Thứ Ba, 15 tháng 10, 2013

Sam HarrisThuChoMotQGKiToGiao.html

Sam HarrisThuChoMotQGKiToGiao.html

Sam Harris: Thư cho một quốc gia Ki-tô giáo

Lê Quốc Tuấn chuyển ngữ

 ngày 09 tháng 1, 2010

Mục Lục

LỜI GIỚI THIỆU CỦA NGƯỜI DỊCH: 2

CHÚ THÍCH GỞI  ÐỘC GIẢ.. 4

LỜI BẠT CHO ẤN BẢN CỦA VINTAGE BOOKS. 6

Chân đạo đức. 13

Sự thâm thúy của Thánh kinh. 15

Chân đạo đức. 20

Làm tốt vì Thiên Chúa. 23

Làm tốt vì Thiên Chúa. 23

Những người vô thần có phải là quỷ dữ không ?. 24

Ai đã đặt điều tốt lành vào cuốn "sách tốt lành"?. 26

Lòng Từ tâm của Thiên chúa. 28

Sức mạnh của sự tiên tri 30

Va chạm giữa Tôn giáo và Khoa học. 31

Thực tại của Đời sống. 33

Tôn giáo, Bạo hành và Tương lai của Nền văn minh. 36

Kết luận. 38

LỜI GIỚI THIỆU CỦA NGƯỜI DỊCH:

Sam Harris sinh năm 1969, tốt nghiệp triết học Ðại học Stanford. Trong hơn hai mươi năm qua, ông đã nghiên cứu các truyền thống tôn giáo từ Á châu đến Âu châu cùng các trào lưu nghiên cứu về tôn giáo và triết học đương đại. Ông đang hoàn tất học vị tiến sĩ khoa thần kinh học.

Sam Harris là tác giả 2 tác phẩm luận thuyết gây tiếng vang rất lớn trong giới thức giả và công chúng hiện nay : The end of Faith (2004), đoạt giải thưởng PEN/ Martha Albrand Award năm 2005 và Letter to A Christian Nation (2006). Cả hai lập tức trở thành sách bán chạy nhất nước (National Best Seller) và đã tái bản nhiều lần từ vài năm qua. Ông thường xuyên xuất hiện trên các diễn đàn công luận để diễn thuyết, tranh luận với các thức giả đương thời về các chủ đề liên quan đến các nghi hoặc về bản chất, giá trị của tôn giáo và mối hiểm họa của xã hội hiện đại trực tiếp hoặc gián tiếp từ các nguyên nhân tôn giáo. Các bỉnh bút, luận thuyết cùa ông đã đăng tải trên Newsweek, The Los Angeles Times, The Times of London, The Boston Globe và nhiều tạp chí khác xuất bản hoặc phổ biến trên các mạng web.

Sau khi xuất bản Tận Cùng của Đức Tin (The End of Faith), Sam Harris nhận được hàng ngàn lá thư từ những người Ki-tô giáo gởi đến gắt gao phê bình việc ông đã không tin vào Thiên chúa. Thư gởi một quốc gia Ki-tô giáo này chính là lời đáp trả của ông. Xử dụng những luận điểm hợp lý, Sam Harris đã trình bày phản bác của mình về những niềm tin vốn tạo dựng lên cốt lõi của Ki-tô giáo truyền thống. Trong tiến trình luận giải, ông đề cập đến những chủ đề đuơng thời từ lý thuyết về thiết kế thông minh (Intelligent design) đến các nghiên cứu vể phôi bào kể cả các liên hệ giữa tôn giáo và bạo lực. Trong cuốn sách này, bằng lời văn thẳng thắn, đôi chỗ mỉa mai, châm biếm, thậm chí tàn nhẫn, Sam Harris đã can đảm thách thức những ảnh hưởng mà đức tin tôn giáo đã khắc sâu vào một đất nước Ki-tô giáo, cụ thể là Hoa Kỳ. Trong phần Ghi chú gởi độc giả (Note to the Reader) ông đã viết :

Bốn mươi bốn phần trăm dân số Mỹ tin rằng Jesus sẽ trở lại để phán xét người sống và kẻ chết vào lúc nào đó trong năm mươi năm tới. Theo diễn giải phổ biến nhất từ khải huyền trong kinh thánh, Jesus sẽ chỉ trở lại khi mọi thứ đã trở nên hư hỏng tồi tệ ở thế gian này. Vì thế, chẳng phải là sự phóng đại khi nói rằng nếu thành phố Nữu Ước đột nhiên biến thành một quả cầu lửa, một phần đáng kể dân chúng Mỹ có thể nhìn ra một lằn chớp bạc trong biển khói hình nấm, như họ đã từng được nhắc bảo về điều mong đợi tuyệt vời nhất đang sắp xảy đến: sự trở lại của Chúa. Thật là một sự đui mù hiển nhiên rằng những niềm tin đại loại như thế có thể giúp chúng ta chút ít gì vào việc tạo nên một tương lai vững bền cho chúng ta về xã hội, kinh tế, môi trường hay địa lý chính trị. Thử tưởng tượng hậu quả sẽ ra sao nếu một bộ phận quan trọng trong chính phủ Mỹ thực tin rằng thế giới sắp tận thế và sẽ tận thế trong một sự huy hoàng. Sự thật là gần một nửa dân chúng Mỹ thực sự tin vào điều này, hoàn toàn chỉ từ các căn bản của một chủ thuyết tôn giáo, đáng xem là một tình trạng khẩn cấp cho đạo đức và tri thức. Cuốn sách mà các bạn sắp đọc đây chính là lời giải đáp của tôi cho tình trạng khẩn cấp này.

Thư gởi một Quốc gia Ki-tô giáo có nội dung nhắm đến công chúng Hoa kỳ là chính. Nhưng thực sự có một giá trị tương tự với nhiều người, nhiều quốc gia khác, vốn đang ít nhiều chịu ảnh hưởng của học thuyết Ki-tô trong đời sống chính trị, xã hội, văn hóa và tâm linh của mình.

Gần đây, độc giả người Việt đã được biết đến "Thiên Chúa & Chủ thuyết Vô thần mới" (God and the New Atheism của John F. Haught), do Trần Hữu Thuần chuyển dịch Việt ngữ là một trong nhiều cuốn sách có tính cách đáp trả những luận điểm của Sam Harris (và những tác giả khác) về cùng một chủ đề đang gây rất nhiều tranh cãi từ hàng nghìn năm nay kể từ khi Ki-tô giáo ra đời: Có hay không một (hay nhiều?) đấng Thượng đế mà hàng tỉ người đang tin, đang tranh dành phần phải về mình bằng cách chỉ trích, nhục mạ thậm chí thù hận giết hại nhau vì niềm tin, cách thờ phượng khác biệt. Ðể nhân qua đó, suy nghĩ về ảnh hưởng của sự cuồng tín tôn giáo đối với nền văn minh nhân loại hiện nay như thế nào. Thiết tưởng bản dịch "Thư cho một quốc gia Ki-tô giáo " này sẽ góp phần rộng đường thông tin, sáng tỏ thêm cho độc giả Việt Ngữ về chủ đề này.

Trân trọng.

Lê Quốc Tuấn

 

(xem “Chú Thích gửi độc giả” của tác giả Sam Harris)

CHÚ THÍCH GỞI  ÐỘC GIẢ

Sau khi xuất bản cuốn sách đầu tiên của tôi Tận Cùng của Đức Tin (The End of Faith), hàng ngàn người đã viết rằng tôi sai lầm khi không chịu tin vào Thiên chúa. Căm phẫn gay gắt nhất của những trao đổi này đã đến từ người Ki-tô giáo. Ðiều này thật mỉa mai, bởi vì người Ki-tô giáo luôn tưởng tượng rằng không có đức tin nào truyền đạt được đức hạnh yêu thương và thứ tha hiệu quả hơn đức tin của họ. Sự thật lại là nhiểu người vốn tự nhận là mình được cảm hóa bởi Thiên chúa lại thiếu khoan dung đến mức khắc nghiệt, thậm chí triệt hạ lẫn nhau trong bình phẩm. Dù chúng ta muốn quy lỗi việc này cho bản tính tự nhiên của con người, nhưng rõ ràng là sự thù ghét ấy đã tìm được sự ủng hộ một cách đáng kể từ cuốn Kinh thánh. Làm sao tôi biết được điều này ? Bởi vì những phần gây khó chịu nhất của tôi luôn trích dẫn các tiết, chương từ Kinh thánh.

Dù cuốn sách này chủ ý dành cho độc giả của mọi loại đức tin, nhưng nó đã được viết dưới hình thức một bức thư gởi một người Ki-tô giáo. Trong đó, tôi trả lời nhiều tranh luận mà người Ki-tô giáo từng đưa ra nhằm bảo vệ niềm tin vào đạo giáo của họ. Mục đích chính của cuốn sách này là để vũ trang cho những người thế tục trong xã hội của chúng ta, những người tin rằng tôn giáo nên đứng bên ngoài các chính sách công cộng, ngược lại với các đối thủ của họ bên Ki-tô giáo cánh hữu. Kết quả là, "Người Ki-tô giáo" mà tôi nhắm đến xuyên suốt cuốn sách, là một người Ki-tô giáo trong nghĩa hẹp của phạm trù này. Người ấy, chính là người ít nhất đã tin rằng cuốn Thánh kinh là những lời cảm hứng của Thiên chúa và chỉ những ai chấp nhận sự thiêng liêng của Jesus Christ mới có thể hưởng được sự cứu rỗi sau khi chết đi. Hàng chục khảo cứu khoa học cho thấy già nửa dân số Mỹ tin vào một niềm tin như thế. Tất nhiên, những hứa hẹn ảo tưởng ấy không hề ám chỉ riêng một loại Ki-tô giáo nào. Những người bảo thủ thuộc tất cả các giáo phái – Công giáo, Thệ phản giáo dòng chính, phái Phúc âm, Báp tít, Pentecostals, Nhân chứng Jê-hô-va và còn nhiều giáo phái khác nữa – đều được nhắc đến trong cùng một giá trị ngang bằng nhau trong các lập luận của tôi. Niềm tin của những người bảo thủ Ki-tô giáo này, như đã từng được rộng rãi biết đến, đang đặc biệt ảnh hưởng lên các bàn luận cấp quốc gia của chúng ta – trong pháp đình, trường học và trong tất cả các cấp chính ! phủ ngày nay.

Trong Thư gửi một Quốc Gia Ki-tô giáo, tôi đã sắp xếp để đánh đổ tính tự phụ lố lăng về đạo đức và trí thức của người Ki-tô giáo trong các hình thức thẳng thắn nhất. Hậu quả là, những người Ki-tô tự do và ôn hòa sẽ không nhận ra mình trong ý nghĩa "Ki-tô giáo" mà tôi đề cập đến. Tuy nhiên, họ nên nhận ra điều ấy trong một trăm năm mươi triệu hàng xóm láng giềng của họ. Tôi hơi phân vân rằng những người tự do và ôn hòa cũng nhìn ra các khẳng định kỳ quặc của những người Ki-tơ giáo hữu khuynh như tôi nhìn thấy. Tuy nhiên, tôi hy vọng họ cũng sẽ bắt đầu nhìn thấy rằng sự tôn trọng mà họ đòi hỏi cho các niềm tin tôn giáo của họ đã tạo ra chỗ ẩn nấp cho những kẻ cực đoan của tất cả các đức tin khác. Mặc dù những người tự do và ôn hòa không hề đâm máy bay vào các tòa cao tầng hay tổ chức đời sống của mình theo các lời tiên tri về sự hủy diệt, họ cũng hiếm khi đặt câu hỏi về tính hợp pháp của việc nuôi dạy một đứa trẻ nhằm hướng chúng đến niềm tin rằng mình là Ki-tô giáo, Hồi giáo hay Do Thái giáo. Ngay cả những đức tin tiến bộ nhất cũng đang ngầm giúp vào sự phân rẽ tôn giáo trong thế giới chúng ta. Tuy nhiên, trong Thư Gửi một Quốc gia Ki-tô Giáo, tôi trình bày Ki-tô giáo trong sự thoái hoá, phân rẽ và tổn thương nhất của tôn giáo này. Ở đấy, người tự do, ôn hòa và những người không theo một tôn giáo nào có thể nhận thấy một nguyên ! nhân chung của lý do ấy.

Dựa theo một thăm dò mới nhất của viện Gallup, chỉ có 12 phần trăm người Mỹ tin rằng sự sống trên địa cầu đã tiến hóa qua một quá trình tự nhiên, không hề có sự can thiệp của một đấng thần thánh nào. Ba mươi mốt phần trăm tin rằng tiến hoá đã được "hướng dẫn bởi Thiên chúa". Nếu mang bỏ phiếu, thì khái niệm về "thiết kế thông minh" sẽ thắng thế giới quan của chúng ta gần như ba ăn một. Ðiều này thật đáng lo, khi mà thiên nhiên không hề đem lại một chứng cứ thuyết phục nào cho một nhà thiết kế thông minh, mà chỉ đem đến vô số không kể hết được những thí dụ về sự thiết kế không thông minh. Tuy nhiên, trong cuộc tranh cãi đương thời về "Thiết kế thông minh" chúng ta không nên tự lóa mắt mình vào niềm hoang mang tôn giáo đang thực có vào buổi bình minh của thế kỳ hai mươi mốt. Cũng khảo sát trên của Viện Gallup cho thấy 53 phần trăm người Mỹ thực sự là những người tin theo thuyết sáng thế. Ðiều này có nghĩa là bất chấp những thấu hiểu khoa học của cả một thế kỷ đã chứng thực được tình trạng cổ xưa của sự sống và tình trạng cổ xưa hơn nhiều của địa cầu, hơn nửa láng giềng của chúng ta tin rằng toàn bộ vũ trụ đã được tạo nên từ sáu ngàn năm trước. Thời gian này, nhân tiện mà nói, là vào khoảng một ngàn năm sau khi người Summerian sáng tạo ra keo dính. Những người có quyền bầu cử chọn lựa vị tổng thống và các nghị sĩ quốc hội của chúng ta – và nhiều người trong số đó đã được đắc cử – tin rằng loài khủng long từng sống từng đôi trên con thuyền c�! �a Noah, tin rằng ánh sáng từ những ngân hà xa xôi đã được tạo nên trên đường đến trái đất, và tin rằng các thành phần đầu tiên của chủng loại chúng ta đã được nặn ra từ đất cát và hơi thở của thần thánh, trong một khu vườn có con rắn biết nói, từ đôi tay của một Thiên chúa không nhìn thấy được.

Giữa các quốc gia phát triển, nước Mỹ đứng lẻ loi một mình trước những cáo buộc này. Chưa bao giờ trong lịch sử của Mỹ mà đất nước chúng ta đã xuất hiện như một anh khổng lồ hay gây gổ, ì ạch và ngu độn như hiện nay. Bất cứ ai, ngay cả người bạn, đồng minh của mình, quan tâm đến sinh mệnh sống còn của nền văn minh, cũng sẽ phải vất vả để nhận ra rằng sự phối hợp của một quyền lực lớn lao với sự xuẩn ngốc vĩ đại thì đơn giản là một điều đáng kinh sợ.

Tuy nhiên, sự thật chính là nhiều người trong chúng ta không hề lo lắng gì đến vận mệnh của nền văn minh. Bốn mươi bốn phần trăm dân số Mỹ tin rằng Jesus sẽ trở lại để phán xét người sống và kẻ chết vào lúc nào đó trong năm mươi năm tới. Theo diễn giải phổ biến nhất từ khải huyền trong kinh thánh, Jesus sẽ chỉ trở lại khi mọi thứ đã trở nên hư hỏng tồi tệ ở thế gian này. Vì thế, chẳng phải là sự phóng đại khi nói rằng nếu thành phố Nữu Ước đột nhiên biến thành một quả cầu lửa, một phần đáng kể dân chúng Mỹ có thể nhìn ra một lằn chớp bạc trong biển khói hình nấm, như họ đã từng được nhắc bảo về điều mong đợi tuyệt vời nhất đang sắp xảy đến: sự trở lại của Chúa. Thật là một sự đui mù hiển nhiên rằng những niềm tin đại loại như thế có thể giúp chúng ta chút ít gì vào việc tạo nên một tương lai vững bền cho chúng ta về xã hội, kinh tế, môi trường hay địa lý chính trị. Thử tưởng tượng hậu quả sẽ ra sao nếu một bộ phận quan trọng trong chính phủ Mỹ thực tin rằng thế giới sắp tận thế và sẽ tận thế trong một sự huy hoàng. Sự thật là gần một nửa dân chúng Mỹ thực sự tin vào điều này, hoàn toàn chỉ từ các căn bản của một chủ thuyết tôn giáo, đáng xem là một tình trạng khẩn cấp cho đạo đức và tri thức. Cuốn sách mà các bạn sắp đọc đây chính là lời giải đáp của tôi cho tình trạng khẩn cấp này. Tôi chân thành mong mỏi quý bạn tìm được sự hữu ích từ đấy.

Sam Harris

Ngày 1 Tháng Năm 2006

Nữu Ước

 

(xem “Lời Bạt cho ấn bản Của Vintage Books”)

LỜI BẠT CHO ẤN BẢN CỦA VINTAGE BOOKS

NHÂN LOẠI đã từng có thời gian dài hoang tưởng với sự hiến máu tế. Thực vậy, không có gì bất thường cả trong việc một đứa trẻ sinh ra trong thế gian này để chỉ được thương yêu và kiên trì dạy dỗ nuôi lớn từ những kẻ cuồng đạo, những kẻ tin rằng cách tốt nhất để giữ mặt trời ở yên trong vòng quay hay để bảo đảm một vụ mùa sung túc là âu yếm dắt đứa trẻ ra đồng hoặc lên núi để giết, chôn vùi hoặc thiêu sống nó như một dâng hiến cho Thiên chúa vô hình. Vô số trẻ em đã bất hạnh sinh ra trong thời kỳ quá đen tối, khi ngu dốt và hoang tưởng không thể tách bạch trong kiến thức và khi tiếng trống của những kẻ cuồng tín tôn giáo thúc lên ăn khớp với mỗi nhịp tim con người. Thực tế, hầu như không nền văn hóa nào đưọc miễn trừ bởi loài quỷ này : người Sumerians, Phoenicans, Ai Cập, Do thái cổ, Canaaties, Maya, Inca, Aztecs, Olmecs, Hy Lạp, Romans, Carthaginians, Teutons, Celts, Druids, Vikings, Gauls, Hindus, Thái Lai, Tàu, Nhật bản, Maoris, Melanesians, Tahitians, Hawaiians, Balinese, Thổ dân Úc, Iroquois, Huron, Cherokee và vô số không đếm xuể những xã hội giết người đồng loại cho những lễ nghi tôn giáo vì họ tin vào những nam nữ thánh vô hình thích ăn thịt người sống, để có thể nguôi giận. Thực tế, nhiều nạn nhân của họ vốn có đồng quan điểm đã tự nguyện để bị giết hại, hoàn toàn bị thuyết phục rằng cái chết của họ có thể thay đổi khí hậu, hoặc cứu sống nhà vua khỏi các bệnh sinh dục, hoặc để xin tha cho đồng loại khỏi các cơn giận của những đấng khuất m�! �t trong một số trường hợp khác.

Trong nhiều xã hội, mỗi khi xây một tòa cao ốc, người ta đã từng nghĩ rằng cách khôn ngoan duy nhất là làm thổ công nguôi giận bằng cách chôn sống trẻ con ngay dưới bệ móng (đây chắc là cách thực hành đức tin ở những thế gian không có kỹ sư về cấu trúc). Nhiều xã hội còn hy sinh các trinh nữ để ngăn ngừa lụt lội. Một số nơi khác lại giết con so và ăn cả thịt chúng nữa, như là một phương cách để bảo đảm người mẹ được mắn đẻ. Ở Ấn độ, trẻ thơ sống nhăn bị cúng hiến cho cá mập ở cửa Grange cũng vì những mục đích này. Người Ấn độ thiêu sống các phụ nữ góa để họ có thể đi theo chồng về thế giới bên kia. Và không để cái gì rơi vào may rủi, người Ấn còn gieo xuống đồng ruộng mình thịt đàn ông tươi sống của một số đẳng cấp được đặc biệt nuôi lớn cho mục đích này và chặt tay chân khi họ vẫn còn sống nhăn, để bảo đảm rằng mọi vụ gặt turmenic sẽ được thắm đỏ đúng mức. Nước Anh đã phải thực sự gây áp lực mạnh nhằm chấm dứt những hung bạo giả đạo đức này.

Trong một số nền văn hóa, mỗi khi có ai đáng kính trọng qua đời, nhiều người đàn ông, đàn bà khác ttụ nguyện được chôn sống theo để phục vụ như những kẻ hầu cận cho đấng quá cố ấy trong thế giới bên kia. Ở Rome thời cổ đại, trẻ con đôi khi bị giết đi để người ta có thể đọc được tương lai trong ruột chúng. Một số người phi thường Fijian đã sáng tạo ra một kiểu lễ ban phước rất quyền lực gọi là "Vakatoga", nghi lễ này cần một nạn nhân tự chứng kiến tứ chi của một mình bị chặt ra cho kẻ khác ăn sống. Trong những giống người Iroquois, các tù binh bị bắt trong chinh chiến thường được cho phép sống trong bộ lạc trong nhiều năm, ngay cả đưọc phép cưói vợ, tất cả đã bị kết tội chết bằng cách lột da sống để làm lễ vật cúng cho thần chiến tranh, các con trẻ mà họ sinh sản cũng bị giết hết theo trong lễ cúng tế. Một số bộ lạc Phi châu có một lịch sử lâu dài về việc giết người để gửi đi như một người đưa tin trong cuộc đối thoại một chiều với tổ tiên của họ hoặc đề cải biến các bộ phận cơ thể của họ thành các loại bùa mê. Các loại giết người để cúng tế như thế này vẫn còn ở nhiều xã hội Phi châu cho đến ngày nay. (1)

Thật rất cần yếu để nhận ra rằng những lạm dụng mạng sống con người một cách ghê gớm đó là rõ ràng từ tôn giáo. Chúng là sản phẩm của điều người ta nghĩ mình hiểu biết về các nam nữ thần vô hình, và cái hiển nhiên không hề hay biết về sinh học, khí tượng học, y học, vật lý học, và hàng tá các khoa học khác. Và đó là sự dạng chân của loại lịch sử hung bạo tôn giáo đáng khinh và loại ngu dốt khoa học mà Ki tô giáo vẫn đang có giá trị như một sự sùng bái vô ý thức và đáng khinh tởm. Ý niệm rằng Jesus Christ đã chết vì tội lỗi của chúng ta và cái chết của người đã thành công trong việc làm nguôi lòng Thiên Chúa "nhân từ" là sự thừa kế trực tiếp không che dấu của những đổ máu mê tín dị đoan nhiễm dịch bệnh vào con người hoang mang dọc suốt lịch sử.

Thiên chúa của Abraham, dĩ nhiên không phải là người xa lạ đối với những sự giết hại để tế lễ. Có khi, Người kết án việc tế thần ( Deuteronomy 12:31; Jeremiah 19:4; Ezekiel 16:20-21), ở những lúc khác, Người lại yêu cầu hoặc ban thưởng việc ấy ( Exodus 22:29-30; Judges 11:29-40; 1 Kings 13:1-2; 2 Kings 3:27; 2 Kings 23:20-25; Numbers 31:40; Deuteronomy 13:13-19). Trong trường hợp Abraham, Thiên chúa đòi ông phải hy sinh đến cả Issac, con trai của mình nhưng Ngài đã dừng tay giết vào phút cuối (Genesis 22:1-18) mà không hề xem hành vi giết hại chính con của kẻ khác là vô đạo đức. Ở những chỗ khác, Thượng đế thú nhận xúi dục sự hy sinh trẻ con để làm ô uế người thực hành (Ezekiel 20:26) trong khi chính tự Người lại hành động như thế trong việc giết hại các con so của người Ai Cập (Exodus 11:5). Nghi thức cắt da quy đầu nảy sinh như một sự thay thế cho việc hiến tế trẻ con (Exodus 4:24-26), và Thiên chúa dường như thường khuyến khích việc thay thế súc vật cho con người. Thực thế, sự khát máu súc vật của Người cũng như sự chú tâm của Người đến các tinh vi của việc giết hại và huỷ diệt chúng thì thật không còn có thể phóng đại vào đâu được nữa.

Khi gặp Jesus lần đầu, Thánh John, nghe đồn đã nói rằng "Ðây là chiên của Thiên chúa, Ðấng sẽ xóa đi tội lỗi của thế gian" (John 1:29). Ðối với hầu hết người Ki-tô giáo, ý kiến kỳ quặc này vẫn còn có giá trị và duy trì như cốt lõi đức tin của họ. Ðạo Ki-tô gần như đồng nghĩa với sự xác định rằng sự đóng đinh của Jesus đại diện cho những giọt máu cuối cùng và đủ để dâng lên Thiên chúa, Người dứt khoát cần phải được như thế ( Hebrews 9:22-28). Ðạo Ki-tô chung qui là lời xác định rằng chúng ta phải yêu thương và được yêu thương bởi một Thiên chúa vốn chấp nhận việc tế chuộc, hành hạ và giết hại một con người-chính là con trai của Thiên chúa – để đền bù cho những cư xử sai lầm, bị xem là tội lỗi của tất cả những người khác.

Hãy để những tin tốt lành được hiển lộ: chúng ta sống trong một vũ trụ, một cõi bao la đến mức chúng ta chắc chắn không thể hình dung, ngay cả sơ sài trong tư tưởng chúng ta, trên một hành tinh tràn ngập các sinh vật mà chúng ta chỉ mới bắt đầu hiểu chúng thế nhưng cả một công trình đã đạt đến thành quả huy hoàng từ hai mươi thế kỷ trước đó, sau khi một sinh vật linh trưởng (của chính chúng ta) leo xuống khỏi những rừng cây, sáng tạo ra nông nghiệp và các dụng cụ bằng kim loại, thoáng thấy (như thể qua lớp kính mờ tối), khả năng giữ cho phân của mình khỏi vương vào thức ăn, rồi lựa ra một con trong số đó để đánh đập tàn bạo xong đóng đinh lên một cây thập tự.

Phép linh Mình Thánh Chúa, một biểu tượng của tục ăn thịt người đã được thêm thắt vào thần thoại khốn khổ chung quanh cái chết của một con người bị hành hạ – khổ hình của Chúa- Xin lỗi bạn, tôi dùng chữ "biểu tưọng ". Vì theo Vatican phép Mình Thánh Chúa dứt khoát không phải là một biểu tượng. Thực thế, phán quyết của công đồng Trent vẫn còn hiệu lực như sau :

Tôi cũng công bố rằng trong Thánh lễ, một sự hy sinh thực sự đúng đắn làm

nguôi giận đã dâng lên Thiên chúa thay cho những người sống và kẻ chết, và

rằng thân xác cùng máu huyết cùng linh hồn và thần thánh của chúa Jesus

chúng ta đã thực sự, đúng như thế chứ không hề tưởng tưọng đã dâng hiến

trong một sự thiêng liêng nhất của phép Mình thánh chúa, và phép ấy mang ý

nghĩa một sự hoán đổi của chất bánh mì thành thân xác, và toàn thể rượu đỏ

thành máu, và sự này nhà thờ công giáo gọi là sự hóa thể. Tôi cũng công bố

rằng tất cả và toàn bộ Chúa Jesus cùng bánh và rượu lễ đã được tiếp

nhận trong từng hình dạng riêng.

Lẽ tất nhiên, Công giáo đã thực hiện một số lý thuyết rất tích cực và rất không thuyết phục về lãnh vực này, trong nỗ lực hợp lý hòa sự việc làm thế nào mà họ có thể thực sự ăn được thịt của Jesus, chứ không phải chỉ là bánh chùm trong chiếc áo ẩn dụ, và thực đã uống máu của ông ấy mà không phải là một giáo phái ăn thịt người. Tuy vậy, cũng đủ để cho rằng, cái thế giới quan của hình dung rõ nét về "sự hy sinh làm nguôi giận thay cho người sống và kẻ chết" đang khó bảo vệ được vào năm 2007. Nhưng điều này vẫn không hề ngăn cản được những bậc trí thức khác và những người có chủ ý trong việc bảo vệ thế giới quan ấy.

Ngày nay, chúng ta được biết rằng ngay cả mẹ Theresa, nhân vật tiểu biểu nổi tiếng nhất của chủ nghĩa giáo điều này trong suốt thế kỷ, đã không ngừng hoài nghi về sự hiện diện của Chúa, của thiên đàng và ngay cả sự hiện hữu của thượng đế như trong phép Mình thánh Chúa :

Lạy chúa, con là ai mà Người nên tha thứ cho? Đấng con của người – mà giờ

đây đang trở nên kẻ bị ghét bỏ nhất – duy nhất – Người đã ném bỏ đi như kẻ

không cần đến nữa, không yêu thương nữa – Con gọi, con bám víu, con cầu

cạnh – nhưng không có Ai đáp lời – Không một Ai trong những Người con

con bám víu – không, Không đấng nào. Cô độc … đức tin của con ở đâu rồi

– ngay cả nơi sâu thẳm dưới kia cũng không có gì ngoài bóng tối và rỗng

không – Chúa ơi – thật đau đớn làm sao cho nỗi đau chưa từng biết đến này –

con không còn Đức tin – con không dám thốt ra những lời nói và ý tưỏng

đang tràn ngập lòng mình – và khiến con đau đớn một nỗi đau không hề được

chỉ dạy.

Biết bao nhiêu tra vấn không được giải đáp sống bên trong e rằng sẽ phải bày

tỏ ra ngoài – bởi vì sự báng bổ – Nếu như có Thượng đế – xin hãy tha thứ cho

con – Khi con muốn dâng ý nghĩ của mình đến Thiên đàng – chỉ có sự trống

không như kết án dội lại như dao nhọn làm đau đớn chính linh hồn con. – Con

được dạy rằng Thiên chúa thương yêu mình – nhưng sao thực tại lạnh lẽo

trống không quá lớn đến nỗi không còn gì chạm đến linh hồn con được. Có

phải con đã nhầm lẫn khi mù lòa quy phục vào lời gọi của đấng thiêng liêng

hay không?

(Xưng tội lên chúa Jesus theo đề nghị của một cha giải tội-

không ghi ngày tháng)

Những thư từ của Mẹ Theresa được xuất bản gần đây đã tiết lộ một tâm hồn bị xé nát bởi hoài nghi (như vốn phải là như thế). Những lá thư cũng lộ ra một người phụ nữ chắc chắn đã khổ đau từ những chán nản cùng cực, mặc dù giới phê bình thế tục đã bắt đầu lịch sự che đậy sự thực này trong màu sắc thánh thần và tử đạo. Câu trả lời của Mẹ Theresa cho nỗi hoang mang và giả đạo đức (ý của bà) của chính mình đã hé lộ ra đức tin tôn giáo giống như một vùng cát lầy lún như thế nào. Những hoài nghi của bà về hiện hữu của Thiên chúa được diễn dịch từ người bà xưng tội như dấu hiệu rằng bà đang chia xẻ nỗi giằng xé của Chúa trên thập giá; sự tán dương này về dao động đức tin của bà đã cho phép bà "được yêu bóng tối" mà bà chứng nghiệm về sự vắng mặt hiển nhiên của Thiên chúa. Đó là một thiên tài không thể giả mạo được. Chúng ta có thể nhìn thấy nguyên tắc tương tự trong hàng ngũ những người Công giáo như bà. Các hoài nghi của mẹ Theresa đã chỉ làm tăng thêm tầm vóc của bà dưới mắt Giáo Hội, được diễn giải như một khẳng định hơn nữa về ơn huệ của Thiên chúa. Hãy tự hỏi chính bạn, khi ngay cả những hoài nghi của các bậc chuyên gia được mang ra để xác định một chủ thuyết, thì còn có thể phủ định cái gì được nữa ?

Đã hơn một năm trôi qua kể từ khi Thư gửi một quốc gia Ki tô giáo được xuất bản, cuốn sách vẫn còn gây ra những nóng giận. Nhiều lời chỉ trích nhằm vào cuốn sách này đã được gom cùng với các công kích về cuốn đầu tiên của tôi, Tận Cùng của Ðức Tin, và vào những người vô thần khác có các tác phẩm bán chạy, đặc biệt là cuốn Breaking the Spell của Dan Dennett, cuốn The God Delusion của Richard Dawkins và cuốn God is not Great của Christopher Hitchens. Thực tế, tôi, Dennett, Dawkins và Hitchens đã thường xuyên bị tấn công như thể chúng tôi là một người có bốn đầu. Những lời kết án và tranh luận chống lại chúng tôi luôn luôn giống nhau và luôn luôn sai trật. Thật thế, cái ngạc nhiên nhất của sự tranh luận về đức tin là sự ít ngạc nhiên của nó.

Vấn đề với tôn giáo ôn hòa

Bất cứ khi nào những người không tin đạo giáo như cá nhân tôi phê bình người Ki-tô giáo về việc tin vào sự sắp trở lại của Chúa, hay người Hồi giáo về việc tin vào sự tử vì đạo, thì những người ôn hòa công bố rằng chúng tôi xuyên tạc Ki-tô giáo và Hồi giáo, mang những "người cực đoan" ra để đại diện cho những tôn giáo "vĩ đại" này, hoặc không nhìn được cả một đại dương lung linh sắc màu. Chúng tôi luôn luôn được bảo rằng sự hiểu biết chín chắn về đức tin từ thánh kinh tuyệt đối phù hợp với lẽ phải, do đó, sự công kích tôn giáo của chúng tôi là sự "đơn giản hóa", " giáo điều" và, ngay cả " Chính thống".

Nhưng quả có một số vấn đề với lối bảo vệ tôn giáo như thế. Trước tiên, nhiều người ôn hòa (ngay cả một số người theo chủ nghĩa thế tục) cho rằng "chủ nghĩa cực đoan" tôn giáo thì hiếm có, do đó, không phải tất cả đều là hậu quả từ đấy ra. Nhưng thực tế, chủ nghĩa cực đoan tôn giáo không hiếm, do vậy, hậu quả của nó thực sự rất nặng nề. Hiện nay Hoa kỳ là nhà ở của 300 triệu con người, có ảnh hưởng nhiều hơn đến công chúng trong lịch sử nhân loại, trong số này, 240 triệu người tin rằng Jesus sẽ trở lại thế gian, sẽ thu xếp việc chấm dứt thế gian này bằng quyền hạn thần thông của Người. Nỗi khao khát được tha tội, một cách thiêng liêng, đạo giáo đã trở nên quá khích trong mọi ý nghĩa của nó – đó là sự tận cùng của hiểm nguy , ngớ ngẩn và đáng phỉ báng – chứ không phài sự tận cùng trong ý nghĩa nào của sự ít ỏi, hiếm hoi. Tất nhiên những người ôn hòa có thể cũng băn khoăn, nghi hoặc như những người tin tôn giáo đang băn khoăn, nghi hoặc. Thực tế, nhiều người vô thần đã tin tưởng rằng các thăm dò ý kiến của chúng tôi không chính xác vì nhiều người thực sự cho rằng chuyện tâm linh của họ là việc riêng tư không cần phải bày tỏ với ai. Nhưng thực không còn nghi ngờ gì rằng hầu hết người Mỹ khẳng định một cách chắc chắn niềm tin vào những điều lố bịch ngớ ngẩn, và những khẳng định này tự chúng đã thực sự tổn thương đến tiến trình chính trị, chính sách công chúng và uy tín của chúng ta trên thế giói.

Những người ôn hòa tôn giáo còn có khuynh hướng tưởng tượng ra rằng thực có một đường kẻ rõ ràng phân ranh giữa tôn giáo cực đoan và ôn hòa. Những thật là không hề có một đường phân ranh như thế. Văn bản kinh thánh tự nó vẫn còn là cỗ máy bất diệt của chủ nghĩa cực đoan: Bởi vì, mặc dù Thiên chúa có thể là nhiều thứ khác nhưng Thiên chúa trong Kinh Thánh và kinh Koran không thể là môt đấng ôn hòa. Đọc kỹ kinh bản, người ta sẽ không thấy các lý lẽ để trở nên một tôn giáo ôn hòa. Người ta sẽ tìm thấy đủ lý lẽ để trở nên một người điên cuồng tôn giáo đích thực – những người sợ lửa thiêu của địa ngục, phỉ báng những ai không có đạo, kết án những kẻ đồng tính luyến ái v.v… Lẽ tất nhiên, người ta có thể lọc lựa từ kinh bản để tìm được những lý lẽ cho việc yêu thương kẻ láng giềng và chìa má bên kia ra. Nhưng càng đặt lòng tin vào kinh sách chừng nào, người ta càng tin rằng những kẻ dị giáo, phản đạo, chống đạo đáng bị nghiền nát ra thành phân tử trong cỗ máy công lý yêu thương của Thiên chúa.

Những người theo tôn giáo ôn hòa luôn khẳng định rằng họ "thông thái" hơn người chính thống (và người vô thần). Nhưng làm sao một người có thể là người theo đạo một cách thông thái khi chỉ cần nhìn vào những mập mờ đáng nghi hoặc trong kinh sách để từ đó mà đọc cho kỹ càng hơn, sơ lược hoá những đoạn cần phải sơ lược hoá, để cho những xác quyết về thực tại của kinh sách bị xáo trộn liên tục bởi những hiểu biết mới lạ – một cách khoa học ("Bạn muốn nói rằng trái đất này không phải 6000 năm tuổi? Được thôi"), một cách y học (" Tôi nên mang con gái mình đến một bác sĩ thần kinh chứ không mang đến một kẻ bị quỷ ám ? Có vẻ hợp lý…"), và một cách đạo đức ("Hừm, tôi không đánh đập nô lệ của mình, ngay cả không được giữ nô lệ nữa hay sao ?). Có một loại khuôn mẫu không thể chối từ được ở đây. Ôn hòa tôn giáo là kết quả trực tiếp của sự việc đọc hiểu kinh bản không đủ và không nghiêm chỉnh. Vậy tại sao vẫn cứ đọc không đủ nghiêm chỉnh ? Tại sao không thú nhận rằng cuốn Thánh kinh chỉ là một sưu tập của nhiều cuốn sách không hoàn hảo viết nên bởi những con người đầy sai sót ?

Một vấn nạn khác nữa với sự ôn hòa trong tôn giáo là nó đại biểu chính xác cho cách suy luận rằng nó sẽ ngăn ngừa được cái tinh thần hợp lý không giáo phái khỏi nổi dậy trong thế giới của chúng ta. Bất chấp sự thực của chúng tôi là gì, tinh thần hay luân lý, cần phải được khám phá ngay bay giờ. Bởi hậu quả là, sẽ chẳng tạo nên một ý nghĩa gì khi cứ có một đời sống tinh thần của ai đó đóng cọc vào những phép lạ của thời cổ đại. Cái chúng ta cần là sự tranh luận về các chứng nghiệm luân lý và tinh thần vốn không bị cưỡng ép bởi sự ngu xuẩn cổ đại như các tranh luận khoa học đã từng có. Khoa học thực đã vượt quá được tính đỏng đảnh của văn hóa" Không hề có những thứ đại loại như khoa học "của Nhật" khác với khoa học "của Pháp"; chúng ta không nói về "sinh học Ấn độ" hay "Hóa học Do Thái". Hãy tưởng tượng một thế giới mà chúng ta có thể có một cuộc bàn luận thực sự chân thật và cởi mở về nơi chốn của chúng ta trong vũ trụ, về khả năng làm phong phú kiến thức tự hiểu của chúng ta, các thông thái luận lý và lòng bác ái. Những người ôn hòa tôn giáo, bằng cách cứ sống như thể các thước đo của mê tín đạo giáo vẫn còn quan yếu đến hạnh phúc của nhân loại, thì chính họ thực đang cản ngăn một cuộc đối thoại như thế khiến không thể hình thành được.

Tính lương thiện trí thức

Tôn giáo từng mang đến lời giải đáp cho nhiều câu hỏi mà ngày nay đã phải nhường lại cho khoa học. Tiến trình lấn chiếm và tước đoạt tôn giáo của khoa học là một tiến trình không thương xót, một tiến trình có định hướng và hoàn toàn có thể tiên liệu được. Khi đi vào thực tiễn, kiến thức chân chính vừa có giá trị vừa có thể tái kiểm nghiệm thông qua các nền văn hóa, và là phương thuốc duy nhất chữa trị được mối bất hoà tôn giáo. Chẳng hạn như Hồi giáo, Ki-tô giáo không thể bất đồng với nhau về nguyên nhân gây bệnh dịch tả, bởi vì bất kể truyền thống của họ nói gì về căn bệnh di truyền này, thì một hiểu biết chân chính về bệnh dịch tả đã đến từ nguồn thông tin khác. Khoa dịch tễ học (rốt cuộc) đã tráo đổi được mê tín tôn giáo, nhất là khi con người phải chứng kiến con cái mình chết vì tật bệnh. Ðấy chính là nơi mang chứa niềm hy vọng của chúng ta cho một tương lai thực sự không thuộc về giáo phái: khi sự việc gây ra tác động, người ta có khuynh hướng muốn hiểu được điều gì thực sự xảy ra trên thế giới. Khoa học cung ứng sự hiểu biết này trong một dòng chảy xiết mạnh, khoa học cũng cung ứng sự giám định chân thực trong giới hạn hiện thời của nó. Tôn giáo thất bại với cả hai mong đợi như vậy.

Hy vọng hòa giải được đức tin của mình với các hiểu biết đang tăng trưởng của khoa học về thế giới, nhiều người tin đạo giáo tìm được chỗ nương náu trong công thức phản bội của Stephen J. Gould về "thẩm quyền không chồng tréo" – Cái ý tưởng cho rằng khoa học và tôn giáo, khi được phân tích, hiểu đúng đắn, không thể đối nghịch được, bởi vì cả hai đại diện cho sự tinh thông của hai phạm trù khác nhau. Chúng ta hãy thử xem điều này tác động ra sao: Trong lúc khoa học là một thẩm quyền cao nhất về các công trình của thế giới vật chất, thì tôn giáo là thẩm quyền cao nhất về …chính xác về cái gì ? Về thế giới không vật chất? Chắc là không thể. Thế còn về ý nghĩa, giá trị, luân lý và đời sống tốt lành ? Thật không may là, hầu hết mọi người – ngay cả các khoa học gia và những người thế tục – đã nhường những bộ phận quan trọng này của hạnh phúc con người cho sự chăm sóc của các nhà thần học và các nhà biện giải tôn giáo mà không hề tranh cãi gì. Chính điều này đã giữ cho tôn giáo một vị trí tốt ngay cả quyền lực của tôn giáo đã bị tấn công, bị vô hiệu trên mọi mặt.

Nhưng cái khả năng đặc biệt nào khiến một linh mục, một thầy tế Hồi giáo, một giáo sĩ Do Thái có thể đánh giá cái ngụ ý luân lý của việc nghiên cứu tế bào phôi, kế hoạch hóa gia đình, hoặc các ngăn ngừa chiến tranh? Sự thật ở chỗ là cái kiến thức về các truyền thồng kinh sách của một con người thì chẳng còn liên quan gì với luân lý cũng như chiêm tinh học. Ðại biểu của các tôn giáo trên thế giới có thể nói với chúng ta về các giáo đoàn của họ tin vào điều gì trên một lãnh vực rộng rãi các chủ đề khác nhau (và thường là tin dựa trên những chứng cứ tồi), họ có thể nói cho chúng ta biết các kinh sách của họ đã dạy gì mà người ta nên tin theo để thoát khỏi lửa hỏa ngục; nhưng điều họ không thể làm-hoặc không thể làm tốt hơn những người xẻ thịt, người làm bánh, người làm đèn cầy là mang lại được một cứ điểm cho thấy tại sao những địa vị chính thống này là hợp đạo đức. Có đạo đức không khi giết một người muốn đổi đạo của mình? Tôi sẽ đánh đổi mạng sống của mình cho câu trả lời "Không". Nhưng, theo một cuộc thăm dò gần đây, 36 phần trăm người Hồi giáo Anh (tuổi từ 16-24) không đồng ý với tôi. Như sự thăm dò chỉ ra, các tín đồ Hồi giáo Anh này thuộc một lập trường cứng nhắc của thần học: vì trong khi kinh Koran không rõ ràng đòi hỏi việc giết bỏ những người bội giáo, chính tài liệu thiêng liêng của hadith đã lập đi lập lạ! i, không lập lờ một đòi hỏi như thế. Chỉ dụ này có hợp đạo đức không? Có thích hợp với một xã hội thường dân hay không? Có phải sự tín nhiệm vào một quyền lực đã mang lại sự man rợ này qua nhiều thế hệ ngay cả nó rất ít liên quan đến khoa học?

Lẽ tất nhiên, thật cũng đúng, một cách bình thường, không đáng kể, rằng tôn giáo và khoa học có tương thích với nhau bởi vì một số nhà khoa học là (hoặc đưọc kể là) những người có đạo. Nhưng nói như thế chẳng khác gì bảo rằng khoa học và dốt nát là có liên quan bởi vì nhiều nhà khoa học đã thoải mái thú nhận sự ngu dốt rộng rãi của mình trong rất nhiều chủ đề. Ðể làm rõ ràng những vấn đề này, rất hữu ích nếu chúng ta tự nhắc mình rằng cả tôn giáo và khoa học đều cấu thành bởi niềm tin và sự minh chứng hoặc thiếu minh chứng của các niềm tin ấy. Có sự đối chọi nào giữa một niềm tin được minh chứng và một niềm tin không được minh chứng không ? Dĩ nhiên đó là con số không. Cho rằng đức tin ấy nói chung chỉ là một sự cho phép mà người có đạo này ban cho người có đạo khác để mà mạnh tin vào điều gì vốn không có chứng cứ, thì sự mâu thuẫn giữa tôn giáo và khoa học thật không thể tránh khỏi.

Tôn giáo và khoa học cũng mâu thuẫn bởi vì không có cách gì gỡ rối đưọc những sự thật được khẳng định bởi tôn giáo và khoa học: niềm tin rằng Jesus được sinh ra từ sự đồng trinh có thể là một trọng điểm của Ki-tô giáo, nhưng đấy cũng là một một khẳng định rõ ràng về sinh học; niềm tin rằng Jesus sẽ trở lại thế gian bằng xương bằng thịt trong một tương lai đưa đến nhiều khẳng định khác nhau về lịch sử, con người sống lại từ sự chết, và, hiển nhiên là, một cỗ máy của con người bay lên mà không có sự trợ giúp của khoa học kỹ thuật. Ðã đến lúc tất cả những người có lý trí nhận ra rằng ở đâu có dính dáng đến các khẳng định về bản chất của thực tại, thì ở đấy chỉ có một huấn quyền bất di bất dịch.

Cuộc Ðánh Cược rỗng tuếch

Vấn đề quan yếu của tôn giáo là ở chỗ tôn giáo đã xây dựng trên sự dối trá ở một mức độ đáng chú ý. Tôi không chỉ nhắc đến hai mươi megaton trưng bày về đạo đức giả, khi các nhà rao giảng Phúc âm bị bắt gặp xử dụng thuốc ảo giác hoặc các điếm nam. Hơn thế, tôi muốn nhắc đến sự thất bại ở mọi nơi chốn hàng ngày của những người sùng đạo nhất đã thú nhận là những khẳng định an toàn nhất của họ về đức tin đã trở nên đáng nghi một cách sâu sắc. Bà mẹ khẳng định rằng ông bà đã đi thẳng lên thiên đàng sau khi chết. Nhưng bà mẹ ấy không thực sự biết là như thế. Sự thực là, bà mẹ đã nói dối – hoặc với chính mình hoặc với con cái mình- và hầu hết chúng ta đều xem hành vi này thật là bình thường. Thay vì dạy con cái chúng ta đau buồn rồi nên vui mặc dù với thực tại của cái chết, chúng ta đã nuôi dưỡng con cái chúng ta bằng sự tự lừa dối.

Cái việc Jesus thực đã sinh ra từ một trinh nữ, đã sống lại sau khi chết, để sẽ trở lại thế gian này bằng chính thân xác mình vào một ngày nào đó trong tương lai thực sự là như thế nào ? Tin vào các móc xích của phép lạ như thế trên căn bản của các khẳng định từ sách Phúc âm, là chuyện có lý hay không? Những học thuyết này nhận đưọc bao nhiêu ủng hộ từ chứng nghiệm của những người Ki-tô giáo trung bình trong nhà thờ? Các câu trả lời chân thật cho những câu hỏi này chắc sẽ nổi lên một cơn sóng thần của sự hoài nghi. Tôi không biết chắc rằng cái gì sẽ là "Ki-tô giáo" đối với bất kỳ người Ki-tô giáo nào còn trụ lại.

Nhiều độc giả của Thư gửi một Quốc gia Ki-tô giáo đã cảm hứng từ Blaise Pascal và đã tranh cãi rằng chứng cứ chính ở ngay bên cạnh vấn đề và rằng những người theo đạo đơn giản đã khôn ngoan hơn trong việc chọn phần chắc ăn: nếu người theo đạo sai lầm về Thiên Chúa, sẽ chẳng có tổn thất gì nhiều cho y hay ai khác, nhưng nếu như đúng, y sẽ thắng được một hạnh phúc đời đời; tuy nhiên, nếu người vô thần sai, hắn sẽ được dành cho cuộc đời vĩnh viễn trong địa ngục. Căn cứ vào quan niệm này, vô thần là hình ảnh của sự ngu xuẩn liều lĩnh.

Dù Pascal xứng đáng với danh tiếng của ông là một nhà toán học xuất sắc, sự đánh cuộc của ông chẳng có gì khác hơn là một phép loại suy đáng yêu (và sai lầm) mà thôi. Như nhiều ý tưởng duyên dáng khác trong triết học, dễ nhớ và thường được lập lại, ý tưởng này đã vay mượn cho mình một diện mạo không xứng đáng của sự sâu sắc. Một suy nghĩ thoáng qua hé lộ rằng, nếu cuộc đánh cược đó có giá trị, nó sẽ thẩm định được bất kỳ hệ thống niềm tin nào, bất kể nó phản nghịch và lố lăng như thế nào đối với Ki-tô giáo, Một vấn nạn khác của sự đánh cược này- và chính là vấn nạn đã nhiễm bệnh vào các suy nghĩ đạo giáo nói chung- là nó cho rằng một người có lý trí có thể tự cho phép mình tin vào một xác nhận mà kẻ ấy không hề có một chứng cứ nào. Một người có thể bày tỏ bất kỳ tín ngưỡng nào mình thích, dĩ nhiên, nhưng để thực sự tin tín ngưỡng ấy, người đó phải tin rằng tín ngưỡng ấy đúng. Chẳng hạn như, để tin rằng có một Thượng đế, nghĩa là tin rằng mình không đang tự lừa phỉnh mình; nghĩa là tin rằng mình đang đứng trên một số liên hệ với sự hiện hữu của Thượng đế như thế, nếu như Người không hiện hữu, mình không thể tin vào Người. Cái đánh cược của Pascal lọt vừa vào trong hệ thống này như thế nào? Nó thật không thể lọt vừa được.

Các nguyên nhân để nghi ngờ hiện hữu của Thiên Chúa được đặt trong một bối cảnh dễ hiểu để mọi người cùng nhìn vào: mọi người đều thấy rằng cuốn Thánh kinh không phải là những ngôn từ hoàn chỉnh của một đấng toàn trí; mọi người đều thấy rằng không hề có bằng chứng gì về một Thiên Chúa từng đáp lại lời cầu xin của chúng ta, rằng bất kỳ Thiên Chúa nào từng ban phát các giải vô địch túc cầu cho những người cầu xin, để chỉ nhỏ từng giọt ra cho chứng ung thư hoặc tai nạn xe cộ đến những trẻ em nam nữ, thì Thiên Chúa ấy không xứng đáng với sự dâng hiến của chúng ta. Mọi người có mắt để nhìn có thể nhìn thấy rằng nếu Thiên chúa của Abraham hiện hữu, Người là một kẻ bệnh thần kinh nặng và Thượng đế của thiên nhiên cũng thế. Nếu bạn không thể nhìn thấy những việc này chỉ bằng cách quan sát mà thôi, thì đơn giản bạn là người đang nhắm nghiền mắt đối vói các thực tiễn của thế giới chúng ta.

Tôi không hề nghi ngờ gì về việc nhiều người Ki-tô giáo tìm được niềm an ủi lớn lao từ đức tin của mình. Nhưng đức tin không phải là cội nguồn tốt nhất cho an ủi. Ðức tin giống như một tên móc túi cho người ta vay món nợ bằng chính đồng tiền của người ấy với các điều kiện rộng rãi. Lòng biết ơn của nạn nhân thì hoàn toàn có thể hiểu được nhưng dứt khoát là không đúng chỗ. Chúng ta là cội nguồn của tình yêu thương mà các linh mục, mục sư quy là do bởi Thiên chúa (chúng ta có cảm thấy cách nào khác không?) Ý thức của chúng ta là căn nguyên, là cốt lõi của bất kỳ chứng nghiệm nào bạn có thể muốn cho là "linh hồn" hay "thần bí". Nhận thức được như vậy, nhu cầu khả thi nào ở đấy để phải giả vờ như mình thực biết chắc về những phép màu cổ đại ?

Tháng 9 2007-Nữu Ước

MƯỜI TÁC PHẨM NÊN ÐỌC (THEO SAM HARRIS):

1. The God Dellusion của Richard Dawkins.

2. Breaking the Spell của Daniel C. Dennett.

3. Misquoting Jesus của Bart D. Ehrman.

4. Kingdom Coming của Michelle Goldberg.

5. The End of Days của Gershom Gorenberg.

6. Freethinkers của Susan Jacoby.

7. Extraodinary Popular Delusion and the Madness of Crowds của Charles Mackay.

8. Why I am not a Christian của Bertrand Russell.

9. God, the Devil, and Darwin của Niall Shanks.

10. Atheism: The Case Against God của George H. Smith.

 

(xem “Thư cho một quốc gia Ki-tô giáo”)

Chân đạo đức

(tiếp theo Lời Bạt)

Bạn tin Thánh kinh là lời của Thượng đế, Jesus là con trai của Thượng Ðế và bạn tin rằng chỉ những ai tin vào Jesus mới tìm được sự cứu rỗi sau khi chết đi. Là một người Ki-tô giáo, bạn tin vào những tiền đề này không phải chỉ vì chúng làm cho bạn cảm thấy tốt lành mà chính là vì bạn nghĩ rằng những tiền đề này đúng. Trước khi tôi vạch ra những vấn nạn của các loại niềm tin này, tôi xin được minh xác rằng có nhiều luận điểm mà tôi và quý bạn đồng ý. Thí dụ như, chúng mình đồng ý rằng nếu như một trong hai chúng ta đúng, người kia ắt phải là sai. Cuốn Thánh kinh hoặc chính là lời của Thượng đế hoặc không phải. Jesus là đấng mang đến cho con người một con đường giải thoát duy nhất đúng (John 14:6) hoặc ông không phải là một đấng như thế. Chúng ta đồng ý rằng để thành một người Ki-tô giáo chân chính là phải tin tưởng một cách sâu sắc rằng tất cả các niềm tin khác là sai lầm. Nếu Ki-tô giáo là đúng và tôi vẫn duy trì niềm tin riêng của tôi, thì tôi sẽ phải bị đọa vào địa ngục khổ hình. Ghê gớm hơn, nếu tôi khuyến dụ người khác, và nhiều người quanh tôi, chối từ ý tưởng thuần túy của Thượng đế, thì cả họ (những người nghe theo tôi) sẽ sa vào "hỏa ngục đời đời" (Matthew 25:41). Nếu cái học thuyết căn bản của Ki-tô là đúng, thì chính tôi đã làm hỏng đời mình trong một phương cách thê thảm nhất có thể tưởng tượng ra được. Tôi phải nhận lấy sự tệ hại này mà không hề được cảnh báo trước. Chính sự chối bỏ Ki-tô giáo c�! �ng khai, liên tục mà không gây cho mình một mảy may lo lắng nhỏ nào của tôi đã giúp bạn hiểu được tôi đã coi những lý do khiến bạn trở nên một người Kitô giáo là không chính đáng đến mức nào.

Dĩ nhiên, cũng có những người Ki-tô giáo không đồng ý với cả hai chúng ta. Có những người Ki-tô giáo nhìn nhận rằng những niềm tin khác cũng có các giá trị ngang nhau trong các phương cách cứu rỗi con người. Có những người Ki-tô giáo không tin vào địa ngục và sự sống lại của Jesus. Những người Ki-tô giáo này thường tự nhận mình như là những người "Tự do tôn giáo" hay "Ôn hòa Tôn giáo". Từ các góc nhìn của họ, cả hai chúng ta đều hiểu sai về những ý nghĩa tạo nên một con người của đức tin. Chúng ta được đảm bảo rằng, giữa những người vô thần và những người tôn giáo chính thống có một khu vực bao la, đẹp đẽ mà những nhà tư tưởng thuộc Ki-tô giáo đã lặng lẽ thám hiểm qua nhiều thế hệ. Ðức tin, theo những người tự do và những người ôn hòa, là tình yêu thương, điều thần bí, có ý nghĩa và cùng chia xẻ. Quần chúng tạo nên tôn giáo từ gấm vóc của đời sống chứ không phải chỉ từ những đức tin thô thiển.

Tôi đã từng viết ở một nơi khác về những vấn đề tôi nhìn ra từ những người tôn giáo tự do và những người tôn giáo ôn hòa. Ở đây, chúng ta chỉ cần quan sát vấn đề đặt ra đơn giản và cấp bách hơn là những điều mà những người tự do, ôn hoà tưởng. Thánh kinh, chỉ là cuốn sách bình thường đã được viết nên bởi những người quá vãng, hoặc không phải là như thế. Thiên chúa là đấng thiêng liêng, hoặc là ngược lại. Nếu Thánh kinh là một cuốn sách thông thường và Thiên chúa là một con người thông thường thì lịch sử thần học của Ki-tô giáo chỉ là câu chuyện của những nhà mọt sách cùng phân tích một ảo tưởng chung. Nếu những tín điều cơ bản của Ki-tô giáo là đúng, ắt phải có những ngạc nhiên không lay chuyển được từ những người như chính tôi. Quý bạn hiểu được như thế. Tối thiểu có hơn một nửa dân chúng châu Mỹ hiểu được như thế. Do đó, chúng ta hãy tự chân thật với chính mình rằng: đến một lúc chín mùi, sẽ có một phe thật sự thắng cuộc tranh luận này và phía bên kia thật sự phải thua.

NGHĨ XEM: Mỗi người Hồi Giáo sùng tín đều có chung những lý lẽ như nhau về việc họ là nguời Hồi Giáo, tương tự như những lý do chung mà quý bạn có về lý do vì sao bạn là người Ki-tô giáo. Tuy rằng bạn không nhìn thấy sự thuyết phục của những lý lẽ khác với mình. Kinh Koran lập đi lập lại rằng chính đấy mới là những lời toàn thiện nhất của đấng tạo nên vũ trụ. Người Hồi Giáo tin tưởng mạnh mẽ vào điều này như bạn tin tưởng vào chính giá trị của Thánh kinh vậy. Có rất nhiều áng văn chương đã mô tả cuộc đời của Muhammad, theo quan niệm của Hồi Giáo, chứng minh rằng ông ta mới là tiên tri của Thượng đế. Muhammad cũng đã đảm bảo với những người tin theo mình rằng Jesus không phải là bậc thánh thần (Koran 5:71-75;19:30-38), và kẻ nào không tin vào điều ấy sẽ phải đọa vào địa ngục mãi mãi. Người Hồi Giáo tin rằng ý kiến của Muhammad về sự việc này và các sự việc khác là không thể sai lầm.

Tại sao quý bạn lại không thể mất ngủ để băn khoăn về việc cải đạo qua Hồi Giáo? Bạn có thể chứng minh Allah không phải là đấng Thượng đế thực hay không? Bạn có thể chứng minh được việc không hề có chuyện thiên sứ Gabriel đến thăm Muhammad trong hầm của ông ấy không? Dĩ nhiên là không. Vả lại, bạn cũng không cần phải chứng minh những điều như thế để chối từ niềm tin của người Hồi Giáo như những điều tầm phào. Trách nhiệm là của chính những người theo Hồi Giáo phải minh chứng cho giá trị niềm tin của họ vào Thượng đế và Muhammad. Nhưng người Hồi Giáo đã không hề chứng minh gì. Họ không thể làm được. Ðơn giản là những người Hồi Giáo đã không viện dẫn được gì từ thực tại vốn không thể minh chứng được gì cho họ. Ðiều này là một sự rõ ràng hiển nhiên cho những ai đã không để mình bị mê hoặc bởi những tín điều của Hồi Giáo.

Sự thật là, bạn rất hiểu tại sao phải trở nên một người vô thần trước các niềm tin của người Hồi Giáo. Thế chẳng hóa ra người Hồi Giáo khờ khạo cả hay sao? Thế chẳng hoá ra những ai tin rằng cuốn Koran là lời thực của đấng sáng tạo nên vạn vật là những người đã không đọc cuốn Koran đàng hoàng? Thế chẳng hoá ra học thuyết của Hồi giáo chính là một trỏ ngại cho sự truy tìm chân lý ? Ðúng, những điều này thật là hiển nhiên. Quý bạn nên hiểu rằng phương cách mà quý bạn nhìn về Hồi giáo cũng chính xác là cách người sùng tín Hồi giáo nhìn về Ki-tô giáo. Và đó cũng là phương cách mà tôi nhìn về các tôn giáo khác.

Sự thâm thúy của Thánh kinh

Bạn tin Thánh kinh là một cội nguồn vô địch cho các điều tốt lành của nhân loại. Bạn tin rằng Jesus đã giảng dạy về các phẩm hạnh yêu thương, bác ái và vị tha hay hơn tất cả những bậc thầy hằng sống trên thế gian. Bạn tin rằng cuốn Thánh kinh là một cuốn sách sâu sắc nhất từng có, và nội dung của cuốn sách này đã được thử thách bởi thời gian rằng nó chắc chắn đã được sáng tạo một cách thiêng liêng. Tất cả những niềm tin này là sai lầm.

Vấn đề của đạo đức là các vấn đề về hạnh phúc và khổ đau. Ðó là lý do vì sao mà tôi và bạn không hề có trách nhiệm đạo đức đối với loài sỏi đá. Vấn đề đạo đức được đặt ra tùy thuộc vào mức độ mà các hành vi của chúng ta ảnh hưởng tốt hay xấu đến các sinh loài khác. Ý niệm rằng Thánh kinh là một cẩm nang tốt nhất cho đạo đức thật đáng kinh ngạc, nếu căn cứ vào nội dung của cuốn sách này. Phải công nhận rằng những lời khuyên của Thượng đế cho các bậc phụ huynh rất là thẳng thắn : Khi nào trẻ đi ra ngoài khuôn phép, cần phải đánh bằng roi. (Proverbs 13:24, 20:30 và 23:13-14). Nếu chúng dám cãi lại, ta cần giết bỏ chúng đi (Lecviticus 20:9, Deuteronomy 21:18-21, Mark 7:9-13 và Matthew 15:4-7). Chúng ta cũng cần phải ném đá cho chết những ai phạm tội theo dị giáo, ngoại tình, đồng tính luyến ái, làm việc vào ngày Sabbath, thờ phượng những ảnh tượng, hành nghề phù thủy và một loạt các tội ác tưởng tượng khác. Dưới đây chỉ là một thí dụ về sự thông thái muôn đời của Thiên chúa:

Nếu anh em của ngươi, con trai của mẹ ngươi, hay con trai, con gái của ngươi, người vợ ôm ấp của ngươi, bạn thân như chính bản thân mình của ngươi, bí mật lén lút cám dỗ ngươi mà nói rằng " Chúng ta hãy đi phụng thờ các thần chúa khác",… ngươi không được ưng thuận, nghe lời hay nhường bước chúng nó, không được thương hại chúng, không được tha thứ chúng, không được dấu giếm bao che chúng mà phải giết chúng đi. Tay ngươi phải là bàn tay đầu tiên trước tất cả mọi người khác để giết chúng chết đi. Nó phải chết bởi vì đã tìm cách lôi kéo ngươi xa khỏi đất Ai cập, rời khỏi cảnh nô lệ… Nếu ngươi nghe thấy, nơi một trong những thành mà Thiên chúa đã ban cho ngươi để ở, rằng có những kẻ phát xuất từ các ngươi và lôi kéo dân cư mà bảo rằng "Mình hãy đi thờ phụng những thần chúa khác" những thần, chúa mà ngươi không được biết thì các ngươi phải điều tra, xem xét, tra hỏi kỹ lưỡng để chắc rằng đã có điều đáng ghê tởm như thế từng được thực hiện giữa các người, thì chắc chắn rằng ngươi phải đặt những cư dân ấy dưới lưỡi gươm, hủy diệt đến tận cùng, tất cả mọi người trong thành cùng nhà cửa dinh thự.

DEUTERONOMY 13:6,8-15

Nhiều người Ki-tô giáo tin rằng Jesus đã bị giết chết với tất cả sự dã man như thế này trong sự tàn bạo nhất có thể tưởng tượng được để mang lại một học thuyết về tình yêu thưong thuần khiết và thứ tha. Không, Jesus đã không làm như thế. Mà thực sự là, theo một số đoạn ghi trong Tân Ước, người đọc có thể nhìn ra Jesus đã ca tụng toàn bộ luật pháp của thời Cựu ước.

Thật sự, ta bảo các ngươi, cho đến khi thiên đàng và trần thế tan biến đi, không một dấm chấm nhỏ trong lề luật có thể đưọc bỏ qua cho đến khi mọi sự được hoàn tất. Ai nương nhẹ dù một điều nhỏ nhất trong những điều răn ấy và dạy bảo người khác làm như thế, sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong nước thiên đàng. Ai làm theo và dạy bảo người khác làm theo sẽ được gọi là lớn lao trong nước thiên đàng. Vì, ta bảo ngươi, nếu ngươi không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisees, các ngươi sẽ chả bao giờ được vào nước thiên đàng

MATTHEW 5:1, 8-20

Các tông đồ cũng đã thường xuyên nhắc lại chủ đề này (thí dụ, xem 2 Timothy 3:16-17). Dĩ nhiên quả đúng là Jesus có từng nói đến những điều sâu sắc về yêu thương, lòng nhân hậu và thứ tha. Khuôn vàng Thước ngọc thực là một lời giáo huấn tuyệt vời. Nhưng trước Jesus hàng nhiều trăm năm, có vô số những bậc thầy (Zoroaster, Buddha, Confucius, Epictetus…) từng mang đến những hướng dẫn tương tự và biết bao văn, kinh bản từng luận bàn về tình yêu thương tự cảm hóa rõ ràng, rành mạch hơn cuốn Kinh thánh, vốn lại còn bị nhơ nhớp bởi sự tán dương một cách khiêu dâm về sự tàn bạo mà chúng ta có thể tìm thấy đầy suốt các cuốn sách tân và cựu ước. Nếu bạn quan niệm Ki-tô giáo là sự diễn đạt trung thực và trong sạch nhất của tình yêu thương và lòng bác ái thì chính là bạn đã không biết gì nhiều về các tôn giáo khác trên thế giới.

Hãy lấy giáo phái Jainism làm một ví dụ. Những người theo đạo Jains đã rao giảng một học thuyết về sự bất bạo động tuyệt đối. Tuy người đạo Jains tin vào nhiều điều không thể có về vũ trụ, nhưng họ không tin vào các thứ đã khiến gây ra những ngọn lửa thiêu của các tòa dị giáo. Có thể bạn cho rằng tòa dị giáo là một loại xuyên tạc tinh thần "chính trực" của Ki-tô giáo. Có thể là như thế thật. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ là, sự rao giảng của Thánh kinh đã quá lộn xộn và tự mâu thuẫn đến mức tạo nên việc người Ki-tô giáo đã sung sướng nướng sống những người dị giáo suốt năm thế kỷ dài. Ðã khiến cả các bậc giáo phụ trong nhà thờ, như thánh Augustine, thánh Thomas Aquinas đi đến kết luận rằng những người dị giáo thật đáng bị hành hạ (Augustine) hay giết ngay đi (Aquinas). Martin Luther và John Calvin đã bào chữa cho việc tàn sát hàng loạt những người dị giáo, kẻ bỏ đạo và các mụ phù thủy. Dĩ nhiên, bạn cũng có quyền tự do giải thích Thánh kinh theo cách khác – Song le, tưởng không có gì đáng ngạc nhiên hơn, khi hầu hết các tư tưởng gia có uy tín trong lịch sử đức tin của bạn thất bại thì bạn lại đang thành công trong nhận thức sâu sắc về những gì thực sự được rao giảng của Ki-tô giáo. Dĩ nhiên, nhiều người Ki-tô giáo tin rằng một con người không hại ai như Martin Luther King Jr. là một minh chứng sáng ngời cho tôn giáo của mình. Nhưng chuyện này đã mang lại một vấn nạn lớn, bởi vì học thuyết của đạo Jainism chính thực là một hướng dẫn khách quan tốt để trở nên một con ngư�! ��i như Martin Luther King Jr. hơn là học thuyết của Ki-tô giáo. Dù Martin Luther King Jr. tự nhận chắc chắn mình là một người Ki-tô sùng kính, thực ra ông đã thủ đắc được lòng tận tụy của mình đối với tư tưởng bất bạo động chính yếu từ những bài viết của Mohandas K. Ghandhi. Năm 1959, ông còn đến Ấn độ để học hỏi những nguyên tắc phản kháng bất bạo động trực tiếp từ các môn đệ của Ghandhi. Ghandhi, một người Ấn độ giáo đã có học thuyết bất bạo đông từ đâu? Ngài đã tìm được từ người Jains.

Nếu bạn nghĩ rằng Jesus đã chỉ dạy các Khuôn vàng Thước ngọc và tình yêu thương hàng xóm láng giềng mình thì bạn nên đọc Tân Ước. Ðặc biệt chú ý đến cái đạo đức hiển lộ khi Jesus trở lại thế gian trong các vầng mây của ánh hào quang :

Thượng đế đã cho thấy để trả lại đau buồn cho những ai gây cho ngươi buồn đau… Khi chúa Jesus hiện ra trên thiên đàng với các thiên thần hùng mạnh trong ánh lửa đỏ, để trừng trị, báo thù những kẻ không biết đến thiên chúa và những kẻ không tuân phục lời phúc âm của chúa Jesus. Chúng sẽ phải chịu sự trừng phạt bằng sự hủy diệt đời đời và gạt bỏ chúng ra khỏi sự hiện diện của chúa và ánh hào quang sức mạnh của người…

2 THESSALONIANS 1:6-9

Nếu người nào không tuân phục ta, y sẽ bị ném bỏ như một cành cây và khô héo đi; cà những nhánh cây khô ấy sẽ bị gom lại, bỏ vào lò lửa mà thiêu đi.

JOHN 15:6

Nếu chỉ lấy một nửa tính cách của Jesus thôi, ta có thể đánh giá được các hành vi của Thánh Francis của Assisi hoặc Martin Luther King Jr., lấy nửa còn lại kia có thể thanh minh được cho các tòa dị giáo. Ai tin rằng Thánh kinh đem lại những chỉ hướng tốt nhất cho chúng ta về các vấn đề đạo đức chắc phải có những ý tưởng rất lạ lùng, kỳ quặc, hoặc về đạo đức hoặc về sự hướng đạo.

ÐỂ TRUY CẬP vào sự thâm thúy đạo đức của Thánh kinh, sẽ rất bổ ích nếu chúng ta xem xét đến các câu hỏi về đạo đức đã từng được giải đáp vốn thỏa mãn nhiều người. Cả thế giới văn minh ngày nay đồng ý rằng nô lệ là một điều đáng kinh tởm. Vậy, hãy xem loại hướng dẫn đạo đức nào mà chúng ta có thể học được từ Thiên chúa của Abraham? Tham khảo Thánh kinh, bạn sẽ tìm thấy rằng đấng tạo ra vũ trụ này thật sự muốn chúng ta giữ nô lệ :

Ðối với các nô lệ nam cũng như nữ mà các ngươi sẽ có: ngươi có thể mua

nô lệ nam, nữ từ những nước lân bang chung quanh ngươi. Ngươi cũng có thể

mua từ trong những kẻ lạ tạm trú cùng ngươi và từ gia đình của chúng đang ở cùng ngươi, những kẻ có thể đã sinh ra trong cùng đất đai với ngươi, và chúng sẽ là tài sản sở hữu của ngươi. Ngươi có thể để lại cho con trai ngươi, có thể thừa kế như một tài sản vĩnh viễn của mình; các ngươi có thể tạo chúng thành nô lệ, nhưng trong trong vòng đồng hữu dân Do thái ngươi không được thống trị hà khắc.

LEVITICUS 25:44-46

Cuốn Thánh kinh cũng chỉ rõ rằng mọi người – khi có hội đủ một số điều kiện đúng đắn – đều được tự do bán con gái của chính mình vào vòng nô lệ tình dục:

Khi một người bán con gái của mình làm nữ nô, y thị không được đi ra ngoài như những kẻ nô lệ nam. Nếu y thị không làm vừa lòng chủ, người đã chỉ định y cho chính mình, thì người chủ này sẽ để cho y được chuộc; người chủ này không được bán y cho người ngoại quốc, vì như thế là người ấy đã cư xử vô tín với y thị. Nếu người ấy muốn dành y thị cho con trai mình, y sẽ cư xử với y thị như đối với con gái mình. Nếu người ấy lấy thêm một người vợ khá, người ấy không được giảm đi lương thực, y trang, và quyền làm vợ của người vợ trước. Và nếu người ấy không thực hiện được ba điều trên, y thị có thể ra đi không phải trả lại tiền bạc gì.

EXODUS 21:7-11

Sự kiềm chế duy nhất của Thiên chúa trong việc dạy dỗ về nô lệ là chúng ta không được đánh đập nô lệ quá đáng đến nỗi hỏng mắt hoặc gãy răng họ (Exodus 21). Ðây quả thật không phải là loại đạo đức sáng suốt vốn đưa đến sự cáo chung chế độ nô lệ ở nước Mỹ.

Không có một chỗ nào trong sách Tân ước cho thấy Jesus chống lại việc thực hành nô lệ. Thánh Paul còn răn dạy các nô lệ phục vụ người chủ cho tốt, và phục vụ người chủ Ki-tô giáo của họ tốt hơn thế:

Nô lệ, các ngươi hãy tuân lời người chủ của ngươi trên thế gian với sự run sợ, trong toàn tâm ý, như đối với Ki tô vậy …

EPHESIANS 6:5

Hãy để cho chúng, những kẻ đang trong ách gông của nô lệ, trông đến người

chủ của chúng bằng tất cả danh dự, để cho danh Chúa và những lời giảng dậy không bị phỉ báng. Còn những kẻ đang có chủ là người tín hữu, thì đừng vì họ là người anh em mà xem thường, đáng lẽ họ phải phục vụ chủ tốt hơn bởi vì họ phục vụ những tín hữu và được yêu quý. Nếu ai dạy điều gì khác và không đồng ý với những lời lành mạnh của Chúa Jesus và những giảng dạy phù hợp với lòng ngoan đạo, kẻ ấy vênh váo kiêu căng, kẻ ấy không biết gì cả, kẻ ấy chỉ mang bệnh thích tranh luận và cãi chữ nghĩa, khiến sanh ganh tị, bất đồng quan điểm, vu khống, nghi hoặc…

1 TIMOTHY 6:1-4

Những chương đoạn này cho thấy rõ, trong khi những người theo chủ nghĩa bãi nô ở thế kỷ mười chín đã có được một nền đạo đức đúng đắn, thì chính là họ đang ở vào phía thua trong cuộc tranh luận thần học. Như đức cha Richard Fuller đã phát biểu năm 1845 "Những gì Thượng đế trừng phạt trong Cựu ước, để rồi lại cho phép trong Tân ước thì không thể là tội lỗi". Ðức cha lòng lành đang vững vàng quan điểm ở đây. Không có gì trong thần học Ki-tô cứu chữa được những khiếm khuyết kinh khủng của Thánh kinh về những vấn nạn đạo đức có lẽ lớn nhất- và dễ nhất- mà xã hội chúng ta từng phải đối diện.

Ðể đáp trả, người Ki-tô quý bạn thường chỉ ra rằng những người theo chủ thuyết bãi nô đã rút ra được rất nhiều gợi ý từ Thánh kinh. Dĩ nhiên là họ đã rút ra được như vậy. Quần chúng đã lựa lọc từ Thánh kinh trong nhiều thiên niên kỷ để biện minh cho từng động cơ đạo đức hay vô đạo đức của họ. Tuy vậy, điều ấy không có nghĩa là chấp nhận cuốn kinh thánh như lời của Thượng đế là phương cách tốt nhất để hiểu ra rằng việc bắt cóc và nô lệ hóa hàng triệu con người, nam, nữ, trẻ em vô tội là một sai lầm về đạo đức. Sự kiện những người chủ trương bãi nô đã xử dụng đến một phần kinh thánh để chối từ đi các phần khác không cho thấy rằng cuốn Thánh kinh là một chỉ đạo tốt cho đạo đức. Nó cũng không đề ra được rằng nhân loại cần phải nên tham khảo một cuốn sách để mà giải quyết các vấn đề đạo đức các loại. Cái khoảnh khắc mà một con người nhận ra rằng kẻ nô lệ cũng là một con người như chính mình, có được cái năng lực như mình về hạnh phúc và khổ đau, người ấy ắt phải hiểu ra rằng việc sở hữu nô lệ và coi họ như những nông cụ là một tội ác hiển nhiên. Thật là hết sức dễ dàng cho một con người đi đến được sự tỉnh thức này, nhưng trải dài suốt thời nội chiến nam bắc, và đối với nhiều người Ki-tô giáo đạo đức giả mà đất nước này từng biết đến thì sự tỉnh thức đơn giản ấy đã phải phổ biến bằng mũi dao găm nhọn .

MƯỜI ÐIỀU RĂN của Chúa cũng là những điều đáng suy bàn trong nội dung này, khi mà dường như như hầu hết người Mỹ đều cho rằng đó là những điều không thể thiếu được cả về mặt pháp lý lẫn đạo đức. Trong khi hiến pháp Hoa kỳ không hề chứa đựng một đề cập nào, và đã làm giảm giá trị của Thiên Chúa đi rất nhiều vào thời điểm soạn thảo hiến pháp nhưng nhiều người Mỹ tin rằng đất nước họ đã xây dựng trên một "nền tảng Judeo-Ki-tô giáo". Lạ lùng thay, Mười điều răn của Chúa lại thường được viện dẫn như những chứng cớ không thể chối cãi về sự việc này. Trong khi sự thích ứng của chúng đối với lịch sử Hoa Kỳ còn là một điều đáng nghi ngờ thì sự sùng kính của chúng ta đối với những điều răn không phải là chuyện tình cờ. Những điều răn này, là những đoạn văn duy nhất trong kinh thánh, sâu sắc đến nỗi đấng tạo dựng nên vũ trụ phải đích thân mình viết lên và chạm khắc vào đá cứng. Như vậy, ai cũng tưởng rằng đấy là những dòng vĩ đại từng được viết ra, trên tất cả mọi chủ đề, bằng bất kỳ ngôn ngữ nào. Những dòng ấy như thế này đây. Xin hãy chuẩn bị đón nhận …

1. Ngươi không được có chúa, cha nào khác trước ta.

2. Ngươi không đươc tự tạo cho mình ảnh tượng thờ riêng.

3. Ngươi không được mang, kêu tên Chúa ra trong sự vô nghĩa

4. Phải nhớ ngày Sabbath, giữa ngày ấy được thiêng liêng.

5. Ngưoi phải phụng thờ cha mẹ ngươi.

6. Ngươi không được giết người.

7. Ngươi không được ngoại tình.

8. Ngươi không được ăn cắp.

9. Ngươi không được làm chứng gian.

10. Ngươi không được thèm muốn nhà cửa của người láng giềng, đầy tớ trai, gái, trâu, bò, lừa, hoặc bất cứ cái gì của họ.

Bốn điều huấn thị đầu chẳng có ăn nhập gì với đạo đức. Ðúng như nguyên văn, chúng có nghĩa ngăn cấm việc đi theo bất kỳ tôn giáo nào khác (như Ấn độ giáo chẳng hạn), tất cả các nghệ thuật tôn giáo khác, hoặc lầm bầm những câu như "God damn it!", hoặc làm những việc thông thường trong ngày Sabbath – đều đáng tội chết. Chúng ta hẳn phải rất băn khoăn là làm sao mà những điều luật này có thể sống còn trong khi duy trì nền văn minh.

Ðiều răn 5 đến 9 thật có hướng vào đạo đức, mặc dù nó thật đáng nên hỏi là bao nhiêu người từng thực sự kính trọng cha mẹ, không sát nhân, ngoại tình, trộm cắp hoặc khai man nhờ vào những lời răn này. Những khuyên răn đại loại như thế có thề tìm được hầu như ở trong tất cả các nền văn hóa xuyên qua ghi chép của lịch sử. Chẳng có sự thuyết phục đặc biệt gì hơn về sự trình bày của những điều này trong Thánh kinh. Có nhiều nguyên nhân sinh học hiển nhiên cho thấy tại sao con người có khuynh hướng cư xử tốt với cha mẹ mình và cho những hành vi sát nhân, ngoại tình,trộm cắp, dối trá là những điều xấu. Ðó chính là một dữ kiện có tính khoa học- như cảm giác về sự công bằng, oán ghét hoặc tàn nhẫn- đã có trước cả Thánh kinh. Thật vậy, các nghiên cứu về tính cách cư xử của loài vượn người cho thấy rằng những tình cảm này (trong một số dạng thức) tự chúng đã có trước nhân tính. Tất cả các anh em họ hàng loài vượn người của chúng ta thường thương yêu họ hàng của chúng hơn và thường không tha thứ cho việc giết hại và trộm cắp. Chúng cũng có khuynh hướng không ưa sự lừa dối hay phản bội về dục tình lắm. Ðặc biệt, loài vượn, hiển thị rất nhiều những quan tâm có tính xã hội phức tạp mà bạn mong muốn nhìn thấy trong mối quan hệ ruột thịt của chúng ta trong đòi sống tự nhiên. Do vậy, có lẽ rằng không có gì cho thấy rằng người Mỹ trung bình sẽ nhận được những lời giáo huấn đạo đức này khi họ đọc được những ý niệm này chạm khắc trên đá khi họ đến những ! tòa pháp đình. Và, chúng ta làm sao để hiểu được rằng, để đem luận thuyết của mình vào được sân trong nhà thờ, đấng sáng tạo nên vũ trũ đã nghĩ rằng không có những quan tâm con người nào thúc bách hơn, lâu bền hơn các việc hoán chuyển tôi tớ và gia súc?

Nếu chúng ta muốn nghĩ đến Thiên chúa từ cuốn thánh kinh một cách nghiêm chỉnh, chúng ta sẽ phải thừa nhận rằng Ngài chưa bao giờ cho chúng ta được quyền tự do tuân thủ theo những điều răn nào chúng ta thích và lờ đi những điều còn lại. Người cũng không nói rằng khi vi phạm giới răn chúng ta có thể được giảm nhẹ các hình phạt mà Người đã đặt ra.

Nếu quý bạn nghĩ rằng sẽ khó có thể tốt đẹp hơn được nếu không có Mười điều răn như một khẳng định của đạo đức thì quý bạn nên cần phải đọc thêm nhiều kinh, sách khác. Một lần nữa, bạn không phải nhìn đâu xa ngoài chủ thuyết của Jains: những nhà sáng lập Jains đã vượt trội hơn cái đạo đức của Thánh kinh chỉ bằng một câu đơn giản: "Không được gây thưong tích, quấy nhiễu, đàn áp, nô dịch hóa, lăng nhục, gây đau đớn, hành hạ, hoặc giết hại bất kỳ sinh vật, sinh mạng nào." Hãy thử tưởng tượng thế giới của chúng ta sẽ khác đi như thế nào nếu như Thánh kinh đã chứa đựng một nội dung như thế như là một lời giáo huấn chính. Nhân danh Thiên chúa, Ki-tô giáo đã quấy nhiễu, đàn áp và giết hại quần chúng trong nhiều thế kỷ, dựa trên căn bản của việc hiểu một cách bào chữa được bằng thần học từ cuốn Thánh kinh. Trung thành với những nguyên tắc của chủ thuyết Jain thì không thể hành xử như thế được. Vậy thì, làm sao quý bạn có thể tranh cãi rằng Thánh kinh mang đến những khẳng định trong sáng nhất cho đạo đức như cả thế giới đã từng thấy ?

Chân đạo đức

Bạn cho rằng nếu như cuốn thánh kinh không được coi là lời của Thiên chúa thì sẽ không có được một tiêu chuẩn chung cho đạo đức. Nhưng chúng tôi có thể dễ dàng nghĩ ra những cội nguồn khách quan của hệ thống đạo đức mà không hề cần đến sự hiện hữu của đấng Thiên chúa để ban hành pháp luật. Bởi lẽ để có thể trở thành những chân lý đạo đức khách quan đáng được biết đến, chỉ cần biết cái hạnh phúc trên thế gian ấy đã đạt được bằng các phương cách tốt đẹp hay xấu xa.

Nếu như có một thứ lề luật tâm lý nào có thể khống chế được hạnh phúc của con người thì kiến thức của các luật lệ này đã có thể mang lại được căn bản lâu dài cho nền đạo đức khách quan. Dù chúng ta chưa có được cái gọi là hiểu biết khoa học và cuối cùng của đạo đức con người nhưng có lẽ không thể sai khi bảo rằng hãm hiếp và giết hại láng giềng không thể là một trong những yếu tố chính của căn bản đạo đức ấy. Tất cả những gì thuộc kinh nghiệm của con người đã chỉ ra rằng yêu thương dẫn đến hạnh phúc nhiều hơn là oán ghét. Đây là một sự thật khách quan về tinh thần con người, tính năng động của các mối quan hệ xã hội và về trật tự đạo đức của thế giới chúng ta. Thất là hiển nhiên và rõ ràng để nói rằng Hitler đã sai lầm về các phạm trù đạo đức mà không cần phải tham cứu vào kinh sách gì.

Trong khi yêu thương kẻ khác chắc chắn là nguồn gốc lớn nhất cho hạnh phúc của chúng ta, chúng còn dẫn đến mối quan tâm sâu xa đến hạnh phúc và khổ đau của người mình thương yêu. Do vậy, sự kiếm tìm hạnh phúc của mình, mang lại nhân tố căn bản cho việc hy sinh và quên mình. Không còn phải nghi ngờ gì nữa rằng, hết lòng hy sinh cho sự tốt lành của tha nhân chính là yếu tố cần thiết để chính mình cảm thấy an vui sâu sắc hơn. Ai cũng có thể thành tựu được những quan hệ như thế mà không cần phải tin vào những bằng chứng vốn thiếu sót. Nhiều điểm trong sách Phúc âm, Jesus rõ ràng bảo ban chúng ta rằng tình yêu thương có thể chuyển hóa đời sống con người. Chúng ta không cần phải tin rằng người đã được sinh ra từ một trinh nữ, hoặc người sẽ trở lại trần gian như một siêu nhân để thẩm thấu lời bảo ban này của Người vào lòng mình.

Một trong những ảnh hưởng nguy hại nhất của tôn giáo chính ở chỗ là tôn giáo có khuynh hướng ly dị đạo đức khỏi thực tại đau khổ của con người và vạn vật. Tôn giáo cho phép con người tưởng rằng các quan tâm của mình là đạo đức dù chúng thực không phải như thế – có nghĩa là, chúng không hề có quan hệ gì đến sự an ủi và khổ đau. Hơn nữa, tôn giáo còn cho phép con người tưởng rằng các quan tâm của mình là đạo đức trong khi chúng thật sự là hết sức vô đạo đức- nghĩa là, khi việc bám chặt vào những quan tâm ấy của họ đã gây nên những khổ đau kinh hoàng không cần thiết lên nhân loại vô tội. Điều này giải thích lý do tại sao những Ki-tô hữu như quý bạn đã dùng nhiều năng lực "đạo đức" để chống phá thai hơn là nạn diệt chủng. Chính điều này giải thích nguyên nhân vì sao quý bạn quan tâm đến phôi thai con người hơn là các triển vọng cứu người từ các khảo cứu về stem-cell. Và, giải thích được lý do vì sao quý bạn cầu nguyện nhằm chống lại việc xử dụng bao cao su ở ngoại ô Saharan Phi Châu dù hàng triệu người đang chết vì AIDS ở đấy mỗi năm.

Quý bạn tin rằng tôn giáo của mình quan tâm đến tình dục, với tất cả sự bao la buồn chán của dục tình, có cái gì đó liên quan đến đạo đức. Thực tế, các nỗ lực ngăn chặn hành vi tính dục của việc ngoại tình- ngay cả việc can ngăn con cái bạn không được quan hệ thân xác trước hôn phối- cũng chưa từng bao giờ hướng đến việc giảm thiểu đau khổ của con người. Thực tại còn cho thấy, việc giảm thiểu đau khổ của con người đứng hàng khá thấp trong các ưu tiên của bạn. Trông có vẻ như ưu tiên hàng đầu của bạn chính là về việc đấng tạo dựng ra vũ trụ bị mếch lòng về những chuyện mà con người thực hiện trong khi trần truồng. Sự quan tâm với bộ tịch đoan trang kiểu cách này của bạn đã đóng góp thường nhật vào nỗi khốn khổ của nhân loại .

Thí dụ như, thử nghĩ về bệnh dịch HPV (Human papillomavirus). Hiện nay HPV là căn bệnh dễ lây lan nhất qua đường giao hợp ở nưóc Mỹ. Virus bệnh này lây nhiễm hơn nửa dân số Hoa kỳ, gây tử vong cho hơn năm nghìn phụ nữ qua bệnh ung thư cổ tử cung; hơn hai trăm ngàn người chết hàng năm theo ước tính của Trung tâm Kiểm soát Tật bệnh (Center for Disease Control). Hiện nay, chúng ta có thuốc chủng ngừa bệnh HPV hiệu quả và an toàn. Hơn sáu ngàn phụ nữ qua vòng thí nghiệm dùng thử đã cho kết quả miễn nhiễm đến 100%. Thế nhưng, những người Ki-tô giáo bảo thủ trong chính phủ của chúng ta đã phản đối chương trình chủng ngừa với lập luận rằng HPV là một ngăn cản có giá trị cho việc liên hệ xác thịt trước hôn nhân. Quý ông bà đạo đức giả này muốn bảo quản bệnh ung thư cổ tử cung để thúc đẩy việc kiêng cữ, ngay cả có phải hy sinh đến mạng sống của hàng ngàn phụ nữ hàng năm.

Không có gì là sai trái khi khuyến bảo các cô gái mới lớn nên tránh đừng quan hệ tình dục. Nhưng chúng ta biết rõ và không còn nghi ngờ gì nữa rằng chỉ dạy dỗ việc kiêng cữ không thôi thì không đủ để ngăn ngừa việc thiếu niên có thai, hoặc ngăn chặn các bệnh lây lan qua đường giao hợp. Thực tế là, những thiếu niên vốn chỉ được dạy dỗ sự kiêng cữ thuần túy đã trở nên ít hiểu biết đến việc xữ dụng thuốc ngừa thai khi chúng thực muốn quan hệ xác thịt, như nhiều thiếu niên đã không thể tránh khỏi. Một nghiên cứu đã cho thấy rằng trung bình, thiếu nữ "nguyện giữ trinh tiết" đã giữ được việc giao tiếp thân xác thêm mười tám tháng – trong thời gian đó, các thiếu nữ trinh tiết này có nhiều khả năng tham dự vào các gần gũi thân xác qua miệng và hậu môn hơn các thiếu nữ khác. Thiếu nữ vị thành niên ở Mỹ tham dự vào tình dục cũng nhiều như các thiếu nữ vị thành niên ở các nước phát triển khác, nhưng các thiếu nữ Mỹ có nhiều khả năng mang bầu, sinh con hoặc phá thai nhiều hơn. Giới trẽ Mỹ nhiễm HIV và các bệnh lây lan qua tình dục nhiều hơn. Giới thiếu niên ở Mỹ có tỉ lệ bệnh lậu bảy lần nhiều hơn đối với các thiếu niên ở Netherland và Pháp. Chắc chắn những việc này có liên quan đến việc 30 phần trăm chương trình giáo dục giới tính của chúng ta chỉ dậy dỗ sự kiêng cữ xuông không thôi.

Vấn để không phải ở chỗ là vì những người Ki-tô như bạn không đặt nặng quan tâm đến sự việc thiếu niên mang thai sớm và sự truyền nhiễm lây bệnh. Vấn đề ở chỗ là bạn không lo lắng đến những khổ đau gây ra bởi tình dục mà bạn lo lắng về chính tình dục. Nếu như sự kiện này cần thêm bằng chứng: Reginald Finger, một nhà truyền giáo, thành viên của Uỷ ban cố vấn CDC về Thực hiện chủng ngừa, gần đây đã thông báo rằng ông có thể tính đến việc chống lại chủng ngừa HIV – nghĩa là kết án tử đến hàng triệu người lẽ ra không phải chết hàng năm vì bệnh AIDS – bởi vì một loại chủng ngừa như thế sẽ khuyến khích các quan hệ giao hợp truớc hôn nhân vì đã làm cho chúng trở nên bớt nguy hại. Ðây là một trong nhiều quan điểm mà niềm tin tôn giáo của bạn đã trở thành sự giết người chân thật.

Nỗi băn khoăn của các bạn về việc nghiên cứu phát triển tế bào phôi thai là một sự bẩn thỉu tương tự. Đây là những sự thật: nghiên cứu về tế bào phôi thai là một trong những phát triển hứa hẹn nhất trong thế kỷ vừa qua về y học. Nghiên cứu này mang lại bước đột phá trong việc điều trị nhiều chứng bệnh hoặc thương tích mà nhân loại đang phải chịu đựng- bởi lý do đơn giản là tế bào phôi tủy sống có thể trở thành bất kỳ cơ phận nào trong cơ thể con người. Nghiên cứu này còn là một yếu tố cần thiết cho hiểu biết của chúng ta về bệnh ung thư, song song với những rối loạn của sự phát triển đa dạng. Dựa vào những thực tế này, thật là không thể có được sự thổng phồng cường điệu quá đáng về các hứa hẹn của việc nghiên cứu tế bào phôi thai tủy sống. Dĩ nhiên, đúng là sự nghiên cứu như thế này đã dẫn đến việc hủy hoại các tế bào ba ngày tuổi của con người. Đây chính là điều làm quý vị lo lắng.

Chúng ta hãy nhìn vào các chi tiết. Một cái thai con người được ba ngày tuổi là một tập hợp của 150 tế bào được gọi là một blastocyst. Để tiện so sánh, có hơn 100.000 tế bào trong não bộ của một con ruồi. Cái phôi thai con người được ba ngày tuổi bị hủy diệt trong các nghiên cứu chưa hề có não bộ hoặc ngay cả chưa có tủy. Thành ra, không có lý do gì để có thể tin rằng chúng có thể đau đớn vì bị huỷ diệt. Ở đây, trong phân tích này, cũng thích đáng để nhớ rằng khi não bộ của một con người bị chết, hiện nay chúng ta cho rằng có thể giữ lại, xử dụng được các cơ phận của người ấy (nếu như người ấy đã đồng ý cống hiến) và chôn kẻ ấy đi. Do đó, nếu cư xử với một con người có não bộ đã chết bằng một cung cách không như một người đang sống có thể chấp nhận được thì chúng ta cũng có thể đối xử với một blastocyst như thế. Nếu bạn lo lắng về những đau đớn trong vũ trụ này thì chỉ việc giết một con ruồi có thể khiến bạn vi phạm đạo đức hơn là giết hại một blastocyst.

Có thể bạn cho rằng, cái khác biệt chính yếu giữa con ruồi và cái phôi thai người là ở sự việc cái phôi thai có thể mang tiềm năng phát triển đầy đủ để thành một con người. Thế nhưng, hầu như tế bào nào trong cơ thể của bạn cũng là một tiềm năng con người nếu như ta nhìn vào những nghiên cứu gần đây về kỹ thuật gen. Mỗi khi gãi mũi, bạn đã phạm tội diệt chủng đối với các tiềm năng con người. Đây là một sự thực. Cuộc tranh cãi về tiềm năng của tế bào dứt khoát sẽ không đi đến đâu.

Nhưng ngay lúc này, chúng ta hãy thử thừa nhận rằng, mỗi phôi thai ba ngày tuổi có một linh hồn xứng đáng cho mối quan tâm đạo đức của chúng ta. Phôi thai ở thời kỳ này, đôi khi có thể chia ra, trở thành hai con con người (sinh đôi giống nhau). Thế có ngĩa là một linh hồn chia ra làm hai linh hồn hay sao ? Hai phôi thai đôi khi nối thành một, gọi là chimera. Có thể bạn hay người quen biết nào đó đã phát triển từ phương cách này. Không ngạc nhiên tại sao cho đến hiện nay, các nhà thần học vẫn còn vất vả để xác định xem cái gì đã trở thành một linh hồn nữa trong trường hợp như vậy.

Có phải đã đến lúc để chúng ta nhận ra rằng các bài toán để tính linh hồn này thực chẳng có ý nghĩa gì nữa không? Ý tưởng ngây thơ về linh hồn như trong trường hợp đĩa Peril không thể bào chữa được gì nữa về tri thức. Nó cũng không thể bào chữa được gì về mặt đạo đức khi mà ngày nay ý tưởng ngây thơ này đang đứng giữa con đường phát triển của những nghiên cứu hứa hẹn nhất trong lịch sử y học. Ngay vào thời điểm này, những niềm tin vào linh hồn của các bạn chỉ kéo dài thêm những thảm kịch khốn khổ của hàng triệu triệu con người.

Bạn tin rằng "sự sống bắt đầu ngay từ lúc thụ thai". Bạn tin rằng có những linh hồn trong mỗi một phôi thai này và tin rằng các quyền lợi của một linh hồn- linh hồn của một bé gái đã bị phỏng hơn 75% thân thể – nghĩa là – không thể tráo với các quyền lợi của một linh hồn khác, ngay cả linh hồn ấy tình cờ đang sống bên trong một cái đĩa Peril. Chấp nhận những điều chỉnh mà chúng ta đã thực hiện về những căn bản đức tin phi lý trong những bài luận thuyết trước công chúng của chúng ta, ngay cả từ những người ủng hộ nghiên cứu về stem-cell, đã thưòng chỉ ra rằng vai trò của bạn trong vấn đề này có vấn đề đối với luật pháp về đạo đức. Nói đúng nhất, sự phản đối của bạn về các nghiên cứu stem-cell chính là sự dốt nát, thiếu học. Thực tế, không có nguyên nhân đạo đức nào cho sự thiếu thiện chí của chính phủ liên bang chúng ta trong việc tài trợ các nghiên cứu này. Chúng ta cần đổ ra nhiều tài nguyên vào việc nghiên cứu stem-cell và chúng ta cần phải hành động ngay. Bởi vì những gì người Ki-tô các bạn tin về linh hồn mà các bạn không chịu làm việc này. Thực tế, có nhiều tiểu bang còn coi công việc đó là bất hợp pháp. Thí dụ như nếu ai thực hiện một cuộc thí nghiệm về phôi thai ở tiểu bang South Dakota, người ấy sẽ phải vào tù.

Ở đây, sự thật đạo đức rất rõ ràng: bất kỳ ai thương cảm cho một cái phôi thai đã thực có một cảm quan đạo đức bị mù lòa bởi các ảo tưởng tôn giáo để vứt bỏ đi quyền sống của một đứa trẻ bị tổn thương cột sống. Mối dính giữa tôn giáo và "đạo đức"- cái rất thường được công bố nhưng rất ít được chứng minh- thì thật là tương phản ở đây, như nó vẫn luôn được làm ngược lại như thế mỗi khi tôn giáo vứt bỏ đi cái lẽ phải đạo đức và tình bác ái.

 

(xem tiếp đoạn kế: Làm tốt vì Thiên Chúa)

http://sachhiem.net/SACHNGOAI/LeQuocTuan/SAMHARRIS/LeQuocTuanII-04.php

Làm tốt vì Thiên Chúa

Làm tốt vì Thiên Chúa

Thế còn những điều tốt lành mà thiên hạ đã làm nhân danh Thiên chúa ? Không thể chối cãi sự thật là nhiều con người của đức tin tôn giáo đã hy sinh rất anh hùng trong việc làm giảm khuây sự đau khổ cho tha nhân. Thế nhưng có cần thiết phải tin vào những điều thiếu chứng cứ để hành xử như vậy? Nếu lòng bác ái thực sự dựa trên học thuyết của tôn giáo, làm sao để giải thích công việc của các bác sĩ thế tục ở những nơi đang bị tàn phá bởi chiến tranh trong những nước đang phát triển? Nhiều lương y đã động lòng không phải từ ý tưởng nào về Thiên chúa mà chỉ đơn giản vì muốn làm giảm đi nỗi đau của nhân loại. Trong khi đó, chắc chắn rằng các dòng truyền giáo đã cũng mủi lòng bởi khao khát xoa dịu nỗi đau, đồng thời cũng bởi họ đến với một nhiệm vụ ngổn ngang bởi những huyền thoại nguy hiểm và chia rẽ.

Các dòng truyền giáo ở các nước đang phát triển đã phí phạm rất nhiều thì giờ và tiền bạc (chưa kể đến thiện chí của những người không Ki-tô giáo) để cải đạo cho những kẻ khốn cùng; họ đã truyền đi những thông tin sai lầm về việc ngừa thai và các tật bệnh lây lan tình dục, dấu đi những thông tin đúng, chủ thuyết của họ vẫn là lan truyền sự ngu dốt và chết chóc. Ngược lại, những người tự nguyện cho các tổ chức thế tục như Hội Y Sĩ không biên giới đã không bỏ phí thời gian vào việc truyền bảo cho công chúng về sự sản sinh trong trinh tiết của Jesus. Họ cũng không truyền đạt cho dân ở ngoại ô Saharan Phi Châu rằng xử dụng bao cao su là tội lỗi. Các nhà truyền đạo Ki-tô giáo đã nổi tiếng về việc rao giảng tội lỗi của việc xử dụng bao cao su ở những làng mạc vốn chưa hề được bao giờ thông tin gì về bao cao su. Mộ đạo kiểu này là một sự diệt chủng (1). Ngẫu nhiên, chúng ta hẳn phải băn khoăn: Cứu giúp người thuần vì quan tâm đến đau khổ của người ta hay cứu giúp người vì nghĩ rằng đấng tạo dựng vũ trụ sẽ thưởng công cho mình?

Mẹ Theresa là một bằng chứng tốt nhất cho phương cách mà một người tốt lành, mủi lòng thương giúp tha nhân, đã có cảm thức đạo đức của mình bị đảo lộn bởi đức tin tôn giáo. Christopher Hichens đã trình bày một cách thẳng thắn huỵch toẹt như sau :

[Mẹ Theresa] không phải là bạn của người nghèo. Bà là bạn của sự nghèo

khó. Bà nói rằng đau đớn là tặng phẩm của Thượng đế. Bà đã cả đời chống

lại phương cách duy nhất từng được biết để giải quyết nghèo khó, khỏi

dạng gia súc của việc cưỡng ép sinh sản.

Dù thật sự đồng ý với Hitchens về quan điểm này, tôi cũng không hề chối bỏ sự việc mẹ Theresa là một thuyết phục vĩ đại của tình bác ái. Rõ ràng, bà đã động lòng thương cảm từ những khổ đau của đồng loại, và bà đã hành động nhiều để thức tỉnh nhiều người khác đến thực tại khổ đau ấy. Tuy nhiên, vấn đề, đã ở chỗ là lòng bác ái của bà bị hướng vào khuôn khổ những bức tường thẳng dốc từ chủ nghĩa tôn giáo của bà. Trong diễn từ nhận giải Nobel, bà đã nói :

Phá thai là sự tàn phá lớn nhất cho bình an… Nhiều người rất, rất quan

tâm đến trẻ em Ấn Ðộ, đến trẻ em Phi Châu, nơi nhiều em đã bị chết, vì suy

dinh dưỡng, đói khát và các nguyên nhân tương tự nhưng hàng triệu trẻ em

khác đang chết vì chủ tâm của chính người mẹ. và điều này, ngày nay, chính

là sự tàn phá lớn nhất cho an bình. Bởi bởi vì, nếu một người mẹ có thể giết

chính con mình – thì có cái gì còn lại nữa để mình có thể giết người khác và

kẻ khác có thể giết lại mình- thật không có chọn lựa nào khác.

Ðể chẩn bệnh cho các vấn nạn của thế giới, những lời phẩm bình này thật là một sự dẫn đạo lạc hướng đáng kinh ngạc. Và cũng chẳng giúp gì tốt hơn để khẳng định giá trị của đạo đức. Lòng bác ái của Mẹ Theresa đã bị thẩm định rất tồi khi sự việc giết hại một bào thai ba ngày tuổi gây phiền muộn cho bà nhiều hơn là nỗi đau khổ của nhiều kẻ khác mà bà đã là nhân chứng trên hành tinh này. Khi phá thai là một thực tế xấu xa, tất cả chúng ta đều hy vọng vào một bước đột phá của y học trong việc ngăn ngừa để giảm bớt nhu cầu phá thai, làm sao có thể có người băn khoăn rằng hầu hết những phôi thai có thể bị đau đớn ở múc độ nào đấy. Làm sao có người không thể băn khoăn đến hàng triệu con người, đàn ông, đàn bà, trẻ em, đang phải chịu những thống khổ của chiến tranh, đói kém, tra tấn vì chính kiến hoặc những bệnh tật về tinh thần. Ngay trong lúc này, hàng triệu con người có nhận thức đang đau khổ vì những tai ách vật chất, tinh thần không thể tưởng tượng được, trong những tình huống mà không thấy được lòng bác ái của Thượng đế, và lòng bác ái của nhân loại lại bị khập khiễng bởi những tư tưởng lố bịch về tội lỗi và sự cứu rỗi. Nếu bạn lo lắng cho sự đau khổ của nhân loại thì chuyện phá thai chỉ nên đứng hàng cuối trong danh sách những ưu tư của mình.

Trong lúc việc phá thai vẫn còn là một vấn đề bị chia rẽ đến buồn cười tại Mỹ, vị trí "đạo đức" của hệ thống nhà thờ về vấn đề này giờ đây đã hiện thân một cách kinh tởm tại quốc gia El Salvador. Hiện nay, ở El Salvador, phá thai dưới bất kỳ trường hợp nào cũng là bất hợp pháp. Không có ngoại lệ cho cả các trường hợp bị hãm hiếp hoặc loạn luân. Ngay lúc người phụ nữ đến bệnh viện với một cái tử cung đã bị đục khoét, cho thấy rằng bà đã từng phá thai, bà ta sẽ bị cùm chặt vào giường bệnh và cơ thể bà sẽ bị coi như một hiện trường tội ác. Các bác sĩ giảo nghiệm sẽ đến ngay để khám âm hộ và tử cung. Hiện nay, có những người đàn bà thụ án phạt ba mươi năm tù vì đã phá thai. Thử tưởng tượng xem, trong một đất nước đã xấu xa hóa việc xử dụng thuốc ngừa thai như là một tội lỗi chống lại Thượng đế, thì đúng đây là loại chính sách mà ai cũng nên xử dụng nếu đồng ý với đánh giá của Mẹ Theresa về nỗi khổ đau của thế giới. Kỳ thực, Tổng giám mục El Salvador đã có tích cực vận động cho chính sách ấy. Các nỗ lực của ông đã được trợ giúp bởi Giáo Hoàng John Paul ÌI, người đã tuyên ngôn, trong một chuyến hành hương đến thành phố Mexico năm 1999 rằng "Nhà thờ phải công bố phúc âm của đời sống và công khai ra sức mạnh tiên tri chống lại nền văn hóa của sự chết. Cầu xin cho lục địa của hy vọng trở nên lục địa của đời sống!"

Dĩ nhiên, về sự phá thai thì quan điểm của nhà thờ đã không còn đếm xỉa gì đến các đặc điểm của ngành sinh học hơn là việc họ lưu tâm đến thực tại đau khổ của nhân loại. Khoa học ước tính rằng có đến 50 phần trăm các trường hợp thụ thai đã kết thúc bằng sự phá thai tự nhiên, thông thường ngay cả chính người phụ nữ cũng không hề biết rằng mình đã thụ thai. Thực tế, 20 phần trăm các trường hợp thụ thai đã kết thúc bằng việc sẩy thai. Do đó, có một sự thật hiển nhiên ở đây vượt ra ngoài hiểu biết: nếu Thượng đế có hiện hữu, thì chính người là kẻ phá thai nhiều hơn cả.

Những người vô thần có phải là quỷ dữ không ?

Nếu bạn là đúng khi tin rằng đức tin tôn giáo đem lại căn bản thực sự và duy nhất cho nền đạo đức thì những người vô thần chắc sẽ ít đạo đức hơn những người có lòng tin. Thực tế, họ phải là cực kỳ vô đạo đức. Có phải thế không? Có phải thành viên các tổ chức vô thần ở Mỹ phạm tội ác nhiều hơn không? Có phải thành viên của Hiệp hội Khoa Học, 93 phần trăm trong số họ không chấp nhận các ý tưởng về Thưọng đế, đã dối trá, lừa lọc và ăn cắp với sự buông thả hay không? Chúng ta có chứng cớ để tin tưởng rằng các tổ chức này tối thiểu cũng cư xử tốt lành như đa số dân chúng khác. Thế nhưng, người vô thần là thiểu số luôn bị mắng nhiếc nhiều nhất ở Mỹ. Các số thống kê thăm dò cho thấy là một người vô thần thì khó mà ứng cử vào các chức vụ cao trong đất nước (trong khi da đen, Hồi Giáo hoặc đồng tính thì không sao). Trên khắp các đất nước Hồi Giáo, gần đây, nhiều ngàn người đã tụ họp – đốt các tòa đại sứ Âu châu, đe dọa, bắt cóc con tin, giết người – để phản đối mười hai bức tranh biếm họa Tiên tri Mohammad lần đầu tiên xuất hiện trên một tờ báo ở Ðan Mạch. Người vô thần có nổi loạn bao giờ? Có báo chí nào trên thế giới này phải lưỡng tự khi đăng những tranh biếm họa về người vô thần vì e rằng những người viết bài sẽ bị bắt cóc hoặc sát hại để trả thù?

Người Ki-tô giáo như các bạn cứ luôn tuyên bố rằng những con quỷ như Adolf Hitler, Joseph Stalin, Mao Trạch Ðông, Pol Pot và Kim Chính Nhật đã nhảy ra từ cửa mình một người vô thần. Trong khi sự thật là những kẻ ấy dù có khi là kẻ thù của các tổ chức tôn giáo nhưng họ vốn không có lý trí gì đặc biệt (2). Thực tế, những công bố trước công chúng của họ thường là ảo tưởng: về những vần đề rất nhiều khác biệt như chủng tộc, kinh tế, tính đồng nhất quốc gia, tiến triển của lịch sử và các nguy hiểm đạo đức của chủ thuyết duy lý trí. Vấn đề của các bạo chúa đó không phải vì họ chối từ lý thuyết của tôn giáo mà là vì họ ôm chặt những huyền thoại hủy diệt sự sống khác. Hầu hết đã trở thành trọng tâm của những giáo phái cá nhân gần như tôn giáo, luôn cần đến sự tuyên truyền để duy trì. Có sự khác biệt giữa tuyên truyền và sự phổ biến thông tin chân thực mà chúng ta (thường) trông đợi từ một nền dân chủ tự do. Những bạo chúa gây diệt chủng hoặc sung sướng trị vì trên sự đói khát của chính dân mình, cũng thường thiên về những kẻ có tính khí riêng rất mạnh, chứ không phải là những người đấu tranh cho lẽ phải. Như Kim Chính Nhật, đã đòi hỏi là giường ngủ của y ở nhiều nơi cư ngụ khác nhau phải được đặt chính xác năm trăm mét trên mức nước biển. Nệm giường của y phải được nhồi bởi các thứ lông vũ mềm mại nhất mà chúng ta có thể tưởng tượng được. Các thứ lông vũ đó chính là các lông măng dưới cằm của giống chim sẻ. Phải cần đến bảy trăm ngàn con chim sẻ để dồn đủ lông cho một tấm chăn. Nhìn vào cái quan tâm sâu sắc bí hiểm ấy, chúng ta ắt phải tự hỏi cái con người Kim Chính Nhật đó đã biết điều đến thế nào.

Thử nghĩ về các lò thiêu Do Thái: những người chống Do Thái từng xây dựng các trại Nazi tử thần chính là di sản trực tiếp của Ki-tô giáo thời trung cổ. Trong bao nhiêu thế kỷ, người Ki-tô giáo ở châu Âu đã xem người Do thái như loại tệ hại nhất trong hàng ngũ những kẻ dị giáo và sự hiện diện của họ đã mang đến tất cả những bệnh hoạn cho xã hội. Ở Đức quốc lòng thù ghét người Do Thái đã biểu lộ như là một phương cách thế tục vượt trội, với căn nguyên từ tôn giáo, và sự dứt khoát ma quỷ hóa đạo giáo của người Do Thái ở Âu châu đã tiếp diễn suốt thời kỳ đó. Ngay chính Vatican cũng đã kéo dài những phỉ báng huyết thống trên báo chí của họ mãi đến cuối năm 1914 (3) và các nhà thờ Công giáo lẫn Thệ phản Giáo đều có những quá khứ đáng xấu hổ về những đồng lõa của họ với chính sách diệt chủng Nazi.

Lò sát sinh Auschwitz, các trại tập trung Xô Viết và cánh đồng chết ở Cam Bốt không phải là những điển trưng của những con người khi đã trở nên quá tin. Ngược lại, những khiếp đảm này minh chứng cho mối hiểm nguy của chính trị và chủ nghĩa giáo điều. Đã đến lúc những người Ki-tô các bạn ngưng viện cớ rằng sự chối bỏ đức tin sẽ dẫn đến sự ôm vội chủ thuyết vô thần như tín điều một cách mù quáng. Người ta không cần phải chấp nhận một điều gì không đủ tín lý để cho rằng sự ra đời trong trinh bạch của Jesus là một ý tưởng phi lý. Vấn nạn của tôn giáo– như là với chủ nghĩa Nazi, Stalin hoặc bất kỳ các hoang đường chuyên chế nào- chính là vấn nạn của tín điều. Tôi không thấy một xã hội nào trong lịch sử nhân loại từng khổ đau vì dân chúng quá khao khát chứng tín cho các khuôn mẫu niềm tin của mình.

KHI BẠN NGHĨ rằng chấm dứt tôn giáo là một mục tiêu không thể đạt được, quan trọng hơn là bạn nên ý thức được rằng nhiều đất nước phát triển đã gần đạt được điều ấy. Na uy, Iceland, Úc, Canada. Thụy điển, Thụy sĩ, Đan Mạch, Bỉ, Nhật, Netherland, và Anh quốc là những quốc gia ít tôn giáo tính nhất trên địa cầu. Theo báo cáo về phát triển của nhân loại của Liên Hiệp Quốc (2005) những quốc gia này là những quốc gia khỏe mạnh, dựa vào tuổi thọ, trình độ đọc viết, thu nhập đầu người, học thức, công bằng giới tính, tỉ lệ giết người và tỉ lệ tử vong của trẻ em. Đến mức rằng nếu như có một trường hợp tội phạm xảy ra ở Tây Âu thì hầu như phần lớn là từ giới di dân. Thí dụ như bảy mươi phần trăm các tù phạm trong các nhà tù ở Pháp là những người Hồi giáo. Người Hồi giáo ở Tây Ây nói chung không phải là người vô thần. Ngược lại, năm mươi quốc gia hiện xếp hạng chót theo những tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc là những quốc gia kiên định về tôn giáo.

Các phân tích khác cũng vẽ nên bức tranh tương tự: Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, trong mức độ trung thành với tôn giáo, là một độc đáo giữa những quốc gia dân chủ giàu có. Đất nước này còn độc đáo ở sự bủa vây trong mức độ cao của tệ nạn sát nhân, phá thai, trẻ vị thành niên mang thai, bệnh truyền nhiễm qua tình dục và mức tử vong của trẻ em. Trong nội tình nưóc Mỹ, một so sánh đúng tương tự là: giữa các tiểu bang phía nam và trung tây, nơi có đặc tính tôn giáo mạnh, thì đặc biệt tiêm nhiễm bởi những chỉ dấu của một xã hội thiếu lành mạnh, trong khi các tiểu bang tương đối mang tính thế tục ở vùng đông bắc thì thích ứng với các tiêu chuẩn Âu châu.

Trong khi sự sát nhập đảng phái chính trị ở Mỹ không phải là một chỉ dấu hoàn hảo về lòng mộ đạo, chả có gì gọi là bí mật khi những "tiểu bang đỏ" (ý nói thiên về đảng Cộng Hòa – ghi chú của Người Dịch) đã thắm đỏ hơn vì ảnh hưởng chính trị quá mạnh của giới Ki-tô giáo bảo thủ. Nếu có một liên quan gì mạnh mẽ giữa chủ nghĩa bảo thủ Ki-tô với y tế xã xội, và chúng ta mong nhìn thấy vài tín hiệu của tương quan ấy trong các tiểu bang đỏ ở Mỹ. Chúng ta sẽ không thấy gì cả. Trong hai mươi lăm thành phố có tỉ lệ tội phạm thấp nhất, 62 phần trăm thuộc tiểu bang "xanh" (ý nói thiên về đảng Dân Chủ), 38 phần trăm thuộc "đỏ". Trong hai mươi lăm thành phố nguy hiểm nhất, 76 phần trăm thuộc các tiểu bang "đỏ", 24 phần trăm thuộc "xanh". Thực tế, ba trong năm thành phố nguy hiểm nhất ở Mỹ là ở tiểu bang đạo đức giả Texas. Mưòi hai tiểu bang có mức ăn trộm cao nhất là "đỏ'. Hai mươi bốn trong hai mươi lăm tiểu bang có mức ăn cắp cao nhất là "đỏ". Trong hai mươi hai tiểu bang có tỉ lệ sát nhân cao nhất, mười bảy tiểu bang là "đỏ'.

Dĩ nhiên, những liên quan như thế này không giải quyết được các câu hỏi về nguyên nhân hậu quả – niềm tin vào Thượng đế có thể đã dẫn đến những trục trặc của xã hội – hoặc các trục trặc của xã hội có thể đã thúc đẩy niềm tin vào Thượng đế, yếu tố này có thể gây ra yếu tố kia, hoặc cả hai có thể đã nảy sinh từ các nguyên nhân sâu xa của điều ác. Tuy vậy, bỏ qua một bên vấn đề của nguyên nhân và hậu quả, các con số thống kê này đã chứng minh rằng chủ nghĩa vô thần là khát vọng căn bản của một xã hội dân sự; các con số thống kê ấy cũng chứng minh một cách đầy thuyết phục rằng, việc phổ biến niềm tin vào Thượng đế không bảo đảm gì cho sự lành mạnh xã hội.

Các quốc gia có trình độ cao về chủ nghĩa vô thần là những quốc gia có lòng khoan dung nhất, trong cả hai phương diện tỉ lệ bách phân tài nguyên họ cống hiến cho các chương trình an sinh xã hội và tỉ lệ bách phân của cải họ cho đi trong các viện trợ đến thế giới đang phát triển. Mối liên hệ không rõ ràng giữa chủ nghĩa Ki-tô nghĩa đen và các giá trị Ki-tô đã gây nên từ ảo tưởng của các sai lầm về sự công bằng xã hội. Hãy nhìn mức tỉ lệ lương bổng giữa các viên chức điều hành cao cấp với mức lương trả cho các công nhân trung bình cùng hãng xưỏng: ở Anh quốc là 24:1, ở Pháp 15:1, Thụy điển 13:1, ở Mỹ, nơi mà 80 phần trăm dân số mong đợi được vời đến trong ngày phán xét của Thượng đế là 475:1. Trông có lẽ như khối con lạc đà có thể đi lọt qua một cái lỗ kim.

Ai đã đặt điều tốt lành vào cuốn "sách tốt lành"?

Ngay cả nếu niềm tin vào Thiên chúa quả thực tạo nên một ảnh hưởng tốt và đáng tin lên phẩm hạnh của con người, thì yếu tố này cũng không đủ là một lý lẽ để tin vào Thiên chúa. Người tin vào Thiên chúa là người chỉ tin rằng Thiên chúa thực có hiện hữu. Ki-tô giáo không hẳn là đúng, ngay cả khi chủ nghĩa vô thần có dẫn thẳng đến cuộc khủng hoảng đạo đức. Có thể Hồi giáo mới là đúng trong trường hợp ấy. Hoặc tất cả các tôn giáo chỉ nên hoạt động như những loại thuốc trấn an. Như khi ra toa chữa bệnh cho vũ trụ, thuốc có thể là hoàn toàn giả, thế nhưng lại hữu ích. Tuy vậy, chứng cớ cho thấy rằng cả hai đều giả mạo và nguy hiểm.

Khi nói về những kết quả tốt lành mà niềm tin của bạn mang lại cho đạo đức con người, bạn đang noi gương những người tự do và ôn hòa tôn giáo. Thay vì nói rằng họ tin vào Thiên chúa vì một số tiên tri trong thánh kinh đã thật xảy đến, hoặc vì những phép lạ kể lại trong phúc âm đáng tin, những người tự do và ôn hòa có khuynh hướng nói về những hậu quả tốt lành của niềm tin như khi họ tin. Những người tin theo này thường nói rằng họ tin vào Thượng đế bởi vì niềm tin này "mang lại ý nghĩa cho đời sống của mình". Khi cơn sóng thần giết hại vài trăm ngàn người ngay sau ngày giáng sinh 2004, nhiều người Ki-tô giáo bảo thủ nhìn thiên tai này như một minh chứng cho cơn giận của Thiên chúa. Rõ ràng là Thiên chúa đã gởi một mã thông tri nữa đến bọn quỷ phá thai, sùng bái ảnh tượng và đồng tình luyến ái. Mặc dù tôi đánh giá những lý giải này như một sự kinh tởm cùng cực, nếu được gán một số giả định, hẳn nó cũng phải có một đặc điểm gì phải lẽ. Mặt khác, những người tự do và ôn hòa đã từ chối rút ra một kết luận nào về Thiên chúa trong công việc của ngài. Thiên chúa vẫn là một bí mật tuyệt đối, vẫn chỉ một nguồn an ủi tương thích bên một ác quỷ tàn phá hung hãn. Theo sau cơn sóng thần ở Á châu, những người tự do và ôn hòa lần lượt khuyên bảo nhau tìm Thiên chúa " không phải trong sức mạnh để dịch chuyển được cơn bão, mà trong chống trả của con người với cơn bão". Tôi nghĩ chúng ta có thể đồng ý rằng những tử thi trôi nổi được kéo vớt khỏi mặt biển là những bi�! ��u hiện của lòng bác ái từ chính con người chứ không phải từ Thiên chúa. Vào cái ngày cả hơn một trăm ngàn trẻ thơ thình lình bị giật xé khỏi vòng tay mẹ chúng rồi bị nhận chìm, thần học tự do phải đứng dậy để vén mở xem đó là điều gì: đó là những sự giả ngơ chết người nhất. Hiểu biết của Thần học về cơn giận của Thiên Chúa thật đã đi quá xa khỏi phẩm chất trí thức. Nếu Thiên Chúa hiện hữu và quan tâm đến việc đời của nhân loại thì ý nguyện của người không bí hiểm. Cái bí hiểm duy nhất ở đây chính là nhiều người đàn ông, đàn bà trí thức thông thái có thể chối từ cái thảm họa vô ích này để nghĩ đến những cao sâu của đạo đức.

CÙNG VỚI hầu hết những người Ki-tô khác, bạn tin rằng những sinh vật có thể chết đi như chúng ta không thể chối từ đạo đức của Thánh kinh. Chẳng hạn như, chúng ta không thể bảo rằng Thiên Chúa đã sai lầm khi dìm chết hầu hết nhân loại trong trận lũ lụt thời Sáng thế, bởi vì đấy chỉ là cách nhìn từ nhãn quan giới hạn của chúng ta. Thế nhưng, bạn lại cảm thấy mình ở được đứng vào vị trí để thẩm định rằng Jesus là con Thiên Chúa , rằng Khuôn Vàng Thước ngọc là đỉnh cao của đạo đức thâm thúy, rằng cuốn Thánh kinh tự bản thân không đầy ắp những điều dối trá. Bạn đang xử dụng chính trực giác của mình để xác thực cái uyên thâm của đạo đức – và rồi – ngay sau đó, bạn lại yêu sách rằng con người không thể dựa vào trực giác của mình để dẫn dắt mình đi đúng đường trên thế gian này; chúng ta phải nên dựa vào toa thuốc chẩn bệnh của Thánh kinh thì tốt hơn. Bạn đang dùng chính trực giác đạo đức của mình để xác quyết rằng cuốn Thánh kinh là bảo chứng đúng đắn nhất cho trực giác đạo đức của mình. Trực giác của bạn là cái chính yếu, lẽ phải của bạn thì lòng vòng.

Chúng ta quyết định xem điều gì tốt lành trong cuốn sách Tốt lành này. Chúng ta đọc Khuôn vàng Thước Ngọc và đánh giá đó là chắt lọc sáng giá từ rất nhiều thúc đẩy đạo đức của chúng ta. Sau đó, chúng ta bắt gặp lời một dạy khác của Thiên Chúa về đạo đức : Trong đêm động phòng, nếu người đàn ông khám phá ra người vợ của mình không còn trinh nữ thì y phải ném đá y thị cho chết đi tại ngay thềm cửa nhà cha của y thị (Deuteronomy 22:12-21). Nếu là con người văn minh, hẳn chúng ta phải chối bỏ ngay hành vi này như thể một thứ điên rồ, ghê tởm có thể tưởng được được. Hành động như thế là cần đến sự thực hành trực giác đạo đức của mình. Sự tin rằng cuốn Thánh kinh là chính lời của Thượng đế chẳng giúp gì chúng ta cả.

Chọn lựa của chúng ta rất đơn giản: Hoặc chúng ta sẽ có một cuộc thảo luận của thế kỷ hai mươi mốt về đạo đức học và phẩm hạnh nhân loại – cuộc thảo luận mà mình sẵn sàng với mọi sáng suốt của khoa học và các tranh biện triết học vốn tích lũy từ hơn hai ngàn năm qua trong tiến trình phát triển nhân loại – hay là chúng ta tự giam mình vào một cuộc thảo luận của thế kỷ thứ nhất như đã được bảo quản cất giữ trong cuốn Thánh Kinh. Tại sao lại có ai đó muốn một cuộc thảo luận thứ hai ?

Lòng Từ tâm của Thiên chúa

Ở một nơi nào đó trên thế gian này có một người đàn ông bắt cóc một bé gái. Chẳng bao lâu sau đó, y hãm hiếp, hành hạ và giết bé đi. Nếu sự man rợ loại này không xảy ra đúng vào lúc này, nó có thể xảy ra tối đa là trong một vài giờ hay vài ngày nữa. Chúng ta biết chắc như thể rút ra từ các phép thống kê đang khống chế đời sống của sáu tỉ người. Các thống kê tương tự cho thấy rằng cha mẹ của bé gái này tin – cũng như bạn đang tin – rằng có một Thiên chúa toàn năng đầy lòng bác ái đang quan phòng đến họ và gia đình họ. Họ tin như thế có đúng không? Và có tốt đẹp gì không khi họ tin như thế ?

Không.

Tất cả chủ nghĩa vô thần nằm trong câu trả lời này. Chủ nghĩa vô thần không phải là một trường phái triết học. Cũng không phải một quan điểm về thế gian. Chủ nghĩa vô thần chỉ đơn giản chấp nhận những gì rõ ràng. Thực ra, "Vô thần" là một từ vốn không nên có. Không ai cần phải minh định mình là một người "không chiêm tinh học", hoặc "không giả kim học". Chúng ta không có từ diễn tả những người còn ngờ rằng Elvis vẫn còn sống hoặc các thứ người hành tinh đã du hành qua dải ngân hà chỉ để để quấy nhiễu các chủ trang trại và gia súc của họ. Vô thần chỉ là những âm vang từ những con người biết phải quấy trước sự hiện diện của những niềm tin tôn giáo vô lý. Người vô thần đơn giản chỉ là người tin rằng 260 triệu người Mỹ (87 phần trăm dân số Mỹ) nhận rằng họ "không bao giờ nghi ngờ hiện hữu của Thượng đế" nên có trách nhiệm chứng minh sự hiện hữu ấy của Ngài, và, ngay cả cho tình bác ái của ngài trước những hủy diệt không ngừng của nhân loại mà chúng ta đang là nhân chứng mỗi ngày. Người vô thần là người tin rằng việc sát hại đứa bé gái đơn độc – dù chỉ xảy ra một lần duy nhất trong cả triệu năm – cũng đủ để nghi ngờ ý tưởng của một Thiên chúa nhân từ.

Các thí dụ về sự thất bại của Thiên chúa trong việc bảo vệ nhân loại có thể được nhìn thấy đầy rẫy mọi nơi mọi chốn. Thí dụ như thành phố New Orleans vừa bị hủy diệt bởi cơn bão dữ Katrina. Hơn một ngàn người tử vong, hàng chục ngàn người mất đi tất cả tài sản trần gian của mình, và gần một triệu người phải rời bỏ nơi ăn chốn ở. Vậy thật không sai khi nói rằng hầu hết mọi người sống ở New Orleans vào thời điểm cơn bão Katrina tràn đến đã chia xẻ với quý bạn niềm tin vào một Thiên chúa toàn năng, toàn trí và nhân từ. Thế nhưng Thiên chúa đã làm gì khi Katrina ngập tràn rác rưởi khắp thành phố ? Chắc chắn là Thiên chúa đã nghe thấy lời cầu kinh của những người già cả, phụ nữ phải chạy lên rầm thượng tìm nơi an toàn để trốn khỏi cơn sóng dữ đang dâng lên, rồi cũng bị nhận chìm chết đuối. Ðó là những con người của đức tin. Ðó là những người đàn ông, đàn bà tốt lành đã đọc kinh cầu suốt cả đời mình. Bạn có can đảm chấp nhận sự hiển nhiên này không? Quả là những người đáng thương này đã chết vì chuyện trò với một người bạn tưởng tượng.

Dĩ nhiên, đã có những cảnh báo kịp thời về một cơn bão "có tầm cỡ kinh thánh" sẽ đổ vào New Orleans, và sự đối phó sau đó của con người với tai họa đã là một thảm kịch bất lực. Thế nhưng đó là một sự đối phó không tương ứng dưói ánh sáng của khoa học. Còn tôn giáo thực không mang đến cơ bản nào cho sự đối phó. Các cảnh báo trước về đường tiến của bão Katrina đạt được từ cuộc vật lộn với thiên nhiên câm lặng, từ tính toán của thiên văn học và các ảnh chụp từ vệ tinh. Thiên chúa không hề cho ai biết trước các kế hoạch của Ngài. Nếu như các dân cư ở New Orleans từng đồng lòng dựa cả vào thiện tâm của Thiên chúa, họ đã chỉ có thể biết cơn bão chết người đổ xuống mình khi cuồng phong thực sự tạt vào mặt mình. Thế nhưng, chắc bạn cũng không ngạc nhiên khi kết quả cuộc thăm dò của tờ Washington Post đã cho thấy 80 phần trăm những nạn nhân sống sót sau cơn bão Katrina đã nhìn nhận rằng biến cố bão ấy chỉ làm vững mạnh hơn niềm tin của họ vào Thiên chúa.

Trong lúc cơn bão Katrina đang nuốt chửng New Orleans, gần một ngàn người Shiite hành hương đã giẫm đạp lên nhau mà chết ở một cây cầu tại Iraq. Những người hành hương này tin tưởng mãnh liệt vào đấng Thiên chúa trong kinh Koran. Thực vậy, cuộc sống của họ được tổ chức chung quanh thực tế không thể tranh cãi về sự hiện diện của ngài: phụ nữ phải phủ mạng che mặt trước ngài, nam giới thưòng xuyên giết hết người này đến kẻ khác vì tranh nhau diễn giải lời dạy của ngài. Thật là ngoại lệ nếu có kẻ sống sót đơn lẻ nào mất niềm tin từ những thảm kịch này. Thường thì những kẻ sống sót tưởng tượng rằng mình được tha chết do ơn huệ của Thiên chúa.

Ðã đến lúc để chúng ta ý thức cái không giới hạn của chủ nghĩa tự yêu mình và tự dối mình từ những người được cứu sống. Ðến lúc để chúng ta nhận thấy thật đáng hổ thẹn đến thế nào khi những kẻ sống sót từ trận thiên tai có thể tin rằng họ được tha chết bởi một Thiên chúa nhân từ, trong khi cũng Ðấng ấy nhận chìm những trẻ thơ trong nôi của chúng. Một khi bạn ngưng trùm tấm chăn tôn giáo tưởng tượng của bạn lên cái thực tế đau khổ của thế giới, bạn sẽ nhận ra mạng sống quý báu đến dường nào và, từ đó nhận thấy được nỗi bất hạnh của hàng triệu con người đã bị tước đoạt hạnh phúc của họ một cách đau khổ mà không vì nguyên nhân gì cả.

THỬ HỎI một cơn thiên tai đã lớn lao và vô lý đến chừng nào mới lay chuyển được đức tin của thế gian. Lò thiêu Holocaust đã không lay chuyển được. Nạn diệt chủng ở Rwanda cũng không, ngay cả có những tu sĩ mang gươm giáo giữa những thủ phạm. Năm trăm triệu ngưồi chết vì bệnh đậu mùa trong thế kỷ hai mươi, đa số là trẻ thơ. Phương cách của Thiên chúa thật bí hiểm. Dường như tất cả thực tại, bất kể là bất hạnh đến đâu, có thể đáp trả tương xứng với đức tin của tôn giáo.

Lẽ tất nhiên, hết bận này đến lượt khác, con người của mọi đức tin luôn quả quyết là Thiên chúa không chịu trách nhiệm gì về đau khổ của con người. Thế thì còn gì khác để chúng ta tin vào khẳng định rằng Thiên chúa đế là toàn năng và toàn trí ? Dĩ nhiên, đây là câu hỏi cũ rích dành cho thần học và chúng ta có thể cho rằng câu hỏi đã được giải đáp. Nếu Thiên chúa hiện hữu, hoặc ngài đã không thể làm gì để chặn đứng các tai ương thái quá ấy hoặc ngài không muốn ngăn chặn. Do đó, Thiên chúa hoặc là bất lực hoặc là một con quỷ. Ðến đây chắc bạn muốn biểu diễn động tác múa ballet xoay tròn để đáp rằng: Thiên chúa không thể bị đánh giá bằng những tiêu chuẩn đạo đức của con người. Nhưng chúng ta đã thấy tiêu chuẩn đạo đức của con người là chính những tiêu chuẩn mà bạn dùng để dựng nên lòng nhân từ của Thiên chúa ngay từ khởi điểm. Và bất kỳ Thiên chúa nào có thể lo lắng cho chính mình bởi những chuyện tầm thường như hôn nhân đồng tính hay bởi danh xưng mà Ngài được nhắc đến trong các bài kinh cầu nguyện thì không có gì là bí hiểm cả.

Dĩ nhiên, còn một khả năng khác, vừa hợp lý vừa ít đáng ghét nhất: đó là vị Thiên chúa trong Kinh thánh là không có thật, tương tự như thần Zeus và hàng ngàn vị thần đã chết khác mà hầu hết nhân loại tỉnh táo đều không để ý đến. Bạn có thể chứng minh rằng thần Zeus không hề hiện hữu? Dĩ nhiên là không. Vậy thì, hãy tưởng tượng mình đang sống trong một xã hội mà hàng năm con người tiêu hàng chục tỉ bạc tiền thu nhập của họ để làm nguôi giận các thần trên đỉnh Olympus, trong khi chính phủ chi ra nhiều tỉ bạc khác từ tiền thuế để hỗ trợ cho các cơ quan dâng hiến cho các thần này, cùng lúc ấy, nhiều tỉ bạc khác lén lút lấy từ trợ cấp thuế mang hiến tặng cho các đền thờ ngoại giáo, đồng thời các viên chức dân cử đang làm hết sức mình để ngăn chặn các nghiên cứu y khoa gây mất lòng Iliad và Odyssey, và trong khi tất cả các tranh luận về chính sách công cộng đều đả phá các ý tưởng kỳ quặc của các tác giả cổ đại từng viết hay nhưng không biết gì về thực tế của thiên nhiên để loại phân ra khỏi thức ăn của họ. Ðây đúng là một sự biển thủ khủng khiếp cho tài nguyên, đạo đức và tri thức. Thế nhưng đấy chính là cái xã hội chúng ta đang sống. Ðấy là một thế giới phi lý cùng cực mà bạn và những người Ki-tô hữu của bạn đang cật lực tạo nên.

Thật khủng khiếp là chúng ta sẽ chết đi và mất đi tất cả những gì chúng ta yêu thương. Thật khủng khiếp là quá nhiều con người đang phải sống mà chịu đựng những đau khổ không cần thiết. Và rất nhiều những đau khổ này đang trực tiếp quy cho tôn giáo – cho hận thù tôn giáo, chiến tranh tôn giáo, cấm kỵ tôn giáo, và các lệnh hướng tôn giáo về các tài nguyên hiếm- là những điều khiến sự phê phán chân thành về đức tin tôn giáo là một nhu cầu đạo đức và trí thức. Ðáng tiếc thay, việc diễn đạt những phê bình như thế đang đặt những người không tin theo tôn giáo ra ngoài lề xã hội. Chỉ việc va chạm với thực tại thôi, người không tin theo tôn giáo đã bị xem như kẻ đúng ngoài cuộc sống kỳ diệu của các láng giềng.

Sức mạnh của sự tiên tri

Người ta thường nói rằng thật có lý khi tin Thánh kinh chính là lời của Thượng đế bởi vì nhiều biến cố được kể lại trong Tân Ước đã xác định tiên tri của thời Cựu ước. Nhưng hãy tự hỏi chính mình, các nhà soạn phúc âm đã phải khó khăn đến dường nào khi phải kể lại câu chuyện về cuộc đời Jesus sao cho phù hợp với các tiên đoán trong Cựu Ước? Không phải Thánh kinh đã ở trong quyền lực của những người quá cố nào đấy để soạn lên một cuốn sách nhằm khẳng định các tiên đoán của cuốn sách trưóc đó? Thực tế, chúng ta đã biết về căn bản có chứng tích văn tự rằng đấy chính là cách mà các nhà soạn sách Phúc âm đã thực hiện.

Thí dụ như các nhà soạn phần Luke và Matthew công bố rằng Mary đã mang thai trinh nguyên, dựa vào việc Hy lạp trao trả lại Isaiah 7:14. Văn tự bằng tiếng Hebrew về Isaiah dùng chữ 'almâ" có ý nghĩa đơn giản là "người phụ nữ trẻ" chứ không mang ý ám chỉ gì về sự trinh nguyên. Chắc là cái niềm tin về sự hạ sinh đồng trinh, và hầu hết các hậu quả mối băn khoăn của thế giói Ki-tô giáo về tình dục, chính là sản phẩm dịch sai từ cổ ngữ Do Thái. Một phủ nhận khác về niềm tin vào sự hạ sinh trinh nguyên là ở chỗ nhiều nhà truyền giáo khác đã không hề nghe biết đến việc ấy. Cả Mark và John cùng bối rối trước lời kết tội rằng Jesus là kết quả của sự chửa hoang nhưng cả hai chẳng bao giờ nhắc đến nguồn gốc phép lạ của Người. Pauls nhắc đến Jesus như đã "sinh ra từ giống, da thịt của David" và "sinh ra từ một người đàn bà", mà không hề nhắc đến việc đồng trinh của Mary gì cả.

Các nhà truyền giáo cũng mắc những sai lầm khác về sự thông thái, thí dụ như, Matthew trong câu 27:9-10 đã khẳng định một câu châm ngôn có nguyên do từ sách Jeremiah. Trong khi đó câu châm ngôn này thực sự đã xuất hiện trong Zechariah 11:12-13 (về việc Judas bán Jesus lấy 30 miếng bạc, cũng là tiền mua ruộng của kẻ làm đồ gốm – ghi chú của người dịch). Các phúc âm cũng mâu thuẫn trực tiếp với nhau. John cho chúng ta biết rằng Jesus đã bị đóng đinh một ngày trước khi ăn bữa Passover; Mark lại bảo là ngày hôm sau. Với ánh sáng của những khác biệt đó, làm sao quý bạn có thể tin rằng tất cả mọi phần của cuốn Thánh kinh là hoàn hảo? Bạn nghĩ sao về Muslim, Mormons, và người Sikhs vốn thường không để ý đến những mâu thuẫn trong các sách thánh của họ? Họ cũng tuyên bố những điều đại loại như "Thần thánh thiêng liêng chỉ nhìn vào thực chất cốt lõi chứ không bị ràng buộc bởi ngôn từ" (Luthers). Như thế có khiến bạn chấp nhận kinh sách của họ như những lời hoàn hảo hơn của đấng tạo nên vũ trụ?

NGƯỜI KI-TÔ giáo thường xác nhận rằng sách Thánh kinh tiên đoán được những biến cố lịch sử ngày mai. Thí dụ như sách Deuteronomy 28:64 phán rằng " Và Đức cha sẽ rải các ngươi ra giữa mọi người, từ đầu bên này đến bờ bên kia của quả đất " Jesus nói, trong Luke 19:43-44 " Rồi các ngươi sẽ đến những ngày, khi quân thù sẽ dựng nên những bờ song chung quanh ngươi, bao vây các ngươi mọi phía, và ném ngươi xuống mặt đất, ngưoi và con cái ngươi bên trong, và chúng sẽ không chừa một hòn đá nào cho ngươi, bởi vì các ngươi không biết giờ thăm viếng của các ngươi" Chúng tôi nhắc đến để tin rằng nhưng lời phát biểu này sẽ tiên đoán lịch sử sau đó của người Do thái với những đặc điểm huyền bí như thế để chấp nhận một giải thích phi thường.

Nhưng hãy tưởng tượng xem cái công việc đặc biệt ngoạn mục của sự tiên tri như thế nào, nếu như đó là một sản phẩm của sự toàn trí. Nếu cuốn Thánh kinh là một cuốn sách như thế, ắt phải chứa đựng những tiên đoán chính xác hoàn hảo về những biến cố của nhân loại. Bạn phải nhận thấy cuốn sách chứa đựng những dòng như "trong nửa thế kỷ sau của thế kỷ thứ hai mươi, nhân loại sẽ phát triển một hệ thống computer liên lạc toàn cầu – những nguyên tắc mà ta đã nói trước ở Leviticius – và hệ thống này sẽ được gọi tên là internet". Thánh kinh không có những dòng tiên đoán như thế. Thực tế, cuốn sách đã không chứa đựng một dòng nào không từng được viết ra bởi những người sống trong thế kỷ thứ nhất. Điều này chắc phải gây phiền cho bạn.

Một cuốn sách được viết bởi một con người toàn trí có thể chưa đựng một phần về toán học mà sau hai ngàn năm xử dụng liên tục, vẫn còn là một nguồn sung mãn của thông thái toán học mà nhân loại từng được biết. Thay vì thế, cuốn Thánh kinh không hề chứa đựng những thảo luận nghiêm túc về toán lại còn chứa đựng những sai lầm hiển nhiên về toán học nữa. Cuốn sách lành này nói rằng tỉ số giữa chu vi và tâm của vòng tròn là 3:1 (I Kings 7:23-26 và II Chronicles 4:2-5). Thật không ấn tượng gì lắm khi đem so sánh một cách tương đối với hằng số Pi. Tích thập phân của hằng số Pi. chạy đến vô tận – 3.1415926535…- và hiện nay các máy điện toán hiện đại cho phép chúng ta tính toán được hằng số này đến bất kỳ mức chính xác nào chúng ta muốn. Trong khi cả người Ai cập và Babylons đều chỉ đánh giá gần đúng hằng số Pi ở một vài phần mười ở vài thế kỷ trước khi những cuốn sách cũ nhất về Pi hằng được soạn ra. Cuốn Thánh kinh mang đến cho chúng ta một con số phỏng chừng vốn quá tệ ngay cả khi căn cứ vào tiêu chuẩn của thời thượng cổ. Và không có gì ngạc nhiên, chính niềm tin đã tìm cách để hợp lý hóa điều này; nhưng những sự hợp lý hóa ấy không che dấu được các khác biệt rành rành của Thánh kinh như là nguồn gốc cho thông thái của toán học. Thật tuyệt đối chính xác nếu như nhà toán học Hy lạp Archimedes soạn những phần liên quan trong I Kings và II Chronicles, thì các văn tự sẽ mang được bằng chứng mạnh hơn về sự "toàn trí " của người viết.

Tại sao sách Thánh kinh không hề nói chi đến điện năng, hay về DNA, hay về kích thước và tuổi thực của vũ trụ? Thế còn về thuốc trị liệu cho bệnh ung thư thì sao? Khi chúng ta hoàn toàn hiểu tính sinh học của bệnh ung thư, hiểu biết này có thể dễ dàng tóm tắt lại trong vài trang chữ viết. Tại sao những trang như thế, hay một cái gì gần giống như thế không tìm được trong cuốn Thánh kinh? Ngay lúc này, người hiền lương, kẻ đạo đức giả đang chết một cách khủng khiếp từ chứng ung thư, và đa số là trẻ thơ. Thánh kinh là một cuốn sách vĩ đại. Thượng đế có chỗ để hướng dẫn chúng ta với đầy đủ chi tiết về cách giữ nô lệ và hy sinh rất nhiều loại động vật. Đối với những ai đứng bên ngoài đức tin Ki-tô giáo, thì thật là một sự ngạc nhiên cùng cực về sự tầm thường của cuốn sách và sao vẫn được nghĩ đến như một sản phẩm toàn trí .

 

(xem tiếp đoạn kế: Va chạm giữa Tôn giáo và Khoa học)

Va chạm giữa Tôn giáo và Khoa học

Hiện nay, khi sự phát biểu trung thực về mâu thuẫn giữa khoa học và tôn giáo là một nhu cầu đạo đức của các nhà khoa học thì Hiệp Hội Tri thức Khoa học lại khẳng định sự mâu thuẫn một cách viển vông:

Ngay tại căn nguyên của mối mâu thuẫn rõ rệt giữa vài tôn giáo và sự tiến hoá là sự hiểu lầm về cách hiểu những khác biệt căn bản giữa tôn giáo và khoa học. Các tôn giáo và khoa học giải quyết những vấn đề khác nhau của thế giới. Có hay không một mục đích cho vũ trụ hay một mục đích cho hiện hữu của nhân loại không phải là câu hỏi của khoa học. Phương cách hiểu biết mà khoa học và tôn giáo đang thực hiện và tiếp tục thực hiện giữ các vai trò riêng biệt trong lịch sử nhân loại… Khoa học là con đường dẫn đến hiểu biết thế giới tự nhiên. Khoa học giới hạn trong phạm vi giải thích thế giới tự nhiên thông qua những nguyên nhân tự nhiên. Khoa học không thể phát biểu gì về siêu nhiên. Thượng đế có hiện hữu hay không là một câu hỏi mà khoa học giữ thái độ trung tính.

Phát biều này thật choáng váng vì sự thiếu thẳng thắn. Dĩ nhiên, các nhà khoa học sống trong nỗi sợ hãi triền miên của việc mất đi ngân sách do công chúng tài trợ, vì thế Hiệp hội Tri thức Khoa học chắc chỉ đơn thuần diễn tả nỗi kinh hoàng thô thiển về đám đông đóng thuế. Tuy nhiên, sự thật là mối mâu thuẫn xung khắc giữa tôn giáo và khoa học là không thể tránh khỏi. Thành công của khoa học thường đến từ phí tổn của đức tin tôn giáo; sự duy trì đức tin tôn giáo luôn luôn đến từ phí tổn của khoa học. Các tôn giáo của chúng ta không chỉ đơn giản nói về "mục đích cho hiện hữu của nhân loại". Tương tự như khoa học, mỗi tôn giáo khẳng định những điều khác nhau về phương cách của thế giới. Những khẳng định này ngụ ý về những sự kiện – đấng tạo hoá có thể nghe (và sẽ đôi khi đáp lại) lời cầu nguyện của con người; linh hồn nhập vào hợp tử con người ngay lúc thụ thai; nếu ngươi không tin những điều tốt lành về Thượng đế, ngươi sẽ phải chịu đựng khổ đau mãi mãi sau khi chết. Những khẳng định như thế mâu thuẫn về bản chất với các khẳng định của khoa học, bởi vì những khẳng định đó dựa vào những bằng chứng tệ hại.

Trong ý nghĩa thoáng nhất, "science" (đến từ chữ Latin scire, "để hiểu biết") đại diện cho các nỗ lực cao nhất của chúng ta để hiểu biết cái gì đúng về thế giới của mình. Ở đây, chúng ta không cần phải phân biệt khoa học "nặng" hay khoa học "nhẹ", hoặc giữa khoa học với một nhánh khác của nhân loại như là lịch sử. Chẳng hạn, việc Nhật bản ném bom Trân châu cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941 là một dữ kiện lịch sử. Hậu quả đưa đến là, sự kiện này tạo nên một phần của thế giới quan về sự hợp lý có tính khoa học. Nếu có đủ dữ kiện minh chứng cho sự việc này, kẻ nào tin rằng sự kiện đã xảy ra trong một ngày khác, hoặc chính người Ai cập mới là kẻ bỏ bom chắc phải tốn kém rất nhiều giải thích. Cốt lõi của khoa học không chi phối đến các thử nghiệm hoặc tính tính toán khuôn mẫu mà là một sự chân thực trí thức. Khi suy nghĩ về sự chân thực của một định đề, người ta hoặc tham dự vào sự dịnh giá chân thực của chứng cứ và các tranh luận họp lý hoặc ngược lại. Tôn giáo là một khu vực cuả đời sống mà con người tưởng tượng rằng có thể áp dụng một loại tiểu chuẩn khác của liêm chính trí thức.

THỬ suy nghĩ về các tranh luận gần đây của các nhà thờ Công giáo đối với học thuyết về cái chết lâm bô. Ba mươi nhà thần học hàng đầu trên thế giới vừa gặp nhau tại Vatican để thảo luận câu hỏi rằng cái gì sẽ xảy đến cho các trẻ em chết mà chưa đưọc trải qua phép rửa tội báp têm. Từ thời trung cổ, thiên chúa giáo đã tin rằng các trẻ em đó sẽ được ở trong tình trạng lâm bô, nghĩa là chúng sẽ đưọc hưởng cái mà thánh Thomas gọi là " hưởng phước tự nhiên" vĩnh viễn. Điều này lại trái ngược với ý kiến của thánh Augustine, người đã tin rằng những đứa trẻ thiếu may mắn này sẽ phải đọa địa ngục đời đời.

Dù cái chết lâm bô không hề có một nguồn gốc nào từ kinh sử, và chưa bao giờ là một học thuyết chính thức của nhà thờ, nhưng thuyết này đã từng là một phần chính yếu trong truyền thống nhà thờ qua nhiều thế kỷ. Năm 1905, giáo hoàng Pius X đã hoàn toàn chấp nhận : "Con trẻ chết đi dù chưa chịu phép báp têm sẽ ở vào tình trạng chết lâm bô, nghĩa là dù chúng không biết đến Thượng đế, nhưng chúng cũng sẽ không phãi chịu hình phạt". Ngày nay, các tư tưởng lớn của nhà thờ đang cân nhắc lại về sự việc ấy.

Ai có thể nghĩ đến được một dự án đáng thương hơn về trí thức như thế này? Hãy thử tưởng tượng xem các bàn cãi này sẽ ra thế nào. Có khả năng mỏng manh nào cho ai đó trình bày được một bằng chứng cho thấy sộ phận đời đời của các đứa trẻ chưa chịu phép báp têm này sau khi chết đi ra sao không? Làm sao mà một ai có ăn học không thể nghĩ rằng những việc này chỉ là những việc mất thì giờ một cách khôi hài, kinh khủng và vô ý thức? Khi ai đó nghĩ đến thực tại rằng đây sẽ là cái lập thành đầu tiên để dẫn đến và chở che cho đạo quân tinh túy của sự quấy nhiễu tình dục trẻ em, cả công trình sẽ bắt đầu rỉ ra những mùi hương ma quỷ của sự phí phạm năng lực con người.

XUNG ĐỘT giữa khoa học và tôn giáo có thể rút gọn vào một sự kiện đơn giản trong tiến trình hiểu biết của con người: người ta hoặc là có lý lẽ đúng cho điều mình tin hoặc là không có. Nếu có lý đúng cho sự việc Jesus đã sinh ra từ sự đồng trinh, hoặc Muhammad đã bay về trời bằng một con ngựa có cánh, thì những niềm tin này sẽ tạo nên một phần những giải thích có ý thức của chúng ta về vũ trụ. Mọi người đều nhận ra rằng chỉ dựa vào "đức tin" để để phán đoán những vấn đề đặc biệt của thực tế lịch sử là một sự kỳ cục – trừ khi các cuộc thảo luận lại quay về nguồn căn của các kinh sách như cuốn Thánh kinh hoặc kinh Koran, trở về các câu chuyện trao đổi giữa Muhammad và thiên sứ Gabriel, trở lại chuyện sống lại của Jesus, hoặc các thứ tín điều tôn giáo khác. Đã đến lúc để chúng ta nhận ra rằng đức tin không gì khác hơn cái mà những người có giấy phép hành nghề đạo giáo trao cho nhau để tin tưởng khi thất bại trong lý lẽ.

Trong khi sự cả tin, không bằng chứng là nhãn hiệu của sự điên loạn hoặc ngu xuẩn trong nhiều lãnh vực của đời sống, thì đức tin vào Thiên chúa vẫn còn một niềm tự hào lớn lao trong xã hội của chúng ta. Tôn giáo là một lãnh vực được xem là cao quý trong việc giả vờ như đã chắc chắn về những việc mà không ai có thể xác quyết được trong các cuộc đàm luận của chúng ta. Nó cho thấy rằng cái tinh hoa này chỉ phát triển đến những đức tin vẫn còn được nhiều người đăng ký mua. Còn ai bị bắt gặp đang thờ kính Thủy thần, ngay cả trên mặt đại dương, cũng sẽ bị xem như kẻ mất trí. (4)

Thực tại của Đời sống

Tất cả các cuộc sống phức tạp trên thế gian đã được phát triển từ những cấu thành sự sống đon giản từ hàng tỉ năm trước. Đây là một sự thực không còn phải bàn cãi trong giới trí thức nữa. Nếu bạn ngờ rằng nhân loại đã chuyển hoá từ các sinh thể có trước, bạn cũng có thể ngờ rằng mặt trời là một vì sao. Giả dụ là như thế, mặt trời trông có vẻ không giống như một vì sao thông thường, nhưng chúng ta biết rằng mặt trời là một vì sao tự nhiên đã ở một vị trí gần với địa cầu hơn. Hãy tưởng tượng ra sự xấu hổ của bạn khi đức tin tôn giáo của mình lại cho rằng mặt trời đã không phải là một ngôi sao. Tưởng tượng xem hàng triệu người Ki-tô giáo ở nưóc Mỹ đã chi hàng trăm triệu đô la hàng năm để chiến đấu chống lại những nhà thiên văn học và các nhà vật lý học thiên thể không tin thiên chúa về quan điểm này. Hãy tưởng tượng họ đã làm việc miệt mài đam mê như thế nào để mang những quan điểm vô căn cứ của mình về mặt trời giảng dậy trong các trường học của chúng ta. Đây chính là hoàn cảnh của quý bạn trong mối liên hệ với sự tiến hóa.

Những người Ki-tô giáo nghi ngờ sự thật của tiến hóa có khuynh hướng phát biểu những điều như "Tiến hoá chỉ là một lý thuyết, không phải là một thực tại". Phát biểu như thế biểu lộ một loạt những hiểu lầm nghiêm trọng về cách xử dụng khái niệm "lý thuyết" trong các bàn luận khoa học. Trong khoa học, các sự kiện phải được giải thích trong mối tương quan với các sự kiện khác. Các khuôn thức giải thích rộng lớn hơn chính là "các lý thuyết". Các lý thuyết, trên nguyên tắc, tạo ra các tiên đoán đã được chứng nghiệm. Cụm từ " lý thuyết về sự tiến hóa" không hề có sự gợi ý tối thiểu rằng sự tiến hóa không phải là một thực tế. Người ta có thể nói về " lý thuyết mầm mống của bệnh tật" hoặc " lý thuyết về vạn vật hấp dẫn" mà không hề mảy may nghi hoặc rằng bệnh tật hay trọng lực không phải là những thực tế của thiên nhiên.

Cũng đáng để lưu ý rằng người ta có thể đạt đến văn bằng tiến sĩ trong bất kỳ ngành khoa học nào với mục đích không có gì khác hơn là xử dụng khoa học một cách bất chấp đạo lý của ngôn ngữ khoa học trong nỗ lực hợp lý hóa những điều rõ ràng không thỏa đáng trong Thánh kinh. Một nhóm người Ki-tô giáo đã làm như thế, một số người còn đạt được các bằng cấp của họ từ những trường đại học danh tiếng. Không nghi ngờ gì, những người khác sẽ đi theo các bước chân ấy. Dù những người này là các "nhà khoa học" đi nữa, họ thực không hành xử như những nhà khoa học. Họ hoàn toàn không tham dự vào cuộc tra vấn lương thiện về bản chất của vũ trụ. Và các tuyên ngôn của họ về Thượng đế cùng các thất bại của chủ nghĩa Darwin mà không có được một biểu hiện tối thiểu cho thấy có một cuộc tranh luận khoa học chính đáng về sự tiến hóa. Một cuộc thăm dò được thực hiện năm 2005 ở ba mươi bốn quốc gia nhằm đo lường tỉ lệ những người chấp nhận thuyết tiến hóa. Mỹ đứng hạng ba mươi ba, chỉ trên mỗi nước Thổ nhĩ Kỳ. Trong khi đó, kiểm tra kiến thức về toán và khoa học của học sinh trung học ở Mỹ thấp hơn học sinh ở Châu Âu và châu Á. Những dữ kiện này cho thấy rõ ràng chúng ta đang xây dựng một nền văn minh của sự ngu dốt.

Ðây là điều chúng ta biết. Chúng ta biết rằng vũ trụ có trước rất lâu hơn là như Thánh kinh chỉ ra. Chúng ta biết rằng tất cả các sinh vật phức tạp trên thế gian, kể cả chúng ta, đã tiến hóa từ những sinh vật lâu hơn trước đó qua tiến trình hàng nhiều tỉ năm. Bằng chứng cho sự việc này thì cực kỳ mạnh mẽ. Không còn thắc mắc gì rằng đời sống đa dạng mà chúng ta nhìn thấy chung quanh là sự diễn đạt của một mã số mầm sinh (genetic code) đã được ghi trong phân tử DNA, rằng DNA trải qua các cơ hội đột biến, một số đột biến làm gia tăng lợi thế tồn tại của các sinh vật và tái sản xuất trong một một trường đuợc cho trước. Tiến trình đột biến và chọn lọc tự nhiên cho phép các quần thể bị cô lập của những cá thể được lai giống và, trải qua thòi gian, để hình thành những sinh thể mới. Không còn thăc mắc gì nữa về sự việc con người chúng ta đã được tiến hóa từ những tổ tiên không phải con người. Từ các bằng chứng về gene di truyền, chúng ta biết rằng chúng ta có chung tổ tiên với loài khỉ, dã nhân, và các tổ tiên này đã có chung gốc nguồn với giống dơi và các loài vượn bay. Có một cội cây nhiều nhánh của sự sống mà ngày nay tính chất và hình thể của nó đã được thông hiểu khá tường tận. Hậu quả là, không có lý do gì để tin rằng các sinh vật cá thể đã được tạo nên trong hình dạng hiện tại của chúng. Tiến trình tiến hóa đã khởi đầu như thế nào vẫn còn là một bí mật, nhưng điều ấy tối thiểu không cho thấy rằng có thần thánh gì đang ẩn nấp trong đáy sâu c! ủa những sự kiện này. Ðọc các khẳng định từ kinh thánh tử tế sẽ thấy Thiên chúa đã tạo nên cây cỏ và muôn thú trong hình dạng mà chúng ta đang thấy ngày nay. Dứt khoát là cuốn Thánh kinh đã sai về sự việc này.

Hiện giờ, nhiều người Ki-tô giáo vốn nghi ngờ về sự thật của thuyết tiến hoá đang tán thành cho điều gọi là sự thiết kế thông minh (Intelligent Design). Vấn đề của Thiết kế thông minh (TKTM) là ở chỗ nó chỉ là một chương trình bênh vực chính trị, tôn giáo, giả trang khoa học không hơn không kém. Bởi vì niềm tin vào Thượng đế như trong thánh kinh không có được hỗ trợ nào từ các kiến thức khoa học về thế giới, các lý thuyết gia của Thiết kế Thông minh đã luôn luôn đặt cọc các khẳng định của họ vào những khu vực của sự ngu dốt về khoa học.

Cuộc tranh luận về TKTM đã đồng loạt tiến hành trên nhiều mặt. Như vô số những người vô thần trước kia, những nguòi hâm mộ TKTM đã biện luận rằng chính thực tế hiện hữu của vũ trụ chứng minh hiện hữu của Thưọng đế. Các biện luận đại loại xoay quanh rằng: bất kỳ vật gì hiện hữu đều có một nguyên nhân; không gian thời gian hiện hữu, do đó, không gian, thời gian nhất định phải được tạo nên bởi cái gì bên ngoài không gian, thời gian, và cái duy nhất vượt khỏi thời gian, không gian nhưng vẫn có một sức mạnh để sáng tạo chính là Thưọng đế. Nhiều người Ki-tô giáo như quý bạn nhận thấy lý lẽ này rất là thuyết phục. Thế nhưng, ngay cả chúng ta giả định rằng các khẳng định chính của thuyết này (mỗi khẳng định đòi hỏi đến nhiều bàn cãi hơn cả những gì mà các lý thuyết gia của TKTM từng chấp nhận) là đúng, thì kết luận chung cuộc lại không đến được. Ai là người để tuyên bố rằng kẻ duy nhất có thể tạo căn nguyên cho thời gian, không gian là một loài siêu nhân? Nếu như chúng ta chấp nhận rằng vũ trụ của chúng ta đơn giản là được thiết kế bởi một nhà thiết kế, cũng không có ý rằng nhà thiết kế này phải là Thượng đế của Thánh kinh, hoặc rằng đấng thiết kế ấy tán thành Ki-tô giáo. Nếu được thiết kế một cách thông minh, vũ trụ của chúng ta có thể đang vận hành như một mô phỏng từ một siêu máy tính của người hành tinh. Hoặc vũ trụ chúng ta là công trình của một Thiên chúa bị quý ám, hoặc của hai đấng đang kéo co ganh đua với nhau trong một vũ trụ rộng hơn.

Như nhiều phê bình về tôn giáo đã vạch ra, khái niệm về đấng sáng tạo dẫn đến một vấn nạn trực tiếp cho sự thoái bộ vô định. Nếu Thiên chúa tạo nên vũ trụ, cái gì đã tạo nên Thiên chúa? Bảo rằng Thiên chúa, như đã định nghĩa, là đấng không do đâu tạo nên thì đúng là lý luận lòng vòng. Ðấng nào có năng lực sáng tạo nên một thế giới phức tạp có lẽ bản thân cũng rất phức tạp. Như nhà sinh vật học Richard Dawkins đã nhiều lần quan sát, tiến trình tự nhiên duy nhất có thể sản xuất được một cái gì thiết kế nên sự vật mà chúng ta hằng biết đó chính là sự tiến hóa.

Sự thật là không ai biết bằng cách nào và vì sao mà vũ trụ này đi vào hiện hữu. Cũng không rõ ràng là chúng ta có thể phát biểu mạch lạc về sự sáng tạo nên vũ trụ, ngay cả khi biến cố như thế có thể cưu mang chỉ với sự tham chiếu vào thời gian trong khi chúng ta đang phát biểu về sự sinh sản của tự chính bản thân không-thời-gian. (5) Bất kỳ người lương thiện trí thức nào cũng sẽ phải thú nhận rằng mình không biết tại sao vũ trụ hiện hữu. Dĩ nhiên, các nhà khoa học đã thú nhận sự ngu dốt của họ về điểm này. Những người theo tôn giáo thì không thú nhận như vậy. Một trong những mỉa mai ấn tượng nhất của luận thuyết tôn giáo có thể đánh giá được là tính thường xuyên chê trách của những người có đức tin về những nhà khoa học và người không tôn giáo là sự kiêu căng trí thức trong khi tự ca tụng mình đức khiêm tốn của mình. Thực sự không có thế giới quan nào đáng trách như cái nhìn thế này của một người có đạo: đấng tạo dựng vũ trụ quan tâm đến tôi, công nhận tôi, yêu thương tôi, và sẽ thưởng tôi sau khi chết; niềm tin hiện tại của tôi, được rút ra từ thánh kinh, và sẽ mãi mãi là những khẳng định của sự thật cho đến ngày tận cùng của thế giới; kẻ nào không đồng ý với tôi sẽ vĩnh viễn rơi vào địa ngục… Một người Ki-tô giáo thông thường, trong một nhà thờ thông thường, lắng nghe một bài thuyết giảng chủ nhật thông thường này thực đã đạt đế! n một mức độ cao ngạo rồi.

HƠN 99 PHẦN TRĂM các sinh thể từng đi đứng, bay lượn hoặc bò trườn trên địa cầu này hiện đã tuyệt chủng. Riêng sự thật này thôi đã đủ bác bỏ thiết kế thông minh. Khi nhìn vào thế giới tự nhiên, chúng ta thấy sự phức tạp phi thường nhưng không thấy sự thiết kế tối ưu. Chúng ta thấy sự dư thừa, thoái bộ và sự phức tạp không cần thiết; chúng ta thấy sự thiếu khả năng một cách đáng hoang mang khiến dẫn đến đau đớn và chết chóc. Chúng ta nhìn thấy những loài chim không bay và loài rắn có xương chậu. Chúng ta thấy các sinh vật ngành cá, kỳ nhông, loài giáp xác có những con mắt nhưng không hề nhìn được, bởi vì chúng tiếp tục tiến hóa trong bóng tối lặng thầm cả triệu năm. Ta thấy cá voi có răng trong giai đoạn phôi thai nhưng rút bỏ không còn nữa khi khi trưỏng thành. Những đặc tính đó của thế giới chúng ta thực cực kỳ bí hiểm. Nếu như Chúa sáng tạo nên muôn loài trên cuộc sồng địa cầu này "một cách thông minh"; thì không có loài nào phải bối rối khó xử trong ánh sáng của sự tiến hóa.

Nhà sinh vật học J.B.S.Haldane được biết đã từng nói rằng, nếu có Thiên chúa, Người hẳn đã "có một niềm yêu khác thường cho các loài bọ". Có người đã hy vọng rằng kiểu quan sát phá bĩnh này sẽ mãi mãi gấp lại cuốn sách về sáng tạo luận. Sự thật là, trong khi hiện nay có vào khoảng ba trăm năm mươi ngàn loại bọ được biết đến, Thượng đế cho thấy lại dành nhiều tình thương hơn đối với loài vi khuẩn. Các nhà sinh vật học ước tính rằng tối thiểu mỗi loài động vật trên địa cầu có đến mười chủng loại vi khuẩn khác nhau. Dĩ nhiên nhiều vi khuẩn thì vô hại, và một số vi khuẩn cổ đại có thể đã đóng một vai trò quan trọng trong sự nảy sinh các sinh vật phức tạp. Nhưng các vi khuẩn có khuynh hướng xử dụng đến các cơ thể như của bạn và của tôi để làm bộ phận sinh dục vay mượn của chúng. Nhiều loại tấn công các tế bào của chúng ta chỉ để phá hủy. Phá hủy các tế bào của chúng ta một cách kinh khủng, không thương hại và không ngừng nghỉ. Các vi khuẩn như HIV, cũng như một số nhiều các loại vi khuẩn gây hại, có thể được nhìn thấy lúc nhúc ngay dưói lỗ mũi chúng ta, làm hại chúng ta vì những phát triển sức đề kháng chống lại các thuốc trụ sinh và chống vi khuẩn. Thuyết tiến hóa vừa tiên đoán vừa giải thích hiện tượng này; sách Genesis thì không hề. Làm sao bạn có thể tưởng tượng rằng đức tin tôn giáo mang lại những giải thích tốt nhất cho những thực tế này, hay là các niềm tin tôn giáo muốn nói đến mục đích thương xót sâu xa hơn của một sinh thể toàn trí ?

Cơ thể của chúng ta chứng thực tính đỏng đảnh và bất lực của tạo hóa. Khi còn nằm trong phôi thai, chúng ta có đuôi, có túi mang và một lớp lông như loài khỉ. Hạnh phúc thay, khi sinh ra chúng ta được mất đi những thứ phụ tùng quyến rũ ấy. Quy trình kỳ lạ của hình thái học này đã được giải thích sẵn sàng trong lý thuyết tiến hóa và các điều kiện về di truyền học ; nếu chúng ta là sản phẩm của một thiết kế thông minh thì những điều này là quá bí hiểm: nam giới có ống tiết niệu dẫn thẳng từ các tuyến tiền liệt. Tuyến này có khuynh hướng tăng trưởng, to ra trong suốt cuộc đời. Vì thế, hầu hết đàn ông quá tuổi sáu mươi có thể chứng thực rằng tối thiểu có một thiết kế trên địa cầu xanh tươi của Thiên chúa đã khiến người đàn ông ước ao phải chi đừng được như thế. Xương chậu của đàn bà đã không được thiết kế thông minh lắm khi nó phải được dùng để giúp vào phép lạ sinh sản. Từ đó, mỗi năm, hàng ngàn người phụ nữ phải đau đớn vì sanh lâu, sanh khó đến nỗi hậu quả dẫn đến chứng nghẹt thai. Phụ nữ trong các quốc gia đang phát triển bị tình trạng này thưòng bị chồng bỏ, hoặc phải đi ra khỏi làng mạc của mình. Quỹ hỗ trợ Dân số của Liên Hiệp quốc ước tính hiện nay có đến hơn hai triệu phụ nữ phải sống mang chứng nghẹt thai (fistula). (6)

Các điển hình của sự thiết kế không thông minh trong tự nhiên nhiều đến nỗi chỉ liệt kê ra thôi cũng cần đến cả một cuốn sách. Tôi xin tự cho phép mình kể ra một điển hình nữa mà thôi. Hệ thống hô hấp và tiêu hóa của con người cùng dùng chung một cơ phận bơm ở cuống họng. Chỉ riêng tại Mỹ, hàng năm, đặc trưng của thiết kế thông minh này đã khiến cả chục ngàn đứa trẻ phải vào bệnh viện cấp cứu. Hàng trăm đứa trẻ chết vì nghẹt thở. Nhiều trẻ khác bị tổn thương não không thể chữa trị được. Chủ đích nhân ái nào trong những sự việc này? Dĩ nhiên, chúng ta có thể tưởng tượng ra một mục đích: có lẽ cha mẹ của những trẻ em này cần được dạy một bài học; có lẽ Thượng Đế đã chuẩn bị một phần thưởng đặc biệt trên thiên đàng cho mỗi em bị tắc thở vì bình sữa. Tuy nhiên, vấn nạn chính ở chỗ những tưỏng tưọng như thế tương hợp với bất kỳ hiện trạng nào của thế gian. Có nỗi bất hạnh kinh hoàng nào không thể hợp lý hóa được bằng cách này? Và tại sao bạn thiên về cách suy nghĩ như thế? Suy nghĩ như thế thì đạo đức đến đâu?

Tôn giáo, Bạo hành và Tương lai của Nền văn minh

Cả tỉ người chia xẻ cùng niềm tin với bạn rằng đấng tạo dựng vũ trụ đã viết (hay đọc cho người khác viết) các cuốn kinh sách của chúng mình. Kém may mắn thay, có quá nhiều cuốn sách đã giả tạo như có nguồn gốc từ các tác giả thánh thần và đã khẳng định những điều không không giống nhau về việc tất cả chúng ta phải sống như thế nào. Các học thuyết tôn giáo cạnh tranh đã làm tan nát thế giới của chúng tan ra từng mảnh cộng đồng đạo đức riêng rẽ, và những chia rẽ này đã trở nên một cội nguồn liên tục của đối kháng nhân loại.

Ðể đáp ứng với tình hình này, nhiều người nhạy cảm cổ võ cho cái gọi là lòng khoan dung tôn giáo. Dù khoan dung tôn giáo chắc chắn là tốt hơn chiến tranh tôn giáo nhưng sự khoan dung không phải không có vấn đề của chính nó. Nỗi lo sợ của chúng ta về sự khiêu khích các hận thù tôn giáo đã dẫn chúng ta đến việc không sẵn lòng phê bình các tư tưởng đang ngày càng tăng thêm các áp dụng không đúng chỗ và lố bịch rõ rệt. Nỗi lo sợ này cũng ép buộc chúng ta phải tự lừa dối mình – lập đi lập lại và ở những mức cao nhất của bàn luận – về sự tương thích giữa đức tin tôn giáo và hợp lý khoa học. Những cạnh tranh về xác quyết tôn giáo của chúng ta đang cản bước xuất hiện của một nền văn minh toàn cầu vốn có thể thành tựu được. Ðức tin tôn giáo- đức tin cho rằng có một đấng Thiên chúa, Người quan tâm đến chính cái danh xưng mà mình đưọc xưng danh, đức-tin tin rằng Jesus sẽ trở lại thế gian, đức tin rằng các người tử đạo Hồi giáo sẽ đi thẳng lên Thiên đàng – đang ở phía sai lầm của cuộc chiến tranh tư tưởng đang leo thang.

Tôn giáo làm tăng những xung đột nhân loại hơn là sự đề cao bộ lạc, phân biệt chủng tộc, hoặc chính trị từng gây ra, vì đó là hình thái duy nhất của những suy tưởng của người cùng hội /kẻ ngoài hội, đúc khuôn được những khác biệt giữa con người trong các phạm vi về trừng phạt và phần thưởng đời đời. Một trong những bệnh lý học lâu dài của văn hoá nhân loại là khuynh hướng nuôi dạy trẻ em biết sợ hãi và quỷ ma hóa con người khác bằng những căn bản của đức tin tôn giáo. Do vậy, đức tin tối thiểu đã khơi dậy bạo hành trong hai cách. Một là, con người thường giết hại kẻ khác vì họ tin rằng đấng tạo hóa muốn họ phải hành động như thế. Những kẻ khủng bố Hồi giáo là thí dụ gần đây nhất cho hành xử loại này. Hai là, rất đông người rơi vào các đối nghịch với kẻ khác vì họ muốn vạch định tập thể đạo đức của mình trên căn bản của mối quan hệ tôn giáo: Hồi giáo đứng về phe những người Hồi giáo khác, Thệ phản giáo với thệ phản giáo, Công giáo với công giáo. Những xung đột này không chỉ dứt khoát vì tôn giáo. Nhưng sự mù quáng cố chấp và thù hận vốn chia rẽ cộng đồng này với cộng đồng khác thường còn là các sản phẩm của sự nhận dạng tôn giáo. Bỏi vậy, những xung đột dưòng như bị chi phối hoàn toàn từ những quan hệ trần thế này lại thưòng có căn nguyên sâu xa từ trong tôn giáo. Cuộc chiến đã quấy rối người Palestine (Do thái giáo chống Hồi giáo), vùng Balkans (Chính thống giáo Serbians chống Công giáo Croatians; Chính thống giáo Serbians chống Hồi giáo Albania! n và Bosnian), Bắc Ái nhĩ Lan (Phản thệ giáo chống Công giáo), vùng Kashmir (Hồi giáo chống Ấn độ giáo), Sudan (Hồi giáo chống Ki-tô giáo và những người theo thuyết vật linh), Nigeria (Hồi giáo chống Ki-tô giáo), Ethiopia và Eritrea (Hồi giáo chống Ki-tô giáo), Ivory Coast (Hồi giáo chống Ki-tô giáo), Sri Lanka (Phật giáo Sinhalese chống Ấn độ giáo Tamil), Phi luật Tân (Hồi giáo chống Ki-tô giáo), Iran và Iraq (Hồi giáo Shiite chống Hồi giáo Sunni) và vùng Caucasus (Chính thống giáo Nga chống Hồi giáo vùng Chechen, Hồi giáo Azerbaijan chống Công giáo và Chính thống giáo Armenie), tất cả chỉ là những trường hợp rất gần đây trong sự kiện này.

Và cho đến lúc này, khi các phân rẽ tôn giáo trong thế giới của chúng ta là hiển nhiên, nhiều người vẫn tưởng tượng rằng xung đột tôn giáo luôn luôn có nguyên nhân từ sự thiếu giáo dục, nghèo đói hay chính trị. Hầu hết những người không theo tôn giáo nào hoặc những người tự do, ôn hòa hình như cho rằng chẳng có ai phải thực sự hy sinh mạng sống của cá nhân mình hay của người khác vì các xác chứng tôn giáo của mình. Những người như thể đơn giản là chưa hiểu được việc muốn chắc được vào chốn thiên đàng là phải như thế nào. Do đó, họ không tin là có ai chắc chắn được lên thiên đàng. Ở đây, cũng đáng để nhớ lại là những không tặc của ngày 11 tháng 9 là những người tốt ngiệp cao đẳng, những con người trung lưu rõ ràng là chưa từng trải qua sự áp bức chính trị. Thế mà, họ đã bỏ rất nhiều thì giờ ở các đền thờ địa phương của họ để trao đổi về sự trụy lạc của những tên phản đạo và về những lạc thú đang dành cho những người tử đạo trên thiên đường. Phải cần đến bao nhiêu kiến trúc sư, kỹ sư húc vào bức tường ở tốc độ bốn trăm dặm một giờ trước khi chúng ta tự nhận rằng bạo lực thánh chiến ấy không một mảy may là sự kiện của thiếu giáo dục, nghèo kém hay chính trị? Sự thật, khá lạ lung là như thế này: vào năm 2006, một người có thể đủ trí tuệ cần thiết và tài nguyên vật liệu để tạo một quả bom hạch nhân và kẻ ấy vẫn tin rằng mình sẽ có được bảy mươi hai trinh nữ trên thiên đường. Những nhà tư tưởng thế tục, tự do và ôn hòa ở ph�! �ơng Tây đã rất chậm hiểu vấn đề này. Sự nhầm lẫn, bối rối có nguyên nhân rất đơn giản: Họ không biết rằng thế nào là sự cả tin vào Thượng đế.

Hãy để chúng tôi cân nhắc ngắn gọn xem những xác quyết trái nghịch của tôn giáo sẽ dẫn chúng ta về đâu trên bối cảnh toàn cầu. Hiện nay quả đất là nhà ở của khoảng 1.4 tỉ người Hồi giáo, đa số họ tin rằng có một ngày bạn và tôi hoặc sẽ cảỉ đạo trở thành Hồi giáo để sống khuất phục dưói một vị giáo chủ Hồi giáo, hoặc sẽ bị giết chết vì sự không tin theo của mình. Hồi giáo hiện là tôn giáo phát triển nhanh nhất ở Âu châu. Mức sinh sản của người Hồi giáo ở Âu châu nhiều gấp 3 lần ở các láng giềng không Hồi giáo. Nếu khuynh hướng hiện này cứ tiếp tục, và dù ngay ngày mai những cuộc di dân có bị chặn đứng lại, thì hai mươi lăm năm nữa, Pháp sẽ là quốc gia có đa số là Hồi giáo. Khắp Âu châu, các cộng đồng Hồi giáo thường rất ít có khuynh hướng thu nhận các giá trị dân sự và thế tục từ các nước chủ nhà của họ, lại còn lợi dụng tối đa những giá trị này, yêu sách đến sự tha thứ cho tính thù ghét phụ nữ, oán hận người Do Thái của họ, và lòng oán hận tôn giáo thường xuyên được rao giảng trong các đền thờ của họ. Cưỡng bức hôn nhân, giết người vì danh dự, hãm hiếp tập thể để trừng phạt và sự ghê tởm hành vi giao hợp đồng tính đến độ giết người, tất cả là hiện là những đặc điểm của một Âu châu thế tục khác nhờ vào Hồi giáo.(7) Sự phải đạo chính trị và nỗi lo sợ về sự kỳ thị chủng tộc đã khiến nhiều người Âu châu do dự trong việc chống lại các cống hiến tôn giáo đáng sợ của những người cực đoan lẫn trong họ. Với một vài! ngoại lệ, các khuôn mặt cộng đồng từng có can đảm nói thẳng về mối hiểm họa của Hồi giáo đối vói Châu Âu là những người Phát-xít. Ðây là một dự báo không lành mạnh cho tương lai của nền văn minh.

Ý tưởng cho rằng Hồi giáo là "một tôn giáo hòa bình bị những kẻ cực đoan cướp đoạt" là một ý tưởng hoang đường, và ý tưởng đó hiện là một hoang đường đặc biệt nguy hiểm vì Hồi giáo đang được thụ hưởng ý tưởng ấy. Không rõ chúng ta sẽ tiến hành cuộc đối thoại của mình với thế giới Hồi giáo bằng cách nào, nhưng tự đánh lừa mình bằng những uyển ngữ không thể là một giải pháp. Hiện nay, rõ ràng các phạm vi của chính sách đối ngoại nói lên sự thật là những cải cách thực sự trong thế giới Hồi giáo không thể áp đặt từ bên ngoài vào. Nhưng nhận thức được nguyên nhân tại sao như vậy là một điều quan trọng – sự thể như vậy là vì hầu hết những người Hồi giáo đều cực kỳ loạn trí bởi đức tin tôn giáo của họ. Người Hồi giáo có khuynh hướng thường nhìn các vấn đề của chính sách công cộng và xung khắc toàn cầu qua các phạm trù liên quan đến Hồi giáo của họ. Và người Hồi giáo nào không có cùng cái nhìn như thế sẽ có cơ nguy bị gắn cho nhãn hiệu bội giáo và bị những người Hồi giáo khác giết chết.

Nhưng làm sao chúng ta có thể mong thuyết phục những người Hồi giáo nếu như chúng ta không thể tự thuyết phục chính mình? Sẽ chẳng đạt được gì nếu chỉ khẳng định rằng "chúng mình thờ phượng cùng một Thiên chúa". Chúng ta không hề thờ phượng một Thiên chúa chung, và không có gì thực chứng cho điều này hùng hồn hơn là một lịch sử nhuộm máu vì tôn giáo của chúng ta. Trong nội bộ Hồi giáo, người Shi'a và người Sunni cũng không thể đồng lòng với nhau trong việc cùng thờ phượng một Thiên chúa chung, và chính vì lý do này mà họ đã chém giết lẫn nhau trong nhiều thế kỷ.

Dường như rất khó để hàn gắn được những rạn nứt trong thế giới chúng ta thông qua đối thoại giữa những người không cùng tín ngưỡng. Người Hồi giáo cuồng nhiệt cũng tin rằng tôn giáo của họ là hoàn hảo như chính bạn tin vào tôn giáo mình như thế và bất kỳ sự trệnh hướng nào cũng sẽ dẫn đến địa ngục. Lẽ dĩ nhiên, thật dễ dàng cho các vị đại diện các tôn giáo lớn thỉnh thoảng hội họp với nhau để cùng đồng ý rằng nên có hòa bình trên địa cầu, hay rằng là tình thương yêu sẽ là sợi chỉ xuyên suốt để kết hợp được tất cả các đức tin tôn giáo trên toàn cầu. Nhưng không thể thoát khỏi sự thực là niềm tin tôn giáo của một cá nhân đã đơn độc chi phối suy nghĩ của y về mối ích lợi của một nền hòa bình cũng như y thực sự muốn nói gì về "tình bác ái". Có hàng triệu – có lẽ hàng trăm triệu – người Hồi giáo sẵn sàng chết trước khi họ có thể cho phép phiên bản bác ái của bạn đạt được chỗ đứng trong các bán đảo Ả Rập. Làm sao mà các đối thoại không cùng tôn giáo, ngay cả ở cấp cao nhất, hoà hợp được những thế giới quan vốn đã không thể tương thích tự nền tảng, miễn nhiễm với những cải tiến tự trong nguyên tắc. Sự thật là, cái gì và nguyên nhân tại sao đã khiến nhiều tỉ người tin theo mới là điều hệ trọng.

 

(xem đoạn kết)

Kết luận

Một trong những thử thách lớn nhất đối với nền văn minh của thế kỷ hai mươi mốt là để cho nhân loại học hỏi được cách bày tỏ những quan tâm cá nhân sâu kín nhất của mình – về luân lý, kinh nghiệm tâm linh và những đau khổ không tránh khỏi được của con người – trong những phương cách không tỏa ra mùi vị phi lý. Chúng ta rất cần đến một cuộc bàn luận công khai để khuyến khích những suy tưởng phê phán và lương thiện trí thức. Không có gì ngăn cản dự án này hơn là lòng kính trọng mà chúng ta đang dành cho đức tin tôn giáo.

Chắc tôi là người đầu tiên thú nhận rằng các triển vọng nhằm tiệt trừ tôn giáo trong thời đại của chúng ta không được tốt đẹp lắm. Thế nhưng, một thú nhận tương tự như thế có thể đã từng xảy đến trong nỗ lực tiêu diệt tệ nạn nô lệ vào cuối thế kỷ mười tám. Ai hằng phát biểu tự tin về cuộc diệt trừ nô lệ ở Mỹ vào năm 1775 chắc chắn tưởng là mình phí thì giờ và phí thì giờ một cách nguy hiểm.

So sánh tương đồng ấy không được hoàn hảo lắm nhưng có tính gợi ý. Nếu như chúng ta có từng vưọt qua được niềm hoang mang về tôn giáo của chúng ta, chúng ta có thể sẽ nhìn lại giai đoạn này trong lịch sử nhân loại với nỗi kinh hoàng và hết sức sửng sốt. Làm sao mà con người ta có thể từng tin những điều như thế ở thế kỷ hai mươi mốt này. Làm sao người ta có thể để cho xã hội của họ trở nên vỡ nát một cách hiểm nghèo bởi những khái niệm trống rỗng về Thiên chúa và Thiên đàng? Sự thật là, một số niềm tin mà chúng ta hằng ấp ủ nhất đã đáng xấu hổ như con tàu chở nô lệ cuối cùng đến Mỹ trễ đến tận cuối năm 1859 (cùng vào niên đại mà Darwin xuất bản Nguồn gốc của Sinh vật).

Rõ ràng, đến lúc chúng ta phải học cách thoả mãn những nhu cầu xúc cảm của mình mà không phải ôm lấy sự lố bịch. Chúng ta phải tìm cách nào để mỗi khi cầu xin đến sức mạnh của các nghi thức tế lễ và ghi dấu các chuyển hoá của đời sống thường nhật vốn đòi hỏi đến chiều sâu – như các việc sinh sản, hôn nhân, tử biệt – mà không phải tự dối mình về chức năng tự nhiên của đời sống. Chỉ khi nào việc nuôi dạy con trẻ để khiến chúng tin mình là người Ki-tô giáo, người Hồi giáo hay người Do Thái giáo sẽ bị xem như một sự xuẩn ngốc lố bịch như chính bản thân sự việc ấy. Chỉ khi ấy chúng ta mới có được cơ hội hàn gắn những rạn vỡ quá sâu và nguy hiểm trên thế giới của chúng ta.

Tôi không hề nghi ngờ rằng sự chấp nhận chúa Ki-tô của bạn trùng hợp với những thay đổi tốt đẹp trong đòi sống của bạn. Có thể là bạn hiện đang yêu kẻ khác trong một phương cách mà bạn chưa hề từng nghĩ rằng bạn có thể yêu thương như vậy. Có thể bạn còn chứng nghiệm được cảm giác hạnh phúc khi bạn cầu nguyện. Tôi không hề có ý dèm pha bất cứ chứng nghiệm nào như thế của bạn. Tuy nhiên, tôi chỉ muốn vạch ra rằng, hàng tỉ con người khác của cả nhân loại đang có cùng những chứng nghiệm tương tự – nhưng họ có chứng nghiệm ấy khi suy tưởng về Khrisna, hoặc Allah, hoặc Phật thích ca, khi sáng tạo nghệ thuật, âm nhạc, hay khi suy tưởng về vẻ đẹp của thiên nhiên. Không có nghi ngờ gì về năng lực chứng nghiệm những chuyển biến sâu sắc của con người. Và không có nghi hoặc gì về khả năng diễn đạt sai những chứng nghiệm ấy, và đi xa hơn nữa trong sự tự lừa dối mình vể bản chất của thực tại. Dĩ nhiên, bạn có lý khi tin rằng cuộc đời còn có những điều quan trọng hơn là việc chỉ am hiểu cơ cấu và nội dung của vũ trụ. Nhưng điều này không hề khiến những khẳng định phi lý và không thể biện giải đưọc về cấu trúc và nội dung của vũ trụ trở nên đứng đắn hơn.

Thật là quan trọng để ý thức được rằng khác biệt giữa khoa học và tôn giáo không phải là vấn đề ở sự việc loại trừ trực giác luân lý và chứng nghiệm tâm linh của chúng ta ra khỏi cuộc bàn luận về thế giới; mà vấn đề là ở sự chân thật của chúng ta về những gì chúng ta có thể kết luận hợp lý được từ căn bản của chúng. Có những lý lẽ đúng để tin rằng những đấng như Jesus và Phật thích Ca không hề nói điều vô nghĩa khi phát biểu về năng lực con người của chúng ta để chuyển hóa đời sống chúng ta bằng những phương cách đẹp đẽ và hiếm có. Nhưng bất cứ khám phá chân thực nào của luân lý hay suy tưởng cuộc sống đòi hỏi các tiêu chuẩn giống nhau về tính hợp lý và tự phê phán để làm sinh động tất cả các bàn luận trí thức.

Như một hiện tượng sinh học, tôn giáo là sản phẩm của tiến trình nhận thức vốn có gốc rễ sâu trong quá khứ tiến hoá của chúng ta. Một số nhà khảo cứu đã nghiên cứu rằng có lẽ bản thân tôn giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc khiến cho các nhóm lớn các con người tiền sử gắn bó xã hội với nhau. Nếu điều này là đúng, chúng ta có thể nói rằng tôn giáo đã cống hiến một mục đích quan yếu. Tuy vậy, điều này không có nghĩa là tôn giáo đang cống hiến một mục tiêu quan yếu cho ngày hôm nay. Cuối cùng, không có gì tự nhiên hơn sự hãm hiếp. Nhưng không ai có thể biện luận rằng hãm hiếp là tốt, hoặc hãm hiếp là thích ứng với một xã hội dân sự, bởi vì hãm hiếp có thể có thể đã từng là một lợi thế tiến hoá cho tổ tiên của chúng ta. Một tôn giáo từng phục vụ cho một số chức năng cần yếu cho chúng ta trong quá khứ không thể ngăn ngừa khả năng là tôn giáo ấy đang là bước cản lớn nhất cho việc xây dựng một nền văn minh toàn cầu của chúng ta.

LÁ THƯ này là một sản phẩm của một sự thất bại. Thất bại của những cuộc tấn công đầy tài năng vào tôn giáo từng đến trước đây, thất bại của nhà trường chúng ta trong việc làm thế nào để đả thông được cái chết của Thiên chúa đến từng thế hệ, thất bại của truyền thông trong sự phê phán các khẳng định tôn giáo thấp hèn của những con người thuộc công chúng của chúng ta – thất bại lớn, hoặc nhỏ đã giữ cho mọi xã hội trên địa cầu này cứ luẩn quẩn lúng túng về Thiên chúa và khinh miệt những ai luẩn quẩn lung túng bằng cách khác.

Những người không tin vào tôn giáo như cá nhân tôi đứng cạnh bạn, lặng người đi bên lũ Hồi giáo đang cầu tử thần đến trên cả đất nước của bao người còn đang sống. Nhưng chúng tôi cũng lặng người đi vì bạn nữa – vì sự từ chối cái thực tế hiển nhiên của bạn, vì sự khổ đau mà bạn đang tạo ra trong sự phục vụ cho những bí hiểm tôn giáo của bạn, và bởi vì những dính líu của bạn với một Thiên chúa tuởng tượng. Lá thư này là là diễn đạt của những sửng sốt ấy – và, có lẽ của cả một niềm hy vọng nhỏ nhoi.

1. Nếu bạn có thể tin được : Vatican đang chống lại việc xử dụng bao cao su để ngăn ngừa bệnh HIV ngay cả giữa những người có cưới hỏi với nhau. Có tin đồn cho rằng Giáo Hoàng đang xem xét lại chính sách này. Hồng Y Javier Lazano Barragan, lãnh đạo Uỷ ban Y tế của tòa thánh , đã thông báo trên đài phát thanh Vatican rằng văn phòng của người đang " thực hiện một nghiên cứu sâu sắc rất kỹ thuật, khoa học, và đạo đức" về vấn đề này. Thật không cần phải nói, nếu học thuyết Nhà thờ thay đổi do kết quả của những cân nhắc đạo đức giả này, sẽ là một chỉ dấu cho thấy rằng không phải đức tin ấy thâm thúy mà là đức tin của giáo điều ấy đã phát triển không thể cứu chữa được nữa.

2. Hitler đã nói trong bài diễn văn đọc ngày 12 tháng 4 năm 1922. (Norman H. Bayes, ed. The Speeches of Adolf Hitler, April 1922- August 1939. Vol. 1 of 2, pp. 19-20. Oxford University Press, 1942":

Nhận thức Ki-tô giáo của tôi đã dẫn tôi đến với Thiên Chúa và bậc cứu rỗi mình như một chiến sĩ (…) Trong tình yêu không bờ bến của một người Ki-tô hữu và của một con người, tôi đã đọc được những dòng ẩn ngữ dạy chúng ta biết cuối cùng đức Chúa đã dương cao sự vĩ đại của người, nắm giữ lấy tai ương để quét sạch lũ rắn độc khỏi Ðiện thờ. Cuộc chiến đấu cho thế giới chống lại nọc độc Do Thái của người lớn lao biết dường nào …là người Ki-tô giáo tôi còn có trách nhiệm với riêng dân tộc của mình.

3. "phỉ báng huyết thống" (với chủ ý nhằm đến người DoThái) gồm các cáo buộc sai lầm rằng người Do Thái đã giết hại những người không phải Do Thái để lấy máu của họ dùng vào những nghi thức tế lễ . Sự kết án này vẫn còn được tin là thật ở nhiều nơi trong các nước Hồi giáo.

4. Sự thật cần được nói, hiện nay tôi nhận được các điện thư phản kháng từ những người khẳng định với tất cả chân thành rõ rệt, rằng họ tin Thuỷ thần (Poisedon) và các thần linh khác của thần thoại Hy lạp là có thật.

5. Thí dụ như nhà vật lý học Stephen Hawking hình dung không-thời gian như một hiện hữu đa dạng kín, bốn chiều, không có đầu, không có cuối (giống như bề mặt của một quả cầu)

6. Ðể chữa trị chứng sanh nghẹt thai, chỉ cần đến một giải phẫu đơn giản-chứ không cần phải cầu nguyện. Dù nhiều người có đức tin vẫn cứ tin rằng cầu nguyện có thể chữa lành nhiều căn bệnh (bất kể là các chúng bệnh đã được các khảo cứu khoa học tốt nhất tìm ra) Chuyện cầu nguyện này cũng kỳ cục ở chỗ là người ta chỉ cầu nguyện trong những trường hợp bệnh tật hoặc thương tích có giới hạn thôi. Chẳng hạn như không ai tin rằng lời cầu nguyện có thể khiến cụt tay chân có thể mọc ra lại. Sao không nhỉ? Giống kỳ nhông có thể làm được việc này, đoán chừng là không phải cầu xin gì. Nếu Thiên chúa từng đáp lại lời cầu xin, sao Người không đôi lúc chữa lành một trường hợp cụt tay chân Và sao người có đức tin không trông mong vào cầu nguyện trong những trường hợp ấy?

7. Phụ nữ, khi dám chối từ các hôn nhân cưỡng ép, đòi ly dị, phạm tôi ngoại tình hoặc ngay cả khi bị cưỡng hiếp, là nạn nhân của các sách nhiễu tình dục thường bị xem là đã "làm mất danh dự" của gia đình mình. Các phụ nữ trong tình huống này thường bị sát hại bởi chính người cha đẻ, anh em trai của họ hoặc có khi từ sự hợp tác của những phụ nữ khác. Giết người vì danh dự, có lẽ, quan niệm đúng nhất là một hiện tượng văn hóa (hơn là thuần túy tôn giáo), và nó không chỉ xảy ra riêng trong thế giới Hồi giáo. Tuy nhiên, hành vi này, đã có hậu thuẫn đáng kể từ Hồi giáo, khi tôn giáo này rõ ràng coi người phụ nữ như tài sản của người đàn ông và xem ngoại tình như một trọng tội. Trong khắp thế giới Hồi giáo, người đàn bà nào dám thưa mình bị cưỡng hiếp sẽ phải nhận lãnh sự nguy hiểm của việc bị giết hại như "kẻ ngoại tình" bởi lẽ, cuối cùng người đàn bà ấy cũng phải nhận tội đã có quan hệ thân xác với kẻ không phải chồng mình.

Có một trang WEB rất phi thường đang dốc lòng khám phá bí hiểm này: