
Thông tin ebook
Tên truyện: Ở Đất Kẻ Thù
Tác giả: Lê Lan Anh
Thể loại: Văn học trong nước
Nhà xuất bản: Văn Học
Ngày xuất bản: Tháng 08/2007
Số trang: 200
Kích thước: 14,5 x 20,5 cm
Trọng lượng: 220 g
Số quyển / 1 bộ: 1
Hình thức bìa: Bìa mềm
Giá bìa: 29.000 VNĐ
———————————-
Nguồn: http://www.quansuvn.net
Đánh máy: ptlinh, hoacuc
Chuyển sang ebook (TVE): santseiya
Ngày hoàn thành: 05/03/2009
Nơi hoàn thành: Hà Nội
Mục Lục
Tặng con trai – Niềm hứng khởi vô tận
người luôn đứng phía sau dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
“
Chúnq ta đang sống trong một kỷ nguyên, khi mà các nền văn minh khác nhau phải học cách cùng sống trong hòa bình, học hỏi lẫn nhau, nghiên cứu lịch sử tư tưởng, văn hoá, nghệ thuật của nhau; cùng nhau làm phong phú thêm cái vốn của những nền văn mình khác nhau.
Đi ngược lại, thế giới nhỏ bé chật chội này chỉ còn lại sự hiểu lầm, căng thẳng, va chạm và thảm họa…
Một trật tự thế giới dựa trên các nền văn minh là một bảo đảm an toàn nhất chống lại chiến tranh thế giới
”
LESTER PEASON[1]
1950
Chắc chắn cần nghiên cứu dĩ vãng để học ở đó nhiều điều hay, tránh điều ác hại.
Cho nên không quên đi dĩ vãng.
Người ta vẫn thường nói vậy
Lời nói đầu
Thật bất ngờ khi những trang viết về chiến tranh vạm vỡ, bạo liệt và khá dạn dày này lại là của một cây bút nữ. Cứ tự hỏi, là phụ nữ sao chị không bắt chước người ta chuyên mải mê khai thác những gì gần gụi, quấn quýt xung quanh mình như tình yêu, tình vợ chồng, tình tay ba tay tư, nỗi buồn công sở, cảnh đời trái ngang, thói đời đen bạc, yêu nhau, gài nhau, nỗi niềm đường phố, trắc trở nhân duyên, đàn ông là gì, đàn bà là sao… có phải dễ hơn, truyền cảm hơn, thiện hạ thời nay thích đọc hơn và sức đi con chữ dồi dào hơn không? Vậy mà chị lại đi vào một đề tài quá chừng hóc búa. Hóc búa với người viết, người in và cả người đọc. Nhưng vẫn xông vào. Thì ra cát sân chơi văn chương tưởng như vu vơ, tưởng như lắm lúc vô tích sự này cũng đòi hỏi con người ta phải có dũng khí và niềm đam mê đáo để.
Nhưng vẫn rất đàn bà. Chiến tranh nhìn qua lăng kính đàn bà. Vì thế mà nó giàu chất vân vi, tự sự và độ tiết chế nữ tính. Máu lửa, chết chóc, hoành tráng, đau thương tột cùng ư? Có cả đấy nhưng thật may là tác giả đã không quá sa đà. Sa đà thì nặng lắm, dài dòng biên niên sử lắm, khó đọc và cũng khó in. Chiến tranh chỉ là cái nền để cho tâm trạng, tính cách, số phận con người bay lên. Trong đó, số phận của tên tù binh phi công Mỹ bị bắn rơi xuống một làng quê có những nông phu lành hiền, nghèo cực, tần tảo đã được khắc họa khá tài tình và công phu. Cái lạc hậu và cái văn minh, sự hiện đại và sự chân chất, điều thiện và điều ác, ý nghĩa xâm lược và triết lý tự vệ được va chạm, phá vỡ và đào bới đến tận đáy đ�! � khẳng định một giá trị nhân bản mang tính cội nguồn của lịch sử loài người.
Để rồi, khi đọc xong cuốn sách dù chỉ vỏn vẹn gần hai trăm trang, dù đôi chỗ còn vụng dại, ta bỗng nôn nao tự hỏi, cái gì sẽ tồn tại và ngự trị trong dòng đời đầy rẫy hiểm nguy và bão tố này. Để có nắng gió thơ thới hôm nay dân tộc ta đã phải gồng mình trải qua những ngày tháng đau thương khủng khiếp như thế nào. Phải chăng tất cả nằm trong đôi mắt trẻ thơ và cái chết của cô bé Na. Đôi mắt chỉ có tình thương, đôi mắt không có hận thù, đôi mắt thiên sứ, đôi mắt đứng trên tất cả các cuộc giao tranh đầy tội ác và hư vô của con người và cuối cùng đôi mắt ấy cũng bị nhắm lại vĩnh viễn bởi chính sự hận thù đó.
Với sự kết hợp khá mềm giữa văn học, thi ca và điện ảnh, giữa tả thực và cách điệu, tác giả đã tạo nên một cái nhìn mới về chiến tranh, một đề tài nếu không khéo sẽ rất dễ giẫm chân vào các lối viết đã thành hào thành rãnh của người đi trước.
Cuốn hút và xúc động. Có lẽ chỉ cần nói gọn một câu như thế về cuốn sách này. Và đó cũng là bản chất của một cuộc đi khai khẩn tìm đường trên lộ trình văn chương rất đỗi chông gai. Xin chúc mừng văn đàn có thêm một cây bút nữ lịch lãm và giàu tâm huyết.
Nhà văn Chu Lai
Chương 1
Mặt trời đỏ ối nằm hóng gió trên rừng núi Lam xanh ngắt sau một ngày cần mẫn thổi lửa xuống trần gian. Dòng Mạ bắt nguồn từ dãy Lam, uốn mình chảy giữa các vách núi và cánh rừng. Khi cách biển chẳng bao xa nó bỗng thắt lại bồi đắp cho hai bờ những bãi cát trắng, lách nhẹ qua đám sình lầy, lượn vòng qua mấy quả đồi rồi hối hả xuôi ra biển.
Chỉ có hai cái làng may mắn được sinh ra từ hai bờ cát ấy. Một làng trải dài giữa dòng sông và đường quốc lộ – làng Trà. Làng kia – làng Hà – nép mình vào núi, đón gió sông, tách khỏi những phần đất còn lại của huyện Tân Thành.
Những tia nắng vàng nhạt cuối cùng đang rủ nhau kéo về sau núi tiếng ai khoả nước vội vã rửa rau ở cầu ao, tiếng mẹ cao giọng gọi lũ tre chơi mê mải, tiếng nồi niêu tất bật va vào nhau lách cách ở góc bếp…
Mùi lá khô, mùi khói bếp hòa trộn với hương ngan ngát của hoa chanh, hoa bưởi đang nhè nhẹ bay lên…
Làng Hà thảnh thơi duỗi mình vào buổi chiều mát rượi…
Ở giữa làng, trong căn nhà ngói năm gian kẻ truyền được nâng đỡ bằng hàng cột lim đen bóng, ông Bi đang thong thả châm ba nén hương vào cái đèn dầu cháy nhỏ như hạt đậu xanh trên bàn thờ. Chúng run rẩy, lóe sáng.
Hôm nay là ngày giỗ lần thứ mười bốn của bà An – vợ ông. Chả thế mà cái lư đồng sáng choang giữa bát cơm và cái đĩa đựng một quả trứng cùng mấy hột muối.
Ông Bi lặng lẽ cầm mấy nén hương lên cái bát nhang được đặt trước tấm hình truyền thần lồng kính đã ngả vàng. Một khuôn mặt phụ nữ trẻ, đôi mắt mở to như đôi mắt trẻ thơ đa! ng chăm chú nhìn ông…
Ông đứng thẳng, vuối cái áo nâu, thả quần xuống cho ngay ngắn, hai tay chắp trước ngực, nhìn đăm đăm vào đôi mắt to trên bức ảnh. Ông cúi đầu vái ba vái rồi lẩm nhẩm… Ông đang cầu khấn, đang tâm tình với người đã khuất hay với chính mình, chẳng biết nữa…
Ông Bi đứng im, miệng mấp máy, thỉnh thoảng dừng lại, nghẹn ngào, chớp chớp đôi mắt… Ông như đang cùng vợ lội về quí khứ xa xôi…
Mấy củ khoai luộc đánh bạn với dăm quả cà muối đang nằm lăn lóc trên cái mâm gỗ ở dưới đất.
Cả cái làng Hà lâu nay cứ xầm xì, đồn đại chẳng biết thực hư thế nào về các đấng sinh thành ra cu Bi.
Nhiều người thao thao khẳng định rằng, mẹ cu Bi chính là cô gái dở người từ đâu lạc tới, đi lang thang khắp làng, bạ đâu ngủ đấy, thế nên… Bố cu Bi thì đích thị là người làng này rồi, còn ở đâu được nữa! Có người ngó trước ngó sau rồi thì thào rằng cu Bi là kết quả của bác Trương tuần qua một đêm dốc lòng cho sự bình yên của làng xóm…
Thôi thì thêu dệt đủ chuyện, chẳng hiểu thực hư thế nào, chỉ có một điều chắc chắn là cu Bi đã được nhặt ở góc đình, nằm trơ trọi, thoi thóp thở…
Cái làng Hà này tuy nghèo xơ nghèo xác nhưng đâu có thể ngồi yên mà giương mắt lên nhìn thằng bé đáng thương chết dần chết mòn! Thế nên cu Bi mới được truyền từ bầu vú này sang bầu vú khác khắp trong làng.
Dường như thấu hiểu cái phận bú đậu, bú nhờ, bữa có bữa không nên được dịp là cu cậu cứ hóp má lại mà mút, làm cho cái đám con ruột của mấy bà cho sữa cừ ! khóc ng�! ��n ngặt vì đói.
Thế là các vị chức sắc trong Hội đồng kỳ mục phải một phen vất vả bàn đi tính lại rồi cuối cùng quyết định giao cu Bi cho bà Có góa chồng, không con, lủi thủi ở cái lều cuối cùng. Để trả công, làng sẽ cấp cho bà một mảnh ruộng nhỏ từ đất công và miễn cho vài khoan đóng góp khác…
Ngày hai bữa, lúc chắt nước khoai, lúc chắt nước cháo, bà Có tận tình chăm bẵm cho thằng bé.
Dân làng Hà cũng chẳng vô tình để mặc cho bà sớm hôm một mình vất vả, nên ai kéo dậm đi ngang cũng sẻ cho con tôm cái diếc, ai bới khoai cũng bớt cho lưng rổ, bát canh, quả cà
Cuộc sống của bà góc với thằng con hoang lần hồi được bảy năm thì bà Có lăn ra chết. Thế là cái lều rách mướp của bà bị bỏ hoang, cu Bi bước ra đời, bắt đầu một cuộc sống tự lập, vất vưởng…
Mùa hè thì dễ, thiếu gì chỗ ngả lưng. Mùa đông cũng chẳng sao! Bếp nhà ai mà nỡ đóng cửa với thằng bé tứ cố vô thần đang run lên cầm cập.
Cái tên Bi cũng chẳng biết do đâu mà có, hay vì cu câu cứ lăn lóc hết góc bếp, cuối sân lại đầu đình nên người ta mới gọi là Bi. Chỉ độc mỗi cái tên, chẳng có họ hay đệm lót gì sất: Bi – thế thôi!
Có điều, dân làng cũng chẳng phải lo vì cu Bi được việc lắm! Nhà ai có đám: Bi ơi! Ruộng nhà ai thiếu nước: Bi đâu rồi? Thậm chí đào huyệt, bốc mả cũng qua tay Bi tất…
Có điều, dân làng chẳng bao giờ sai khiến cu cậu làm những công việc ở nhà trên. Bộ cánh đủ mầu che cái thân gầy còm và khuôn mặt ngồ ngộ của Bi cứ như sắp mang vận xui vào nhà họ.
Cái mặt nhỏ xương xương vời hai hàng lông mày lơ thơ như lạc lõng trên đôi mắt lanh lợi chẳng lúc nào chịu đứng yên, mũi hơi hênh hếch, hai cánh mũi mỏng nom rõ cả mấy mạch máu nhỏ li ti. Cái tội là ở ngay mồm: hàm răng cứa nhoài hẳn ra phía trước làm cho môi trên và môi dưới chẳng thấy dịp được gặp nhau. Nhưng tệ hơn cả là cái răng cửa ở bên trái. Dường như chưa hài lòng với vị trí của mình nên nó cứ cố nhô xa hơn để tách khỏi đồng ! bọn. Hễ lúc nào chủ nhân vò đầu bứt tóc là nó có dịp để chơi nổi! Nó thò hẳn ra, vênh vênh váo váo như thể chỉ có mình ta đây mới giúp được cho chủ nhân thoát khỏi tình trạng tắc tị này!
Cu Bi chẳng những được việc mà còn chịu khó lắm. Dù có phải làm kiệt sức, hết hơi, mình mẩy trầy trụa, cũng chẳng than lấy một lời. Bất kể đêm khuya rét mướt hay trời nổi bão giông cứ gọi là cu Bi có mặt liền.
Nhưng nơi mà cu Bi thích đến làm nhất là ở giữa làng, trong nhà ông Ty.
Từ đầu làng đi vào, theo con đường chính lát gạch tới giữa làng, ngay bên tay trái là cơ đồ mấy đời của dòng họ nhà ông Ty. Nhưng để vào được bên trong, khách phải bước qua cổng lợp ngói bề thế, hai cánh cửa gỗ lim được cài chốt ở phích sau giữ chặt cứng, chả mấy khi buông lơi.
Qua được cái cổng, khách cũng chưa thể bước ngay vào nhà mà phải đi tiếp trên một con đường nhỏ rợp bóng xoan. Bên phải là vườn rau nho đủ màu: xanh, vàn, tím, đỏ bốn mùa thay áo. Bên trái là cái ao rộng chừng non một sào, quanh năm bề bộn với đủ việc: nào bèo, nào cá, nào vịt, nào rau, thỉnh thoáng lại có đám tre cùng xoan dầm mình dưới bùn, chờ ngày vào việc.
Con đường nhỏ dẫn khách vào ngay sát cuối sân. Bên trái sân là khu vườn cây ăn quả. Thôi thì đủ cả, mùa nào quả nấy, lúc mít ổi, lúc bưởi, na, thị, lúc táo, khế… nhưng nổi bật nhất có lẽ là cây bưởi, gốc sần sùi, lá xanh um, đứng tách ra tận cuối dãy tường hoa, còng lưng nghiêng bóng mát.
Từ khu vườn nhìn sang bên kia sân là ngôi nhà chính năm gian lợp ngói hai mái. Hàng hiên chạy suối theo ! chiều d! ài của ba gian giữa, được che chắn bằng hàng giậu tre.
Bên trái ngôi nhà, nơi tiếp giáp vườn rau là cái giếng và bể nước mưa, nằm kế đó là bếp rồi đến chuồng bò.
Bên phải là dấy nhà ngang ba gian lợp rạ, có hàng hiên nhỏ chạy suối. Gian đầu chứa các dụng cụ nhà nông, gian giữa lóc nhóc khoai tây chờ nẩy mầm, gian cuối là nơi xay lúa giã gạo. Qua một khoảng đất nhỏ là khu chuồng lợn, chuồng gà, nhà xí.
Cả cơ ngơi được bảo vệ chắc chắn bằng dãy tường gạch cao quá đầu, bên trên còn được gắn mảnh sành, mảnh chai, như làm nản lòng những kẻ tò mò, ưa dòm ngó, hay tâm địa bất chợt xao động…
Nghe nói, để gậy dựng được cơ ngơi này, mấy đời các cụ tổ nhà ông Ty đã phải bao phen thi gan cùng với trời đất, bóp mồm bóp miệng
Bà Ty người bé nhỏ, nom cứ như đứa trẻ già trước tuổi, đi vào đi ra hệt cái bóng, cấm mở mồm nói được một câu! Cầu vái tứ phương, ăn chay niệm Phật, mãi tới lúc xế chiều bà mới cho ông một mụn con gái. Cầu mong cho con được an bình trong cuộc đời, ông bà đặt cho cô bé cái tên An.
Từ ngày An ra đời, dân làng lại càng hiếm khi nhìn thấy bà Ty hơn nữa. Cả đêm lẫn ngày bà đắm đuối với giọt máu muộn màng của mình, hết ôm ấp lại nựng nịu, nâng niu, chẳng rời xa nửa bước…
Nhưng trời cũng chẳng cho bà được chăm bẵm vỗ về con bé cho đến lúc nó nên người. Bà ra đi bỏ lại núm ruột của mình khi nó chưa bước đã ngã, đôi mắt lúc nào cũng mở to ngơ ngác như lạ lẫm với đời.
An lớn lên tính tình hệt như mẹ, ra vào làm lụng bình lặng như chiếc lá. Cái miệng nhỏ xíu chẳng mấy khi phải làm việc. Đôi mắt đen láy, lúc nhìn xuống nom buồn rười rượi, lúc ngước lên, mở to thì trong trẻo, thơ ngây.
Trai tráng trong làng anh nào cũng chết mê chết mệt! Chẳng biết có phải cái mỏng manh yếu đuối như cánh hoa cần được che chở của cô gái đã hút hồn họ hay cái cơ ngơi to đùng, đứng sừng sững giữa làng, cổng đóng then cài làm cho họ thèm muốn.
Cũng giống như mẹ, An chẳng mấy khi bước qua cánh cổng. Ngày đêm cô quanh quẩn nâng giấc cha già, vui vầy với đàn gà, bầy vịt, bận bịu với lũ lợn, vườn rau… Sự thiếu vắng của cô làm cho trí tưởng tượng của đám trai làng càng thêm bay bổng, càng háo hức.
Bi cũng chẳng nằm ngoại lệ! Dường như vì lớn hơn An đến cả chục tuổi nên cái đắm say của anh chàng lại càng thêm lắng sâu, đằm thắm…
Cứ mỗi lần được ông Ty nhắn tới để sai việc là Bi lại phi ngay ra cái ao cuối làng, hết vốc nước vỗ lên mái tóc lởm chởm gọt bằng dao, lại vuối vuối mớ vải vá chùm vá đụp. Nhưng thật khổ cho chàng, dù có vốc cạn hết nước ao mà vuối thì chúng cũn! g chẳng thẳng ra cho được!
Đôi chân như vừa được chắp cánh, vút một cái Bi đã tới giữa làng. Nhưng bỗng chúng như muốn khuỵu xuống, chỉ chực xoắn vào nhau khi đứng trước hai cánh cửa gỗ lim to đùng, lạnh lùng, đóng im ỉm. Cái đám mồ hôi mới lạ chứ, có mang vác cầy bừa gì đâu mà cứ thi nhau túa ra làm lấm cả cái mặt vừa mới được rửa. Cái tang ngực cung chẳng chịu yên, cứ gõ như trống đánh từng hồi làm Bi hoa cả mắt…
Rón rén bước vào sân, đầu cúi gằm, mồm dạ vâng lia lịa nghe ông Ty cắt việc, nhưng đôi mắt của Bi thì đảo hết từ nhà trên xuống nhà ngang, lục lọi khớp trong bếp, cổ tìm cho ra cái cánh hồng…
Năm thì mười họa cánh mắt của Bi mới chạm được vào An từ ở nơi rất xa, mờ mờ, ảo cho như ở cõi tiên! Họa hoằn lắm nàng mới ban ơn cho cái liếc thoáng cứ như làn gió lướt vội qua hũ tương, vại cà ở góc bếp. Thế cũng quá đủ để anh chàng si tình đứng chôn chân xuống đất, nhưng người thì lại lảo đảo như vừa trúng gió…
Thế rồi cơ may đã tới! Một buổi chiều sau cơn giông, ông Ty cho gọi Bi tới sửa gấp cái nóc chuồng bò vừa bị gió tốc.
Bi bước vào sân vừa đúng lúc ông già đang lom khom từ bếp bước ra, hai tay bưng bát cháo.
Chắc trời cũng mủi lòng cho trái tim vô vọng của anh chàng tội nghiệp nên mời khiến đôi bàn tay già cả của ông Ty trở nên vụng về, vô tích sự. Cháo trong bát bỗng sánh ra đổ ướt hết cái vạt áo bông duy nhất mà ông đang mặc. Thấy Bi đang đứng lớ rớ, ông tiện sai luôn:
– Vào bếp múc thêm cháo cho đầy rồi mang lên nhà trên cho cô!
Bi “Dạ&! #8221; m�! ��t tiếng tưởng chừng vang dội tới tận trời xanh! Ông Ty quay sang lườm một cái thật dài.
Cố kìm cho quả tim đang nhảy nhót bấn loạn đập đều lại, hai tay bưng bát cháo thành kính như dâng đồ lễ, Bi run rẩy, dò từng bước lên nhà trên.
Chàng Bi tài lắm! Đây là lần đầu tiên được đặt chân lên đấy thế mà Bi chả lạ lẫm gì, bước một cái thẳng ngay vào gian buồng bên phải, nơi An đang nằm sốt mê mệt.
Mới thoáng thấy bóng hình nàng trên cái giường nửa tối nửa sáng, Bi đã đứng sững lại, người lạnh toát, cháo trong bát sánh qua sánh lại chỉ chực trào ra
Mãi Bi mới lí nhí:
– Thưa
cháo… cháo ạ!
An cựa mình khó nhọc, đôi mắt nặng nề khẽ mở… Cô bỗng nhắm phắt ngay mắt lại, quay mặt vào trong tường, nói hắt ra, cộc lốc:
– Để đấy, ra đi…!
Bát cháo đã yên vị ở đầu giường rồi mà Bi chẳng chịu thoái lui. Làm gì có chuyện ấy! Chàng len lén lùi xuống cuối giường, chỗ tối nhất, rồi đứng ỳ ra đấy, dán chặt mắt vào cái lưng đang khẽ phập phồng thở nặng nhọc. Một nỗi xót thương vô hạn bỗng dâng lên, tràn ngập khắp trong lòng làm tim Bi thắt lại, hơi thở nghẽn nghẹn… Bi muốn chạy ngay tới ôm gọn cái lưng nóng bỏng ấy vào vòng tay, ve vuối cho tới khi nó dịu hẳn. Nhưng chàng chỉ đứng yên, người như hóa đá.
Tiếng An rõ ràng, lạnh lùng vang lên:
– Ra đi!
Bi giật mình, bừng tỉnh.
Chàng đi thụt lùi từ từ ra cho tới tận hàng hiên đôi mắt chẳng rời xa cái lưng bé nhỏ…
Vừa ra tới sân là Bi phóng ngay vào bếp, ngã người xuống đống rơm. Chàng nhắm mắt lại: trong bóng tối mờ mờ An vẫn nằm yên trong vòng tay Bi, người mát lạnh. Cơn nóng sốt của An giờ đã chuyển hết sang Bi làm chàng bừng bừng bốc lứa… Bi thờ dồn dập, ghì siết An, lăn lộn trên đống rơm, rồi vật nàng xuống đè nghiến lên trên. Cái đáy quần bỗng vụt căng ra chật cứng… rồi ướt nhơm nhớp.
Cái bếp bẩn thỉu đã biến mất, đống rơm ngứa ngáy sau lưng cũng chẳng còn, cái bụng lép kẹp đã ngừng sôi… Bi bồng bềnh trôi…
Ngoài trời, một cơn giông mới lại kéo tới. Mưa đổ xuống rào rào… Trời chuyển tối…
Một góc mái chuồng bò vẫn trống hoác…
Thùng, thùng, thùng… ti�! �ng trống dồn dập của đội Cải cách huyện như đánh thức khát vọng bao đời của dân làng Hà bừng tỉnh!
Khi thế giới đang đi những bước cuối cùng của cuộc cách mạng công nghiệp thì người làng Hà vẫn mải mê bám vào đất.
Đất là tất cả: là cuộc sống, là hạnh phúc, là hiện tại, là tương lai. Tất cả đều dính chặt vào đất. Vì thế, bốn chữ “NGƯỜI CẦY CÓ RUỘNG” ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu như có ma lực làm cho cái làng vốn bình bình, cai phận bỗng sôi lên sùng sục.
Cả tháng nay không ai thiết gì tới làm ăn: chẳng nhổ cỏ, tát nước, kéo vó, bới khoai. Lũ lợn bị bỏ đói cứ lồng lộn đạp chuồng đòi sổ ra, mấy con bò thiếu cỏ rống lên từng hồi… Trẻ con cũng chẳng màng tới cây khăng, hòn bi. Chúng còn mải mê ra đình cùng người lớn xem những trò mới lạ.
Nghe đâu trên Huyện đã phân bổ “nhẹ tay” một phần trăm địa chủ cường hào cho cái làng xơ xác này. Cả làng chỉ có vài mảnh ruộng nằm sít chân núi, quanh năm trông ngóng mấy vụ lạc, vụ khoai ngoài bãi sông, thử hỏi đào đâu ra cho đủ một phần trăm ấy.
Dĩ nhiên, tất cả các vị chức sắc của Hội đồng hương chính thì chẳng chạy đâu cho thoát. Nhưng một phần trăm trên dân số khoảng chừng một phần tư vạn người, như vậy là phải cần tới hai mươi lăm cái tên, mà các vị trong đám kể trên mới chỉ gánh được non nửa. Thôi thì, ông thầy đồ gàn dở, lão lang băm mắt toét, mấy bác trung nông mới ngóc đầu dậy… cũng đồng loạt được nâng bậc, nghiễm nhiên trở thành “cường hào, ác bá”. Ông Ty, tất nhiên, cũng nằm ở giữa cái da! nh sách ! ấy.
Tuần đầu, đấu tố nhằm vào các vị Lý trưởng, Lý phó, Chánh tổng, Trương tuần… diễn ra thật sôi nổi, đầy phấn khích.
Những ấm ức bao đời, những bất công oan trái tưởng chừng như phải bọc kín lại mà mang theo xuống mồ, nay được mang ra khêu cho vỡ, cho bục.
Những từ ngừ cao xa mà mấy anh mấy chị nông dân cục mịch chưa từng một lần được nghe tới, tự dưng cứ tuôn ra ào ào
Nào là “bắt rễ xâu chuỗi”, “Việt gian bán nước”, “cường hào, các bá”, … vang lên choang choang suối cả tuần không dứt.
Dân làng hả hê, phấn khởi…
Nhưng sang tuần sau, khi đấu tố tập trung vào các vị vừa được “nâng bậc” thì tình hình khác hẳn.
Trước mắt họ, ông thầy đồ bị trói gô lại, đầu cúi gằm, ông này tuy có khó tính khó nết nhưng không có ông thì lũ trẻ lấy đâu ra câu văn, cái chữ? Gặp lúc cần viết văn tự, tờ đơn lá sớ thì biết nhờ vào đâu?
Còn kia là lão lang băm đang run lên cầm cập. Mắt tuy lèm nhèm, thuốc men thì nhì nhằng nhưng thử hói đêm hôm không may mà bị cảm mạo thì lấy đâu ra mấy lá cao mà dán vào người?
Đằng kia nữa là ông Máy, khỏe mạnh vào bậc nhất làng, làm ăn hùng hục cứ như trâu, luôn mồm không ngớt van xin… Tuần trước hơn nửa số người ngồi đây đã chả khề khà chén rượu mừng con gái ông đi lấy chồng?
Thế nên dù tiếng trống có thùng thùng dồn dập bao nhiêu cũng chẳng thúc được ai đứng lên mà kể tội cho ngọn ngành, chỉ tổ làm cho bà con thêm nhốn nháo kinh động.
Buổi đấu tổ phải giải tán giữa chừng. Lãnh đạo đội Cải cách họp lại ngay lập tức. Họ nhận thấy rằng phải khẩn trương thành lập đội du kích làng, tập họp từ những thành phần bần cố nông để “bắt rễ xâu chuỗi” và giữ trật tự an ninh.
Tất nhiên Bi đứng đầu danh sách tuyển chọn và được chấm ngay vào cái chức Đội trưởng đội du kích xã Phú Hoà – tên mới của làng Hà – vừa giầu vừa hòa hợp, thật thỏa cho cái mong ước của bà con, dù mới chỉ ở trên giấy! Mà cũng chỉ ở trên giấy thôi, giữa dân làng với nhau họ vẫn chỉ dùng cái tên có từ thời khai thiên lập địa.
Bi cũng có cái tên mới rất kêu, thích hợp với vị trí của mình: Nguyễn Quyết Chiến. Chẳng những thế mấy anh cán bộ còn xoay sở đâu cho chàng một bộ cánh khá bảnh để vĩnh biệt cái tấm che thân rách mướp đủ mầu. Bi còn kiếm thêm đoạn dây thừng, thắt vào quanh bụng, nom gọn gàng mạnh mẽ hẳn ra! Chưa hết, cả đội du kích thì chỉ vác gậy, riêng chàng được giao hẳn một cây súng kíp dài lòng thòng, vác lên vai trông rất oai phong!
Tối tối, Bi còn tới cả lớp học bình dân nữa. Bi chăm chỉ lắm ngó trước ngó sau, hễ chẳng thấy ai là chàng ta lại cầm c! ái que vạch ngay xuống đất mấy con chữ vừa mới học, uốn môi, cong lưỡi tập đánh vần. Bất kể giấy tờ gì có cái chữ mà vào tay Bi là chàng lại tìm ra một góc lấy ngón tay lần chỉ vào đó ê a đọc. Thế nên, Bi tiến bộ nhanh lắm, chẳng mấy chốc mà chả vượt chỉ cô An, nghe đâu đã đọc thông viết thạo.
Đêm đêm, ở lớp học bình dân học vụ ra, Bi rảo bước tuần quanh làng. Nỗi vất vả đêm hôm vì an ninh trật tự của xóm làng chẳng thấm đâu so với những cực nhọc đã đeo bám Bi từ tấm bé. Cái làm chàng khốn khổ lúc này có ngờ đâu chính lại là lũ chó.
Trước đây, chắc vì đã quá quen với bộ cánh đủ màu vá chằng vá đụp nên chúng cứ để mặc Bi ra sáng vào tối. Nay bỗng dưng trông chàng sáng sủa, bảnh chọe, chúng lại đâm ra nghi ngờ… Cứ thấy Bi ở đâu là chúng đuổi theo sủa om sòm.
Có đêm đang đi tuần, con chó nhà ai như bỗng hóa rồ, lao vút ra từ cái giậu dâm bụt, ngoạm ngay lấy một miếng vào cái ống quần mới toe của anh tân đội trưởng.
Thế là từ hôm đó, bất kể nắng mưa, sáng tối, cái ống quần lúc nào cũng được xắn cao trên cái đầu gối củ lạc: nhỡ lũ chó có nổi điên thì cùng lắm cũng chỉ đớp được vào cái cẳng khẳng khiu, nâu bóng. Chả sao, vài hôm nữa lại có lớp da mới! Chứ để chúng cắn rách quần thì kiếm đâu ra cái mới mà thay, còn gì là oai phong nữa!
Dân làng bây giờ cấm có ai dám cợt nhả, xưng mày xưng tao với Bi. Thấy Bi đâu là họ lánh ngay đi chỗ khác, nếu không tránh được thì len lét, ấp úng:
– Chào… Bi, À, anh…
– Quyết Chiến – Bi gằn giọng nhắc.
“! ;Lũ này sao dốt quá, có thế mà cũng không nhớ!” Bi hậm hực.
Khổ nỗi, cái tên Quyết Chiến quá lạ lẫm với họ, đâu có như Tí, Tèo… Hơn nữa "Quyết Chiến” mà vang lên thì nghe cứ như có tiếng giáo tiếng mác khua nhau lẻng xẻng ngoài trận mạc, làm rợn cả người, chả trách cái đám dân cày chẳng thể nào nhớ nổi!
Những lúc này, nơi Bi nóng lòng muốn đến “giương oai” nhất tất nhiên là cái nhà ở giữa làng. Ông chủ của nó mới ở buổi đấu tố về, mặt còn xanh lét như cái lá bưởi ngoài vườn.
Đội Cải cách vừa xứ bắn ông Tam, trước kia từng là giáo làng, sau này phong thanh nghe đâu là Chủ tịch kháng chiến bí mật.
Ông Tam là người thâm trầm, kiệm lời, dường như để bù lại cho mụ vợ lắm điều nhất cái xóm giữa. Hơi động chuyện là cái mồm của mụ lại ngoác ra, quang quác… Nhất là cái độ mụ mất con gà mái đang đẻ trứng mỗi ngày. Xót ruột, mụ chạy ra giữa làng, váy xắn cao tớn lên, hai chân nhẩy câng câng, một tay chống nạnh, một tay giơ lên xỉa xỉa ngón tay trỏ như muốn đâm cho nát cái mặt thằng bất nhân đã nẫng mất con gà của mụ. Môi mụ vén cong lên, mồm lúc há toác ra chửi, lúc mím chặt rủa rin rít qua kẽ răng. Mụ chẳng cần chỉ mặt gọi tên nhưng cái cũng hiểu là mụ đang chửi cái thằng con hoang đêm qua vừa lảng vảng gần nhà mụ. Mụ chửi có vần có điệu, càng chửi càng trơn tru, trẻ con bu vào xem đông lắm.
“Chém cha năm đời mười đời thằng con nào
Dám vào đây trộm gà của bà…
Ở nhà bà nó là con gà, về nhà mày nó là con cú con cáo…"
Ác nỗi “ca vũ dân gian” lại được biểu diễn ngay giữa làng, trước các cổng gỗ lim.
Bi vừa ức vừa xấu hổ, mặt hết tái mét lại đỏ phừng phừng: “Trong nhà chắc nghe rõ lắm…” Bi hoảng hốt.
Nghèo thì đã hẳn rồi, nhưng Bi chẳng bao giờ có lòng tham vô lối đó. Bi chỉ muốn đập vào giữa cái mõm đơm đặt dựng chuyện, nhưng chàng đâu có dám.
Bi đành lủi ra đình, trốn vào một góc, nhưng tiếng chửi vẫn cứ bám chặt ngay sau lưng, rát bỏng. Bi cúi gằm đầu xuống, áp chặt đầu gối vào hai tai, mắm môi mắm lợi nuối xuống cái cục ức đang chẹn ngang cổ…
Nay thì thật hả hê, Bi cứ lòng mình mà nói ra, trơn tru, chân thật, làm cảm kích tất ! cả những người đang có mặt.
Câu chuyện của Bi đã khơi mào cho những sự việc tưởng chừng như vặt vãnh bình thường trong sinh hoạt của nhà ông Tam thành các vấn đề mang tính giai cấp. Nào là “đi đâu cũng tay xách tay cặp…” – xa rời quần chúng rồi… “ăn cơm chẳng ngồi phệt xuống đất mà lại vắt vẻo trên ghế…” – rõ là cái thói tiểu tư sản, “đọc sách hình như chẳng phải là chữ Việt
Trí tưởng tượng của đám đông đang phấn khích trở nên phong phú, hoạt động không ngừng. Một sức mạnh mới lan truyền từ người này sang người khác kéo họ phăng qua những gì mà mới hôm qua thôi còn coi là phi lý, trái đạo làm người?
Đám đông thi nhau vung tay vung chân, thao thao những điều tự tưởng tượng. Ông Tam càng nghe tội của mình, mặt càng thộn ra, nhiều lúc trông ngây ngô đến tội nghiệp?
Rồi ông bị trói gô vào cọc như con chó và được gia ân trước khi chết bằng một cái giẻ nhét vào mồm để đỡ phải kêu gào thảm thiết!
Đầu ông Tam gục ngay xuống khi khói súng còn khét lẹt, máu chảy ròng ròng… Không hiểu bằng sức mạnh nào ông lại vụt ngẩng lên, máu trong cổ họng ộc ra, trôi phăng cả cái giẻ. Rồi như trút toàn bộ sức lực còn lại, ông khều khào:
– Bác ơi…
Bà con nín lặng, khiếp hãi…
Thấy Bi vai mang súng, tay cầm cuốn “Điều lệ cải chính” chữ đỏ chói, hùng dũng bước vào, ông Ty giật mình đánh thót, miệng há hốc vì quá bất ngờ nên chỉ kịp phát ra tiếng “Ối!”. Ông ngồi thụt xuống như người bị đạn, đôi mắt già nua cắm gầm xuống đất.
Nhưng Bi nào có để ý gì tới ông lão tội nghiệp? Chàng còn mải mê đảo mắt hết nhà trên xuống nhà ngang sục tìm “người của lòng mình”…
Nghe tiếng kêu của bố, An từ trong nhà chạy vội ra. Cô đỡ lấy người cha già đang run lên từng cơn, lảo đảo chỉ chực ngã. Chẳng thèm chào anh Quyết Chiến tới một lời, cô lẳng lặng dìu bố vào nhà. Ánh mắt của cô cũng chẳng khác gì mọi bữa, lướt qua chàng tân đội trưởng bảnh bao, tay súng, tay sách, cứ như lướt qua cái vại dưa muối hỏng…
Bi cay lắm!
Đầu rũ xuống như con gà rù, Bi bước thấp bước cao ra khỏi nhà ông Ty.
Bi đi loanh quanh hết ngõ này sang xóm khác, mặt lầm lầm. Ai hỏi cũng chẳng thưa, ai chào cũng chẳng đáp. Bà con lại được một phen thầm thì đoán non đoán già, cảm thông cho anh đội trưởng đang dốc tâm, dốc trí cho việc dân việc công.
Lang thang một hồi thế nào Bi lại thấy mình đang đứng trước cái cổng có hai cánh cửa gỗ lim to tướng. Nhưng lúc này chúng đã được mở toang…
Bi đứng một lúc, rồi bỏ đi…
Trong căn nhà rộng thênh thang, ông Ty đang co ro vào góc phản to tướng được kê sát gian thờ.
Tiếng khóc, tiếng gào, tiếng thét, tiếng mõ, tiếng trống từ ngoài đình thỉnh thoảng lại vọng tới làm ông cứ co mãi vào sát tướng. Hai tay vắt lên che mắt như sợ chói, mặc dù căn nhà đang tối om chẳng thắp đèn đóm gì.
Từ nãy đến giờ An ngồi bên bố. Cô đắp hết khăn nóng lại khăn lạnh lên trán bố, xoa dầu vào thái dương và cả hai gan bàn chân, nhưng ông Ty cứ run lên như người mắc chứng sốt rét. An nhẹ nhàng năn nỉ cố đổ thìa ! cháo cho cha, nhưng ông một mực lắc đầu. Những cơn nấc khan chắc đã làm ông ngang dạ
“Không biết ngày mai hay ngày kia sẽ tới lượt mình? – ông thầm lo sợ. Không biết mình sẽ có tội gì đây?”.
Ông vội lần hồi lại quãng đời từ cái thời ông biết cầm cầy tới giờ, xem có cái gì đáng mắc vào tội “cường hào ác bá”.
Ban chiều ở ngoài đình ông đã chả thấy mười mươi rằng: chỉ vì mấy câu chửi xéo của con mụ vợ mà giờ này không biết ông Tam đang chu du trên cõi tiên hay đang rên la thảm thiết trong chảo lửa? Con mụ lắm điều thì chắc đã câm như hến, lang thang vật vã chẳng biết ở xó xỉnh nào?
“Còn bà vợ kiệm lời đã khuất núi của mình, biết đâu lại là
" Ông cứ rối tung lên…
Đúng lúc ấy, đôi mắt tinh ranh trên khuôn mặt xương xương bỗng hiện ra nhìn ông chòng chọc, cái răng cửa nhô ra, ngoáy tít khoái chí…
Quả tim già giật thót lên: “Thôi chết rồi, tội tày trời, chẳng chạy đâu cho thoát! Thử hỏi có cái ở làng này to gan như ông không? Mới đây thôi chẳng những ông đã dám cốc vào đầu mà còn vác gậy rượt ông tân đội trưởng ra tới tận đầu làng khi con bò cái của ông đẻ non vì dầm mưa suối cả đêm hôm trước…”
Ông ngồi phắt dậy, như con sóc già, chạy vọt ra sân:
– Thằng Bi… à, anh Bi đâu nhỉ? Ông tự hỏi.
Bóng đêm trùm xuống cái sân gạch mênh mông vắng lặng…
Tiếng hô tiếng hét ở ngoài Đình giờ cũng lắng xuống. Dân làng đã ra hết bãi sông để xem chiếu bóng.
Ông Ty lại dò dẫm vào nhà, bước thẳng tới gian thờ. Ông thắp ba nén! hương ! lên rồi lầm rầm cầu khấn. Ông khấn với các cụ Tổ rằng xin các cụ hãy tha tội vì ông chẳng giữ nổi cái cơ đồ được xây nên công mồ hôi và máu của bao đời. Thân ông rồi cũng chẳng biết sống chết ra sao, thôi thì đành vậy! Nhưng ông không thể đành lòng để An mà chẳng được an bình, phải bơ vơ phiêu dạt… Vậy nên, xin các cụ xá tội nếu ông phải đứt ruột cho An lấy… Ông nấc lên, chẳng khẩn nổi hết câu, đầu gục xuống, nước mắt lã chã ướt đẫm cả một góc bàn thờ
Kể từ ngày có cái làng Hà tới giờ, đêm nay là lần đầu tiên dân chúng được xem chiếu bóng.
Để bảo đảm trật tự cho buổi chiếu, đội du kích đã có sáng kiến chia khán giả làm hai bên, một bên toàn nam, bên kia chỉ có nữ.
Khi máy vừa bật chiếu, cả làng đã oà ngay lên vì kinh ngạc. Tài thật, chẳng hiểu bằng cách nào mà cạnh giải phóng quân Trung Quốc, tay còn ôm cả súng nữa, chui ra được từ cái ống kính bé tý, rồi vụt to đùng ngay lên trên tấm vải trắng căng trước mắt.
Chưa hết cơn thán phục, bà con lại bị cuốn ngay vào cảnh anh chiến sĩ ấy vừa chạy vừa ôm súng nhả đạn. Hòn tên mũi đạn của giặc dường như quá khiếp sợ với sự quả cảm của anh nên rủ nhau trốn tiệt! Anh cứ chạy bỗng bằng như ở chốn không người, một mình tiêu diệt cả núi quân thù, phất cờ chiến thắng…
Bà con hể hả lắm.
Quân mình giỏi thật!
Đúng lúc ấy mấy cô thôn nữ bỗng kêu lên oai oái, làm gián đoạn cái nhiệt huyết đang phừng phừng của khán giả.
Có ai ngờ những bộ ngực phơi phới xuân lại cuốn hút đám trai làng hơn cả những điều kì lạ đang diễn ra trên màn cảnh. Trong bóng tối mờ mở, các đôi mắt đang hau háu lùng sục, mấy bàn tay vừa rụt rè vừa háo hức lần mò trên những tấm thân non trẻ.
Hết phim, cái bóng đèn nhỏ duy nhất bật sáng ánh sáng lờ mờ của nó cũng quá đủ để bà con giật mình nhìn ra rằng đàn ông, đàn bà đã đứng lẫn vào nhau từ lúc nào không biết.
Thế là An bỗng trở thành vợ Bi!
Bi được bố vợ ưu cái cho ở hẳn trên ngôi nhà năm gian, còn ông tránh xuống dãy nhà ngang. Nhưng ông cũng chẳng ở đó được lâu. Đôi mắt to buồn cứ cắm gằm xuống đất chẳng một lần ngược lên nhìn �! �ời của cô con gái làm những cơn nấc khan của ông ngày một nhiều. Ông nấc cả ngày lẫn đêm, chẳng có giây phút nào để ăn, để ngủ. Vì thế, chỉ vài tháng sau ông đã mang chúng theo mình xuống mồ.
Bi thì thôi, khói phải nói, cứ véo má, bóp mũi, giật tóc xem đây là thật hay mơ. Ai mà có thể ngờ công cuộc đời của Bi lại sang trang trong chớp mắt!
Đám cưới đời mới của Bi – An được chính cán bộ của đội Cải chính huyện đứng ra tổ chức nên bỏ hết các thủ tục “chạm ngõ”, “ăn hỏi” rườm rà, lạc hậu, mà đi thẳng ngay ra… Đình, vào giữa ban ngày để tiết kiệm dầu đèn.
Khẩu hiệu giăng giăng khắp sân Đình, chói chang giữa trưa hè. Nào là: “Tổ quốc trên hết”, “Dựa hẳn vào bần cố nông”, “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”…
Dân làng tò mò muốn xem cái đám cưới đời mới như thế nào nên chẳng vắng mặt một ai. Duy chỉ có ông bố vợ, nại cớ nhức đầu, xin phép ở nhà nằm nghỉ.
Bi mặc bộ quần áo bộ đội, có cả thắt lưng to bản, ngực cứ ưỡn ra, hai vai chạng rộng nom thật chả khác mấy anh cán bộ trên huyện. Chỉ khổ cho hai cái bàn chân cứ phải chịu tội trong đôi guốc gỗ. Chúng cứ trẹo lên trẹo xuống, lắm lúc làm mất cả cái oai phong của chú rể.
An mặc áo sơ mi trắng, quần đen, hai bên mái tóc được cặp gọn gàng bằng hai chiếc cặp ba lá.
Bà con hể hả ăn trầu, uống nước, nghe hát, đọc thơ, hô khẩu hiệu… Đám cưới đông và vui nhất làng từ trước đến nay.
Chẳng bù cô dâu, cấm có một nụ cười. Đôi mắt cứ nhìn xuống đất như ! chực r�! �� nhau đi trốn. Ai bảo đứng thì đứng, ai bảo ngồi thì ngồi. Im như thóc.
Dân làng thông cảm lắm: cô dâu mà, ai chẳng thẹn, đông thế kia… Với lại làm vợ anh Quyết Chiến – oai quyền nhất xã mà tỏ ra khiêm nhường như thế thì cũng dễ mến!
Để kết thúc lễ cưới, anh đội trưởng Cải cách huyện khoác vai Bi đứng lên xin phát biểu ý kiến. Đám đông đang ồn ào, náo nhiệt bỗng im phắc, mắt đổ dồn cả vào Bi.
Anh ta chỉ vào Bi mà nói riêng cứ nhìn Bi thì sẽ thấy thắng lợi rực rờ của cải cách ruộng đất. Ước mơ "Người cày có ruộng” bao đời của tất cả bà con giờ đã trở thành hiện thực!
Bà con vỗ tay hưởng ứng ào ào lên như sấm. Bi tựa đầu vào vai anh cán bộ như đứa em nhỏ, khóc rưng rức… Lần đầu tiên trong đời Bi mới biết nước mắt hóa ra có vị mặn!
Đêm đầu tiên, cũng như khi chưa lấy chồng, An vẫn ngủ ở gian buồng phải, Bi thì chiếm ngay cái phản của ông Ty.
Chỉ chờ cho cái ngọn đèn dầu nhỏ như con đom đóm ở buồng An phụt tắt là Bi như con sói đói lao vút vào!
Bỉ vội vã hất tung cả màn, ngã đè ngay lên người cô vợ mới cưới. An hốt hoảng, ú ớ chực kêu lên, nhưng rồi nín lặng… Cô chẳng hiểu vì sao Bi lại đè nghiến, làm cô đau nhói, tức thở. Tấm thân mỏng manh cứ run lên bần bật mà chẳng biết phải làm gì…
Bi vồ xiết lấy An, hàm răng vẩu va vào đôi môi lạnh toát của cô, thì thào:
– Đằng ấy…
Mùi tỏi trộn lẫn mùi thuốc lào két lâu năm ở kẽ răng, cổ họng làm hơi thở của Bi thum thủm như mùi chuột chết lâu ngày. An muốn mửa, ngoảnh mặt đi, vùng vẫy như cố thoát khỏi vòng tay xiết chặt tới nghẹt thở… Cái khung toàn xương kết hợp hai đầu gối củ lạc cứ vô tư huých huỳnh huỵch vào tấm thân non tơ khiến An đau điếng.
Bi thì chẳng hay biết gì. Người chàng nóng ran, máu khắp cơ thể chạy ! rần rần đổ dồn về phần thịt nhỏ xỉu nằm giữa hai cái đùi khẳng khiu. Nó căng lên, vụt lớn, ứa đầy máu, tưng tức. Cái nút bấc bị ép chặt lâu ngày bật tung, văng ra xa…
Bi vã mồ hôi, thở dốc, cứ y như người vừa tham gia môn vật tự do mà chẳng giảnh được giải…
Chàng vội vã buông An ra, như con chó cụp đuôi, khom khom bước ra gian ngoài bỏ mặc “chiến trường” tan hoang với cô vợ trẻ đang mở to mắt ngơ ngác trong bóng đêm…
Trời vừa hửng sáng, Bi lại nhảy phốc vào gian trong.
An mới thiếp đi sau một đêm dài trằn trọc chợt hốt hoảng khi có người đập mạnh vào mình…
Bi lúc này đã tỏ ra bình tĩnh hơn để làm chủ “trận chiến”. Bàn tay thô ráp của chàng đã biết lần mò tới chỗ nó cần phải tới. Cái giải rút bị giật ra, cái quần tụt xuống! Sự ham muốn dồn nén đã quá lâu lại bùng lên làm Bi hối hả nhét lấy nhét để thằng nhỏ đang cương cứng của mình vào giữa hai đùi vợ.
An bật lên vì bất ngờ, khẽ rên lên vì đau đớn…
Nhanh như cắt Bi lại tung màn chạy biến ra ngoài, để mặc An ở trong cô đơn, khao khát…
Cô hụt hẫng… Cuộc vui chưa bắt đầu đã vội kết thúc. Tấm thân đầy nhựa sống của cô lúc này mới bắt đầu dậy sóng. Ngực căng lên, nơi nhạy cảm nhất nóng ran, giật giật liên hồi… Ở nơi đó, một cảm giác – không đau thót lên như cắt phải thịt, không rát bỏng như đụng phải nước sôi – tưng tức, nhức nhối, bị bóp nghẹt trong không gian quá chật hẹp. Nó quằn quại, nó khao khát, khao khát tột độ cái không gian ấy được chọc vào, được đ�! �m thủn! g để nó được thoát…
An rụt rè đưa bàn tay của mình xuống phía dưới rồi vuối nhè nhẹ vào phần nhạy cảm nhất đang thổn thức. Bàn tay của cô chợt dừng lại chỉ chừa một ngón giữa lần chậm chậm xuống dưới… Nó dừng lại rồi thong thả chọc sâu vào phía trong. Một chất nhựa nhựa âm ấm đang từ từ rỉ ra…
An nhắm mắt lại.
Cơn đau đang tan…
Ở gian ngoài Bi đang ngay o o, vô tư như vừa cầy xong thửa ruộng.
An ra đi lặng lẽ trong ngày đông rét mướt như cuộc đời thầm lặng an phận của mình. Trái tim còn nguyên sơ trong lồng ngực người mẹ trẻ, chưa từng nếm trải hương vị của đời, đã ngừng đập. An nằm tơ hơ, hai đùi giang ra, mông ngập trong vùng máu, nước mắt còn chưa khô trên đôi mắt mở to, ngơ ngác như đang tìm đứa con thơ.
Bi hóa rồ hoá dại, lăn lóc, đấm ngực oán trời trách đất sao nỡ đem vợ của mình sớm ra đi, chẳng cho chàng còn dịp để xoa dịu nỗi đau mà nàng đã ấm ức mang theo xuống mồ…
Có lúc Bi lại vung tay lên tự vả vào mặt. Chàng giận chính bản thân mình: sao chẳng từng có lấy một lần biết mở miệng mà nói ra những gì từ đáy lòng cứ ngập ngừng, ấp úng, loanh quanh cất giấu nó cho tới bây giờ.
Bi kể lể hàng giờ chuyện nọ sang chuyện kia, chằng đầu chẳng đuôi, đứt đoạn qua những tiếng nấc, nghẹn ngào trong nước mắt hòa nước mũi, nên chẳng ai hiểu anh chàng muốn giãi bày gì. Trông Bi thật thê thảm, đâu còn anh đội trưởng Quyết Chiến oai phong hôm nào!
Ôm đứa con đỏ hỏn, bước thấp bước cao từ bệnh viện huyện về làng, Bi đờ đẫn như người mất hồn.
Bi giận cả cái làng Hà chẳng có lẩy một bà mụ cho ra hồn, chàng oán cái bệnh viện không có lấy một viên thuốc cầm máu, cứ để mặc nàng ra đi trong đớn đau…
Bi thất thểu lang thang khắp làng, chán ghét tất cả! Chàng chẳng buồn nhìn đôi bồ câu đang nghếch đầu, nghênh mỏ gù gù nựng nhau bên đường. Tiếng nói, ti�! �ng cười ríu rít của nhà ai bên mâm cơm chiều làm chàng khó chịu. Ước gì bụi tre kia thôi xào xạc, lặng im đi mà nghe lòng chàng… Bi cứ đi loanh quanh chẳng biết đi đâu, chẳng nhớ đường về.
Gió bấc ào ào thổi, rít lên từng cơn trên con đường làng quất vào mặt Bi lạnh buối. Đứa trẻ trong tay chàng khẽ cựa quậy
Bi dừng lại, cúi xuống nhìn rất lâu vào đôi môi nhỏ xíu, đang chum chúm, quơ quơ tìm vú mẹ. Ngực Bi thắt lại. Chàng xiết chặt con vào lưng, rảo bước. Giờ thì chàng đã biết phải đi về hướng nào.
Mới qua hơn nửa năm để tang vợ, nuôi con dại, Bi già sụp đi trông thấy. Cái thân hình vốn đã gầy gò nay biến thành bộ xương được lớp da nâu xỉn bó sát sạt. Đôi vai sụp xuống, ngực hóp lại, đôi mắt lanh lợi nay đứng yên như đang mơ về một cõi nào xa lắm…
Dan làng đồng loạt “nâng chức” cho Bi từ anh lên bác vừa tiện cho cái miệng, vừa thoải mái cho việc cư xử. Cô con gái nhỏ được cha nắn nót viết cho cái tên lên giấy khai sinh – Nguyễn An Na, vừa ý nhị, vừa nhẹ nhàng.
Nhưng bé Na lạ lắm! Chẳng biết có phải vì xót thương cho bố đêm ngày lật đật với nước cháo, nước khoai, hay vì chán cái cảnh cứ phải tất bật theo cha hết lên xóm trên lại ra cuối làng bú đậu, bú nhờ, nên mới ngoài sáu tháng nó đã nhất định từ chối những loại thứ ăn đang nuôi sống nó. Bé cứ khóc ré lên như bị cấu, mỗi khi môi nó châm vào thìa cháo loãng hay bầu vú bú nhờ – “Chắc nó không hợp hơi sữa của bà này” – ông Bi thầm nghĩ rồi tất tả bế con sang nhà khác. Nhưng con bé vẫn ngậm chặt miệng, mắt ! nhắm ng! hiền thở dồn dập. Ông Bi hoảng quá – “Hay nó ốm?” – trán nó mát rượi. “Hay nó bị đau bụng?” – nó đang nằm im ngoan ngoãn. Ông Bi chép miệng thở dài, bồng con lang thang khắp làng rồi lại ôm con về loanh quanh trong sân. Con bé cứ ôm lấy cổ, ngả đầu vào ngực cha, thản nhiên như chẳng có chuyện gì. Ông Bi ôm xiết con vào lòng, xót ruột. “Nó chả ăn uống gì suối từ sáng tới giờ…”
Ánh mắt của ông chợt chạm vào bát bánh đúc ngô hàng xóm vừa đem cho đang để trên cái chõng ở góc sân. Ông véo lấy một miếng, như nhứ vào miệng con bé. Na thè lưỡi ra liếm qua, liếm lại, mút mút, nuối đánh tọp. Con bé ăn liền hết non nửa bát rồi lăn ra ngủ ngon lành.
Thế là từ đấy, cha ăn gì con ăn nấy, khỏe hẳn. Lúc củ khoai, quả trứng, lúc canh hến, bánh đa, con bé ăn tất, cho bao nhiêu ăn bấy nhiêu. Có điều, ăn nhiều như thế mà chẳng lớn được bao nhiêu! Đồ ăn thức uống cứ như chỉ đổ dồn vào nuôi mái tóc đen dầy, phủ kín cả mặt, cả cổ, chẳng cân đối với thân hình bé tẹo.
Năm năm đã trôi qua. Dân làng Hà bấy giờ đều vào làm ăn tập thể trong Hợp tác xã nông nghiệp xã Phú Hoà. Ông Bi ngoài trách nhiệm trung đội trưởng dân quân xã còn quàng thêm chức phó chủ nhiệm Hợp tác xã nông nghiệp.
Ông đi sáng, đêm, bận bịu tối mắt. Mảnh đất nhỏ hợp tác xã chia cho ở bãi sông quanh năm chỉ trồng… cỏ. Khoảnh vườn sát nhà cũng chỉ lèo tèo vài ngọn rau đắp đổi cho qua ngày. Cơm nước có gì nấu nấy! Quả trứng gà đẻ, bít canh hàng xóm đem cho ông đều để dành hết cho con gái, còn mình thì chắc đã no với công việc…
Cuộc sống đơn giản của hai cha con cứ thế trôi qua…
Chỉ có một điều làm ông lúng túng là mái tóc quá dầy của Na. Sáng sáng, bàn tay chai sần của ông lại lóng ngóng cầm lược gỡ tóc, chải đầu cho con. Lúc thì ông tết bím, lúc thì ông túm cả lại bằng sợi dây gai. Dù ông đã tốn thời gian đánh vật với nó nhưng Na chẳng bao giờ có được cái đầu ngôi thẳng, mớ tóc gọn gàng. Chiều nào trở về nh! à ông cũng chẳng nhìn thấy mặt con gái đâu, trước mặt ông chỉ là mớ tóc đen dầy, xổ tung, rối bù… Lắm khi ông đã định cắt phứt nó đi cho nhẹ, nhưng rồi ông lại quăng kéo, ôm con vào lòng, vuối ve mãi mái tóc đã làm cho ông quá phiền hà. Ông chẳng nỡ bỏ đi một cái gì của con…
Ngoài mớ tóc ra, Na chẳng làm phiền gì tới bố.
Đói thì tự vào bếp lấy thức ăn bố đã nấu. Buồn ngủ thì tự lên giường. Chiều chiều còn biết cho gà ăn. Con bé cứ tha thẩn chơi, chỗ nào có trẻ con là Na tìm tới. Có lần Na dò dẫm ra tận cả sân đình xem lũ trẻ định khăng, đánh đáo.
Lúc đó, lũ trẻ đang mải mê với đường khăng nên chẳng đứa nào để ý đến con bé. Bỗng cây khăng của chúng bay vút lên rồi rơi ngay xuống sát chân Na. Một thằng nhóc cao lều khều chạy tới định nhặt. Nó bỗng đứng sững lại: mái tóc của Na đang bị gió hất tung, xù lên, dựng đứng như bộ lông nhím, trông thật lạ.
– Ê chúng mày ơi nhìn tóc con Na này… Tóc rối đổi kẹo đây!
Thằng bé kêu lên.
Tiếng “kẹo” như có ma lực. Bọn tre quên phắt ngay cây khăng với đường bay của nó, chạy ùa lại vay quanh Na. Đứa túm tóc, đứa giật tóc, đứa kéo tóc… cố kiếm cho đủ một cái kẹo mút.
Na lúc đầu còn chống trả nhưng lũ con trai vừa đồng vừa hăng tiết nên cô bé đành ôm đầu chịu trận. Vừa đúng lúc đó Mi – con gái bà Hồng ở xóm dưới – đi bới khoai về ngang qua. Mi vứt ngay rổ khoai xuống đất, xông thẳng vào đám hỗn chiến, kéo Na ra sau lưng mình. Cô bé xắn tay áo, vận cái cạp quần cao lên quanh bụng, chân đứng giạng ra, hai tay chống nạ! nh, mặt! đanh lại:
– Đứa nào có giỏi thì vào đây?
Bọn trẻ đang nhốn nháo bỗng im bặt, chỉ có thằng cao lêu khêu vênh váo bước ra như vẻ ta đây là đứa cầm đầu: .
– Ông đây! Mày có giỏi thì bước sang!
Mi sải ngay một bước dài tới trước mặt thằng bé. Hai đứa đứng sát vào nhau gườm gườm xem đứa nào ra tay trước.
Thằng nhóc ném cái nhìn khắp lượt trên người đối thủ như muốn đo lường sức mạnh của nó: “Con này chỉ ăn toàn khoai mì lớn gớm, to như cái bao thóc. Nó mà đè lên thì có mà gẫy xương. Nhìn cánh tay nó kìa, con gái gì ma tay như cái bắp chuối”. Nó bỗng sờ tay lên miệng “Con này mà thoi một cái thì mấy cái răng sún còn lại của mình chắc bay luôn” – Thằng bé thầm nghi ngại.
Nhưng ai lại rút lui dễ dàng thế, còn gì thể diện với các chiến hữu đang vây quanh, chăm chú nhìn vào nó, chờ đợi nó khai hỏa cuộc chiến…
Thằng bé phủi hai tay, vênh vênh mặt, nhếch mép khinh khi:
– Ông đây chả thèm đánh cái lũ con gái cho bẩn tay. Ông tạm tha cho mày. Rồi nó vớt vát:
– Lần sau còn láo, ông cho mày biết tay, cái răng cũng chẳng còn…
Nó khoát tay, cao giọng:
– Thôi biến đi chỗ khác chơi chúng mày ơi, không thèm dây với lũ con gái.
Bọn trẻ xìu xuống. Chúng cứ ngỡ sắp được xem một trận chiến ác liệt, reo hò đến khản tiếng để cổ vũ cho thủ lĩnh của mình, chúng đâm nghi ngờ quay sang nhìn thằng cầm đầu…
– Chúng mày có đi không? Không tao đi một mình! – Thằng bé nói rồi bỏ đi luôn.
Lũ trẻ lưỡng lự nhìn nhau rồi cũng phóng theo nó.
Mi cúi xuống nhặt mấy củ khoai lăn lóc dưới đất cho vào rổ. Một tay dắt Na, một tay cắp rổ, Mi kéo Na thẳng tuột về nhà mình.
Sau khi múc nước rửa mặt mũi chân tay cho Na xong, Mi kéo Na ngồi xuống hàng hiên cùng với mình.
Cô bé lấy cái lược gỗ trên tấm vách tre rồi nhè nhẹ gỡ từng lọn tóc rối bù của Na.
– Khiếp, tóc gì mà rối như cái tổ quạ – Mi kêu lên.
Na nép vào ngực Mi khẽ cười khúc khích
– Con gái ai lại để tóc bù xù thế này. Đưa tay đây chị chỉ cho cách chải đầu.
Hai chỉ em vừa chải tóc vừa thủ thỉ.
– Em có biết cái thằng cao kều lúc nãy định đánh nhau với chị không? Không đợi Na trả lời, Mi tiếp – Thằng ấy là thằng Sơn con ông Trinh ở xóm ngoài bãi đấy. Thằng ấy là chúa gấu! Tuần trước nó còn lẻn vào nhà bác Cả chị, trèo lên cái chuồng bồ câu cao tít, ăn cắp hai con chim mới nở, mang ra bờ sông đắp đất nướng.
Na tròn mắt nhìn Mi: “Hư quá chị nhỉ!”. Mi tiếp tục:
– Em có biết tại sao răng nó sún gần hết không?
Na ngơ ngác, Mi tiếp luôn:
– Vì nó chuyên ăn cắp khế chua trên chùa. Sư thầy đã khối lần cầm ch�! ��i đuổi nó đấy.
– Thế hả chị ? – Na lại tròn mắt, kêu lên. Rồi đột nhiên cô bé nhận xét: Nó hư thế mà sao nhiều đứa lại chạy theo chơi với nó hả chị?
Vì nó bắt dế giỏi nhất làng. Toàn dế chúa, nên dế của nó chọi bao giờ cũng thắng.
– Dế chúa chắc to và khoẻ lắm chị nhỉ? – Na hỏi
– Chị cũng chưa bao giờ nhìn thấy.
– Em cũng thích xem con dế chúa lắm. Hôm nào chị đi với em đổ con dế chúa nhé!
– Ừ – Mi nhận lời – nhưng đợi chị bới khoai xong đã. Na ngả hẳn người vào ngực Mi, hai tay hết xoa hai cái đầu gối lại vuối vuối hai bắp chân Mi.
Tóc của Na bay giờ đã được chải hất gọn gàng ra phía sau, được giữ chặt lại bằng cái cặp ba lá to tướng, rồi chẽ thành hai cái đuôi sam chắc nịch.
Mi kéo Na đứng dậy
– Thôi để chị đưa em về.
Na năm chặt tay Mi, vừa đi vừa nhẩy chân sáo trên con đường về nhà. Đến trước cổng nhà Na, Mi dừng lại dặn dò:
– Em đừng chơi với cái thằng Sơn ấy nữa nhé?
– Vâng ạ – Na đáp lời ngay.
– Thôi, em vào nhà đi!
– Vâng – nhưng tay Na vẫn nắm chặt tay Mi.
Mi nhắc lại:
– Em vào đi! Rồi rút tay mình ra khỏi tay Na.
Na vẫn chưa vào nhà, em ngước mắt nhìn Mi, nói khe khẽ:
– Chị ơi, chị lại sang chơi với em nhé!
– Ừ, đợi chị bới khoai xong.
Na tung tăng chay trên con đường nhỏ vào nhà. Hai cái đuôi sam đánh qua đánh lại nhịp nhàng trên cái lưng bé bỏng. Từ ngay đó tóc Na lúc nào cũng ngay ngắn, gọn gàng.
Sáng sáng, ông Bi đã có thể thong thả nh�! ��p chén! nước nóng trước khi ra Uỷ ban.
Rồi Na đã đến tuổi tới trường.
Lúc đầu ông Bi cũng chẳng muốn cho cô bé đi học, qua sông qua đò cách rách, lỡ ra… Với lại cứ nhìn ông đây này, mới qua cái lớp bình dân học vụ hồi Cải cách mà bây giờ ông chả là người oai quyền nhất làng.
Nhưng cứ xem cái cách mà sáng sáng con bé thập thò sau cánh cổng nhìn lũ trẻ đi ngang, rồi hút theo cho đến khi chúng khuất hẳn thì ông Bi không cầm được lòng. Hơn nữa nếu không cho con đi học lại mang tiếng làm lành đao mà lạc hau.
Thế là Na được sang sông đến trường. Đêm trước buổi đầu tiên đi học, cô bé chẳng dám nhắm mắt vì sợ ngủ quên, lỡ đò.
Na tuy nhập học muộn hơn lũ trẻ, nhưng đọc trơn tru ngay tất cả những bài tập đọc.
Có lần cô giáo muốn gọi học sinh lên bảng viết mấy câu đồng dao, lũ trẻ lập tức nhao nhao, đua nhau giơ tay. Có đứa ngồi tận cuối lớp còn đứng cả lên ghế, chĩa thang tay lên trời, luôn mồm thưa: Em ạ! Em ạ! Nó chỉ sợ mất dịp làm những đứa khác lác mắt.
Nhưng rồi chẳng đứa nào viết được cho đúng!
Lúc ấy, Na mới bẽn lẽn giờ tay lên. Cô bé viết một mạch chẳng sai lấy một cái dấu.
Lũ trẻ đâm ra nghi ngờ: “Con này nom nhút nhát thể mà gớm thật!”
Chẳng những học giỏi mà Na còn quán xuyến tươm tất việc nhà: nấu cơm, chăm gà, băm rau, cắt cỏ. Mảnh ruộng ở bãi sông bây giờ xanh ngăn ngắt những dây khoai, miếng vườn sát nhà đã bận rộn với rau củ.
Công điểm hợp tác xã chia cho ông Bi được quy ra thóc, Na cũng tự đi lĩnh về, được bao nhiêu ông cũng chẳng đoái hoài tới. Ông thì cứ dính chặt ở Uỷ ban, chỉ lúc nào phải cuốc đất đánh luống, mới đành dứt công việc để về giúp con.
Na chẳng mấy khi được ra ngoài chơi, cứ cặm cụi làm như bà già, rảnh rang lại vùi đầu vào sách vở. Ngay cả khi hè về, cô bé cũng không được thảnh thơi như những đứa trẻ khác.
Có đêm trăng sáng vằng vặc, lũ trẻ tập trung hết ra ngoài bãi sông, chẳng thiếu đức nào. Tiếng cười, tiếng nói, tiếng thét ồn cả một góc trời khiến cho dòng sông phải cựa mình khó ngủ.
Chúng đang say sưa với “bịt mắt bắt dê”, “trồng nụ trồng hoa”… Cuộc chơi đang ở lúc náo nhiệt nhất thì đột ngột dừng lại. Chúng bắt đầu cãi vã om xòm. Đứa nào cũng gân hết cả cổ lên để bảo vệ cái lý của mình, có đứa còn thét toáng lên nữa… Tinh đứa nói, chẳng có đứa nghe? Thế nên, cãi vã một hồi chúng bỗng nhận ra rằng chúng có thể tiếp tục cuộc vui với toàn những “quân ăn gian”. Để bảo vệ cho sự chính trực của mình chúng toan giải tán.
Nhưng chị Hằng cứ như cái bánh đa nướng phồng đang treo lơ lủng trên nền trời đen trong, bãi cát óng ánh như vàng, gió sông mát rượi thế kia thì về sao được! Thế là để vừa bảo vệ được sự “chính trực” của mình vừa được tiếp tục chơi, chúng “xí xóa”, chuyển sang múa hát.
Na đang lúi húi băm rau ở ngoài sân. Mấy con lợn ở trong chuồng đang thi nhau eng éc như giục chị Na mau cho nồi cám.
Tiếng lũ trẻ cãi vã inh ỏi ! từ bờ sông vọng về át cả tiếng lợn kêu. Na vừa ngoáy nồi cám vừa lắng nghe: cái giọng chua chua như khế kia là của con Thi. Con này đanh đá lắm, nó mà nói thì đố ai có ai xen vào được một câu! Cái giọng lanh lảnh chói tai là của thằng Tý. Đi hôi cá mà theo thằng này thì chỉ về với cái rổ không!
Rồi Na dừng tay, cô bé thắc mắc: “Sao chúng nó chúng nhịn nhau một tí mà chơi cho vui nhỉ?”
Đàn lợn đã được con no, nằm im trong chuồng.
Tiếng cãi vã ngoài bờ sông đã lắng xuống, tiếng hát bỗng cất lên văng vẳng:
Một đàn bươm bướm xinh,…
Na đứng im lắng nghe rồi chạy bay ra cổng
Tung tăng bướm bay vờn…
Tiếng hát như có sức hút làm Na không sao cưỡng nổi. Ngần ngừ một lúc rồi cô bé cũng phóng thẳng về phía bờ sông.
Bọn trẻ đứng xếp thành hình vòng tròn, đứa nọ đứng sau đứa kia, chân chúng nhún nhẩy, hai cánh tay uốn lên uốn xuống nhịp nhàng như những cánh bướm, một đứa, có vẻ là bướm đầu đàn, hát trước, những đứa khác hát theo…
Na đứng ngây người nhìn đàn bướm đứng rập rờn dưới ánh trăng rồi cô bé cũng biến thành con bướm từ lúc nào không biết.
Con bướm đầu đàn đang hát bỗng đứng im lặng, nó quên mất lời. Cả đàn bướm đang tung tung bỗng dừng lại, xô vào nhau như tàu bị dồn toa.
Một trận khẩu chiến lại nổ ra, đứa nào cũng chỉ muốn làm bướm đầu đàn vì chỉ có nó mới có thể hát múa đúng nhất, giống y như mấy chị ở đội văn nghệ huyện. Cãi nhau inh ỏi một hồi không đức nào chịu đứa nào, đàn bướm sắp tan tác…
Chợt con bé Thi hét lên: ̵! 1; Chúng mày nhìn con Na kìa?
Đang say sưa bay lượn, Na giật mình đứng yên, ngay lập tức bọn trẻ biết rằng chúng đã có con bướm Chúa để dẫn dắt chúng tiếp tục bay.
– Vào đây chơi đi! – bọn trẻ nhao nhao.
Cái Thi chạy ra, kéo Na tuột vào giữa. Na ngần ngừ một lát rồi bắt đầu nhún chân. Đàn bướm tập hợp ngay sau con bướm Chúa, sẵn sàng chờ lệnh.
Na bắt đầu hát:
"Một đàn bươm bướm xinh,
Tung tăng bướm bay vờn…
Bên nhánh hoa hồng rung rinh
Bướm bay nô đùa rập rờn…”
Bài hát vã điệu múa này Na thích ghê lắm, nên cứ lẩm nhẩm ôn luyện, nhún chân, uốn tay ngay cả khi băm rau, nấu cám, nấu cơm…, nên bây giờ hát múa trơn tru, uyển chuyển lắm.
Bọn trẻ lúc này đã hóa hết thành bướm. Đôi chân nhún nhún theo nhịp bài hát, người nghiêng qua nghiêng lại, hai cánh tay chao lên chao xuống mềm mại, đầu ngó nghiêng… Chúng vòng lượn không biết bao nhiêu lần theo con bướm Chúa, mồ hôi nhễ nhại, tóc bết vào trán, nhưng bướm thì có biết nóng là gì!
Bỗng dưng con bướm Chúa đứng sừng lại, cả đàn bướm đương bay lượn rập rờn, dừng lại đột ngột, bất ngờ va vào nhau.
– Sao thế hả Na? – bọn trẻ hỏi như hét lên vì bực tức – Sao mày dừng lại?
Na không trả lời, lặng lẽ tách ra khỏi đàn bướm.
– Tao về – cô bé lí nhí trả lời.
– Cái gì, mày về à? – Lũ trẻ hốt hoảng kêu lên. Con bướm Chúc mà bay đi thì đàn bướm chỉ có tan tác.
Chúng liền dọa ngay:
– Mày mà về thì chúng tao “de” mày ra, đừng hòng mà cho mày chơi! nữa? Tiếng “de" làm Na sững lại: Cô bé đứng im một giây rồi quả quyết lắc đầu.
– Ta o về…
Na chạy như bay từ bãi sông về nhà. Tới trước cổng, cô bé dừng lại thở hổn hển.
– “Không biết thầy đã đi ngủ chưa? Mùa này lắm muỗi lắm!”
Đêm xuống đã lâu mà ông Bi vẫn trằn trọc mãi không ngủ được ông đang vật lộn với sự lực chọn khó khăn nhất trong đời mình: “Thoát ly lên huyện hay ở lại xã".
Nếu lên huyện ông sẽ có điều kiện vừa công tác vừa học bổ túc, con đường thăng tiến chắc sẽ thênh thang… Nếu ở lại xã thì ông còn tiến đi đâu được nữa? Còn vị trí nào ở đây có oai quyền hơn của ông không?
Ngặt nỗi con bé còn nhỏ quá, để nó một mình lạ lẫm ở trên huyện, ông đi tối ngày làm sao yên. Ở làng thì lại khác, có đi dăm bữa nửa tháng cũng chẳng sao. Giá mà… ông thở dài, mắt cay cay… Ông vật mình qua lại trên cái phản rộng mênh mông mà chẳng tìm được câu trả lời.
Ông ngồi dậy, ra tràng kỷ, rít điếu thuốc, rồi rót một chén nước, nhấp vài ngụm, im lặng ngồi nhìn ra sân. Mặt sân đượm đầy một mầu vàng, tiếng dế rả rích ở ngoài vườn, bờ ao…
Chợt có tiếng ú ớ như ngủ mê từ gian buồng phải vọng ra ông nhè nhẹ bước vào… Trong bóng tối, ông mở to mắt nhìn chăm chú thật lâu vào cái miệng chúm chím đang mấp máy, hệt như của người đàn bà chưa giây nào mờ đi trong trái tim ông. Ông thở dài sườn sượt bước ra sân.
Một mình ông giữa cái sân mênh mông lộng gió…
Một tuần sau đêm hôm ấy, Hợp tác xã tổ chức tát cá ở cái ao cuối làng.
Lũ trẻ bu đen lai, dường như chả thiếu đức nào. Chúng đứng quanh bờ ao, đứa cầm rổ, đứa cầm nơm… căng thẳng như chờ đợi hiệu lệnh.
Khi người lớn vừa thu cá, dọn lưới xong là chúng ào ngay xuống chiếm lĩnh trận địch.
Mặt trời trưa hè chi�! �u rát bỏng trên đầu, trên lưng lũ trẻ. Chân ngâm trong bùn nóng như đun, lưng còng xuống, chúng khua tay hối hả tìm con giếc, cái trai… Mặt đứa nào đứa nấy lấm lem, đỏ lựng lên như bếp than hồng, mồ hôi rỏ tí tách xuống bùn nhão. Nhưng chúng có xá gì! Chúng đang mải mê bòn mót những gì còn sót lai trong cái ao nho.
Một chú cá giếc bé tẹo bị ngợp, ngoi lên khẽ đơm đớp thì cả đám xô lại, đẩy nhau tranh giành, làm bùn bắn văng tứ tung. Có đứa nhanh trí nằm vật ngay ra, hai tay giang rộng lên đúng chỗ đó như để khẳng định rằng nó đã làm chủ lãnh địa này, đừng có đứa nào hòng thò tay vào mà khua khoắng.
Rồi có lúc cả hai bàn tay của hai đứa cùng nhấc lên khỏi bùn một con trai bé tẹo. Thế này mới thật khó xử! Ngay lập tức một trận đấu khẩu nổ ra, để chẳng bao giờ tìm được câu trả lời: đức nào đã sờ vào con trai trước ở dưới bùn?
Na cũng có mặt trong đám trẻ đó. Ống quần được xắn cao, tóc buộc gọn gàng, lưng chẽn lai bằng một đoạn dây thừng, bên hông lủng lẳng chiếc giỏ tre.
Mò mẫm cả tiếng đồng hồ trong bùn nóng bỏng mà cái giỏ vẫn nhẹ tênh, toen hoẻn chỉ có ba con giếc ranh nên Na quyết ở lai mót tới cùng cho đủ bữa cá hầm tương cho thầy.
Chiều về, nấu cơm, kho cá cho thầy xong, Na bỏ đi nằm. Cô bé nóng hầm hập, sốt li bì.
Ông Bi lật đật nấu cháo đút cho con, nhưng cô bé chẳng mở được miệng.
Ông thay mấy lượt khăn ướt chườm lên trán, hết sờ đầu, nắm tay lại quạt khe khẽ cho con tới hàng giờ. Nhưng cô bé cứ nằm thiêm thiếp, chẳng mở mắt lấy một lần.
Suối cả đêm, ông ! cứ đi ! ra lại đi vào, hết chép miệng lại thở dài rồi chắp tay sau lưng, lững thững ra sân, ngước mắt nhìn lên trời. Trời cao như soi thấu nỗi lòng của người cha già đơn độc nên mới nhắc khéo:
– Gọi cái Mi!
Ngay giữa đêm hôm đó, chẳng hiểu cái Mi dán cao, đánh gió thế nào mà sáng ra Na đã con hết lưng bát chao.
Sau cái đêm hôm ấy, ông Bi đã biết sự lựa chọn của mình.
Năm tháng trôi qua, năm nay Na đã mười bốn tuổi. Cô bé lớn lên hồn nhiên trong sự nghèo túng của làng Hà, cùng với sự khốn khó của riêng hai cha con… Cuộc sống của họ cứ bình lặng trôi qua, không có nhiều tiếng cười nhưng cũng chang có tiếng mang, tiếng khóc…
Những quả bom đầu tiên được thả từ máy bay Mỹ đã kéo chiến tranh tới những dải đất hiền hòa của huyện Tân Thành.
Làng Trà bên kia sông bị đánh tan tác, lũ trẻ của cả hai làng đã phải nghỉ học. Làng Hà, dù chưa phải hứng chịu một mảnh bom nào nhưng cuộc sống vốn đã khó khăn nay lại thêm phần cực nhọc. Trai làng rủ nhau đi tòng quân hết lượt, ở lại chỉ còn rặt ông già, đàn bà, con gái. Việc nhà, việc nước dồn hết cho những người ở lại.
Ông Bi thì khỏi phải nói rồi, đôi vai trĩu xuống vì vác hai trách nhiệm: lãnh đạo sản xuất và tổ chức chiến đấu cho cả xã Phú Hòa.
Công văn từ trên huyện tới tấp bay về: nào là khẩn trương cày lúc đông xuân tránh rét, phòng trừ sâu bệnh, rồi tới lên huyện tập huấn kỹ thuật bắn máy bay, đào hầm, ngụy trang… đấy là chưa kể các đợt đi dân công hỏa tuyến…
Những giây phút được nghỉ ngơi ở nhà ngày càng trở hiếm ! hoi.
Tối tối, nếu được ở nhì thì ông chỉ loanh quanh ở ba gian chính nơi treo đầy các tẩm giấy khen được lồng kính cẩn thận. Miệng ngậm tăm, tay chắp sau lưng, ông nhẩn nha ngắm nhìn không chán mắt từng cái giấy khen, thỉnh thoảng gật gù, đắc ý. Có lúc ông đứng lại rút cái tăm ở miệng ra giắt lên vành tai, đọc to thành tiếng trong bóng tối mờ, rõ ràng rành mạch chẳng sai lấy một chữ: “Uỷ ban nhân dân huyện Tân Thành tặng đồng chí Nguyễn Quyết Chiến vì thành tích làm thủy lợi… Vì thành tích huấn luyện quân sự… Vì sáng kiến kĩ thuật trong đợt xây dựng đường ống xăng dầu…”. Ánh sáng từ cái đèn dầu leo lét phản chiếu trên mấy khung kính, hắt lên khuôn mặt sáng rạng của ông Bi!
Công việc ngập đầu, ngập cổ tưởng chừng như đã hút hết sinh lực, tâm trí của ông và làm dịu đi cái cục lửa lòng. Nhưng không, năm tháng chỉ làm cho nó lặn vào sâu kín hơn mà thôi…
Có những đêm một mình rảo tuần quanh làng, ông chợt thèm được nghe một tiếng thở dài như thay cho lời trách móc, ông ước được nhìn thấy đôi mắt to đượm buồn chưa một lần dừng lại trên khuôn mặt của chồng…
Giá như ông được thét lên, được gào lên, được xả cả một băng đạn lên trời chắc nỗi lòng của ông cũng được san sẻ… Nhưng ông chẳng thể làm như thế… ông đành đi loanh quanh vô định.
Rồi ông bỗng giật mình nhận ra rằng ông đang đứng trong khu đất nhỏ xanh mướt cây trái nằm cách biệt ở cuối làng. Ở đó, một khối kiến trúc nho nhỏ có mái cong cong phủ đầy rêu đứng nép vào góc vườn như cố thu mình nhỏ lại. Mùi! hương ! trầm thoang thoảng từ đó bay ra, tiếng mõ khoan thai vang lên nhè nhẹ trong đêm tĩnh mịch…
Ông đứng tần ngần một lúc, thở dài rồi bỏ đi.
Ba cây nhang trên bàn thờ đã cháy gần hết. Ông Bi vừa thủ thỉ với vợ chuyện của hai cha con trong suối mười bổn năm vắng bóng bà.
Ông chấm nước mắt, thở dài, chắp tay trước ngực, đứng tần ngần rồi cúi đầu vái ba cái.
Ông ngồi xuống đất cầm củ khoai đã nguội cứng, bóc vỏ, đưa lên miệng
Chương 2
Keng…keng…keng… – tiếng kẻng báo động ở đầu làng vang lên hối hả chưa dứt thì bầu trời chiều yên ả đã bị xé toạc…
Bốn con ó trời A4s-skyhawk từ biển bay vào. Chúng rú lên xoẹt, vra…xoẹt, vra…đầy đe dọa.
Chưa tới một giây, các loại đạn từ dưới đất đồng loạt vãi tóe lên trời như hoa cải. Bầu trời chiều đỏ rực, tóe lửa vàng.
Cả làng bỗng ồn ào, náo động… Tiếng í ới gọi nhau xuống hầm, tiến trẻ con khóc líu lưỡi gọi mẹ, tiếng chó sua ăng ẳng, hốt hoảng chạy lồng lên như bị ai đá…
Ông Bi thổi phụt cái ngọn đèn dầu nhỏ như hạt đau xanh trên bàn thờ, quàng ngay cây súng cũ mèm đang nằm nghếch trên tràng kỷ rồi chạy như bay ra khỏi làng, về phía ụ chiến đấu của dân quân xã.
Bỗng một tiếng nổ chói tai vang rền trên bầu trời, tỏa rầm rầm vào vách núi, đổ ầm ầm xuống mặt sông làm ông Bi đứng khựng lại.
Ông ngước nhìn lên bầu trời, dụi dụi đôi mắt còn ươn ướt, nheo con mắt trái lại, khum khum bàn tay phải giơ lên như che nắng.
Một khối lửa khổng lồ trộn lẫn khói đen đường đỏ rực trên bầu trời nhá nhem tối. Nó lao vun vút về phía biển, để lại phía sau một dải khói trắng lơ lửng nom như cái băng tang. Một cái dù bục ra như từ quả trừng gà, từ từ rơi xuống, trôi về phích núi Lam. Phía dưới cái dù là một vật gì đó khom khom nom giống như con nhái bị móc vào lưới câu…
Ông Bi đưa tay lên gãi cái đầu lưa thưa tóc, không rời mắt khỏi bầu trời. Cái răng cửa lại nhô ra, lơ láo…
– Ông sực tỉnh, kêu toáng lên:
– Đúng rồi, ! đúng nó rồi!
Hệt như chàng trai mười tám, ông quay ngoắt chạy trở về nhà, phi ngay vào góc chuồng bò, giật lấy đoạn dây thừng giắt trên liếp, tiện tay vớ luôn con dao băm rau lợn đang nằm chỏng chơ dưới đất.
Bà con ơi, lên núi bắt giặc lái nhảy dù, nhanh lên bà con ơi?
Tiếng kêu của ông bay nhanh trên con đường làng, rẽ vào những lối nhỏ, chạy tới từng ngôi nhà như một
lời hiệu triệu. Cả làng bỗng hừng hực như lửa bén dầu! Người cầm cuốc, kẻ cầm dao, người cầm đòn gánh hối hả theo ông như có đám cháy.
Ra tới đầu làng, vừa gặp đám dân quân từ ụ chiến đấu chạy tới, ông thét lên:
– Nhanh lên, lên núi! Theo tao!
Ông Bi lăm lăm dẫn đoàn người xông lên núi.
Từ ngày trai tráng đi tòng quân hết, các bà, các cô chẳng còn hơi sức nào mà lên núi săn con mang, bẫy con thỏ. Mấy đứa trẻ táo gan nhất cũng chỉ nhặt bó củi, bắn con chim, quanh quẩn dưới chân núi.
Núi Lam hoang vu đêm nay bỗng giật mình tỉnh giấc! Tiếng chân chạy rầm rập, tiếng thở hổn hển, tiếng gọi, tiếng kêu í ới, làm náo động cả một vùng…
Đoàn người đang lao nhanh lên núi, mặc cho đám cỏ tranh cào sắc ngọt vào mặt, vào cổ, gặp mồ hôi đang túa ra xon xót, đất đá lởm chởm như răng cưa cứa vào những bắn chân để trần tóe máu, hai lỗ tai ù ù, ngực đập thình thình, đầu gối mỏi nhừ muốn khuỵu xuống… Nhưng họ chẳng dừng lại dù chỉ là một phút! Họ vừa thở dốc vừa leo lên. Chiếc dù trắng trông như cái nấm độc khổng lồ có sức hút kỳ lạ, lôi cuốn đoàn người hơn bất cứ cuộc săn bắn nào mà họ đã từng ! tham gia.! Họ đang săn lùng con thú lạ nhất, chưa từng có bao giờ trên dãy núi Lam.
Ba chiếc Thần sấm F- 105 – Thunder bất ngờ như mọc lên từ phía bên kia dãy núi. Chúng lao thẳng vào vùng sườn núi nơi những người đi săn đang lùng sục. Chúng quần lộn trên bầu trời, chúi xuống với những tiếng gầm rú điên dại – xoẹt riu, xoẹt…riu, ném ra những nọc độc đầy lửa
Bom đạn từ trên trời vãi xuống như mưa, cây cối ngã đổ ầm ầm, đất đá văng tứ tung. Khói đạn, khói bom, nhành cây, lá rừng bay rào rào mù mịt làm đục ngầu cả triền núi bắt đầu sáng ánh trăng. Núi Lam rùng mình, hoảng hốt…
Trừ ông Bi và đám dân quân đã dạn dầy qua các đợt dân công hỏa tuyến, thì đây là lần đầu tiên dân làng Hà thực sự nếm mùi khói lửa.
Đâu đó có tiếng kêu thét lên vì da thịt bị cắt, máu vừa chảy, tiếng kêu cứu hối hả, tiếng chân rầm rập vội vàng… Chưa hết bàng hoàng thì hai thằng cánh quạt AD6 – Skyrider – Kẻ đột nhập bầu trời – vè vè bay vào nhập bọn. Được lũ Thần sấm hết lòng che chở, chúng sà xuống thấp, ngó nghiêng cái đầu nhọn hoắt như sục tìm cái gì trên sườn núi.
Ông Bi vụt đứng lên từ hốc núi, thét lên:
– Chúng nó tìm kiếm thằng giặc lái đấy! Tản ra tìm chỗ nấp, ai có súng bắn vào cái máy bay đang xuống thấp. Mi theo tao!
Mệnh lệnh của ông sang sảng, âm vọng vào sườn núi vang vang, tiếng bom bỗng nghe rất nhỏ.
Chẳng có ai ẩn nấp cả, những người còn lành lặn đều theo ông xông lên!
Đạn từ phía bên kia sông, đường cái, bờ biển đồng loạt bắn lên, chụm lại trên núi Lam. Bầu trời chao đảo đỏ rực, nóng như cái chảo rang úp ngược. Mặt trăng vàng vằng vặc như đang rỉ máu.
Một con A06 vừa lượn tới vòng thứ hai thì cánh trái của nó bị trúng đan. Nó rung lên bần bật như bị cơn sốt rét ác tính, cố ngóc đầu lên, lảo đảo, thở khè khè cố lết ra biển.
Tất cả bỗng đột nhiên im lặng. Chẳng còn tiếng Thần sấm vần vũ trên bầu trời như gieo giông mang bão, chẳng còn tiếng bom rầm rầm chuyển núi, tiếng đạn xô nhau rào rào. Bầu trời, rừng núi im ắng trở lại. Chị Hằng khẽ thở phào, nhè nhẹ thả tiếp những sợi tơ vương óng lên khắp ngọn cây xanh, trùm lên sườn núi lởm chởm đá.
Những người bị thương mới bắt đầu được băng bó, những bàn tay chưa kịp lau khô một bên mặt đẫm mồ hôi trộn kh�! �i đen thì bốn Con ma F4- Phantom – đã hùng hổ từ biển lao vào. Chúng lượn những vòng rất nhỏ hẹp trên sườn núi, thoắt ẩn, thoắt hiện, thật đúng là con ma!
Hai con cả gan sà xuống thấp thu hút hết hoa lực về phía mình để hai con kia thả sức vãi bom nhả đạn vào đoàn người đang rải rác ở trên núi.
Tiếng gầm đảo của bốn con Ma, tiếng bom ầm ầm xuyên vào núi, tiếng loạt đạn phòng không chan chát, tiếng súng trường lách cách lên đạn, tiếng cây xô nhau ngã đổ rào rào, tiếng người thét lên vì đau đớn, tiếng sói tru từng hồi như vừa bị trúng đạn, tiếng chim vỗ cánh phành phạch hốt hoảng bay lên… Tất cả hòa thành một hợp âm kỳ lạ đầy âm hưởng chết chóc.
Đúng lúc đó, một chiếc VA1OA Vantage – Kẻ khống chế bầu trời – vội vã bay tới ném ngay một chùm pháo sáng rực rồi nhanh nhảu chuồn mất.
Cả đất trời vụt sáng rực lên như trong đêm hoa đăng.
Chợt có tiếng phần phật, rè rè lạc lõng phát ra từ mớ âm thanh hỗn độn. Trên bầu trời sáng như ban ngày, một chiếc trực thăng nom như con chuồn chuồn ma khổng lồ đang từ từ sà xuống. Gió từ cánh quạt quay tít làm những vạt cỏ tranh đổ rạp, lồng lộn lên như muốn xé toạc mấy manh áo mỏng, nhấc bổng những thân hình bé nhỏ đang vây chặt ở bên dưới.
Họ vẫn xông lên – những người chân đất bé nhỏ gan như tay không – đương đau đến cùng với những kỹ thuật tân kỳ nhất của loài người.
Dưới đất quyết vây bắt!
Trên trời bằng mọi giá giải vây!
Cuộc đọ sức một mất một còn đang căng lên ở những giây phút cuối cùng…
Lũ ! pháo sáng ngu ngốc đã vô tình soi rõ một đám cỏ tranh nằm bẹp gí như có con gì đó vừa trườn qua. Những người đi săn đã biết con mồi của mình đang ở hướng nào.
Kia rồi. Từ sau tảng đá, một bóng người to lớn đang khập khiễng lao ra. Nó tập tễnh chạy. Nó ngã xuống. Nó lại đứng phắt lên. Nó chạy, không, nó nhảy lò cò… rồi nó lại đổ rập xuống. Bây giờ thì nó bò, bò về hướng cái trực thăng, bò như điên như dại, nhanh như một con rắn lao vào mồi!
Chiếc trực thăng đã sà xuống rất thấp. Hai tên vạm vỡ lấp ló ở cửa máy bay hối hả ném xuống một cái dây. Chúng xoay người đứng tựa lưng vào nhau, ôm trung liên nhả đạn như mưa xuống dưới, chỉ chừa lại một lối nhỏ làm đường thoát an toàn cho tên ở dưới.
Ông Bi khoát tay, thét lên, lưỡi líu lại:
– B… ắn, c…cái cánh, dây…
Ông ngã ngay xuống mỏm đá dưới chân, tháo súng, nhắm bắn.
Nhưng con mắt trái của ông chỉ khép hờ. Những cơ chằng xung quanh con mắt ấy như cái dây chun đã nhão, vô tích sự. Nước mũi chảy ra cay sè, tai áp ở ổ đạn như có ve kêu, màng nhĩ bập bùng như tang trống.
Ông Bi run run bóp cò.
– “Pằng”, một tiếng khô khốc vang lên. Trượt rồi!
Tên ở dưới đất đã nắm được cái dây, thằng ở trên đang cúi xuống vội vã kéo… Tấm thân to lớn bắt đầu nhúc nhích rời mặt đất… Trực thăng rú lên lấy đà chuẩn bị tẩu thoát…
– Nó thoát đến nơi rồi!
Một dòng điện hàng ngàn vôn phóng ào ào từ đầu xuống chân làm ông Bi giật bắn.
“Nó mà thoát được thì cái chức xã độ! i trưở! ng chắc chắn đi tong!”. Ông Bi hốt hoảng.
Ông nằm yên lại, mắm môi, hít sâu một hơi dài.
Xung quanh ông, người nằm xoài ra đám cỏ, người gác súng lên mỏm đá, người đứng dựa vào thân cây, tất cả đều nhắm vào những mục tiêu mà ông Bi đã chỉ định.
Đạn từ khắp phía nổ chan chát, tóe lửa phía dưới thân trực thăng, chiu chíu vây quanh cái cánh quạt… Cái trực thăng cố nấn ná thêm một vài giây như bất lực nhìn thằng đồng đội ở dưới, rồi phành phạch, hậm hực cút thẳng!
Lũ phản lực cũng biến mất khỏi bầu trời.
Như con sói già, ông Bi nhẩy sổ vào con mồi. Sau lưng ông, đoàn người rầm rập kéo tới…
Ông Bi hả hê lắm khi đứng dậy từ cái lưng to bè của tên giặc lái. "Mình thế mà còn khỏe chán! Trói thằng Mỹ to đùng thế kia cũng dễ như trói mấy con lợn đực chờ thiến. Thế mà mấy con ranh trong đội dân quân lắm khi liếc mình cứ như như ghé mắt qua cái cối xay lúa đã gãy cần. Hôm nay mà để nó thoát, cả làng lại chẳng được một phen xầm xì to nhỏ…, có mà dám ra khỏi cửa!”. Ông Bi khoái trí thầm nghĩ.
Bỗng có tiếng ai đó thét lên:
– Đánh chết thằng giặc đi bà con ơi!
Một mồi lứa đã ném vào đám dầu loang…!
Cả đám người xông vào, dùng những gì sẵn có trên tay, nện tới tấp tấp vào lưng thằng giặc đang nằm sấp.
Ông Bi đắn đo một chút rồi cũng rút súng ra, cho báng súng được tham gia vào trận chiến, để nó khỏi lẻ loi…
Bao nỗi bực dọc vì năm nay lúa lép, khoai lạc xác xơ, thiếu nước, trai tráng đi hết chẳng còn ai lên núi tìm nguồn nước về đều được ném lên cái lưng của thằng giặc. Ông Bi cũng hò hét chẳng thua kém ai. Cục lửa trong lòng vẫn thiê! u đốt ông bấy lâu bỗng văng ra. Ông chợt thấy mình nhẹ bỗng, bay bổng như người say…
Chợt có tiếng ai hét lên nghe như tiếng cái Mi:
– Bác Bi đừng đánh nữa, nó chết đấy!
Ông Bi giật thót mình, đứng ngay ra.
Cơn phấn khích bừng bừng đột nhiên biến hình một cơn ớn lạnh lan ra khắp cơ thể, khuôn mặt đang đỏ hừng hực chuyển ngay sang máu xám xanh, mồ hôi bay đâu hết, người lạnh toát. Bên tai ông bỗng văng vẳng: “… phi công nhảy dù là một trong những chiến lợi phẩm quan trọng nhất để kết thúc chiến tranh… phải bảo vệ và chuyển gấp lên trên!”. Ông Bi tỉnh hẳn, hoảng hốt đưa mắt đảo xung quanh… Tiện cây súng đang cầm trên tay, ông chĩa ngay lên trời bắn chỉ thiên một phát. Cả đám đông đang say máu, ồn ào, nhốn nháo bỗng đột ngột im lặng, sững sờ, bất động…
Ông Bi quát lên:
– Có tản ngay ra không thì bảo! Chết hết cả bây giờ!
Ông cúi xuống nhìn “chiến lợi phẩm chiến tranh” rồi ngẩng đầu ra lệnh:
– Đứa nào vắt chân ù về làng mang cái võng ra đây.
Chương 3
Đây là lần thứ hai mươi ba thiếu tá phi hải quân James Mc-Aean thường được gọi là Jim, bay vào bầu trời Bắc Việt.
Hắn bay ra bay vào giữa Hàng không mẫu hạm Oriskany và Bắc Việt qua vùng biển vịnh Bắc bộ như thể chúa tể của trời xanh và biển cả! Phải nói Jim là gã rất ưa nhìn và trẻ hơn nhiều so với cái tuổi ba mươi mốt của mình. Khuôn mặt vuông chữ điền với hai hàm bạnh toát lên một vẻ mạnh mẽ, cương nghị. Đôi mắt xanh biếc với hàng lông mi hung hung làm cho nụ cưới của hắn lấp lánh thân thiện (nếu đầu hắn hơi cúi xuống) và đầy vẻ cao xa (nếu hắn hơi ngước lên). Sống mũi thẳng trên cặp môi hơi dầy lấp ló hai hàm răng trắng thẳng tắp. Mái tóc vàng được cắt tỉa gọn gàng theo kiểu nhà binh. Cái cổ to vững vàng trên đôi vai rộng thênh thang… Thân hình cao hơn sáu feet, săn chắc, được các buổi tập thể hình chăm sóc kỹ lưỡng.
Tất cả, từ khuôn mặt đến vóc người của Jim đều toát lên sự quả cảm, chính trực theo kiểu các hiệp sĩ thời trung cổ, mẫu đàn ông được các bà, các cô say mê nhất.
Quả thực, nếu Jim có ý định thử thời vận của mình ở
Khi mười lăm tuổi, Jim được gửi tới trường nội trú St.John gần thủ đô
Thời gian đầu, ngôi trường xứ đạo nằm trên mấy quả đồi xanh biếc như một thế giới riêng biệt, yên bình đã làm cậu bé thích thú hoàn toàn. Lớp học chỉ có mười trò với các giáo viên giàu kinh nghiệm làm Jim cảm thấy dễ chịu, quên đi cái cảnh nhốn nháo của những buổi học chen chúc trên hai mươi trò mà cậu bé đã trải qua. Những giờ học nhằm phát triển khả năng hùng biện hay đẩy nhanh tốc độ suy nghĩ, khả năng phản ứng… thu hút hết tâm trí cậu bé. Jim say mê đọc sách, chơi thể thao rất cừ ở tất cả các môn, khiến lũ trẻ cùng trường ngưỡng mộ.
Nhưng chỉ được vài tháng!
Những quy định khắt khe với các “nhà lãnh đạo tương lai” kể cả những việc nhỏ nhặt nhất như: áo lúc nào cũng phải trắng bong, cà vạt phải ngay ngắn, người luôn thẳng, đầu phải nâng cao khi đi, đứng… đã làm cậu bé hiếu động cảm thấy bị gò bó. Cau bé bắt đầu đi học muộn, sẵn sàng đánh lộn với bất cứ đức trẻ nào có biểu hiện khiêu khích, lờ tịt các quy định của nhà trường, thích thú thách thức quyền lực của các thầy cô. Thỉnh thoảng còn rình cơ hội, tìm cách trốn khỏi trường, bắt xe buýt vào thủ đô, la cà trong các tụ điểm ăn chơi trên đường số chín – đề tài hấp dẫn nhất để phóng đại lừa bịp những đứa bạn ngoan đạo cùng lớp.
Nhờ có tiếng tăm là một tay thể thao cừ khôi, một kẻ hay gây rối, Jim đã nổi lên với vai trò của một thủ lĩnh – tất nhiên là cầm đầu nhóm ưa quậy phá – nhưng vẫn là thủ lĩnh! Nhờ đó cậu bé có cơ hội kết thêm nhiều bạn mới và cùng khám phá ra những trò lạ.
Song những trò lếu láo của cậu bé và hậu quả của chúng chưa đến mức quá nghiêm trọng khiến cậu bé phải thu dọn sách vở, quần áo trở về nhà. Jim chỉ thường bị phạt đi đều bước trên con đường quanh trường hoặc phải sử dụng ngày nghỉ để dọn dẹp chăm sóc vườn cây quanh các lớp học.
Khả nang “nhồi nhét” bài vở đáng kinh ngạc trong kỳ ôn thi nước rút tốt nghiệp trung học đã cho Jim ba mươi chứng chỉ, vượt tám cái so với yêu cầu.
Việc ghi danh vào Học viện hải quân Hoa kỳ như một sự kiện không thể thay đổi, một thừa kế đã dự định sẵn của gia đình đình cho Jim.
Ông và cha Jim đều tin rằng cuộc sống và nghề nghiệp thích hợp nhất cho người đàn ông thực thụ, người ưa phiêu lưu mạo hiểm chỉ là hải quân. Trên đời, – trong con mắt họ – chẳng có kho báu nào đáng khám phá hơn là biển cả. Đấy là di sản quý giá nhất để họ tự hào truyền lại cho con cháu và chắc chắn chúng sẽ biết ơn họ vì điều đó.
Học viện Hải quân Hoa Kỳ đóng tại
Hàng năm, năm nghìn học sinh ưu tú nhất của toàn nước Mỹ vừa tốt nghiệp trung học, có giấy bảo đảm của Thượng nghị sĩ hoặc Thống đốc bang mới có thể viết đơn xin nhập học.
Điểm số cao vượt cả sự mong đợi trong kỳ thi tuyển vào học viện đã cho phép Jim ngẩng cao đầu sánh vai cùng hai nghìn thí sinh khác chính thức bước qua cổng học viện và làm cho gia đình thêm kỳ vọng vào chàng trai trẻ.
Mấy ngày đầu tựu trường, Jim thích thú dạo quanh khuôn viên rộng mênh mông, ba mặt giáp sông Scenic Severn, tách biệt hoàn toàn khỏi thành phố của học viện, ngắm không chán mắt những mái vòm xám trên các tòa nhà bằng đá cao ba, bốn tầng – chẳng khác cung điện của ông hoàng, bà chúa – lang thang hàng giờ, sờ nắn mãi các thiết bị thể thao hiện đại trong khu tổ hợp thể theo rộng thênh thang…
Jim dừng lại hàng giờ ở khu truyền thống của học viện – nơi trưng bày những thành tích đào tạo sỹ quan Hải quân lừng danh nhất thế giới. Jim đứng rất lâu, nhìn như bị thôi miên vào hai tấm ảnh lồng khung kính mạ vàng bên dưới có dòng chữ in nổi trân trọng John Mc.Aean và Jack Mc.Aean. Những cặp mắt cùng màu với mắt Jim đang nhìn thẳng vào chàng trai trẻ như nghiêm nghị hỏi: “Con sẽ xứng đáng với chúng ta chứ?”
Một cái gì đó dâng lên nghèn nghẹn nơi cổ, xốn xang trong lồng ngực… Jim đứng yên, không rời mắt khỏi hai bức ảnh, mấp máy môi… Chàng trai trẻ nói những gì, chỉ mình chàng biết. Nhưng Jim vẫn đoan chắc rằng hai ngườ! i đàn ông trong tấm hình kia đang nghe thấu lòng mình… Jim đứng thẳng lên, ưỡn ngực, từ từ giơ tay lên chào theo nghi thức nhà binh. Chàng trai ngẩng cao đầu, sải từng bước dài rắn rỏi rời khỏi nhà truyền thống.
Jim lang thang khắp
Chàng tân học viên ghé vào một quán bia sơn xanh biếc của người Ái nhĩ lan, ngồi ngả người thoải mái vào chiếc ghế mềm mại, nhấp nháp từng ngụm bia, thỉnh thoảng lại tự mỉm cười: Jim hoàn toàn hài lòng với sự lựa chọn của gia đình, và đã sẵn sàng bước vào những thử thách mới trong bốn năm tiếp theo.
Bài học đầu tiên cho tất cả các học viên chập chừng mời bước vào học viện là phải học thuộc lòng "Những phẩm chất của sĩ quan hải quân” – các yêu cầu cơ bản bắt buộc các sĩ quan phải tuân theo trong suối cuộc đời binh nghiệp của mình. Sĩ quan hải quan nhất thiết phải là một thuỷ thủ có học thức rộng, phong thái nhã nhặn, lịch thiệp, luôn thể hiện danh dự của bản thân… Phải kiên nhẫn và công tâm, không bỏ qua bất kỳ hành động nào đáng được khen thưởng của cấp dưới cho dù chỉ là một lời khen, ngược lại, cũng không được phép làm ngơ trước bất kỳ một khuyết điểm nào của họ.
Ngoài những môn khoa học cơ bản bắt buộc, học viên phải gồng mình với các môn tâm lý, lôgic để hiểu sâu sắc về tác động qua lại giữa cá nhân với tập thể, vận dụng chúng vào công tác tổ chức hợp đồng tác chiến. Khi giải quyết mọi sự việc nhất thiết phải tìm về cái gốc của vấn �! �ề, tránh xa các lập luôn chủ quan.
Sẽ là chỉ huy chuyên nghiệp, nên học viên phải học cánh ra lệnh bằng miệng, văn bản, cử chỉ một cách rõ ràng, ngắn gọn, tập xử lý thông tin vời tốc độ nhanh nhất trong mọi tình huống.
Những giờ ngâm bùn, lặn nước, chạy bộ dưới nắng… không những để nâng cao sự chịu đựng của cơ thể mà còn rèn luyện khả năng phản ứng của trí não trong mọi điều kiện ngặt nghèo nhất.
Nhưng sự hứng khởi của thời gian đầu chập chững bước vào học đã tan biến trong căng thẳng tới mức nghiệt ngã cho thể chất và tinh thần của các giờ học, luyện tập và của các chỉ huy hà khắc. Đó dường như là chủ đích để sàng lọc nhằm loại bỏ một phần tư số học viên – những người bị cho là thiếu quyết tâm, không có ý chí, không thể từ bỏ các cá tính riêng để hòa vào môi trường kỷ luật chung – ra khỏi học viện ngay từ năm thứ nhất.
Hàng ngay các học viên buộc phải cung cấp nhiều thông tin trong đó có các thông tin vô bổ, đánh đố như kiểu: “Hải cẩu đẻ trứng ở đâu? Năm ngoái nhật thực rơi vào ngày, tháng nào?” Hay quá khắt khe như: Thìa và nĩa sau khi ăn đã để đúng hướng chưa? Cằm đã ép đủ chặt vào cổ chưa khi đứng chào chỉ huy… Hình phạt sẽ là bêu riêu, hít đất cả trăm cái, hay vừa chạy vừa hát không ngừng nghỉ tới vài dặm…
Không giống các học viên khác tìm lại sự cân bằng cho bản thân bằng cách ca thán, than vãn, Jim vùi đầu vào đọc sách hoặc chơi thể thao. Cũng như ở trung học, những ánh mắt ngưỡng mộ lại dành cho Jim ở tất cả các môn thể theo từ đấm bốc, cứ tạ, nhảy cao đến bóng rổ… Jim lại một lần nữa nổi lên như thủ lĩnh!
Chàng trai tập hợp những học viên có thể chia sẻ sự phấn khích trong việc ngấm ngầm chống đối lại những khuôn phép sắp đặt cứng đơ mà họ phải phục tùng vô điều kiện. Họ muốn chứng tỏ sự phục tùng nhiều khi không hàm ý kính trọng, sự tuân thu chỉ là miễn cưỡng, tôn trọng con người vì phẩm giá chứ không phải vì địa vị.
Cũn! g như thời trung học, Jim thích thú cùng đám bạn thỉnh thoảng trốn vào
Nhưng những trò phá rối bao giờ cũng được tính toán cẩn thận và không thật sự liều lĩnh như các chàng trai thường huyên thuyên tự tâng bốc, không vượt quá giới hạn cuối cùng của sự khoan dung để bị tống khỏi trường.
Buổi học mà tất cả các học viên đều háo hức mong đợi – đánh trận giả trên biển – đã tới. Các chàng trai được chia ra trên hai tầu A va B, đánh giáp lá cà ngoài khơi xa. Các thủy thủ tương lai đều vận dụng những điều đã học vào việc chiến đấu ngoan cường, chống trả lại nhau kịch liệt. Tiếng hô, đáp lệnh, tiếng kêu, tiếng thét, tiếng đạn từ hai tầu nã tới tấp lên nhau… vang rền cả một góc – đại dương. Sau một hồi “oanh kích” dữ dội, tàu A đã bị tầu B bắn thủng. Lính từ tầu B trong tiếng hô xung phong vang rền ào ào vượt sang chiếm tàu A và bắt giữ tù binh.
Jim và Michael – chiến hữu thân thiết nhất trong nhóm “phá rối” – đã bị trúng đạn, ! “chết” nằm phơi xác trên boong. Sĩ quan chỉ huy tàu B – đại úy George, người rất căm ghét nhóm phá rối – dẫn đầu đoàn lính chiến thắng lục soát con tàu bại trận. Ông ta dừng ngay lại trước hai “xác chết”, hùng hổ rút súng ra, chĩa thẳng vào mặt Michael, bóp cò.
Đang nằm bất động “chết”, Jim bật phắt dậy, gạt phăng mũi súng của chỉ huy ra khỏi mặt Michael, dằn giọng nói rõ từng tiếng:
– Thưa đại úy, ngài không thể làm như thế! Liệu ngài đã thuộc “Những phẩm chất của sĩ quan hải quân hay chưa”?
Tất chỉ các học viên đều bỏ dở buổi tập trận, xúm lại, há hốc mồm nhìn viên chỉ huy – khét tiếng với quyết tâm sắt đá bắt tất chỉ các cấp dưới phải phục tùng mình vô điều kiện – mặt đỏ gay, hạ súng, lặng lẽ bỏ đi.
Tiếng vỗ tay nổi lên rao rào, những ánh mắt ngưỡng mộ của các bạn học lấp lánh trên khuôn mặt chàng trai trẻ Mc-Aean.
Sự kiện đó được âm thầm lan truyền trong đám học viên… Nó còn được tô thêm nhiều màu sắc mang tính công lý, nhân phẩm, nhân bản… – những điều mà lũ trẻ mới lớn rất thích đề cao.
Jim nghiễm nhiên trở thành thủ lĩnh của toàn học viên cùng khoá và thật lạ lùng cấp trên cũng đưa Jim lên làm chỉ huy điều lệnh vì “… đã thể hiện được các khả năng thiên bẩm phục vụ hải quan. Bước đầu bộc lộ các tố chất chỉ huy…”.
Bốn năm ở học viện là quãng thời gian vừa thích thú và mệt mỏi, vừa yêu thích và căm ghét đối với Jim. Nhưng nó đã cho chàng trung úy trẻ một điều để sau này nhờ đ! ó Jim v�! �ợt qua được những thứ thách nghiệt ngã nhất của cuộc đời: Phải kiên định về danh dự của bản thân ngay cả khi lòng kiêu hãnh, lòng tự trọng bị tổn thương thậm chí bị lăng nhục!
Jim đã sẵn sàng bước vào giai đoạn mới của cuộc đời: thể hiện và sáng tạo mình!
Việt
Những bài viết, tin, ảnh về Việt
Nhưng cuộc đời binh nghiệp của Jim – trái ngược hẳn – trôi qua bình thản tới mức tẻ nhạt, như bên lề của cuộc chiến, mặc dù hắn đang là quân số của Ham đội 7, phục vụ trên Hàng không mau hạm Forrestal, đậu sát ngay Vịnh Bắc Bộ. Những phi vụ rời rạc, lẻ tẻ, mục tiêu nhiều khi mơ hồ chỉ làm Jim thêm bồn chồn, nóng ruột. Hắn đành nhẫn nại chờ cơ hội bằng cách vùi đầu đọc sách, làm thơ, rèn luyện thân thể… Một buổi tối, trong đợt nghỉ phép, Jim cùng gia đình nhỏ bé của mình quây quần quanh chiếc vô tuyến. Jim ngồi nghỉ người vào sofa, mải mê theo dõi tin chiến sự ở Việt
– Mẹ ơi, bao giờ sẽ lại có phim hoạt hình hả mẹ? Sao lúc nào cùng chỉ có Việt
– Là con kiến chết dẫm!
Jim rời mắt khỏi truyền hình, to tiếng nói xen vào. Hắn chợt giật mình vì thấy mình đã trả lời cô bé bằng cái giọng ví von, bực bội của chính tổng thống Johnson.
– Tại sao lại là con kiến chết dẫm ạ? Cô bé ngơ ngác hỏi.
Jim đúng phắt lên mặt hầm hầm. Hắn ngồi ngay xuống trở lại, ân hận giơ tay kéo con bé vào lòng. Nhưng Rebecca cứ mở to mắt nhìn bố rồi nép chặt vào lòng mẹ.
Karthy bỏ đan, im lặng nhìn chồng bối rối, cúi xuống bế con bé vào lòng.
Không khí nặng nề bao trùm khắp căn phòng. Buổi tối sum vầy hiếm hoi trong đợt nghỉ phép ngắn ngủi đột ngột kết thúc.
Jim đứng dậy, phẩy tay, bỏ ra quán bia cách nhà mấy dãy phố.
Khói thuốc tràn ngập khắp quán, những khuôn mặt đỏ gay mờ mờ như trong sương. Tiếng nói, tiếng cười, tiếng hét, tiếng đập bàn inh ỏi. “Lại chỉ có kẻ nói, chẳng người nghe!”
Jim tự nhủ khi bước vào quán. Đây là đặc điểm độc đáo của quán bia, nhờ đó cánh đàn ông mới ưa thích lui tới nhiều như vậy, nhất là khi gặp rắc rối, chán nản trong lòng. Còn nơi nào để “xả” lý tưởng hơn ở quán bia! Men bia đã giúp cho họ vượt qua sự e dè, ngại ngùng khi phải nói ra những uẩn khúc sâu kín của đáy lòng mình. Hơn nữa, những con mắt lờ đờ trong khói thuốc kia thì hiểu được gì những điều đang nghe và nhớ nổi cái gì sau một đêm ngủ.
Chuyện kể ra ở quán bia mãi mãi vẫn chỉ ở đó!
Jim tìm một chỗ khuất, gọi mấy cốc bia.
“Tại sao lại là con kiến chết ! dẫm?” Câu hỏi ngây thơ của cô con gái vẫn dai dẳng bám trong đầu Jim. “Các vị ở Lầu Năm góc, bộ não của các ngài lang thang ở đâu rồi? Hãy gọi chúng về, thúc đẩy chúng nghĩ ra cái gì mới đi. Một cái nước bé tí tẹo mà đánh mãi chẳng xong….”. Jim hậm hực đấm xuống bàn.
Tiếng ồn ào như phá của bàn bên cạnh kéo Jim quay sang. Mấy khuôn mặt đỏ phừng phừng đang bàn tán sôi nổi, nhưng không khí quanh cái bàn có cái gì đó khang khác: Lời của kẻ nói dường như đã thực sự cuốn hút người nghe. Nếu không có mấy vại bia trên bàn, trông họ chẳng khác nào như đang ở buổi họp nghiêm túc vạch định tương lai cho đất nước. Cuộc tranh luận đang đến hồi căng thẳng… Người thì hoàn toàn ủng hộ quan điểm của Tổng thống Kenedy: Nếu Mỹ rút khỏi Nam Việt
“Chưa bao giờ trong lịch sử của mình, nước Mỹ lại bị chia rẽ tới như vậy”. Jim đau xót kêu lên.
Hắn bực bội rời quán.
Kỳ nghỉ phép không hoàn hảo kết thúc vội vã.
Chẳng có tin chiến sự tốt lành nào đợi Jim ở đơn vị.
Chiến dịch mang mật danh 34A do tướng Paul-D.Harkins cầm đầu – một kế hoạch tổng hợp nhằm phá hoại các cơ sở kinh tế, quân sự, xây dựng các căn cử bí mật, tiến tới lật đổ chính phủ Hà Nội – đã bị thất bại hoàn toàn làm không khí của cả Hàng không mẫu hạm trầm xuống.
Trong Câu lạc bộ sĩ quan, các quân nhân ngồi ngả người trên ghế bành, hai tay buông thõng, thỉnh thoảng uể oải nhấp từng ngụm bia. Họ bàn tán, phân tích những nguyên nhân thất bại của chiến dịch rồi quay sang cùng nhau bàn bạc, tìm kiếm các giải pháp cho tình hình quân sự đang bế tắc. Ai cũng muốn đóng vai trò của các nhà hoạch định chiến lược chiến trach. Người thì cho rằng phải tăng viện trợ, kẻ thì lại quả quyết cần đưa thêm quân vào miền lam. Jim lắng nghe, lắc đầu lia lịa rồi đứng bật dậy, vung tay chém tay vào không khí:
Phải ném bom! Thưa các ngài, các ngài còn nhớ Đ! ô đốc Ulyssee- S-G-S Sharp đã từng khẳng định: “… ném bom là phương cách cần thiết như những nhát búa đập đi đập lại cho đến lúc khối bê tông vỡ tan ra… và lãnh đạo Bắc Việt phải kêu trời… Sức mạnh của không quân sẽ là công cụ để mặc cả đắc lực đối với Bắc Việt”. Chỉ thế mới đè bẹp được Bắc Việt – cái gốc của vấn đề? Hà Nội, đương nhiên sẽ phải chấm dứt vạch kế hoạch, chỉ đạo, chi viện cho các cuộc nổi loạn ở miền
Tất cả cau mày chăm chú lắng nghe, vài người bắt đầu gật gù. Jim hào hứng nói tiếp như hét:
– Phải để không quân thực sự tham gia vào cuộc chiến! Hãy để cho nó phô diễn hết sức mạnh của mình! Rồi các vị sẽ thấy!
Tiếng vỗ tay lẹt đẹt, rời rạc, rồi bỗng bùng lên.
Mặt Jim ửng đỏ…
Đúng lúc ấy, chương trình thường lệ trên truyền hình bị cắt ngang. Cả câu lạc bộ đang ồn ào đột ngột im lặng. Ngay lập tức các sĩ quan vội chạy ùa tới, vây quanh, dán mắt vào vô tuyến, hồi hộp chờ đợi.
Tổng thống Johnson xuất hiện, trịnh trọng tuyên bố quyết định chuyển các cuộc oanh kích lẻ tẻ thành những chiến dịch đánh phá dữ dội vào Bắc Việt với cái tên Chiến dịch Sấm rền – Rolling Thunder.
Tiếp sau ngay đó, như để khẳng định rõ quyết tâm của Tổng thống, Tướng L.Lemay – Tổng tham mưu trưởng liên quân Mỹ hùng hồn răn đe “… Nếu Bắc Việt còn xía vào công việc của miền
Cả Câu lạc bộ như vỡ tung ra! Tiếng vỗ tay, tiếng reo hò, tiếng huýt sáo, tiếng thìa gõ vào cốc chén… Bia như suối trào bọt trang, kéo phăng sự thất vọng mấy phút trước đó, đẩy sự hân hoan lên cực độ, không ai bảo ai, họ chạy ùa hết cả lên boong tàu. Trên boong, dường như tất cả các quân nhân của Hàng không mẫu hạm đều có mặt. Họ reo hò, họ nắm tay nhau, huýt sáo, ôm lấy nhau nhảy tưng tưng như những đức trẻ.
Jim bừng bừng như ngây ngất say, máu trong người sôi lên! Hắn muốn nhảy ngay vào lòng Con ó, lao thẳng tới Bắc Việt tung hoành, khuynh đảo bầu trời nơi ấy. “Không lâu đau, chỉ vài tháng thôi, đợi đấy – con kiến chết dẫm?”
Jim nhẩy cao vút lên – quả là một tay chơi thể thao cừ khôi – giật mũ khua khua lên trời, hét tới lạc cả giọng lời của Tư lệnh các lực lượng ở Thái Bình Dương: “Ai làm chủ bầu trời, người đó sẽ thắng trong cuộc chiến tranh này!!!”. Ngay lập tức cả đám đông ào lên hưởng ứng “Không quân! Không quân! Không quân!”. Cả trăm cái mũ được tung lên ngợp trời thay cho pháo hoa.
Mặt đại dương như nứt rạn.
Chẳng bao lâu sau cái ngày đáng nhớ ấy, trong một tai nạn khủng khiếp nhất của Hải quân Hoa kỳ – làm hơn một trăm người chết không phải vì chiến đấu ở Hàng không mẫu hạm Forrestal – Jim đã có dịp làm sáng rạng cho dòng họ lừng lẫy nhất của binh chủng nay.
Hôm đó, hàng không mau hạm Forrestal đang đậu nghênh ngang sát vùng biển vịn! h Bắc bộ. Trong lúc đang chuẩn bị cất cánh đi không kích Bắc Việt thì một quả tên lửa từ chiếc máy bay bên cạnh tự rời ra, đập ngay vào bình xăng trên máy bay của Jim.
Hơn 200 gallons dầu đã chảy vọt ra, tràn ngay xuống sàn tầu
Trong tích tắc, một đám cháy bốc lửa dữ dội, vây lấy máy bay của hắn. Jim nhanh trí mở phắt cửa buồng lái, trèo lên mũi máy bay, không hề do dự, nhảy ngay vào giữa đám lửa đang đỏ ngùn ngụt bên dưới. Hắn lăn vút qua biển lửa. Hắn lăn với tốc độ khác thường làm cho đến lửa cũng phải sững sờ kinh ngạc, đờ ra, để mặc cho hắn thoát qua an toàn!
Lửa đã bùng lên dữ dội, lan sang các máy bay khác. Đồng đội của Jim cũng theo gương hắn để thoát thân. Nhưng chẳng ai biết cách lăn nhanh như hắn nên lứa đã kịp bén vào bộ đồ bay, biến họ thành những bó đuốc…
Jim quay lại, định chạy vào giữa đám cháy để cứu đồng đội nhưng một tiếng nổ dữ dội phát ra từ một quả bom gan đấy đã hất hắn văng ra xa tới mười feet… Thế là Jim đã mất dịp để thể hiện thêm sự quả cảm của mình!
Sau sự cố Forrestal, Jim đã hoàn toàn có thể hưởng nhàn ngắm biển, phơi nắng cùng vợ và con gái bên căn nhà nhỏ ở
Nhưng Jim không làm thế!
Chiến tranh Việt
Ở miền Bắc, chiến dịch Sấm rền đã đẩy cường độ các cuộc đánh phá lên cao chưa từng có của không quân Hoa kỳ. Mỗi ngày có tới ba trăm phi vụ với sự tham gia của năm trăm máy bay, trút xuống sáu trăm mười chín tấn bom, phá hủy hai mươi tám trong ba mươi thành phố và thị xã, cầu, đường… Các hải cảng bị phong tỏa hoàn toàn…
Mỹ cũng mất đứt cả trăm tỷ đô la, hàng nghìn máy bay và phi công bị bắt hoặc bị giết.
Cuộc đối đầu đang ở đỉnh điểm để quyết định cho số phận các cuộc chiến…
Một chiến binh như Jim làm sao lại có thể đứng ngoài thời khắc lịch sử có một không hai trong cuộc đời binh nghiệp của mình! Và hắn đã xung quân vào Hàng không mẫu hạm Oriskany để được trở lại chiến đấu trên không phận Bắc Việt – nơi có nhiều thử thách và nhiều cơ hội nhất đang chờ đợi hắn!
Chiều nay Jim lại từ biển bay vào.
Mặt trời đang từ từ khuất dần sau núi, mang theo cả những tia nắng cuối cùng.
Những trận oanh kích vào lúc tranh tối tranh sáng như thế này vẫn được cho là sẽ đạt kết quả cao hơn so với các thời điểm khác vì đối phương thường hay mất cảnh giác.
Con Ó trời A-4S Skyraider thon chắc trong sự điều khiển của thiếu tá Jim đang cùng đồng đội lao vào đất Bắc Việt trong đội hình tản rộng để tránh hỏa lực. Nó hết bay vút lên cao lại nhẹ nhàng lao xuống, lúc �! �n lúc hiện như chơi ú tim với mây trời….
Dòng sông như dải lụa hồng đang lững lờ trôi ra biển. Dãy núi xanh thẳm như đang nghiêng nghiêng ngóng trăng lên. Xa xa những đàn chim mải miết về tổ…
Khung cảnh thanh bình, êm ả…
Nhưng Jim đâu có để mắt tới. Tâm trí lúc này của hắn đều dồn hết vào việc làm sao hạ được cây cầu chỉ có hai nhịp ở hạ nguồn sông Mạ. Nó tuy nhỏ nhưng là điểm xung yếu nhất của con đường huyết mạch Bắc
Hơn 1500 lượt máy bay đã tới bắn phá, hơn 1600 tấn bom đã được ném xuống, thế mà cây cầu khốn kiếp với thương tích đầy mình, vẫn cứ nằm hơ hớ, gác chân lên hai quả đồi.
Chiều nay, trước khi cất cánh Jim đã được Tom “bự” tốt bụng – chiến hữu cùng phi đội – vừa trở về sau trận đánh phá chính cây cầu này, thì thầm vào tai: “Cẩn thận lưới lửa ở đó!”. Rồi Tom giơ ngón tay cái lên như cầu chúc cho hắn thắng lợi và bình an trở về.
Tom lo lắng cũng phải thôi, một phần ba phi đội của hắn đã bị xóa sổ ở mục tiêu này. Cứ bốn mươi lần xuất kích là một phi công không trở về. Ngay cả trung tá Shumakher – người đã từng tham gia hai trăm cuộc trận oanh kích trong chiến tranh Triều Tiên và đã lọt vào chung kết thi tuyển phi công vũ trụ – cũng đã bị bắn hạ ở cây cầu chó chết đó.
Nhưng Jim thì khác, hắn chẳng cảm thay sợ hãi hay phấn khích gì khi đã ngồi sau tay lái. Hắn đã tập được cách chế ngự những cảm xúc như vậy để tập trung cao độ vào việc điều khiển con Ó trời một cách hoàn hảo nhất.
Cuộc thử sức nẩy lửa đang chờ hắn ở phía trước. Jim bình tĩnh lao tới đó, cái đầu cua hắn hoàn toàn nguội lạnh!
Con O của Jim tách ra khỏi đồng đội, vút lên với tốc độ 550 dặm/giờ.
Mục tiêu của hắn kia rồi! Nó hiện ra chính xác như trong bức ảnh mà tình báo đã cung cấp
Trước các trận đánh, Jim luôn nghiền ngẫm cẩn thận tài liệu quân sự, thông tin của các cấp tình báo về mục tiêu sắp đánh phá. Đôi khi, c! hính trong những lúc đó, hắn cũng thoáng tự hỏi điều gì sẽ xảy ra ở dưới đất nếu bom của hắn đánh trúng hoặc trật mục tiêu? Nhưng những suy nghĩ đó cũng chỉ thoáng qua, mong manh chưa kịp hình thành thì đã bị các phi vụ dồn dập đẩy vào góc khuất.
Jim giảm tốc độ, chuẩn bị sà xuống.
Trái với tính toán của các cấp chỉ huy, lưới lửa ở dưới đất ngay lập tức nhất loạt nhả đạn lên trời, tầng cao, tầng thấp, tầng trung, che phủ kín hết cây cầu. Bầu trời đỏ rừng rực, tràn ngập lửa. Jim đành lật úp con Ó, cuốn xoay vút lên, lượn ra xa để tìm phương án khác. Hắn sẽ tấn công từ phía Tây, nơi hỏa lực phòng không – như tin tình báo cung cấp – mỏng và thưa hơn?!
Đúng như vậy, hắn chỉ nhìn thấy một trận địch pháo và mặt trời sẽ ở sau lưng hắn: thời điểm tuyệt vời để tấn công.
Con Ó bay về phía dãy núi làm như đã bỏ cuộc săn. Bất thần nó quay ngoắt lại, lao vút về phía mục tiêu. Nó nghiêng cánh, lướt thẳng vào giữa hai quả đồi.
Jim đang ở độ cao 5000 feet. Hắn thấy đoàn tàu như con rắn khổng lồ đang phì phò nặng nhọc bò lên cây cầu.
Hắn xuống thấp hơn. 3000 feet. Mấy người đang hối hả đạp xe qua cầu.
Hắn sẽ xuống thấp nữa. Ở độ cao 2000 feet – cự ly thấp nhất cuối cùng cho phép, lúc đó hắn sẽ thấy cả lũ vịt hốt hoảng chạy tứ tung dưới chân cầu và bom của hắn chắc chắn sẽ rơi đúng mục tiêu.
“Phải hạ bằng được cây cầu gai góc này. Chỉ mình chứ không ai khác!”. Jim thầm khẳng định.
Con Ó vẫn đang tiếp tục lao xuống… Jim mắm môi, nín thở… C! ác bắp! thịt trên cơ thể hắn căng hết lên, ngón tay cái đã sẵn sàng bấm nút. Bỗng tiếng hét thất thanh “Vòng gấp!” của đồng đội vang lên từ cái radio nhỏ xíu trong buồng lái. Hắn ngước mắt nhìn lên: những cái chấm nhỏ như những con thiêu than đang lao thẳng về phía hắn. Chúng to lên rất nhanh và mọc ra hai cái gai: Mig Bắc Việt!
Jim hiểu rất rõ rằng trong các cuộc đọ sức với những vũ khí hiện đại như thế này thì chỉ một tích tắc cũng quá đủ để hắn vượt qua lằn ranh từ cái chết sang sự sống và ngược lại. Nhưng sao có thể bỏ dở cuộc săn khi con mồi đã ở trong tầm ngắm! Vì thế, con Ó cứ lao vun vút xuống rồi cắt bom ở cự ly thấp nhất cuối cùng cho phép.
Chẳng kịp nhìn xem bom có trúng đích hay không, hắn xoắn tít con Ó như cái lá bay lên. Không sao, hắn sẽ được biết kết quả khi trở về.
Chưa kịp lấy đủ độ cho để tăng tốc vút đi tránh lũ Mig, thì cái ô kính bé tẹo bên tay phải – nơi hắn ghét nhất nhìn vào khi đang bay – hối hả nhấp nháy dòng chữ SAM … SAM
SAM[2] đỏ quạch như máu. Tiếng báo động vùng lên inh ỏi để nhắc cho Jim biết rằng SAM đang theo vết con Ó…
Hắn với tay vặn cái nút radio cho tiếng báo động nhỏ xuống.
Đèn lại nhấp nháy lần hai. SAM đang bám sát, lượn đuổi ngay theo sau con Ó…
Con Ó trời nhỏ nên tính cơ động rất cao và bay rất nhanh. Nhiều lần nó đã dũng mãnh thoát khỏi sự săn lùng ráo riết của SAM sau vài dặm rượt đuổi. Lúc này nó tăng hết tốc lực, bay lắt léo lẩn tránh theo kiểu các loài chim.
Ec…ec…ec tiếng kêu hối thúc từ cái radio đã bị vặn nhỏ vang ra SAM… SAM
SAM – đèn lại bật đỏ, nhấp nháy liên hồi báo động lần thứ ba: SAM đang sát sau lưng hắn…
Bây giờ thì máu bắt đầu chảy rần rần trong cơ thể Jim, phóng vọt lên hai thái dương làm chúng giật giật liên hồi. Tất cả các kỹ năng bay đã được huấn luyện rất bài bản đang bỏ rơi hắn… Mồ hôi túa ra… Jim ớn lạnh…
Một cú đâm khủng khiếp đập vào cánh phải con Ó làm nó rùng mình lảo đảo, đầu chúi xuống. Trong tích tắc, nó phụt cháy bùng lên thành một khối lửa đỏ rực, lao vun vút xuống đất
Lửa ngập tràn, khói mù mịt vây quanh hắn. Hắn cũng đang lao xuống với tốc độ khủng khiếp không cách gì dừng lại được.
Jim biết rằng hắn đã tiêu mất một giây vô giá ở trên cau, khi hắn bạo gan bỏ qua lời cảnh cáo của đồng đội, không cho con Ó vút lên. Giờ thì hắn chỉ còn một cách duy nhất để vượt lằn ranh từ cái chết về với sự sống. Trong bóng tối mờ mịt bàn tay hắn vội vã vồ lấy cái cần đẩy, kéo mạnh xuống. Jim chỉ kịp thét lên:
– Tôi bị hạ!
Hắn bật vút lên; ngất đi
Làn gió mát rượi làm Jim tỉnh lại. Hắn từ từ mở mắt… Hắn còn sống và đang lơ lửng dưới cái dù.
Jim ngước nhìn xa xa về phía biển: biển bây giờ chẳng còn màu xanh biếc mà đang ngả sang đe! n. Chiều nay mẹ Oriskany lại thiếu một đứa con trở về…
Hắn nhìn xuống dưới, nơi cất giấu những hiểm họa đang rình chờ mình: dưới chân hắn là dòng sông, bên phải làng mạc tan hoang đổ nát, con đường cái oằn mình vì lở loét… Bên trái con sông là dãy núi xanh thẳm. Dưới chân núi, một ngôi làng nằm trải dọc theo bờ sông. Những làn khói mềm đu đưa, thong thả bay lên theo gió…
Hắn cố điều khiển chiếc dù bay về phía bên phải, tránh xa dãy núi. Nhưng Chúa dường như lại bỏ rơi hắn thêm một lần nữa nên gió từ ngoài biển cứ thổi vào ào ào, đẩy cái dù bay càng nhanh hơn về phía đó.
– Chó chết, chó chết! – Hãn nhìn dãy núi lầm bầm rủa.
Hắn cần một nơi bằng phẳng để đáp xuống. Cây rừng là thứ tồi tệ, đáng ghét nhất của đám nhẩy dù. Hắn cố kìm dây dù bên phải cho thấp xuống, người cũng nghiêng về phía ấy, nhưng vô ích! Cái dù cứ bay về phía đám cây rừng rồi nhẹ nhàng đáp xuống, mắc kẹt ngay trên những ngọn cây dầy đặc.
Nhanh như cắt, Jim rút con dao bên hông ra cắt phăng dây dù. Hắn rơi xuống… Cốp!… Một tiếng va chạm vùng lên vô cảm giữa khu rừng tĩnh mịch. Hắn đã rơi trúng vào một tảng đá ở bên dưới dường như đã nhẫn nại nằm chờ hắn ở đó hàng mấy triệu năm rồi… Cái đầu gối phải bị xé toạc, máu tóe ra…
Lạy Chúa, cái chân của con… Jim ngã vật ra, kêu lên vì đau đớn.
Hắn thò tay vào túi quần dưới đầu gối, lấy túi cứu thương để băng ngay cho cái chân nhưng lại đổi ý, nhét nó trở lại. “Phải thoát ra ngay khỏi cánh rừng đáng nguyền rủa! này!! 221;
Hắn nhăn mặt, cắn môi, chống tay cố ngồi dậy. Hắn đảo mắt khắp xung quanh: cây cối chằng chịt bốn, năm tầng. Mấy cái dây leo đang lả lơi cuốn lấy mấy cây cổ thụ sừng sững. Vài cái lá cọ như những cái quạt đu đưa làm duyên. Tiếng khỉ giành con chí chóe, lũ muỗi rừng vo ve khát máu, làm cho lũ vắt háu đói nghểnh cổ lên chờ mồi…
Đúng là loại rừng nhiệt đới điển hình mà Jim đã từng được hướng dẫn tỉ mỉ cách để thoát ra. Lúc này, Jim cần phải thực hiện gấp ba môn học mà hắn ghét nhất: lẩn tránh, chạy trốn, giải thoát.
Hắn loạng choạng đứng dậy, lao xuống núi, mới chạy được mấy bước đã ngã dúi xuống. Hắn bật ngay dậy như chiếc lò xo vừa khập khiễng, vừa nhẩy lò cò tìm đường thoát ra khỏi đám cây rừng..
Mắt Jim chợt sáng lên khi nhìn thấy một khoảng trống khá bằng phẳng, rải rác vài tảng đá ngay lưng chừng núi. Hắn hối hả lao xuống.
Giờ thì Jim đã ngồi yên vị trên một phiến đá nhỏ. Không bỏ lỡ một giây, hắn rút ngay cái điện đài nhỏ xíu cài trước ngực, đặt lên phiến đá. Với những động tác chính xác, thuần thục, hắn khởi động máy rồi nhấn nút liên tục…
Chẳng phải đợi lâu, con mắt xanh lè trên điện đài đã nhấp nháy liên tục như trấn an hắn.
– Đội ơn Chúa! – Hắn làm dấu, thở dài nhẹ nhõm.
Việc duy nhất phải làm lúc này chỉ còn là chờ đợi…
Bây giờ Jim mới nhìn xuống cái đầu gối bên phải khốn khổ của mình: Nó như hơi nghẹo ra… Mặt trăng đang lên soi rõ cái vết thương to hoác, rỉ máu. Hắn vội lục tìm lại cái túi cứu thương nh�! �ng nó �! �ã rơi mất từ lúc nào. Hắn đành lục soát khắp bộ quần áo bay xem có gì có thể băng cái đầu gối lại.
– Cái gì đây? – Jim lẩm bẩm – gương phản chiếu – Chẳng cần đến mấy. Hắn quăng nó ra xa.
Cái gì đây nữa? – sách Survival – hướng dẫn tỉ mỉ cách để sống sót trong rừng, dậy cách phân biệt các loại cây, nấm độc tìm nguồn nước…
– Quẳng mày đi cho nhẹ! – Hắn lầm bầm
Cái quỷ gì thế này? hắn kêu lên và lôi ra một mảnh lụa có hình cờ Mỹ ở một góc, trên đó có in những đòng chữ bằng 13 thứ tiếng nổi rõ mồn một dưới ánh trăng: “Tôi là người Mỹ, tôi không nói được tiếng của quý ông… Jim ngừng đọc, nhíu mày “Sao lại không có quí bà nhỉ?” – Và hắn tự giải đáp ngay “A, đúng thôi, chiến tranh là công việc nặng nhọc khác thường, chỉ dành cho đàn ông”. Hắn gật gật đầu rồi đọc tiếp: “Gặp nước không may tôi phải nhờ quí ông giúp đồ, kiếm thức ăn, chỗ ở và bảo vệ tôi…”. Jim bĩu môi xì một tiếng, vò nát mảnh lụa định ném đi. Chợt hắn đổi ý. Hắn đặt mảnh lụa lên đùi, lấy tay vuối cho thẳng rồi để vào giữa tấm bản đồ bay có những nét bút của mình đánh dấu các mục tiêu cần đánh phá.
Jim gập chúng lại, lần dò xuống dưới phiến đá, rút con dao bên hông ra đào một cái hố nhỏ. Hắn đặt tấm bản đồ cùng mảnh lụa và cái điện đài xuống đó rồi phủ đặt đá lên trên. Hắn quay đầu nhìn khắp bốn phía…
Trong vài giây, hắn đã xác định chính xác vị trí của phiến đá.
Trên người hắn bây giờ chỉ còn lại con d! ao, khẩ! u súng, cái la bàn và bút pháo hiệu.
Bỗng tiếng náo động từ dưới chân núi vọng tới, Jim đứng phắt dậy đặt tay lên bao súng rồi lại đổ vật ngay xuống. Nhưng hắn cũng đã kịp nhìn thấy một đoàn người đang rầm rập kéo về phía chiếc dù trắng. Nó đang đang phướn lên phướn xuống như phởn chí với làn gió trên ngọn cây.
– Đồ quỷ tha ma bắt! – Hắn nghiến răng rủa.
Hắn trườn nhanh vào đám cỏ tranh trước mặt, kéo lê cái chân phải. Cứ trườn được một quãng thì hắn ngừng lại, nhổm ngoi lên dựng đám cỏ vừa bị đè ẹp xuống. Nhưng chẳng có cây nào đứng lên nổi. Hắn chỉ dừng lại hẳn khi đầu chạm phải một hốc đá chắn ngay trước mắt. Hắn ngồi dậy, dựa lưng vào tảng đá, nhoài người ra cố kéo đám cỏ tranh phủ khắp cơ thể mình, chỉ chừa hai lỗ nhỏ nơi cặp mắt. Hàng đàn muỗi rừng đói lâu ngay lao vào cấu xé con mồi lạ. Mồ hôi vã ra ướt đầm chảy từng dòng xuống khuôn mặt, sống lưng. Cái chân phải tê dại, nhưng nỗi đau từ đó đã chuyển hết cả lên đầu.
Chưa đầy mười lăm phút sau khi tín hiệu được phát đi, từ phía Tây hai Thần sấm F115 đã gầm thét lao tới. Màn đêm như tấm vải khổng lồ bị xé toạc.
Jim lắng nghe, đắc ý, nhếch mép cười. “Thật không hổ một danh là Thần sấm. Kẻ yếu bóng vía chắc phải đứng tim khi nghe thay âm thanh ghê rợn khác thường của nó”.
Jim biết đồng đội của hắn đang tới, bằng mọi giá giải vây cho hắn, kể cả phải đổi bằng sinh mạng của chính mình. Chỉ mấy phút nữa thôi Jim sẽ lại được siết chặt những bàn tay rắn chắc thay lời cảm ơn cho lòng quả cảm của họ. Không chậm trễ, hắn sẽ được băng bó, uống nước rồi chuyển ngay tới bệnh viện Hải quân
Tiếng vè vè của AD6 – Kẻ đột nhập bầu trời cắt ngang sự hồ hởi của hắn. Được sự yểm hộ của hai Thần sấm, chúng sục sạo tìm kiếm và xác định vị trí của đồng đội ở dưới đất. Jim biết rằng thời gian chờ đợi đã chấm dứt. Hắn đứng dậy, một tay cầm chắc súng, một tay rút ngay cây pháo hiệu cài trước ngực, bắn lên trời ba phát về phía bãi trống. ánh sáng pháo hiệu chưa kịp tắt thì hắn đã nghe thấy tiếng rin rít kinh người của hai con Ma. Chúng bay vào, thả bom vãi đạn xung quanh cái bãi trống nhằm chặn đứng mọi nỗ lực vây bắt của những người ở bên dưới. Ngay lập tức VA10A ầm ì bay vào rồi lao vút đi ngay, để lại sau nó cả vùng trời sáng rực, soi rõ từng hòn đá ngọn cỏ.
Thời điểm mong đợi đã tới! Jim bẻ người, vặn vai qua lại… Mới vừa khởi động được mấy cái thì hắn đã nghe rõ tiếng phành phạch dội tới, gió thổi tứ tung, cỏ đổ rạp, đất đá bay lên…
Jim đút súng vào bao ở trước ngực, làm dấu Thánh, hít một hơi dài rồi khập khiễng chạy ra bãi trống nơi chiếc trực thăng đang sà xuống. Hắn ngã dúi, hắn đứng lên, hắn nhảy lò cò, hắn lại đổ xuống. Cuối cùng thì hắn bò, hắn bò như điên như dại…
Đạn réo quanh mình, sỏi xô thúc vào ngực, đá cào xước hai bàn tay, máu chảy xối ra từ đầu gối nhưng cái dây đang lơ lửng trước mặt khiến hắn chẳng còn cảm giác gì.
Jim trườn vút lên, ưỡn ngực, rư�! ��n cổ, vươn cao hai tay vồ chặt lấy cái dây. Cái dây căng ra… Tấm thân hắn bắt đầu nhúc nhích rời khỏi mặt đất…
Tim Jim nhẩy cẫng lên: “Tạ ơn Chúa! Một phút nữa thôi, vĩnh biệt mày, mảnh đất chết tiệt!”.
Tấm thân hắn đang được kéo căng ra… nhấc bổng… bỗng khựng lại, đổ ập xuống cùng đoạn dây thành một đống dưới đất. Jim nằm bất động mặt úp xuống đất, nghiến chặt răng… Bàn tay phải của hắn nắm lại cứng như thép, đấm liên hồi xuống đất tóe máu…
Một vật gì đó bỗng bất ngờ đổ ập lên lưng hắn. Chưa kịp rút súng ra thì hai cánh tay của hắn đã bị bẻ quặt ra sau, trói chặt lại. Tiếng kêu, tiếng hét từ các phía quay lại xung quanh chỗ hắn nằm.
Một trận đòn lẫn trong tiếng hô, tiếng thét thi nhau rơi lộp bộp trên lưng hắn như mưa.
Jim giật mình hai cánh tay bị trói oặt về hai phía. Khẩu súng lục nằm cộm dưới ngực càng thôi thúc chúng vùng vẫy liên hồi “Mình sẽ rút phắt súng khi cánh tay thoát khỏi dây trói, không cần quay đầu lại, bắn ngay một phát ngược về phía sau lưng, vào giữa cái đám nhốn nháo này. Chúng sẽ hoảng loạn – quá đủ thời gian để lật người lại bắn cho tới viên đạn cuối cùng rồi liệu tiếp…”.
Nhưng càng giằng co thì đoạn dây thừng càng siết chặt vào hai cổ tay đau rát. Jim giơ phắt cái chân còn lành lặn lên cao, đạp ngược điên cuồng sang phải, sang trái, giáng thẳng vào những kẻ vừa cướp đi sự tự do của mình. Một tiếng “hự” vang lên như ngực ai vừa bị thoi, một tiếng “ối” kêu lên như có kẻ bị đạp ! văng ra ! xa. Những cái gậy phang côm cốp không thương tiếc trên cái chân đơn độc đang quyết liệt chống trả…
Một tiếng “rắc” khẽ vang lên trong mớ âm thanh hỗn độn. Cái chân phải của hắn nhũn hẳn ra, ngoẹo hẳn sang một bên. Một nỗi đau khủng khiếp vọt qua tủy, phóng vào não làm hắn cắn môi tới bật máu. Cái đau đã vượt quá sức chịu đựng, không được phép xả bằng miệng đành thoát qua hố mắt theo những giọt nước âm ấm trôi ra. Cái chân trái đang ngoan cường chiến đấu bỗng rơi phịch xuống.
Trận đòn vẫn đổ không ngừng lên lưng. “Chúng sẽ đánh mình tới chết chỉ trong vài phút nữa thôi. Lạy Chúa xá tội!”. Hắn thì thầm cầu nguyện.
Jim đã chuẩn bị cho giây phút này chưa, hắn cũng chẳng biết nữa. Nhưng hắn đã chấp nhận nó từ khi quyết định khoác lên mình bộ quân phục xanh nước biển, lấp lánh hàng khuy vàng…
Hắn nhắm mắt lại: “Em yêu, anh sẽ cầu nguyện cho em và con từ thiên đàng?”.
Một tiếng súng lạnh lẽo vang lên. “Vĩnh biệt em!…” Jim nhắm mắt.
Nhưng sao hắn vẫn thấy nỗi đau khùng khiếp ở đầu gối, ngực đang trào lên từng cơn căm phẫn…
Và hắn chợt nhận ra rằng tất cả đã đột ngột dừng lại: trận đòn cùng các âm thanh huyên náo.
Jim hiểu ngay rằng mang sống của hắn còn rất cần cho họ – những kẻ vây bắt. Hắn còn được sống, ít nhất trong vài phút, và có thể lâu hơn…
Một thứ thách mới, hoàn toàn mới, gay go, ác liệt chẳng kém những trận đánh trên bầu trời, đang chờ đợi hắn ở đây, trên mảnh đất xa lạ này…
Có ai đó xúm vào v�! �t ngửa! hắn ra. “Phút thử thách bắt dầu…” – Jim thầm ra lệnh cho chính mình.
Những câu chuyện rời rạc, chắp và thường được mang ra kể ở Câu lạc bộ sĩ quan hầu như trái ngược với những thông tin chính thức về quân chính quy Bắc Việt càng làm cho Jim và đồng đội tò mò, háo hức muốn tìm hiểu sự thật. Từ giờ phút này hắn sẽ bắt đầu quá trình khám phá đó, nhưng không chỉ dành cho đối phương mà còn cho cả chính mình!
Jim mở to mắt, nhìn thẳng vào đối thủ. Ngay lập tức, hắn nhắm nghiền mắt lại. Hắn thầm rên lên “Lạy Chúa, con đã làm gì để hổ -danh Người? Con đã chịu đựng mọi đớn đau về thể xác con đã bất chấp cả mạng sống của mình – cái quý giá nhất mà Người đã ban – để làm sáng danh Người, thế mà người lại nỡ đẩy con vào cảnh oái oăm như thế này”. Hắn bỗng hối tiếc mấy giây gồng mình chịu đau trước đó!!
Jim lại từ từ mở mắt.
Ánh trăng đêm rằm đang tỏa sáng rực rỡ, soi rõ một đám người lố nhố, nhỏ bé, gầy guộc, áo quần nhếch nhác, chân đi đất, kẻ cầm dao, người cầm gậy… đang vây quanh hắn. Toàn đàn bà, con gái, ông già, chẳng có lấy một bóng quân chính quy nào. “Đối thủ mà mình sắp phải đương đầu là những kẻ như thế này ư?” Jim lắc đầu ngao ngán. Hắn hoàn toàn hụt hẫng!
Một giọng nữ vang lên đanh đanh:
– Stand up!
Han chật vật đứng lên rồi lại ngã nhào.
Sau khi khám xét cẩn thận và tịch thu tất cả những gì có trên người Jim, họ đặt hắn vào cái võng, giao cho hai nữ dân quân khỏe nhất khiêng xuống núi.
Ông Bi chĩa súng kè kè đi bên cạnh, thỉnh thoảng lại liếc vào “chiến lợi phẩm”, mặt vênh lên, râu vểnh ngược, cánh mũi phập phồng – vẻ đắc thắng không che giấu!
Cái chân phải của Jim đã mất hết cảm giác, nhưng bây giờ nó không còn là mối bận tâm hàng đầu nữa.
“Sao mình lại không dành lấy vài phút để nghiên cứu bản đồ địa hình của khu vực này. Nó đã được các giới tình bao cung cấp chi tiết tỉ mỉ tới từng mét vuông”. Hắn lại thở dài, ân hận.
Hắn đành phóng tầm mắt bao quát xung quanh: bên phải là dòng sông Mạ, bên trái là cái làng nhỏ, sau lưng là núi. Rồi hắn cúi xuống nhìn cái chân gẫy, chép miệng, lắc đầu: “Chạy đâu được, chưa kể tới cái thân hình to xù, da trắng phau phau. Ở giữa cái khung cảnh này chẳng khác gì bức tranh phong cảnh bị phết lên một vệt sơn trắng.”
Hắn giận giữ giật mạnh hai cánh tay bị trói chặt. Cái nút dây thừng thô nháp cứa và! o hai cổ tay rát bỏng làm Jim chợt tỉnh. Không, trận chiến đấu bây giờ mới thật sự được bắt đầu ở chính đây, trên mảnh đất xa lạ này – nơi mà hắn từng được nghe tới như ốc đảo của các nền văn minh, một xứ sở bao trùm của lặng câm, không vui chơi ca hát, con người luôn chỉ dừng lại trước những giới hạn đã được vạch san. Hắn đã bị đẩy ra quá xa khỏi các cấu trúc xã hội quen thuộc. Hắn sẽ bước vào cuộc chiến mới, đơn độc, sau lưng là một khoảng trống, vũ khí duy nhất chỉ là lòng quả cảm. Nhưng để chiến thắng cần phải có những phẩm chất khác mạnh mẽ hơn người. Hắn có những thứ ấy không?…
“Ai thích nghi giỏi người đó sẽ thắng!” – Jim thầm khẳng định.
Sắp vào đêm.
Mặt trăng lơ lửng đu đưa trên ngọn tre, gió từ sông thổi vào mát rượi, cây cỏ lao xao…
Xa xa trên bầu trời những vì sao nhay nháy mắt với đoàn người đang bừng bừng khí thế thắng trận.
Chương 4
Về đến đầu làng, ông Bi ra lệnh:
– Võng nó về nhà tao, đợi lệnh cấp trên!
"Mày mà bị nhốt ở nhà ông thì có chạy trốn đằng trời" – ông Bi lẩm bẩm – “Nhốt nó ngoài đình trống huơ trống hoác, trẻ con người lớn tò mò, nhỡ có chuyện gì, lôi thôi ra… Hơn nữa nhốt nó ở nhà mình chỉ cần hai đứa gác ngoài cổng, một mình mình với nó ở trong nhà, thì có khối chuyện… Cả cái làng này lại chẳng vểnh tai lên mà nghe, cả năm, ca tháng cũng chẳng hết…”. Ông Bi khoái chí nghĩ thầm.
Bác Bi, nhốt nó ở đâu? Mi hỏi khi Jim đã được võng vào giữa sân.
Đưa nó lên nhà trên! Rồi ông lại đổi ý ngay – Thôi, cho nó xuống nhà ngang!
“Nhà trên thờ các cụ, đưa cái thằng mắt xanh mũi lõ này lên đấy nhỡ các cụ không ưa, các cụ quở, phiền lắm!” Ông Bi thầm suy tính.
Dãy nhà ngang dường như bỏ hoang kể từ ngày ông Ty khăn gói đi gặp các cụ tổ…
Từ nãy tới giờ Na van đứng nép ở góc sân.
Lúc chập tối, thấy cả làng cùng theo thầy kéo nhau lên núi vây bắt giặc lái, cô bé cũng tò mò chạy theo. Nhưng chạy được một quãng xa mới sực nhớ tới mấy con lợn đang chòi đạp trong chuồng đòi nồi cám. Hơn nữa, mấy củ khoai thầy chưa kịp ăn đã nguội cứng, phải ủ nóng lại đợi thầy về. Cô bé đành quay trở lại.
Tiếng ầm ì từ dãy núi vọng về làm Na cứ vừa cặm cụi làm, vừa ngóng lên trời lo lắng: không biết thầy ở trên núi có sao không?
Những tiếng nổ vang rền từ phía núi làm Na bỏ cả việc, lúc chạy tọt vào cái hầm chữ A ở góc vườn, khi chạy tới góc sân, ngồi thụp xu�! �ng, ôm đầu, áp chặt tay vào hai tai.
“Tiếng gì mà nổ ghê thế, to hơn cả tiếng sấm sét mấy đêm giông hè”. Cô bé thầm so sánh. Rồi chợt nhớ ra điều gì, cô bé bịt chặt hai tai, lật đật chạy ra đầu làng, đứng ngong ngóng về phía núi. Sau mỗi tiếng nổ lại ngồi thụp xuống, khẽ kêu lên:
– Thầy ơi…?
Tiếng súng tiếng bom đã ngớt hẳn, Na lững thững trở về. Làng vắng hoe, im ắng…
Na ngồi xuống bậu gỗ, tựa lưng vào cánh cổng chờ. Cô bé buồn ngủ lắm rồi, nhưng thầy chưa về, phải mở mắt thôi! Gió mát hây hây thổi, hai con mắt nhắm tịt lúc nao không biết…
Tiếng ồn ào, hể hả của đoàn người ở ngày trước cổng làm Na tỉnh giấc. Cô bé nép ngay sau cánh cổng, nhìn không chớp vào một người lạ đang được khênh vào nhà mình.
“Eo ôi, người đâu mà trông kinh thế! Cũng có mắt, có mũi, chân tay mà nom sao chẳng giống người làng mình”. Na tò mò nhập vào đoàn người, nhanh chân tìm một chỗ ở góc san, đứng đó, nhìn như hút vào người đàn ông lạ. Cô bé mở to hai mắt, lẩm nhẩm. “Ôi sao cái mặt lại trắng thế, cứ y như trang giấy viết í, còn đôi mắt kìa, sao nó lại có màu xanh của con đom đóm nhỉ? Còn cái cổ nữa, ôi mẹ ơi, sao nó lại to thế kia, cổ của thầy có to thế đâu? Hai chính tay nữa, đầy lông lá như con chó cún, tóc lại vàng hoe như râu ngô, người gì mà to thế, phải to gần bằng con trân đực nhà ông Hai.”
Cô bé cứ đứng ngây ra.
Đặt Jim lên chiếc giường cũ mèm của ông Ty trước đây xong, ông Bi liền ra lệnh:
– Con Mi viết báo cáo gửi gấp lên huyện?
Mi ưỡn ! ngực đ! ập gót cứ y như ở trong doanh trại:
– Rõ!
Ông Bi lướt ngay sang Jim, hai cánh mũi phập phồng.
Jim chẳng hiểu họ nói gì, nhưng nhìn cái cách của cô gái đáp lại theo kiểu lính chuyên nghiệp tuân lệnh chỉ huy thì hắn biết rằng người đàn ông gầy guộc đang đứng trước mặt mình là người có uy quyền nhất trong lúc này. Mạng sống của hắn sẽ phụ thuộc vào con người này, vì thế đôi môi của hắn hơi cố giãn ra như khẽ mỉm cưới, đầu gật gật tán thưởng.
Mặt ông Bi nóng bừng
Ông e hèm lấy giọng, gãi gãi cái đầu như nhắc nhở nó bắt đầu vào việc bắt chữ, đặt câu.
Mi ngồi phệt xuống đất kéo cái ghế đẩu làm bàn rồi cặm cúi viết. Cứ viết được mấy chữ, cô gái lại ngẩng đầu lên chờ đợi.
Nhưng cái chữ xem ra cứ như con ma trơi, thoắt ẩn thoắt hiện bỡn cợt với ông già. Ông Bi cứ e hèm mãi, mấy cái tóc lơ thơ trên đầu cũng bắt đầu ngọ nguậy, cái răng cửa lại thò ra… Thế mà mấy con chữ vẫn cứ trốn tiệt!
Mi im lặng, gõ gõ cái đầu bút chì xuống đất. Rồi chừng như sốt ruột quá, cô đành bạo miệng nhắc một chữ. Ông Bi chặn ngay:
– Tao biết rồi?!
Đánh vật mãi trên cái ghế đẩu, cuối cùng Mi cũng viết xong bản báo cáo. Cô đứng thẳng người, quàng súng đợi lệnh.
Mày vượt sông gấp, lên huyện ngay bây giờ. Cho đứa nào theo cùng. Quàng lên! Sáng sớm mai mà không có mặt thì ông giết? Ông Bi oang oang ra lệnh.
Mi chẳng hiểu ông Bi sẽ làm thế nào để giết mình nếu như ông không nhìn thấy cô được. Mi nén cười, ưỡn ngực đáp:
– Tuân lệnh!
Cô gái ào ra cổng như! cơn gi�! � lớn!
Lúc này ông Bi mới thong thả soi cái đèn dầu lù mù xuống sát cái đầu gối phải của Jim. Hắn cũng cúi ngay xuống, nhìn chăm chú: cái đầu gối đã ngoẹo hẳn ra, miệng vết thương há hoác, lấp ló trên đám máu khô là mấy mảnh vải quần hay mấy mảnh da rách nát, tối quá hắn chẳng nhìn rõ.
“Phải sát trùng gấp rồi băng ngay lại không thì đi toi cái chân!” hắn lo lắng.
Ông Bi quơ đèn qua lại trên vết thương, nhìn một lúc rồi gọi:
– Na đâu, cầm xuống đây cho thầy cái kéo.
Đang đứng lấp ló ngoài hiên, Na giật mình: “Dạ”.
Một lúc sau tiếng cô bé từ nhà trên vọng xuống:
– Con chẳng tìm thấy thầy ạ! Hay thầy để quên hôm đi cắt khẩu hiệu ở ngoài đình?
– Con dao cũng được! ông Bi đáp lại.
Jim kinh hãi nhìn con dao đen sì, to tướng lăm lăm trong tay ông Bi. “Ông ta định làm gì với con dao vậy? Ông ta định chặt đầu hay chặt cái chân bị thương đây?". Hắn hoang mang.
"Nếu con dao mà vung lên thì một cú đạp trời giáng sẽ lao thẳng vào giữa bộ hạ của lão chỉ huy. Lão sẽ phải văng ra ít nhất là mười feet và nằm bất động ê ẩm ở đó tối thiểu là hai phút. Quá đủ thời gian để mình cướp con dao, cắt dây trói, giật khẩu súng, tóm hắn làm con tin. Thật là một tấm lá chắn hoàn hảo để che cho mình thoát lên núi… Cái điện đài vẫn còn ở đó
".
Hắn ngồi im, trông thật bình thản nhưng các bắp thịt của hắn đều đã gồng cứng lên sẵn sàng vào trận, đầu hắn nóng bừng với những kế hoạch hành động.
Ông Bi cầm con dao, bước tới. Chợt ông dừng lại, nghi ngại nhìn cái chân lành lặn của Jim. Ngần ngừ một lát, ông đổi hướng, đi vòng, tiến tới sát cái chân gãy của hắn.
Jim mím môi, thở phì phì… “Lão già này đúng là con cáo!"
Mấy nhát cắt dứt khoát vứt bỏ đám vải quanh đau gối dính đầy máu làm vết thương lộ rõ hẳn ra. Ông Bi giắt con dao vào s! au lưng rồi lôi trong túi cho ra một nhúm thuốc lào đen sì, hôi hắc, thẳng tay ấn mạnh nó vào vết thương.
Cái xót xé thịt quá bất ngờ làm Jim bất thần húc đầu thật mạnh vào người ông Bi rồi cúi xuống, thổi cuống cuồng cho đám thuốc lào rơi xuống đất. Ông Bi loạng choạng… ngã phệt xuống.
Mẹ cha cái thằng giặc ngu này, ông chữa cho mày khỏi què mà mày lại toan đánh ông! Ông cho mày què luôn – ông Bi tru tréo. Ông đứng dậy, rút cây súng ở trên vai xuống, lên đạn lách cách, chĩa vào Jim nhưng ở khoáng cách ngoài tầm với của hắn.
Jim bất ngờ khi thấy nòng súng đã lên đạn chĩa thẳng vào mình. Hắn lại đang vượt qua lằn ranh của sự sống sang cái chết…
“Thật vô lý, thật ngớ ngẩn!”
Tia mắt tóe lửa biến ngay thành ánh mắt xanh thân thiện, cái miệng đành mím chặt bỗng nở một nụ cười kèm những tiếng “Sorry… Sorry…” đầy ân hận.
Khuôn mặt ông Bi giãn ra, ông từ từ hạ súng xuống.
Jim thở phào…
“Thiếu tá Mc.Clean, ngài phải nhớ rằng ngài đang sống trong chiến tranh, ở một nơi có tổ chức xã hội, con người với lối suy nghĩ và tập quán hoàn toàn xa lạ, chắc chắn ngài sẽ còn nhận được nhiều điều bất ngờ nữa… Đừng lầm lẫn giữa can đảm va hành động bản năng thiếu kiểm soát. Hãy làm chủ bản than mình trong mọi tình huống” – Jim thầm tự răn mình.
Đúng lúc ấy, Na như làn gió mát lướt nhẹ vào giữa hai người, trên tay cô bé là cái túi cứu thương của đội dân quân mà Mi lúc nãy vội đi, bỏ quên lại.
– Thầy mệt rồi, thầy đi nghỉ đi, để c! on làm &! #8211; Na nhẹ nhàng nói.
Mắt Jim sáng lên khi nhìn thấy dấu thập tự đỏ chói trên cái túi trong tay cô bé. Hắn nhìn đôi bàn tay nhỏ bé rồi lại nhìn vào vết thương của mình, khẽ lắc đầu.
“Giá mình đoạt được cái túi cứu thương kia, mình sẽ tự băng bó lấy…”. Hắn tự nhủ, ngọ nguậy hai bàn tay đang bị trói chặt phía sau lưng.
Na đứng yên, mắt không nhìn Jim mà chăm chú vào cái vết thương đỏ lòm, miệng mở toang hoác.
“Không biết ngã ở đâu mà vết thương trông khiếp thế? Chắc ông ta đau lắm!”. Na khẽ chép miệng, lắc dầu.
Cô bé ngước mắt lên nhìn Jim như muốn tìm cái vẻ đau đớn trên khuôn mặt hắn nhưng Jim chỉ mỉm cưới, khe khẽ gật đâu. Na kéo chiếc ghế đẩu vào sát cái đau gối bị thương rồi ngồi xuống. Cô bé cầm đèn rọi qua rọi lai, xem xét cẩn thận cái vết thương rồi mở túi lấy ra một gói bông và chai cồn.
Jim cau mày lo lắng, nhìn đăm đăm vào hai bàn tay của cô bé.
Na đổ cồn vào miếng bông, sát qua sát lại nó vào tay mình. Mùi cồn hăng hắc nhè nhẹ bay lên…
Jim gật gù…
Na lại lấy ra một miếng bông khác, to hơn, thấm đẫm cồn, nhè nhẹ đặt nó vào vết thương rồi chầm chậm chùi những vết máu, vết bẩn từ trong ra ngoài.
Jim thấy xon xót dễ chịu, lim dim mắt, quên mất cả việc đoạt lấy cái túi cứu thương.
“Cô bé chắc là con của ông chỉ huy, có đôi mắt lanh lẹ và cái mũi hênh hếch giống bố. Cô bé bao nhiêu tuổi? Lên tám hay lên mười – Jim thầm tự hỏi. Rebecca của mình vài năm nữa cũng lớn bằng cô bé này. Sao mái tóc lại đen và lại dầy đến thế, nó l! àm cho c! ổ của cô bé như cứ phải ngửa ra sau, thật vất vả quá? Rebeca của mình tóc lại vàng”.
“Ôi Rebeca của cha – Jim thầm kêu lên – ước gì lúc này cha được đặt tay lên mái tóc vàng óng của con. Con yêu, con đã đi ngủ chưa? Con vẫn đến trường mỗi sáng chứ? Con có nhớ cha không?”
Những câu hỏi chẳng có câu trả lời cứ dồn dập trong đầu Jim. Bỗng một đôi mắt xanh biếc, trong trẻo vụt hiện lên chăm chú nhìn hắn như muốn hỏi: Sao lại thế hả cha? Ngực Jim thắt lại, hắn nhắm nghiền mắt
Sáu giờ sáng. Trời còn tối đen như nửa đêm…
Một mầu trắng toát giăng giăng khắp nơi như vô tận: khắp bầu trời, trên mái nhà, dưới thềm cửa, ngoài con đường lớn…
Mặt trăng co lại, mỏng dính, đơn độc trên bầu trời xám đục.
Mấy cây óc chó mùa hè rực rỡ đầy hoa đỏ thắm, thế mà bây giờ co ro cái thân gầy guộc, bị bó cứng đầy băng tuyết. Một cơn gió ào ào thổi qua, chúng lại run bắn lên từng hồi trong mênh mông tuyết trắng.
Karthy đi như chạy hết từ trên gác xuống dưới nhà lại từ dưới nhà lên gác. Một núi việc đang chờ nàng: đám quần áo bẩn giăng ra ở khắp nhà đang cần thu lượm, đống bát đĩa bẩn bỏ lại từ đêm qua bắt đầu lên mùi, bữa sáng, bữa trưa cho con gái chưa chuẩn bị, ấm cà phê cho chồng còn nguội ngắt…
Karthy lại bay lên gác, vào phòng con gái, thầm thì:
– Con yêu, mẹ rất tiếc, nhưng đã đến giờ con phải dậy rồi!
Con bé nũng nịu vòng tay ôm cổ mẹ: "Mẹ ơi! Con muốn ngủ nữa”… Khi con bé vào nhà tắm, Karthy nhoài người hối hả thu dọn cái giường nhỏ rồi lao ngay vào giúp nó vệ sinh, thay quần áo, chai tóc, buộc nơ… Vừa làm vừa dặn dò hoặc trả lời những câu hỏi chẳng bao giờ dứt của con gái…
Mặc vội mấy lượt quần áo dầy cộp lên thân hình bé nhỏ, Karthy hối hả dắt con ra đường.
Trời chưa sáng hẳn. Những cơn gió lạnh buối gầm rú rượt đuổi nhau ào ào, thỉnh thoảng như hứng chí, chúng lại ném từng vốc tuyết thẳng vào mặt người qua đường.
Rebeca co ro đứng sau lưng mẹ để tránh gió. Karthy vòng tay ra sau xiết chặt con vào sát mình…
Chiếc xe buýt màu vàng đã tới. Karthy hôn tạm biệt con gái rồi tất tả trở về nhở…
Cành táo khẳng khiu vừa rũ khỏi mình lũ tuyết đeo bám dai dẳng, khoái chí đập liên hồi vào ô cửa kính đầu giường làm Jim tỉnh giấc.
Bên ngoài trời chưa sáng hẳn, trong nhà im ắng. “Chắc hai mẹ con đang ở ngoài đường đón xe” – Jim thầm nghĩ.
Hắn chả vội, hắn đang trong kỳ nghỉ phép hàng năm.
Jim nằm im, mơ màng. Hắn cứ nằm đó, mắt nửa nhắm nửa mở, nghe gió gào, suy nghĩ vẩn vơ, tận hưởng hơi ấm toát ra từ cái chăn lụa Ý nhồi lông vịt mềm mại đang ôm lấy cái thân hình cường tráng của mình.
Hắn chỉ miễn cưỡng rời khỏi giường khi nghe thấy tiếng cửa đập dưới nhà: "Karthy đã về!” – và uể oải bước vào buồng tắm.
Hắn bật vòi nước. Khi những tia nước ấm từ vòi sen mạ vàng sáng choang vừa bắn vào ngực, chảy mơn trớn khớp cơ thể là Jim lại bắt đầu ngay điệu sáo quen thuộc của mình. Hắn chỉ tạm ngừng khi nghe thấy tiếng chân vợ chạy tất bật trong phòng ngủ. Nằm ườn trong nước ấm, chẳng thèm thò đầu ra khỏi cái rèm bồn tắm, hắn hỏi vọng ra một cách chiếu lệ:
–! ; Con tới trường rồi hả em?
Chẳng đợi câu trả lời của vợ hắn quay lại ngay với điệu sáo “Cây cầu sông Kwai” yêu thích nhất của mình.
Thân hình lực lưỡng của hắn thả lỏng bồng bềnh trong cái bồn tắm trắng lóa đầy nước ấm, ba mặt được lát đá nâu với những họa tiết lấp lánh vàng, chẳng khác gì những nét chạm khắc tinh xảo trong các đền thờ Pharaon[3] Ai Cập cổ đại…
Cái vết thương nhói lên vì bị vòng băng xiết chặt làm Jim choàng tỉnh khỏi cơn hồi tưởng. Tim hắn quặn thắt, hắn thầm thảng thốt: “Đấy là cha của con đấy ư – Rebeca bé bỏng? Lạy Chúc xá tội, cha đã từng như thế ư? Không, thề có Chúa, nếu Ngài cho cha một cơ hội, nếu cha được trở về, cha sẽ là người khác, khác hẳn con ạ.
Mỗi sáng, cha sê nắm chặt bàn tay nhỏ bé của con trong tay cha, dắt con đi trên con đường băng giá. Cha sẽ đứng chắn gió, che tuyết cho con, như mẹ con vẫn thường làm… Ồ không, cha sẽ không làm như vậy! Cha sẽ bế con lên, ôm chặt con vào lòng, áp má của cha vào cái má đang đỏ ửng vì rét của con lâu tới chừng nào có thể, để làm cho nó ấm lại…
Rebeca yêu quý! Cha sẽ làm như thế nếu cha được trở về… Cha hứa đấy!”.
Jim nhắm mắt lại, nghẹn thở… Nước mắt nóng hổi từ từ ứa ra, lăn xuống má… Jim nghiêng đầu, quệt má vào hai vai, hít một hơi thật dài rồi đưa mắt nhìn xung quanh: căn nhà trống trải,! nhếch ! nhác, đầy mùi ẩm thấp, muỗi vo ve từng đàn, thèm khát lao như điên vào con mồi có mùi máu lạ… Bên ngọn đèn dầu lù mù với cái bóng ám khói đen, cô bé đang chăm chú xiết chặt những nút băng cuối cùng. Em dừng tay, ngước mắt rụt rè nhìn Jim như dò hỏi hắn có đỡ đau không? Ánh nước lấp lánh quanh hàng mi vàng trên khuôn mặt trắng bóc làm Na sững người. Cô bé bối rối: “Chắc mình làm ông ấy đau rồi? Sao mình lại vụng về thế nhỉ? Đã tập bao nhiêu lần trên tay, trên chân chị Mi rồi, chẳng được khen đấy thôi… thế mà bây giờ…”. Cô bé cúi xuống nhìn hai bàn tay bé nhỏ nhưng lớp da đã dầy, nứt nẻ, nâu mốc mầu nắng sương, dúi vội chúng vào hai vạt áo trước.
Jim nhìn thấy hết. Hắn bỗng muốn kéo hai bàn tay ấy ra khỏi vạt áo, nắm chặt chúng lại trong tay mình rồi nói: “Bé con, cháu có đôi bàn tay rất đẹp va khéo léo”.
Nhưng hắn chỉ ngồi im, trìu mến nhìn vào khuôn mặt xinh xinh, lấm tấm mồ hôi, đang căng lên vì bối rối.
Rồi từ rất sâu trong lồng ngực, hai tiếng “thank you" được phát ra chậm rãi, trầm ấm trên đôi môi nứt nẻ như đám ruộng thiếu nước ở chân núi.
Na vội vã bỏ đi rồi quay ngay lại với bát nước mưa trong vắt.
Cô bé cầm bát nước bằng hai tay, từ từ đưa nó lên sát vào miệng Jim. Hắn ngửa cổ, nuối ừng ực, quên cả thở.
“Xin Chúa chứng giám, đây là thứ nước tuyệt vời nhất mà Ngài đã ban tặng cho con người: Nó trong vắt, man mát, dịu ngọt khí trời, khác xa thứ nước màu nâu sậm, sủi bọt trắng, the the được chế biến hàng loạt theo công thức đã định sẵn”.
Bát nước hết veo – Giá mà có thêm một bát nữa – Jim thầm tiếc rẻ.
Bốn bề im ắng. Ông Bi và Na đã bỏ ra ngoài từ lúc nào…
Jim nằm nghiêng trên cái giường vừa nhỏ lại vừa ngắn đang rên lên hừ hừ như cái thân già phải mang vác quá sức. Mấy thanh vạc giường đã gẫy cứ đâm thúc vào mạng sườn mỗi khi hắn toan cựa mình. Jim đành nằm im.
Người hắn mỏi nhừ, hai cánh tay bị trói sau lưng tê dại, cái chân phải đau buối, mồ hôi vã đầm đìa làm cái áo bay dày cộp ướt đẫm, ôm chặt lấy người như bó bột. Hắn chẳng còn làm được gì hơn là cố nhắm mắt.
Từ màn đêm tĩnh mịch, đâu đó ở ngoài vườn, một chú dế mèn bỗng rich…rich như bắt đầu bắt giọng. Chỉ chờ có vậy, lũ ếch nghểnh cổ kêu ộp…ộp…ộp, lũ nhái ọap…ọap…ọap tiếp ngày sau, ve sầu cũng chẳng chịu chậm, vội vã re…re…re… Chúng cùng nhau hối hả hòa vào bản đồng ca đêm.
Tiếng lách tách, đớp đớp trên mặt nước như gó! p vui của mấy nhóc cá, tiếng khìn khịt tắc mũi khó ngủ của chú lợn con, tiếng chép miệng thở dài của bác bò già vì bừa cỏ chưa no ban chiều, tiếng gù gù của chàng bồ câu đực luẩn quẩn quanh cô vợ nằm ổ làm cho nàng thị già quá lứa ở ngay bên hậm hực vùng vằng rớt đánh bộp…
Gió thổi nhè nhẹ, cây lá xầm xì nhỏ to đôi mách…
Jim lắng nghe. Hắn bỗng mỉm cười trong đêm tối. Hắn đang thưởng thức những âm thanh mới lạ của xứ sở phương Đông xa xôi…
Hắn mở mắt nhìn ra sân, tìm kiếm những vật đang phát ra các âm thanh kỳ diệu đó…
Một tấm lụa vàng mềm mại trải rộng khắp cái sân gạch, lũ gió đêm tinh nghịch vờn đuổi nhau ríu rít từ ngoài cổng vào sân, ra vườn. Một mùi thơm nhè nhẹ bay vào… Jim hít hít. Mùi ngan ngát quá, hắn bặm môi hít thêm một hơi sau nữa. “Ồ, cái mùi này Sao thấy quen quen, không hẳn như vậy nhưng gần giống hương của một loài hoa… Ở đâu nhỉ?…”, Jim nheo mắt. “Hoa, hoa… nào nhỉ?” Hắn tự hỏi, chợt kêu lên thích thú vì kinh ngạc. “Đúng rồi!!! Đó chính là hương của một bông hoa đã tỏa thơm cho đời hắn! Jim mấp máy môi gọi nhỏ: Karthy!… rồi nhắm mắt, nghẹn ngào…
Ánh sáng vàng ấm áp từ cái đèn đầu giường tỏa dìu dịu khắp căn buồng ngủ…
Jim khoan khoái trong bộ quần áo ngủ lụa mềm, ngả lưng vào mấy cái gối lông vịt ở đầu giường, đọc sách… Hắn ngước nhìn lên: Karthy tử phòng tắm thong tha bước vào, đôi chân trần trắng muối khẽ nhún nhẩy trên tấm thảm len xanh… Cái áo bằng tơ màu hồng nhạt, mỏng, nhẹ như khói ph�! � kín d�! �ng người cao cao từ cổ tới chân. Hai ống tay áo được chẽn phồng lại nơi cổ tay bằng một dải xatanh nhỏ cùng màu. Một dải đăng ten cũng màu hồng nhưng sậm hơn, mềm mại ôm quanh cổ. Mấy lọn tóc vàng còn ẩm hơi nước, loăn quăn, hững hờ trên cái cổ cao trắng muối rồi đổ nhẹ xuống bờ vai. Cái đầu hơi nghiêng nghiêng làm chiếc mũi hênh hếch lên thách thức. Vành môi trên cong cong như dò hỏi, như chờ đợi… Đôi mắt xanh biếc e thẹn ngập ngừng nhìn người đàn ông trước mặt.
Karthy trông thật giống như một nụ hoa sắp nở. Cái e ấp của nàng, chỉ riêng nàng mới có làm Jim không ngừng ham muốn khám phá. Nhưng Karthy đâu phải là tuýp đàn bà dễ để cho đàn ông “nhanh nóng, chóng nguội”, hết ngay cái say đắm sau lần đầu khám phá. Cái đằm thắm toát ra từ vòng tay, nụ cười, ánh mắt, lời nói cao thấp nhiều cung bậc, mỗi ngày mỗi khấc của nàng luôn làm Jim háo hức như buổi đầu hò hẹn. Nàng như củ hành bóc mãi không hết lớp, càng bóc càng toả hơi cay…
Jim say sưa ngắm nhìn Karthy rồi nhoài hẳn người ra, ôm gọn nụ hồng vào lòng. Đèn phụt tắt…
Jim mở mắt. Hương thơm vẫn còn quanh quẩn đâu đây…
Ngoài sân, ánh trăng vàng vẫn vằng vặc mênh mang…
“Karthy, em yêu ngàn lần của anh – Jim thầm gọi – giờ này em đang làm gì? Chắc đang úp mặt vào gối, cắn môi nghẹn ngào cố ghìm tiếng nức nở trong đêm cô đơn… Đừng khóc em yêu hãy ngước nhìn ra cửa sổ, ngắm vầng trang… Em sẽ thấy anh đang bên em thầm thì: dù hôn nhân có là điệp khúc giản đơn phải hát trọn đời, nhưng em yêu ơi, khi trở về, anh h! ứa đ�! �y – chính anh, đúng chính anh sẽ là người viết nên các biến tấu khác nhau cho nó mỗi ngày…”
Tiếng nức nở vẫn quẩn quanh đâu đây… Jim nghẹn ngào “Nhắm mắt lại đi, em yêu… Anh đang nắm tay em chạy trên bãi cát dài lộng gió rồi vuối ve em mãi không thôi bên những con sóng xô bờ. Khoảng cách dù có phũ phàng đến đâu chăng nữa cũng chẳng thể ngăn được anh luôn mang em trong trái tim mình…”. Hắn cứ thủ thỉ mãi với bóng đêm…
Cục ta cục tác…, Cục ta cục tác…,
Con gà mái đậu trên cái tường hoa vươn dài cổ, quang quác như thể chỉ có mình nó mới mang lại cho đời những quả trứng tròn và to đến thế!
Jim giật mình tỉnh giấc, ngồi bật dậy.
Cái chân phải nhói lên làm hắn tỉnh hẳn. Hắn đảo mắt khắp lượt nơi đang cầm giữ mình:
Trên đầu, cái mái rạ lởm chởm, thủng lỗ chỗ những đốm sáng. Mạng nhện đua nhau giăng giăng khắp nơi.
Cái vách làm bằng đất trộn rơm trắng mốc. Năm tháng dường như làm chúng mệt mỏi nên nhiều chỗ rơm và đất đã buông nhau ra, để lộ những lỗ thủng to hoác. Nền nhà bằng đất nện đen sì, nơi góc rêu lên xanh.
Im ắng quá… Jim chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng mấy con lợn đang chí chóe ở phía trái nhà.
Họ đi đâu cả rồi? Cái ông chỉ huy và cô con gái ấy? Những gì sẽ chờ đợi mình ngày hôm nay đây? Sao chưa thấy quân chính quy Bắc Việt đến tra khảo?
Jim cũng đã chuẩn bị cho điều này ngay từ khi quyết định chiến đấu trên bầu trời Bắc Việt. Chắc chắn hắn sẽ không khai gì hơn ngoài tên, cấp bậc, số hiệu. Chỉ thế thôi! Dù thế nào đi nữa, hắn nhất quyết không bao giờ hé môi về các kế hoạch oanh kích của đơn vị, cũng như các mục tiêu đánh phá sắp tới
Ông Bi từ nãy tới giờ lấp ló ở ngoài sân, tay luôn đưa lên dụi đôi mắt đỏ quạch, e hèm rõ to, bước vào.
“À, ông chỉ huy vừa chào”. Jim thầm nghĩ.
Good morning, Sir!
Hắn đứng lên đáp lễ, nhưng lại ngã phịch ngay xuống. Hắn ngước nhìn ông Bi và chẳng nhận thấy một dấu hiệu nào trên khuôn mặt chứng tỏ ông ta đã tiếp nhận cử chỉ lịch sự của mình mà chỉ thấy ông ta như đang ra dấu để hắn đi theo.
“Đi tra khảo đây, ta đã sẵn sàng. Nhưng sao lại chỉ có một mình ông ta? Quân chính quy Bắc Vi�! ��t đâu?
Jim đứng dậy, khó nhọc nhảy lò cò theo ông Bi ra sân.
“Ông ta dẫn mình đi đâu đây? Sao lại đi về phía chuồng lợn? -Jim hoang mang – hay là ông ta sẽ tra khảo ở chuồng lợn, tởm quá!…”. Jim rùng mình.
Ông Bi dừng lại. Hắn nhận ra mình đang đứng trước một cái bình lớn màu nâu đựng một thứ chất lỏng màu vàng đục, gợn trắng, hăng hắc như mùi amoniac bay lên.
“Chuyện gì thế này? Kiểu tra khảo này chưa thấy có tài liệu nào đề cập tới”. Jim kinh hãi… Nhưng hắn vẫn cố đứng thật thăng bằng một chân, nhìn không chớp mắt vào ông Bi.
Ông Bi hết nhìn hai cái tay trói chặt lại nhìn vào cửa quần của Jim: “Cái này thì gay thật đay, không nhẽ mình lại phải làm việc ý?”. Ông lại nhìn vào cái chân gãy của Jim rồi liếc nhanh ra cổng, bĩu môi: “Cái chân què này thì lết đi đâu được, trời sáng bảnh thế này… Với lại, còn hai con ranh đang ôm súng ngoài cổng…”.
Ông cúi xuống thong thả tháo từng nút dây trói.
Hai cánh tay tê dại chẳng còn cảm giác gì như bị liệt – chúng đã nằm bất động sau lưng Jim cả gần mười tiếng – Jim cố xoay xoay hai cổ tay, từ từ giơ hai cánh tay lên, cử động nhẹ nhàng rồi vung mạnh chúng về hai phía. Ông Bi giật mình nhảy lùi lại nhíu mắt nhìn đầy nghi ngại. "Mình mà làm lão ta hiểu lầm lần nữa thì hai cánh tay sẽ được đoạn dây thừng chăm sóc cẩn thận không biết bao lâu".
Hắn chợt nhớ tới cuốn phim có cảnh những người châu Á – ở nước nào, hắn cũng chẳng nhớ nữa – để bày tỏ sự cảm ơn họ chắp hai tay trước ngực, ! cúi đ�! �u. Thế là hắn vội xoay người lại làm y như thế. Ông Bi ngây ra, hai cánh mũi phập phồng…
“Cái này mà mang ra kể thì khối đứa lại chẳng bảo là mình phịa. Nhìn thằng Mỹ to lớn thế kia, nó chẳng đang vái sống mình như vái các cụ Tổ đấy ư”. Ông Bi gật gù khoái chí, miệng chỉ chực cười toét.
Bất giác ông nhìn vào bộ ngực đầy lông lá xoăn tít lên tận chân cổ của thằng giặc rồi liếc nhanh vào cơ thể gầy gò của mình. Ông đưa tay xoa xoa ngực mình như tự hào về sự nhãn nhụi của nó…
Ông bỗng bối rối cười rồi chỉ chỉ vào giữa hai cái đùi của Jim rồi ngoảnh mặt đi.
Hắn thở phào, phì cười. Giờ thì hắn hiểu hắn phải làm gì. Một tay bịt mũi bịt mồm, một tay nâng cái ấy, hắn vội vã làm cho xong cái việc mà ai ai cũng phải làm gần như đầu tiên mỗi sáng.
Jim khạc nhổ, ho rũ rượi tới trào nước mắt nước mũi, co một chân lò cò nhẩy vội ra sân. Hắn lảo đảo sắp ngã.
Ông Bi chạy vội theo, giơ cái vai gầy ra đỡ lấy hắn. Jim tựa vào ông Bi nhẩy cuống cuồng ra khỏi nơi ám khí ấy.
"Mày thì chẳng thơm tho lắm đấy – ông Bi lẩm bẩm – y như cái mùi lông lợn cháy khét”.
Mùi chua chua như lọ dưa chuột muối quá ngày trộn với mùi hăng hắc của lá thuốc toát ra từ ông Bi làm Jim quay mặt đi. Hai mái đầu một già một trẻ, một đen một vàng ngoảnh đi hai hướng tìm gió mát, nhưng họ vẫn cứ phải dựa vào nhau để bước đi lần hồi…
Họ bỗng nghĩ đè sấp lên nhau khi ông Bi vấp phải hòn gạch vỡ ở mép sân. Jim chống tay, nhấc thân hình to lớn của mình khỏi cái bộ xương củ! a ông Bi! , rồi từ từ đứng dậy.
Ông Bi ngồi phệt trên sân, xoa xoa cái đầu gối của mình.
– Cái thằng này thế mà nặng gớm? – ông lầm bầm phàn nan.
Đang băm rau ở góc sân, Na quăng dao chạy lại đỡ bố.
Phải làm cho nó… À, cái ông này cái nạng thầy ạ – Na khe khẽ nói.
Ông Bi hừm một tiếng thay cho câu trả lời.
Jim lò cò trở vào nhà…
Trên cái giường, một bát nước, một bát cơm cùng quả trứng đang đợi hắn.
Jim đưa mắt ra sân tìm cô bé như muốn nói lời cảm ơn. Nhưng Na đã chẳng còn ở đó…
Jim chùi tay vào cái áo bay rồi cầm quả trứng lên, xoay xoay, ngắm nghía. Hắn bóc vỏ, ngửi ngửi, bẻ quả trứng làm đôi rồi nhìn xoáy vào cái lòng đỏ. Hắn thong thả làm dấu Thánh rồi bỏ từng nửa quả trứng vào miệng.
“Ồ hương vị của nó cũng giống như trứng gà của Mỹ, nhưng đậm hơn”. Jim thầm nhận xét.
Hắn bưng bát cơm lên xem xét: “Thứ cơm trắng này vẫn được bán đầy tại các tiệm cơm Tầu, chẳng lạ gì!”.
Hắn đưa bát cơm lên mũi: “Sao cái loại cơm này có mùi gì lạ la, mằn mặn, chua chua…”. Hắn băn khoăn.
Jim nhón vài hột bỏ vào miệng rồi nhổ phì ngay ra.
“Chắc nó có trộn hóc chất để tẩy não. Bắc Việt là bậc thầy về việc này. Nhiều tài liệu đã đề cập đến…”. Jim nghi ngớ. Hắn cảnh giác đẩy bát cơm ra xa…
Jim chẳng nuối nổi bát cơm ấy cũng đúng thôi vì đó là thứ cơm được nấu bằng gạo đã ngâm nước biển hòa với máu…
Cách đây vài tháng ông Bi cùng đội nữ dân quân đã được huyện huy động đi tải gạo.
Năm nay hạn lớn. Dân đói. Chiến trường thiếu gạo trầm trọng. Lương thực cho bộ đội chỉ quanh quẩn: sáng sắn, trưa măng, chiều cháo loãng.
Tất cả các hải cảng của Bắc Việt Nam đã bị các tầng mìn, thủy lôi dày đặc của Mỹ khóa chặt…
Ba con tầu chở gạo viện trợ từ nước bạn tới đã phải cập vào hòn Ra, nằm ngoài khơi. Để bảo đảm không bị oanh kích, quốc kỳ của họ được treo cao trên tầu.
Ngay lập tức, các tầu chiến của Mỹ lừng lững xuất hiện vây chặt ba con tầu, chỉ chừa một lối vừa đủ cho chúng r! út về nước. Máy bay quần đảo chẳng một phút nghỉ ngơi. Mọi hoạt động của ba con tầu đều bị giám sát chặt chẽ.
Xóm chài đối diện với hòn Ra ngày nào còn rộn rã những mái ngói choàng khoác nhau chạy trên các đụn cát ngút mắt, nay câm lặng trong hố bom chồng hố bom. Hàng phi lao mới kia còn rì rào hát cùng sóng biển nay cụt đầu rỉ nhựa… Một tấm bảng thông tin bị xô lệch vì sức ép của bom, lỗ chỗ mảnh đạn nhưng trên thân hình đầy thương tật vẫn sáng hàng chữ “Thêm một cân thóc là diệt thêm một thù!”.
Dân quận huyện Tân Thành được điều động gần hết đến khu vực hòn Ra để tìm cách chuyển gạo từ ngoài khơi vào bờ.
Đêm đầu, lợi dụng tối trời, mấy chục con thuyền đánh cá nhỏ lặng lẽ tiếp cận ba tầu chở gạo. Hàng trăm ngư dân hối hả trong im lặng chuyển gạo xuống thuyền. Công việc trót lọt, gạo đã đầy thuyền, họ thở phào nhẹ nhõm.
Nhưng họ đã lầm!
Khi những con thuyền vừa bắt đầu quay mũi vào bờ thì pháo sáng bất ngờ trùm lên khắp mặt biển. Đèn ở các tầu chiến đồng loạt bật sáng. Mặt biển sáng rực, trông rõ từng con thuyền nhỏ nhoi, mỏng manh… Đạn từ các tầu chiến cứ thủng thẳng dội xuống, tỉa từng con thuyền một…
Sau mười lăm phút, biển im ắng trở lại. Trên mặt biển đen chẳng còn gì ngoài những vệt loang đỏ thẫm…
Những người đứng trên bờ đang ngóng thuyền, đợi gạo nghẹn ngào gạt nước mắt…
Nhưng họ không bỏ cuộc!
Đêm hôm sau, họ tìm cách khác. Họ dùng thuyền thúng, phủ ni lông màu nước biển lên những bao gạo rồi chở chúng vào b�! �.
N! hưng cũng chỉ được một đêm. Lũ pháo sáng tinh ranh chẳng dễ gì mà lừa lâu được?
Đêm sau toàn bộ đoàn thuyền thúng chở gạo xuống… đáy đại dương.
Chiến trướng đang nóng lòng chờ gạo để nổ súng đánh lớn. Gạo đã có lù lù cả đống như quả núi, thế mà chẳng làm sao mang được vào bờ.
Phải làm sao đây…?
Dân công họp lại. Họ ngồi trên cát, bên biển, dưới trời, không ghế, chẳng đèn, quây quanh anh cán bộ lãnh đạo của huyện Tân Thành.
Pháo sáng từ ngoài khơi thỉnh thoảng lại lóe lên soi rõ hai hố mắt sâu hoắm của người lãnh đạo. Họ chăm chú lắng nghe cái giọng khản đặc đang cất lên cố át gió vượt sóng của anh:
– Thưa bà con, chúng ta đã hy sinh mất mát quá nhiều mà gạo vẫn chưa chuyển được vào bở. Tình hình lúc này vô cùng cấp bách. Lương thực và nước trên ba con tầu chỉ đủ dùng cho ba ngày nữa… Chúng ta chỉ có ba ngày, ba ngày thôi! Thưa bà con, xin bà con hiến kế.
Ca đám đông trầm xuống… Họ thở dài, chép miệng, rì rầm bàn tán rồi im lặng trầm ngâm…
Bỗng có tiếng sôi òng ọc, réo lên từng hồi phát ra từ cái dạ dầy của ông Bi… Một trận cười rộ lên. Đám con gái cười nghiêng ngả, chảy nước mắt nước mũi, đấm vào lưng nhau thùm thụp. Tiếng cười chạy lan trên bờ cát, xô ra biển…
Ông Bi giận lắm, mắt gườm gườm, lẩm bẩm “Cưới cái gì mà cười, sắp đến lượt cả chúng mày đấy!”.
Không khí cuộc họp bỗng trở nên sôi động. Sáng kiến nối sáng kiến, kết thành một giải pháp…
Họ đã biết mình phải làm gì!
Đêm hôm sau ông Bi c! ùng các! cô gái của mình đứng yên lặng dọc theo bờ biển. Họ dang chờ để vớt những bao gạo được buộc thành từng chùm mười bao một, bọc bốn lớp nilon ở bên ngoài, được thả trôi trên biển, theo dòng hải lưu, nhờ gió và sóng đẩy tấp vào bờ…
Những cơn sóng dồn dập xô bờ như cố át đi tiếng chân trần chạy thình thịch trên cát ẩm, tiếng thở hồng hộc vì phải mang vác quá sức của những người tải gạo có thể làm lũ thú ngoài khơi tỉnh giấc… Nhưng lũ thú đâu có ngủ, chúng đang im lặng rình! Những chùm pháo sáng đột nhiên vụt lên trời, soi rõ những cái bóng gầy gò cõng gạo chạy như bay trên bờ biển.
– Moi cát nằm xuống!- ông Bi thét lên. Khi những bàn tay hối hả mỏi cát chưa đủ cho phần ba cho cái lưng còm thì đạn ở ngoài khơi đã riu ríu bay vào.
– Kéo bao gạo che người! – ông Bi gào lên.
Tiếng đạn rơi trên cát ẩm nghe lụp bụp như mưa rào. Tiếng đạn xuyên qua bao gạo, khoan sau xuống dưới nghe trầm đục. Gạo trắng bục ra, văng tứ tung, đỏ loang loáng phủ kín thân người nằm dưới. Thế nhưng, khi pháo sáng chưa tắt hẳn họ đã lại vụt dậy, lao đi? Họ chỉ có một phút giữa các đợt pháo sáng để vác gạo chạy ra khỏi bãi cát tử địa.
Tiếng ai lại kêu lên thất thanh, đau đớn như vừa vấp phải đạn. Gạo trắng lại bắn tung tóe, trộn cát, hòa máu…
Cứ như thế, đêm này qua đêm khác, gạo được đưa vào bờ, đến những ngôi nhà còn sót lại sau những trận oanh tạc. Mỗi nhà dân là một kho gạo, mỗi gia chủ là một thủ kho đầy bản lĩnh: cho không lấy, thấy không xin, của công giữ gìn… Toàn bộ số gạo đã mang được vào bờ đều chuyển hết ra tiền tuyến, không suy suyển lấy một hạt.
Một số bao gạo bị đạn đánh thủng ngấm no nước biển nên huyện có chỉ thị chia phát cho dân công. Ông Bi mang phần gạo của mình về, phơi kỹ, để dành làm giỗ! cho vợ.
Jim nhẩy lò cò ra mái hiên, ngồi xuống bậu cửa nhìn ra sân.
Ngoài sân vắng ngắt. “Họ lại đi đâu hết cả rồi? Canh giữ tù binh gì mà lại thế? Giá mà lúc này trời tối… Cố bò cũng có thể lên được tới núi…”. Jim thầm nghĩ và đánh mắt xa ra ngoài cổng: Hai con bé đang ôm súng rúc rích cười nói… Jim khẽ lắc đầu. Hắn chang biết làm gì hơn ngoài việc đảo mắt quan sát xung quanh.
Những tia nắng như những tia lửa nhỏ bắt đầu hun nóng cái sân gạch. Gió hiu hiu, cây cối ri rào những câu chuyện muôn thủa của chúng… Hai con chích chòe từ đâu bay tới leo lẻo góp chuyện.
Bờ ao lên rêu xanh mướt. Lũ vịt mải mê lộn nhào tắm mát, hai con hứng chí nhẩy cẫng lên, sải cánh đập phành phạch khiến mắt ao cau mày khó chịu… Mấy nhóc bèo đang lang thang rong chơi trên mặt nước bỗng hốt hoảng dạt vào bờ, nấp vội dưới khóm môn.
Jim đưa mắt sang trái, ngắm nhìn ngôi nhà. Đập ngay vào mắt hắn là hai cột trụ ở đầu nhà, trên đỉnh có hai búp hoa vươn lên trời cao. “Sao lai có hai cái cột ở đầu nhỉ? Chúng dường như chẳng liên quan gì tới kết cấu của ngôi nhà. À, có thể theo luật phong thủy của người châu Á chúng là biểu tượng để gìn giữ cho ngôi nhà đứng vững muôn đời”. Jim gật gù bằng lòng với những phát hiện mới của mình.
Hắn ngước nhìn lên mái. Ngói được xếp tầng tầng lớp lớp như vẩy cá. Trên nóc, ở hai đầu mái có hai ụ xi măng hình chữ thập được đắp đè lên. “Họ xây chúng lên mái để làm gì nhỉ?” Jim tự hỏi rồi tự trả lời, “À, chúng sẽ làm cho cái mái như luôn ! được ! chúng giữ cẩn thận, không bị tốc lên trong trời giông bão”. Bốn cái đầu rồng bằng gỗ thò ra đỡ cái mái như hăm dọa, sẵn sàng chiến đấu nếu có kẻ nào định rình phá ngôi nhà.
“Ồ sao cái mái lại dốc thế nhỉ? Xứ này không có tuyết sao phải làm dốc thế?”. Jim băn khoăn tự hỏi. Hắn bỗng sờ lên trán “mình chắc sẽ u đầu nếu không cúi đầu khi bước vào nhà, sao thế nhỉ?” – Jim lại cau mày… “À, đúng rồi trước khi bước vào nhà cái ai cũng phải cúi đầu xuống để tỏ lòng kính cẩn đối với gia chủ”. “Cái bậu cửa nửa kia, sao cao thế, phải đến 15 inchs”. Hắn nhìn xuống cải chân phải rồi lắc đầu “cái chân què tất nhiên là chẳng dễ gì bước được qua nhưng ngay cả người lành lặn dù có vội vã mấy cũng phải dừng lại, khoan thai bước vào từng chân. Thế có nghĩa là ai cũng phải có phong thái lịch sự, điềm tĩnh trước khi bước vào nhà”. Jim lai khẽ gật gù.
Jim nhìn thẳng ra cổng “Cái cổng lại đặt lệch sang một bên, không dẫn thẳng vào nhà, ngôi nhà cũng không quay ra cổng mà lại nằm khuất hẳn về một phía” hắn lại thầm tự trả lời: “Có lẽ chủ nhà muốn cho những kẻ thóc mách tò mò cùng lắm cũng chỉ nhìn thấy mấy cái cây. Thật khác hẳn vời những cái cổng to tướng nằm chình ình, phô trương như để cho thiên hạ thả sức mà thèm thuồng cái vẻ giàu sang thừa mứa của những cơ ngơi ở Mỹ…
À! Hóa ra kiến trúc của người Việt cũng có những nét riêng biệt, khác lạ. Không biết trong văn hóa của họ có gì mới lạ và thú vị không?”.
Đúng lúc đó ông B! i từ ng! oài vườn bước vào sân, trên tay cầm vài khúc cây. Ông ngồi xuống bên cái tường hoa, dưới tán cây bưởi, hai đầu gối nâu bóng cao sát tới mang tai.
Mấy sợi râu rung rung theo hơi thở. Khẩu súng trường do Mỹ chế tạo năm 1907 da tróc nhẵn hết sơn, nằm thảnh thơi bên cạnh. “Ông chỉ huy bao nhiêu tuổi, năm mươi hay sáu mươi thật khó đoán. Đôi mắt tuy có đám sương phủ mờ mờ nhưng lại rất linh lợi. Khuôn mặt xương xương nâu sậm nhưng trán lại thẳng băng. Cái khóe miệng được hàm răng trên kéo căng ra. Đôi vai gầy rũ xuống nhưng bàn tay to lớn cầm dao cắt gọt cứ phăng phăng”. Jim lặng lẽ ngắm ông Bi.
Ông Bi chọn hai khúc cây thẳng, đưa mắt nhìn người Jim rồi cúi xuống chặt cho hai khúc cây dài bằng nhau chừng hơn một mét. Mỗi khúc cây ông cắt vát đi một đầu, rồi úp hai mặt vát vào nhau, đập một nhát thật mạnh cho cái đinh xuyên qua chúng, làm thành một chữ V dài.
– “Ông ta làm gì thế nhỉ? – Jim nhíu mày.
Khi hai đầu của chữ V được nối lại bằng đoạn cây ngắn chừng gang tay, một hình tam giác dài đã hiện ra rõ.
Jim chợt hiểu. Hắn thấy nao nao…
Ông Bi giơ cái hình tam giác dài ra xa, nghiêng nghiêng đầu nheo mắt ngắm nghía rồi đánh mắt sang Jim như muốn ướm xem nó có vừa với chiều cao của hắn không.
Ông đặt nó xuống, đóng thêm một đoạn cây ngắn hơn vào giữa chữ V, song song với đoạn cây trước, cách nhau chừng hơn ba tấc.
Tác phẩm của ông giờ đã hoàn thành. Ông chìa nó về phía Jim hất đầu nói to:
– Tao cho mày cái chân mới, thằng giặc!
Dù chẳng hiểu ông Bi nói gì, Jim cũng gật gật đầu đáp ngay lại “thanh yoư" rồi giơ ngón tay cái lên.
Ông Bi dựa cái nạng vào dây tường hoa, khoan khoái xếp chân vòng tròn, với tay lấy cái điếu cày bằng tre già đựng bên cạnh. Cái điếu đã lên nước nâu bóng, có khắc hình hai con rồng bay lượn, đầu chầu vào nõ điếu. Ông Bi vỗ bồm bộp vào cái miệng điếu làm văng tàn thuốc ra khỏi nõ, đặt ngả nó vào lòng mình rồi lấy ra từ túi áo một nhúm sợi nâu sậm. Ngón tay cái và ngón tay trỏ chụm lại, thong thả vê cho nhúm sợi săn lại nhỏ chừng hạt ngô rồi đặt nó vào nõ điếu. Ông đánh lửa vào que tre, đợi cho ngọn lửa xanh bùng lên mới nâng cái điếu đặt lệch trên miệng, châm nó vào nhúm thuốc. Khi ngọn lửa bắt đầu bén vào sợi thuốc, ông hóp má, thóp ngực rít liền mấy hơi thật mạnh, chẳng thở ra lần nào, dồn chặt cái hơi thuốc ấy vào sâu trong lồng ngực. Tiếng nước trong ống điếu réo lên hòa với tiếng rin rít phát ra từ nõ điếu làm thành một bản hòa tấu sáo độc đáo
Ông đặt cái điếu về chỗ cũ, chống hai tay, ngả người ra sau, mắt nhắm nghiền, miệng hé mở, thả từ từ đám hơi đã bị hãm quá lâu trong lồng ngực. Khói trắn! g thành từng vòng, từng vòng nối nhau nhè nhẹ bay lên… Đôi mắt ông hé mở, lờ đờ như người đang say…
Jim quan sát không bỏ qua một chi tiết nào. Cách hút và tận hưởng điếu thuốc của ông Bi làm hắn ngỡ ngàng. Hắn bỗng nhận thấy những giây phút tận hưởng cuộc sống nhiều khi lại bắt nguồn từ điều nhỏ nhoi và bình thường nhất mà con người đôi khi chẳng để ý tới hoặc bỏ quên. Hắn chợt muốn hít một hơi qua cái ống tre đó để thứ xem mình có được những cảm giác bay bổng, thoát hoàn toàn ra khỏi thực tai dù chỉ trong một vài phút như ông chỉ huy hay không?
Ông Bi mở mắt thở khà một tiếng thật to đầy sảng khoái, khuôn mặt giãn ra. Ông đứng dậy, phủi đít quần thong thả bước vào nhà tìm chén nước.
Na từ cổng lật đật bước vào, ôm trên tay một bó to những tàu chuối khô làm che hết cả mặt. Em cứ phải ngoẹo đầu sang một bên để tìm lối bước.
Mắt Jim vụt lóe lên mừng ro khi nhìn thấy cô bé.
“Cô bé làm gì vất vả với cái đám lá khô thế nhỉ? Chắc chuẩn bị bữa ăn?”. Jim thầm thắc mắc.
Na ngồi xuống gốc cây bưởi, chỗ bố em vừa ngồi, đưa mắt nhìn về phía Jim nhưng chẳng nhìn mặt hắn mà chăm chăm vào cái đầu gối băng đỏ rồi bắt tay vào việc. Em từ từ tước bỏ mấy cái lá khô trên cọng chuối rồi xé chúng thanh các sợi dây mảnh mai. Từng sợi, từng sợi… Cả đống dây khô mềm nằm ngay ngắn trên sân khe khẽ rung lên trong gió.
Na lấy ra một sợi, giật giật hai đầu rồi nhoài người với cái nạng đang dựng bên tường hoa, đặt nó lên đùi.
Jim nhíu hết cả mày lai, mắt nhìn chăm c! hăm ch�! �ng bỏ sót một động tác nào của Na.
“Lạ thật, sao chuẩn bị thức ăn lại phải cần tới cái nạng nhỉ? Hóa ra nó được dùng để nấu ăn chứ đâu phải để cho cái chân gãy của mình”. Jim xìu xuống.
Bàn tay trái giữ chắc cái nạng trên đùi, bàn tay phải cầm sợi dây chuối khô, Na cẩn thận quấn từng vòng, từng vòng quanh cái nạng nơi tay và nách của hắn sắp bị chà sát…
Jim lặng đi… người hắn nổi gai ốc… một cơn sóng bất thần xô lên ngực làm hắn ngộp thở… Kiến hàng đàn, hàng lũ ở đâu bỗng kéo tới chạy rần rần trên da, trong thịt hắn…
Jim nghẹn ngào: “Chúa ơi!”
Thân hình đồ sộ của hắn bất than như muốn vươn ra, hai cánh tay như muốn lao về phía trước, về phía cô bé… Hắn muốn giang tay ôm chặt cô bé vào lòng, nghẹn ngào: một việc nhỏ và dễ dàng thế kia mà sao chẳng mấy ai làm được hả con?”
Một suy nghĩ vụt hiện lên trong đầu hắn “Rebecca bé bỏng của cha, vài năm nữa con sẽ lớn lên bằng cô bé kia, lúc đó liệu con có thể làm được những gì mà cô bé đó đã làm – một cô bé thiếu may mắn khi đang sống ở một nơi khuất nẻo thoát khỏi sự bao vây nghiệt ngã của các tầng thông tin. Khi trưởng thành, con có thể sẽ đi nhanh và tiến xa hơn trên đường đời nhưng liệu con còn có được những giây phút bình yên trong tâm hồn để thanh thản ngắm nhìn bông tuyết rơi đầu mùa hay lắng nghe tiếng chồi hoa đội đất vươn lên khi xuân về. Và cha cũng chẳng biết nữa, tới khi đó, trong trái tim con liệu có còn góc nào dành cho lòng thương cảm trước những kẻ gặp bước không may như ! cha của! con lúc này… Cũng như con Ngườỉ, con người sẽ được gì và mất gì trên con đường hối hả đi tới sự hoàn thiện của xã hội văn minh. Liệu có cách gì để làm cho con người vẫn có được một tâm hồn cao đẹp, bớt cô đơn hơn trong những chuẩn mực của xã hội đó?”.
Đám dây khô đã được quấn chặt chẽ gọn gàng, êm ái ôm vào hai đoạn cây, đang chờ nâng đỡ hắn…
Gió nhẹ thổi… Mấy bông bưởi trắng nhụy vàng rung rinh, nhè nhẹ thả hương thơm ngát một góc vườn. Những tia nắng xuyên qua đám lá xanh, lung linh tỏa sáng trên mái tóc đen, trên khuôn mặt, trên cái lưng bé bỏng… Cô bé sáng chói lên như bức tượng bằng vàng…
Mi cùng với mấy cô gái chạy ào vào, tay cầm cái phong bì có dấu Khẩn đỏ chói. Khuôn mặt bầu bầu làm Mi trông cứ như đứa trẻ nhưng cái áo nâu hở cổ lại uốn lượn theo đường cong của một thiểu nữ, cái thắt lưng to bản chẽn ngay giữa eo như nhắc nhở rằng cô đang là một quân nhân.
Mi năm nay mười chín tuổi, mới được ông Bi chỉ định làm xã đội phó. Từ lâu Mi đã được xem là con cháu trong nhà nên nếu cô giúp một tay, có chuyện gì bác cháu bảo nhau… dễ thông cảm.
Mi nhanh nhẹn, hoạt bát, ăn nói rõ ràng, cứ một điều “rõ”, một điều “tuân lệnh” oang oang, làm ông Bi lắm lúc cũng mát cả ruột… Thật chẳng bù cho cái Na… Thế mà hai đứa lại quấn quýt nhau hơn cả chị em ruột.
Hơn nữa, chả gì Mi cũng đã tốt nghiệp cấp ba trên Huyện, đỡ “đòn” cho ông khối việc…
Đúng là không có con bé thì ông đã bị bẽ mặt trong cái đận lên huyện tập huấn kỹ thuật bắn máy bay phản lực. Thật chẳng khổ gì cho ông bằng ngày hai buổi cứ phải ngồi căng tai nghe hết “cấu tạo, đặc tính kỹ thuật của máy bay phản lực", lại tới “đồng tâm”, “gia tốc”… ngồi không mà hai cái tai của ông cứ ù ù như là đang xay lúa. Lại còn hai con mắt nữa chứ, càng cố giương lên thì nó càng nhanh sụp xuống, lắm khi hai mí mắt cứ tự dính chặt vào nhau, làm ông “thăng” lúc nào không biết… Thật xấu hổ muốn chết! Giá mà ông có thể dùng cái kim băng mà treo hai cái mí trên lên thì đỡ quá…
Hết một tuần tập huấn mà ông vẫn ù ù cạc cạc chẳng rõ điều gì.
Về tới làng ông ! liền ra lệnh cho Mi phải phổ biển lại cho trung đội những gì mới học được. Cái gì ông chưa hiểu thì ông ra sức “lục vấn” con Mi, cứ như là ông công truy bài nó. Nhờ thế mà khi huyện xuống xã kiểm tra ông trả lời oang oang, vanh vách.
Chưa hết, huyện còn phát tài liệu có in hai mươi câu tiếng Anh thông dụng, đã được phiên âm và yêu cầu các cán bộ xã phải học thuộc lòng để có thể sử dụng khi bắt phi công.
“Cái tiếng gì chẳng ra tiếng người. Lúc thì ồm ồm trong cổ họng như bị viêm, lúc thì phì phì giữa môi dưới và hàm răng trên cứ y như phải thổi mớ củi ướt cho nồi cơm đang sôi dở”. Ông Bi càu nhau. Không biết có phải tiếng Anh quá kì dị hay hàm răng của ông nhô ra quá xa chẳng thể chạm được vào môi dưới nên đánh vật mãi cả tháng mà ông không làm cách nao phát âm lấy nổi một từ.
Đến ngày phải lên huyện sát hạch, ông cáo ốm nằm nhà. Mi đành đi một mình nhưng rồi cũng mang về được cái giấy khen. Khối chuyện không có con Mi thì cũng gay đấy, phiến hà đáo để!
Mi tháo súng khỏi vai, vừa thở hổn hển, vừa báo cáo:
– Bác Bi, chỉ thị của Huyện đây ạ!
Ông Bi chìa hai tay ra thành kính đỡ lấy cái phong bì. Ông lật lên lật xuống rồi đưa lại cho Mi.
E hèm, mày tinh mắt đọc xem trên có chỉ thị gì!
Mệnh lệnh rất ngắn gọn, rõ ràng “Chuyển gấp lên trên và bằng mọi giá phải bảo đảm an toàn sinh mạng cho tù binh”. Nhiệm vụ đã rõ. Họ tản ra hối hả chuẩn bị…
Jim chả hiểu cái tờ giấy màu vàng đánh máy chữ lem nhem có dấu đỏ chói ở dưới nói gì, nhưng nhìn cái cách ôn! g chỉ h! uy chau mày chăm chú, các cô gái ưỡn ngực đập gót nghe lệnh như lính tráng thì hắn cảm thấy có chuyện gì đó nghiêm trọng sắp xảy ra.
“Chắc họ chẳng cần mình nữa nên mang ra bắn cho rảnh nợ. Nếu cần khai thác tin tức thì đã phải có quân chính quy Bắc Việt”. Jim thầm lo lắng. Hắn đưa mắt nhìn hết ông chỉ huy rồi lại nhìn mấy cô gái như cố tìm câu trả lời, nhưng chẳng ai để ý tới hắn. Họ đang quá bận rộn với công việc của mình. Hắn đảo mắt khắp sân tìm Na, cô bé cũng chẳng còn ở đó nữa. "Không, mình không thể chết một cách dễ dàng ở xó xỉnh xa xăm này.”
Hắn đã được lực chọn và chuẩn bị kỹ càng để làm những điều khác thường. Nhưng hắn đã kịp làm gì nhiều đâu, hắn đang chờ cơ hội…
“Phải cướp súng, bắn vào những kẻ đang giam cầm tự do của mình rồi chạy trốn. Lên núi… lên được đến núi là thoát”. Những ý nghĩ đảo điên trong đầu Jim làm hắn thở dồn dập, gồng mình cứng lên như một cây sắt.
– Bất giác hắn nhìn xuống cái gối phải – lắc đầu. “Chạy trốn ư? – Trời sáng trưng thế này – vô ích. Bắn vào ai đây? – hắn lại tự hỏi – “Bắn vào mấy con nhóc đang tuổi lớn kia ư? Không, người của dòng họ Mc.Clean lừng danh được Chúa lựa chọn không phải để làm những việc như thế!!!
“Vậy thì phải làm cái gì đi chứ?! Mình không thể đi gặp Chúa với hai bàn tay trắng, không thể. Hãy hành động? Hắn tự hối thúc mình…
Nhưng hai bàn tay của hắn chẳng làm được gì ngoài việc dùng tay đấm như điên như dại vào không khí mà ng! uyền r�! ��a cái hoàn cảnh éo le, khốn kiếp đang trói chặt chân tay mình. Mồ hôi thi nhau túa ra, chảy ròng ròng trên mặt, nắm đấm bắt đầu ướt nhẹp – hắn bất lực.
Jim chán nản ngước mắt nhìn lên trời… Hắn bỗng thấy những đôi mắt ướt nhòa vì xót thương đang nhìn đau đáu như muốn ghi sâu mãi bóng hình của hắn trong tuyệt vọng cùng cực. Hắn biết những người thân yêu nhất của mình đang bay tới để vĩnh biệt. Jim muốn hét to lên rằng hắn yêu họ, hắn cần họ biết bao? Hắn nhắm mắt lại thầm cầu nguyện: “Lạy Chúa, hãy cho con đi gặp Người cùng với những ánh mắt ấy!”.
Một tiếng hô lanh lảnh, chắc nịch vang lên “Stand up!”
Tiếng súng ống lách cách thúc vào lưng hắn.
Jim từ từ đứng lên, mắt nhìn thẳng. “Phải thở đều, thở đều". Nhưng hắn cũng biết rằng mình đang thở dồn dập và cái đầu gối lành lặn hình như cũng đang nhũn ra…
Hai cô gái chụp lên người hắn một cái áo làm bằng rơm vàng óng, nặng chình chịch, phủ kín từ cổ tới bụng. Họ lại còn ấn thêm lên đầu hắn một chiếc mũ cũng làm bằng rơm vừa dầy vừa cứng.
Jim ngỡ ngàng nhìn bộ trang phục mới của mình.
Không, hắn không thể đi gặp Chúa trong hình hài quái dị này. Hãy để hắn chết chỉ trong bộ quân phục bay của Hải quân Hoa kỳ đẫm mồ hôi và máu đang mặc trên người.
Hắn giơ tay toan dứt cái áo rơm nhưng ngay lập tức một họng súng lạnh lẽo thúc vào cánh tay hắn.
– Don’t move!
Hắn lại thở dồn dập, nghiến răng trèo trẹo “Ước gì mình có thể bắn vào lũ con gái này. Thật quá dễ mà sao mình lại không thể làm được? Giá lúc này mình không phải mang dòng họ Mc.Clean”. Hắn đánh ánh mắt căm hờn về phía những kẻ đang mang cái chết tới cho hắn! Nhưng ánh mắt ấy bỗng dịu xuống: trên đầu các cô gái đều có những cái mũ như cái mũ trên đầu hắn nhưng nhỏ và mỏng hơn. Ông chỉ huy cũng đang thắt cái dây buộc dưới cằm để giữ cái mũ cũng y như thế. Hắn hiểu ra… Họ đang rất cần hắn. Họ sẽ không giết hắn mà ngược lại họ đang làm mọi cách để bảo vệ mạng sống của hắn.
Jim thở phào thật dài như cố trút ra hết cái ám khí trong người. Hắn bỗng thấy người rã rời, mệt lả…
Chiếc xe bò lững thững tiến vào sân. Con bò già uể oải đạp cái móng mòn vẹt lộp cộp xuống nền gạch. Đôi mắt lờ đờ bất động thỉnh thoảng lại chớp chớp như cố xua đi đàn ruồi đang bu kín cục gỉ xanh vàng nơi khóe mắt. Hai cái sừng nhọn hoắt, mỏng vẹt, cổ chai sần đen m�! �c, cái đuôi còn lơ thơ nhúm lông phất lên phất xuống trên cái lưng xương xẩu gập ghềnh như cố hất lũ ruồi đang đạp lên nhau tranh giành mồi.
Mấy miếng ván cũ lấm bùn trong thùng xe võng xuống, hở hoang hoác. Hai trục bánh xe khô dầu rít lên ken két, nặng nhọc lăn bốn bánh gỗ bọc lớp cao su đã mòn vẹt.
“Lại trò gì nữa đây?”. Hắn chưa kịp tìm câu trả lời thì đám con gái sau một hồi đùn đẩy, bấm chí nhau, cười khúc khích cùng hùa vào, nâng bổng hắn lên, đặt vào trong xe.
Jim hiểu ngay: Họ đang chuyển hắn đi. “Đi đâu?” Hắn thầm hỏi câu hỏi chẳng có lời đáp.
– Người và súng ống đã sẵn sàng lên đường!
– Có trói không hả bác Bi? Mi hỏi.
Ông Bi đứng sững lai, quay phắt người chạy tới bên Jim, cúi xuống giật phăng đôi giầy bay cứng cáp, quăng ra xa.
“Trên huyện chẳng đã phổ biến là cứ lột giầy thì bố thằng Tây, thằng Mỹ cũng chẳng nhúc nhích được một bước – ông khoái trí thầm nghĩ – mà cái bọn này cũng dở thật, chẳng bù cho mình, không giầy, không dép, đỡ vướng, chạy còn nhanh hơn. Chạy đi đâu mà chẳng được, chạy lúc nào cũng xong”. Ông Bi cúi xuống nhìn hai bàn chân thô ráp của mình, năm ngón chân xòe ra như năm cái nan quạt, gót nứt nẻ, da sần sùi khô tróc từng lớp rồi liếc sang đôi bàn chân nhẵn nhụi, trắng bệch như thiếu sinh khí của Jim, bĩu môi, lắc đầu.
– Khỏi cần trói, nó có chạy đằng trời!
Chương 5
Con Bò già nặng nhọc thở phì phì, kéo cái xe lọc cọc qua đường làng gồ ghề…
Jim ngồi thẳng, hai chân duỗi về phía đuôi con bò, hai tay nắm chặt vào hai bên thành xe, tấm thân to lớn hết đổ qua phải lại nghiêng sang trái, lúc nẩy tâng lên lúc rơi bộp xuống thùng xe…
Cái áo rơm dầy bịch, thô ráp trên người Jim cũng nhún nhẩy theo nhịp xóc của xe. Mấy cọng rơm nơi cổ thò ra, sát qua sát lại làm hắn ngứa ngáy, xót ran rát…
Jim cúi xuống nhìn cái áo giáp mới lạ: từng sợi rơm được vặn chặt vào nhau, cọng nọ nắm lấy cọng kia thành một đoạn dây dài vững chắc rồi cuốn thành hình ống, giữ chặt lại bằng những đoạn dây gai luồn qua các lớp rơm.
“Cái áo này thật quá hữu hiệu chống lại những mảnh bom, mảnh đạn, bom bi… Thật an toàn cho những ai mặc nó! Không còn nghi ngờ gì nữa, sẽ không có chuyện mang ra xử bắn, ít nhất là cho tới trước lúc tra khảo”, Jim suy tính.
Nhưng sao điều đó chẳng làm cho Jim thấy nhẹ nhõm. Một cái gì đó chẳng thành lời đang âm thầm giày vò gặm nhấm trái tim hắn… Jim đưa tay bóp vành mũ, túm lấy cái áo rơm. Sao hắn thấy ghét cái bộ áo giáp đang bảo vệ mạng sống của mình đến thế! Nó làm cho hắn trông thật kinh dị, giống như thằng bù nhìn đần độn vô tri vô giác. Hắn muốn giật phăng, quẳng nó đi để đối diện với Thần chết bằng xương bằng thịt của mình… Nhưng hắn biết những người đang cần mạng sổng của hắn không để cho hắn làm như vậy.
Jim cúi xuống nhìn cái chân phải: ống quần rách lởm chởm xung quanh cúi đầu gối băng đỏ lòm đang ngoẹo sang một bê! n… Hai bàn chân trắng phớ, dặt dẹo qua lại như vô hồn trên tấm ván bẩn thỉu dính đầy bùn đất… Hắn ngước lên, trước mắt chỉ là cái đuôi bò xơ xác, uể oải đập lên đáp xuống như cố xua đi lũ ruồi khốn kiếp đang đạp lên nhau để giành mồi trên cặp mông nhọn hoắt, lấm chấm phân khô…
– Hắn đấy ư? Thiếu tá phi hải quân James Mc.Clean – phải nhớ rằng Mc.Clean – một cái họ lừng lẫy. James, chứ không phải ai khác – một người lính đang chiến đấu trong hàng ngũ những người ưu tú nhất của quân đội Hoa kỳ!
– Đúng hắn sao? Cái hình nộm lố bịch, ngồi lắc lư vô định trên cái xe bò rách nát, trước mắt chẳng có gì ngoài cái mông bẩn thỉu của con bò già.
Không biết mẹ hắn, vợ hắn, những người thân yêu nhất của hắn sẽ đau đớn hơn khi gặp hắn trong chiếc quan tài phủ lá cờ hoa hay nhìn hắn dưới hình hài kinh dị trong khung cảnh gớm ghiếc này! Nó vượt thật quá xa trí tưởng tượng của họ!
Jim quằn quại. Hắn đang đau đớn. Đau ở đâu? Chẳng phải ở cái chân gẫy mà ngay ở trong tim.
Nước bọt trong miệng Jim quánh lại, tắc nơi cổ, đăng đắng… Cái cằm vuông bạnh ra, môi mím chặt. Hắn run lên như đang trong cơn cảm lạnh, nhưng mắt lại mở trừng trừng… Jim đang căm giận vì lòng tự trọng của mình như đang bị chà đạp hay đang xót xa cho chính cái bản thân kiêu hãnh của mình – hắn cũng không rõ nữa. Nhưng Jim cảm nhận rõ trái tim trong lồng ngực đang rát bỏng!
Hai bàn tay đã rời thành xe từ lúc nào, co chặt lại thành hai nắm đấm. Jim đấm mạnh chúng vào nhau, các khớp xương va vào nhau đau buối. Bài học của bốn năm ở Học viện bỗng ùa về trong tâm trí hắn “Phải kiên định về danh dự của bản thân… trong bất kỳ hoàn cảnh nào”!
Có tiếng nói của ai đó đang vang lên trong đầu hắn: “Tất nhiên, đối với người lính chẳng có hạnh phúc nào lớn hơn vinh quang. Nhưng vinh quang đâu chỉ là vật trang sức cho lòng dũng cảm, cho sự hâm mộ của đám đông. Nó cũng chẳng phải chỉ là phần thưởng cho những ai thông minh nhất, mạnh mẽ nhất, bạo gan nhất. Vinh quang thuộc về sự kiên định đối với cái gì đó lớn hơn chính bản thân mình. Sự bất hạnh không làm nó tổn thương, sự lăng nhục không tiêu diệt được nó. Vinh quang tự đến bất chợt, trong khoảnh khắc, chẳng có thể tì! m kiếm..
Vinh quang của mi ở ngay đây – thiếu tá James Mc.Clean – trên cái xe bò bẩn thỉu, khi thang bậc con người của mi đang tụt hạng thê thảm… Thật thán phục cho những kẻ nào chế ngự được tâm hồn bất an, thăng bằng ngay cả trong địa ngục!
Vinh quang đâu chỉ có được tôn vinh bằng số lượng cờ hoa, bằng âm lượng của sự reo hò huyên náo. Vinh quang với chính ta, chỉ mình ta biết trong mênh mông im lặng là cái vinh quang cao quí nhất chỉ dành cho con người với những phẩm chất đặc biệt được Chúa lựa chọn…”.
Jim mở to mắt nhìn đăm đăm lên trời…
Từ trên cao, xa lắm như từ Thiên đàng, một giọng nói thân thương nhất của đời hắn bỗng vang lên văng vẳng, âm âm…
– Con trai của mẹ, hãy tận hưởng cuộc đời kể cả trong những giây phút nó trở nên bi đát và cùng cực nhất…
Hắn ngây người…
Một cái gì đó rất mới, rất lạ đang len lỏi và thành hình trong tâm trí hắn. Jim chớp chớp mắt, nhìn ra xa, vượt qua cái mông bẩn thỉu của con bò già…
Một đám trẻ từ trong ngõ phóng vụt ra, quần áo lếch thếch, mặt mũi đen nhẻm, lấm láp mồ hôi. Đứa chạy đầu nâng cao dây diều, miệng hát hay là hét, chỉ có nó mới biết.
“Hạt gao làng ta…”
Những đứa theo sau đồng loạt phụ họa bằng những tiếng trống phát ra từ miệng: tùng…t.ru……tùng.
“Gửi ra tiền tuyến” – tùng…t.ru……tùng.
"Gửi về phương xa”- tùng! 230;i.ru! 8230;…tùng.
Tiếng hát của chúng xa dần…
Jim lắng nghe, hắn chẳng hiểu chúng hát gì. Nhưng nếu hiểu được, chắc hắn sẽ phải ghen tỵ với lũ trẻ. Bọn trẻ quả là may mắn, chúng thật dễ quên! Đã lâu rồi làng chúng làm gì có gạo, ruộng đồng cạn khô… Và nếu như Jim biết rằng đã hơn một năm rồi chúng chẳng còn được nghe tiếng trống trường sáng sáng, giục chúng sang sông học viết câu văn, câu toán, đi một, hai trong tiếng trống ếch… thì chắc hắn cũng phải thầm ước có được sự lạc quan hồn nhiên của lũ trẻ.
Jim phóng tầm mắt ra xa…
Trước mắt hắn bây giờ là sa mạc
Hắn đang phóng với vận tốc 100 dặm/giờ trên chiếc xe Dogde hai cầu màu xanh nước biển. Một mình hắn, chỉ một mình hắn đang lao trên con đường nhẵn lỳ, thẳng tắp chạy tít tới chân trời. Jim như đang bay lên, tung hoành cùng lũ gió trong không gian bao la…
Từ cái radio trên xe, bài hát oai hùng của những người lính trở về từ địa ngục trần gian trên bờ sông Kwai vang vang. Jim lắc lư huýt sáo theo điệu nhạc rồi bỗng cất tiếng hát theo:
“
Thế là tôi đã về lòng đầy kiêu hãnh.
Và mải mê kể về chuyện chúng tôi.
Ôi! chiến tranh giữa cái sống và chết.
Họ lắng nghe, lắc đầu kinh ngạc,
Chỉ thoáng qua rồi lại quên ngay!”
Người vợ goá cầm tay tôi thông cảm,
Hôn nhẹ tôi rồi lẳng lặng bỏ đi.
Phải chăng như để che dấu nỗi đau…
Với mọi người niềm kiêu hãnh của tôi…”
Hai bên đường, những cây xương rồng như những cái chạc ba khổng lồ đang đục đá, đội sỏi vươn mãi lên trời cao…
Chương 6
Họ đã ra tới bờ sông.
Trời xanh ngắt, cao lồng lộng. Mặt trời đang ngả về phía tây. Gió mát rượi tíu tít trên mặt sông, xô những tia nắng vàng va vào những tia nắng đỏ. Bãi cát ánh lên như bột thủy tinh trong lò, nóng ran. Đám dây khoai xanh um bò chằng chịt lan ra tận mép sông để kiếm nước.
Năm nay sông nhỏ hẳn lại, nước nông.
Bụi tre ở mép sông đâm rễ tua tủa, ngạo nghễ chọc nước. Mấy cành tre già nằm chồng chất lên nhau là là mặt nước, thỉnh thoảng lại lắc lắc như muốn hất cổ cái đám cỏ dại, bùng nhùng đeo bám trên thân. Vô vàn bụi gai hồng giăng giăng nắm tay nhau vây kín khắp quãng sông, xuống tận hạ nguồn, chỉ còn chừa một lối vừa đủ cho thuyền hai bờ qua lại.
Bên kia bờ sông, làng Trà tan hoang đổ nát. Hố bom lổn nhổn khắp nơi: từ mặt sông lên bờ, qua làng ra đường cái… Ngôi trường phổ thông dường như sập hẳn chỉ còn lại cái cổng đứng chơ vơ mang cái biển tên trường. Đây đó khói đen từng cuộn phát lên từ những ngọn lửa tham lam đang liếm vào những gì còn sót lại sau trận oanh tạc…
Chỉ có cây gạo, một mình nó, thân hình sần sùi găm đầy mảnh đạn, đứng sừng sững vươn lên trời xanh, nở hoa đỏ chói. Nó đang cần mẫn thả những nhúm bông trắng muối cùng cái hạt đen, theo gió đi tìm đất mới để gieo mầm.
Từ trên đê, các bà các chị lũ lượt gánh khoai sang sông kịp phiên chợ sẩm tối. Người đội thúng, kẻ gánh gồng, bước đi hối hả, váy đen, khăn chùm đầu, áo nâu cài cúc hững hở để ló ra mấy cái yếm đủ mầu, những cái ruột tượng sặc sỡ rập rờn bay trong gió… Mấy củ ! khoai tím no căng nhún lên nhún xuống trong thúng theo nhịp của đôi quang, thiêm thiếp cùng tiếng kẽo kẹt của chiếc đòn gánh.
Đoàn gánh gồng cười nói lao xao, ào xuống bờ sông chờ đò. Bà nào bà ấy bỏm bẻm nhai trầu, hàm răng đen nhánh lấp ló trong đám nước trầu đỏ quạch.
Một bà bỏ gánh khoai bước tới bờ cát chỗ Jim đang ngồi. Một tay chống đòn gánh một tay chống nạnh, hai chân đứng giang ngực nhô ra để lộ cái yếm trắng ngà. Bà ta nhổ toẹt một bãi nước trầu đỏ ối như máu xuống sát bàn chân trắng bệch của Jim, cong ngón tay trỏ và ngón tay cái, quệt một vòng lau cái mép đang đỏ ứ nước trầu, bỏm bẻm:
Bác Bi à, để em cho nó một đòn gánh, bác khỏi nhọc lòng canh gác!
Ông Bi nhíu mày. Ông định giải thích như trên huyện rằng: phi công là chiến lợi phẩm, là yếu tố quyết định… nhưng ông lại thôi. "Mấy con mẹ này thì hiểu gì là “chiến lợi phẩm” với chả “yếu tố”, nói làm gì cho phí lời, thế là ông hắng giọng:
– E hèm, có giỏi thì vào đánh chết nó đi rồi mà làm “Việt gian bán nước!”
Các bà đang khúc khích cười bỗng câm lặng, ngẩn ngơ “Sao giết thằng giặc mà lại là “Việt gian bán nước…?” Nhưng bốn chữ ấy cũng đủ làm họ giật thót người, chẳng còn bụng dạ nào mà lý sự nên bấm nhau lảng ra xa gọi đò.
Jim kinh hãi hết nhìn mấy cái miệng đỏ lòm như máu của các bà gánh khoai lại nhìn bãi nước trầu đỏ sẫm dưới chân, cái cổ to thụt lại…
“Thật khủng khiếp? Sao răng của họ lại đen đến thế? Kì dị quá khác hẳn với phụ nữ Mỹ, răn! g lúc n�! �o cũng được chăm sóc cho trắng bóng Họ đang nhai cái gì mà có nhiều máu thể, thịt sống hay cá sống? Ghê quá! Sao chẳng có tài liệu nào hướng dẫn về điều này? Cứ cho mấy bà này ra trận, nhe răng ra thì lính Mỹ chỉ có quăng súng mà chạy”. Jim le lưỡi.
Hắn ngước nhìn ông Bi với con mắt cảm phục. Chẳng hiểu ông ta nói gì, chỉ vài từ mà mấy bà mồm đầy máu, đang hùng hổ cầm gậy xông tới bỗng ỉu xìu, chuồn thẳng.
Bảy con thuyền gỗ nhỏ được neo buộc cẩn thận nằm ngay ngắn dọc theo bờ.
Ông Bi lội xuống nước xem xét cẩn thận từng con thuyền. Ông liếc nhìn Jim rồi gõ gõ vào mạn thuyền, nghênh nghênh tai lắng nghe như đo lường sức chịu đựng của nó. Ông lắc qua lắc lại cái dây chão buộc mái chèo, đặt ngay ngắn cái bệ ngắm bắn bang gỗ lên mũi thuyền…
Các cô gái ào xuống nước… Mười hai cô gái chia nhau trên sáu thuyền, ông Bi đi cùng với Jim. Các cô đã sẵn sàng, mặt mày hớn hở, súng ống thẳng băng, quần áo gọn gàng bó sát vào những thân hình căng đầy nhựa sống…
Đoàn thuyền bắt đầu rời bến…
Na từ đâu bỗng chạy ào tới, mặt đỏ gay, thở hổn hển, trên vai vác cái nạng mà mọi người vội vã đã bỏ quên. Cô bé lội xuống nước lặng lẽ đặt nó vào lòng Jim.
“A cô bé đây rồi! – Jim thầm thốt lên – Sao mình lại có thể quên bẵng cô bé nhỉ, chẳng dành một giây nào để từ biệt thay cho lời cảm ơn…” Hắn đỡ lấy cái nạng, vuối vuối hàng dây khô buộc gọn gàng trên đó, ngước mắt âu yếm nhìn Na: Hắn sẽ ra đi với hình ảnh cô bé thân thương mà xa lạ này. Cô bé tên! là gì ! nhỉ, giá mà mình được biết”. Hắn định giơ tay ra nắm chặt bàn tay nhỏ thô ráp kia lần cuối nhưng con thuyền đã rùng rùng rời bến.
Bảy con thuyền ghếch mũi lướt tới.
Na vẫn đứng ở mép nước, tần ngần nhìn đoàn thuyền ra đi bàn chân di di như đang đếm cát dưới sông. Ông Bi dừng thuyền lại nhìn con gái, hất đầu hỏi:
– Có muốn lên phố huyện không? Không đợi trả lời ông ra lệnh luôn:
– Lên đi!
Na ào ngay xuống nước. Một tay xắn quần, một tay vung vẩy té nước, em nhẩy ngay lên thuyền của bố, ngồi đối diện với Jim.
Mắt Jim sáng lên mừng rỡ.
Thế là hắn lại được gần cô bé thêm chút nữa, không biết sẽ được bao lâu? Nhưng cứ có cô bé bên cạnh là hắn thấy nhẹ lòng… “Tại sao một cô bé hoàn toàn xa lạ, chẳng giống màu da, không cùng ngôn ngữ, khác biệt về văn hóa lại có thể mang tới cho mình một cảm giác bình an trong tâm hồn đến như vậy?”. Jim im lặng ngắm nhìn Na, băn khoăn, tự hỏi.
Đoàn thuyền lướt sóng sang sông, ba chiếc đi đầu, ba chiếc khóa đuôi, thuyền ông Bi đi ở giữa.
Na chưa bao giờ được lên phố huyện. Cô bé cứ ao ước mãi có dịp được lên trên đó để được nhìn tận mắt cho thỏa tò mò những điều chị Mi vẫn thường kể.
“Chị Mi chẳng đã kể rằng bọn con gái trên phố huyện điệu lắm, đi học toàn mặc áo hoa, chân còn đi dép nữa, chứ có đâu quanh năm độc cái áo nâu, chạy chân đất như bọn trẻ ở làng mình. Có đứa lại còn buộc cả dù pháo sáng làm nơ trên tóc nữa… Bọn này điệu khiếp thật? – Na thầm nghĩ – nhưng mà đấy là trước lúc bị bỏ bom cơ! Chị Mi bảo bây giờ phố huyện đổ nát rồi, bọn trẻ cũng đi sơ tán hết vào trong núi? Chẳng biết cái cửa hàng hợp tác ! xã mà chị Mi đã mua cái gương nhỏ có còn không? Nó vẫn được giấu ở túi trước, thỉnh thoảng chị Mi vẫn chẳng lấy ra liếc trộm, hay nhổ lông mày đấy thôi… Kệ, cứ được lên phố huyện là thích rồi”. Na vừa miên man nghĩ vừa vốc từng vốc nước lên rồi thả cho nó chảy từ từ qua kẽ tay. Những giọt nước nối nhau rơi tí tách xuống mặt sông lấp lánh…
Na đưa mắt nhìn chị Mi đang chèo con thuyền dẫn đầu: Mi đứng choài chân trên mũi thuyền, vai quàng súng, đầu đội mũ rơm, nai nịt gọn gàng. Cả thân người lúc đổ về phía trước, lúc ngả về phía sau, làm lộ rõ các bắp thịt chắc nịch đang căng lên sau làn vải mỏng. Đôi tay khỏe khoắn điều khiển mái chèo đập nhịp nhàng trên mặt sông, lướt sóng tanh tách, rạch ra từng làn nước dài sau đuôi thuyền. Cứ mỗi lần Mi nhoài người về phía trước thì con thuyền lại rướn mũi lướt trên mặt sông. Mạnh nhưng êm. Rl
Na mê mải ngắm thân hình căng tròn tắm trong nắng vàng…
“Chị Mi sướng thật, đi đi về về giữa huyện và làng cứ như đi cắt cỏ, bới khoai… Chị Mi nói rằng nữ dân quân trên huyện còn đeo cả xà cột bên hông, đạp xe đi đưa công văn, tài liệu, oách lắm! Chứ đâu có như dân quân ở làng, giấy tờ độc chỉ cầm trong tay, chạy chân trần… Chỉ dăm năm nữa thôi mình sẽ được vào đội dân quân, cũng sẽ đeo súng, thắt lưng to bản chẽn vào người như chị Mi, oai phải biết… Lúc ấy mình cũng tha hồ mà lên huyện, thế nào cũng có dịp vào cửa hàng ấy mà ngắm nhìn cho thỏa thích khối thứ ở đó… Có khi mình cũng sẽ mua cái gương nhỏ xíu giống của chị Mi, th! ừa lúc! không có ai, mang ra mà chải chuối…”. Cô bé vừa thầm nghĩ vừa nhìn mơ mộng trên dòng sông rồi chép miệng: “Chả mấy!”.
Bỗng ánh mắt của Na dừng lại ở mũi thuyền của mình: cha em đang gò cái lưng gầy guộc chống thuyền, hai cái cẳng chân gân guốc với mười đầu ngón chân xòe ra như đóng chặt vào ván thuyền. Râu tóc lơ thơ bay trong gió…
Cô bé thẫn người: Ồ, mình cứ lên huyện suối như chị Mi thì ai nấu cơm, đun nước, quạt muỗi, bỏ màn cho thầy…?
Na chưa kịp tìm câu trả lời thì những tiếng nói ríu rít vang lên từ mấy con thuyền quanh đó cuốn hút ngay tâm trí cô bé.
Trên mỗi con thuyền, một cô đứng chèo, cô kia ngồi tựa mạn, ôm súng chĩa lên trời.
- Này, chúng mày đã biết tin mật gì chưa? Một cô gái bỗng cất tiếng.
– Cái gì hả Hoa? – Cả đám ở ba thuyền đi trước cùng nhao nhao lên.
– Con Mi có đấm mõm cho tao ỉm mồm không? – Cô có tên Hoa tiếp tục.
– Con ranh, tiếng Mi đáp lại – chỉ được cái lắm chuyện
– À, nó không chịu nộp cống, tao nói đây! Hoa cưới ngặt nghẽo.
Các cô khác cũng nhao nhao lên.
Nói đi Hoa, chuyện gì? Cứ úp úp mở mở mãi. Khế chua, ổi xanh chúng tao cống nạp cho, chẳng cần con Mi, nói đi sốt ruột quá rồi!
– Nói đi, nói đi! – Cả đám cùng hối hả thúc giục.
Hoa chậm rãi nói rõ to từng tiếng:
– Có đứa
có đứa, chúng mày ơi! – Hoa cười rúc rích – sắp chống lầy.
– Ồ! Cả đám cùng kêu lên ngạc nhiên. Đúng là một tin mật quá mới!
– Con Mi khiếp thật, cứ im thin thít… Thế mày sắp “chống lầy thật à?
– “Chống lầy” ở đâu đấy?
– Ai đấy?
Các câu hỏi cứ rộ lên chẳng dứt.
Mi đỏ mặt không trả lời. Hoa bồi tiếp:
– Nó “chống lầy” ở tận Hà Nội, Trung ương cơ!
– Cái gì? – các cô lại ồ lên ngơ ngác.
Vẫn cái giọng của Hoa:
– Chúng mày có nhớ cái đận đi dân công lắp đường ống xăng dầu hồi cuối năm ngoái không?
Rồi, kể mau đi… Các cô gái sốt ruột quá kêu lên.
Chúng mày có nhớ cái nhà anh Minh da trắng nõn, bẽn la bẽn lẽn như con gái, mặt cứ đỏ tía lên mỗi khi chúng mình trêu không? Trông nhát thế mà ghê lắm nhé! Nhắm và bắn trúng ngay con chim đầu đàn đấy chúng m�! �y ạ…
Tiếng cười lại rộ lên, mấy con thuyền nghiêng ngả.
– Con Hoa, mày bịa chuyện gì thế, chỉ giỏi đơm đặt! Mi phân bua.
– À, nó bảo tao đơm đặt chúng mày ạ… Thế chúng mày có biết đứa nào đêm qua đi gác lẻn ra bờ sông đọc thư một mình không? Mà chúng mày có biết nó đọc thư bằng gì không? – Chẳng đợi đám bạn trả lời, Hoa tiếp luôn – đom đóm.
Một cô khác tiếp ngay:
– Tao mà có thư tình thì tao cũng đọc được tuối cả ở trong bóng tối, chẳng cần đèn đóm gì ráo!
Một chuỗi cười nữa lai vút lên, âm vang trên mặt sông, mặt nước lăn tăn gợn sóng.
Na chăm chú lắng nghe, nghiêng đầu hết nhìn chị này lại nhìn chị kia. Cô bé chẳng hiểu gì cả
Nhưng thấy các chị vui vẻ quá, thỉnh thoảng Na cũng khúc khích cười góp vui.
Jim cũng chẳng hiểu các cô gái nói gì, nhưng tiếng cười hồn nhiên sảng khoái của họ chẳng làm cho hắn phấn chấn mà ngược lại kéo hắn trầm xuống, suy tư…
“Hãy nhìn những khuôn mặt bầu bầu căng tròn sức sống, những ánh mắt rạng rỡ đầy ắp tiếng cười của các cô gái, nếu không có mấy khẩu súng và cái mũ rơm đội đầu thật khó ai có thể đoán rằng họ đang đi đến nơi có cái chết rình rập. Các cô gái lấy đâu ra sự lạc quan đến như vậy? Cái gì đã làm nên tiếng cười trong trẻo đến như thế? Mình và đồng đội của mình đã bao giờ có được tiếng cười như vậy trước những giờ xuất kích?”.
Ông Bi thì khác hẳn. Từ nãy tới giờ ông cứ cắm cúi chèo, mắt đăm đăm nhìn xuống dòng nước cứ như đang chăm chú vào việc rẽ sóng v! ượt s�! �ng, nhưng cái đầu của ông lại nghiêng nghiêng cái mũi hênh hếch, chòm râu lơ thơ đang phất phơ trong gió bỗng dừng lại, vểnh lên. Ông đang căng tai nghe không bỏ sót một tý gì trong câu chuyện của các cô gái… Càng nghe ông càng ngạc nhiên, tò mò. Hai tiếng “Trung ương” làm ông giật mình đánh thót. “Nguy quá! Sao lại ra tới cả tận Trung ương – ông thầm nghi ngại – Thôi đúng rồi, cái đợt đi lắp ống xăng dầu hồi cuối năm ngoái. Chết thật! Luyến ái ra tan cả Trung ương mà lại đang trong lúc làm nhiệm vụ nữa chứ! Phải cho làm kiểm điểm thật nặng mới được, những đứa khác nó mới khiếp”. Ông bực bội lẩm bẩm.
Rồi ông ngẩn ra: “Quái lạ, hồi đó mình lúc nào cũng ở cạnh chúng nó cả ngày lẫn đêm thế mà chúng nó hò hẹn, tình từ lúc nào mà mình không biết. Bọn này gớm thật! Thế này thì sao gọi là lãnh đạo đi sâu đi sát quần chúng. Nguy hiểm quá!”
Còn cái nhà anh Minh là ai nhỉ – ông Bi đưa một tay gãi đầu – anh Minh nào nhỉ? Anh Minh ở Hà nội… hay là cái anh Minh trăng trắng, anh Minh “hụt?”. Ông lơi tay chèo, cau mày lục lọi trong quá khứ cố tìm bằng được câu trả lời…
Chương 7
Cuối năm ngoái, có lệnh triệu tập cán bộ các xã lên huyện để tập huấn lắp đặt đường ống xăng dầu.
Nhận được công văn, ông Bi hoảng quá! Ông đâu có hiểu đường ống xăng dầu là cái gì mà đi tập huấn. Nhưng đã là lệnh thì cứ phải thi hành, với lại huyện gọi đích danh, chẳng đùn đẩy cho ai được nên ông đành phải khăn gói lên huyện mười ngày.
Nhưng lần này thì khác. Mỗi ngày ở trên huyện học tập, ông lại vỡ ra một tý, hiểu thêm nhiều điều.
Anh cán bộ kỹ thuật của huyện được tập huấn từ Hà Nội về giảng giải kỹ càng, cẩn thận lắm. Hôm đầu anh ta hỏi:
– Thưa bà con, bà con có biết đường ống xăng dầu là gì không ạ?
Các con mắt cứ nhìn nhau: dầu thì biết rồi, cả một năm thắp đèn chưa hết một cút, xăng thì cũng biết là để chạy ôtô. Nhưng còn đường ống là thế nào?
Thưa bà con, đường ống xăng dầu cũng như cây tre trăm đốt ấy ạ nhưng cây tre này có tới tám trăm ba mươi ba ngàn đốt, mọc dài tới năm ngàn cây sổ, lại hoàn toàn rỗng ruột. Mỗi đốt dài sáu mét, nặng ba mươi sáu cân làm bang nhôm.
Úi dào, năm ngàn cây số thì dài lắm nhỉ? Dài bao nhiêu? Lớp học xôn xao.
– Dạ, cứ gấp gần ba lần chiều dài của nước ta đấy ạ!
– Đã có ai đi đâu ra ngoài cái huyện này mà biết đất nước ta dài bao nhiêu? Ông Bi thắc mắc.
– Thưa bác, từ xã ta lên huyện là mười cây số đấy a, bác tính hộ cháu.. Úi dào thế thì dài đáo để. Cả lớp lại nhao nhao lên bàn tán. Anh cán bộ tiếp:
– Nhiệm vụ của chúng ta là nối các đốt tre ấy lại dài hàng trăm ngàn đốt ch�! �� không phải chỉ có trăm đốt đâu ạ.
Anh ta cứ vừa giảng giải, vừa vẽ vẽ, gạch gạch lên bảng làm ai cũng hiểu hết.
Cả lớp gật gù.
Anh lại tiếp tục.
– Thưa bà con, vì sao ta lại phải làm đường ống này ạ?
– Cái này thì ai mà chả biết!
Cả lớp học ồn ào lên, ai cũng muốn nói: nào là do các cảng đã bị phong toa, nào là các kho xăng dầu đã bị bắn phá gần hết. Một ông trong lớp học có con trai vừa đi chiến trướng về cho biết thêm rằng ở Trường Sơn xe nằm chết cả ngàn chiếc vì thiếu xăng. Nhiều khi cấp thiết quá phải điều tới cả bộ đội vượt núi băng sông cõng xăng bằng các bao nilon. Bao rách, lưng phỏng. Thế mà năm trăm bộ đội một ngày chỉ địu được chưa tới năm mươi chum xăng, sáu ngày có tới hai mươi chín người hy sinh…
Mỗi người đều góp thêm một lý do rồi cuối cùng họ đều nhất trí rằng phải gấp rút lắp đặt đường ống xăng dầu phục vụ chiến trường.
Hôm sau cả lớp lại băn khoăn: Thế nào là khảo sát, thiết kế, thi công, vận hành… Thật cứ rối tung cả lên…
Anh cán bộ lại từ tốn giải thích:
– Thưa bà con, theo chỉ thị của Trung ương thì đường ống đi qua địa phương nào, địa phương ấy phải lắp đặt, vận hành và bảo quản. Bộ đội hậu cần chỉ đảm nhiệm ở nơi nào không có dân. Như vậy, chúng ta sẽ phải đảm nhiệm lắp đặt đoạn đường ống chạy qua huyện nhà, trèo qua núi, băng qua suối, dài tới bốn mươi cây số gấp bốn lần chiều dài từ xã ta lên huyện đấy bác Bi ạ.
Lớp học lại ồ lên, riêng ông Bi gãi gãi đầu… Hai_chữ “! ;khảo s! át" vẫn đang ngọ nguậy trong đầu, nhưng ông chỉ ngồi im không có ý kiến gì.
Vừa may, anh cán bộ giải thích ngay: khảo sát là đi xem xét, đo đạc nơi mà chúng ta sẽ cho đường ống chạy qua, xem đất ở đó cao hay thấp, có sông có suối không… Sau đó sẽ về tính toán xem lắp thế nào cho nhanh nhất, an toàn nhất – đấy là thiết kế đấy ạ. Nhưng xin bà con đừng băn khoăn, hai việc này sẽ do các kỹ sư trẻ vừa tốt nghiệp đại học Bách khoa ngoài Hà nội về giúp.
Ông Bi chẳng hiểu “Bách khoa bách chiến” là gì nhưng nghe thấy “kỹ sư” lại từ Hà Nội về thì ông yên lòng hẳn.
Chẳng lo, việc khó khăn nhất đã có các anh ấy gánh vác, với lại làm tới đâu hay tới đấy lo gì”, ông Bi thầm nhủ. Rồi như chợt nhớ ra, ông lại thắc mắc: “Thế làm sao đưa xăng lên núi được cơ chứ? Từ xưa tới nay chỉ thấy đưa nước từ trên núi về, có ai đưa ngược lên núi đâu?”
– Dạ thưa bác, vì thế chúng ta sẽ phải lắp đặt máy bơm để đẩy xăng lên núi như quả tim đẩy máu lên đầu, đi khắp cơ thể đấy ạ!
– À
Bà con vỡ lẽ. Anh cán bộ tiếp tục.
– Vấn đề khó khăn nhất bây giờ là làm thế nào để đưa được cái máy bơm năng hơn ba trăm cân lên núi chỉ bằng tay không.
Một lão dân quân bên làng Trà hiến kế ngay:
– Khó gì. Cứ làm y như kéo pháo lên đỉnh núi trong chiến dịch Điện Biên Phủ ấy, tôi kéo mãi rồi.
Cả lớp gật gù tán thưởng.
Họ dành hai ngày cuối cùng để thảo luận chi tiết từng công việc, ai có thắc mắc hay có sáng kiến gì đều được nêu ra, bàn luận sôi nổi lắm. !
Sau mười ngày tập huấn, tất cả đều hiểu rõ công việc mình sắp làm.
Ông Bi chỉ có hai ngày về làng cùng các cô gái chuẩn bị cho việc lên đường.
Để bảo đảm tự túc lương thực cho đợt dân công dài ngày, ngoài năm cân gạo huyện phát cho mỗi người, họ phải gom góp theo khoai, bí, lạc, gà… Các cô gái còn cẩn thận gánh theo cả cái nha tắm bằng tre.
Đêm đầu tiên, vừa đến nơi chưa kịp nghỉ ngơi gì thì họ đã được đón tiếp bằng một vũ điệu điên loạn của các loại máy bay phản lực trên bầu trời. Trong tiếng nhạc rung chuyển đất trời của bom đạn, họ đành ở lại trong hang và ngủ thiếp đi lúc nào không biết…
Sáng ra, mọi người kinh hoàng: những quả bom từ trường đuôi bốn cánh đang nằm ngổn ngang đợi họ trước cửa hang.
Làm thế nào có thể vượt qua bãi tử thân này với các dụng cụ kim khí và súng ống – những thứ thiết thân không thể bỏ lại trong hang.
Các cô gái hoang mang nhìn nhau. Con bé Hiền, bé nhất đội, bám chặt vào tay Mi run lên. Ông Bi lườm con bé:
– Thế mà cứ nằng nặc đòi đi dân quân. Biết ngày mà, nhận cái ngữ này này vào đội chỉ thêm phiền! Mà không nhan thì nó lại dọa sê đi Thanh niên xung phong vào sâu trong Trường Sơn. Mười tám tuổi mà loắt choắt chỉ nhỉnh hơn cái Na một tý. Bé thế này mà đi vào chiến trường… nghĩ cũng xót ruột…”. Ông Bi chép miệng.
Ông hết nhìn Hiền rồi lại nhìn những khuôn mặt còn lớt phớt lông tơ của các cô gái đang chăm chú nhìn ông như đợi lệnh. Ông thở mạnh một cái:
– Để tao đi trước xem sao! Cứ đợi yên ở đây.
Ông xắn gọn quần, đeo súng, vác cuốc xẻng, hít một hơi thật dài rồi cắm cổ chạy như có ma đuổi qua bãi bom nổ chậm. Chẳng hiểu vì ông chạy quá nhanh hay vì cái thân! gầy cộng thêm cái cuốc gỉ với cây súng còm chưa đủ trọng lượng để kích nổ, thế nên lũ bom cứ nằm im thin thít…
Các cô gái đang thập thò ở cửa hang, hồi hộp lo lắng, mắt ngân ngấn nước… Họ ôm nhau nhẩy lên mừng rỡ reo hò… Hôm đó con bé Hiền lại là người đầu tiên trong đội nữ dân quân vác súng, vác cuốc chạy như bay ra khỏi hang…
Gần hai tháng trời ở công trường, ngày vác ống hoặc học tập rút kinh nghiệm, đêm đi đào rãnh, đặt ống. Những đường rãnh đào mò mẫm trong đêm tối nên nhiều chỗ bị ngoằn ngoèo. Khi lặp đặt, ống cứ phải đưa lên hạ xuống nên tốn rất nhiều công sức.
– Sao không dùng cây nứa dài mà kéo dọc rãnh, chỗ nào vướng, cây nứa không qua được thì sửa ngay lại chỗ đó, rồi mới đặt ống xuống. Ông Bi hiến kế trong một buổi họp rút kinh nghiệm.
Sáng kiến của ông lập tức được phổ biến khắp công trường, nghe đâu còn được mang ra áp dụng ở các huyện khác nữa. Cuối đợt dan công, ông Bi đã nhận ngay được một cái giấy khen. Ông hể hả lắm…
Đoạn ống vừa lắp xong, chưa kịp xục rửa thì đêm hôm đó lũ AC130 đã đánh hơi thấy.
Đây là loại máy bay đáng sợ nhất! Nó được cải tiến từ máy bay vận tải nặng, do đó có thể mang theo đủ xăng dầu để đánh phá liên tục mười sáu tiếng không nghỉ. Trên máy bay được trang bị tia hồng ngoại tuyến giúp nó phát hiện các mục tiêu vô cùng chính xác, đặc biệt vào ban đêm. Ngoài ra, do được lắp đặt các loại súng 40-60-80 ly nên nó có thể bắn phá ở các độ cao khác nhau.
Hai chiếc AC130 quần thảo không ngừng nghỉ suố! i năm ti! ếng. Toàn bộ đường ống đã nằm yên dưới đất đều bị bay lên, có cái đánh đu vắt vẻo trên ngọn cây… Mồ hôi và máu của bao nhiêu con người đã đổ trong suối nửa tháng trời thế là đi tong!
Họ họp lại và quyết định đem các ống bị đánh thủng ra lắp đặt ở một nơi khác, xa công trường rồi dùng cặn dầu đốt nghi binh, AC130 đã có mục tiêu mới tha hồ mà quần thảo, đánh phá hàng giờ.
Đất đỡ ở đây đã bị máy bay 852 tọa độ cầy xới thành một thứ bột đất trộn đá lổn nhổn. Vì thế ông Bi đã ra lệnh cho toàn đội phải xắn gọn ống quần, lấy dây rừng buộc chặt lưng áo, dùng hai đầu bao tượng đựng gao buộc hai nút trên thân ống nhôm rồi đeo chéo sau lưng, để cho hai tay và hai vai được rảnh rang bám vào bất cứ thứ gì mà leo lên. Thế nhưng, chính ông Bi lại gặp nan: ông bám vào một khúc gỗ đã bị bom chặt đứt hai đầu, cắm trong đám đất đá hỗn độn trông cứ như cái gốc cây. Ông bị hẫng, cùng khúc cây lăn xuống vực…
Mọi người sững sờ đến thắt tim, đứng ngây ra nhìn mà chẳng ai giúp gì được, có cô bưng lấy mặt…
Dường như cũng thương cho cái thân già mà còn phải long đong vất vả nên thần núi mới tung ra cho ông một đoạn dây mây. Khúc gỗ lao xuống, ông Bi né đầu, nó đâm thẳng vào cái ống nhôm sau lưng nghe “boong” một tiếng thật to.
Tất cả đều kinh hãi…
Nhưng vừa kéo được ông Bi thoát chết lên là mấy cô gái làng bên – chứ làng Hà thì chẳng dám – bắt đầu chọc ghẹo ngay.
– Bác Bi ơi, cái đoan gỗ mục đẹp thế, trông cứ như cái gốc cây ý nhỉ?
“À, nó chê mình già mắt kém đây!”, ông Bi lườm lườm. Chưa kịp nạt lại thì cô khác lại lên tiếng, bạo gan hơn:
– Bác Bi ơi tay cháu đấy sao bác không nắm mà lại nắm vào đoạn gỗ mục để lăn xuống vực thế?
Thế là tất cả cười rộ lên. Mấy cô gái làng Hà lúc đầu còn e dè che miệng,! sau tiếng cười mạnh quá làm tay cũng phải văng ra.
Ông Bi đỏ mặt tía tai “Thế này thì quá lắm rồi! Mình suýt chết mà chúng nó còn bỡn cợt”. Rồi ông trợn mắt quát:
– Ngày mai cho đi ngâm nước vác ống xem chúng mày còn cười được không!
Đúng là hôm sau họ phải lắp đoạn ống đi qua con suối hẹp, nước chảy xiết, không thể đặt ngầm nên phải treo nó lên như cầu phao.
Trời rét căn cắt, gió mùa đông bắc mới về thổi ào ào… Các cô gái đứng ngâm mình trong nước, vác ống hàng tiếng đồng hồ, mặt cô nào cô nấy tái mét như gà cắt tiết.
Nhìn những đôi môi thâm run lên cầm cập, ông Bi khoái lắm. “Nào, bây giờ có đứa nào giỏi thì cười đi!”.
Nhưng các cô gái chẳng để cho ông hả hê được lâu. Một giọng hò bỗng cất vút lên:
Sông sâu nước xiết
Khi lòng đã quyết
Dời núi qua sông
Cùng một sức này…
Hò ơi… Hò.
Tất cả đều đồng thanh hò theo:
Hò ơi hò là hò ơi hò…
Trăm tấn sắt trên vai cô gái
Vượt băng qua đỉnh đá tai mèo
Tiếng hò át tiếng bom rơi
Mấy sông cũng vượt mấy đèo cũng qua!!!
Hò ơi hò, là hò ơi hò…
Tiếng hò vang vang dội khắp núi rừng, xua đi cái giá lạnh, làm hồng lại đôi môi.
Ông Bi đành lắc đau: “Chẳng có cách gì làm mấy con nỡm này im lặng được một tí!”. Nhưng rồi tự ông lại ngẩn ra: “Mấy con này mà chịu im thì có chuyện gay go đấy!”.
Nửa tháng trước, B52 đánh đứt một đoạn đường ống. Anh kỹ sư trẻ, nghe đâu tuổi mới 23, tên Hùng người
Hà Nội đã lao ra nối ống xăng. Xăng từ đường ống vỡ phụt ra phủ kín khắp người anh. Đúng lúc ấy một mảnh bom văng tới, nơi anh đứng biến thành biển lứa. Một bó đuốc bùng ngay lên trong tiếng kêu gào thảm thiết vì bất lực, quằn quại vì đau đớn… Chẳng ai có thể làm gì được!
Cả mấy ngày sau đó các cô cắm cúi làm, chẳng ai nói với ai một câu, đúng là nhà có tang! Trên công trường chỉ nghe thay tiếng thở hổn hển, tiếng cuốc cắm phầm phập xuống đất, nghe tức cả ngực, khó thở cứ như thiếu không khí… Lúc đó chính ông Bi lại thắc mắc “Sao chúng n! ó ngậm miệng lâu thế…”
Một tuần sau anh Minh từ Hà Nội được điều vào thay anh Hùng.
Trai Hà Nội có khác, da trắng cứ như con gái. Mới vào mấy ngày đã mắc ngay chứng sốt rét, thế mà có chịu nghỉ đâu, cứ nhất định ra công trường. Run rẩy hoa mắt thế nào, anh ta rơi ngay xuống vách đá… May làm sao lại rơi đúng cái cây bống báng có lá xòe ra như lá dừa. Những người đứng ở trên nhìn xuống thấy dòng suối bên dưới chỉ nhỏ bằng sợi dây rừng mà rùng mình…
– Hút chết? Thế là từ đó anh Minh có cái biệt hiệu là anh Minh “hụt”. Lũ con gái lại được dịp tha hồ mà chọc ghẹo.
– Anh Minh ơi, đã cầm tay ai lần nào chưa mà vội ra đi thế!
Tiếng cười lại rộ lên.
Có cô táo tợn hơn:
– Anh Minh ơi, nếu chưa có ai thì em cho mượn tay của em mà nắm đỡ…
Họ cười nghiêng cười ngả. Có cô cười sằng sặc cứ như bị ai cù.
Chỉ tội nghiệp cho chàng trai Hà Nội! Đầu cứ cúi gằm xuống bản vẽ đặt trên đùi, làm như đang mai mê tính toán chẳng nghe thấy gì, nhưng mặt thì đỏ tía tới tận mang tai.
"Mà có thấy cái anh chàng này lân la gần đám con gái lúc nào đâu nhỉ?”. Ông Bi trở lại với câu hỏi đang làm ông không yên. Chẳng tìm được câu trả lời, ông đành chống đò đi tiếp, nhưng cái răng cửa đâu có chịu bỏ cuộc. Nó cứ nhô ra lơ láo, đảo qua đảo lại như nhất quyết phải tìm cho bằng ra cái sự vô lý này!
Chương 8
Đoàn thuyền đã ra tới giữa sông. Tiếng Mi lanh lảnh cất lên:
– Bác Bi nhìn kìa!
Theo cánh tay cô gái chỉ, họ đã nhìn thấy bốn cái chấm đen từ phía biển bay vào. Chỉ chừng nửa phút chúng đã lớn lên to bằng cái vỉ đập ruồi.
“Chúng nó đánh phá cầu Mạ” – ông Bi thầm nghĩ.
Lập tức, bầu trời ở phía đó rung chuyển như có cơn giông biển, sấm chớp ầm ì, lóe xanh lóe đỏ…
Jim cũng nheo mắt nhìn về hướng đó. Chiếc cầu có hai đường cung uốn cong xa mờ trên nền trời. Tu…tu tu… một hồi còi văng vẳng… khói trắng bay lên từ chiếc cầu.
– Đúng nó rồi! Jim kêu lên.
Bàn tay phải của hắn chợt co ngay lại thành nắm đam. Jim nghiến răng. Hắn đã tiêu phí một giây vô giá ở đó!!!
Vra, vra…xẹt xẹt…Tiếng kêu khiếp đảm của đàn Ó trời đang lao thẳng vào vùng trời trên đầu đoàn thuyền.
Mắt Jim bừng sáng: ôi, Ó trời thân yêu của ta! – Hắn reo lên.
Sáu con thuyền xoay ngay lại tạo thành hình tam giác, vây thuyền ông Bi vào giữa, cái nọ cách cái kia năm đến bảy mét.
Jim ngạc nhiên: “Đây là chiến thuật chiến đấu phối hợp trên biển mà hắn và đồng đội đã từng tập trận nhiều lần. Sao họ lại biết nhỉ?” Jim thắc mắc.
Ông Bi dừng chèo, nhìn chằm chằm vào Jim rồi khum tay, nheo mắt nhìn lên trời. Mặt trời ngả tây đang mải miết thả những tia lửa rừng rực vào đôi mắt già kèm nhèm…
Ông kêu lên:
– Con Mi, chỉ huy bắn máy bay!
– Rõ! Tiếng Mi đáp lại chắc nịch.
Trên sáu con thuyền, cô nào không cầm lái thì nằm dọc trong lòng t! huyền hoặc tựa súng vào mạn hay trên giá đỡ, chĩa thẳng lên. Tất cả các con mắt đều nhìn thẳng lên bầu trời, sẵn sàng chờ hiệu lệnh.
Bốn con Ó giờ đang quần thảo trên đầu họ. Chúng rú lên, tiếng rú ghê rợn của loài thú phát hiện ra con mồi!
Từ phía biển, từ bên kia con đường, từ hai bờ sông, đạn lập tức thi nhau vãi thẳng lên trời. Tiếng lụp bụp của đạn cao xạ, tiếng chiu chiu của đạn súng máy, tiếng viu viu của đạn súng trường… xé nát bầu trời trên dòng sông. Hai con tách đội hình nhào xuống, thu hút hỏa lực về phía mình để hai con kia thừa cơ tấn công mục tiêu. Vẫn bài bản cũ. Một con bỗng tách ra khỏi đàn nhào xuống thấp. Ông Bi thét lên:
– Nó sắp bắn đấy!
Như đáp lại lời ông, Mi ra lệnh rành rọt:
– Bắn thẳng – Chuẩn bị!
Khi ánh đèn nháy sáng lên trên cánh máy bay, cô thét lớn:
– Nháy 1 – Sẵn sàng!
Đèn lại chớp lần nữa.
– Nháy 2 – Bắn!
Đạn từ các cây súng trường cổ lỗ vọt lên trời tới tấp, cứ nhằm vào cái đầu sáng choang của con Ó mà bắn.
Con Ó vút lên, cắt ngay một loạt bom. Chúng trượt vào làng Trà đối diện. Mấy cột khói đen sì bốc lên, đất cát bay rào rào…
Lửa ở dưới đất hiệp đồng chặt chẽ thi nhau khạc đạn lên trời. Những đường đạn vút lên đan chéo, nở ra như pháo bông. Trời xanh tóe lửa đỏ, nhả khói đen mịt mù… Dòng sông rùng mình ớn lạnh…
Từ đầu trận chiến tới giờ, Jim theo dõi không bỏ sót một thao tác nào của các cô gái. Hắn càng kinh ngạc khi thấy họ vừa mới áp dụng phương pháp bắn ! thẳng &! #8211; phương pháp dùng súng trường thô sơ nhắm thẳng vào đầu máy bay lúc nó sà xuống thấp nhất. Khi máy bay nháy đèn lần 1 tức là nó đã lọt vào cự ly thích hợp. Nháy lần 2 là nó đã sà xuống sát ngay nòng súng, lọt vào đường ngắm, thời cơ tốt nhất để nổ súng. Bắn liên tục năm đến mười viên đạn cho tới khi máy bay ra khỏi tầm ngắm.
Đạn và đường lao của máy bay trùng nhau nhưng ngược chiều nên sức công phá của đầu đạn rất lớn. Viên đan dù chỉ nhỏ như đạn súng trường nhưng khi xuyên vào đầu máy bay – nơi hiểm yếu nhất – cũng đủ để các loại máy bay hiện đại nhất đi tong. Kết quả luôn là trăm phần trăm. Đồng đội của hắn đã từng bị ăn đạn từ những đường bắn thẳng như thế này. Tên vừa rồi may mắn thoát chết vì đường đạn vọt ra từ những con thuyền đang tròng trành trên sông.
Nhưng, bắn thẳng chỉ dành cho những người có cái đầu lạnh và quả tim nóng. Mặt đối mặt, ngắm và giữ súng cho thật chắc, ngay cả khi máy bay gầm rú như đang lao thẳng vào người mình.
Trên trời, bốn con Ó đã đổi chiến thuật. Chúng bay thành hàng dọc, rồi một con bất ngờ tách đội hình, lật mình xoắn xuống như cái lá rơi để tránh đường đạn bắn thẳng mà đồng đội vừa thoát chết đã kịp cảnh báo.
Khi sà xuống thấp gần như sát mặt sông nó bỗng lật lại phô rõ cả số hiệu cùng quốc kỳ trên thân. Jim nhổm phắt người: Tom “bự” tốt bụng. Hắn tham reo lên. Tom – đồng đội thân thiết nhất của hắn – đang mang lá cờ Tổ quốc bay tới. Jim lặng người, xao xuyến…
Biết bao lần hắn đã đặt tay phải lên tim, đứng thẳng, ngẩng cao đầu ngắm nhìn lá cờ tung bay trong gió, lòng xốn xang những bổn phận của người lính đối với Tổ quốc… Nhưng chưa bao giờ và ở đâu hắn lại chỉ được ngắm lá cờ ấy từ quá xa và quá nhỏ như ở đây, lúc này.
Jim đờ người như bị thôi miên… Hắn nhìn như hút vào lá cờ. Hắn bỗng ao ước được áp mặt vào lá cờ ấy như nép vào ngực mẹ tìm sự chở che.
Chợt tiếng kèn xung trận rộn rã vang lên từ “Khúc quân hành nền Cộng hòa”: “….Tiến lên, những người lính, tiến lên vì vinh quang, vinh quang, tiến lên mãi khúc quân hành…!”. Máu trong người Jim sôi lên. Hắn toan đứng phắt dậy vươn hai tay lên trời như muốn bay vút lên nhập vào đội hình của đồng đội
Nhưng hắn chẳng kịp thể hiện bầu nhiệt huyết của mình.
Tấm thân chưa kịp đưa lên đã phải vội đổ gập xuống, hai cánh tay chưa kịp vươn cao đã phải vồ chặt lấy mạn thuyền.
Một khối sắt đen sì từ bụng con Ó của Tom “bự” – người bạn thân thiết nhất của hắn – đang vun vút lao xuống nước…
Mặt nước và không khí đột nhiên bị nén chặt lại thành một khối đặc quánh rồi từ đó vụt ra một luồng khí mạnh khủng khiếp làm dòng sông nhảy dựng đứng l! ên thành một cột nước ma quái. Nó đứng dựng một giây giữa trời rồi đổ đánh ầm xuống! Nước trong lòng sông sôi sùng sục lên từng chập… Bùn ải, lá cây lâu ngày dưới đáy sông bị hất ngược lên, văng tứ tung. Không gian nồng nặc bùn ẩm, mùi lá mục trộn với mùi khét lẹt của khói bom… Sóng sủi bọt, đập như rồ dại vào hai thành bớ, đánh dạt vào đó những miếng vải rách không hiểu từ cái áo hay chiếc quần của người nào đã chết
Con thuyền nhỏ bé của ông Bi cũng bị hất ngược lên cao tới năm mét. Ông Bi hẫng hụt ngã nhào ngay xuống nước. Cái mũ rơm cũng từ bỏ ông, theo dòng nước trôi ra xa…
Con thuyền đáp trở lại dòng sông. Bất thần một con sóng lớn, được sinh ra từ cỡi cột nước ma quái ấy, cuộn lên đẩy mạnh con thuyền ra xa. Những đợt sóng tiếp theo vỗ liên hồi vào mạn thuyền càng đưa nó ra mãi về phía hạ nguồn. Con thuyền đơn độc xoay xoay tròng trành rồi mắc kẹt giữa đám gai hồng.
Chưa kịp hoàn hồn thì loạt rốcket đánh thẳng ngay vào giữa đội hình những con thuyền, chúng tan tác ra xa… Hai chiếc bị trúng đạn chìm ngay lập tức. Một chiếc xoay tít trong đòng nước xoáy như đang tìm kiếm chủ nhân của mình…
Jim chống tay ráng sức ngồi dậy. Hắn ngạt thở như bị ai bóp cổ. Máu trong người như đặc lại, ngừng chảy… Hắn cố ngước mắt lên: từ trên trời một loạt bom đen kịt khác lại vun vút lao xuống. Jim vội chúi xuống, hai tay nắm chặt thành thuyền, thở dồn dập, chờ đợi… Nhưng dòng sông vẫn im ắng…
Jim nhỏm dậy: chỉ có mấy cột nước trắng vọt lên không quá cao, vài con! sóng nh! ỏ lăn tăn lan ra. “Bom nổ chậm!” – Jim kêu lên.
Bom nổ chậm đã giăng ra khắp dòng nước, chặn đứng hắn sang sông!
Sau khi ném mấy qua bom nổ chậm để ngăn cản hoàn toàn sự đi lại giữa hai bờ, lũ Ó trời biến mất.
Từ đầu trận đánh tới giờ, Na vẫn ngồi bẹp gí dưới lòng thuyền, hai đầu gối ép chặt vào tai. Khi con thuyền bị hất bay lên, cô bé run bắn người, mắt nhắm nghiền lại, hai tay bám chặt lấy mạn thuyền.
Lúc con thuyền đã chịu đứng yên, Na mới từ từ mở mắt: cô bé đã ở xa bến đò, cha em cũng không còn ở trên thuyền nữa, trước mặt chỉ có đôi mắt xanh lè nhìn em không chớp…
Na sợ quá, đứng phắt đậy, mếu máo:
– Thầy ơi…!
Đừng sợ bé con, chúng ta sẽ thoát được vào bờ? Jim đột nhiên thốt lên nao nao.
Na giật mình, ngừng khóc quay lại nhìn hắn.
Jim túm lấy cái áo rơm. Nhưng bàn tay hắn bỗng dừng lại: Một mảnh đạn đen sì, sần sùi đang nằm ngủ ngon lành trong cái ổ rơm vàng từ lúc nào không biết… Hắn chần chừ rồi giật phăng cả áo cả mũ quăng ra xa.
Jim nhìn Na mỉm cười, lấy ngón tay chỉ vào cô bé, chỉ lên lưng mình, khua hai cánh tay như đang bơi, rồi chỉ vào bờ. Na im lặng, nhìn chằm chằm. Jim ngó ra giữa sông, lòng nóng như lửa đốt nhưng vẫn quay lại bình thản, từ tốn ra dấu lại. Hắn làm các động tác ấy thật chậm rãi, nheo mắt tinh nghịch rồi hất đầu hỏi: “OK?”
Na cứ đứng ngây ra hết nhìn Jim lại nhìn cái đầu gối băng đỏ. Cô bé chưa hiểu, không sao, sẽ hiểu ngay bây giờ.
Jim lao mình xuống nước đánh “ùm”, dùng cái phần còn lành lặn đạp mạnh xuống, sải rộng hai cánh tay gạt nước, quay người về phía con thuyền. Nước mát vờn khắp cơ thể đang đẫm mồ hôi, đã lâu chẳng được ngó ngàng tới làm Jìm sảng khoái kêu lên “Nhanh thôi, bé con, ta sẽ đưa con tho�! �t vào bờ!”. Nhưng mới đạp nước tới cái thứ ba thì chân trái như bị níu chặt lại, cả thân hình như bị kéo xuống đáy sông. Jim đạp đạp liên hồi, càng đạp, cái chân càng bị giữ chặt trong làn nước. Jim vội lật ngửa người thả nổi trên mặt nước rồi rút mạnh chan trái lên: cả đám bùng nhùng, nhớp nháp đầy gai, lòng thòng cuốn chặt từ đầu gối xuống tận bàn chân. Jim nhìn xuống: Muôn vàn nhánh cây dại đâm ra tua tủa như những dây thép gai, dập dờn trong dòng nước. Hắn trợn mắt đạp đánh rầm xuống mặt nước. Mặt sông chao đảo, con thuyền tròng trành! Giá mà hắn có thể diệt hết được lũ gai dại chó chết này, chúng đang muốn níu giữ hắn ở lại với tử thần. Hắn nhìn thẳng lên trời, nghiến răng: “Lạy Chúa! Ngài còn thử thách nào nữa không?”.
Từ nãy tới giờ Na chẳng rời mắt khỏi Jim. Thấy hắn nằm ngửa nổi trên mặt nước, cô bé hốt hoảng quỳ xuống lòng thuyền, đưa tay ra. Jim thở dài, lật úp người lại rồi nắm lấy tay Na, khó nhọc kéo thân hình ướt sũng lên thuyền.
Ở phía bến sông ông Bi đang khua tay hò hét trên mặt nước như một gã điên… Lúc chỉ tay ra giữa sông, lúc chỉ vào bờ, lúc chỉ lên trời. Cô bé chẳng nghe thấy gì và cũng chẳng hiểu gì, cứ đứng nhìn chăm chăm.. Rồi Na lại thấy cha làm điệu bộ như ra sức chèo. Giờ thì cô bé đã hiểu…
Na loạng choạng bước lên mũi thuyền. Con thuyền khẽ rùng mình, cô bé ngã phịch xuống, rồi lại run run đứng lên. Thuyền tròng trành, em lại ngã xuống. Na đành bò lên mũi thuyền. Em từ từ chống tay đứng đậy, nhoài người với lấy mái chèo, chạng chân, nhoài h! ai tay ra! chèo.
Nhưng hai đầu gối chẳng chịu đứng cho chắc nên cái mái chèo cứ vờn vờn trên mặt nước, con thuyền ì ra…
Nhanh lên…. tiếng cha từ xa vọng tới. Na ngước mắt nhìn cha đang bắc loa tay lên miệng:
– Nhanh lên! Vào bờ!
Na bặm môi, xoài rộng hai chân, bấm chặt mười đầu ngón chân xinh xinh xuống ván thuyền, nhoài người về phía trước, ấn mạnh tay lên hai mái chèo.
Con đò nhúc nhích nó rướn mũi lướt qua một quãng rồi dừng lại. Na đổ hẳn người về phía trước, đẩy mạnh chèo. Nhưng con thuyền vẫn đứng trơ ra. Na nhìn xuống nước: lũ gai hồng tai quái đang giang tay từng lớp, từng lớp vây chặt con thuyền.
Con thuyền đã bị mắc kẹt hoàn toàn.
Na cắn môi, cau vầng trán nhỏ xíu… Em hết nhìn cái đầu gối băng đỏ của Jim lại nhìn xuống dòng sông. Cô bé mắm môi cắm mái chèo xuống nước, lắc qua lắc lại rồi kéo lên đặt sát vào người mình. Cái vệt nước trên mái chèo cao gần tới ngực cô bé.
“Cô bé làm gì thế nhỉ?” Jim chưa kịp tìm câu trả lời thì “Ùm” – cô bé trước mặt hắn biến mất. Jim hốt hoảng cúi xuống: cô bé đã ở dưới nước đang quay lưng bước đi.
– A, bé con khá lắm! – Jim reo lên – Nhềnh lên! Chạy đi! Hắn bỗng thét to lên. Hắn nhìn ra dòng sông rồi quay lại giơ hai tay ra xua xua rối rít như thúc giục.
“Lạy chúa lòng lành, xin hãy phù hộ cho cô bé kịp thoát vào bờ”. Hắn kính cẩn làm dấu.
Na hầu như chẳng để ý tới Jim, em bước mấy bước tới đầu mũi thuyền, vươn người với lấy đoạn chão vẫn đùng để thả neo, lặng lẽ quàng nó qua vai.
Bé con làm gì vậy? Sao không chạy nhanh đi! Jim kêu lên.
Hắn bỗng trố mắt, lặng người nhìn như hút vào thân hình nhỏ bé đang gồng lên, đổ về phía trước, dò dẫm từng bước. Đoạn dây chão căng ra, xiết qua xiết lai, chà xát không thương tiếc bờ vai nhỏ xíu…
Con thuyền mới chỉ cựa mình…
Jim ôm mặt. Đôi vai vạm vỡ khẽ rung lên… “Sao cô bé lại không chạy đi. B! om có thể nổ bất cứ lúc nào…”. Hắn muốn kêu lên “Chạy đi, để mặc hắn!”. Nhưng hắn nghẹn ngào chẳng nói nên lời.
Rồi hắn ngẩng phắt đầu lên, hai cánh tay vục xuống sông khỏa nước ầm ầm như hai cái mái chèo. Người hắn cũng ngả đi ngả lại về phía trước như thúc con thuyền phải động đậy…
Nhưng nó chẳng nhúc nhích được bao nhiêu!
Jim ngồi thẳng lại, mắt đăm đăm nhìn về phía trước: mỗi lần cái lưng bé nhỏ rướn lên thì cả tấm thân to lớn của hắn cũng lại đổ nhoài theo, hai cánh tay như hai cái mái chèo vững vàng, quạt cánh nước. Họ cứ phối hợp nhịp nhàng như thế…
Con thuyền nhúc nhích, nhè nhẹ lướt…
Jim chẳng nhìn ra dòng sông, cũng chẳng nhìn vào bờ, hắn chỉ nhìn đăm đăm vào cái lưng bé nhỏ đẫm mồ hôi, đang oằn mình đổ rạp về phía trước, khó nhọc từng bước kéo hắn vượt qua cánh cửa tử thần…
Hắn cũng chẳng nghe thấy gì hết: tiếng người kêu khóc ở bến sông, tiếng gọi nhau hối hả, tiếng nước vỗ bì bọp vào hai mạn thuyền…
Không gian như đọng lại, im ắng trùm lên khúc sông như mái vòm của nhà thờ thành kính…
Nắng chiều vàng rực rỡ đang ngập tràn trên sông, phản chiếu lấp lánh lên mặt, lên mai tóc đen, lên cái lưng bé bỏng… Cô bé bỗng tỏa sáng như thiên thần!
Nước rẽ ra, lũ gai hồng tai quái đứng nép vào nhau, kính cẩn mở lối cho cô gái nhỏ kéo thuyền chở tên giặc vào bờ…
Ông Bi cùng hai nữ dân quân hốt hoảng chạy về phía hạ nguồn.
Nhưng cái bãi sình lầy chẳng cho họ được toại nguyện với tốc độ mong muốn. ! Họ đà! nh phải xắn cao quần, dò dẫm từng bước trong đám bùn nhão mà nếu sơ sẩy có thể tụt tới ngực.
Khi họ đến nơi thì Na đã đứng ở mép nước. Em chạy ùa về phía cha, nắm chặt hai tay ông, nhảy tưng tưng, rồi quay ra ôm chầm lấy hai chị đang lấm lem bùn đất.
– Chị Mi đâu hả chị? Na vội vàng hỏi.
– Nó bị thương rồi! – một cô đáp.
Na cúi đầu xuống quay mặt đi…
Ông Bi vừa thở gấp vừa ra lệnh:
– Phải rút khỏi đây ngay! Ông bỗng dừng lại nhìn về phía con thuyền: Jim đang chống nạng xuống nước, khó nhọc đưa cái chan trái ra khỏi mạn thuyền. Con thuyền tròng trành, hắn mất đà ngã nghiêng, nước bắn tung tóe. Jim chống hai tay, co một chân từ từ đứng lên rút cái nang để bước tiếp nhưng cái nạng đã bị lũ bùn níu chặt lại. Hắn cố rút cái nạng lên… Ông Bi nhíu mày, đưa mắt ra giữa sông “Không rút ngay thì chết cả nút, nhưng nếu bỏ cái thang què này ở đây thì có mà làm kiểm điểm cho đến hết đời biết đâu còn rũ cả xương trong tù ấy chứ?”. Ông Bi lè lưỡi rồi quay sang hai cô gái đang đứng thẳng chờ lệnh. “Hai con ranh này nếu có giết, chúng cũng chẳng chịu thi hành cái lệnh nay”.
Mấy sợi tóc bạc trên đầu ông bắt đầu ngọ nguậy, cái răng cửa lại nhô ra nghiêng nghiêng, ngó ngó… Một tia chớp vụt lóe lên: “Ở, có khi đây lại là dịp may để mình trở thành tấm gương điển hình vượt khó khăn, hiểm nghèo, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, cần phải được nhân rộng ra. Lúc ấy tha hồ mà đi báo cáo khắp huyện, có khi cả trên tỉnh nữa ấy chứ!”.
Bỗng ông nghe th�! �y một ! cái giọng – gần giống như giọng của ông nhưng mạn mẽ hơn – đang thao thao bất tuyệt, lúc lên trầm, lúc xuống bổng, oang oang qua cái micro. Hàng dãy mắt ở bên dưới cứ tròn to ra vì thán phục… Tiếng xuýt xoa đây đó nổi lên. Những tràng vỗ tay vang lên còn to hơn cả sấm…
“Biết đâu đấy, có khi lại còn được gắn cả cái huy chương lên ngực ý chứ!”. Nơi ngực trái, chỗ con tim bỗng rát bỏng…
Ông đứng ngây người.
– Bác Bi! Có tiếng ai gọi.
Ông giật mình.
Ông vội đưa mắt nhìn thân hình to lớn của Jim, giơ tay đấm lưng mấy cái rồi khom người xuống ra dấu cho Jim nhảy lên.
Jim đớ người, hắn nhảy lùi lại xua xua hai tay…
Ông Bi quát lên: "Muốn chết ở đây hả?! Có nhanh lên không?”
Chẳng biết có phải vì cái uy trong giọng nói của ông chỉ huy hay vì hiểu rất rõ rằng họ không thể bỏ hắn lại nên Jim đành nhún người, đổ nhẹ tấm thân đồ sộ của mình lên cái lưng còm.
– Thầy.. . – Na kêu lên.
– Đi trước dò đường cho thầy – Ông Bi cắt ngang ngay- Nhanh lên! Ông khẽ gắt.
Ông còng lưng, lè lưỡi, nhấc từng bước trong đám sình lầy theo dấu chân con gái. Na vác cái nạng đi trước, đầu cứ luôn luôn quay lại nhìn cha, lo lắng. Hai cô gái đeo súng lặng lẽ đi theo sau, đúng vào vết chân ông Bi.
Thỉnh thoảng ông dừng lại thở hổn hển, mắt tóe xanh tóe đỏ, mồ hôi túa ra chảy thành từng dòng xuống cổ, xuống ngực.
"Thằng này nặng gớm, phải bằng ba bao gạo!”. Ông thầm so sánh.
Người Jim cũng ướt sũng. Chẳng biết có phải vì mặt trời đang thiêu đốt cái lưng to đùng của hắn hay vì hắn đang nghiến răng cố gồng lên cho nhẹ bớt cái trọng lượng của chính mình…
Mồ hôi không rõ từ cái ngực ướt nhẹp của hắn hay từ cái lưng đầm đìa của ông Bi rỏ từng giọt, từng giọt tí tách xuống đất bùn đặc quánh…
! Ông Bi hất ngay Jim xuống đất khi chân vừa chặm vào bãi cát ven sông. Ông ngồi phệt xuống thở hồng hộc chẳng nói được nên lời. Mãi một lúc ông mới thốt ra phều phào, đứt đoạn:
– Nhanh lên
Về làng… mang võng ra…
Dân làng Hà đã kéo ra bến sông. Họ dường như chẳng để ý tới cái chết đang rình rập từ dưới nước, xúm vội vào băng bó cho những người bị thương để chuyển gấp về làng. Người gào, người khóc, người rên la… nhốn nháo cả bãi sông. Có người còn liều chết nhảy ùm xuống nước tìm xác người thân. Ông Bi lắc đầu: “Đúng là điếc không sợ súng”.
Na bước tới, ấn cái nạng vào tay Jim. Mắt hắn lại sáng lên, ấm áp nhìn cô bé. Hắn muốn nói gì đó, nhiều lắm… Nhưng Na đã quay người chạy biến đi. Hắn nhìn hút theo cô bé rồi chống nạng từ từ đứng dậy.
Đúng lúc ấy một cái xác được vớt mang lên, tóc xổ ra rũ rượi… “Ồ cái bà răng đen!” Jim há hốc mồm thầm thốt lên kinh ngạc.
Cái miệng đỏ chót, nói leo lẻo đã từng làm Jim kinh sợ mới một giờ trước đây nay đã thâm tím, mím chặt. Cái yếm trắng duyên dáng đã bị sóng dứt tung để trơ ra bộ ngực đen sì, nhẽo sang hai bên như đã quá kiệt sức vì tháng năm gánh gồng, đàn con háu ăn vần vũ…
Một tầu lá chuối được che vội lên…
“Ôi sao nhanh thế, sao phi lý thế nhỉ. Thật có đáng không khi dùng những chiếc phản lực siêu hiện đại giá hàng trăm triệu, những quả bom hàng triệu để diệt mấy cái thuyền gỗ giá chưa tới mười đô la và giết mấy phụ nữ như thế này. Tại sao lại tồn tại cái vô l�! � ấy?! 8221;. Hắn đứng ngẩn người…
Hắn bỗng bị đẩy nghĩ dúi xuống, vây chặt bốn bề bởi đám đông đang bừng bừng sát khí…
Ông Bi chưa kịp lấy lại hơi, đứng bật lên, vội vã rút súng bắn một phát lên trời. Phát súng chỉ thiên của ông lúc này sao nghe lạc lõng thế, nổ đẹt như cái pháo lép, đâu có uy lực như phát súng đêm qua ở trên núi, nên chả ai thèm đếm xỉa. Họ vẫn xông vào đánh Jim tới tấp. Bây giờ thì họ có lý do thật sự để nổi giận, để căm hờn. Họ muốn đòi nợ máu. Tiếng la, tiếng hét, tiếng kêu, tiếng đấm đá thình thịch.
Các nữ dân quân lao vào giằng co với dân làng. Sắp có trận ẩu đả diễn ra giữa những người ruột thịt, chòm xóm thân yêu, gần gũi gắn bó bao đời.
Ông Bi gãi gãi đầu lúng túng… Ông bỗng thét lên:
– Tiểu đội hình vòng tròn! – Ông đã tìm được “phương án tác chiến”.
Ngay lập tức, các cánh tay con gái tìm đến nhau, xiết chặt lại thành vòng tròn, vây Jim vào giữa. Khí thế của đám đông vẫn đang hừng hực… Họ cứ xông vào để phá tan bức thành mới tạo nên từ tấm thân các cô gái.
Lúc này ông Bi mới dằn giọng:
– E hèm, ai giỏi thì vào đánh con, đánh em mình đi?
Cả đám đông sững lai, họ hết nhìn nhau rồi lai nhìn các cô gái: Đây là cái Mi – con gái yêu của bà – mặt mũi lấm lem bùn đất cánh tay bị thương chưa kịp băng đang rỉ máu, nó đi suối cả hai ngày rồi, chẳng ăn uống, nghỉ lưng được lấy một phút… Bà Hồng nấc lên, ngồi thụp xuống. Nhìn con bé Hiền kìa, người sũng nước, tóc xổ tung, máu và bùn bết lại trên trán&! #8230; Đ! êm qua, nó chẳng đã quanh quẩn lo cho bà nồi nước lá xông, thế mà bây giờ, sao trông mặt nó nghiêm nghị thế kia… – Cháu ơi! Một bà khác kêu lên.
Cứ như thế bà con điểm từng khuôn mặt các cô gái thân yêu của mình với niềm xót thương và đầy tự hào.
Ai mà có thể tự đánh vào da thịt, thân thể mình? Đám đông chùn lại…
Tản hết ra ngay, bom nổ chậm chết cả bây giờ! Ông Bi nghiêm giọng nhắc nhở.
Dân làng nhanh chóng giải tán khỏi bờ sông đầy hiểm họa.
Chương 9
Các cô gái tập trung ở sân nhà ông Bi đợi lệnh mới của huyện.
Jim được giải đến chỗ bậu cửa ở gian nhà ngang – nơi hắn ngồi ban sáng. Jim ngồi xuống vặn người qua lai như muốn rũ bỏ trận đòn vừa nãy ở bên sông rồi duỗi thẳng chân trai, hai tay chống bậu cửa, đưa mắt nhìn ra sân.
Các cô gái đang ngồi ngả người thoải mái vào vách tre chạy dài trước hiên nhà. Hai chân duỗi thẳng, hai chân bắt chéo, hai chân khoanh lại. Cô cắm cúi lau súng, cô mải mê thắt lại bím tóc, cô đang lăng xăng băng vết thương cho bạn… Không một tiếng rên la, chỉ có tiếng rúc rích nói cười.
Có cô thỉnh thoảng lại liếc mắt về phía Jim rồi cúi xuống thầm thì. Cả đám lại cưới rộ lên, nắc nẻ…
Jim biết các cô gai đang bàn tán về mình. Hắn giơ tay xốc lại cái cổ áo, nghiêng đầu, nheo mắt đánh cái nhìn sang như dò hỏi “Trông tôi thế nào?”.
Cái nhìn nghiêng nghiêng, loá ra những ánh sáng xanh lấp lánh tinh nghịch của hắn càng làm cho các cô cười to hơn, cô nọ úp mặt vào lưng cô kia như xấu hổ.
“Các cô ấy cười cái gì thế nhỉ?”. Jim bất giác đưa tay lên vuối tóc. Hắn bỗng ước mình hiểu được những lời nhỏ to của các cô gái ở phương trời khác, từ bên kia chiến tuyến. Chắc chắn chúng sẽ cho hắn biết thêm nhiều điều bất ngờ, thú vị về bản thân mình. Jim mỉm cười lâng lâng. Hắn chăm chú nhìn những đôi mắt trong trẻo trên mấy khuôn mặt rạng rỡ, những đôi môi mọng căng sức trẻ đang khúc khích nói cười. "Nhìn cái cách các cô gái cười thì biết rằng họ thật thoải mái và bằng lòng với cuộc sống của mình. Mó! n quà “tự do, dân chủ” quả là quá xa xỉ đối với những người dân này, họ đâu có cần chúng! Thế mà chúng ta đang phải đổ bao xương máu tiền của để mang nó tới. Họ khác xa với những gì mà chúng ta vẫn tưởng tượng.
Ai có thể ngờ rằng họ vừa từ cái chết trở về. Nếu không có mấy khẩu súng và mấy cái băng dính đỏ máu thì chắc rằng mình đang ở buổi giao lưu Đông Tây đầy lý thú! Cái gì đã làm cho những cảm giác đau đớn hay sợ hãi – những cảm giác rất đỗi bình thường của con người bị tê dại? Họ lấy đâu ra sự dẻo dai kiên cường đến như vậy?”. Câu hỏi chưa có lời đáp lúc ở trên sông lại quay về.
Trước kia hắn đã từng bất bình khi nghe Tướng Eagle Gueeler – Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân điều trần trước Thượng nghị viện rằng: “Đối với ông ta, Phương đông vẫn còn xa lạ. Ông ta chẳng hiểu gì đầu óc của Đông Phương, của những người cách mạng, nhất là những giá trị của người Bắc Việt… Người Mỹ thường tỏ ra lúng túng trước cách cư xứ của họ…”.
“Đây chính là lời thú tội tự giác nhất?” Jim trầm ngâm.
“Có một cái gì đó khác biệt đang nằm giữa hai phía, một bên do nắm trong tay một nền kỹ thuật tiên tiến vào bậc nhất nên nó đã ngăn cản nhận thức của chính họ về con người, khiến họ dường như bỏ rơi những yếu tố không phải là kỹ thuật. Họ chỉ biết kỹ thuật này chưa đạt thì cần phải có thêm những kỹ thuật mới tân tiến hơn.
Phía bên kia thì luôn khẳng định rằng con người chứ không phải là vũ khí quyết định! thắng ! lợi của cuộc chiến. Họ đang dùng những khẩu súng trường có tới sáu mươi năm tuổi để bắn hạ những thần Sấm, con Ma, con Ó – những loại máy bay phản lực tân kỳ nhất, báo hiệu cho một nền kỹ thuật của thế kỷ XXI. Họ đang chứng minh cho sự khẳng định của mình…”. Jim chìm đắm trong suy tư, bao lập luận giằng co, vật lộn trong đầu hắn
Vừa cắt cử người tìm cách vượt sông lên huyện báo cáo tình hình và xin chỉ thị xong là ông Bi bê ngay cái bộ xương rêu rạo, đau nhức lên giường.
Na không rời cha nửa bước…
Em lau mặt, lau chân tay lấm lem bùn đất rồi đỡ cha dậy uống nước. Cái bộ xương ọp ẹp bị nâng lên hạ xuống lại được dịp rên lên hừ hừ…
Ngay lập tức, hai nắm đấm xinh xinh chạy suối từ lưng lên gáy rồi ngược lại, đều đều, nhịp nhàng cho tới khi tiếng rên biến thành tiếng thở nhè nhẹ… Bây giờ cái quạt đã thay cho hai nắm đấm, nó không ngừng phe phẩy, có lúc còn sải ra tới tận hai bàn chân to xù để trông chừng lũ muỗi…
Cái cổ tay nho nhỏ của Na cứ ngả qua ngả lại quạt đều đều nhè nhẹ. Cái lưng áo của cha đã khô, em dừng tay, quệt trán – ống tay áo nâu ướt sũng mồ hôi đã ngả sang đen…
Ông Bi thở đều đều, ngủ ngon lành như đứa trẻ…
Na nhẹ rướn người thả màn, giắt cẩn than vào bốn góc rồi nhón chân rón rén bước ra ngoài.
Bóng Na vừa xuất hiện ở thềm thì bao suy tư đang vật lộn trong đầu Jim bỗng biến đâu mất. Hắn nhìn như bị hút chặt vào vật báu trước mặt mà Chúa đã ban tặng trong hoàn cảnh khốn cùng này.
Các cô gái tíu tít ngay:
– Na ơi! Cho chị xin bát nước.
– Na ơi! Cho chị mượn cái lược.
– Na ơi! Tìm cho chị miếng giẻ…
Na ơi, Na ơi , Na ơi…
"Ồ hóa ra tên cô bé là Na ơi. Bé con có cái tên dễ thương quá!". Jim mỉm cưới, lẩm nhẩm: Na ơi, Na ơi…
Hắn bỗng đứng lại, lắng tai nghe các cô gọi í ới… Hắn ngồi thẳng lại, uốn môi, đặt lại lưỡi: Na ơi, Na ơi… Hắn gật gù khoái chí cười toét miệng – tên cô bé đã được gọi lên chính xác.
Na chạy đi chạy lại như con thoi, hết lên nhà trên lại xuống bếp, ra sân… Cái quần đen dầy cộp, rộng thùng thình ngắn cũn để lộ ra đôi mắt cá xinh xinh. Cái áo cánh nâu đã chật, bó sát lấy thân hình bé nhỏ, lấp ló hai cái nụ hoa cau nhu nhú phía trước ngực.
Cô bé vui lắm! Chưa bao giờ nhà em lại có đông các chị đến như vậy. Giá ngày nào cũng có các chị đến chơi như thế này thì vui quá…
Tiếng gọi “Na ơi” đã dứt. Cô bé chay lại định sà vào lòng Mi nhưng cánh tay phải quấn đầy băng trắng đang treo trước ngực làm em đứng sững lại.
– Chị có đau lắm không, chị Mi?
– Na khe khê hỏi.
Mi chỉ mỉm cười, cô đang dùng cái tay lành lặn còn lại của mình gỡ mái tóc ướt.
– Để em chải cho
Na đỡ cái lược gỗ từ tay Mi, cẩn thận chải từng lọn tóc nhỏ. Đường ngôi giữa thẳng tắp chia mái tóc c�! ��a Mi sang hai bên gọn gàng.
Đã bao lần Na được chị Mi chải đầu, buộc tóc, nhưng đây là lần đầu em được vuối ve làn tóc của chị.
– Em gỡ tóc của mình ra đi, nó cũng ướt nhẹp đấy – Mi nhắc.
Na tháo cái cặp ba lá ở phía sau đầu, gỡ tung hai bím tóc, lắc đầu qua lại. Mái tóc đen dầy xổ tung ra, che kín hai vai, đổ dài xuống lưng và ngực.
– Đêm nay chị có lại sang sông không?
– Có chứ! – Mi đáp
– Chị chỉ còn có một tay, làm sao chèo thuyền, bắn súng được – Na thắc mắc.
– Ừ nhỉ!
Chị ở nhà với em nhé! Tối nay em sẽ luộc mấy củ khoai mới bới, ngọt lắm.
Mi im lặng, Na vẫn tíu tít:
– Chị Mi à, em có cái này cho chị xem.
Cô bé gỡ cái kim băng cài ở túi áo bên trái, nhẹ nhàng lôi ra một con vật nhỏ bé, mũm mĩm, hai râu vểnh lên.
– A , con dế mèn Chúa – Mi kêu lên – Ở đâu đấy?
– Em bắt được lúc nãy, ở bến sông – Na khoe – Đẹp không chị?
Na vuối nhè nhẹ con vật bé nhỏ, áp nó vào má, đu đưa:
– Ngủ ngoan nhé, bé của chị. Tý nữa chị thưởng cho ngọn cỏ non…
Trời xâm xẩm. Mặt trời đã thu lại hết các sợi vàng, sợi đỏ, lui về sau núi nằm nghỉ. Gió mát hây hẩy thổi, cây cối lao xao, hương bưởi thơm ngan ngát tỏa khắp sân, khắp vườn.
Để em hái cho chị mấy cái hoa bưởi cài tóc cho thơm nhé. Na nghiêng đầu âu yếm nhìn Mi. Chẳng đợi chị Mi trả lời, Na đút vội con dế mèn vào túi, đừng dậy, chạy về phía cây bưởi.
Hai cái chân nhảy lách chách như con chim chích, nhưng hai cánh tay lại dang ra rập ! rờn nh�! � hai cánh bướm, mái tóc đen dầy xổ tung, đánh qua lại trên cái lưng be bé, lấp ló hai cái mông quần bạc phếch.
Jim chẳng thể nào rời mắt khỏi cô bé…
Na ngước mắt nhìn lên cây bưởi xanh um lá, thấp thoáng những đóa hoa trắng. Kia rồi, một chùm hoa nở rộ đang là là, những cánh hoa cong cong để lộ cái nhụy vàng đã nhạt phấn. Na kiễng chân, với tay, nhưng bỗng dừng lại, hạ tay xuống. Chênh chếch ở phía trên, một cành bưởi đầy lá non xanh mởn đang vươn ra. Trên ngọn của nó, một chùm nụ trắng muối mới hé, lấp ló mấy cái nhụy vàng sậm.
“Cành hoa này sẽ thơm đậm và thơm lâu hơn. Chắc chị Mi sẽ thích lắm đấy!”. Na thầm nghĩ. Em lùi lại vài bước lấy đà rồi nhẩy lên. Người căng ra, cánh tay phải giơ cao lên. Khi ngón tay giữa vừa chớm được vào cành hoa làm nó khẽ rung lên thì Na lại rơi ngay xuống. Lũ gió mải luồn đuổi trong đám lá xanh, va vào mấy nụ hoa trắng nhụy vàng, làm chúng rung rung lên như mời gọi cô bé.
Na lùi ra xa hơn, hít một hơi rồi phóng thật nhanh, cả thân hình bay vút lên… Cây bưởi già như còng lưng xuống…
Na đã nắm được cành hoa, người em đu lên, ống quần bị kéo cao để lộ ra hai cái cẳng gầy guộc đầy vết cứa như dao rạch, đẫm máu đã khô.
Jim nhìn đau đáu vào chúng, nước mắt tự nhiên trào ra… Hắn chẳng nhìn thấy cành hoa đang bị kéo cong xuống, mấy ngón tay xinh xinh chụm lại, nắm chặt đóa hoa và cô bé đang chạm dần xuống đất… Trước mắt hắn chỉ có hai ống chân nhỏ bé bị gai Paliurus Spina – Christi[4] quấn từng vòng, từng vòng chằng chịt, rỉ máu… Hắn nấc lên “Sao con lại bình thản gánh chịu nỗi đau này?!”
Chính giữa đúng lúc đó, đúng lúc đó, một tiếng nổ khủng khiếp long trời lở đất, chẳng có tiếng nổ nào kinh hoàng hơn, rạch từ trên cao xuống. Đất chuyển ầm ầm, cả khoảng trời chao đảo, không khí như bị đánh dạt đi, tất cả bị hất tung lên. Ngói xô nhau tìm đường trốn chạy, rớt xuống loảng xoảng, cánh cửa cuống cuồng quạt qua quạt lại như cố dứt ra khỏi cái chốt để tìm đường tẩu thoát, bát đĩa luống cuống nhảy từ nóc bể nước, vấp phải nhau choang choảng, mảnh văng tứ tung. Gió tạt như bão. Cây cối trong vườn kêu lên răng rắc, đổ ngã đè lên nhau rầm rầm. Lá hốt hoảng dứt khỏi cành, bay tứ tung trong mù mịt khói đen, đất, gạch…
Tất cả bỗng đột ngột dừng lại, im lặng như chưa từng có điều gì đã xảy ra.
Gió đứng yên nghe ngóng…
Cây im lặng hoài nghi…
Jim bị hất lên rồi ném vật xuống, ngực đập “hự” vào cái sân gạch. Hai bả vai trĩu xuống như vừa cử cây ta cả nghìn pounds, sống lưng như có cái vồ nện đi nện lại, ngực đau tức như vừa bị ai kê thớt lên chặt thịt, toàn thân đầu nhừ như vừa bị trận đòn bằng gậy, mồ hôi thi nhau túa ra, ướt đẫm khuôn mặt lạnh ngắt. Cái đau ở đầu gối bỗng biến mất…
Toàn thân bất động, đầu óc trống rỗng…
Bản năng con người đã nâng đầu hắn dậy. Jim mở mắt, chống tay từ từ nhỏm dậy…
Bỗng cả thân hình của hắn như hóa đá, hai cánh tay cắm chặt xuống đất cứng đơ. Mồm hắn há hốc, mắt mở trừng, ngực hóp lại, tim như ngừng đ�! �p…!
Jim nhắm nghiền mắt lại, rùng mình, bộ ngực lại rơi phịch xuống đất đập vào cái sân gạch.
– Hắn – một chiến binh dạn dầy lửa đạn – đang chết cứng…
Những hình ảnh mà đôi mắt hắn vừa thu được thật quá sức tưởng tượng, ghê rợn hơn bất kỳ một bãi chiến trường khủng khiếp nào. Hắn nhắm hay mở mắt cũng thế thôi! Chúng sẽ bám theo, ám ảnh cho tới ngày hắn lìa đời…
Đâu rồi, mấy cô gái hồn nhiên nói cười vài giây trước đó? Họ đi đâu cả rồi…? Họ đã vội bay lên Thiên đường mà chưa kịp trả lời cho hắn biết: trông hắn thế nào?
Chỉ còn lại những cái thây nằm la liệt… Cái bị phạt nửa đầu, óc trắng lầy nhầy trên nền gạch đỏ, cái chỉ còn khúc giữa vuông vắn, cái bị rạch phanh, phơi ra một đống lầy nhầy đủ mầu, quả tim đỏ tím vẫn còn thoi thóp…
Máu giăng ra khắp nơi, văng tứ tung lên vách tre, nhuốm đỏ thềm nhà, đọng thành từng vũng trên sân gạch…. Đất, ngói, mảnh sành, lá cây… vương vãi kết dính lại với nhau cũng bằng máu… Tất cả sự khủng khiếp tột cùng của chiến tranh được phơi bầy trong cái sân nhỏ bé này.
Jim vẫn nằm bất động, mặt úp xuống đất… Đột nhiên như tỉnh khỏi cơn sốt kinh hoảng chưa từng có trong đời, hắn ngẩng phắt đầu, hoảng hốt kêu lên "Na ơi đâu?”, rồi đưa ngay mắt về phía cây bưởi.
Nơi cái cây xanh bóng mát đã được thay thế bằng khoảng trời lộng gió, lộ rõ cái gốc sần sùi bị phạt ngọt. Cả cây bưởi đang nằm xõng xoài trên sân. Lá xanh, hoa trắng, tan tác, tả tơi
Bỗng một cái lá non xanh biếc khẽ cựa mình… Từ dưới cái lá non, một con vật nhỏ xíu, mũm mĩm đang vểnh cao đôi râu, chòi đạp, bò lên…
Jim đứng phắt dậy, hắn ngã nhào xuống? Hắn rú lên "Na ơi!!" Tiếng rú của loại thú lớn vừa bị trúng đạn!!
Hắn bò như điên như dại về phía cây bưởi, hệt như đêm hôm qua ở trên núi, khi đã gắng hết sức để chạm được vào cái dây cứu vớt đời mình.
Ông Bi xách súng từ trong nhà chạy vọt ra, mắt còn ngái ngủ. Ông sững lại, hai chân chôn xuống đất. Mồm há hốc, mắt mở to kinh hãi đảo khắp cảnh tan hoang đổ nát, thịt máu kênh láng trên sân nhà mình…
Ánh mắt của ông chợt dừng lại chỗ cây bưởi. Mặt ông bỗng co rúm lại, biến dạng hoàn toàn… Ông trợn ngược mắt, gào lên: “N…” Tiếng gào mới bật ra nửa chừng đã tắc nghẹn!
Ông nhẩy qua thây, đạp vào máu lao về phía cây bưởi đang nằm ẹp.
Ông quẳng súng cuống cuồng kéo tung cây bưởi ra.
Na nằm đó bất động, bé nhỏ… Bộ ngực chưa kịp lớn đã bị đập bẹp rúm, máu đỏ tươi rỉ ra, nhỏ từng giọt, từng giọt xuống đất… Mái tóc đen xổ tung, che kín cả khuôn mặt, chỉ hé ra cái môi dướ! i đang nhịu xuống như mếu máo: “Con đau quá thầy ơi…!”.
Ông Bi đổ vật xuống bên con gái. Ông áp tai, ông sờ đầu, ông nắm tay, ông lay gọi…
Cô bé đã đi qua canh cổng của Thiên đường…
Ông ngửa mặt lên trời. Nước mắt rơi lã chã ướt sũng chỉ chòm râu bạc. Hai cánh tay ông lúc giơ lên trời cao, lúc đạp thình thịch xuống đất… Ông gào lên trong tắc nghẹn. Ông muốn hỏi đất, ông muốn nghe trời hãy cho ông biết nếu quả Thượng đế còn cần thêm một mạng nữa thì sao không lấy đi cái thân già này… mà lại là con bé, nó còn nhỏ quá…
Chẳng bao giờ và chẳng ai có thể cắt nghĩa nổi cho ông cái sự vô lý ấy – cái vô lý đã có từ ngàn đời và đã làm đớn đau đâu chỉ mình ông!
Jim đang bò lướt tới, người hắn chồm lên, cánh tay vươn dài về phía cô bé… Hắn đang lao đến bằng hết cả sức mình để được một lần – dù chỉ một lần thôi – chạm vào Thiền thần bé nhỏ đã vĩnh viễn bỏ hắn ra đi… Ông Bi đứng phắt dậy, vồ lấy súng. Cây súng trong tay ông hất tung cánh tay Jim ra xa, trở nòng chĩa thẳng vào đầu hắn.
Tiếng lên đạn lách cách hối hả…
Ô, sao một chiến binh can trường trong những chiến binh can trường nhất lại chịu thúc thủ để cho một lão già gầy khọm kia chĩa cây súng cũ mèm thẳng vào đầu. Sao không giật phắt lấy cây súng, quay ngay nòng lại… Thật dễ quá! Không, hắn chẳng làm nổi một việc đơn giản đó, như hắn vẫn từng hình dung. Cả thân hình lực lưỡng của hắn còn đang bận rung lên từng cơn, bàn tay phải của hắn còn đang mải đấm cho nát cái sâ! n gạch,! mắt hắn còn đang ướt nhòa.
Jim đang biết tới cảm giác đau đớn tột cùng…
Hắn nghiến răng nguyền rủa thằng chiến hữu chó chết bị thương, đã vội quẳng quả bom cuối cùng để thoát thân cho lẹ
Nòng thép giá lạnh run run gí sát vào đầu Jim nhưng hắn đâu còn cảm thấy gì…
Jim ngước mắt lên trời, kêu lên những tiếng cuối cùng:
– Lạy Chúa xin hãy xá tội cho chúng con! Rồi hắn rũ xuống bất động… Mắt nhòa lệ, ông Bi nghiến răng, bóp cò.
Một tiếng “Đoàng” lạnh lẽo phát ra!
Một tiếng “Cộc” khô khốc vang lên trên cái sân gạch!
Ôi sao vẫn nghe được tiếng: thở dồn dập của chính trái tim mình, trái tim vẫn quặn đau?
Jim từ từ mở mắt: trước mắt hắn là đôi giầy vải cao cổ màu xanh lá cây, đế cao su, hai hàng dây thắt chặt gọn gàng, cây súng trường cũ mèm nằm chỏng chơ bên cạnh.
Hắn ngước mắt lên: một chàng trai trẻ đầu đội mũ gắn ngôi sao, khuôn mặt nghiêm nghị, đôi mắt lạnh lùng nhìn hắn. Bộ quân phục màu xanh lá cây được nai nịt gọn gàng bằng một cái dây lưng to bản, kè kè bên hông là một khẩu súng ngắn. Cái quân hiệu bằng nỉ đỏ chói trên ve cổ áo màu xanh, lấp lánh hai ngôi sao vàng trên một cái gạch ngang nhỏ.
"Quân chính quy Bắc Việt” – Jim thầm kêu lên.
Đây rồi, đây mới là đối thủ đáng để hắn đối đầu, làm hắn nóng lòng chờ đợi. Đối với hắn, thử sức thật sự chỉ đúng với nghĩa của nó khi phải đương đầu với những kẻ mạnh nhất. Quân chủ lực Bắc Việt – chỉ có họ – mới là đối thủ đáng gờm nhất của cuộ! c chiến! này.
Nhưng sao lúc này cái ngọn lửa hừng hực ấy lại nguội lạnh thế? Hắn dường như chẳng còn là hắn nữa, chẳng giống những gì mà hắn vẫn thường hình dung khi đối mặt với quan thù.
Người Jim rệu rạo, rã rời… Cái nhìn của hắn lên đối phương sao thờ ơ, hững hờ. Nó rời bỏ ngay đối thủ trước mặt, vội hướng về phía người đàn ông đang quỳ trên đất, tay ôm ghì lấy con gái như cố truyền hơi ấm của mình sang cơ thể bé nhỏ đang từ từ giá lạnh…
Tim Jim nhói lên! Hắn bỗng ước ao, một ước ao tột cùng – ngay lúc này đây – được thay thế người cha ấy dù chỉ trong một phút
Chương 10
Bộ đội đã về làng Hà.
Xe bọc thép lội nước đã vào tới đầu làng để giải phi công thẳng lên tỉnh.
Họ qua sông lúc trời vừa tối hẳn…
Chiếc xe ầm ì rẽ nước vượt sông, bỏ lại làng Hà khuất dần trong bóng tối, bỏ lại dòng Mạ đang ngập tràn tiếng nói tiếng cười của các cô gái phá bom, của bà con làng Trà đang tíu tít gánh khoai, gánh nước ra sông phục vụ…
Xe chạy qua làng Trà, ra đường cái lớn…
Hai bên đường các dẫy nhà đổ nát, mái thủng lỗ chỗ. Mấy cây cột điện bị bẻ cong lủng lẳng sợi day điện đu đưa lac lõng trong gió. Hàng dẫy xe tải bẹp rúm, đầy mảnh đạn, nằm ẹp hai bên đường. Cái bệnh viện đã sập hẳn chỉ còn lại mảng tường có dấu thập đỏ. Nhà thờ bị san phẳng, tượng Đức Mẹ cụt đầu đứng trơ trụi, cánh tay vẫn bình thản giơ ra ban phước…
Hố bom chồng hố bom, cái nhiều nhất ở đây chỉ là hố bom… Cỏ hai bên đường cháy vàng, trơ ra những mảng đất lở đỏ như máu…
“Bom siêu diệt Over Kill – hai phút một tấn – Jim lẩm bẩm – không sinh vật nào có thể sống nổi, kể cả con dế mèn. Chỉ có con người, con người với ý chí phi thường…”. Chiếc xe chở hắn bỗng dừng lại, cắt ngang dòng suy tư của Jim.
Một cái hố sâu hoắm vừa bị sức công phá của bom nổ châm, nằm chình ình giữa đường.
Ngay lập tức, từ trong bóng tối, hàng đoàn người xuất hiện. Họ vác theo những bao đất, cát đã được chuẩn bị từ trước.
Tiếng đất cát hối hả rơi xuống hố rào rào… Tiếng xẻng va vào đá keng keng… Họ làm hối hả, nh! anh nhẹn, gọn gàng, dường như đã quá quen với công việc này.
Xe chở hắn lại lên đường, lắc lư chạy qua hố bom vừa được lấp. Ánh đèn dưới gầm xe lấp lóa trên con đường nhỏ hẹp, gập ghềnh, lát vội bằng những cánh cửa, những tấm ván tủ và cả những câu đối chữ vàng lấp lánh… Hai hàng thiếu nữ, chẳng rõ mặt người, quét vôi trắng xóa từ bụng tới chân làm cọc tiêu sống cho xe hắn qua…
Jim lặng đi…
Hắn đang đi qua mảnh đất mà hành động anh hùng chỉ là vô danh và ngày nào cũng có.
Jim lại trầm ngâm…
"Những người nhỏ bé, rách rưới, chân đất – những con người quá lạc hậu so với thời đại – chẳng bao giờ được nhắc tới hay được mang ra bàn luận trong các buổi họp của các nhà hoạch định chiến tranh. Nhưng hãy nhìn xem, họ đang ngoan cường đương đầu với siêu cường quốc số một thế giới. Chính họ đã giành lại được sức mạnh của con người trong một thời đại mà bản thân cái sức mạnh ấy đang bị hoài nghi sâu sắc nhất. Họ đang san lấp khoảng cách ghê gớm của cuộc chiến giữa con người với máy móc, giữa khoa học kỹ thuật và sức mạnh thuần túy của ý chí, tinh thần.
Họ đang tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực mà mọi người tự nguyện tham gia, do chính họ đứng lên tổ chức và thực hiện. Sức mạnh to lớn của họ là sức mạnh chính trị. Các đơn vị chủ lực chỉ là phần nổi trông thấy của một tảng băng.
Họ đang đứng và sẽ đứng vững trên mảnh đất của chính mình, đang từng ngày, từng giờ thay đổi bộ mặt của chiến tranh…
“Ai làm chủ mặt đất! – ! người đó sẽ thắng!!”
Jim bỗng nhiên thốt ra.
"Mình có trở lại bầu trời không?” – hắn tự hỏi – Có chứ, nhất định rồi!”. Hắn khẳng định ngay.
Tình yêu với bầu trời và biển cả đã được truyền vào máu từ bao thế hệ, chẳng bao giờ rời xa hắn. Hắn vẫn mãi mãi khát khao bẻ lái gạt cần, tung hoành giữa trời cao, biển rộng. Nhưng một cảm giác mới lạ chưa từng được biết đến – cảm giác của những người ở dưới đất hứng bom, chịu đạn – đã khiến cho hắn không còn vô tư, bình thản nhấn nút nhả bom, vãi đạn…
Bên đường, ngọn đèn sơn kín ba mặt trong tay các cô gái lập tức được xoay lại. Màu đỏ nhỏ xíu lại hiện ra làm bừng sáng cảnh vật xung quanh, làm ấm lòng đoàn quân đang hối hả tiến về phía
“Đối với đất nước này không bao giờ và chưa bao giờ có Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam, chỉ có một đất nước duy nhất mà đường vĩ tuyến 17 phi lý tạm thời chia cắt… Không một ai, một thứ vũ khí nào có thể chống lại sự quyết tâm và lòng tin của cả một dân tộc!”. Jim thầm khẳng định.
Hắn nhoài người ra khỏi xe, ngoái nhìn đăm đăm về phía sau như tìm kiếm một cái gì đó trong bóng tối…
Chiến tranh với qui luật của riêng nó đã nẩy sinh ra biết bao sự bất thường. Nó luôn đẩy con người vào những khoảnh khắc bất ngờ mà họ có thể mất đi trong tích tắc cái quý giá nhất của chính mình. Vì thể, nó luôn đẩy cảm xúc của con người lên cung bậc cao nhất!
Nhưng Jim chẳng bao giờ có thể ngờ rằng hắn lại có được những cảm xúc ấy ở một ngôi làng nhỏ bé, khuất nẻo bên rặng núi!
Những cảm giác hoàn toàn mới lạ – ân sủng của cuộc sống – mà hắn vừa được ban tặng trong hai mươi mốt giờ hay hai mươi hai giờ qua, hắn cũng chẳng nhớ nữa, dễ ai có được trong suối một đời. “Mình có quay lại mảnh đất này nữa không? – Hắn tự hỏi – Biết đâu đấy, sẽ có một ngày…”.
Jim quay đầu vào trong xe. Hắn cúi xuống: trong bóng tối mờ mờ, bàn tay phải từ từ mở ra, thả lỏng, mềm mại… Giữa lòng bàn tay, một nụ hoa trắng muối đang bắt đầu hé nở, hương thơm nhè nhẹ bay lên.
Jim ngồi thẳng lại, mắt nhìn đăm đăm về phía trước, miệng lẩm nhẩm khẽ cầu nguyện.
God bless you,
Hà Nội 02/2007
LỜI GIỚI THIỆU
Chị Lan Anh là một doanh nhân nhưng lại chuyển qua viết truyện. Tôi làm sứ nhưng lại được tác giả yêu cầu giới thiệu tác phẩm văn chương của mình. Những cái trái khoáy đó khiến tôi e ngại không dám lạm bàn chuyện văn chương.
Nhưng đọc hết những trang viết này tôi lại cảm thấy muốn nói lên một điều gì đó của người làm sử, vì câu chuyện này là câu chuyện của lịch sử cho dù nó có được hư cấu. Hư cấu về nhân vật, về địa danh, về tình tiết của câu chuyện. Nhưng câu chuyện dù đã được hư cấu nhưng nó vẫn nằm trong một khung cảnh lịch sử của một thời kỳ mà thế hệ tôi đã trải qua và chiêm nghiệm. Chắc chan sẽ chẳng có trên đời một ông Bi, anh Jim hay cháu Na theo như trong sách. Nhưng những cảnh đời tương tự, tình huống tương tự và những cảm nhận tương tự như trong truyện thì chắc hẳn nhiều người đã trải qua. Đấy là cơ sở để người làm sử có thể lên tiếng.
Khi nghiên cứu về những cuộc chiến trach mà dân tộc Việt Nam đã từng trải thì có một hiện tượng khá đặc biệt trong quan hệ Việt-Mỹ là sau một cuộc chiến tranh ác liệt và kéo dài, để lại rất nhiều hậu quả nặng nề cho cả hai quốc gia, thì cựu chiến binh của hai nước lại là cái cầu sớm nhất được dựng lên để góp phần tích cực vào quá trình hoà giải một cách có trách nhiệm và hiệu quả cùng với quá trình bình thường hoá quan hệ giữa hai nhà nước và sự hợp tác làm ăn của các nhà kinh doanh. Những tổ chức Cựu chiến binh Mỹ đã tham gia vào chương trình tháo gỡ bom mìn, nhiều hoạt động nhân đạo, thực hiện những hành trình trở lại chiến trường xưa với ý! thức xoa dịu những vết thương của quá khứ… Và gần đây nhất, sự kiện cuốn "Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm” là một bằng chứng.
Vai trò của các cựu binh Mỹ khi trở thành những chính khách như các Thượng nghị sĩ John Mc Cain của công Cộng hoà hay John Kerry của Đảng Dân chủ cũng là những nhân tố tích cực thúc đẩy sự xích lại gần nhau của hai quốc gia vốn là hai đối thủ của một cuộc chiến tranh đẫm máu. Vị Đại sứ đầu tiên của Hoa Kỳ tại Hà Nội, ông Peter Peterson, cũng là một cựu phi công, máy bay của ông đã từng bị bắn rơi và ông từng bị giam giữ ở Việt Nam, lại là một trong những người đóng góp nhiều công sức cho những bước khởi đầu không ít khó khăn trong tiến trình bình thường hoá quan hệ nhà nước.
Trong một bài phát biểu nhân chúc mừng hai vị Thượng nghị sĩ – Cựu chiến binh J.Kerry và J. Mc Cain nhận giải thưởng dành cho những người có đóng góp cho hoà bình, giải Christiane Herter, ông P.Peterson có nhắc đến sự kiện chiếc máy bay trực thăng chở nhóm quân nhân Việt-Mỹ thực hiện chương trình MIA đã gặp nạn ở miền Nam Trung bộ Việt Nam, khiến tất cả đều tử nạn (3-2001). Nhận định về sự kiện này, vị đại sứ cựu chiến binh viết: “Lãnh đạo hai bên đã cùng đến viếng lễ tưởng niệm chung. Tại đó các gia đình Việt
Chính từ những cảm quan sử học ấy, tôi xin được giới thiệu với bạn đọc cuốn truyện đầu tay của chị Lan Anh sau khi mạnh dạn nhận ra rằng, đúng như các cụ vẫn dạy: “Văn sử bất phân”.
6.2007
Dương Trung Quốc
– Hết –
[1] Thủ tướng, nhà văn người
[2] Surface air missile – Tên lửa đất đối không
[3] Vua
[4] Loại cây được dùng làm vòng gai xiết lên đầu Chúa Jeus khi bị hành hình
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét