitô giáo Hoa kỳ như một sự rạn nứt chí mạng trong các ý nghĩa thần học. "Không một đất nước nào có thể là thực sự "Kitô giáo"". Thomas công bố rằng " Chỉ có người dân có thể là thực sự "Kitô giáo". Thượng đế ở trên mọi quốc gia, và, thực thế, như Isaiah đã nói rằng 'Mọi quốc gia đối với người chỉ là một giọt nước nhỏ hoàn toàn không đáng giá gì' ". Suy tưởng ngược về vài thập niên, Thomas nhớ lại niềm hy vọng – và sự thất bại. "Chúng ta đang trải qua việc tổ chức những người có tinh thần giống nhau để mang nước Mỹ 'trở lại' thời đại của đạo đức tốt hơn. Dĩ nhiên, điều này phải được thực hiện thông qua các chính khách vốn cũng đang khó khăn trong sự áp dụng đạo đức vào chính họ"

Kinh nghiện cho thấy rằng các thẩm quyền đạo giáo có thể tự mình bị tha hóa bởi sự lân cận với thế lực chính trị. Một phần tư thế kỷ trước, ba nhà học giả cũng là những người kitô giáo theo phái Phúc Âm – Mark A. Noll, Nathan O. Hatch và George M. Marsden – đã xuất bản một tác phẩm quan trọng nhưng ít được mọi người biết "Ði tìm một Nước Mỹ Kitô giáo". Trong tác phẩm này, họ lập luận rằng các khẳng định của Kitô giáo đã vượt quá mọi trật tự chính trị. Họ viết rằng "người Kitô giáo không nên có ảo tưởng về bản chất của các chính phủ nhân loại. Cuối cùng thì họ sẽ thuộc về cái mà Augustine gọi là "thành phố của thế gian", ở đó sự ích kỷ cai trị…và tất cả các chính phủ có thề là những kẻ sát nhân tàn bạo".

Quan điểm của họ trùng với quan điểm của những nhà soạn Thánh thi, từng nói rằng "Ðừng đặt lòng tin của ngươi nơi các cô công chúa" đồng thời cũng có đầy đủ những bằng chứng trong Tân ước để ủng hộ cho một cảnh tượng của chính trị và đức tin trong đó giáo hội thì ở vị trí tốt nhất đối với nhiệm vụ trọng tâm của mình trong khi lại xa vời nhất với những vướng mắc của chính trị. Thiên chúa của phái Phúc Âm dứt khoát chối từ việc xử dụng các phương tiện của thế gian này – kể cả sự va chạm của vũ khí lẫn các đam mê của chính trị – để  theo đuổi các mục đích của người. Sau phép lạ bánh mì và cá,đám đông kinh ngạc tưởng rằng mình đã tìm được vị sứ giả trên thế gian của mình. "Khi chúa Jesus vì thế nhận thấy rằng họ có thể đến và dùng sức lực để chiếm giữ lấy mình, để khiến mình trở nên một vì vua, người đã lại một lần nữa rời đi lên núi một mình". Khi một trong những tông đồ của mình cắt đứt tai một trong những người nhóm họp bị bắt giữ ở Gethsemane, chúa Jesus nói "hãy tra kiếm vào vỏ". Lát sau, trước mặt Pilate, người nói "Vương quốc của ta không phải thuộc về thế gian này: nếu Vương quốc của ta ở trên thế gian này, thì các thuộc hạn của ta đã chiến đấu". Ưu thế cũa những bài học trong Phúc âm và trong tất cả các phần còn lại của Tân ưóc cho thấy rằng quyền lực thế gian thì nhất thời và mục nát, và những người theo Chúa nên chú ý hơn đến các vấn đề của tâm linh hơn là chính trị.

Tuy vậy, cũng theo Kinh thánh, luôn có những chương đoạn làm rối rắm bức tranh. Tác giả của bản kinh bằng tiếng Do thái cổ công bố rằng những người theo đạo là "những kẻ xa lạ và lưu đày trên thế gian" và rằng " Vì ở chốn này chúng ta không có thành phố nào tồn tại được mà để tìm một thành phố tương lai sẽ đến". Ở La Mã, Giáo hoàng Paul khuyên bảo: "Ðừng trở nên thích nghi với thế giới này". Công đồng Vatican thứ hai trích dẫn những lời của giáo hoàng Pius XII: Giáo hội Công giáo của "Jesus Christ, Ðấng sáng lập thiêng liêng, đã chưa từng ban cho một sự ủy thác hay sửa chữa bất cứ mục đích nào của trật tự văn hoá. Mục tiêu mà Thiên chúa giao phó cho giáo hội là hoàn toàn tuyệt đối tôn giáo…Giáo hội không bao giờ có thể đánh mất tầm nhìn về tuyệt đối tôn giáo, về mục tiêu siêu nhiên".

Tuy nhiên, như tổng giám mục Canterbury từng nói, nghĩ rằng Thượng đế có quan hệ chính yếu hoặc ngay cả rộng lớn hơn với tôn giáo là một sự sai lầm. Ở Amos Chúa đã nói "Ta ghét âm thanh tiếng kèn uy nghi của các ngươi". Tôn giáo không phải chỉ là sự thờ bái Thiên chúa của các ngươi mà là sự thực hiện những sự việc thuộc về đạo, và thông điệp trọng tâm của Phúc âm là chính nhiệm vụ của người Kitô hữu để chuyển hóa thực tại thông qua các công việc yêu thương bằng tất cả năng lực mình. "Trách nhiệm của chúng ta vẫn là hãy hội nhập vào trong thế gian chứ không phải là một phần của thế gian" Mohler nói " Giáo hội là một hiện hữu đời đời trong một thế gian tạm bợ và đổ vỡ- nhưng chúng ta phải tạo ra ảnh hưởng. Các bài giảng trên Núi là những nội dung về những gì chúng ta hành động – nhưng các bài giảng ấy không đến cùng với một cuốn cẩm nang chính trị.

Làm sao để cân bằng mối quan tâm cho khu hoa viên của giáo hội với các mệnh lệnh đạo đức tạo thoải mái cho đời sống thế gian là một trong những vấn đề gây bối rối cho giáo hội nhất. "Chúng ta có nghĩa vụ quan trọng để thực hiện bất cứ điều gì mình có thể, kể cả phải thông qua sự xử dụng các phương tiện chính trị, để giúp những anh em láng giềng của chúng ta – nhằm thúc đẩy luật công bằng, trật tự, hòa bình, giáo dục và các cơ hội", Noll, Hatch và Marsden đã viết, "Tuy nhiên, chúng ta nên nhận thức rằng khi làm việc cho sự tốt đẹp có tính tương đối hơn cho "thành phố của thế gian" thì sự thành công của chúng ta sẽ chỉ được tương đối đúng như thế. Trong nhận định có tính quyết định giáo hội công bố rằng các giải pháp mang lại từ các quốc gia trên thế giới luôn luôn là các giải pháp nhất thời và chính các giải pháp này cần phải thay đổi ".

Ở Louisville, chuẩn bị cho lễ Phục sinh, Al Mohler thao thức mất ngủ cho nền văn hóa. Tuần qua, ông chuyển lên net một bài có tựa để "Mục sư của bạn có tin vào Thiên chúa hay không ?", một bài về vấn đề phá thai, một bài về sự hỗ trợ tự sát và một bài khác về làn sóng mới của các mục sư. "Chúa Jesus đã hứa nguyện rằng ngay đến cửa địa ngục cũng không thể thắng được giáo hội của ngài". Mohler đã viết "Thế hệ những mục sư mới này có ý muốn đẩy lùi chống lại địa ngục trong sự can đảm và không thực tế. Thế nào cũng có những va chạm xẹt lửa." Trong cuộc điện đàm với tôi, ông nói thêm: "Những gì chúng ta nhìn thấy hiện nay là chứng tích của môt khuôn mẫu về những đổi thay về trí thức, văn hóa và chính trị trong tư tưởng và tâm hồn đã khởi đi từ rất lâu rồi. Các điều kiện đã đổi thay. Khó mà có thể xác định được ở nơi nào, nhưng bất cứ điều gì đến sau sự Khai sáng đã trở nên rất khác với những gì xảy ra trước đó" Và những gì xảy đến kế tiếp, với hàng ngũ những người tin theo Kitô giảm dần, cũng sẽ là khác biệt nữa.

 

Jon Meacham

Viết cùng Eliza Gray

 

Lê Quốc Tuấn dịch

Mùa Easter 2009

 

(Có thể tìm đọc nguyên văn bằng Anh ngữ ở đây:
http://www.newsweek.com/id/192583)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét