
Thông tin ebook
Tên truyện : Nơi Có Ngã Ba
Tác giả : Thy Ngọc
Thể loại : Văn học trong nước
Nhà xuất bản : Kim Đồng
Tủ sách : Tuổi Mới Lớn
Năm xuất bản : 2005
Số trang : 110
Kích thước : 10,5 x 17 cm
Trọng lượng : 270 g
Số quyển / 1 bộ : 1
Hình thức bìa : Bìa mềm
Giá bìa : 5.000 VNĐ
———————————-
Nguồn : http://www.nxbkimdong.com.vn
Chuyển sang ebook (TVE) : santseiya
Ngày hoàn thành : 01/07/2008
Nơi hoàn thành : Hà Nội
Mục Lục
1. Dọn nhà
Một xe đạp mi-ni thồ mấy thứ đồ lỉnh kỉnh, hai cô cháu – hay hai mẹ con gì đó – người bên này kẻ bên kia, vừa đẩy vừa đỡ thật vất vả, tới đúng chỗ xích lô đỗ của Sáu Bi thì đứng lại.
- Bác có chở không?
- Có chớ! Đi đâu?
Người đàn bà chỉ trỏ, nhắc tên con hẻm.
- Nhiêu bác?
Sáu Bi lặng im. Giáp mặt rồi, Sáu Bi chợt bối rối. Ai như cô Hương, con cụ giáo Phước, nhà cùng con hẻm nhà Sáu Bi. Đúng vậy rồi! Vậy là hai mẹ con cô giáo Hương về nhà bà ngoại đây. Đồ đạc kiểu này, cả valy, cả bếp dầu, soong nồi… đúng là dọn nhà.
- Lên đi cô.
- Nhiêu?
- Khỏi. Tôi cũng về đó mà. Cháu đây hả cô? Ngoại gặp rồi mừng hết biết cho coi!
- Ôi! Vậy là bác có biết bà già tôi. Thôi, bao nhiêu cũng được. Thương lên ngồi xích lô, má đạp xe. Lẹ lên con.
Nhỏ Thương tháo các đồ đạc cồng kềnh buộc ở xe đạp. Sáu Bi xếp lên xích lô, đâu vào đó, nhưng lúc Thương ngồi, cố nép lại, vẫn cao lênh khênh. Kỳ quá! Bây giờ mà gặp lũ bạn cùng lớp thì cứ phơi mặt ra, lại là đề tài cho bọn nó dựng chuyện suốt tuần.
Thấy má được nhẹ nhõm, vuốt lại mái tóc, thấm mồ hôi trên mặt, Thương yên lòng, lắng nghe những câu trao đổi của má với người đạp xích lô:
- Sao bác biết bà già tôi? Bác ở cùng hẻm à?
- Cô kêu tôi là Sáu Bi. Cũng có thể cụ nhớ ra tôi, nhưng đã chắc đâu đấy. Nhưng tôi thì không quên ai đâu. Xửa xưa, tôi đã học thầy Phước mà… Hồi ấy cô Hương vào Sư phạm…
Thương thấy má bắt đầu chuyện trò nhiều hơn. Chỉ khi bất ngờ bác Sáu Bi này hỏi “Cậu ấy làm lớn lắm, phải vậy không?” thì Thương không nghe má trả lời và cũng ngưng nói chuyện. Thương cho là đúng. Nỗi đau còn đang thấm đậm trong lòng hai mẹ con đây, một khơi gợi bất chợt nào đó vào hình ảnh người đàn ông ấy đều làm xót xa, ớn lạnh.
Nước mắt bỗng ứa ra, Thương cúi xuống lau vội vào cánh tay áo, nhưng má Thương cũng đã nhìn thấy.
Tội nghiệp, nó đâu còn nhỏ nữa. Nó rất thấm thía cuộc tan vỡ này. Nó lại là đứa con gái dễ xúc động. Từ hôm nay, nó không còn người bố, liệu người mẹ đơn độc là mình có đủ sức cáng đáng nhiệm vụ của cả hai người cho con không?
Chợt, cả bác xích lô và hai mẹ con Thương đều reo cùng một lúc:
- Tới rồi!
Thương nhảy tót xuống, đập cửa:
- Ngoại… ơ…ơ… ơi!
Cửa mở ngay, cứ như là ngoại vẫn đứng chờ đó từ bao giờ.
- Ngoại!… Má!…
- Con!… Con!…
2. Bạn và cô
Sau tiết học đầu, Thủy gặp ngay cả nhóm:
- Bệnh hay gì?
- Ai mà biết! Tan giờ đến nhà nó ngay. Chước thấy thế nào?
- Ô kê! Không có gì mà phải ầm ĩ!
Chước vừa nói vừa xoa xoa mấy ngón tay lên má, lên mí mắt mình. Cả nhóm chờ Chước nói tiếp, vì mỗi lần có cử chỉ đó, “điệp viên Chước” thường hé mở một vài bí mật, chỉ có người trong “nhóm” mới được nghe.
- Có thể bệnh cần chích, cần uống thuốc; cũng có thể bệnh cần được nói nhiều là khỏi.
- Vậy là sao? Có nghĩa là Thương bệnh chứ gì!
- Cái “ấy” không thấy từ tuần trước, “cậu ta” ít bắt chuyện với bọn mình à?
- Ừa, ừa!… Cái Thương buồn hẳn. Đúng! Thằng Chước nhìn ra “bệnh” của cái Thương đó. Xứng đáng “điệp viên”!
“Thằng Chước” bỗng trầm giọng, chỉ lên phía bàn cô giáo:
- Tốt nhất là hỏi cô chủ nhiệm. Mình thấy cả tuần trước, cô Trang hay gặp riêng cái Thương. Cả hai thì thầm có vẻ buồn thật sự đấy.
- Bỗng nhiên hỏi cô? Kỳ thấy mồ. Cứ đến nhà nó. Bệnh hay không, biết liền à!
Chước gật:
- Cách nào cũng được. Nhưng mình không có xe, cậu nào cho “ôm” đỡ.
- Cái Khánh! Cái Khánh!
Khánh nhắm mắt:
- Được thôi! Chị em cùng lớp, giúp nhau là chuyện thường ngày… ở…
Chước quát:
- Ai là “chị”, trả lời?
Chưa biết Khánh còn nói gì khác nếu ngay lúc ấy cô chủ nhiệm không bước vào. Cô giơ tay ra hiệu cả lớp thật im lặng, rồi cô nói:
- Cô Hương, mẹ của bạn Thương vừa gặp cô, xin phép cho Thương nghỉ ở nhà vài bữa. Cô đề nghị nhóm học tập của Thương lưu ý thay phiên nhau chép các bài đầy đủ, giúp Thương. Cảm ơn các em!
Cô đến phía bàn của mình, không ngồi vào ghế mà đứng ở cạnh ngoài, mở trang vở đã để sẵn đó và giảng bài ngay. Cô biết, nếu không vào việc ngay thì tiết học này sẽ chệch. Sự việc xảy ra ở gia đình nhỏ Thương lúc này như thế đã tạm gọi là thu xếp được gọn, nhưng là bạn thân thiết, bạn chiến đấu nữa, đối với Hương – mẹ của nhỏ Thương – cô giáo Trang biết là mình không thể bằng lòng mọi chuyện chỉ giải quyết kiểu ấy. Vẫn biết cả Hương và chồng Hương đã thỏa thuận ly hôn, ký giấy trước pháp luật, và lúc này Hương đã dọn về ở với mẹ già; vẫn biết chính nhỏ Thương chọn mẹ chứ không đứng về phía bố, nhất là tuổi của Thương mới học cấp ba năm đầu – độ tuổi mà người mẹ có quyền chăm sóc đôi, ba năm nữa; vẫn biết sự thật đang diễn biến như vậy là hợp tình, hợp lý… nhưng cô giáo Trang không hết bàng hoàng.
Nhớ lại, những năm mấy chị em hoạt động nội thành chống Mỹ và bọn tay sai, Trang và Hương đang tuổi thanh niên sôi nổi, lại được giác ngộ lòng yêu nước chân chính, lao vào các đợt đấu tranh, không ngại hy sinh gian khổ… Nhớ lại ngày Hương tâm tình, cho Trang xem ảnh người yêu từ miền Bắc vào nhận công tác thường trú ở Sài Gòn, chàng trai đã trải qua chặng đường dài kháng chiến, lại đang là cán bộ được tín nhiệm và có tư cách… Nhớ lại, ông bà già Hương rất tán thành cuộc hôn nhân của đứa con gái đã trưởng thành và người cán bộ tuy quê hương xa xôi nhưng đàng hoàng và mực thước, ông bà già còn lo luôn cho các con một căn nhà dẫu nhỏ nhưng bằng chính tiền dành dụm trong những năm làm nhà giáo và buôn bán nhỏ giọt để các con yên tâm sinh sống… Nhớ lại, ngày Hương sinh con, Trang cùng các bạn đồng nghiệp tình nguyện dạy những giờ của Hương, để học sinh vẫn được học đầy đủ và nhất là để đồng lương của Hương mỗi khi nhận không có ai nói ra nói vào, dù chế độ thì đâu vào đó rõ ràng.
Và từ lúc lọt lòng má Hương đến ngày nay, nhỏ Thương đã được cô giáo Trang chăm sóc không khác gì con ruột của cô. Mười mấy năm trời ăn học, đều đặn lên lớp, tưởng không thể có tai họa nào mon men tới được cái mái nhà êm lặng đó.
Nhưng tai họa vẫn cứ ập tới, không ai có thể ngăn cản được. Nói là “ập”, thật ra nó len lỏi như lỗ mối xói mòn chân đê, chỉ khi đê vỡ, mọi người mới “à” một tiếng, và thế là tai họa.
Và cái tổ mối ở đây lại từ một người phụ nữ “không mời mà đến”. Khi Hương thấy được tai họa thì mọi việc đã tới hồi kết thúc. Chồng Hương có nhiều lý do để biện minh cho sự quen biết người phụ nữ đã trở thành quá gần gũi này. Tình cảm vợ chồng tới lúc phải viện nhiều lý do dẫn chứng, phải lớn tiếng, thì pháp luật lúc ấy chỉ còn là một trang giấy ghi các điều khoản cùng một dấu mộc khô khan…
3. Ngoại
Mới qua một ngày mà Thương có cảm giác là từ bao giờ hoặc không phải vậy.
- Con cứ nằm yên, để ngoại xem nào.
Giọng nói của bà cụ nói với quả thị ở chuyện Tấm Cám chắc cũng chỉ ấm áp, dịu dàng đến thế: “Thị ơi thị rụng vào bị bà – Bà để bà ngửi chứ bà không ăn”. Thương nắm cánh tay ngoại, mở thật to mắt, khẽ khàng:
- Ngoại ơi!
- Cháu có mệt lắm không?
- Con không sao đâu. Con có ngoại mà.
Hình ảnh ngoại lại chợt nhòe đi. Ối chao! Mình lại khóc rồi.
Ngoại đặt tay lên trán Thương. Ngoại không kêu “cháu” nữa mà lại gọi “Con, con…”. Ngoại hỏi:
- Ngoại xấp khăn nước nóng cho con nha?
Ngoại hỏi Thương, nhưng tiếng trả lời lại là tiếng má:
- Ngoại khỏi lo. Cháu nó nghỉ ít ngày là tỉnh táo ngay.
Thương hỏi vội:
- Má xin phép lớp cho con rồi hả má?
- Má gặp cô Trang đấy.
- Thế thì chúng nó biết hết…
Thương lẩm bẩm đoán vậy. Cô Trang có khác gì má Hương đâu. Cô sẽ nói hết nỗi đau này của Thương cho cả lớp biết. Chẳng cần vậy, nhưng lúc cô nói thì Thương có ở lớp đâu mà ngăn cô được. Cô ơi! Lúc này con đang gạt bóng hình, tiếng nói của ba con ra khỏi tâm hồn con, nhưng con cũng mong đừng ai nhắc tới ổng. Chưa biết đến lúc nào con mới quên hẳn con người ấy. Tốt nhất là đừng có ai gợi lại một cái gì đó về ổng.
Thương nhớ mãi lúc bác Sáu Bi hạ thấp cái bệ xe để Thương nhảy tót xuống đập cửa, rồi ngoại ra, ôm chầm lấy nhau. Ngoại nghẹn ngào:
- Để đó má! Để đó ngoại! Hai má con nghỉ chút rồi tắm giặt. Ngoại nấu ăn nhanh thôi. Nhịn từ sáng còn gì.
Ngoại nói vậy nhưng vẫn ôm rịt Thương. Ngoại lo tuột rơi mất con, phải vậy không? Đừng lo ngoại ạ. Từ nay con mãi mãi ở bên ngoại, trong căn nhà này, với má – người mẹ đang có nỗi đau lớn mà con cần chia sẻ.
Lúc ấy, má Hương cũng đang đầm đìa nước mắt. Thương mong má cứ khóc nữa đi. Từ lúc ở gian phòng phán xử, Thương chỉ thấy nét mặt im lặng của má và nghe những câu trả lời ngắn gọn, dứt khoát của má.
Gặp ngoại, má mới khóc. Cũng như ôm ngoại, con mới thật sự khóc, má ơi!
Còn ngoại thì đến bàn thờ, trên cùng có ảnh ông ngoại, phía dưới là ảnh nhỏ của cậu Út chụp ngày lên đường giúp Campuchia diệt quân Pon Pot, rồi cậu hy sinh trong một trận giao chiến… Ngoại thắp nhang, vái vái, nhưng không khóc. Có phải ở tuổi ngoại, nước mắt lại chảy vào trong?
Chỉ biết sau bữa cơm thật là ngon miệng, ngoại bàn với má và Thương kê dọn lại gian nhà nhỏ bé thật hợp lý. Cái cửa sổ nhìn ra phía ngoài hẻm, ngoại đặt cái bàn học cho Thương.
- Ôi, chỗ đẹp nhất nhà, ngoại ơi! Con thích lắm.
Má Hương cũng nói:
- Bây giờ, tất cả là của con. Bây giờ con là tất cả.
Má nói xong, lại bật khóc. Chỉ lúc ấy Thương mới thấy ngoại đưa vạt áo bà ba lên thấm thấm hai quầng mắt chi chít vết nhăn.
4. Những người thân
Thục Mimosa lượn rất gọn, nhưng Trang vẫn đòi ngừng xe, xuống từ chỗ này. Thục làu bàu:
- Kỳ thấy mồ! Ở chi con hẻm hiểm hóc như vậy cà? Còn bao xa nữa bà?
- Tới rồi đó. Vậy mà mới đọc xong câu “Yêu nhau mấy núi cũng trèo!”…
- Ở Đà Lạt mới có núi chớ bộ.
- Lòng người cũng “cách núi ngăn sông” đó Thục à!
- Dạ chào anh Nhẫn!
Thấy Trang đang nói với mình bỗng lại chuyển giọng chào một người đàn ông vừa bước tới, Thục nhìn và cũng vội cúi chào.
- Ô! Nhà thơ…
- Các chị có việc tới con hẻm này ạ? Tôi đang có công chuyện phải đi ngay, xin phép hai chị.
Người có tên là Nhẫn mà Thục gọi là “nhà thơ” đã rảo bước len vào đám đông.
- Chị Trang! Em nhớ rồi. Anh ấy nói chuyện văn thơ cách mạng ở trường mình, nói khá hay, chị nhớ chứ?
- Ừa, hay!
- Chị là trưởng bộ môn Văn, chị gợi ý ban giám hiệu tổ chức một buổi nữa, mời nhà thơ Trần Nhẫn nói đi. Lâu rồi, chẳng có ngoại khóa gì cả.
- Thục đi gặp nha.
- Nếu em là trưởng bộ môn Văn như chị.
- Chị nhường đấy…
- Nhường nhà thơ hay nhường bộ môn, em đều “bái bai”. Chị còn lạ gì, Mimosa đụng đến đâu là hỏng đó. Môn Hóa, Lý của em chẳng ăn nhằm gì với thơ, văn cả.
- Vậy mà bỗng nhiên muốn tổ chức một buổi ngoại khóa thơ…
- Ghét của nào trời trao của ấy, phải vậy hôn?
- Đến nơi rồi nè. Cửa đó, gõ đi.
Mimosa vừa gõ cửa vừa đánh tiếng:
- Chị Hương có nhà hôn?
Cửa mở ngay. Chính là Hương. Cứ như đã lâu không gặp, Trang ôm choàng lấy Hương. Còn ngoại Phước lúng túng giúp Thục dẫn xe vào nhà. Nhỏ Thương đã nhổm dậy, chào các cô giáo như reo lên:
- Em… thưa hai cô…
Ngoại chỉnh:
- Cháu chứ! Sao lại xưng em với cô.
Trang cười:
- Ở lớp, các cháu xưng hô “em" với các thầy cô quen rồi ạ, thưa má! Đây là cô giáo Thục mà chúng con vẫn nói chuyện.
Thục chắp tay, cúi đầu chào ngoại Phước, nhưng nói ngay với Trang:
- Chị kể xấu gì em với ngoại đó?
- Thưa má, có phải con chỉ yêu cầu xem có chàng trai nào đang kén vợ thì…
- Ừa, ừa! Thì ra đây là cô có cái tên tây “xa… xa gần… gần…”.
- Dạ, Mimosa ạ!
Nhỏ Thương đã bưng mấy ly nước đun sôi để nguội đặt lên bàn. Hương bảo con:
- Thương hỏi ngoại mua đá ở đâu, đi lẹ lên, má pha nước chanh mời mấy cô.
Thương đã “dạ” và chạy biến. Chẳng phải hỏi ngoại, hôm mới đến, Thương đã nhìn thấy chỗ bán.
Cả nhà tíu tít, chủ nhật vui vì khách là những người mà cả nhà mong đợi, còn khách thì mừng thật sự vì thấy không khí gia đình rõ ràng là đầm ấm. Trang kéo Thương đứng sát mình, âu yếm:
- Con khỏi hẳn rồi chứ? Các bạn Thủy, Khánh, Chước sẽ đến thăm con, sẽ chép bài đầy đủ cho con…
Ngoại đứng gần, nói ngay:
- Rồi rồi! Tối qua các cháu đến rồi.
Hương tiếp:
- Phải giục mới về đấy.
- Thế thì tốt. Đừng tưởng chỉ hồi ấy chúng ta mới thương quý nhau đâu. Tình bạn cùng lớp trường bao giờ cũng là điều gắn bó thiêng liêng. Những lúc gặp điều không may, càng là lúc thử thách.
Thục hỏi Hương:
- Vậy chúng nó có biết chuyện gì đã xảy ra không chị?
- Hiển nhiên không thể giấu được. Mà có gì phải giấu. Nếu đó lại là bài học tốt cho các cháu thì càng hay, phải không?
Không ai nói gì thêm, nhưng nhỏ Thương hiểu rằng ai cũng đang nghĩ ngợi về chuyện ly hôn của ba má mình. Những người trong gia đình, là ngoại, là má Hương, là mình đây, đều thật tội nghiệp. Bọn Thủy, Khánh, Chước tối qua lại bảo rằng “nhỏ Thương đáng thương hơn hết!”. “Tại sao à? Có người gây ra sự việc này đâu?”. “Người lớn mới có lỗi”. “Không! Má Hương là người lớn nhưng là nạn nhân!”. “Là mụ kia! Là ba của Thương!”. “Không! Từ nay Thương không còn ba! Các bạn khỏi nhắc tới người ấy!”. “Cũng đừng nhắc đến người đàn bà kia. Hãy nhấn chìm các hình ảnh đó xuống. Lúc này chỉ có chúng mình thôi!”…
Khi tiễn các bạn ra về, Thương vừa đóng cửa, ngồi xuống giường thì má Hương ngồi sát cạnh, nói nhỏ:
- Tại má ! Tại má cả! Má đã nghe các con nói chuyện. Ở tuổi các con, đã học cấp 3 rồi, những suy nghĩ của các con chắc cũng không còn quá nông nổi đâu. Lần khác, má sẽ nói chuyện với các con nhiều nhiều.
5. Nhà giáo cấp một
Vẫn biết trước đó, con cháu thường về thăm nom, nhưng từ hôm hai mẹ con Hương trở về ở hẳn với mình, ngoại Phước vừa xót xa cho thân phận con cháu, vừa rộn ràng xúc động. Ngoại không ngờ con gái lại lâm vào tình cảnh vợ chồng lìa nhau như vậy khi đang ở tuổi sanh nở, nhưng ngoại thấy thà cắt đứt cho dứt nợ. Dù sao, sống đến đoạn chót của kiếp người, ngoại hiểu mọi lắt léo, khúc mắc không giống nhau, diễn biến phức tạp, chẳng lường trước mà né tránh được đâu.
Ông giáo Phước hồi còn sống thường nói “Đời là bể khổ” mỗi khi có chuyện gì không hay xảy ra với người này, người khác. Ông lại tin rằng, mình “ở hiền, gặp lành”, sẽ không có chuyện gì độc địa đến với gia đình ông.
Tốt nghiệp Sư phạm, ông giáo Phước có thể dạy những lớp cấp trên như một số đồng nghiệp khác, nhưng ông lại nhận những lớp cấp dưới. Những người hiểu khả năng nghề nghiệp của ông, rất lạ: dạy lớp nhỏ vừa vất vả, vừa lương ít.
Ông nói: "Tôi muốn vậy".
Có người tỏ vẻ sành sỏi:
- Lão ta khôn. Dạy lớp nhỏ, ít trách nhiệm.
Cũng có kẻ chẳng biết gì, lại dèm pha ác miệng:
- Hứ! Không nuốt được miếng lớn thì mèo nhỏ, bắt chuột con đó chớ!
Ai nói sao cũng được. Hàng ngày, ông giáo Phước đứng lớp thật đúng giờ. Hầu như bác gác trường mở cổng lớn lúc nào cũng đã thấy “thầy giáo Phước” đứng đợi đó. Tan lớp, ông là người cuối cùng đóng cửa lớp, trao lại chìa cho bác gác trường, có ngày đưa thêm một thứ đồ dùng gì đó của học sinh lơ đãng bỏ quên.
Ôm chồng vở, ông giáo Phước chậm bước trên hè đường quen thuộc, chào hỏi những người quen, các cha mẹ học sinh. Đi cũng như về. Ngày thứ hai giống như ngày thứ bảy. Ông là giờ giấc của bà con lao động không có đồng hồ.
Nhưng bà con cùng hẻm nhắc tới ông giáo Phước không phải chỉ ở những gì dễ thấy bề ngoài. Gia đình nào có con học “thầy giáo Hương” – bà con gọi ông bằng tên cô gái lớn – đều ca ngợi ông là nhà mô phạm hết lòng vì học trò của mình đến thế là cùng.
- Thằng bé nhà tôi bệnh, nghỉ học không kịp xin phép. Ông đã tới nhà ngay. Rồi lại lật đật về kiếm thuốc đem tới cho cháu nữa chứ.
Ở một gia đình suýt tan vỡ, hai vợ chồng ca ngợi:
- Ông giảng giải khiến vợ chồng tôi lại hàn gắn với nhau. Ngỡ bỏ nhau rồi. Bỏ nhau thì cháu sẽ ra sao? Thiệt hú vía!
Gặp học trò ngoan ở ngoài đường, thế nào cũng có tiếng khen khá quen tai:
- Học trò mà lễ phép vậy, đích thực học thầy giáo Hương, chớ chẳng sai!
Năm năm… Mười năm… Hai mươi năm… Ông giáo Phước vẫn dạy những lớp bé ti, bé tị.
Học trò những năm đầu tiên của ông có người cũng đã đi dạy học, nhớ thầy giáo xưa, chỉ cần đến mái trường cũ là gặp.
Nhà giáo mới lễ phép hỏi:
- Con đã theo nghề dạy và đang dạy cấp hai. Con đã bắt đầu được hưởng những phút vinh quang và cũng được nhận không ít cay đắng mà nghề giáo đem lại. Tuy nhiên, con chưa hiểu sao thầy cứ đứng bền ở cấp một. Thầy có thể vui lòng chỉ dẫn cho con biết…
Ông giáo Phước điềm đạm nhìn người bạn đồng nghiệp trẻ tuổi mà mười mấy, hai mươi năm trước đã học ông, nhấc ly nước trắng, đáy ly không một gợn cặn.
- Cảm ơn anh đã hỏi. Vì anh cũng đã đeo đuổi nghiệp này, tôi xin trả lời: nét chữ đầu tiên trên tờ giấy trắng tinh phải là nét chữ nắn nót thẳng hàng. Tôi nguyện làm những dòng kẻ thẳng để bầy trẻ nhỏ không đi chệch lối. Lời thề thốt trong lòng mình chỉ có mình biết nhưng không vì thế mà trơn tuột dễ dàng. Theo tôi hiểu, nghề dạy học khó khăn vất vả nhất là dạy những lớp vỡ lòng. Tất nhiên, ở mỗi lớp lớn dần lên, có những khó khăn phức tạp khác, nhưng với tôi, ta phải thận trọng từ bước đi đầu tiên.
- Nhưng thưa thầy, con thiết nghĩ, muốn thực hiện được ý nghĩ tốt đẹp, điều cốt yếu cũng không phải cứ mãi thiếu thốn…
- Cảm ơn anh đã lo lắng giùm tôi. Thế nào là đủ? Thế nào là thiếu? Thế nào là vui? Thế nào là buồn? Tôi tin là mỗi chúng ta có cách trả lời riêng. Tôi nhiều tuổi rồi, nên trả lời anh ngay thì hơn, vì thời gian không còn mấy nữa. Nhưng có những câu trả lời nên để người hỏi tự trả lời, có khi sắp nhắm mắt mà chưa thấy câu giải đáp.
6. Tô bún riêu kỳ lạ
Nếu cứ ăn no rồi ngồi ngắm đường phố thì ở Sài Gòn, đôi mắt chẳng bao giờ buồn.
Thằng Bĩ, cái Bí khoái ra phố hơn ở nhà. Nhà vừa vặn trải đủ một chiếc chiếu đôi, nếu cả ba bố con cùng nằm thì không có người thứ tư chen vô được. Nằm đó mà nhìn lên mái, những đêm trăng, thì hai anh em Bĩ, Bí thấy một mảng đen lỗ chỗ sao.
Nhà của ba bố con là nơi chơi trốn tìm trong mùa mưa. Một trận mưa bất ngờ đổ ào xuống là mạnh ai nấy chạy, đến chỗ nấp quen thuộc. Chạy thiệt lẹ. Tất nhiên chỉ có hai anh em nó thôi, chứ bố Sáu Bi suốt ngày đi kiếm miếng ăn, nếu lúc đang đạp xích lô có khách thì cứ vậy mà đạp, có khi không kịp khoác mảnh vải nhựa còn để dưới thùng xe, hoặc lại đã đưa khách mượn phủ thêm che ống quần và giày.
Bác Sáu Bi những lúc gặp mưa ở đâu đó, nghĩ đến hai đứa con ướt sũng, nhưng cũng nghĩ nhiều đến cái nền nhà đọng nước, không biết có kịp khô để tối trải được chiếu nằm.
Mùa mưa, hai anh em Bĩ, Bí chỉ về nhà những lúc đói bụng. Về nhà, chưa có gì ăn thì lại đi. Nhìn thấy bố đã ở nhà thì mừng, thế là có ăn. Nhưng cũng có lúc bố chẳng kiếm được gì, không khéo hai đứa được “ăn"… bạt tai, té chạy còn lẹ hơn chạy núp mưa.
Chạy đâu? Thì chạy ra phố chứ còn gì. Hai anh em lại xua cái đói bằng trò chơi đoán, đố, trò chơi của chính hai đứa nghĩ ra, từ lúc nào rồi quen.
- Đố cái xe đỏ quẹo phía nào?
Rẽ trái: Bĩ được. Rẽ phải: Bí được.
Cứ thế đố hoài. Mỗi lần được là gạch một nét xuống mặt hè. Không chơi nữa thì ngồi đếm xem đứa nào được nhiều nét gạch nhất. Nhiều, ít, biết vậy thôi, chứ chẳng được gì. Hôm nào không có gì ăn thì chơi quên đói. Bữa nào vừa ăn xong thì chơi cho hết ngày. Không có gì mà phải vội vàng.
*
Nói vậy mà không phải vậy. Hai anh em có hai cái tô nhựa và hai cái muỗng nhựa. Một lần thấy được thì lần sau lại làm. Đó là đến các sạp hàng bán quà bánh ngoài chợ. Hàng bún riêu, hàng mì giò heo, những món ăn mà ai ăn cũng thường để dư chút nước, chút cái. Hai anh em yên lặng đợi khách đứng dậy, chìa tô ra trút chỗ thừa. Người bán hàng cũng xua lấy lệ để chúng đi nhanh cho khách mới còn ngồi. Có điều, chẳng riêng gì hai anh em Bĩ, Bí. Còn nhiều đứa khác tranh phần loạn xạ.
Nhưng một hôm – sao lại có một ngày kỳ lạ như vậy trong đời – một hôm, hai anh em sắp đến trút nước bún riêu của khách vừa đứng dậy thì một giọng đàn ông nói vừa đủ nghe:
- Các con ngồi xuống đây.
Ngồi ở quán bún riêu này ư? Có đúng vậy không? Hai anh em nhìn nhau, quên hẳn trò chơi đoán đố của bọn nó. Đúng? Không đúng? Lại tiếng giục:
- Ngồi xuống nghe!
Người đàn ông còn kéo tay nhỏ Bí cho nó ngồi hẳn xuống cái ghế trống bên cạnh và chỉ cho thằng Bĩ ngồi một ghế khác, rồi nói với bà hàng:
- Xin dì hai tô nữa.
Bà hàng bán được hai tô bún thì mừng, nói cười với hai đứa:
- Chú cho ăn! Chú trả tiền mà, khỏi lo!
Mọi lúc, thấy nước bún thừa của khách buông ra, hai anh em đã vội trút vào tô của mình, sợ nhóm bụi đời khác tranh phần, bây giờ ngồi trước hai tô bún nghi ngút khói, nguyên vẹn, thơm lừng, hai đứa đều rụt rè.
- Ăn đi các con. Bún riêu phải ăn nóng mới ngon.
Ăn chứ. Ngon. Ngon thiệt. Bún riêu ngon. Người cho ăn, càng… ngon. Tại sao chú ấy lại cho bọn mình ăn? Đoán xem sao. Làm sao đoán được? Chú giàu, bộn tiền? Bao nhiêu người giàu, có cho bọn mình tô bún riêu nóng hổi, đầy tú hụ như thế này bao giờ? Chú ấy ngồi nhìn bọn mình ăn, tay giữ mấy tờ báo và mấy cuốn tập đặt trên đùi.
Đợi hai anh em ăn xong, chú trả tiền bà hàng và nói:
- Các con còn có thể ăn nữa, chú biết. Nhưng thôi. Còn thòm thèm mới ngon. Chú cho mỗi đứa hai ngàn nữa này. Dành cho bữa mai. Thôi, về đi…
Bác Sáu Bi nghe hai con kể lại, cứ lầm bầm:
- Sao không hỏi tên ổng? Kỳ thiệt đó. Tụi bây không xạo chớ? Kỳ thiệt!
7. Trong bệnh viện
Chưa bao giờ hai anh em Bĩ, Bí được sống dễ chịu như những ngày nằm ở hàng hiên lầu tư Bệnh viện Chợ Rẫy để đợi bố lành vết thương ở bụng.
… Bác Sáu Bi đuổi theo một tên lưu manh cướp giật dây chuyền của một phụ nữ, bị tên này bất ngờ quay lại đâm một nhát vào bụng. Tên cướp – bị bắt sau đó – không phải là một kẻ thiếu thốn gì. Hắn được gia đình nuông chiều, bỏ học, lêu lổng, quen ăn chơi. Để có tiền, hắn lừa đảo hoặc cướp giật. Không may cho hắn, lần cướp giật này, hắn bị một người tuy thật nghèo nhưng không dung thứ những hành động tội lỗi ấy, kiên quyết đuổi theo hắn. Hành động dũng cảm của bác Sáu Bi đã thức tỉnh khá đông người thường “mũ ni che tai”, “giữa đường thấy sự bất bằng…” cũng cứ làm ngơ để an phận. Có kẻ còn trâng tráo nói:
- Dại gì! Lãnh đủ! Thiệt thân!
Những kẻ hèn nhát vẫn có. Và họ cho như vậy mới là khôn ngoan. Họ nào nghĩ hành động của họ chính là “nối giáo cho giặc”.
Bác Sáu Bi được cấp cứu kịp thời. Bà bác sĩ M. ở khoa săn sóc đặc biệt cùng với các bác sĩ, y tá, hộ lý đa số là nữ đã tận tình cứu chữa cho bác Sáu Bi. Vết đâm của tên cướp làm bác bị cắt một quãng ruột. Bác còn bị ngã dập xương hông. Khi biết bác chỉ là một người đạp xích lô nghèo túng, có hai con nhỏ, bà bác sĩ càng giúp đỡ thiết thực. Vợ Sáu Bi cũng đã chết vì bệnh tật. Bác Sáu Bi được truyền máu khi mổ và chích các loại thuốc quý hiếm. Khi được điều trị ở khoa khác sau đó, bệnh nhân Sáu Bi vẫn được bà bác sĩ này đề nghị các thầy thuốc đồng nghiệp hết sức quan tâm…
“Mình vì mọi người” là như vậy. Bác nghèo nhưng dám bảo vệ người gặp sự không may đến nỗi chính mình bị nạn. Chúng ta làm nghề thầy thuốc, vết thương của ai, chúng ta cũng cứu chữa nhưng vết thương của những người như thế này càng đòi hỏi người thầy thuốc phải chăm sóc tận tình hơn. Đừng cho đây là nghĩa cử “lương y như từ mẫu”. Đây là một đền đáp công bằng trong cuộc sống của những người có nhân cách.
Hai cháu bé được "đặc cách" ở lại bệnh viện, quanh quẩn đó với bố. Mấy cô hộ lý thương các cháu, hằng ngày cho các cháu suất cơm bệnh viện. Buổi tối, hai anh em trải chiếu ngủ ngay ở hành lang. Nằm ở lầu tư thoáng mát, cứ lăn ra là ngủ tít.
Một hôm, cái Bí hỏi anh:
- Vậy bao giờ bố khỏi, mình hết ở đây nữa, phải hôn?
- Ừa! Về nhà chớ!
- Hết ăn cơm ở đây há?
- Ừa! Về nhà chớ!
- Về nhà, đêm ngủ lại chạy mưa hén?
- Ừa!
- Về nhà, đói lại hết cơm ăn?
- Ừa!
Nhỏ Bí mong bố mau lành vết thương nhưng cũng thích ở lại bệnh viện để đêm ngủ khỏi chạy mưa và ngày có cơm ăn đều. Có cả cam và các thứ bánh quy. Cả sữa nữa. Thơm và ngọt dễ sợ. Lúc pha sữa cho bố, bố cứ bảo mượn thêm cái ly nữa cho hai con cùng uống.
- Các con uống đi.
- Bố uống cho mau khỏi chớ.
- Các con uống, bố mới mau khỏi.
Vẫn nhỏ Bí hay hỏi:
- Thằng cướp đâm bố thì cướp được gì của bố? May mà không thủng áo bố ạ!
Bác Sáu Bi nhìn các con. Bác muốn nói là bên cái không may là bị đâm trọng thương, bác có cái may là biết ai xấu, ai tốt. Lần nằm bệnh viện này, bác gặp nhiều người tốt. Bà bác sĩ, cô y tá vẫn thay bông băng, cô y tá chích thuốc, cô hộ lý thay “ga” trải giường… Bà con lối hẻm cũng đến thăm hỏi, cho đủ thứ bánh trái và tiền bạc. Công an Quận còn tuyên dương và tặng cho Sáu Bi giấy khen về hành động dũng cảm.
- Người ta nói là khỏi rồi, bố không đạp xích lô được nữa. Phải vậy hôn?
- Ừa. Có thể bố tìm việc khác cho hợp với sức khỏe.
Thằng Bĩ cảm thấy lúc này nó là anh. Nó bảo em:
- Anh sẽ đạp xích lô thay vì bố đạp. Anh sẽ chở nhỏ đi một vòng Sài Gòn.
- Em sợ. Anh tông vào ô tô thì hai đứa chết bẹp, phải đền xích lô thì lấy tiền đâu mà đền.
Bác Sáu Bi nghe các con bàn chuyện, bụng dạ đau hơn vết dao đâm. Bác muốn nói: “Bố không thể đạp xích lô nữa, nhưng các con cũng không phải đạp xích lô đâu. Các con sẽ được đi học. Chú Nhẫn bảo vậy mà”.
Chú Nhẫn! Chú Nhẫn! Từ hôm bác cố tìm ra ai là người cho hai đứa bé ăn bún riêu ngoài chợ, gặp được rồi, bác chỉ nhắc tên này suốt ngày: “Chú Nhẫn! Chú Nhẫn!”. Chú cũng ở hẻm đó chứ xa xôi gì. Chú ở một mình, không có gia đình ở Sài Gòn này. Chú quê ở miền Bắc, vào đây với cơ quan, đôi ba lần ra thăm Hà Nội. Hãy biết vậy. Chú nói sẽ kể chuyện dông dài sau, có phải nợ nần gì đâu mà phải trốn. Chưa kể “gần nhà mà xa ngõ”, thời giờ lại khác nhau quá. Chú bận lắm.
Chỉ có một việc chú nói ngay. Đó là tên của hai cháu. Chú nói với bác Sáu Bi như thế này:
- Giá mà tên cháu Bĩ là Mạnh, tên cháu Bí là Ngoan, dùng cho lâu dài, được không ạ.
- Quen rồi chú Nhẫn ạ. Tôi là Bi, thằng lớn là Bĩ, con nhỏ là Bí, thôi thì đời mình Bi, Bĩ, Bí ấy mà. Tên hay phải có gạo tiền kèm theo mới được. Nhưng chú thương các cháu, xin nhận tên cho các cháu.
- Cứ gọi, sẽ quen thôi bác ạ. Lớn lên, các cháu sẽ không có điều gì ân hận. Bác bỏ quá cho tôi nha.
8. "Trung tâm HUCO"
Chiếc máy chữ cũ, cần trục dài, nặng nhưng chữ còn sắc rõ, mới sửa sang thêm và lau dầu cẩn thận. Thục thử đi thử lại, lúc ngồi một mình, lúc có Trang đọc cho Thục gõ, cả hai đã thấy dùng được. Thục hát. Chẳng bài nào hát trọn vẹn. Trang mấy khi hát đâu, cũng phụ họa bằng những… lá… là… la…, ngón tay nhấn nhấn vào các con chữ làm các thanh sắt díu vào nhau.
- Tốt rồi! Tốt rồi! Hương chịu khó thì còn dùng được lâu lâu đó.
- Qua ngày đoạn tháng ấy mà. Hết năm học này, gắng dụ Hương đi dạy lại. Giáo viên Văn, trường ta vẫn còn trống chỗ. Chỉ lo nó tự ái.
- Được, sẽ đâu vào đó. Tương lai của nhỏ Thương chứ bộ. Dứt khoát được phần cốt lõi rồi, đau nhưng cần thiết. Vết thương còn sẹo, để mà nhắc nhở, sẽ tránh những cú trượt sau.
- Thục cho là vẫn có thể xảy ra một lần sau nữa à?
- Chị ơi! Ai lại mong vậy! Tuy nhiên, chị Hương đâu đã già. Đến nhà chị Hương lúc này, dẫu sao thấy cần một hình bóng một người đàn ông… Ấy là em bộp chộp nghĩ vậy.
- Không! Em nghĩ đúng đó. Nhưng chưa phải là lúc này. Dù thế nào, chúng ta cứ yên tâm vì Hương rất có nghị lực. Những ngày hoạt động ở nội thành trước “bảy nhăm”, mọi người đã biết Hương thực hiện nhiệm vụ như thế nào rồi. Bây giờ phải tìm cách cho Hương có công ăn việc làm, chứ chúng ta không nên chỉ giúp đỡ bằng tài trợ.
Khi cơn gió “Trang Thục” ập vào gian nhà nhỏ hẹp của ngoại Phước với cả chiếc máy chữ kềnh càng, cả gia đình Hương sững sờ, cứ đứng tụm lại mà nhìn. Hương biết là mình lại khóc thật rồi.
Vẫn là Trang an ủi:
- Hương dùng tạm. Thục đã xem kỹ, gõ thử rồi, lát nữa Hương thấy còn cần chỉnh gì, Thục làm cho.
Thục cũng nói như là mình có nhiều khuyết điểm trong việc này.
- Bây giờ là thời đại vi tính. Rồi ta sẽ có kế hoạch ấy. Tuy nhiên, máy chữ vẫn xài đều. Em sẽ giới thiệu khách hàng quen. Chị sẽ bận đó.
- Ôi! Đây là cả một gia tài, ít ỏi gì nữa. Lại còn tập dượt nữa chứ. Rất biết ơn các bạn…
Trang giục nhỏ Thương đem mấy cái đĩa, xếp bánh kẹo và trái cây đặt ngay cạnh chiếc máy chữ còn để tạm trên bàn học.
Thục liếc nhìn Hương, cười và treo một băng giấy có dòng chữ “TRUNG TÂM HUCO” kẻ lối chữ in nhiều màu, đính hai mẩu băng keo vào cần trục máy.
Hương bật cười. Đúng là Thục trêu mình. Loáng thoáng nghe Thục bàn với Trang, hóa ra hôm nay là thật. “HUCO” là tên ghép, "HU" là hai chữ đầu của "HƯƠNG, còn “CO” là công ty! Vui thật. Thục lại còn tinh nghịch trưng luôn hai tiếng “trung tâm” (vốn là đề tài để Trang, Hương, Thục luôn châm biếm các vị sính hình thức, chỗ nào cũng nhận là “trung tâm”). Phải, lẽ nào “cơ sở máy chữ” của Hương lại không là “trung tâm” được chứ?
Thục nhấn mạnh:
- Huống hồ “TRUNG TÂM HUCO” có cả máy móc thiết bị “ngoại nhập” nữa.
Ngoại Phước được mấy cô giáo nâng ly mời “khai mạc”. Tuy ngoại không mấy khi uống loại nước có ga đóng trong lon, nhưng hôm nay, không khí vui quá. Ly nước có đá mát lạnh mấy ngón tay khiến ngoại luôn phải đổi tay cầm.
Thời gian còn lại để Thục thao tác mẫu cho Hương quen máy. Nhưng Thục không bấm tay vào phím chữ. Thục cầm hai viết bi, gõ nhẹ nhẹ mà nhanh thoăn thoắt.
Hương xuýt xoa:
- Bao giờ Hương được vậy?
Nhỏ Thương nhìn chăm chăm thao tác của cô Thục, bỗng nhiên thấy mình đọc những dòng chữ hiện dần lên giấy trắng: “HẠNH PHÚC KHÔNG Ở ĐÂU XA. MỘT HƠI THỞ ẤM NGAY BÊN CỦA BẠN, CỦA CHÁU, CỦA NGOẠI… VÀ THẾ LÀ MÌNH VÔ CÙNG HẠNH PHÚC…”.
Thục vừa buông tay thì cả hai mẹ con nhỏ Thương ôm chầm lấy Thục.
“Trung tâm HUCO” khai trương trong không khí cứ cười đấy, khóc đấy, nhưng rõ ràng là hạnh phúc…
9. Tìm thơ
Thằng Bĩ, cái Bí được đi học như thế nào, bác Sáu Bi chưa tìm ra cách giải quyết. Chỉ biết bây giờ bác còn nằm nhà, thất nghiệp dài dài. Bà con lối xóm cũng quá nghèo, làm sao giúp đỡ bác đều đều được. Người đến với bác nhiều hơn cả là Nhẫn. Đôi ba ký gạo. Vài ngàn bạc. Chút ít thức ăn khô. Có khi là mớ rau, trái cây. Bất ngờ một lon sữa, một bịch đường. Họa hoằn, mua cho hai đứa nhỏ, mỗi đứa cái áo bán phơi ở vỉa hè.
- Chú hy sinh cho con cháu…
Bác Sáu Bi bần thần, còn Nhẫn cười vui:
- Dùng từ sai rồi bác Sáu! Hy sinh à? Mình chưa định chết.
Thằng Bĩ, cái Bí ít gặp những giây phút đó của hai người lớn. Từ ngày bố về nhà, hai anh em có một “phi vụ” hàng ngày rất thiết thực: trở lại bệnh viện. Qua tháng bố nằm chữa trị vết thương, hai đứa biết rất rõ giờ nào thì cổng bệnh viện mở cho người nhà bệnh nhân vào ra không cần giấy. Còn các cô, các chị hộ lý thì chúng nó quen hầu hết, nhất là mấy chị đẩy xe cơm, cháo phục vụ người bệnh.
- Các con chớ để ai biết các dì cho cơm nghen!
Hai anh em cũng chỉ muốn mang vừa sức. Đường từ bệnh viện về nhà xa quá chừng. Xách mấy bịch ni lông cơm và thức ăn láo nháo, lộn xộn, vừa mừng, vừa ngán. Chẳng còn lo đói. Nhưng cứ phải giấu giếm.
- Mình được cho đàng hoàng chớ bộ. Đâu có chôm chỉa[1].
- Các dì dặn vậy, phải nghe!
- Hổng chỉ chỗ cho những đứa khác dô[2] xin như mình được à?
- Cấm tiệt mà! Các dì giận thì bọn mình cũng đói.
Bác Sáu Bi hỏi hai con:
- Dô đó, bà con cô bác lỡ mất gì thì tụi bây tính sao?
Thằng Bĩ trả lời liền:
- Chỉ xin cơm thôi.
- Có lấy gì của ai không? Nói thiệt đi. Từ mai, thôi đó. Ở nhà cũng có gạo.
Đó là mớ gạo chú Nhẫn mới đem tới. Có thể ăn được vài ngày. Sau đấy, chưa biết. Bác Sáu Bi cũng không thể không nghĩ tới khu bệnh viện. Khỏi lo mất vệ sinh. Khu vực hai con nhận cơm không phải là trại truyền nhiễm. Đó chỉ là nơi điều trị các bệnh nhân gặp tai nạn bất thường. Còn nằm ở đấy, chẳng bệnh nhân nào ăn hết suất cơm của mình. Chưa kể nếu ăn quà bánh thì cơm càng bỏ đó.
Nhưng cũng chẳng lâu, một kíp bảo vệ khác thay phiên, đã ngăn không cho mấy đứa trẻ vào khu bệnh viện nữa. Chúng có lẻn tài đến mấy cũng không thể lẫn trong đám người không ai ăn mặc xấu xí hơn. Những người tới thăm bệnh nhân đều né tránh và đề phòng.
- Vậy là lại đói hả?
- Để coi.
- Mình có ăn tranh phần của… heo đâu!
- Hổng phải vậy.
Thằng Bĩ cũng không biết nói gì với em, càng không chuyện trò gì với bố được. Bố chưa có việc làm. May mà còn gạo chú Nhẫn cho. Cơm bố nấu, ăn nóng ngon thiệt. Bữa thứ hai thì nguội ngắt. Thường thì tưới nước tương, mỗi đứa có phần đó, ăn bữa nào biết bữa ấy.
Thời giờ lang thang ngoài phố lại tha hồ. Hàng tháng qua chưa cầm tô nhựa ra trút nước phở, nước bún. Ừa[3], bữa nào lại ra chợ đi!
Bất ngờ bữa nay lang thang thế nào mà lại tới được Sở thú[4]. Phải mua vé kìa. Ta ra mé kia, có chỗ chui vào, tiền đâu mà mua vé. Có tiền thì mua hủ tíu, mua vé vào Sở thú có… no đâu.
- Những con gì mà coi bộ dữ dằn há, anh Bĩ? Voi hiền đó chứ! Cọp hả? Coi kìa, cọp ăn cả tảng thịt bò. Nhà mình có tảng thịt đó, ăn cả tháng cũng hổng có hết.
Nhưng khi thấy người ta thả một con thỏ còn sống vào cho sư tử ăn thịt, nhỏ Bí không nói một câu nào nữa. Nó cảm thấy mình là con thỏ đang nhảy, đang chạy, đang tìm lối thoát trong chuồng. Cái chết cứ thản nhiên lần từng bước. Sư tử hiền lành làm sao. Nó cứ thản nhiên cho thỏ lẩn tránh. Bỗng, vụt! Nó chồm nhẹ, móng vuốt đã đặt trên lưng thỏ. Con vật nhỏ bé lại càng nhỏ bé, co dúm, mắt vẫn mở tròn. Ôi, đôi mắt như hai hòn bi thủy tinh. Rồi sư tử nhấc chân ra. Thỏ không chạy được nữa. Cả hai đều không đụng đậy. Sư tử tha thỏ rồi? Không. Vờ đấy! Giả bộ thôi. Kìa! Nhanh như chớp giật, đã thấy thỏ nằm ngang trong hàm nanh sư tử.
Và kìa, những giọt máu tươi nhỏ xuống…
- Về thôi…
- Không xem cá sấu à?
- Con thỏ… có… chết không?
Chẳng biết lối nào ra nữa. Hai đứa loanh quanh, vòng vo thế nào lại gặp đúng chàng sư tử. Con vật to lớn đang nằm choãi chân, nhắm mắt. Nó nghĩ gì?
Con thỏ đâu? Con thỏ đâu?
10. Thêm nghề
Nhỏ Thương mê nơi góc học tập của mình. Má lại mới tìm được tấm vải mỏng làm hai miếng che cho hai cửa sổ, đứng phía ngoài chẳng thể nhìn thấy gì ở phía trong nhà, lại quá cả tầm với! Còn từ chỗ bàn học, muốn nhìn ra ngoài, Thương chỉ cần lách một ngón tay vào, cạnh màn che là thấy đủ. Những ai đi qua, lúc đó là mấy giờ, quen hay lạ, người gõ cửa nhà mình là ai, thấy rõ.
Má đã gõ máy chữ khá đều, đã ngồi vào bàn làm việc là không muốn đứng lên. Một phần phải đảm bảo thời hạn của việc được giao, một phần là cứ mỗi trang giấy lắp vào máy, cứ như một chỉ tiêu phải phấn đấu, không để dở dang.
Ngoại Phước qua lại như một cái bóng. Ngoại hết sức yên lặng cho Hương gõ máy, cho Thương học tập. Lúc này, ngoại thấy rất rõ thời giờ ở bên nhau là quý giá thế nào. Tuổi già của ngoại là tuổi bất trắc. Ngoại không lo chết mà chỉ lo con, cháu sẽ mất thời giờ về cái chết của mình. Nếu có chết, hãy để vài năm nữa. Mọi điều sao cho yên đi, cho đâu vào đấy đã. Tất cả, lúc này lại mới là bắt đầu. Hàng ngày, ngoại thắp một nén nhang lên bàn thờ ông giáo Phước và đứa con trai bạc mệnh. Hai cha con vẫn nhìn ngoại, với ánh mắt hiền dịu, gần gũi.
Hai bữa cơm sao mà ngon miệng. Ngoại bảo Hương đừng nghỉ tay nếu chỉ vì muốn đỡ ngoại làm một món ăn nào đó. Hương cũng tùy lúc, khi rời máy là có lý do để ngoại chấp nhận.
- Đoạn này họ viết tháu quá, phải nghỉ để đọc lại mới gõ nhanh hơn được… Mớ tép này phải làm cho tươi má ạ… Con gom các thứ này, để kịp đem rác ra khu vệ sinh công cộng cho kịp giờ họ lượm lên xe…
Còn nhỏ Thương thì chẳng cần viện lý do gì, chỉ lúc nào cũng “con khoái vào bếp với bà, tha hồ nếm các món ăn…” và chỉ khi nào thấy ngoại đã rảnh tay hơn, Thương mới ngồi học.
Má Hương vốn là nhà giáo nên má chỉ cho Thương mọi điều cần thiết, kể cả uốn nắn cho Thương viết chữ thật rõ ràng. Thương không thể hiểu tại sao có điều gì đó làm cho má xin nghỉ dạy. Hồi ấy, giữa ba và má căng lắm. Hai người nói gay gắt, nhưng cứ thấy Thương xuất hiện là má nói nhỏ đi, đưa nhau ra chỗ khác tiếp tục to tiếng. Dù sao, Thương cũng lơ mơ hiểu mọi chuyện là từ một người phụ nữ, người đã đem đến sự chia tay giữa ba và má con Thương. Má Thương không thể đi dạy với tâm trạng rối bời, đành đưa đơn xin nghỉ. Nhưng ban giám hiệu rất quý một nhà giáo tận tụy, tài đức, chấp nhận đơn với một lời đề nghị: “Khi nào có thể được, chị lại trở về trường. Chúng tôi chỉ coi đây là một đợt nghỉ bất thường, có thời hạn”.
Cô Trang, cô Thục và nhiều thầy cô khác hồi ấy luôn đến nhà nài nỉ, tâm tình, động viên, mời má đi dạy lại. Nhưng Thương chưa thấy má lộ một tín hiệu gì để hy vọng.
Chỉ thấy hôm má gõ xong những trang cuối của tập tài liệu khách hàng mướn làm đầu tiên, má nhờ Thương sắp xếp lại thật ngay ngắn, ghim đều số trang cho từng tập đã chia chương, rồi má nói:
- Vậy là má đã lại có một nghề. Từ sau khi nghỉ dạy, má lo không biết chừng nào.
Má ngưng một lát, kéo sát Thương vào người má và nói tiếp:
- Con còn đi học và phải học tới nơi tới chốn. Má thấy ở tuổi các con, cần nhất là học. Học cho thiệt giỏi. Má rất đồng tình khi nghe các con trao đổi nhiều ý kiến về cuộc sống hiện tại…
- Con xin lỗi má, chúng con đã nói chuyện ồn ào làm phiền công việc của má.
- Các con cứ tự nhiên đi. Con đừng cho là má tò mò, nghe chuyện riêng của các con. Thật ra má cần hiểu các con, hiểu tuổi các con khác với hồi má cũng trong tuổi ấy ra sao. Nếu má có đi dạy học lại, má cũng sẽ dành thời gian lắng nghe các con nhiều hơn.
- Má lại đi dạy học má.
Thương nói như reo lên. Má Hương ra hiệu Thương đừng làm gì khiến ngoại phải thắc mắc. Giọng má nhỏ hẳn:
- Ấy là ví dụ vậy. Còn bây giờ, con chạy mua đá, má pha nước chanh cả nhà uống. Má khao cả nhà chầu nước chanh này vì đã hoàn thành việc gõ máy chữ, công việc người ta đặt mình làm mà mình nhất định làm được, dù đang tập sự.
11. Nhẫn
Thương mở cửa. Thủy, Khánh, Chước ùa vào, nhưng thấy trong nhà có nhiều người, đang ríu rít nói cười, vội ngưng bặt:
- Chào các cháu. Học nhóm hả?
Má của Thương tươi cười lên tiếng trước. Ngoại cũng nói luôn:
- À, bác Nhẫn đó.
Ngoại làm như các bạn của Thương đã biết chú Nhẫn. Đúng ra Thủy, Khánh, Chước đã nghe Thương kể về chú mấy lần rồi, nhưng bữa nay mới gặp lần đầu. Cả nhóm lí nhí chào người đàn ông vừa giơ tay chào các cháu.
- Các cháu cứ tự nhiên đi. Đúng lúc chú phải đi đây. Chú đến lâu rồi.
Ngoại giữ chú lại:
- Nước vừa ngấm đó, bác Nhẫn uống một tách đã.
Má Hương cũng đã nâng tách chén lên đưa tới trước mặt Nhẫn. Anh đành phải nhận tách trà đang bốc khói, hít hà khen và nhấp môi liên tiếp.
Nhẫn vừa mang thêm các trang nhờ Hương gõ máy. Nguồn "hàng" của Hương là từ Thục, Trang và chủ yếu bây giờ là Nhẫn. Giao thiệp với các nhà xuất bản loại vừa, lại có thêm các bạn văn chương, ai có bản thảo mới, chữ viết luôn bị các nhà in kêu khó đọc, phải nhờ đến gõ máy chữ hay gõ vi tính, Nhẫn nhận chuyển đến nhờ Hương. Người viết và người gõ nhờ cậy qua lại, gõ máy chữ phù hợp chi tiêu với người viết chưa nhiều nhặn gì. Còn người gõ thì đang luyện tay, lấy công làm… kế sinh nhai, vừa gõ vừa đoán chữ, đành vậy chứ sao.
Nhẫn uống một tách trà ngoại Phước pha cho cụ vui lòng, rồi chào mọi người lần nữa, ra cửa và rảo bước.
Chước xoa xoa tay lên má, lên mắt. Lập tức, Khánh cười:
- ”Điệp viên” phát biểu nè!
- Khẽ nào!
Rồi Chước khẽ nói đủ “nhóm” nghe:
- Trông ổng không có vẻ gì là nhà văn, nhà thơ cả!
Thương cau mày:
- Không lẽ mình bịa đặt à? Đọc báo, ít ra có một lần chúng ta thấy thơ của chú ấy đăng, ký bút danh Trần Nhẫn đó!
Chước nghiêm trang:
- Thì mình đâu có phủ nhận điều đó. Mình muốn nói là có hồi, mình cứ hình dung nhà văn, nhà thơ là có mái tóc thế này, có đôi mắt thế nọ, nhưng bây giờ gặp đúng nhà thơ thì lại thấy họ cũng… giống mọi người thôi. Tuy nhiên, mình thấy ổng[5] dễ mến. Ổng hiền và vui đó.
Khánh và Thủy công nhận.
- Lần sau bọn mình có gặp, cứ nói chuyện là biết ngay.
Thương nói:
- Cứ đến đây, sẽ có lần gặp thôi mà.
- Thiệt hả? Mình sẽ đề nghị ổng kể chuyện văn thơ, ít ra cũng hiểu rõ hơn về nền văn học nước nhà chứ.
Thủy là trưởng nhóm nên ý kiến đi ngay vào việc học tập. Khánh cho là không nên quấy rầy mọi người kiểu đó. Bỗng nhiên, sao lại bắt một người mất nhiều thời giờ về một “chuyên đề” như vậy. Chước lại xoa mí mắt.
- Có thể ổng nói đấy. Có chuyên gia trong tay, phải tận dụng. Việc này cứ nhờ Thương. Thương ơi! Bữa nào gặp lại ổng, Thương cứ đánh bạo…
- Sao lại đánh bạo? Chú ấy có phải… cọp dữ đâu. Được rồi, sau sẽ hay. Cái chính là bài vở kiểm tra bữa nay. Nửa tiếng trôi qua vèo vèo rồi đó.
Thương đếm số ghế nhựa đặt quanh bàn học, ngoại mới mua. Những loại ghế này rẻ thôi, khi không có ai, cứ xếp lên nhau đặt gọn vào gầm giường. Nhưng từ dạo mua, ngoại mừng. Đủ cho các bạn của cả hai mẹ con Thương. Cũng may, họ không đến cùng một lúc. Khi là Trang, Thục. Họa hoằn, Nhẫn đến đúng lúc có Trang, Thục nhưng Nhẫn chẳng mấy khi ngồi. Có khi là các cháu, bạn học của Thương. Các cháu thì bao nhiêu cũng chẳng đủ. Có cháu ngồi một ghế, gác chân lên ghế khác.
Không nhớ rõ tại sao bộ bàn ghế mua từ hồi ông ngoại còn sống bây giờ lại còn hai ghế tựa lưng, một chiếc cho cháu Thương ngồi học, một chiếc cho má cháu ngồi gõ máy…
12. Chuyện nghề
Hôm nào học nhóm xong, Thương và các bạn cũng quây quanh bàn máy, phụ giúp rất nhiều việc vặt cho má Hương. Có tài liệu gõ thành nhiều bản cho mỗi trang, những trang giống nhau ấy gỡ ra cho đúng số thứ tự, nhiều khi để gió bay, nháo nhào chộp, vuốt cho ngay ngắn, lại không lem chữ, vừa hồi hộp, vừa tức cười. Các bạn trao cho Chước, với con mắt “điệp viên”, rà soát các số trang, còn gì yên tâm hơn. Các “táp” giấy trắng, đợi lồng vào trục máy rồi mới lùa các tờ giấy than, càng phải sạch sẽ. Gian phòng nhộn nhịp hẳn. Ngoại Phước nguôi ngoai dần mọi nỗi xót xa về thân phận con và cháu, có lúc nói nhỏ với Hương:
- Cả nhà trông vào con.
Hương hiểu lòng mẹ già. Tuy nhiên, cần nói cho đúng một sự thật hiển nhiên:
- Má ơi! Đó là sự giúp đỡ hết lòng của các bạn con, như chị Trang, chị Thục, như anh Nhẫn…
Ngoại công nhận ngay:
- Đúng, đó là những ân nhân của nhà ta. Ai cũng tốt cả. Chị Trang, chị Thục là các bạn con gặp ở trường, quen biết nhau lâu rồi là một nhẽ, chứ bác Nhẫn tình cờ gặp chị Trang, lại trở thành người đem việc nhiều đến cho mình nhất.
- Không tình cờ đâu má ạ. Anh Nhẫn đã đến trường con nói chuyện với các giáo viên và học sinh về văn thơ, gặp lại mới vỡ lẽ là anh cùng ở hẻm nhà ta. May mắn là điều đó.
- Xem ý cháu Thương cũng quý bác ấy, nghe bác ấy nói gì cũng thật chăm chú. Những lúc ấy, ngoại lại nghĩ mà giận thằng bố đẻ của cháu. Ngờ đâu lại ra nông nổi…
Hương lảng sang chuyện khác, nếu không, những gì gắng cho qua đi, lại hiện ra rất nhanh, khó mà gõ tiếp được. Công việc không có giao kèo, ước hẹn gì bằng giấy tờ, chẳng có ràng buộc pháp lý nào cả, nhưng là sự ký kết bằng tình bạn chân thành, hết lòng vì nhau. Bạn gái với nhau, giữa Trang, Thục và Hương là một nhẽ. Hương thấy mình càng phải đối xử thật chu đáo với anh Nhẫn, dù sự quen biết như một cuộc gặp gỡ tình cờ, qua ngã tư, muốn sang đường, bỗng nhiên gần người đi bên, thấy vững tin hơn là rụt rè bước một mình…
Mỗi lần chú Nhẫn đến nhà, nhỏ Thương vui hẳn lên. Chú đem đến công việc cho má Hương, thiết thực quá chứ. Đã mấy lần chú đếm tiền, nói rất rõ:
- Chị Hương à! Họ thanh toán tiền đợt trước của chị đây. Tôi cứ cầm đúng như họ đưa, còn nguyên dấu tay của họ, chị xem lại đi.
- Cảm ơn anh nhiều. Tiền anh nhận giùm thì chỉ có dư thôi. Lần sau, anh cứ chỉ chỗ nhận, cháu Thương sẽ tới, anh mất nhiều thời gian quá rồi.
- Vâng, cháu Thương dư sức làm việc này, nhưng không cần cháu phải mất thời giờ. Tôi tiện thể đó thôi. Đằng nào tôi cũng phải đến đó. Tôi còn “hàng” của tôi phải bán chứ bộ. Hà hà… Cháu Thương đang nhìn tôi kìa! Có phải cháu muốn hỏi chú có “hàng” gì mà cũng bán phải không? Đúng! Đó là những trang viết của chú đó. Văn, thơ cũng là hàng hóa, phải không nào?
Chú cười thêm rồi nói nhanh:
- Hơn nữa, chị đừng bắt tôi phải thất nghiệp.
Có thể Thương thích cách nói vui vui như vậy của chú. Một buổi nào chú rảnh rang một chút (biết thế nào là chú rảnh rang nhỉ?), Thương sẽ đề nghị chú nói chuyện nghề văn, hẳn là Thương sẽ hiểu thêm nhiều điều về văn học. Thương muốn các bạn sẽ cùng nghe chú nói, đằng nào cũng một lần nói, kẻo phí công chú. Hơn nữa, mỗi đứa hỏi một ý, câu chuyện sẽ phong phú hơn. Nhóm của Thương hầu như sàn sàn với nhau môn Văn. Trình độ đồng đều, dễ tiếp thu và cùng trao đổi được.
Thương đem ý ấy ra bàn với má Hương. Vừa gõ máy, má vừa trả lời:
- Nếu con thấy nên thì cứ hỏi chú ấy. Con đã ở cấp ba, kiến thức cần trau dồi thêm, có nghĩ như vậy là đúng. Nhưng đó chỉ là tham khảo, chứ hỏi để xem có làm nghề viết văn không lại là chuyện khác. Lúc này là học. Con xem nên hỏi chú ấy vấn đề gì? Quá nửa tiếng là hơi nhiều rồi đó, ai cũng có công kia việc nọ chứ.
Thương “dạ, dạ” rồi im luôn. Hỏi từng đứa đã, nhất là cái Thủy. Nó chín chắn nhất, không riêng của nhóm mà là của cả lớp. Má Hương dặn dò là đúng rồi. Nào con có muốn trở thành nhà văn đâu. Quả thật, ở trường con, có mấy anh chị có vài bài thơ, một hai truyện ngắn đăng báo đã ngỡ là “nhà” cả rồi. Nhà văn, nhà thơ mà là vậy thì con… không dám đâu!
13. Băn khoăn
Nếu không có Hương ở con hẻm này, chắc chẳng mấy khi Thục “phiêu lưu” vào đây. Tất cả chỉ vì có Trang quá nhiệt tình với Hương, giúp đỡ Hương đến nơi đến chốn để vượt bằng được cái tai họa cả đời mới xảy ra một lần, cũng đủ để điêu đứng rồi. Trang kể cho Thục nghe những ngày Hương và Trang hoạt động cách mạng ở Sài Gòn những năm bảy mươi, khi cả hai trạc tuổi cháu Thương bây giờ. Chính nơi ở của thầy giáo Phước là một cơ sở cho những trường hợp cấp bách, có Hương và Trang làm nhiệm vụ liên lạc.
Lúc này, Hương gặp điều bất hạnh trong cuộc sống gia đình riêng tư, Trang nhận rõ trách nhiệm của người bạn thân thiết, sống chết có nhau là như thế nào.
- Trượt ngã rồi sẽ đứng lên.
Hình ảnh ấy hàm ý bản thân người ngã sẽ gắng đứng dậy, nhưng phải hiểu cần có những bàn tay nâng đỡ tiếp thêm sức kéo người ngã. Mà sự tiếp sức này rất có ý nghĩa ở những động tác đầu tiên.
Trang nói nhiều lắm, nhiều lúc nhắc đi nhắc lại khiến Thục phải kêu:
- Em hiểu rồi chị Trang ơi!
Chỉ có một điều Thục muốn biết rõ hơn thì Thục không có câu hỏi nào thật dễ nói để Trang cũng dễ trả lời. Thành ra mỗi lần đi vào hẻm này, Thục lại tự hỏi: “Hay là mình cứ đến thẳng nhà anh Nhẫn mà nói chuyện chứ sao?”. Và Thục lướt qua cửa đóng kín của nhà Hương. Nhưng Thục lại trở ra, không vào nhà Nhẫn, càng không gõ cửa nhà Hương.
Thục cho xe lao nhanh về chính nhà mình. Bàn làm việc của Thục mới thêm một cuốn sổ ghi nhật ký. Không hiểu tại sao trang mở đầu Thục lại viết như thế này:
“Ngày… tháng…
Giờ này Nhẫn có nhà không? Anh ấy có nhà, chắc cũng không rảnh. Đọc hoặc viết. Hoặc lại tới đó, một nhà xuất bản, một nhà in. Anh gọi đó là nghề tự do. Không họp. Không lãnh lương. Mình là thủ trưởng. Mình lại là nhân viên. Thỉnh thoảng, cả thủ trưởng và nhân viên chỉ còn đủ tiền mua một ổ bánh mì không nhân, ngồi ngắm ly nước đun sôi để nguội.
Một tứ thơ bắt đầu từ đó ư? Mình cũng chưa đọc nhiều các sáng tác của ảnh. Thôi được, từ nay mình sẽ lưu ý, vào tiệm sách sẽ có chọn lựa hơn. Giá mà từ trước mình năng đọc cuốn này cuốn khác thì dịp này nói chuyện với Nhẫn đỡ lúng túng. Mà lại đọc đúng cuốn có ảnh sáng tác thì tuyệt…”.
Có tiếng chuông ngoài cổng. Thục mở ngăn kéo, cất cuốn nhật ký, ra cửa. Ô, lạ thiệt, nhỏ Thương. Cổng mở.
- Vào đi con.
- Cảm ơn cô. Con phải về ngay.
- Một phút thôi. Thương có đến nhà cô, cô mới mời Thương một ly nước mát đặc biệt này. Con khóa xe lại. Cho thành thói quen, chứ cổng nhà cô không kẻ trộm nào muốn rờ tới. Sao giờ này Thương lại nghỉ học?
- Dạ, thưa cô, giờ Sử kiểm tra nhanh, con xong về liền. Tới nhà thì má con bảo mang tài liệu đến cô…
- Ừa! Quá đúng hẹn. Vào đi.
Thương rụt rè tụt dép bên ngoài, bước lên tấm thảm chùi chân rồi cứ đứng trân trân không bước thêm hoặc lùi ra nữa.
Cô Thục cười:
- Trời! Chắc Thương đang nhớ tới chuyện “Cô bé quàng khăn đỏ”. Con yên tâm, nhà cô chỉ có con Pluto xích ở dưới kia. Nào, ngồi đây, cô mời Thương một ly nước mơ Hà Nội. Đặc biệt ngon! Thương biết trái mơ chùa Hương không? Cô vẽ cho Thương hình dung dễ hơn. Nè…
Thục vẽ hình trái mơ lên tập giấy nháp trên bàn. Thương cười nhìn cô Thục:
- Đây là lần thứ hai trong mấy ngày qua con được coi vẽ trái mơ. Thiệt giống nhau…
- Ai vẽ?
- Thưa cô, chú Nhẫn ạ. Thưa cô, hôm nọ chú Nhẫn có biếu ngoại con chai mơ ngâm, nói là mơ chùa Hương, dùng rất tốt. Trong chai, các trái mơ đã nhăn nhúm lại, chú vẽ một trái ra giấy, cho con biết đúng hình thù trái mơ xanh. Giống hệt trái mơ cô vừa vẽ.
Thục vẫn pha một ly nước mơ đưa cho Thương dù hiểu rằng tuần qua Nhẫn đã tới nhà Hương và cho quà như đã trao quà cho Thục, nhưng không phải tại nhà Thục. Nhẫn gửi ở văn phòng trường cho Trang một hũ mơ ngâm và nhờ Trang chuyển một hũ khác cho Thục, kèm một mảnh giấy viết nhanh: “Nước trái mơ chùa Hương biếu hai chị Trang, chị Thục dùng pha nước giải khát. Tùy khẩu vị, có thể thêm đường. Nhẫn”.
Nhỏ Thương uống nhanh rồi xin phép về ngay. Tới cổng, Thục còn hỏi thêm:
- Chú Nhẫn có hay tới nhà con chứ?
- Dạ, mỗi lần có tài liệu ạ.
- Hẳn má Hương vui lắm.
- Dạ, vui…
Thục toan hỏi thêm, nhưng Thương đã nói tiếp:
- Có công việc mà cô Trang và cô, cùng chú Nhẫn mang tới, ngoại con và má con luôn nhắc “Lá lành đùm lá rách”. Vui nhưng lại khóc, cô ạ.
14. Quầy báo mới
Quầy hàng của bác Sáu Bi không thuộc loại choán mặt bằng, cản trở giao thông vỉa hè được. Một cái ghế xếp, mở ra bốn chân bàn. Mặt bàn là một bìa lịch tường bằng các-tông dày, Nhẫn hỏi xin lại ở nhà bạn, loại to nhất. Hàng bán, bày trên mặt “quầy” là mấy loại báo hàng ngày và định kỳ. Lúc chọn bán mấy tờ báo và tạp chí này, Nhẫn bàn thêm với bác Sáu Bi, đọc lên mấy bài ngăn ngắn ở các tờ báo hôm đó nói qua nội dung vài chuyên mục khác. Bác Sáu Bi chỉ “dạ, dạ” và nói:
- Chú Nhẫn đã lựa kỹ là đúng rồi ạ!
Sáng sớm, cả ba cha con Sáu Bi ra chỗ “bán báo” của “nhà mình”, Bĩ, Bí thường nói thế. Bàn, ghế, báo đều cắp nách. Tất nhiên, lúc về, do bán được hàng, nên nhẹ nhõm hơn. Buổi sáng, các người có báo bỏ mối mang mỗi thứ vài tờ cho ba cha con, không thu tiền. Nhưng khi thu, tính toán, bác Sáu Bi thu về cũng chẳng là bao. Huê hồng đã bị chia năm xẻ bảy rồi, may ra còn được cái bèo, cái bọt. Nhưng bèo bọt để ra hạt cơm, hạt cháo, chớ ngửa tay đi xin à!
Hai anh em Bĩ, Bí theo bố ra “sạp báo”. Thằng Bĩ cầm tờ báo đưa cho khách. Khách ngồi trên xe trả tiền, cầm báo là phóng xe ngay. Cái Bí làm chân “thủ quỹ” giữ tiền lẻ đựng trong lon sữa có hình ông lão râu dài, trán sói, cười đến là tươi.
Chốc chốc Bí lại đếm tiền và đố Bĩ:
- Bây giờ “đố” có bao nhiêu?
- Nhiêu! Nhiêu! Nhớ là nãy có chú “cúp đỏ” hổng lấy tiền dư đó nha!
- Vậy là nhiêu?
Ông bố phải nhắc:
- Nè! Mất là nhịn dài nghe, tụi bây! Có mấy cắc bạc, nhằm nhò gì, để đứa nào chôm là nuốt… không khí đó con.
Cô bác lối hẻm, ai thường đọc báo, đã quen mua của bác Sáu. Tội nghiệp bác ta. Từ sau vụ “giữa đường thấy sự bất bằng…”, ở bệnh viện về, sống bằng mấy tờ nhựt trình[6], bán dầm dề suốt đến xế chiều, may lắm mới có ngày hết gọn. Báo hàng ngày còn lại thì hôm sau hết hàng, bán vớt.
Vốn liếng ban đầu là nhờ Nhẫn giúp, kể cả giới thiệu người bỏ mối.
- Chú giúp con bao lần…
- Bác khỏi nói vậy. Gắng nha! Mèo nhỏ bắt chuột con. Đói no gì cũng do chính mình kiếm lấy miếng ăn.
- Dạ, con hiểu. Hổng gì nhục nhã bằng đi xin ăn.
- Này, lúc vắng khách, chỉ cho hai cháu tập đánh vần trên mặt báo, được chữ nào hay chữ ấy.
Thế là hai anh em Bĩ, Bí đi học. Cha là thầy giáo. Đánh vần các chữ qua trang báo. Trò chơi “đoán, đố” lại được đem vào bài học.
- Đố anh chữ gì?
- Đố Bí chữ nào báo nào cũng có?
Học hết chữ bự nhất, học tới chữ các dòng tên bài. Nhỏ Bí khoái các số báo có ảnh màu, có chữ xanh, chữ đỏ. Khoái hơn là báo chỉ in chữ đen lại nhỏ lít nhít.
- Ngày nào báo cũng chỉ có những chữ như vậy mà sao người ta cứ mua hoài à? Mua một lần không đủ sao?
Con hỏi, bác Sáu gắt:
- Mua một lần hả? Thì cha con bây đói tóp bao tử!
Nhưng có lần chú Nhẫn mở mấy số báo cùng tên, khác ngày, trải rộng trước mặt Bĩ, Bí đọc qua một đoạn ở tờ bên này rồi đọc một đoạn ở tờ bên kia, đọc thêm tờ khác nữa, rồi hỏi:
- Các cháu có thấy giống nhau không?
- Dạ, hổng có giống.
- Đó, vẫn chỗ này trên các trang báo, vẫn những chữ giống nhau, nhưng số hôm qua không giống số hôm nay vì mỗi ngày tin tức khác đi, mới hơn, thay đổi…
- Kỳ quá hén!
- Các cháu học thuộc các nét chữ, chắp thành câu, các cháu tự đọc những bài ấy sẽ thấy những cái khác nhau ấy, sẽ thấy các bài không giống nhau đâu.
- Con chỉ khoái coi hình. Coi hoài chữ cứ chói cả con ngươi chú à.
- Đúng. Chú sẽ mua tờ báo có nhiều hình, nhiều ảnh màu cho. Nhưng các con phải thuộc chữ để chắp được thành tiếng, thành dòng thì coi hình mới thật hiểu. Được không? Chịu không?
- Dạ, chịu.
Mỗi đứa lại được chú Nhẫn cho một viết bi và một cuốn tập có hình vẽ một con mèo con, mặc quần hẳn hoi nhé, đeo cặp đựng sách, bút, hẳn là đi học. Con mèo mỉm cười, mắt tròn xoe. Dưới chân mèo, bao nhiêu là bông hoa đỏ mọc trên thảm cỏ xanh.
Chú Nhẫn bảo hai anh em Bĩ, Bí khoái viết gì, vẽ gì, cứ viết, cứ vẽ vào cuốn tập. Nhưng đừng có xé giấy.
- Cháu nào viết được nhiều chữ, vẽ được nhiều hình, chú sẽ thưởng. Còn bây giờ, xin phép bố đi, chú cháu mình có thể tới hàng bún riêu.
- A! A!…
- Đừng có hét to như thế. Chú chỉ đủ tiền chi có ba tô cho ba chú cháu thôi. Nào, lên đường!
15. Đến nhà
- Chào anh Nhẫn! Hên quá! Anh có nhà!
- Chào chị Thục! Cơn gió nào…
- Bộ em quá già nên anh phải kêu “chị” sao? Em về liền hà!
- Đúng là phong cách Mimosa!
- Ừa! Anh kêu vậy đi. Mimosa tới phá anh đó.
- Xe đâu? Khóa chưa?
- Em gửi xe nhà chị Hương, rồi lội bộ tới.
- Thế ư? Chúng ta cùng đến nhà chị Hương đi.
- Anh Nhẫn hổng thèm tiếp Thục ở nhà anh sao?
- Đâu có! Đâu dám thế! Ngồi đây! Ngồi đây! Uống gì nào?
- Em dùng trà với anh.
- Không đùa chứ! Nhà này chỉ có “tủ nóng” thôi. Không có đá để uống trà đá đâu nhé. Hôm nay không lên lớp à?
- Sao anh không vào Sở? Anh đang viết cuốn mới?
- À! Cảm ơn ông nhà đèn hôm nay cúp điện, máy vi tính nghỉ, mình được nghỉ theo. Vì thế là lao ngay vào những trang viết còn dở dang đó, được dòng nào cũng vui. Mình viết chậm, cứ phải tranh thủ. Thời gian không thèm đợi những ai đi lang thang.
- Có khách, anh lại phải ngưng viết. Em về nhà.
- Khách thì nên về, còn Mimosa đâu phải là khách.
- Là gì?
- Là… Thục.
- Là… là… em! Anh, sao anh hổng nói tiếp?
- Có những phút im lặng cũng là nói rất nhiều. Hoặc ngược lại.
- Em mong vừa rồi anh đã nói rất nhiều. Tuy nhiên em vẫn khoái nghe tiếng anh vang lên hơn là sự im lặng. Anh đừng cho em là nhõng nhẽo nha.
- Đâu có.
- Anh đang viết truyện gì đó? Có tình yêu trong đó không?
- Sao Thục hỏi vậy?
- Em nghe nhiều người nói sách in ra có chữ “tình yêu” thì dễ bán, người ta mua liền hà.
- Đúng thế! Chỉ có điều là viết như thế nào, viết ra sao. Viết về tình yêu, hai tiếng gồm bảy chữ đều “viết hoa” với tất cả ý nghĩa thiêng liêng, thiết tha, đằm thắm… là vô cùng khó. Đáng tiếc, ít lâu nay, không thiếu người đã lợi dụng hai tiếng đó để kiếm ăn và vẫn có quá nhiều người bị lừa gạt… Còn cuốn truyện đang viết này chỉ nói chung về một ước mong được thực hiện không chỉ của hai người khác giới với nhau, đó là TÌNH NGƯỜI.
- Dày thế kia! Sắp xong rồi hả anh?
- Bề dày cũng là tham vọng của một tác giả, nhưng trước hết sách có hay, có tốt không?
- Muốn được như vậy, phải sao, anh nói cho em biết được hôn? Có những bữa lên lớp, tuy em là giáo viên Lý – Hóa, học trò vẫn nài nỉ nói thêm về Văn. Lúc bấy giờ, em là anh thì em mừng biết mấy.
- Nên nói là “buồn biết mấy” vì người viết văn và người thầy giáo là hai người khác nhau. Một học sinh giỏi Văn chưa chắc sau này sẽ trở thành một nhà văn, nếu như em đó không thích, không ham, không bị cuốn hút, không bị thôi thúc.
- Em đang thích, đang ham, đang bị cuốn hút đây, em có trở thành nhà văn được hôn?
- Câu hỏi ấy chỉ có Thục trả lời được thôi.
- Anh giữ bí mật nghề nghiệp rồi. Xin hỏi một câu khác.
- Ôi! Thì ra đây có cuộc phỏng vấn à? Tôi đang được hân hạnh tiếp kiến vị đặc phái viên báo nào vậy?
- Tùy anh hiểu đây là cuộc nói chuyện giữa hai người bạn hoặc đấy là cuộc phỏng vấn. Anh cho em biết tại sao anh lại chọn nghề viết văn, làm thơ? Từ bao giờ?
- Không thật rõ viết văn có là một nghề không? Vì người viết hầu như chẳng trực tiếp truyền nghề lại cho ai, và cũng không trực tiếp học từ ai để viết nên những trang đó. Càng không là một người sản xuất trong một xí nghiệp, cứ nghe chuông, nghe kẻng là răm rắp cầm bút, lướt trên trang giấy cho đến lúc chuông kẻng báo nghỉ. Sản phẩm lại không được phép giống nhau, trang viết mười năm trước và mười năm sau lặp lại thì được coi như tự chôn mình. Phải luôn luôn khác, luôn luôn mới, khác nhưng không lập dị, quái đản, mới mà hòa được với những người cùng thời, nhưng vẫn phải vượt lên trong khi cùng bước…
- Anh cứ nói. Em pha trà mới nha.
- Người ta nói viết văn là một nghề tự do vì có thể thấy bề ngoài của người viết với mọi kiểu cách như chẳng bị ràng buộc gì cả. Đúng thế, không ông chủ nào điều khiển được người viết văn, và người viết văn không chấp nhận những kiểu ông chủ nào đòi áp đặt các dây nhợ vào trái tim, khối óc mình. Nhưng người viết văn không bay khỏi mặt đất. Anh ta đi với bà con, cô bác, người quen, kẻ lạ từng giờ, từng phút, cùng đau buồn cùng sướng vui, chia sẻ và gánh chịu. Chỉ khác một điều là anh ta giãi bày lên trang giấy những suy nghĩ, trăn trở, tìm cho ra cách giải quyết, để cuộc đời chung bớt được thống khổ, tăng thêm niềm vui. Tất nhiên khi viết, anh ta đơn độc, chẳng bàn cùng ai, nên cũng khá chủ quan, rất dễ vấp váp, thành công thường ít hơn thất bại.
- Vậy tại sao anh chọn nó?
- Có thể vì một rung động đầu đời từ lúc còn là học sinh, có thể vì một tác phẩm đem tới cho mình một sự đồng điệu, đồng tình, có thể là một ảo tưởng, một mê hoặc, có thể là duyên, có thể là nợ… nhưng cái phút ban đầu cầm bút đã bị những dòng chữ của chính mình cuốn hút, dần dần nhận ra đó cũng là một nhiệm vụ của bản thân đối với đời sống mà mình vừa làm chỉ huy, vừa là lính chiến đấu, trong thế trận mình bày ra, thua được gì mình lãnh đủ.
- Anh uống nước đi… Em pha trà không thua anh phải hôn? Anh chịu hôn? Anh chịu con nhỏ này hôn?.
16. Hình bóng xưa
Khi Thục về rồi, Nhẫn ngồi vào bàn viết, cứ đậy nắp, tháo nắp cây viết bi, mãi không tiếp tục được những dòng dang dở.
Không chỉ vì những gì còn quanh quẩn đâu đây, từ tiếng nói, giọng cười, đến hương thơm mỹ phẩm, mà lại là những điều đã bộc lộ, những ẩn ý Thục vừa trao đổi. Đã lâu rồi, Nhẫn không còn gặp những trường hợp tương tự, vì môi trường sống riêng tư đã khác, vì Nhẫn chủ động né tránh, chẳng phải do quá bận bịu cho sáng tác.
Bữa nay, quả là tình cờ, một hình bóng xa xưa hiện ra sao mà rõ nét, dù không gian, thời gian rất khác, dù con người càng không phải là một. Nhẫn gặp lại kỷ niệm đằm thắm từ một miền nông thôn trong những ngày đánh giặc Mỹ, những ngày quân và dân Việt
… Bấy giờ, tại một vùng quê, trong giây phút yên ắng không có báo động máy bay giặc; lúa dào dạt xanh mơn mởn, mây thì trong xanh như căng lụa mỏng phơi cả bầu trời. Từ Hà Nội đạp xe vào tới đây, Nhẫn luôn ngồi lại. Bụi tre riêng lẻ ở ven đường hình như mọc tại đó chỉ dành cho một người tới nghỉ dưới bóng râm của mình.
Nơi ấy ngôi trường cuối cấp một, mái rơm đã đậm màu xám, vách tường thụt sâu song song với đường hào giao thông ở từng quãng chữ “I” dù hầm ngoằn ngoèo chữ “Z”. Nhẫn nhắm mắt cũng hình dung những lúc có báo động, cô giáo Thư nhỏ nhắn đã khẩn trương đưa học sinh ùa chạy tới khu hầm đặc biệt như thế nào.
Cô giáo Thư ấy, không hiểu sao lại gặp chàng thanh niên đeo ba-lô, từ phía Hà Nội tới, và không hiểu sao ánh mắt đều hướng vào nhau. Ôi, tưởng đâu xa lạ, tuy khác lớp nhưng cùng trường, dân Sư phạm, đúng thế không? Có những lúc nụ cười thật ý nghĩa như thế.
- Hình như…?
- Phải rồi…!
Dù trước đó, không là bạn thân thiết, sao trong bom đạn lại thấy như lâu quá rồi chẳng gặp.
Và từ đó, Nhẫn mỗi lần đi qua “ngôi trường hầm” nếu đúng giờ học thì tìm bóng tre ngồi đón tiếng của Thư đang giảng bài, chen lẫn tiếng học trò trả lời các câu hỏi của cô giáo.
Có lần Thư nhìn thấy Nhẫn ngồi ở đó:
- Em phải tập trung hướng vào học sinh để khỏi nhìn ra cửa. Anh còn ngồi đấy nữa, em sẽ làm hàng rào dâm bụt che kín.
- Anh sẽ hóa ngay thành con ong, đậu trên hoa nhìn vào, càng gần hơn.
- Chỉ giỏi “sáng tác” thôi!
- Nếu không hóa được thành ong, anh vẫn cứ ngồi đó, nghe tiếng em giảng bài và tưởng tượng ra em.
- Em sẽ nói vừa đủ nghe cho học trò rõ là được.
- Anh sẽ nhờ gió hứng gọn lời em đựng đầy túi áo ngực trái này mang về. Đêm anh sẽ mở túi ra, nghe lại…
- Thế thì anh sẽ trở thành học trò cấp một.
- Còn gì bằng. Anh được đội mũ rơm, xách túi vải, vào hẳn trong lớp, ngồi ngay bàn đầu, càng được gần cô giáo Thư.
- Ồ thế thì phải đợi đến năm học mới, làm đơn này, thi sát hạch này…
- Thưa cô giáo, vâng! Nhưng học trò này không học lớp khác đâu. Cô giáo Thư dạy lớp nào, học trò này cứ học lớp ấy thôi. Suốt đời!
Những đêm trăng nông thôn. Dịu êm. Dòng nước nông giang như một dải lụa óng ánh. Gió lùa thì thầm. Nhẫn cố tìm nhưng chẳng mấy địa điểm gặp nhau được ưng ý. Thư lại cần thận trọng, làm sao không để học trò hoặc cha mẹ các em bắt gặp. Dù sao, mình cũng là cô giáo. Yêu nhau thật chính đáng mà đành giấu giếm. Cứ phải mong một chiều thứ bảy, lấy cớ về Hà Nội ngóng nhìn nhà cửa, giải quyết một vài việc gì đó rất cần để đạp xe bên nhau, một chặng đường vài chục cây số. Những năm tháng chống bom đạn giặc Mỹ này, đi lại ban đêm là tất nhiên.
- Em chờ những đêm đạp xe bên anh. Thật là hạnh phúc. Nhưng chiến tranh đáng nguyền rủa làm sao. Anh thấy không lại những hố bom mới.
Hà Nội có những tuần trăng không ai mong muốn. Còi báo động bất cứ lúc nào. Đèn đường tắt ngấm, nhưng trăng thì sáng đến vô tình, soi rõ từng dáng người trong hố trú ẩn.
Địa điểm sở tán của các cơ quan nhà nước cứ phải di chuyển luôn. Đến lượt cơ quan Nhẫn thay chỗ trú ngụ.
- Thu xếp xong anh báo tin em biết ngay.
- Anh chuyển có xa không?
- Xa mấy, chiều thứ bảy này chúng ta cũng sẽ đạp về Hà Nội nhé.
- Em chờ anh ở rặng bàng nhé.
- Khoảng 7 giờ…
Khoảng 7 giờ sáng mấy ngày sau, hai “con ma Mỹ” ào tới, trút một loạt bom xuống khu làng có trường Thư dạy học. Hai lớp cuối cấp một ấy, cũng là "mục tiêu nguy hiểm” phải hủy diệt cho bằng được của không lực Hoa Kỳ!
Khi Nhẫn lật đật tìm đến thì khu vực trường và một dãy xóm làng còn ngổn ngang bùn đất, cây cối xác xơ, khét lẹt.
- Cô giáo bị vùi trong hào giao thông, xác úp trên mấy thây cháu nhỏ. Chôn rồi! Chôn tập thể, cả cô cả trò. Đó, nấm mộ to là mộ cô giáo. Những mộ nhỏ là các cháu. Dãy bên là bà con trong làng. Ui chao! Chết nhiều lắm. Mình có sang Mỹ gây sự với chúng nó đâu mà chúng sang tận cái làng nhỏ bé này giết hại các người vô tội! Dã man!
Tất cả mọi hình ảnh cũ, mới cứ đan chéo nhau, lúc mờ, lúc đậm. Không thể viết tiếp ngay lúc này. Nhẫn biết là nên đi đâu đó một lúc, hoặc đến chỗ bán báo của cha con Sáu Bi, hoặc vào nhà chị Hương gõ vài trang chữ của một cuốn sách nào đó Chứ không lang thang ngoài phố.
17. Chú hay bác
Hương ngừng gõ, quay ra:
- Anh Nhẫn!
- Chào chị! Chị cứ làm việc. Tôi tới định soạn một ít trang giúp chị, nếu có. Còn nếu chưa cần thiết, chị nên nghỉ tay một chút, tôi gõ cho tới lúc cháu Thương về là vừa.
Nhẫn cười nói tiếp:
- Cháu về ngay bây giờ ấy mà. Chị đừng lo tôi tranh việc.
Hương rời chỗ ngồi, rót nước sôi vào ấm để tráng cho nóng trước khi cho trà mới.
- Dạ, tùy anh. Nếu anh chưa bận việc gì ở nơi khác, mời anh uống tách trà Bắc. Má em mua được trà búp, cứ mong anh hoài.
- Chao ôi! Cảm ơn cụ nhiều lắm. Tôi tuy mê uống trà, nhưng suốt ngày cứ nước đun sôi để nguội là được. Chị để ấm đấy, tôi pha…
Đúng lúc ngoại Phước ở bếp đi lên, vồn vã:
- Chào cậu Tư. Có trà mới đó má Hương.
- Con cảm ơn cụ. Chị Hương vừa nói con biết rồi. Cụ mua chi trà búp cho tốn tiền.
- Cậu Tư uống là mấy. Bây giờ cả nhà ghiền trà rồi đó cậu Tư. Nhỏ Thương, đọc bài báo ở đâu khoe với má nó uống trà tốt lắm, bữa nào cậu Tư ở đây về nó cũng châm thêm nước sôi vào ấm trà còn lại, vừa học vừa uống trà đến khuya.
Nhẫn không nhịn được cười:
- Ồ! Vậy là con có đệ tử rồi.
Hương rót nước mới, mời Ngoại và Nhẫn. Ngoại nói:
- Cậu Tư dùng nước nha, tôi còn dở tay ở bếp. Nhỏ Thương cũng về đến nơi rồi. Tiện bữa, mời cậu Tư ở lại ăn cơm với bà cháu tôi.
- Con cảm ơn cụ. Trước khi sang đây, con đã ăn xong bữa trưa. Lý do thì cụ và chị đã biết đấy, con sống một mình, tiện thế nào là làm thế đó.
Ngoại xuống nhà, Hương nhẹ nhàng góp ý:
- Anh cũng cần giữ sức khỏe.
- Có chứ chị. Nếu không làm sao sống tới bây giờ.
- Thôi ta làm việc, kẻo tốn thời gian của anh.
Hương mở tập bản thảo, bày ra trước Nhẫn:
- Người ta viết tháu quá, thật là khó đọc. Cứ phải đoán. Tốc độ gõ chậm đi làm thời gian giao lại cũng ảnh hưởng.
- Chị đã rất trách nhiệm. Họ cảm ơn nhiều đấy. Cũng phải cảm tạ chị Thục đã có một máy chữ còn tốt lắm. Ta cứ “túc tắc” cò con thế này, "đánh du kích" thế này đã. Một ngày nào đó, đủ lực lượng, ta "tổng phản công", sắm một dàn vi tính, chỉ lo không có nhân công thôi.
Thấy Hương bần thần suy nghĩ, Nhẫn chuyển sang chuyện khác:
- Cháu Thương học tốt đấy chị ạ. Một vài lần sang đây, gặp lúc cháu học, tôi có chú ý tới cách cháu tiếp thu bài học. Chị là nhà giáo, tôi không dám múa rìu qua mắt thợ đâu, nhưng thực lòng, tôi tin cháu có phương pháp học tập tốt.
- Cảm ơn anh, với cháu, đó là điều tôi lo lắng nhất. Bố mẹ nào mà chẳng yêu thương con, nghĩ đến tương lai của con. Nhưng không may, gia đình tôi lại xảy ra chuyện này, tôi biết là ảnh hưởng tới tinh thần của cháu rất nhiều. Cháu lại là con gái, dễ xúc động. Nhưng may cho chúng tôi khi có những người bạn tốt, mà anh là người đàn ông duy nhất lúc này cho chúng tôi điểm tựa…
- Chị quá lời… Tôi chỉ học tập chị Trang, chị Thục và luôn luôn tự thấy mình không thực hiện được những điều trợ giúp nhỏ bé cho gia đình đang gặp bão tố của chị.
Có tiếng xe đạp chạm vào cánh cửa và tiếng nhỏ Thương gọi:
- Má! Má!
- Má đây! Có bác Nhẫn đó con.
- Con chào chú!
Ngoại Phước cũng vừa ra, nói ngay:
- Ngoại dặn rồi. Bác Nhẫn hơn tuổi má Hương. Con kêu là bác, nhớ chưa?
- Dạ nhớ.
Nhẫn ra cửa dắt xe cho nhỏ Thương đưa vào nhà. Lập tức tiếng “con chào chú” cất lên, rồi câu chữa lại: “A, con chào… bác” làm ngoại Phước bật cười. Nhẫn nói:
- Chú Nhẫn! Chú Nhẫn! Cho chú trẻ thêm một chút đi. Chỉ cần kêu “bác Nhẫn” là vai chú oằn thêm hàng chục tuổi đó.
Ngoại Phước đã xuống nhà và má Hương cũng đang mải thu gọn chỗ để máy chữ và giấy tờ, nhỏ Thương cầm tay chú Nhẫn nói khẽ:
- Con kêu thế nào thì trong lòng con vẫn chỉ có hình ảnh “chú Nhẫn” con gặp hồi đầu thôi.
18. Nhật ký
Ngày… tháng… năm…
Nếu đã ghi theo kiểu này thì đúng là viết nhật ký, anh Nhẫn. Nhưng đâu em muốn viết nhật ký. Em nói chuyện cùng anh. Em sẽ kể anh nghe trước. Bao giờ anh trả lời cũng được. Em chờ anh. Em không nôn nóng gì đâu. Anh ít thời gian rảnh rỗi, em biết chứ. Nhưng nếu mỗi ngày em được nghe tiếng anh nói, em vui hơn là cứ gặp cái im ắng vắng vẻ này.
Ngày… tháng… năm…
Sáng qua, em đứng ngó anh từ hè phố bên kia. Mấy cha con bác Sáu Bi bán mở hàng cho anh tờ "Sài Gòn Giải Phóng". Anh lấy lại tiền thối[7] như mọi người mua báo khác từ tay nhỏ Bí rồi lướt lướt mấy trang báo, gấp nhỏ lại, vẫy tay với hai đứa bé, sau đó lội bộ, lẫn vào dòng người.
Em cũng sang mua báo. Em không lấy lại tiền thối vì em không bắt chước anh. Anh làm như mọi khách hàng để cha con Sáu Bi lấy may, có người “mở hàng” mỗi sớm. Một cử chỉ nhỏ, vui vui phải vậy không? Mấy cha con bác Sáu Bi vội bán cho mấy người khách… nên không nhận ra em. Chỉ nghe nhỏ Bí khoe với thằng anh: “Cô không nhận tiền thối. Vậy là hên quá trời! Chú Tư mở hàng hay thiệt”. Em vui vì hiểu thêm anh. Những việc làm rất nhỏ của anh đều chứa đựng một tấm lòng.
Ngày… tháng… năm…
Học trò lớp em chủ nhiệm có một nhóm đặc biệt yêu văn học. Hôm qua các em hỏi em về nhà văn Thuần Khiết, nhà văn viết cho tuổi trẻ, anh có lần nói với em đó. Qua giới thiệu của anh khá rõ, nên em kể lại cho các em được một số nét về chú nhà văn ấy. Các em nghe và nói sao, anh biết không? Các em nói: nhà văn Thuần Khiết có mối cảm thông sâu sắc với tầng lớp trẻ em nghèo. Nhưng ông không chia rẽ giàu nghèo, không làm cho trẻ nghèo tự ti, ghen ghét với trẻ có số phận may mắn hơn. Không làm cho trẻ giàu hợm hĩnh, tự coi là có quyền sung sướng. Các em vẫn chơi với nhau, hai phía thông cảm và giúp đỡ lẫn nhau, tìm cách hòa nhập, vì phía nào cũng có mặt mạnh. Các em nói: những ai đó đặt vấn đề đấu tranh giai cấp ở khía cạnh cực đoan, hẹp hòi: giàu là bị lật đổ, nghèo được ca ngợi hết mức. Các trẻ em nhìn nhau mà hằn học. Nhà văn Thuần Khiết trao bàn tay vào bàn tay. Kẻ thù chung là sự độc ác, sự ngu dốt, là sự tự tư tự lợi, mà trong bất cứ ai cũng có thể có ít nhiều. Đừng “yêu ai nên tốt, ghét ai nên xấu”. Các em nói: thế kỷ 21 không phải là thế kỷ của sự hằn thù. Đó là thế kỷ của sáng tạo, của phát minh, của tình nhân ái. Đất nước nào đem sự chém giết tới đất nước khác, sẽ bị chính những người thân của chúng phản kháng, chống đối đến cùng…
Nói về văn học, qua tác phẩm về một nhà văn viết cho tuổi trẻ như vậy, các em học sinh của em đang làm chính trị, phải không anh? Nhưng chính là các em có ý thức, mà điều em vui là các em mến mộ một nhà văn của chúng ta.
Ngày… tháng… năm…
Em thường đợi có học sinh nào nhắc đến nhà thơ Trần Nhẫn của em không? Và em hiểu rằng tên tuổi trong văn học nghệ thuật là cái gì đó thật kỳ lạ. Có những nhân vật được nhắc đến hầu như là do quen miệng, dù những gì đó được in ra của tác giả đó là không đáng kể, hoặc cũng tầm thường về giá trị, nhưng lại trúng về thị hiếu độc giả của một giai đoạn, một địa phương. Nhưng như có lần anh nói chuyện, không phải cuốn nào in ra cũng gọi là tác phẩm, không phải hễ có sách in ra đã là nhà văn, nhà thơ. Chúng ta quá dễ dãi trong việc phong danh vị cho nhau và cũng dễ dãi trong sự tiếp nhận. Khỏi nói đến “thiên tài” thường quá hiếm – tuy là có, mà nghề nào cũng phải lao động cật lực mới có thành phẩm. Đùa chơi trong văn học nghệ thuật vì quáng mắt, huyễn hoặc là thiêu thân lao vào lửa.
Ngày… tháng… năm…
Bài thơ mới đăng báo của anh, chất trí tuệ hơi nhiều. Em thích những ý anh bàn về cái chết, cái chết có ý nghĩa, cái chết làm người còn sống phải nghĩ suy. Nhưng tác giả có phần nào chua chát, hơi trái với “chất người” quen thuộc của mình. Phải vậy không anh. Tuy nhiên em vui, vì thấy có bài của anh, khi có ý, khi viết, khi được in.
Không biết anh có thêm một lần vui khi biết có độc giả như em đã đọc thơ anh? Nói vậy, chứ em là gì? Em vẫn chỉ đang là “người độc thoại”. Bao giờ anh mới đọc những dòng nhật ký vụn vặt này? Và bao giờ anh sẽ trả lời em bằng “tay trong tay, môi kề môi…”.
Tại sao câu thơ dễ hiểu này lại khó thực hiện đến vậy?
19. Bạn gái
Hương áp tay lên tay Thục:
- Mimosa! Em tôi!
- Chị đừng buồn em.
- Thục ơi! Chúng ta đều là phụ nữ, lại là người cùng thời. Có khác chăng mình vừa qua một cuộc ly hôn. Khác hơn nữa, mình có đứa con bị cha nó ruồng bỏ. Và mình đã hiểu thế nào là một người đàn ông. Cảm ơn Thục đã nói cho mình hiểu những điều Thục day dứt, những điều mà nếu Thục không nói ra, sẽ có lúc mình phải nói cùng Thục.
- Chị…
- Mình không có điều gì để Thục coi như kinh nghiệm đâu. Theo mình, tình yêu rất cũ mà luôn luôn mới, không hề giống nhau… còn… Còn anh Nhẫn…
Hương ngừng, không nói tiếp. Tuy trong nhà đang vắng cả ngoại Phước và nhỏ Thương, mà Thục đến gặp Hương là để chỉ nói về chuyện có liên quan đến Nhẫn của cả hai chị em, hai người bạn thân, hai người rất hiểu nhau cả từ lúc chưa nói ra chuyện này.
Hương không nói tiếp. Thục thấy Hương lặng nhìn khung ảnh nhỏ treo trên tường. Ảnh Hương và con mới chụp ở ngay trong nhà này do Nhẫn bấm máy. Nhẫn làm gì có máy ảnh. Niềm vui của Nhẫn bao giờ cũng chỉ là những cây viết đủ loại.
Hôm đó, Nhẫn đi cùng người bạn đến nhờ Hương gõ bản thảo. Người bạn mang theo máy ảnh. Nhẫn mượn máy, chụp Hương ngồi bên nhỏ Thương, hai mẹ con đang chờ khách hàng trao tài liệu. Tấm ảnh thật tự nhiên, không bố trí… Hương thật bất ngờ, hơi ngỡ ngàng. Sao Nhẫn lại có ý nghĩ chụp Hương dáng vẻ ấy. Nhẫn không báo trước, bấm đúng một lần rồi trả máy cho bạn, cũng không ai hứa sẽ có ảnh đưa Hương, thản nhiên đến độ Hương không tin là mình đã có hình trong phim. Cho tới một hôm, Nhẫn mang ảnh tới. Không phải một, mà hai tấm cùng kiểu, đưa Hương một và giữ một.
Nhẫn trao luôn phim cho Hương và nói:
- Không có tấm thứ ba đâu chị Hương. Còn nếu chị muốn in nữa là tùy chị.
Nhỏ Thương rất khoái:
- Chú bấm lẹ quá, con hổng kịp cười!
- Vậy giờ con cười đi.
Hương cầm tấm ảnh nói với con.
- Mẹ mừng đã có tấm ảnh không cười này. Mẹ không hiểu sao các ông chụp ảnh cứ “bắt” người chụp phải cười, phải xếp hàng ngang. Các ổng không chớp một giây sống động nhất, giây phút của nghệ thuật.
Tấm ảnh được Hương lồng khung treo lên tường, đối diện với nơi gõ máy.
Thục nhìn tấm ảnh, biết ở đó còn một người thứ ba và biết Hương thường ngắm ai qua tấm ảnh.
- Chị Hương! Anh Nhẫn thiệt dễ thương…
Nói xong, Thục nhìn Hương đợi trả lời. Hương gật:
- Đúng vậy!
Bỗng Hương nói luôn:
- Thục đang yêu, phải vậy hôn?
Thục chưa nói gì, Hương tiếp:
- Thục cứ tự nhiên nha. Tình yêu là vậy. Chúng ta có thể cùng yêu anh Nhẫn. Tại sao? Bởi vì anh Nhẫn là một người bạn quý, một người anh. Thục cứ yêu đi, đừng băn khoăn gì cho Hương nha.
- Chị Hương! Không thể vậy được!
- Đúng! Không thể vậy được. Hương nói thiệt đó. Từ nãy chúng ta đã rất thành thật. Điều ấy chứng tỏ Thục tin và thương mình, và Hương cũng tin và thương Thục. Nhưng Hương nhìn anh Nhẫn đúng là một người anh, vậy thôi. Thục tin thêm đi.
Thục áp chặt bàn tay Hương vào ngực mình.
- Chị Hương! Cảm ơn chị.
Hương không nói thêm.
Nhưng Thục nói tiếp, không rõ là để ai nghe.
- Nhưng còn anh Nhẫn?
20. Mimosa
Đã có lần nghe ca sĩ nào đó hát một bài về hoa Mimosa, Nhẫn không hiểu đó là loài hoa gì, màu sắc, hương thơm ra sao? Mà nhắc Mimosa, hình như lời bài hát nói tới Đà Lạt và những thiếu nữ xinh đẹp miền núi Lâm Đồng. nhưng do tên là Mimosa, bỗng nhiên thấy “tây tây”, xa xăm, mơ hồ, lãng mạn.
Trêu chọc Thục, hình như Nhẫn đã nói: “Em đã yểu điệu… thục… nữ” lại còn “mimosa” có cái gì đó quý phái, ai dám gần?”.
Thục chọc lại: “Vậy mà có người mang tên khác chăng mimo… xa cũng khó mà mimô… gần được.
- Mimosa! Mimosa!
Chợt có lúc Nhẫn lẩm nhẩm tên loài hoa xa lạ ấy, rồi nhớ tới những ngày còn đi học được nghe tên hoa “penseé” thầy giáo dịch là “hoa tưởng nhớ”, cũng hay hay. Lại có loài hoa “myosotis – ne m”oubliez pas” (đừng quên anh – đừng quên em)… gì đó, làm cho cái tuổi học trò hồi đó cũng cứ bâng khuâng không đâu. Bây giờ lại “mimosa, mimosa” chẳng phải chỉ là hoa, mà chính là một người thật kia, lém lỉnh, nhõng nhẽo và cũng đốp chát nữa.
Bất ngờ có chuyện đi nghỉ Đà Lạt của một cơ quan mà Nhẫn chỉ là cộng tác viên nòng cốt, Nhẫn góp tiền ăn, trọ, không phải trả tiền xe. Thế là tốt rồi. Có người lo cho đủ thứ, mình chỉ là du khách. Lâu rồi, không nghĩ tới áo mặc lạnh, may mà mượn được. Áo lạnh mặc chật hay mặc rộng, không lo có ai phê phán gì là áo đi mượn. Lại là nam giới, đơn giản thôi.
Hành lý nhẹ tênh. Vừa đúng dịp có món nhuận bút dằn túi, nhiều ít gì thì cũng có còn hơn không.
Chỗ ngồi tốt, mọi người đã chọn cả. Nhẫn nhẩn nha, ngồi ghế ngang, ngắm cảnh chỉ được một phía. Đi nhờ ấy mà. Có sao đâu, cảm giác nào hơn, thiệt gì đều tốt cho người sáng tác. Đường cứ đi lên, đi lên, mỗi lúc một xanh thêm, gần thiên nhiên hơn. Nhẹ nhõm. Có gió, có cả mây ở trong ngực.
Cái dáng vẻ của thông cao vút, vươn thẳng, bao trùm, chính là chân dung của Đà Lạt, mặc dù cần có một đôi thác nước, một thung lũng hay một mặt hồ để hoàn chỉnh hơn.
Mệt nhọc, buồn phiền bỏ lại sau lưng. Cá nhân nhỏ bé là mình đấy bỗng nhiên thư thái, thanh thản, tưởng như đã hóa thành hoa, màu sắc nào mà chẳng được, có hương thắm hay hương thầm, không hương cũng có sao đâu? Có thể là nhánh cỏ may. Có thể là rêu trên đá. Nhưng rất rõ ràng là thơ, không cần thành bài, cũng cứ gì phải thành câu, thành dòng, mà cứ thơ – thơ mỗi tầm nhìn, mỗi khoảng cách, mỗi âm thanh, mỗi màu sắc, mỗi dáng vẻ…
Là một người làm thơ, Nhẫn thấy khỏi phải vội vàng ghi chép. Hãy đón nhận. Ngay giấc ngủ đêm đầu, anh cũng lắng nghe tiếng thì thào đâu đó của vòm lá với sao khuya.
Còn “Mimosa” như thế nào, không phải ai ở Đà Lạt cũng biết, chưa kể Đà Lạt có cả một khu vực hoa mà khách phái đẹp dạo trong đó hòa nhập thành những khóm hoa di động.
- Ừa, mà mình cũng ít chú ý chi tiết. Sao ông hỏi kỹ làm gì vậy?
Một người bạn hỏi lại Nhẫn, rồi nói tiếp:
- Trong một cuốn từ điển Pháp Việt, đã có lần mình đọc thấy nhà biên soạn chú thích: hoa trinh nữ, hoa xấu hổ, hoa mắc cỡ – là cùng nghĩa của từ “mimosa” tiếng nước ngoài này. Nhưng nhìn kỹ cây mimosa ở đây, ông khỏi đi đâu xa, ngay bên hông khách sạn này cũng có. Đâu có phải dáng cây hổ ngươi, bẽn lẽn co lại khi bàn tay ai đụng tới? Cây này thì mảnh mai, cành có lá sóng đôi, tròn tròn xanh ánh bạc, nhô từ kẽ lá những nhánh hoa li ti vàng hay trắng. Tiếc rằng mình chưa biết hương hoa mimosa ra sao. Mọi người bị mê hoặc bởi cái tên mà quên hương của hoa. Ôi! Mimosa! Mimosa!
Anh bạn nói một hơi dài, không để ý nụ cười của Nhẫn. Nhẫn cũng không hiểu sao mình lại cười. Tên hoa đã Việt hóa rồi, có gì đó như một ý thơ, một nét nhạc, man mác, thoang thoảng, hư hư thực thực, quyến rũ người nghe mà không cần hiện hình.
Với Nhẫn, sự hiện hình của “mimosa” lại là Thục. Nếu căn cứ ở lời tả của anh bạn, mimosa không nhắc gì dáng vẻ của Thục. Nhưng thói quen nào bắt mọi người nhắc đến Thục là phải gọi Mimosa? Kỳ thật.
Quà của chuyến thăm Đà Lạt ấy, Nhẫn chẳng quên ai. Ngoại Phước có hai chai mật ong. Hai mẹ con Hương rất khoái hộp dâu tươi không hề va dập. Cha con Sáu Bi chưa bao giờ nếm quả bơ, được Nhẫn bày cách cho ăn. Trang cũng có mười bông hoa không bao giờ héo.
*
Còn khi Thục biết, đòi quà, Nhẫn đưa xem một tấm ảnh: ảnh chụp Nhẫn đứng bên một cây nhỏ.
Thục reo:
- Anh ghi tặng Thục đi.
- Chà! Mình đâu có quyền.
Thục mát mẻ:
- Phải rồi! Em làm sao có được vinh dự anh Nhẫn tặng ảnh. Ảnh đó là của một người khác.
Nhẫn gật liền:
- Đúng! Của người khác! Của người đứng bên anh. Đứng ngay trong ảnh đó.
Thục căng mắt. Nào có ai nữa ở tấm hình ấy. Bên cạnh Nhẫn chỉ có một thân cây nhỏ. Hay là ai ở trong ngôi nhà kề đó?
- Kiếm thêm một lần nữa! Nếu chịu, phải chi một chầu bia.
- Đứng bên anh? Chẳng lẽ người đó là cái cây kia!
- Nếu người đó ở trong nhà thì sao gọi là “bên” được.
- Ai vậy cà?
- Chính cái cây đó! Thục đó! Cây “mimosa” mà!
- Ủa! Cây mimosa đó sao?
- Người Đà Lạt mà không nhận ra “hóa thân” của mình à?
Thục vội nhét tấm ảnh vào túi xách, nói nhanh:
- ”Ảnh tui” thì tôi có quyền cất đi. Tôi không tặng ai đâu. Tôi chỉ giữ riêng cho tôi.
Nói xong, Thục thấy trong người mình bừng lên một thoáng men kỳ lạ!
21. Khác trước
Nhỏ Thương đọc đến thuộc đề bài nhưng mãi không viết được dòng nào.
- Mình cũng kỳ thiệt. Cô Thục đến nhà chú Nhẫn là quyền của cổ, đến nhiều hay ít cũng vậy, mắc mớ chi mà mình phải để ý.
Còn chú Nhẫn? Cũng là quyền của chú ấy chứ bộ?
Chú Nhẫn muốn tiếp ai ở nhà chú mà chẳng được! Tại sao cha con bác Sáu Bi đến nhà chú Nhẫn, mình không đặt câu hỏi nào để phải rối óc như thế này. Chú Nhẫn tiếp cô Thục thì lại làm mình bối rối. Cô Thục, chú Nhẫn cũng chỉ là bạn của má. Cả hai cô chú đều tốt với má, đều thương ngoại, thương mình, cớ gì mình cứ băn khoăn hoài?
Nhưng mình muốn cô Thục, chú Nhẫn gặp nhau ở nhà mình cơ, chỉ nói mọi chuyện ở nhà mình thôi. Mình cam đoan không nghe chuyện của cô, chú. Má Hương cũng cứ làm việc đi, cứ gõ máy đi. Ngoại cũng lên lên, xuống xuống, thỉnh thoảng lại châm nước vào bình trà cho chú Nhẫn. Ai cũng thương chú Nhẫn. Một vài bữa chú không ghé qua nhà là ngoại nhắc. Má Hương thì đoán chú có công chuyện này nọ. Mình thì chẳng còn hỏi được điều này, điều khác. Chú vừa đặt chân tới ngưỡng cửa, ai cũng reo lên. Thế nào má cũng gõ nhầm vài chữ rồi luýnh quýnh sửa hoặc đứng trước gương một chút, dù chẳng thể trang điểm gì hơn. Ngoại thì vội vàng tráng bình trà, tay đã cầm hộp đựng trà nhưng cứ hỏi: “Con à, bình trà đâu nhỉ?”. Còn mình đã níu tay chú, kéo chú ra góc học tập, làm như chú đến là chỉ để cho mình, một tuần vài lần như vậy.
Độ này, hình như chú đến có thưa hơn. Nhỏ Thương thấy rồi mà, chiếc xe màu xanh rêu của cô Thục muốn vào sâu trong hẻm này là phải qua cửa sổ có góc học tập của nhỏ Thương. Trước đây, cô Thục toàn gửi xe ở đây, có đến nhà chú Nhẫn chỉ lội bộ một quãng, nay đi vèo qua. Lúc về cũng qua vèo. Hay là mình chuyển góc học tập vào phía trong, đỡ phải nhìn thấy cô Thục lướt qua. Nhà chật, còn chỗ nào nữa đâu? Mà việc gì phải làm thế. Mình không vạch màn cửa nhìn ra ngoài nữa là xong. À, mình che thêm một tờ báo kín màn cửa. Không được. Chướng mắt quá. Có một bản đồ thế giới phủ lên, hợp lý hơn, tự nhiên hơn. Nhưng lại mất ánh sáng học bài. Chẳng lẽ thêm một đèn bàn ở bàn học vốn đã nhỏ với đủ thứ sách, vở cứ mỗi ngày một đầy thêm. Không thêm đèn thì khi đụng các loại sách in cũ, mờ, đọc sao nổi. Nhưng dù không nhìn thấy xe đi qua thì tiếng máy, tiếng còi xe cũng vẫn nghe ra đó là xe cô Thục. Không được đâu. Cái gì làm mình bồn chồn không yên thế nhỉ? Chú Nhẫn đến đây vẫn bình thường, vẫn vui vẻ, hòa nhã như trước, có gì khác đâu?
Có đấy, có khác. Má Hương nhìn như độ này ít nói hơn. Chắc không phải do má quá nhiều việc. Có lúc má đứng lên, ngồi xuống, hoặc ngồi nhìn rất lâu mảng tường trống trước mặt. Có lúc má cũng quay ra phía cửa sổ khi chiếc xe gắn máy của cô Thục lướt qua. Ngoại lại càng im lặng. Hai buổi cơm nước với sức khỏe tuổi già, đủ mệt, nhưng cứ xong việc dưới bếp là ngoại lên nhà với má Hương, ngồi xếp giấy gõ máy tập mới hoặc gài các trang mới gõ xong cho đều.
Chẳng ai nói với ai câu nào. Trên bàn thờ, ông ngoại và cậu út vẫn hiền dịu nhìn mọi người, nhưng Thương cảm thấy không khí lặng lẽ hơn.
- Má à! Bữa nay con mở bài hổng nổi!
- Khó quá sao? Đề như thế nào?
- Hổng có khó. Con hiểu bài nhưng làm hổng có được.
- Cưng có mệt không. Ra đây má sờ trán xem có ấm đầu không?
- Đâu có nóng sốt gì má. Tại… tại chú… Nhẫn hổng tới.
- Mọi bữa… Vậy là chú Nhẫn làm bài giùm con sao?
- Đâu có! Chú tới, con làm lẹ, xong liền hà.
- Kỳ vậy?
- Tại sao? Con hổng biết nữa.
Má Hương nhìn con gái. Chẳng lẽ chị cũng nói là từ đâu không biết, chị gõ sai quá nhiều chữ không đáng lỗi mặc dù không có ai quấy rầy. Yên tĩnh của nhà này thì quá tốt rồi, thế nhưng trong lòng mỗi người lại không yên tĩnh chút nào.
22. Đất nước mình
Dù nhỏ Thương có thể hiểu nhiều điều mà má Hương nói ra ở một khía cạnh nào đó thôi, Thương vẫn chưa thật biết má đã tâm sự hết với cô Thục chưa? Chỉ biết mỗi khi được má Hương tiếp chuyện, gần đây lúc ra về, cô Thục đều vui vẻ hẳn.
Ngồi gần chỗ má và cô Thục trò chuyện, không muốn nghe chuyện của người lớn, Thương vẫn biết đó là những vấn đề gì. Thương thấy tội nghiệp cho má quá. Càng giận ba hơn, càng thấy Thương ở với má là đúng. Chắp nối những mảng tâm sự của má, Thương thấy má đã bị lừa gạt. Cũng may là người cha đó của Thương từ dạo chia tay đó chưa một lần nào tạt đến đây để gặp mặt con gái. Nếu xảy ra tình huống đó, Thương đủ minh mẫn để cương quyết không tiếp. Má Hương thì nhất định chống đối rồi. Nỗi đau của má in vết hằn cho cả cuộc đời. Ngoại tuy dễ xúc động nhưng cũng khó mà lung lạc được ngoại ngoái nhìn. Còn nếu má để tùy ý Thương xử sự thì câu nói (có thể Thương sẽ quát lên) lúc gặp người cha ấy như sau:
- Làm người nên biết xấu hổ khi làm những điều trái. Đây không những sai trái mà còn táng tận lương tâm. Đủ rồi đó, xin đừng quấy rầy!
May mà ông ta lại quên hẳn vợ con thật rồi. Nhỏ Thương đã gạt hẳn tên ông ta khỏi "bộ nhớ" của mình. Từ ngày biết chú Nhẫn, biết bác Sáu Bi, nhỏ Thương coi đó là những người đàn ông đáng tin cậy. Hiện nay, gia đình này gặp điều gì không may thì đó là những người đàn ông bênh vực thật lòng. Riêng với chú Nhẫn, Thương coi chú là người-bạn-lớn. Mà hình như ai cũng coi chú là người bạn thân, từ cô Trang, cô Thục đến má Hương – những người hơn kém nhau với số tuổi không đáng kể. Cha con Sáu Bi thì mỗi lần gặp chú Nhẫn là reo lên…
Bữa nay, Nhẫn đến nhà nhỏ Thương đúng lúc ai cũng mong. Nhỏ Thương hấp tấp mở cửa:
- Chú!
Hương ngưng gõ, xô ghế đứng vội:
- Anh!
Còn ngoại từ bếp lên, mừng quá:
- Bác!
Nhẫn bỗng lúng túng khi thấy cả nhà nhỏ Thương vồn vã.
Anh thưa với ngoại:
- Con thấy hương trà Bắc, nên vội sang ngay.
Ngoại thật thà, cầm ấm vẫn để chỗ mọi khi, mỗi lúc Nhẫn uống là có ngay.
- Đúng đó.
- Ngoại lại mới mua ạ?
- Đi chợ, chỗ quen, hễ có trà mới là họ lại dành cho.
- Thôi có lẽ để con mở hàng trà, con mời ngoại mua trà cho con bán lấy hên. Chăm mua trà như ngoại thì các đồi trà phía Bắc chỉ tập trung sản xuất trà cho ngoại thôi.
Hương nói như có ý trách:
- Anh Nhẫn có ở đây cả ngày uống trà cũng vẫn đủ trà anh pha nước. Ít ngày nay, có thấy bóng anh đâu.
- Chết thật! Hết việc rồi hả chị Hương?
- Không đâu. Xin lỗi anh, gõ chậm đi thì có.
- Cô Thục không mang tài liệu mới gì ạ?
Hương muốn nói: “Anh biết quá còn gì! Thục đến anh luôn đấy thôi”, nhưng Hương chuyển ý:
- Công việc của anh và của Thục mang tới rất đủ, nhiều nữa là khác.
- Nhưng rồi còn của riêng cá nhân tôi thì phải gắng nữa chị Hương ạ. Ít ngày nữa, cô Thục mà đi là vơi đi một nửa số trang đó.
Hương ngơ ngác:
- Anh nói sao? Cô Thục đi đâu?
- Ô! Vậy là cô Thục chưa nói chuyện gì với chị ạ?
- Không thấy Thục vào đây.
Hương định nói: “Mặc dù Thục có sang bên anh”, nhưng Hương không nói tiếp.
Nhẫn đi vài bước, đến bàn học của nhỏ Thương, nói vừa đủ cả nhà nghe:
- Cô Thục sắp sang hẳn bên
Ngoại nói ngay:
- Nước mình, mình không ở, việc gì phải đi đâu cơ chứ.
Hương nghĩ thầm: “Thục đi, hẳn người nhớ nhất là anh?”, nhưng Hương im lặng. Hương cũng sẽ xa một người bạn tốt, giúp đỡ gia đình Hương từng ly từng tí. Còn mọi chuyện riêng tư khác thì tùy từng người quyết định, dù chính Hương đã quên mình đi để mong vun đắp hạnh phúc cho Thục. Điều này, trong tình bạn giữa Hương và Thục đã rất rõ ràng, dẫu biết rằng mọi chuyện giữa “hai người” đã đâu vào đâu.
Vậy mà Hương buột miệng hỏi:
- Anh Nhẫn đã được đi nhiều nước chưa ạ? Anh đã đi
Nhẫn đặt tách nước vừa uống cạn, cầm ấm rót thêm, nhìn màu trà vàng nhạt, không trả lời ngay vào câu hỏi của Hương.
- Chị coi, trông trong veo thế này mà đậm đặc quá, ai ít uống là cảm thấy chát nơi họng. Chát nhưng rồi sẽ ngọt giọng… À, xin lỗi chị, chị hỏi về các nước ngoài, tôi thì chỉ biết có nước… trà thôi.
Hương bật cười. Nhẫn nghiêm trang:
- Nói cho đúng, tôi chưa đi khỏi nước Việt
23. Thư đi
Tiếng xe gắn máy quen thuộc tắt trước cửa nhà. Nhỏ Thương đứng lên. Cô Thục lâu quá mới tới. Tiếng gõ cửa nghe khác thường. Hóa ra là cô Trang. Cùng lúc má Hương ra.
- Chị Trang!… Cháu chào cô!
- Chị Hương!… Cô chào cháu!
- Trang đi xe Thục à? Xe Trang đâu?
Trang đẩy xe vào, sửa lại mái tóc, nhấc túi xách để ở giỏ xe. Kéo nhỏ Thương đến gần, Trang ôm cháu, im lặng.
Hương cảm thấy một điều gì khác thường, hỏi ngay:
- Gì vậy Trang ơi!
Nghẹn ngào, Trang nói rất khẽ:
- Thục đi rồi.
-
- Đúng! Chuyến bay hôm qua.
- Trang có đi tiễn nó chứ?
- Thục ngăn. Nó sợ khóc. Phút chót bà hiệu trưởng mới được báo: việc của đại gia đình, phải có Thục sang đó, không đừng được, dù nó lần lữa. Thục nói riêng với Trang một số điều, Trang sẽ nói dần để Hương biết.
Chỉ cái xe gắn máy, Trang tiếp:
- Thục gởi lại cho cháu Thương. Giấy tờ đủ cả. Và đây, thư gửi Hương…
Trang trao Hương một bao thư đầy. Ngoài bì chỉ có tên người, ghi:
From Thục
To Hương
Hương mở bao thư. Giấy tờ xe kẹp với nhau, kèm trang thư ngắn gởi nhỏ Thương.
Thương mở thư đọc ngay:
Cháu Thương yêu dấu!
Cô Thục đi xa, chưa biết bao giờ mới gặp lại cháu. Cô mong cháu học thiệt giỏi. Hàng ngày, cháu nhớ giúp ngoại và má các việc nhà. Cô gởi lại một kỷ niệm: chiếc xe gắn máy cô vẫn thường dùng, có đủ giấy tờ đây, cháu đưa má cất nghe! Lúc này, xe để má dùng. Thương cháu nhiều!
Cô Thục
Nhỏ Thương đợi má Hương đọc xong, nhận lại thư, cứ gập gập, mở mở, mắt nhòa nước mà không thấm. Cô Trang ôm cháu:
- Cô Thục có nói thêm với cô: “Hãy giúp cháu Thương học thật tốt!”. Cô hứa làm được điều đó. Con có hứa học thật tốt để cô Thục ở nơi xa cũng được vui không?
Nhỏ Thương nghẹn ngào gật đầu. Trang nói với Hương:
- Trang sẽ nói nhiều chuyện sau. Bây giờ Trang phải về trường, có mấy tiết, không kịp nhờ ai thay.
- Cảm ơn Trang. Ồ kìa! Lấy xe mà đi chứ.
- Khỏi! Xe của mình để ở trường, chốc nữa tan giờ lại lúng túng. Bây giờ đi xích lô. Thay đổi không khí.
Trang về rồi, Hương mới đọc thư Thục. Tờ giấy màu xanh phớt, thơm, chữ nắn nót:
Chị Hương!
Em không có đủ dũng cảm đến chia tay với chị, mặc dù em muốn nghe chị nói nhiều điều. Em có thể hủy chuyến đi này, ở lại thành phố thân yêu, gắn bó bao năm rồi. Nhưng đi hay ở đều có những lý do nhất định.
Cán cân không nghiêng về phía đi, nhưng em lại chọn hướng đó. Đâu có phải em cần vật chất. Chị và chị Trang đã hiểu em. Lúc này ra đi, em mới rõ tâm trạng của những ai đành phải xa rời đất nước. Chắc ít ngày nữa khi đã ở xứ người, em sẽ dần dần thấm thía hơn nỗi xa vắng quê hương. Em sẽ viết thư để nói những điều này và mong chị sẽ trả lời đều đặn cho em.
Em nhờ chị chuyển lời chào của em tới anh Nhẫn. Đó là một người chân chính. Anh Nhẫn quý chị rất nhiều. Anh thương chị thật tình. Còn em, em hiểu, ảnh coi em là một con nhỏ lém lỉnh, một đứa em gái. “Người yêu” và “Người em” khác nhau quá nhiều. Em vừa sung sướng vừa buồn tủi. Dù sao, có một người anh như vậy không phải là dễ dàng. Em cầu mong sớm nhận được tin vui của anh chị. Em chúc ngoại mạnh giỏi, sống lâu. Hôn thắm thiết cháu Thương.
Em Thục.
24. Bữa tiệc
Ngoại Phước ngăn mãi không được đành phải chiều theo ý Hương. Hương năn nỉ:
- Ngoại thêm một tuổi, con mừng, cháu mừng. Nhà ta lúc này được vậy là hạnh phúc. Con muốn nhân sinh nhật ngoại, còn mời một số bạn bè của con và các bạn cùng học với cháu Thương đến chúc thọ ngoại và chung vui cùng gia đình.
- Cảm ơn con. Tùy con muốn sao thì làm vậy, miễn sao con và cháu vui. Má đi chợ cho. Con lo mọi việc ở nhà. Nhớ mời anh Nhẫn nghe con.
Hương “dạ”, không nói gì thêm. Má còn phải nhắc mời anh Nhẫn. Ảnh chính là khách quý đầu tiên của gia đình mình.
- Có cha con bác Sáu Bi nữa đó ngoại!
Nhỏ Thương nghe nói có thằng Bĩ, nhỏ Bí, vỗ tay:
- Con phải nghĩ một trò “đoán, đố” để cùng chơi với nhóm bạn con. Bữa nay má cho con và các bạn con phá chút xíu
- Vừa vừa thôi. Con nên nhớ là ngoại già rồi, không chịu được ồn ào. Bữa nào sinh nhật con, tha hồ.
Hương đã báo cho Trang từ mấy hôm trước. Trang rất vui. Chính Trang “lên lớp” những điều mà Hương định tâm sự.
Gần đây, lớp trẻ thường quên và xem thường những bậc ông bà, cha, mẹ. Ngoài xã hội cũng vậy, người già chẳng mấy được kính nể, chăm sóc. Tuổi trẻ lúc này cứ tưởng họ từ trên trời rơi xuống, mọi thứ đang có là đương nhiên dành cho họ. Thật tội nghiệp.
- Hương cũng nghĩ như Trang. Tuy nhiên Hương không có ấn tượng quá nặng nề. Ngày mai sẽ do lớp trẻ hôm nay định đoạt. Họ có những mặt mạnh mới, bao giờ cũng năng động, tìm tòi, dám nghĩ, dám làm. Có điều, do tất cả những sơ sót đã xảy ra, họ hoang mang, có thể nói, họ mất phương hướng. Họ không như chúng ta hai chục năm trước đâu. Tuổi trẻ của chúng ta lúc đó có biết bao gương sáng.
Trang đưa Hương một ít tiền:
- Cho mình góp vào buổi họp mặt hiếm có này. Trước hết, biết ơn ngoại. Và để chúng ta được gặp nhau. Mình cũng hiếm có lúc được nói chuyện cùng anh Nhẫn. Cũng chưa được nghe ảnh ngâm thơ.
Hương không nhận tiền của Trang.
- Nhà giáo nghèo thấy mồ, khỏi lo. Hương có dư sức tổ chức bữa này. “TRUNG TÂM HUCO” mà.
Nhắc đến tên “TRUNG TÂM HUCO”, cả hai lại nhớ Thục. Chưa có tin gì thêm của Thục. Nhất định chuyến đi của Thục có nhiều thuận tiện khi đã có gia đình bảo lãnh, lo liệu mọi khoản. Nhưng nỗi buồn đầu đời đâu dễ mau chóng nhạt phai.
Ngày chủ nhật nên “khách mời” đến rất tự do. Nhỏ Thương và nhóm bạn Thủy, Khánh, Chước cùng theo ngoại đi chợ để… xách. Chước được phân công “nhiệm vụ” vinh quang đó, thêm tài quan sát và ước lượng giá cả. Ngoại dự tính có món chả giò nhân thịt, cua biển, miến, trứng… là “chủ lực”.
Cha con bác Sáu Bi bán gọn mấy số báo chủ nhật, vội vã tới liền. Bác Sáu tranh việc bằm thịt. Anh em Bĩ, Bí chia nhau nhặt rau, vừa có thể ngồi đoán những khách nào có mặt đầu tiên.
-
- Nhưng chú sẽ tới vào lúc nào? Cược gì?
Hương chuẩn bị chỗ ngồi. Hai mâm rõ ràng. Mâm người lớn có thêm một chút rượu. Khi sắp xếp đũa, chén, Hương mới biết mẹ vẫn còn giữ hầu như nguyên vẹn những thứ dùng hồi lễ cưới của Hương. Bao nhiêu hình ảnh bất ngờ hiện ra làm Hương thẫn thờ.
Không khí đột nhiên sôi động. Trang và Nhẫn cùng tới một lúc như đã hẹn từ trước. Nhỏ Bí đang ngồi nhặt rau, vội đứng lên nói nhanh:
- Chú Nhẫn vô sau, vô sau… A… A…!
Nó được cuộc. Nó cược với thằng Bĩ chú Nhẫn đến sau chót nên khi thấy chú Nhẫn nhường cô Trang đẩy xe vào trước, nó mừng biết chừng nào. Thằng Bĩ tuy thua nhưng vẫn vui. Có chú Nhẫn là nó vui rồi.
Nhưng nó không thể hiểu ra là chẳng ai buồn được khi chú Nhẫn có mặt trong buổi kỷ niệm sinh nhật đặc biệt này. Còn ai vui nhất, hai anh em Bĩ, Bí không thể “đoán đố” để giành phần thắng nổi đâu. Không có lời giải thích tài tình nào trả lời giúp được tiếng nói của trái tim cả.
Tp.HCM 1.5.2004
T.N
– Hết –
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét