Thứ Hai, 14 tháng 10, 2013

NhanDinhVeGiaoLyLangMai.html

NhanDinhVeGiaoLyLangMai.html

NHẬN ĐỊNH VỀ GIÁO LÝ LÀNG MAI

                                                                            Trí Thông

XIN GIỬ CHO ĐẠO PHẬT ĐƯỢC TRONG SÁNG

                                                                                        Nguyễn Trí Cảm

VÀI Ý KIẾN XUNG QUANH VỤ TU VIỆN BÁT NHÃ

Trần Chung Ngọc

TÔI ĐỌC "BÁT NHÃ LÀ MỘT CÔNG ÁN THIỀN"

Của Thiền Sư Nhất Hạnh

  Trần Chung Ngọc

NHẬN ĐỊNH VỀ GIÁO LÝ LÀNG MAI – Trí Thông. 2

1/ Không xiển dương giáo lý Nhân Quả Nghiệp Báo, trong khi chính nhờ Nhân Quả này mà đạo Phật thật sự đem đến cho con người đạo đức và sự tiến bộ. 3

2/ Không tin các cõi Trời, không đề cập đến ba cõi sáu đường. 4

3/ Việc dùng tâm lý để giải quyết đau khổ chỉ là tạm bợ,  phải có yếu tố công đức mới là tận gốc. 5

Muốn trị tận gốc ta phải biết nguyên nhân của đau khổ là do đâu ?. 5

4/ Cách dụng công thiền quán thường sử dụng tưởng tượng. 6

5/ Trong giáo lý Làng Mai, chữ "Thiền" bị lạm dụng. 7

6/ Đánh giá Đức Phật như một triết gia dễ thương, chứ không có gì cao siêu. 7

7/ Xem Phật và Chúa giống nhau. 8

8/ Thầy Nhất Hạnh tuyên bố Phật Di Lạc đã Đản Sanh. 8

9/ Vì không tôn trọng Phật nên thầy Nhất Hạnh  đã tuyên bố mình đang có hóa thân giáo hóa khắp thế giới. 9

10/ Truyền đăng. 10

11/ Thầy Nhất Hạnh kêu gọi hòa hợp, bắt tay với tất cả. 10

12/ Thầy Nhất Hạnh có bổn phận giải thích thật hay  những điều sư cô Chân Không đề ra có vẻ kỳ lạ. 10

***Kết luận: 11

XIN GIỬ CHO ĐẠO PHẬT ĐƯỢC TRONG SÁNG – Nguyễn Trí Cảm.. 12

VÀI Ý KIẾN XUNG QUANH VỤ TU VIỆN BÁT NHÃ – Trần Chung Ngọc. 15

    ¨ Hai khuôn mặt trái ngược. 16

    ¨ Về Chúa Giê-su. 17

    ¨ Thượng đế là gì?. 18

    ¨ Không nên nhìn tôn giáo khác qua lăng kính tôn giáo mình. 21

    ¨ Hành động của Chúa Giê-su: 22

    ¨ Vài Lời Dạy Của Chúa Giê-su: 22

¨ Chúa Giê-su có một giáo lý đặc thù nào. 24

¨ Quan niệm Thiên Đường. 25

TÔI ĐỌC "BÁT NHÃ LÀ MỘT CÔNG ÁN THIỀN" Của Thiền Sư Nhất Hạnh. 27

Vài Lời Nói Đầu: 27

Vài Lời Kết: 33

Phần Phụ: 35

Vài Nét Về Tự Do Tôn Giáo. 35

Các học giả về tôn giáo đã đánh giá con người và học thuyết của Osho như thế nào?. 36

Assessments by scholars of religion. 36

Phụ Lục: 37

NHỮNG ĐIỂM THỈNH CẦU VÀ ĐỀ NGHỊ  CỦA PHÁI ĐOÀN ĐẠO TRÀNG MAI THÔN ĐẾN CHỦ TỊCH NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM37

A response to: "Living Buddha, Living Christ". 39

NHẬN ĐỊNH VỀ GIÁO LÝ LÀNG MAI – Trí Thông

07 tháng 12, 2009

Hiện nay nói đến thầy Nhất Hạnh, không ai mà không biết đến Thầy. Gần bốn mươi năm hành đạo ở nước ngoài, thầy Nhất Hạnh đã có những thành công và ảnh hưởng đáng kể về mặt đạo học cũng như xã hội học. 

Thầy Nhất Hạnh vừa là một vị đạo sư Phật giáo, vừa là một nhà văn, một nhà thơ rất có tiếng tăm. Thậm chí thầy Nhất Hạnh còn được tôn vinh là một nhà văn hóa lớn của thế giới hiện đại. Tuy xuất thân là tu sĩ Phật giáo nhưng là mẫu người có tư tưởng phóng khoáng, thầy Nhất Hạnh không chỉ chịu ảnh hưởng tư tưởng của các triết gia hiện sinh Thiên Chúa Giáo như Garbriel Marcel, Merleau Ponty và nhất là Emmanuel Mounier mà còn chịu ảnh hưởng tư tưởng của thiền sư Shunryu Suzuki thuộc thiền phái Nhật Bản. Cộng thêm một ít giáo lý của Phật giáo Nguyên Thủy, một ít giáo lý của thiền sư Tăng Hội thuộc tông phái thiền Việt Nam. Đồng thời để phát triển đạo Phật ở Tây phương, thầy Nhất Hạnh đã sử dụng những yếu tố văn hóa của họ và dựa vào nhu yếu của cái gọi là "Thực dụng", rồi hình thành một hệ tư tưởng "Thiền" của Làng mai là "Hiện pháp lạc trú".

Chính vì pha trộn nhiều tư tưởng, cho nên thoạt đầu giáo lý Làng mai cho ta cảm giác mới lạ, hấp dẫn. Nhưng càng đi sâu vào chi tiết mới phát hiện, thầy Nhất Hạnh phát triển đạo Phật theo khuynh hướng "Tâm lý học" hơn là đào sâu giá trị tâm linh của đạo Phật. Cho nên con đường Thiền của thầy Nhất Hạnh  không sâu sắc, sự tu tập chỉ đạt đến mức "Chánh niệm tỉnh giác" rồi đứng lại đó. Nếu đạo Phật phát triển theo hướng này thì chắc chắn một điều "Trong tương lai, đạo phật mất dần giá trị chứng ngộ tâm linh đến tuyệt đối như thời Đức Phật". Điều này cho thấy thầy Nhất Hạnh đã phát triển một đạo Phật xa dần cái gốc của nó. 

Không biết có phải vì tùy thuận theo nhu cầu cuộc sống thực dụng của người Tây phương, tức là làm việc gì cũng phải có hiệu quả trước mắt thì họ mới tin theo, còn như nói về cái được nào đó có vẻ mơ hồ xa xôi, hoặc thuộc về một thế giới mà họ chưa thấy chưa biết, khoa học chưa chứng minh nên họ không tin. Cho nên thầy Nhất Hạnh đã xây dựng một hệ thống giáo lý đạo Phật không căn bản, đó là:

1/ Không xiển dương giáo lý Nhân Quả Nghiệp Báo, trong khi chính nhờ Nhân Quả này mà đạo Phật thật sự đem đến cho con người đạo đức và sự tiến bộ.

Theo như năm phép thực tập "Chánh niệm" mà thầy Nhất Hạnh cho đó là con đường thoát duy nhất, có thể cung cấp những giáo lý; những phép thực tập có khả năng giúp cho mọi giới nhất là giới trẻ, giới trí thức tháo gỡ những khó khăn nội tâm; chuyển hóa được những phiền giận lo âu; những nghi kỵ, tuyệt vọng; tái lập lại được truyền thông với người thân và đóng góp được một cách tích cực vào việc xây dựng một nền đạo đức dân tộc có khả năng chuyển hóa những tiêu cực hiện có như nạn tham nhũng, nạn mại dâm, nạn ma túy, nạn đổ vỡ gia đình…mà thầy lại không thiết lập những điều đó trên nền tảng của Nhân quả thì giống như xây nhà không đặt mống. Bởi vì có tin Nhân quả, con người mới yêu quý đạo đức và đi tìm đạo đức, nhẫn chịu được nghịch cảnh một cách bình an và còn phấn đấu làm tất cả những việc lành, không mê tín, không làm các điều ác. Ai cũng thấy "Luật pháp" không thể kiềm giữ được thú tính trong mỗi con người mà chỉ có Nhân quả trong mỗi con người mới giúp họ sống đúng và tự giác mà thôi. 

Cho nên, nếu không có một luận thuyết về Luật Nhân Quả mà lại kêu gọi mọi người phải sống đạo đức thì cái đạo đức đó không có nền tảng. Do Không có một một giáo lý chuẩn nên người ta không thiết tha trong cái việc xây dựng đạo đức cho cuộc sống. Bởi vì đạo đức cuộc sống, nó đòi hỏi người ta phải thay đổi nội tâm mình để sống cho tốt.

Hiện nay, tuy khoa học chưa chứng minh được đường đi của Nhân quả nhưng đó là điều có thật. Nó là một nguyên lý tự nhiên rất công bằng và khách quan của vũ trụ mà Đức Phật là Người khám phá, có cái nhìn xuyên suốt, thấy rất rõ. 

Khi Đức Phật nói về Nhân quả là do Ngài đã chứng kiến rõ ràng trong thiền định. Tức là khi Ngài đắc đạo, Ngài nhập định trong thiền định liền thấy được vô lượng kiếp của mọi người và thấy rõ ràng mọi chuyện đã diễn ra theo Nhân quả. Với người gieo nhân như thế…sẽ có kết quả như thế! Nghĩa là nó luôn có một sự bù đắp rất công bằng trong vũ trụ này.

Cho nên, quan điểm Nhân Quả Nghiệp Báo luôn là yếu tố chủ đạo xuyên suốt, nhất quán trong hệ thống giáo lý của đạo Phật. Còn những vị Đạo sư đời nay, nếu bỏ qua, không dạy cho tín đồ tin hiểu vững vàng về Nhân Quả Nghiệp Báo thì chắc chắn mọi người sẽ hiểu sai đạo Phật, sẽ dễ rơi vào mê tín và sẽ không ứng dụng được đạo lý cho cuộc sống cũng như định hướng cho sự tu hành giải thoát của họ được tốt đẹp hơn. 

2/ Không tin các cõi Trời, không đề cập đến ba cõi sáu đường.

Hòa Thượng cho rằng: "Niết bàn, Thiên đường, sự sống bên kia cái chết" chỉ là sáng tạo phẩm của một nhận thức chủ quan, là những giả thiết siêu hình không thể kiểm soát. 

"Những từ Niết bàn, Hư vô, Tịch diệt, Bản ngã, Luân hồi…không có nghĩa nhất định. Có bao nhiêu định nghĩa về Niết bàn rồi. Và những cố gắng ấy là để làm nên một việc mà chính Đức Phật Thích Ca đã không làm nổi. 

Hỏi Niết bàn là gì? Ngài đã từ chối không trả lời".

Đúng là cái bệnh tâm lý ngã mạn của người đời sau, luôn cho rằng mình nói đúng hơn ngay cả với Đức Phật. Với trí tuệ của một Đức Phật thì không điều gì trong vũ trụ này mà Ngài không lý giải được hết. Những lời dạy của Ngài luôn có giá trị vượt cả không gian và thời gian. Có điều do hành nghiệp căn cơ của chúng sinh quá thấp nên không thể hiểu nổi về cái thấy biết của một tâm chứng đến tuyệt đối mà ngôn ngữ không diễn tả được. Chỉ có người nào chứng rồi mới biết cho nên Đức Phật không nói là vậy.

Có câu chuyện về "Con Rùa Và Con Cá", chuyện kể rằng:

Con Rùa có thể sống dưới nước và lên bờ cũng được, trong khi con Cá do nghiệp của nó chỉ sống dưới nước mà không lên bờ được. Cho nên khi nghe con Rùa nó kể chuyện trên bờ cho con cá nghe thì con Cá không thể nào tin, bởi vì nó không chứng kiến nên không tin. Nhưng thật ra có chuyện ở trên bờ chứ không phải không có. 

Cũng vậy, ở đây chúng ta không chứng kiến được cõi Trời nhưng không phải là không có. Hồi Đức Phật còn tại thế, Ngài đã nói trong các kinh rằng "Có Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới", tức là có hằng hà sa số thế giới. Tuy nhiên vào thời đó, chưa ai tin hết vì người ta chỉ thấy phạm vi thế giới của mình thôi. Đến khi khoa học phát triển, họ đã tìm ra được các hành tinh khác. Mỗi vì sao là một thế giới. Rồi lên được cung trăng họ cũng phát hiện đó là một thế giới, nhưng các nhà khoa học nói đó là một trái đất chết không có người sống. Thật ra ở đó cũng có những sanh linh sống. Sở dĩ họ không thấy được vì cách nhau bởi biệt nghiệp.

Tương tự, Đức Phật có nói đến Lục đạo luân hồi tức là sáu con đường mà chúng sinh chết đi rồi sống lại và nó luân hồi qua lại mãi "Ta thấy tất cả chúng sinh luân hồi trong lục đạo, xây vần trong sáu đường này. Cũng như một người đứng trên lầu cao nhìn xuống dưới ngã tư đường, thấy người nào đi đường nào…đường nào".

Tùy theo nghiệp lực đã gây tạo mà sau khi chết có người sinh về cõi Trời hay cõi người. Có người rơi vào ngạ quỷ, địa ngục hay súc sanh. Nói sáu đường mà sự thật ta chỉ thấy có hai đường là người và súc sanh. Bốn đường còn lại là Trời, Atula, Ngạ quỷ, Địa ngục thì không thấy. Ta không thấy do không chứng kiến được chứ không phải là không có, tại vì cái biệt nghiệp của mọi loài mọi chỗ mà sống thì cái nhìn nó khác nhau. Ví dụ cõi Trời sống không bằng hình tướng mà bằng tư tưởng. Cái tư tưởng đi qua đi lại không có hình tướng thì làm sao ta thấy được. 

Chính vì không tin có thế giới siêu hình nên thầy Nhất Hạnh chủ trương "Tôi không có ước ao cái cõi Niết bàn, Tịnh độ hay Thiên đường, tại vì Niết bàn là ở đây; Tịnh độ là ở đây; Thiên đường là ở đây".

"Trong tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơi và hạnh phúc thì ba nẻo đường đen tối là Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh không thể xuất hiện. Những nẻo đường đen tối đó có thể phát hiện trong ta bất cứ lúc nào trong ngày nếu ta đánh mất niệm, định và tuệ". Vì vậy không cần phải đi về tương lai mới có hạnh phúc, hay không cần phải chết mới đi vào Tịnh độ. 

Bởi vậy nhiều người nhận định, có lẽ thầy Nhất Hạnh do bị ảnh hưởng của nền văn hóa Tây phương và kiến thức tâm lý học của mình nên có lối giảng rất thực dụng. Thầy là một vị tu sĩ Phật giáo có sứ mệnh hoằng truyền chánh pháp của Đức Thế Tôn lại không tin Niết Bàn tuyệt đối của Phật. Cho nên đã chủ trương đi tìm sự thảnh thơi an nhàn trong hiện tại. Điều này làm cho Đạo Phật bị biến dạng, thật đau lòng!!!

Đối với những vấn đề mà khoa học chưa chứng minh được như: 

- Giáo lý Nhân quả nghiệp báo, tình trạng tái sinh luân hồi mãi hay sự an lạc trong thiền định, các cõi Trời, cõi Địa ngục, Ngạ quỷ làm người trí thức hay nghi ngờ. Nhưng chúng ta là người đệ tử Phật phải có niềm tin và đức tin quả quyết về một sự thật là "Ngoài thế giới vật lý này còn tồn tại thế giới của siêu nhiên, có sự hiện hữu của chúng sinh trong đó". Hơn nữa đó là những giáo lý quan trọng được Phật thân chứng và thấy rõ, có thế chúng ta mới tu được. 

Sự thật, địa ngục không phải là sản phẩm tưởng tượng của tâm để muốn có là có, muốn không là không, mà địa ngục là khách quan ngoài ý muốn của tâm. Tuy địa ngục thuộc về thế giới tâm linh, thế giới siêu hình nhưng lại có thật. Khi một người làm ác, họ không muốn vào địa ngục nhưng cứ bị một sức hút vô hình đẩy vào. Vì có địa ngục nên con người rất sợ tội lỗi và sống một đời hiền lương đạo đức.

3/ Việc dùng tâm lý để giải quyết đau khổ chỉ là tạm bợ,  phải có yếu tố công đức mới là tận gốc.

Thầy Nhất Hạnh dạy rằng: "Mỗi khi có nổi buồn, cơn giận hay niềm tuyệt vọng, ta dùng phương pháp trị liệu là ôm ấp những cảm xúc đó một cách ưu ái và hết lòng thì năng lượng ưu ái đó sẽ làm cho cơn giận hay nổi buồn dịu lại". Cách thực tập là hãy chấm dứt hết mọi ưu tư, chỉ bám sát vào hơi thở ra hơi thở vào.

Chúng ta thấy với cách thức đó, nếu có tìm được sự an lạc thì cũng chỉ là một chút yên ắng tạm thời thôi. Nếu không có phước, những cái bung xung tâm lý vẫn tiếp tục trổi dậy. Rồi ta lại tiếp tục đè nén và cứ thế thì tâm càng mệt mỏi. Lúc này tâm không còn yên nữa mà trở nên rất vọng động.

Muốn trị tận gốc ta phải biết nguyên nhân của đau khổ là do đâu ?

- Có thể do thiếu đạo đức, do không có lý tưởng giải thoát, do nghiệp quá khứ. 

Thường thiếu đạo đức là do nhân vị kỷ nên cái quả là đau khổ. Ngược lại với cái nhân vị tha thì cái quả là an vui, đó là sự hổ tương trên nhân quả. Vì vậy để giải quyết cái khổ một cách rốt ráo, chúng ta nên theo lời Phật dạy là hướng về mục tiêu vô ngã sẽ tránh được lỗi lầm hơn. Ngay cả khi đạt được cái tâm thanh tịnh sáng suốt vẫn phải tự nhắc mình bản ngã chưa hết, lỗi lầm chưa sạch để đừng chủ quan tự mãn. 

Mặt khác phải làm nhiều việc phước song song với việc tu tập thiền định. Chính việc làm lợi ích cho mọi người sẽ có cái phước tác động trở lại làm tâm được yên một cách tự nhiên chứ không phải do tu tập. Đó là vì phước và nhân quả luôn đi đôi, phối hợp nhịp nhàng với nhau không sơ hở. Cho nên muốn đi tìm sự định tâm mà phước ít quá sẽ không nhiếp tâm được. Đừng tưởng chỉ thực hành phương pháp nhiếp tâm là nhiếp được. Bên ngoài thấy cũng ngồi yên đó nhưng bên trong vọng tưởng vây kín. Cho nên sự tu hành của mỗi người chỉ tự mình biết. Quan trọng là phải thành thật với chính mình thì công phu tu hành mới tiến.

Một vài điều kiện quan trọng để hóa giải đau khổ là phải tinh tấn lễ Phật, tinh tấn tu tập thiền định để nhiếp tâm cho được. Bởi vì khi tâm ta thanh tịnh thì những mục tiêu thế gian không lừa gạt được mình. Ta vẫn sống giữa cuộc đời đầy bất trắc nhưng không đau khổ. Trong đời sống ta thấy được lỗi lầm của mình trong từng điểm nhỏ. Ngoài ra còn thương yêu giúp đỡ người khác được. Chính cái tâm vị tha làm mình quên đi thực tại rằng mình đang có đau khổ, vì niềm vui có được trong những việc làm giúp người khác đã phủ kín hết tâm mình. Cho nên vừa tu tập, vừa làm phước, vừa tu dưỡng đạo đức. Đó là những cái nhân tác thành công đức để giải quyết tận gốc của đau khổ, chứ không phải đi tìm một nội tâm an lạc cho chính mình là hết đau khổ. Cái gì đi tìm cho chính mình là dấu hiệu của cái tâm còn ích kỷ. Mà ích kỷ là nguyên nhân của đau khổ. Vì vậy chúng ta phải có trí tuệ thoát ra khỏi chính mình để hướng về mục tiêu vô ngã thì hạnh phúc là chắc thật. 

4/ Cách dụng công thiền quán thường sử dụng tưởng tượng 

 Làm mệt đầu óc và tăng thêm ảo tưởng kiêu mạn.

Trong năm bài thực tập "Chánh niệm" từ thấp đến cao, ta thấy bài nào trong cách dụng công cũng có tưởng tượng. Bài tập càng cao thì tưởng tượng càng nhiều. Ví dụ bài tập thứ tư:

1. Thở vào, tôi biết tôi thở vào

    Thở ra, tôi biết tôi thở ra

2.Thở vào, tôi thấy tôi là bông hoa

   Thở ra, tôi cảm thấy tươi mát

               …………………………………

5. Thở vào, tôi trở nên không gian mênh mông

    Thở ra, tôi cảm thấy tự do thênh thang

Hoặc bài thứ năm:

1. Thở vào, tôi thấy tôi là em bé năm tuổi

     Thở ra, tôi cười với em bé năm tuổi là tôi

………………………………………………..

6. Thở vào, tôi thấy em bé năm tuổi là mẹ tôi rất mong manh, rất dễ bị thương tích.

     Thở ra, tôi cười với em bé là mẹ tôi với nụ cười hiểu biết và xót thương.

 

Qua những câu quán tưởng như thế, ta thấy phương pháp thực tập nó không đúng thật như bài kinh "Tứ Niệm Xư" Phật đã dạy. Mà nó vừa lai lai một chút ở bài kinh này, vừa lai lai ở khía cạnh tâm lý, tức là thiết lập lại truyền thông giữa bản thân và cha mẹ

Đức Phật dạy: "Hơi thở vô dài, tôi biết hơi thở vô dài

                       Hơi thở vô ngắn, tôi biết hơi thở vô ngắn".

Tức là hơi thở như thế nào, ta biết như thế đó. Không có tưởng tượng nó như thế này, như thế kia khi thở vào hay thở ra. Cái việc tưởng tượng cho tâm mình phủ trùm "Tôi cảm thấy tôi trở nên không gian mênh mông". Chính cái tâm tưởng tượng đó là một loại tâm loạn, làm mệt trí não.

Ở đây chúng ta không đi tìm cái phủ trùm đó vì nó là một sự tưởng tượng và sự tăng trưởng của bản ngã.

Tu thiền là đi tìm cái không thời gian, không có đối tượng phải suy nghĩ. Từng phút thấy cái hiện tại nó tan vỡ, không có. Đó là lúc tâm ta thanh tịnh không còn thời gian nữa. Còn việc tâm nó phủ trùm, đó là điều tự nhiên nó phải như vậy, không tưởng tượng. Nếu khởi động cái tâm để tưởng tượng thì ngay lúc đó là sai lầm. Chúng ta tu như thế lâu ngày sẽ tẩu hỏa.

Yếu chỉ của Làng mai trong việc thực tập thiền chánh niệm là nhiếp tâm vào hơi thở, mĩm cười làm cho thân tâm an lạc, vững chải thảnh thơi. Và ngay đó cho rằng mình đã về đã tới, không còn mục đích nào tiến tới nữa. 

"Thiền" lúc đầu là vô niệm. Sau sẽ đi dần đến vô ngã. Đó là mục tiêu cuối.

Đừng tưởng tâm được thanh tịnh, thấy mình thảnh thơi vững chải, có trí tuệ rồi cho rằng trạng thái đó là viên mãn nên ca ngợi đề cao, cho rằng "Chỉ có pháp môn thực tập của tông phái mình là có khả năng giúp hành giả nhiếp được tâm". Nghĩ như thế thì mặt dù tâm đang thanh tịnh đó nhưng vẫn đang tự cao. Một khi có tự cao, rồi cộng thêm tưởng tượng thì coi chừng nếu không có phước sâu dầy trong quá khứ, người đó sẽ trở nên điên loạn

Cho nên tâm tự hào là một trở ngại rất nguy hiểm đối với người tu. Ví dụ hôm nay ta ngồi thiền được an lạc, thảnh thơi, vững chải. Nhưng nếu ta khởi tâm nghĩ "À! Mình hay thật, mình tu có tiến bộ" thì qua ngày hôm sau trạng thái yên ắng sẽ không còn nữa. Đó là do cái tâm tự hào nó phá tan hết công đức, làm lui sụt lại công phu tu hành của mình.

Tóm lại, lối tu thiền của Làng mai không đủ sức có được chánh niệm tỉnh giác mà chỉ là tâm tư duy thôi.

  5/ Trong giáo lý Làng Mai, chữ "Thiền" bị lạm dụng.

Lạm dụng đến nổi bất kỳ sự vật, sự việc nào, chỉ cần gán thêm phía sau chữ "Thiền" một từ nào đó là ta có ngay một cái tên gọi rất kêu. Ví dụ: Hòa thượng bình thường cũng gọi là Thiền sư. Lễ lạy gọi là Thiền lạy. Nằm gọi là Thiền buông thư. Đi gọi là Thiền đi. Ngồi gọi là Thiền ngồi. Ngoài ra còn có Thiền thở, Thiền làm việc, Thiền sỏi, Thiền trà, v.v…Toàn là những danh từ hơi lạ so với tự điển Phật học.

6/ Đánh giá Đức Phật như một triết gia dễ thương, chứ không có gì cao siêu.

Trong quyển Thiết Lập Tịnh Độ, trang 59 của Thầy Nhất Hạnh. Có đoạn viết:

"…Tuy Bụt Thích Ca không nói rõ nhưng chúng ta biết rõ Bụt A Di Đà là một người có khả năng rất lớn trong việc xây dựng tăng thân. Nếu Bụt A Di Đà không dễ thương thì đâu có ai muốn đến cõi đó để cộng tác và sống chung với Ngài. Vì Đức A Di Đà dễ thương quá chừng, cho nên hầu hết tất cả những người dễ thương đều quy tụ về bên đó".

Đọc trích đoạn trên, ta có cảm giác Thầy Nhất Hạnh tán thán công hạnh của Phật A Di Đà, nhưng thông qua đó là ngầm ca ngợi mình đã có công thiết lập được nhiều Tăng thân trên khắp thế giới. Đồng thời Làng mai là một cõi Tịnh Độ thiết thực  bây giờ và ở đây. Cho nên phương pháp "Mỗi bước chân đi vào tịnh độ" là quà tặng quý nhất của Làng mai đối với những ai muốn thực tập. Riêng thầy Nhất Hạnh là người dễ thương nhất nên Thiền sinh khắp nơi quy tụ về Làng mai, cùng tu tập để tận hưởng từng bước chân an lạc đang dẫm lên mảnh đất Tịnh độ ở trời Tây. 

Thầy Nhất Hạnh hiểu Đức Phật chỉ là người tỉnh thức không cao siêu lắm. Điều đó đã hạ thấp giá trị chứng ngộ của Đức Phật xuống mức ngang bằng một triết gia. Tức là cho rằng Đức Phật ngồi suy nghĩ dưới cội bồ đề mà chứng đạo. Thấy như vậy tức là thầy Nhất Hạnh không hiểu  ý nghĩa lớn lao của sự "Giác ngộ"

* Để chứng đạo, một người đệ tử Phật phải thành tựu khả năng nhập xuất tự tại bốn mức định là từ Sơ thiền cho đến Tứ thiền". 

Do mục tiêu tu tập của Làng mai là đứng lại ở chỗ tư duy, cho nên hiểu sai về Đức Phật như thế là làm cho đạo Phật chóng suy tàn.

Sự thật nhân quả của việc thành Phật rất phức tạp. Phải có chánh nhân là kiếp nào đó đã từng cung kính thiết tha một vị Phật. Tôn kính đến mức có thể hy sinh cả mạng sống vì Phật. Nhờ cái tâm tôn kính như vậy mà chúng sinh đó trở nên khát khao thành Phật. Rồi trải qua nhiều kiếp tinh cần, chúng sinh đó phải tu tập theo đúng Bát Chánh Đạo, làm được vô số công đức, thành tựu các mức thiền định phi thường, diệt trừ hoàn toàn chấp ngã, thoát ra khỏi tâm thức riêng của mình để trở thành toàn thể vạn hữu. Đó là như thế.

7/ Xem Phật và Chúa giống nhau.

Thầy Nhất Hạnh chủ trương chính sách vượt thoát khỏi khuôn khổ tôn giáo của đạo Phật để có thể hòa đồng các tôn giáo khác với nhau. 

Bởi vậy các thầy và các sư cô đạo tràng Mai Thôn cũng học Phúc Âm. Đồng thời cũng đã từng đi tham dự những sinh hoạt tu tập và trao đổi ở các Tu viện Cơ Đốc Giáo tại Pháp, Hoa Kỳ, Au Châu.

Vào năm 1995, thầy Nhất Hạnh có viết quyển sách "Living Buddha, Living Christ". Dịch sang tiếng Việt có tựa đề là "Bụt trong ta, Chúa trong ta". Với nội dung có sự so sánh giữa Bụt và Chúa rất giống nhau. Đó là quan điểm riêng của thầy Nhất Hạnh. Kỳ thực xét về mọi phương diện Chúa làm sao bằng Phật được. Thầy Nhất Hạnh nói như thế khiến cho tín đồ Phật giáo mất cảnh giác về âm mưu bành trướng của kitô. Nghĩa là người Phật tử lập gia đình thoải mái theo Chúa mà bỏ đạo nhà. 

Nói như thế không có nghĩa là chúng ta tự tôn, kỳ thị, phân biệt mà là một sự bảo vệ đạo Phật. Ngay cả Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ XIV trong cuộc gặp gỡ với Đức Giáo Hoàng John Paul II đã từ chối đề nghị một hình thức hỗn hợp hay thống nhất giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo. Ngài nói rằng: 

Thật khó để có chuyện hợp nhất giữa Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Nếu bạn muốn có mối quan hệ mật thiết hơn, thông hiểu nhau hơn, điều đó đang diễn ra trong các tôn giáo.” Ông lưu ý: Với những cá nhân hành đạo, việc có một chân lý, một lý tưởng là rất quan trọng. Có nhiều chân lý, nhiều lý tưởng là mâu thuẫn nhau. 

Ông tiếp: “tôi là Phật tử, do đó Phật giáo đối với tôi là chân lý duy nhất, tín ngưỡng duy nhất. Đối với người bạn Hồi giáo thì đạo Hồi là chân lý, là tín ngưỡng duy nhất. Trong lúc ấy tôi vẫn tôn trọng và ngưỡng mộ những người bạn Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Và nếu hợp nhất theo nghĩa trộn lẫn vào nhau thì không thể được và cũng vô ích". ( Nguồn tin Zenet News Agency )

8/ Thầy Nhất Hạnh tuyên bố Phật Di Lạc đã Đản Sanh 

với hình thức một Tăng đoàn, một Tăng thân hay một cộng đồng.

Trong một bài giảng với tựa đề ĐỨC PHẬT CỦA THẾ KỶ XXI, tại chùa Hoằng Pháp. Thầy Nhất Hạnh nói rằng: "Đức Phật Di Lạc đã đản sanh. Năm nay Ngài được năm hay sáu tuổi. Lần này Đức Phật được sinh ra không phải là hình thức một cá nhân mà là hình thức một tập thể, một cộng đồng, một tăng đoàn, một tăng thân"…

Đây là điều kỳ lạ mà hội chúng mới được nghe. Nhưng khi hiểu rõ đường lối của Làng mai thì thấy ẩn ý của câu nói đó muốn  ám chỉ "Tăng thân" của Làng Mai là hiện thân của Phật Di Lạc

Trong những thập niên qua, thầy Nhất Hạnh dành rất nhiều công phu để xây dựng một tăng đoàn xuất gia, có khả năng gây được niềm tin cho giới trí thức và người trẻ tuổi. Cho nên trong mỗi khóa tu thầy Nhất Hạnh tổ chức nơi nào là đều có sự góp mặt của tăng đoàn. Tăng đoàn này có khả năng giảng dạy, hướng dẫn tu học cho mọi người. Đây là một đòn tâm lý chứng tỏ cho quần chúng thấy giáo lý làng Mai có thể đáp ứng được nhu yếu của mọi thành phần trong thời đại mới. Chứ còn nếu thầy Nhất Hạnh một thân độc mã đi đến các Nước thuyết giảng thì cho dù thầy có nói cao siêu cách mấy cũng không đủ gây niềm tin tưởng cho tứ chúng tại các nước ấy. 

Tuy nhiên nói như thế là thầy Nhất Hạnh dám bẻ cong lời Phật và  gây nên một tà kiến trong đạo Phật.

9/ Vì không tôn trọng Phật nên thầy Nhất Hạnh  đã tuyên bố mình đang có hóa thân giáo hóa khắp thế giới.

"Khi mà tôi nghĩ những tác phẩm của tôi in ra hằng 40 – 50 thứ tiếng, nó đi khắp thế gian, nó đi vào các tu viện của người Công giáo, vào trong nhà tù, vào trong những ngõ ngách…Giúp cho người ta tiếp xúc được với chánh pháp của Đức Thế Tôn. Tôi thấy rằng tôi là những cuốn sách đó, tôi đang hành đạo ở khắp nơi, tôi có hóa thân khắp nơi. Còn cái quý vị đang nhìn thấy đây không phải là tôi đâu, nó chỉ là một mặt nhỏ xíu. Và tôi có những người bạn, có những người đệ tử tiếp nối tôi trên khắp thế giới, và đó là những hóa thân của tôi, đó là những sự tiếp nối của tôi. Khi hình hài này tan hoại, quý vị đừng nghĩ tôi chết, không đâu. Bản chất của tôi cũng giống như bản chất của đám mây, nó là vô sanh, bất diệt. Mà bản chất của quý vị tương tức cũng vậy là vô sanh là bất diệt". 

Thường chỉ có những vị đắc đạo mới tuyên bố có Pháp thân, Báo thân, Hóa thân. Thầy Nhất Hạnh tự cho mình có hóa thân như thế là chứng tỏ mình bằng Phật. Đành rằng thầy Nhất Hạnh là một vị Tu sĩ có tài, có lý tưởng, có bản lãnh, có công phát triển đạo Phật ở Tây phương. Nhưng nếu thầy Nhất Hạnh đừng tự nói những cái hay của mình, đừng xác quyết mình như Phật thì cái lòng tôn kính của mọi người đối với thầy Nhất Hạnh thật là vô hạn.

Thiền Sư Zen Zetsu (Nhật) căn dặn đệ tử: "Đừng nói cho người chung quanh biết về con trước khi họ tự khám phá ra con".

Người chân chính không bao giờ nói ra cái hay của mình, nhưng tự họ trong đời sống có những hành vi tốt đẹp toát ra. Điều này khiến người khác cảm nhận được và họ tin chắc đây là một bậc Thánh nhân. 

Ở các đạo khác, họ xây dựng lòng tôn kính đối với giáo chủ rất mạnh. Ví dụ đạo Hồi. Bởi vậy đạo của họ vững vàng và phát triển mạnh là vậy. Chỉ có đạo Phật rất lạ là có tư tưởng xem nhẹ lòng tôn kính đối với vị giáo chủ của mình. Cho nên đôi lúc có những vị Thiền sư chứng ngộ, thích bày tỏ sự cao siêu của mình để cạnh tranh ngang hàng với Phật. 

10/ Truyền đăng

Vào thời Đức Phật, kết quả tu tập của các vị đệ tử do chính Đức Phật xác nhận là họ đang ở vị trí nào theo tiêu chuẩn của bốn mức Thiền và bốn Thánh vị. Cho nên việc truyền tâm ấn có nghĩa là thầy công nhận đệ tử đắc đạo giống mình.

Ngày nay quý thầy, quý sư cô và cư sĩ Làng Mai, trước khi tấn phong làm giáo thọ cũng được làm lễ truyền đăng nhưng là một hình thức tâm lý để giữ chân họ chứ không còn giá trị tâm linh nữa. Và trong khi thọ lãnh đó mỗi vị được tặng bài kệ giống như một sự công nhận, ví dụ:

TT Thích Phước Tịnh:

Phước duyên lòng đất nở hoa

Bước trong cõi tịnh, ngồi tòa chân như

Cánh đồng sao mọc vô dư

Đỉnh xuân hằng hữu bây giờ trăng lên.

Chị Châu Hương Sơn:

Vầng trăng trên biển bạc

Đã về ngự Hương Sơn

Sóng không sinh chẳng diệt

Mưa biển lại về nguồn.

11/ Thầy Nhất Hạnh kêu gọi hòa hợp, bắt tay với tất cả.

Nếu các nước liên hiệp Châu Au có những yếu tố triết học, thần học và văn hóa chung làm nền tảng cho sự thực hiện cộng đồng thì các nước Đông Nam Á chúng ta cũng có những yếu tố như thế để làm mẫu số chung. Đó là đạo Bụt, đạo Khổng, Đạo Lão, tinh thần Tam Giáo Đồng Nguyên, lý tưởng đại đồng, quan điểm tam tài, ý hướng yêu chuộng hòa hợp với thiên nhiên và nhất là sự yêu chuộng sự thảnh thơi nhàn du.

Ai cũng thấy rõ ràng trong thời đại này, không ai còn có thể bế quan tỏa cảng, không ai còn có thể đứng một mình như một hải đảo nữa. Ta không thể nào cô lập trong cô lập. Ta chỉ có thể đứng thế liên lập mà thôi (Tuổi trẻ – Tình yêu – Lý tưởng).

Lời nói như thế là nhen nhúm kêu gọi đa nguyên đa đảng chứ không phải đạo lý. Bởi vì thầy Nhất Hạnh cho rằng: "Nhiều ý kiến vẫn hơn một ý niệm độc tôn. Nhiều thành phần chính kiến tôn giáo, xã hội đồng tâm hiệp lực xây dựng quê hương vẫn hơn một đảng phái độc quyền, bao cấp quản ly". 

Còn đạo lý là ta thương yêu mọi người nhưng phải dẫn dắt mọi người về với Phật pháp, không phải tạo điều kiện cho kẻ xấu phát triển. Người có bản lãnh là không chìu theo cái sai của thế gian. Đôi lúc phải chấp nhận đụng chạm để thay đổi một quan điểm sai nhằm đưa đến lợi ích sau này. Có như thế lẽ phải chân lý mới được bày tỏ.

12/ Thầy Nhất Hạnh có bổn phận giải thích thật hay  những điều sư cô Chân Không đề ra có vẻ kỳ lạ.

Ví dụ:

- Sư cô Chân Không, không cho thầy Nhất Hạnh giữ điện thoại, email, tiền bạc thì thầy phải nói đó là do "Thầy tự tại không vướng mắc".

- Sư cô Chân Không, không cho thầy Nhất Hạnh tiếp khách thì thầy phải nói là "Thầy được sư cô bảo hộ chu đáo".

- Sư cô Chân Không hạn chế tất cả quyền lợi của tăng ni thì thầy Nhất Hạnh giải thích là "Tuy không có địa chỉ hay điện thoại riêng nhưng quý thầy cô ở làng Mai chấp nhận một cách hoan hỷ. Tại vì đó không phải là giới hạn tự do mà là một phương pháp thực tập uy nghi để bảo hộ tự do".

- Ngoài ra sư cô Chân Không còn quyết định mọi kế hoạch, nhân sự và kể cả đưa ra giáo lý cho thầy Nhất Hạnh giảng dạy.

Qua những điều như vậy cho thấy sư cô Chân Không là người rất nguy hiểm, tuy là người đứng phía sau nhưng luôn chỉ đạo cho thầy Nhất Hạnh trong mọi vấn đề.

 

***Kết luận: 

Nhìn những điểm phân tích trên, ta thấy:

- Thầy Nhất Hạnh phát triển đạo Phật nhưng bỏ mất cái gốc.

- Không yêu quý tôn trọng cái gốc từ Đức phật đã dựng lập vì có ý tự cho mình không thua kém Phật.

- Không tin có Niết bàn tuyệt đối của Phật cũng như không tin có thế giới siêu hình.

- Có khuynh hướng hòa đồng các tôn giáo là làm loãng đạo lý của Phật trộn lẫn giữa đúng và sai. 

- Thầy Nhất Hạnh đưa "Tâm lý học" Tây phương vào trong cách giảng dạy nên đã lái đạo Phật sang hướng thực dụng hơn là chứng đạt chiều sâu tâm linh.

- Trong cách dụng công tu "Thiền" hay tưởng tượng.

- Có những ý đồ thầm kín khó hiểu.

- Lệ thuộc quá nhiều vào sư cô Chân Không.

Mong các vị Tăng Ni và phật tử phải cảnh giác đừng bị những lời hoa mỹ lôi kéo, dẫn dụ đi sai đường.

 

Tháng 6/ 2005

Trí Thông

 

Cần xem "giáo lý làng mai" để đối chiếu.

http://www.thuvienhoasen.org/index-tacgia-nhathanh.htm

THƯ VIỆN HOA SEN

trích http://www.thuvienhoasen.org/batnhalangmai-01.htm

HỒ SƠ TU VIỆN BÁT NHÃ LÀNG MAI

XIN GIỬ CHO ĐẠO PHẬT ĐƯỢC TRONG SÁNG – Nguyễn Trí Cảm

                        04 tháng 12, 2009

Một nhân vật khi được công chúng biết đến nhiều hay nói cách khác là đã "nổi tiếng" thì thường là thần tượng của một số đông người, cũng như là đối tượng bị nhiều xét nét, bè phái chống đối, chụp mũ, bất kể đúng sai. Nói chung, những nhân vật này đã trở thành con người của công chúng vì vậy, những hành vi, suy nghĩ của họ đều trở thành "mẫu mực" cho những người sùng bái thần tượng cá nhân noi theo, cả khi dám sống và chết cho thần tượng của mình. Mẫu người thứ hai là những người có khuynh hướng nhìn nhận sự việc theo hướng khách quan, dựa trên cơ sở khoa học, xem trọng lý tính, tránh để cảm tính chi phối ở mức độ có thể có được. Ở đây, ta không đề cập đến những người không có chính kiến hoặc giữ yên lặng, không màn chuyện thế sự. Bài viết này chỉ liên quan đến một phạm vi nhỏ của đạo Phật, một hiện tượng biến tướng của Phật giáo, và sự ngạc nhiên đối với sự im lặng của GHPGVN trước hiện tượng này.

Người viết đọc sách Phật không nhiều, tuy nhiên, kể từ khi kinh sách được phổ biến rộng rãi, cộng vào thêm nhiều trang mạng điện tử Phật giáo xuất hiện, người viết bỗng dưng thấy Phật giáo trở nên hiện đại như "thế giới phẳng", Phật giáo ít nhiều không mang hình ảnh đặc thù nữa, nhất là xem một số sách báo xuất phát từ Làng mai. Không riêng gì người viết, các bạn bè, đạo hữu đôi khi hàn huyên cũng cảm thấy lạ, khi thấy làng Mai như muốn "lồng ghép" Ki-tô giáo vào Phật giáo để hình thành nên một pháp môn mới của Phật giáo thời hiện đại. Họ ngại đề cập, họ giữ im lặng vì cho rằng vị thầy đã thành danh kia như cái bóng núi quá lớn, và cho rằng có thể đó là một trí tuệ siêu việt mà họ không đủ tầm để hiểu, cũng như khi nói về "thần tượng" của một bộ phận công chúng thường gặp ý kiến nhiều chiều, nên ngại. Nhưng vẫn có những phật tử lên tiếng, họ trân trọng những ai đóng góp cho Phật giáo, nhưng vẫn không thỏa hiệp với sự biến tướng, lệch lạc.

Sư ông Làng mai là một thiền sư, hòa thượng có thể nhìn thấy "rác là hoa và hoa là rác", nhưng đại đa số  Phật tử là người "sơ cơ", đang trên đường tu học, chưa đạt được cái nhìn "tương tức" như thiền sư được, vẫn nhìn thế giới với cái tâm phân biệt trắng đen, thiện-ác một cách rõ ràng. Bồ tát Thích Quảng Đức vẫn phải xả bỏ thân mình để cảnh tỉnh chính quyền của gia đình ông Ngô Đình Diệm nhằm bảo vệ đạo pháp cũng vì cái ác này. Nhân dân Việt Nam nói chung, và Phật giáo nói riêng, đã học nhiều bài học lịch sử trong việc chống lại sự nô dịch của ngoại bang, của văn hóa Thánh kinh, nên vẫn phải cảnh giác với những sách lược của Vatican và Tin lành trong việc "chiên hóa" người dân của họ, điều này có nghĩa là khi đánh mất bản sắc dân tộc thì khả năng giữ nước cũng không còn. Mất nước không phải ở dạng thời kỳ thuộc địa của thế kỷ 19, 20 mà ở dưới nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy, khi đặt Ky-tô giáo ngồi cùng tòa với Phật giáo, người phật tử không thể không nghĩ đến chuyện "sói và cừu" nói chuyện sống chung hòa bình, và nghĩ về tương lai của Phật giáo.

Những chiêu bài quen thuộc như "đạo nào cũng tốt, cũng dạy con người ăn ngay ở lành", vậy sao khi cho người gặp khó khăn một ít gạo, một vài gói mì, giúp đỡ người hoạn nạn một ít tiền mà họ lại chiêu dụ những người này cải đạo trong lúc miệng vẫn thuyết giảng rằng đạo nào cũng tốt, hoặc dưới một vài hình thức tinh tế hơn như thông qua hôn nhân, cho vay vốn, bảo lãnh định cư v.v.. Vì vậy, để hỗ trợ cho chính sách truyền đạo theo Tông huấn Giáo hội tại Châu Á năm 2000 của cố Giáo hoàng  John  Paul II, Vatican thừa nguồn tài lực để thực hiện chương trình này. Sự tiếp tay dù vô tình hay hữu ý khi vận dụng, vin vào cái nhìn tương tức, tâm không phân biệt, hay theo cái thấy mà hòa thượng thường giảng dạy như bản môn, tích môn mà thuyết giảng Phúc âm cho Phật tử đều không thích hợp, một nửa tòa sen không phải dành cho Giê-su.

Sau đây một trích đoạn phát biểu của TS. NH trong dịp đến thăm nhà thờ Phát Diệm ở Ninh Bình vào sáng ngày 30/04/2007 như sau:

 "Ở Mai Thôn Đạo Tràng tại Pháp, mỗi năm đến ngày giáng sinh, chúng tôi luôn luôn tổ chức lễ Giáng Sinh rất long trọng, tại vì đa số các thiền sinh đều có nguồn gốc Ki Tô giáo. Ngày giáng sinh rất nhiều thiền sinh Tây phương về Đạo Tràng Mai Thôn như con cháu về nhà tổ phụ. Vì vậy vào đêm Giáng Sinh tôi luôn luôn  giảng một bài về Phật và về Chúa.

 (trích nguồn: http://phusaonline.free.fr/PhatHoc/TinTuc/TDTS_3 …)

http://sachhiem.net/TONGIAO/tgN/NGTRCAM/Img/Maithondaotrang.jpg

Hình kỷ niệm chụp chung giữa các tăng ni sinh Làng mai và các linh mục, bà sơ trước nhà thờ Phát Diệm.

Những phát biểu trên tạo cho người đọc cảm thấy đây có vẻ như là một tôn giáo thờ chung "Phật & Chúa" mới được hình thành, hay còn gọi là pháp môn Làng Mai, mà Sư ông vừa đóng vai trò là tu sĩ Phật giáo để giảng về đạo Phật, vừa đóng vai trò của một linh mục để giảng về đạo Chúa,  xem tu viện Phật giáo như là nhà tổ phụ của các đạo Chúa -Tổ phụ Abraham, hay nhà của tổ phụ là Làng mai, tùy theo cách hiểu của mỗi người . Và cũng có thể hiểu ngược lại là xem nhà thờ cũng như là chùa!

Có phải vì thế mà khi sự việc xảy ra ở Bát Nhã, thì có một nhà thờ Công giáo ở Bảo Lộc đề nghị cho các nạn nhân là tu ni sinh vào cư trú đúng như tinh thần " Về Nhà thôi: Giê-su và Phật là hai anh em"-“Going Home: Jesus and Buddha as Brothers”- như tựa một cuốn sách do Thiền sư viết hoặc "Living Buddha, Living Christ", tiếng Việt là: "Bụt Ngàn Đời, Chúa Ngàn Đời".  Người viết không có cơ duyên để đọc các cuốn sách này, nhưng đề tựa của chúng tạo nên cảm giác "đạo nào cũng tốt". Trong nước cũng có một tác phẩm của Thiền sư được xuất bản với đề tựa "Hiệu lực Cầu nguyện", trong đó cũng có cả một chương "Cầu nguyện trong đạo Ki tô" đề cập đến bản kinh "Lạy Cha". Thiền sư là một học giả uyên bác, nên viết một câu, một đoạn, một chương đều có chủ định nhất định, để nhắm tới đối tượng đọc.

Thuận theo lẽ vô thường, khi sư ông giải nghiệp (chết) thì mai sau, khi các giáo thọ có nguồn gốc Ki tô giáo hoặc thấm nhuần giáo lý Ki tô, những hạt giống của Làng mai, sẽ đưa giáo pháp của Phật giáo đi xa đến tận đâu khi  thầy Chân Pháp Đệ, một tu sĩ Phật giáo của Làng Mai, nhân ngày lễ "Đức Mẹ Vô Nhiễm" đã viết trong Lá thư Làng mai số 32 với tựa bài là "Tin Mừng", ngay khi sư ông vẫn "ngồi yên như núi" ở đó, và xin trích một đoạn:

"Ngày xưa, ai ai cũng dừng lại khi nghe chuông nhà thờ đổ và niệm ba lần kinh Lạy Mẹ Maria. Ngày nay, chỉ có các Thiền tăng dừng lại. Tôi yêu tiếng chuông và tôi niệm một lần kinh Lạy Mẹ. Nghe hồi chuông cầu Kinh Đức Bà cũng giống như nghe tiếng gọi của đức Ki-tô, gọi tôi quay về với chân tâm và mời tôi làm như Mẹ Mary: mang năng lượng Chúa Thánh Thần, sản sinh ra đức Ki-tô trong cuộc đời mình, trong thân và tâm mình."

(Trích nguồn:  http://langmai.org/images/stories/lathulangmai/pdf/ltlm_32_A4Size_part01.pdf )

Vâng, ngày xưa khi nghe tiếng chuông nhà thờ thì mọi người ở cái nôi Ki tô giáo châu Âu, châu Mỹ, có thể có cả các con chiên Việt Nam dừng lại để đọc ba lần kinh "Lạy Mẹ Maria", và ngày nay không ai đọc nữa, tại sao họ không đọc nữa? và chỉ có các thiền tăng dừng lại, dừng lại để làm gì ? Để đọc ba lần kinh Lạy Mẹ Maria ? Đó là chưa kể Làng mai tổ chức lễ Giáng sinh, hát thánh ca trong thiền viện mỗi mùa giáng sinh rất long trọng như chính lời Sư ông nói. Một nỗ lực để làm mới một Ki tô giáo mà ngày nay người ta không còn dừng lại để đọc kinh khi nghe tiếng chuông nhà thờ đổ, lại thông qua các "thiền tăng"!

Người viết không dám vọng ngữ, chỉ đọc bài Kinh Phật dạy người Kalama [*]* – “Này quý vị Kalama, đừng tin vì nghe truyền khẩu, đừng tin vì đó là truyền thống, đừng tin vì nghe đồn đại, đừng tin vì được ghi trong kinh điển, đừng tin vì lý luận, đừng tin vì suy diễn, đừng tin vì đã tư duy trên mọi lý lẽ, đừng tin vì dựa theo ý kiến đã được cân nhắc, đừng tin vì vị ấy có vẻ có uy quyền, đừng tin vì nghĩ rằng vị ấy là thầy của mình.

 ”Khi nào quý vị tự mình biết rõ: 'Các pháp này là bất thiện; các pháp này là đáng chê; các pháp này bị người trí chỉ trích; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến bất hạnh khổ đau', quý vị hãy từ bỏ chúng. … Khi nào quý vị tự mình biết rõ: 'Các pháp này là thiện; các pháp này là đáng khen; các pháp này được người trí ca ngợi; các pháp này nếu được thực hiện và chấp nhận, sẽ đưa đến lợi lạc hạnh phúc', quý vị hãy đạt đến và an trú“.

mà y pháp, viết những điều theo nhận thức hạn hẹp của mình. Người viết cũng tự hỏi phải chăng pháp môn Làng mai từng bước muốn "làm mới" Phật giáo bằng cách "Ki-tô hóa Phật giáo", nhưng liệu có đúng thời và đúng pháp trong một đất nước mà vấn nạn Ki tô giáo vẫn chưa phai mờ trong ký ức, khi mà nhiều cao tăng nước nhà vẫn im lặng nhìn danh vọng là phù vân, vô ngã là niết bàn, và người viết vô phép bắt chước Thiền sư Tuệ Trung Thượng Sĩ mà lộng ngôn, nhại lại rằng: 'Phật là Phật, Chúa là Chúa. Phật không cần là anh em với Chúa. Chúa không cần là anh em với Phật". Đạo Phật vốn lấy trí tuệ làm sự nghiệp –Duy tuệ thị nghiệp- vốn đã trong sáng, tròn đầy, nên không cần dùng một thứ tôn giáo ngoại lai nào khác để làm sáng tỏ thêm cái không thể sáng tỏ thêm. Nếu bài viết có điều gì không đúng, bất kính là do căn trí còn trì độn, xin đọc giả lượng thứ cho.

 

SG, 1-12 .2009

Nguyễn Trí Cảm



 

 ** Lúc Hoàng hậu Thiên Cảm khi thấy anh mình là Tuệ Trung Thượng sĩ  "ngã mặn" trong bữa tiệc nên hỏi: – Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì làm sao thành Phật được?
Ông cười đáp: – Phật là Phật, anh là anh. Anh không cần thành Phật, Phật không cần thành anh. Em chẳng nghe cổ đức nói: “Văn thù là Văn thù, giải thoát là giải thoát đó sao“?

VÀI Ý KIẾN XUNG QUANH VỤ TU VIỆN BÁT NHÃ – Trần Chung Ngọc

 

 

 

    Sau đây chúng ta hãy đi một chút vào những hoạt động tôn giáo và một số những lời giảng dạy của Làng Mai để cho vấn đề được rõ ràng.

  Lá thư Làng Mai viết:

 

Xem các thầy và sư cô Làng Mai như những nhà truyền giáo ngoại quốc, đó là chuyện không ai có thể hiểu nổi. Họ chỉ là những đứa con của đất nước luôn luôn mang trong lòng niềm thao thức về đóng góp cho đất nước mà thôi. Những gì họ muốn đóng góp không phải là văn hóa và kỹ thuật đem từ bên ngoài vào, trái lại chỉ là những gì rất thuần túy văn hóa dân tộc.

 

    Mặt khác, Thiền sư Nhất Hạnh cũng giảng:

 

Chúng ta biết rằng giáo lý của đạo Bụt mà muốn cho đích thực là giáo lý của đạo Bụt, thì giáo lý đó phải có hai tính cách. Tính cách đầu là Khế lý, tính cách thứ hai là Khế cơ…. Khế lý nghĩa là nó đích thực phải là Phật pháp, Phật pháp chính tông, không phải là thứ Phật pháp biến hình.

 

    Nhưng:

 

    Chúng ta biết rằng, hàng năm ở Làng Mai cũng như ở Tu Viện Lộc Uyển đều tổ chức ăn mừng Lễ Giáng Sinh, hát Thánh Ca v..v… Từ bao giờ truyền thống Phật Giáo có nghi thức này? Mang những nét văn hóa này nhập cảng vào Việt Nam thì có phải là khế cơ không? Về phương diện xã giao thì nhân dịp Lễ Giáng Sinh một chức sắc Phật Giáo, nếu được mời, có thể đến dự lễ do nhà thờ tổ chức và chúc mừng tôn giáo bạn. Nhưng chuyện nhà Chùa tổ chức lễ Giáng Sinh và hát Thánh ca là chuyện chưa từng thấy ở Việt Nam. Rất có thể khi " Làng Mai " phát triển ở Việt Nam thì các Chùa cũng phải theo tập tục này. Lẽ dĩ nhiên Làng Mai có quyền tổ chức bất cứ lễ lạc nào mà mình muốn ở ngoại quốc, dù những lễ lạc đó không nằm trong truyền thống Phật Giáo Việt Nam. Khoan kể là ngày nay, thế giới Tây phương, ít ra là trong giới hiểu biết và trí thức ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo đã nhìn vai trò của Chúa Giê-su như thế nào.

 

    Lá thư Làng Mai là để truyền bá những giáo lý của Tăng thân Làng Mai và tất nhiên để cho mọi người thuộc Giáo hội Làng Mai đọc, suy gẫm và thực hành. Trong Lá Thư Làng Mai số 32 tôi đọc được bài "Tin Mừng" của Chân Pháp Đệ, một cựu Linh mục nay theo Làng Mai. Trong bài này, có đoạn Chân Pháp Đệ viết:

 

“Nghe hồi chuông cầu kinh Đức Bà cũng giống như tiếng gọi của Đức Ki Tô, gọi tôi quay về với chân tâm và mời tôi làm như Mẹ Mary: mang năng lượng Chúa Thánh Thần, sản sinh ra Đức Ki Tô trong cuộc đời mình, trong thân và tâm mình. Hồi chuông cầu kinh Đức Bà làm tôi thức tỉnh, nhận ra rằng cũng như Mary, các anh chị em tôi đều mang “tâm thức của Đức Ki Tô” ngay bây giờ và ở đây. Chất Thánh Nữ của Mary có mặt rất rõ trong tôi, nơi Thiền viện Phật Giáo này (Người Phật tử nhận diện Mẹ Mary như Đức QuánThế Âm (Avalokita)).

 

Nhiều người trong chúng ta có thể tiếp xúc với DNA tinh thần [sic] của Mẹ Mary qua thực tập Thiền lạy, khi chúng ta áp người sát đất và quán tưởng về năng lượng trị liệu của Đất Mẹ trong mỗi chúng ta và trong Tăng thân”

 

    Ngoài ra Chân Pháp Đệ còn viết về những điều như “Tội tổ tông”, Đức Mẹ “thụ thai vô nhiễm” v..v…, những tín điều mà Tây phương đã không còn tin nữa.

 

    Tôi tự hỏi, không biết từ bao giờ mà người Phật tử và là người Phật tử nào đã "nhận diện Mẹ Mary như Đức Quán Thế Âm (Avalokita)". Những niềm tin của thời Trung Cổ trên tất nhiên là những ý kiến cá nhân của Chân Pháp Đệ, nhưng lấy ý kiến của mình áp đặt lên "Người Phật tử" là điều khó có thể chấp nhận, mà nó lại nằm trong Lá Thư Làng Mai, điều khó hiểu nếu không nằm trong sự truyền bá văn hóa Ki-tô của Làng Mai. Nhưng không phải chỉ có Chân Pháp Đệ mới viết lên được những câu như trên, nếu chúng ta đã đọc những cuốn như "Living Buddha, Living Christ", và “Going Home: Jesus and Buddha as Brothers” của Thiền sư Nhất Hạnh.

 

    Rất có thể đối với một thiền sư như Thích Nhất Hạnh, hoặc với mục đích giới thiệu Phật Giáo cho người Tây phương, và Thiền sư đã thành công, đại thành công, cho nên Thiền sư đã viết lên những cuốn sách như vậy. Nhưng trong lãnh vực học thuật (scholarship) và về phương diện nghiên cứu trí thức thì những cuốn sách đó không nói lên được điều gì ngoài chuyện làm vui lòng các tín đồ Ki Tô Giáo nhưng lại làm hoang mang các tín đồ Phật Giáo không thuộc hệ Làng Mai. Đây là điều tôi cho là nguy hiểm đối với giới Phật tử vì thường không phải ai cũng có trình độ nghiên cứu vấn đề một cách kỹ lưỡng, và những gì viết ra bởi một Thiền Sư nổi tiếng như Thiền sư Nhất Hạnh bao giờ cũng có giá trị và được đánh giá cao. Nhưng vấn đề chính ở đây là, tôi có cảm tưởng là TS Nhất Hạnh không nghiên cứu kỹ về Ki Tô GiáoTôi sẽ trình bày vấn đề này với một số chi tiết.

 

    ¨ Hai khuôn mặt trái ngược

 

    Điều đầu tiên chúng ta cần nhận thức là, nếu nghiên cứu kỹ thì khuôn mặt của Đức Phật trong Kinh điển Phật Giáo và khuôn mặt của Jesus trong Tân ước hoàn toàn đối ngược nhau, từ đời sống cho đến những lời nói. Chúng ta sẽ thấy Đức Phật khiêm nhường bao nhiêu thì cũng thấy Jesus tự cao tự đại tự tôn bấy nhiêu. Chúng ta sẽ thấy ngôn ngữ của Đức Phật êm ái bao nhiêu thì cũng thấy ngôn ngữ của Jesus khó nghe bấy nhiêu. Đây là những sự thực không ai có thể chối cãi nếu đã đọc kinh điển Phật Giáo và Tân Ước và tôi sẽ chứng minh ngay sau đây.

 

    Có thể nói, tôi là người nghiên cứu khá kỹ về cuốn Thánh Kinh cũng như về Ki Tô Giáo, cho nên tôi thấy khựng lại khi đọc một số tư tưởng ngoài Phật Giáo của một Thiền Sư Phật Giáo. Tôi không biết Thầy hiểu thế nào về những quan niệm về Thượng đế, Thánh Linh, Thiên đường, Nước Chúa v..v.. trong Ki-tô Giáo, nhưng đối với tôi, tất cả những gì Thiền sư Nhất Hạnh viết về Thượng đế, Thánh Linh, Thiên đường, Nước Chúa v..v.. trong Ki-tô Giáo đều không phù hợp với những điều mà tôi đã đọc trong hàng trăm tác phẩm nghiên cứu về Ki Tô Giáo của các học giả Tây phương, ở trong cũng như ở ngoài Ki Tô Giáo, và đặc biệt của một số lãnh đạo cao cấp trong Ki Tô Giáo.. Đây là tôi nói về lãnh vực học thuật chứ không dám bàn đến lãnh vực tâm linh mà ai cũng có thể hiểu và tin theo cách riêng của mình. Thật vậy, chúng ta hãy đọc một số ý tưởng của Thiền sư Nhất Hạnh trong Chương 4 của cuốn "Living Buddha, Living Christ" qua bản dịch của Chân Văn trên báo Người Việt trước đây:

 

    Trong phạm vi bài viết này, tôi không thể đưa ra những nhận xét về những ý tưởng của Thiền sư Nhất Hạnh trong Chương này mà chỉ có thể điểm qua vài ý tưởng điển hình của Thiền sư. Thiền sư viết:

 

    - Đức Ki Tô Hằng Sống là Con của Thượng Đế, đã phục sinh, và nay vẫn còn tiếp tục sống.

 

    - Tôi thấy chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm cuộc đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của Ngài.

 

    - Trong nhãn quan Phật Giáo, ai không phải là con của Thượng đế?

 

    - Tội tổ tông cũng có thể được chuyển hóa khi một người tiếp xúc với Thánh Linh. Giêsu là con của Thượng Đế và con của Người. Chúng ta cũng là con của Thượng Đế và của song thân chúng ta.

 

    - Nơi duy nhất chúng ta có thể tiếp xúc với Giêsu và Nước Chúa là ở trong nội tâm mình.

 

    - Khi chúng ta theo dõi và tiếp xúc một cách sâu sắc với cuộc đời và giáo lý của Chúa Giêsu,

 

    - chúng ta có thể thâm nhập vào sự thật của Thượng Đế. Tình yêu, sự hiểu biết, lòng can đảm, sự bao dung, là những biểu hiện của cuộc đời Chúa Giêsu. Thượng Đế xuất hiện với chúng ta qua Giêsu Ki Tô. Với Thánh Linh và Nước Chúa ở trong Ngài.

 

    Thật quả tôi hết sức ngỡ ngàng khi đọc những đoạn trên. Nếu những đoạn trên mà viết bởi một người Ki-tô Giáo ít hiểu biết thì không nói làm gì [trong thời đại ngày nay, không một nhà thần học Ki-tô Giáo nào có hiểu biết về Kinh Thánh và về Chúa Giê-su của họ dám viết như trên], nhưng nếu nhân danh Phật Giáo mà viết như vậy thì thật là ngoài sức tưởng tượng của tôi. Hiển nhiên là người viết những câu trên đã không biết đến những nghiên cứu về Ki-tô Giáo và về chính nhân vật Giê-su trong 200 năm nay của hàng trăm học giả, chuyên gia về Ki-tô Giáo, ở trong cũng như ngoài các giáo hội Ki-tô, kể cả một số nhà thần học, linh mục, mục sư v..v… Sau đây chúng ta sẽ đi vào những điểm trên với những tài liệu trong lãnh vực học thuật.

 

    ¨ Về Chúa Giê-su

 

    Học giả Ki-tô Russell Shorto đã viết trong cuốn "Sự Thật Trong Phúc Âm" (Gospel Truth) như sau:

 

    "Điều quan trọng nhất là, tác động của quan điểm khoa học ngày nay đã khiến cho các học giả, ngay cả những người được giáo hội Ca-Tô bảo thủ cho phép nghiên cứu, cũng phải đồng ý là phần lớn những điều chúng ta biết về Giê-su chỉ là huyền thoại… Các học giả đã biết rõ sự thật từ nhiều thập niên nay – rằng Giê-su chẳng gì khác hơn là một người thường sống với một ảo tưởng – họ đã dạy điều này cho nhiều thế hệ các linh mục và mục sư. Nhưng những vị này vẫn giữ kín không cho đám con chiên biết vì sợ gây ra những phản ứng xúc động dữ dội trong đám tín đồ. Do đó, những người còn sống trong bóng tối là những tín đồ Ki Tô bình thường."

 

    (Most important, the impact of the scientific perspective is having now that even scholars working under a conservative Catholic imprimatur agree that much of what we know of Jesus is myth… Scholars have known the truth – that Jesus was nothing more than a man with a vision – for decades; they have taught it to generations of priests and ministers, who do not pass it along to their flocks because they fear a backlash of anger. So the only ones left in the dark are ordinary Christians.)

 

    Cho nên, những câu như "Chúa Ki-tô là Đức Hằng Sống, là Con Một của Thượng đế, đã Phục Sinh v..v.."thì không còn mấy ý nghĩa đối với những người ở ngoài đức tin Ki-tô Giáo cũng như đối với giới hiểu biết trong Ki-tô Giáo. Lẽ dĩ nhiên, ai cũng có quyền nhận xét về Giê-su theo ý mình, nhưng theo tôi, những lời thuyết giảng trên, nếu nhân danh Phật Giáo, thì thật là nguy hại và thiếu tinh thần trách nhiệm. Thiếu tinh thần trách nhiệm và nguy hại vì các tín đồ Ki-tô giáo có thể hài lòng trước những lời trên, và kết quả là vẫn tiếp tục sống trong trong bóng tối của sách lược che dấu sự thực của các giáo hội Ki-tô. Còn đối với đa số Phật tử trong mọi giới, thì những lời giảng trên sẽ gây hoang mang nếu không muốn nói là gây nguy hại cho Phật Giáo. Tại sao?

 

    Vì Phật Giáo trên thế giới đang phải đối phó với sách lược xâm lăng văn hóa và tôn giáo của Ki-tô Giáo, một sách lược mà Tiến Sĩ C. de S. Wijesundera ở Tích Lan lên án là "tấn công Phật Giáo một cách ti tiện, xảo trá, và đại quy mô." (They [the Christians] were engaged, Dr. C. de S. Wijesundera said, in a “despicable, treacherous, indecent and massive assault on Buddhism”.) Nhiều tài liệu đã in thành sách và ở trên Internet đã chứng tỏ là sách lược này đang được tích cực thi hành ở Ấn Độ, Thái Lan, Tích Lan, Việt Nam v..v.. Đáng lẽ Phật Giáo phải dấn thân tìm cách đối phó với sách lược ti tiện, xảo trá và đại quy mô tấn công Phật Giáo để cải đạo người Phật tử, thì chúng ta lại được dạy phải quán chiếu để mà tu tập theo Giê-su. Vấn đề ở đây không phải là chúng ta không nên theo những cái hay của các vĩ nhân trên thế giới, nhưng về phương diện tu tập trong Phật Giáo, Cuộc đời Đức Phật, Giáo pháp của Đức Phật không đủ hay sao, gương tu hành của các Tổ, các Cao Tăng trong Phật Giáo không đủ hay sao, mà chúng ta còn phải tu tập theo Giê-su, những tư tưởng và hành động của Giê-su mà thực sự chúng ta không biết rõ nếu chưa nghiên cứu kỹ Kinh Thánh và cuộc đời của Chúa Giê-su trong đó.Thử hỏi, có cái gì của Giê-su, từ giáo lý, nếu có, đến phương pháp tu tập, nếu có, mà không có trong các tôn giáo khác, trong dân gian, ngoại trừ điề! u Giê-su dạy phải tin vào Cha của ông ta và phải tin vào chính ông ta nếu không thì sẽ bị đày hỏa ngục vĩnh viễn? Đối với những người có đôi chút hiểu biết về Phật Giáo cũng như Ki-tô Giáo thì không ai có thể chấp nhận, nghe theo những lời khuyên như trên. Trái lại họ còn cảm thấy lo lắng vì Phật Giáo đang bị phá ngầm bởi một quan niệm đối thoại sai lầm.

 

    ¨ Thượng đế là gì?

 

    Trước hết, theo nhãn quan Phật Giáo nào mà quan niệm rằng: "ai không phải là con của Thượng Đế?" khi không hề định nghĩa Thượng đế là cái gì? Phật Giáo có chấp nhận một Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ muôn loài hay không? Phật Giáo có chấp nhận là một Thượng đế nào đó đã sáng tạo ra loài người hay không? Mấy chục năm nay, tôi đã đọc không ít sách, báo, Kinh điển Phật Giáo, nhưng tôi không thấy ở đâu viết rằng Phật Giáo tin là có một Thượng đế, nhất lại là Thượng đế của Ki-tô Giáo, theo quan niệm của Ki-tô Giáo.

 

    Một khuôn mặt Phật Giáo có uy tín nhất trong thế giới ngày nay là Đức Đạt Lai Lạt Ma. Ngài đã khẳng định lập trường của Phật Giáo đối với quan niệm Thượng đế của Ki-tô Giáo: "Phật Giáo đã luôn luôn tự kiềm chế trong việc khẳng định sự hiện hữu và thuộc tính toàn năng của một Thượng đế sáng tạo" [The Spirit of Peace: Teaching on Love, Compassion and Everyday Life, by His Holiness the Dalai Lama,, p.71: Buddhism has always refrain from asserting the existence and the omnipotence of a creator god]. Điều này có nghĩa là Phật Giáo chưa bao giờ và sẽ không bao giờ chấp nhận sự hiện hữu và toàn năng của một Thượng đế sáng tạo ra muôn loài. Vậy nhãn quan Phật Giáo nào, dựa vào kinh điển Phật Giáo nào, mà cho rằng: "ai không phải là con của Thượng Đế?" Nếu chúng ta quan niệm Thượng đế như là một sinh thể ban khai, hay là cát bụi trên những ngôi sao [theo Giáo sư Trịnh Xuân Thuận], thì theo tinh thần thuyết Tiến Hóa ngày nay, câu trên có thể đúng. Nhưng hiển nhiên đó không phải là Thượng đế của Ki-tô Giáo.

 

    Chúng ta cần phải nhớ rằng, danh từ Thượng đế là danh từ người Ki-tô Giáo Việt Nam gọi Thần Ki-tô [Christian God] của họ, Thần Jehovah của Do Thái, và đó chính là Thượng đế trong Kinh Thánh của Ki-tô Giáo, là Cha của Giê-su, chứ không phải là Thượng đế theo cái hiểu khác của bất cứ ai. Thí dụ, Einstein cho rằng Thượng đế là những định luật thiên nhiên trong vũ trụ, trái hẳn với quan niệm về Thượng đế của Ki-tô Giáo, một ông thần ngồi trên trời định đoạt số phận của con người, để quyết định xem ai là người được thưởng cho lên thiên đường, ai là người bị phạt, phải đầy đọa xuống hỏa ngục để cho ngọn lửa vĩnh hằng thiêu đốt. Nhưng Einstein chỉ dùng danh từ Thượng đế (God) để nói một cách diễu cợt, vì Einstein không tin có một Thượng đế thưởng phạt như vậy. Tại sao ta phải gán ghép danh từ Thượng đế vào những định luật thiên nhiên mà không gọi chúng đơn giản chỉ là những định luật thiên nhiên? Vả lại, chẳng có ai đi cầu nguyện hay thờ phụng hay yêu hết lòng hết sức những định luật thiên nhiên, thí dụ như định luật vạn vật hấp dẫn.

 

    Nhưng thật ra Thượng đế là gì? Theo sách của Công Giáo [National Catholic Almanac, 1968, trang 360] thì Thượng đế của họ có 23 thuộc tính trong đó có những thuộc tính đặc biệt như "không ai biết được" (unknown), "không ai thấy được" (invisible), "không ai hiểu được" (incomprehensible), "không thể mô tả được" (ineffable). Cho nên bất cứ con người nói gì về Thượng đế chỉ là đoán mò. Hơn nữa, đọc về Thượng đế trong Cựu Ước, không phải là không có cơ sở khi các học giả trong Ki Tô Giáo đã đưa ra những nhận định như sau:

 

1) Tổng Thống Thomas Jefferson của Mỹ, sau khi đọc cuốn "Thánh Kinh", đã nhận định về Thượng đế của Ki Tô Giáo là "một nhân vật có tính tình khủng khiếp – độc ác, ưa trả thù, đồng bóng, và bất công" [Thomas Jefferson describes The God of Moses as "a being of terrific character – cruel, vindictive, capricious and unjust].

 

2) James A. Haught: Qua luận lý, chúng ta có thể thấy quan niệm của giáo hội về một Thượng đế ở trên trời với lòng "quá thương yêu thế gian" không đứng vững. Nếu có một đấng thần linh sáng tạo ra mọi thứ hiện hữu thì ông ta đã làm ra ung thư vú cho phái nữ, bệnh hoại huyết cho trẻ con, bệnh cùi, bệnh AIDS, bệnh mất trí nhớ (Alzheimer), và hội chứng Down (khuyết tật tinh thần). Ông ta ra lệnh cho những con cáo cắn xé nát những con thỏ ra từng mảnh, những con báo giết những hươu nai. Không có một con người nào độc ác đến độ hoạch định những sự khủng khiếp như vậy. Nếu một đấng siêu nhiên làm như vậy, ông ta là một con quỷ, không phải là một người cha nhất mực nhân từ.

 

[Haught, James A., 2000 Years of Disbelief: Famous People with the Courage to Doubt, p. 324: Through logic, you can see that the church concept of an all-loving heavenly creator doesn't hold water. If a divine Maker fashioned everything that exists, he designed breast cancer for women, childhood leukemia, leprosy, AIDs, Alzheimer's disease, and Down's syndrome. He madated foxes to rip rabbits apart and cheetahs to slaughter fawns. No human would be cruel enough to plan such horrors. If a supernatural being did so, he's a monster, not an all-merciful father.]

 

3) Giám mục John Shelby Spong: Cuốn Thánh Kinh đã làm cho tôi đối diện với quá nhiều vấn đề hơn là giá trị. Nó đưa đến cho tôi một Thượng đế mà tôi không thể kính trọng, đừng nói đến thờ phụng. [ John Shelby Spong, Rescuing The Bible From Fundamentalism, pp. 24: A literal Bible presents me with far more problems than assets. It offers me a God I cannot respect, much less worship.]

 

4) Linh mục Công giáo James Kavanaugh viết về "Huyền Thoại Cứu Rỗi" trong cuốn Sự Sinh Ra Của Thiên Chúa (The Birth of God), xin đọc: http://sachhiem.net/TCNtg/TCN36.php:

 

Nhưng đối với con người hiện đại. chuyện hi sinh của Giê-su chẳng có ý nghĩa gì mấy, trừ khi hắn đã bị reo rắc sự sợ hãi và bị tẩy não từ khi mới sinh ra đời (But to modern man, it makes far less sense unless he has been suitably frightened and brainwashed from birth). Đối với tôi (Linh mục James Kavanaugh), đó là một huyền thoại "cứu rỗi" của thời bán khai, miêu tả một người cha giận dữ [Thượng đế ], chỉ nguôi được cơn giận bằng cái chết đầy máu me của chính con mình. Đó là một chuyện độc ác không thể tưởng tượng được của thời bán khai (It is a primitive tale of unbelievable cruelty).

5) Nhưng đặc biệt hơn cả là khi đọc Richard Dawkins trong cuốn "The God Delusion", ấn bản 2008, tôi thấy tác giả đưa ra tới 16 nhận định về Thiên Chúa của Ki Tô Giáo rất đáng để chúng ta nghiên cứu để tìm hiểu sự thật. Mở đầu Chương 2, trang 51, về "Giả Thuyết Về Thượng đế " [The God Hypothesis], tác giả Richard Dawkins viết:

 

Không cần phải bàn cãi gì nữa, Thượng đế trong Cựu Ước là nhân vật xấu xa đáng ghét nhất trong mọi chuyện giả tưởng: ghen tuông đố kỵ và hãnh diện vì thế; một kẻ nhỏ nhen lặt vặt, bất công, có tính đồng bóng tự cho là có quyền năng và bất khoan dung; một kẻ hay trả thù; một kẻ khát máu diệt dân tộc khác; một kẻ ghét phái nữ, sợ đồng giống luyến ái, kỳ thị chủng tộc, giết hại trẻ con, chủ trương diệt chủng, dạy cha mẹ giết con cái, độc hại như bệnh dịch, có bệnh tâm thần hoang tưởng về quyền lực, của cải, và toàn năng [megalomaniacal], thích thú trong sự đau đớn và những trò tàn ác, bạo dâm [sadomasochistic], là kẻ hiếp đáp ác ôn thất thường.

 

[The God of the Old Testament is arguably the most unpleasant character in all fiction: jealous and proud of it; a petty, unjust, unforgiving control-freak; a vindictive, bloodthirsty ethnic cleanser; a misogynistic, homophobic, racist, infanticidal, genocidal, filicidal, pestilential, megalomaniacal, sadomasochistic, capriciously malevolent bully.]

 

Chẳng có lẽ những người như trên [trừ Richard Dawkins là người vô thần] lại không hiểu rõ về Thượng đế của họ hay sao? Mặt khác, tất cả những tính nết của Thiên Chúa hay Thượng đế mà Richard Dawkins đưa lên như trên đã được Steve Wells chứng minh, viện dẫn những câu trong chính cuốn Cựu Ước. Vậy sự thật của Thượng đế và của con ông ta, Giêsu, là cái gì? Tôi không nắm được ý của Thiền sư Nhất Hạnh.

 

    ¨ Không nên nhìn tôn giáo khác qua lăng kính tôn giáo mình

 

    Trong cuộc đối thoại tôn giáo, một trong những sai lầm trầm trọng và nguy hiểm nhất là chúng ta nhìn tôn giáo khác qua lăng kính của tôn giáo chúng ta, hoặc đưa ra những nhận định về một tôn giáo khác mà chưa nghiên cứu, chưa tìm hiểu kỹ càng về tôn giáo đó. Thí dụ, chúng ta là Phật tử, khi bàn về Thượng đế của Ki tô giáo mà lại bàn theo quan niệm của chúng ta về Thượng đế như là Phật tánh hay gì gì đi nữa trong Phật Giáo thì thật sự chúng ta chưa hiểu thế nào là Thượng đế của Ki tô giáo, chưa hiểu người Ki-tô giáo và nền thần học Ki-tô Giáo quan niệm thế nào về Thượng đế của họ để tạo thành nền tảng tín ngưỡng của Ki-tô giáo. Kiểu luận bàn này thực chất không khác gì người Ki Tô Giáo quan niệm Đức Phật chỉ là một ngôn sứ của Thượng đế của họ, và nền thần học Ki tô mới sáng chế ra gần đây với tên "Thần Học Ki-tô Giáo Theo Cung Cách Á Châu" đã diễn giải Đức Phật chỉ là người mở đường cho nhân loại dẫn đến sự "cứu rỗi" của Đức Giê-su Ki-tô (Jesus Christ) mà thực chất sự "cứu rỗi" chỉ là một huyền thoại cần phải dẹp bỏ [Xin đọc bài Huyền Thoại Cứu Rỗi của Linh mục James Kavanaugh và Giê-su Như Là Đấng Cứu Thế: Một Hình Ảnh Cần Phải Dẹp Bỏ của Giám mục Tin Lành John Shelby Spong trên trang nhà Giao Điểm và Sách Hiếm], và Giê-su chỉ là một nhân vật đầy tính thế tục đã đ�! �ợc nền thần học Ki-tô Giáo dựng lên làm Chúa Cứu Thế cho cả nhân loại..

 

    Thứ đến, trước những tác phẩm nghiên cứu về chính nhân vật Giê-su của một số học giả, chuyên gia về Ki-tô Giáo, trong đó có cả những nhà thần học Ki-tô Giáo mà uy tín chuyên ngành khó có ai có thể phủ nhận, và nếu chúng ta chịu khó đọc kỹ Tân Ước về tất cả những lời nói và hành động của Giê-su như được mô tả rõ trong Tân Ước, thì nếu chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Giê-su để mà theo đó mà tu tập thì không hiểu chúng ta phải tu tập theo hành động nào và lời dạy nào. Trong cuốn Hãy Cứu Thánh Kinh Khỏi Phái Bảo Thủ (Rescuing the Bible From Fundamentalism), Giám mục Tin Lành John Shelby Spong viết:

 

    - Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả. (There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical). Và,

 

    Đây là những lời phê phán của một Giám Mục Tin Lành, chứ không phải của người ngoại đạo. Có thể nào một Giám mục thờ Chúa lại có thể phê phán Chúa của mình như vậy, nếu không phải là sự thực bất khả phủ bác mà nhiều học giả nghiên cứu Kinh Thánh đã đồng thuận. Nếu chúng ta đã đọc kỹ Tân Ước thì lời phê phán của Giám mục Spong ở trên quả thật không sai. Vậy chúng ta có nên tu tập theo những "đức tính" như thiển cận, đầy hận thù, và đạo đức giả của Giê-su hay không?

 

    Thiền sư Nhất Hạnh dạy chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng ta tu tập nhưng không cho chúng ta biết những hành động và lời dạy nào của Chúa Giê-su mà chúng ta cần phải quán chiếu như là những mẫu mực để chúng ta tu tập ngoài những mấu mực tu tập trong Phật Giáo. Nếu Thiền sư Nhất Hạnh không nói thì tôi đành phải nói vậy, vì tôi đã đọc kỹ Tân Ước. Tôi chỉ nêu những hành động và lời dạy của Chúa Giê-su trong Tân Ước và sẽ không phê bình, xin để cho đọc giả tùy nghi "quán chiếu".

 

    ¨ Hành động của Chúa Giê-su:

 

1. Matthew 15: 21-28:

 

     "Thế rồi Giê-Su đi tới vùng Tyre và Sidon. Và có một người đàn bà người Canaan đến từ vùng đó và kêu với Giê-Su "Hãy thương tôi, Chúa ơi, Con của David. Con gái tôi đang bị quỷ ám nặng." Nhưng Người không thèm trả lời bà ta một tiếng. Và các đệ tử của Giê-Su tới và yêu cầu Giê-Su: "Hãy đưổi bà ta đi, vì bà ta cứ kêu cứu cùng chúng ta." Nhưng Giê-Su trả lời: "Ta được phái xuống đây chỉ để cứu dân Do Thái mà thôi." Rồi người đàn bà kia tới và thờ phượng Giê-Su và nói: "Chúa ơi, hãy giúp tôi." Nhưng Người trả lời: "Lấy bánh của con dân Do Thái mà ném cho mấy con chó nhỏ [nghĩa là những người phi- Do Thái] ăn thì thật là chẳng tốt tí nào."

 

2. Matthiew 21, 18-21:

 

     Sáng sớm, khi trở vào thành, Ngài cảm thấy đói. Trông thấy cây vả bên đường. Người lại gần nhưng không tìm được gì cả, chỉ thấy lá thôi. Nên Người nói: "Từ nay, không bao giờ mày ra trái nữa!" Cây vả chết khô ngay lập tức. Thấy vậy, các môn đệ ngạc nhiên nói: "Sao cây vả lại chết ngay lập tức như thế?" Đức Giêsu trả lời: "Thầy bảo thật anh em. nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều thầy làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có thể bảo núi này: Dời chỗ đi, nhào xuống biển! thì sự việc sẽ xảy ra như thế."

 

3. Matthew 8: 28 – 34:

 

     Có hai người bị quỷ ám gặp Chúa Giê-su và quỷ trong hai người đó van nài Chúa Giê-su đuổi chúng ra và cho nhập vào một bày heo. Chúa phán "đi ra", chúng liền nhập vào bầy heo và cả bầy heo (độ 2000 con, theo Mark 5: 13) rông tuốt xuống biển chết chìm hết. Trẻ con chăn heo chạy về làng kể chuyện lại cho dân làng nghe, cả làng kéo ra khỏi làng gặp Chúa Giê-su và… xin Ngài (có nghĩa là đuổi) hãy đi ra khỏi vùng đất của họ.

 

    ¨ Vài Lời Dạy Của Chúa Giê-su:

 

Matthew 12:30: Kẻ nào không theo ta, ở với ta, là chống đối ta., và coi những người không tin và tuân phục Giê-su là kẻ thù và dạy môn đồ:

 

Luke 19:27 : Hãy mang những kẻ thù của Ta ra đây, những người không muốn Ta ngự trị trên họ, và giết chúng ngay trước mặt Ta.

 

Matthew 5: 22: Chúa Giê-su dạy: “Người nào nguyền rủa anh em sẽ bị xuống hỏa ngục” nhưng chính Giê- su lại đi nguyền rủa những người không chịu theo Giê-su:

 

Luke 8: 24: Nếu ngươi không tin ta là con Thượng Đế, ngươi sẽ chết trong tội lỗi của ngươi.

 

      Matthew 12: 34: Ôi thế hệ của những loài rắn độc, ác như các ngươi làm sao có thể nói những lời tốt lành?

 

Matthew 23: 33: Ngươi là loài rắn, ngươi là thế hệ của những rắn độc, làm sao các ngươi thoát khỏi hỏa ngục?

 

Matthew 25: 41: "Rồi ta sẽ nói với những kẻ ở phía bên tay trái: "Hãy cút đi cho khuất mắt ta, hỡi những kẻ bị nguyền rủa, để đi vào ngọn lửa vĩnh hằng nhúm sẵn cho quỷ và những thiên thần của nó" [Tiếng Anh nguyên văn là, "Depart from me, you cursed, into the everlasting fire prepared for the devil and his angels" nhưng Kinh Thánh Tin Lành tiếng Việt đã dịch "devil and his angels" là "ma quỉ và những quỉ sứ (của) nó. TCN]

 

Matthew 23: 11-12: Các con càng khiêm tốn phục vụ người thì càng được tôn trọng… Ai tự đề cao sẽ bị hạ thấp, ai khiêm tốn hạ mình sẽ được nâng cao. NHƯNG…:

 

John 6:35: Ta là thức ăn của đời sống. (I am the bread of life)

 

John 8:12, 9:5: Ta là ánh sáng của thế gian (I am the light of the world)

 

John 10: 11, 14: Ta là người chăn chiên chí thiện (I am the good shepherd)

 

John 11:25: Ta là Sự Sống Lại và là Sự Sống (I am the resurrection and the life)

 

John 14:6: Ta là Con Đường, là Sự Thật và là Sự Sống (I am the way, the truth, and the life)

 

John 10:36: Ta là Con Thiên Chúa (I am the Son of God).

 

Tôi không phê bình những hành động và lời dạy trên của Giê-su, nhưng từ những hành động và lời dạy của Chúa Giê-su trong Tân Ước như trên, và không phải chỉ có vậy, các học giả đã nhận xét về tư cách con người của Giê-su như thế nào?

 

Trước hết, có lẽ chúng ta cần phải trích dẫn nhận định về Giê-su của Bertrand Russell, một thiên tài toán học và triết lý, đã được giải thưởng Nobel năm 1950:

 

"Xét về trí tuệ hay đức hạnh tôi không thể nào cho rằng Đức Ki-Tô cũng cao cả như vài người khác được biết trong lịch sử. Tôi nghĩ rằng, về trí tuệ hay đức hạnh, tôi phải đặt Đức Phật và Socrates lên trên Đức KiTô."

 

[I cannot myself feel that either in the matter of wisdom or in the matter of virtue Christ stands as high as some other people known to history – I think I should put Buddha and Socrates above him in those respects.]

 

Ngoài ra, như trên đã ghi, Giám mục John Shelby Spong, sau khi nghiên cứu Tân Uớc, đã đưa ra thêm một nhận định khác về Giê-su như sau:

 

Có những đoạn trong bốn Phúc Âm mô tả Giê-su ở Nazareth như là một con người thiển cận, đầy hận thù, và ngay cả đạo đức giả.

 

(There are passages in the Gospels that portray Jesus of Nazareth as narrow-minded, vindictive, and even hypocritical).

 

Và Jim Walker cũng viết trên Internet trong bài Chúng Ta Có Nên Kính Ngưỡng Giê-su Không? (Should We Admire Jesus?):

 

Giê-su trong Thánh Kinh có xứng đáng với vinh dự mà người ta đã ban cho ông ta hay không? Bất hạnh thay, những người giảng đạo, mục sư, và giáo sĩ [và nay có cả Thiền sư] đã giảng cho chúng ta những câu chuyện với thành kiến một phía, nhấn mạnh và thổi phồng những điều mà họ thấy là tích cực và dẹp bỏ hoặc bỏ qua những điều tiêu cực. Nền học thuật về Thánh Kinh trong trăm năm nay không được những người thường biết đến. Trong khi đó thì, chúng ta thấy những mục sư và nhà truyền đạo trên TV chính trị đã khẳng định những điều vô nghĩa trong Thánh Kinh mà không bị ai đặt vấn đề trách nhiệm của họ. Tuy trên 90% gia đình ở Mỹ có một cuốn Thánh Kinh, thường là không đọc đến, hoặc nhiều nhất là làm nhẹ bớt hoặc lược bỏ khi muốn nói về Thánh Kinh. Nhiều tín đồ Ki-Tô-giáo không hề biết đến là nhiều đoạn trong các Phúc Âm trong Tân Ước, Giê-su được mô tả như là một con người đầy hận thù, xấu xa, bất khoan dung, và đạo đức giả.

 

[Does the Biblical Jesus merit the honor bestowed upon him? Unfortunately, preachers, ministers, and clergymen have given us biased, one-sided stories, emphasizing and inflating what they see as positive while subverting or ignoring the negative. Biblical scholarship of the last hundred years has not reached the common man. Instead, we see political ministers and televangelists making absurd biblical claims without anyone calling them accountable. Although over 90 percent of households in America own a Bible, it usually goes unread, or at best sanitized or bowdlerized to what people want it to say. Unbeknownst to many Christians, many times the Gospels of the New Testament portray Jesus as vengeful, demeaning, intolerant, and hypocritical.]

 

¨ Chúa Giê-su có một giáo lý đặc thù nào

 

Một điểm khác là Chúa Giê-su có một giáo lý đặc thù nào không? Nhận định sau đây của Joseph L. Daleiden, một học giả Công giáo, trong cuốn The Final Superstition, trg. 174, về cái gọi là giáo pháp của Giê-su có thể giúp chúng ta nhìn rõ vấn đề một cách tổng quát:

 

Có rất ít, nếu có, điều sáng tác độc đáo trong giáo pháp mà người ta cho là của Giêsu. Giống như chính huyền thoại về Giêsu, những quan điểm mà Giêsu diễn đạt chỉ là một mớ hổ lốn những ngụ ngôn và luân lý mà chúng ta có thể thấy trong những đạo cổ xưa của Ai Cập, Babylon, Ba Tư, Hi Lạp, Phật, Khổng, Ấn Độ… Một điều rõ ràng: Ki Tô Giáo, một tôn giáo sinh sau đẻ muộn trong lịch sử các tôn giáo, chỉ cóp nhặt (đạo văn) những quan điểm, ý kiến của Do Thái Giáo và các tôn giáo gọi là dân gian. Trong cuốn "Nguồn Gốc Luân Lý Trong các Phúc Âm", Joseph McCabe (Một Linh Mục Công giáo. TCN) đã trích dẫn những quan điểm luân lý trong Phúc Âm mà người ta cho là của Giêsu song song với những quan điểm luân lý tương đương và y hệt của các tác giả Do Thái và dân gian.

 

[Daleiden, Joseph L., The Final Superstition, p. 174: There is very little, if anything, that is original in the teaching attributed to Jesus. Like the myth of Jesus itself, the sentiments he expresses are a hodgepodge of aphorisms and moral convictions that can be found in the ancient Egyptian, Babylonian, Persian, Greek, Buddhist, Confucian, and Hindu religions… But one thing is certain: Christianity, a late-comer in the history of religion, merely plagiarized sentiments from Judaism and the so called pagan religions. In his book Sources of Morality in the Gospels, Joseph McCabe quoted the moral views attributed to Jesus in the gospels and in parallel columns gave exact moral equivalents from Jewish and pagan writers.]

 

Theo Thiền sư Nhất Hạnh thì giáo lý Phật Giáo chưa đủ, chúng ta cần phải suy gẫm để hiểu giáo lý của Chúa Giê-su. Hiểu để làm gì không thấy Ngài nói.

 

¨ Quan niệm Thiên Đường

 

Sau cùng, một sai lầm nghiêm trọng khác mà người ngoại đạo cũng như đa số tín đồ Ki tô Giáo thường vấp phải là quan niệm về một Nước Trời hay Nước Chúa (Kingdom of God) hay Nước Thiên Đường (Kingdom of Heaven) của Ki Tô Giáo. Ngày nay, quan niệm Thiên Đường là một nơi chốn trên các tầng trời, nơi Giê-su ngự và và các tín đồ Ki Tô hi vọng được hưởng nhan thánh Chúa sau khi chết, đã dứt khoát bị bác bỏ, không những bởi giới trí thức và khoa học mà còn bởi chính Giáo Hoàng John Paul II của Công giáo. Để hiểu rõ về quan niệm Nước Thiên Đàng hay Nước Chúa chúng ta cần trở lại lịch sử của người Do Thái.

 

Vào thời điểm Giê-su sinh ra đời thì Do Thái đang sống dưới ách thống trị khắc nghiệt của La Mã. Do đó, dân Do Thái, cũng như trong những thời kỳ bị chinh phục và bắt làm nô lệ trước, mong chờ và tin rằng Thần Gia-vê sẽ đoái thương đến họ, và một đấng cứu tinh thuộc dòng dõi vua David sẽ xuất hiện để giải phóng dân tộc họ. Và quan niệm Nước Trời hay nước Chúa (Kingdom of God) nguyên thủy của người Do Thái rất đơn giản, đó chỉ là sự biến đổi thế giới thường thành một thế giới mà Thiên Chúa của họ sẽ trực tiếp cai quản công việc thế gian và do đó, khôi phục những phúc lợi của dân Do Thái, dân đã được Thiên Chúa chọn lựa (Joel Carmichael, The Birth of Christianity, Dorset Press, New York, 1989, p. 1: The Kingdom of God meant the transformation by God of the natural world into one in which God’s will would conduct human affairs directly and hence restore the fortunes of the Jews, the Chosen People).

 

Douglas Lockhart cũng viết như sau về sự rao giảng của Thánh Paul trong cuốn The Dark Side of God, trang 182: "Giê-su vẫn còn sống và sẵn sàng xuất hiện lúc mà Thượng đế làm phép lạ để khai mạc Nước Chúa ở trên trái đất. Đó là cái mà người Do Thái chờ đợi. Họ không chờ đợi Giê-su trở lại từ trên trời; họ chờ đợi Thượng đế hành động – chỉ khi đó Giê-su mới xuất hiện. Và Giê-su sẽ xuất hiện như là một con người bằng xương bằng thịt. Vì Nước Chúa là một nước vật chất, một vương quốc trên trái đất…" (Jesus was alive and ready to appear the moment God began to work the miracle of inaugurating the Kingdom of God on Earth. This is what they were waiting for. They were not waitin for Jesus to arrive back from heaven; they were waiting for God to make his move – only then would Jesus appear. And he would appear in the flesh. For the Kingdom of God was a physical kingdom, a kingdom on Earth..).

 

Người Do Thái tin tưởng rằng nơi Nước Trời hay Nước Thiên đàng (Kingdom of Heaven), hay Nước của Chúa (Kingdom of God) này, dân Do Thái sẽ sống sung sướng với sữa và mật tràn đầy, dưới sự quản trị và ân sủng trực tiếp của Thần Gia-vê., thần của dân tộc họ. "Nhưng Nước của Chúa này không xuất hiện, vẫn lại là người La Mã cai trị.. Sự mơ ước của người Do Thái về một Nước vật chất của Chúa trên trái đất đã không xảy ra, và vì vậy Giê-su, đấng cứu thế, đã phải cuốn gói lên trời để cho Thượng đế không bị mất mặt." (Lockhart, Ibid., p. 158: The Kingdom of God did not appear, it was just the Romans as usual…The sectarian dream of a physical Kingdom of God on Earth did not materialize, and so Jesus the Messiah had to be packed off to heaven so that God would not lose face.)

 

Đó là tại sao Nước của Chúa ở dưới đất được mang lên Trời. Các tín đồ Công giáo Việt Nam, từ trên xuống dưới, không biết về lịch sử Do Thái, không đủ khả năng tự mình đọc và hiểu lấy Kinh Thánh, không hiểu ý nghĩa của nước Trời hay nước Chúa (Kingdom of God) trong Kinh Thánh, nghe lời giảng hoang đường huyễn hoặc của giới giáo sĩ, nên coi đó là một nước thiên đường ở trên những tầng trời mà không hiểu rằng nước này chỉ là một nước mà Chúa Cha trị vì, cai quản các việc thế gian của dân Do Thái như một ông vua trên trần thế, theo niềm tin của người Do Thái thời bấy giờ, chứ chẳng dính dáng gì tới bất cứ dân tộc nào khác trên thế giới. Thật vậy, trong cuốn A Time For Christian Candor, Giám Mục James A. Pike của giáo xứ California viết như sau, trang 109:

 

Quan niệm về thế giới của Giê-su là quan niệm trong thời đại của ông ta. Quan niệm về một Nước Chúa mà ông ta nhấn mạnh là quan niệm đã được đưa vào Do Thái giáo từ thế kỷ 5 trước thời đại thông thường này, dưới ảnh hưởng của Zoroaster (Một nhà tiên tri Ba-Tư trong thế kỷ 6 trước Tây Lịch. TCN). Ông ta (Giê-su) chịu ảnh hưởng giáo lý của dân Essenes, như là chúng ta càng ngày càng thấy đó là điểu hiển nhiên qua những bản dịch của những Cuộn Kinh Trong Biển Chết. Ông ta có một đầu óc giới hạn – điều này đúng đối với mọi người. Thí dụ, giống như các ông thầy tu Do Thái (Rabbis) cùng thời, ông ta cho rằng chính David viết tất cả những bài Thánh Vịnh cho nên ông ta đã chưng dẫn David như là tác giả bài Thánh Vịnh số 110 (thực ra là một bài đã được viết sau thời David) trong một cuộc tranh cãi với dân Pharisees. Và ông ta nghĩ, phù hợp với tâm cảnh về một ngày tận thế trong thời của ông ta, rằng ngày tận thế đã gần kề.

 

(Jesus’ world-view was that of his time. The concept of the Kingdom of God which he stressed was that introduced into Judaism in the fifth century B.C., under Zoroastrian influence. He was influenced by the teaching of the Essenes, as is growing more and more evident with the availability of translations of the Dead Sea Scrolls. He had a limited mind – as is true of every man. For example, like his fellow rabbis he thought that David wrote all the Psalms and hence he quotes as of Davidic authorship Psalm 110 (which in fact is of later date) in an argument with the Pharisees. And he thought, in accord with the apocalyptic temper of his day, that the end of the world is near.)

 

Như Kinh Thánh viết rõ, Giê-su, chịu ảnh hưởng của Cựu Ước, tin những lời giải thích của những bậc thông thái tiên tri Do Thái, rằng dân Do Thái tội lỗi nên bị Thiên Chúa của họ phạt, nên khuyên mọi người hãy thống hối, đúng như nhận định của giáo sư đại học Hermann Samuel Reimarus: “Tất cả những điều giảng đạo của Dê-su nằm trong hai câu có ý nghĩa y hệt nhau: "Hãy thống hối, và tin vào Kinh Thánh" hoặc, ở một nơi khác "Hãy thống hối, vì Nước Thiên Đàng sắp tới”. Nhưng quan niệm về nước Chúa hay nước thiên đàng của Giê-su lại không phù hợp với quan niệm của người dân Do Thái, không đáp ứng được sự khao khát của dân Do Thái là được giải phóng khỏi ách nô lệ của La Mã, cho nên dân Do Thái mới không tin Giê-su là cứu tinh của dân tộc họ, khoan nói đến tin Giê-su là đấng cứu thế.

 

۞

 

Tôi nghĩ rằng tôi đã viết quá nhiều xa chủ đề Tu Viện Bát Nhã, nhưng lại không thể không viết vì tôi nghĩ rằng không ít thì nhiều, một số những ý tưởng trong những lời giảng dạy giáo lý của Làng Mai cũng ảnh hưởng đến những quan niệm của đại khối Phật Giáo ở Việt Nam đối với Thiền sư Nhất Hạnh và Làng Mai. Chắc sẽ có người cho rằng tôi chống Thiền sư Nhất Hạnh và Làng Mai, và vì tôi là một "Phật tử cực đoan" nên đã phê bình tác phẩm của một Thiền sư đã nổi tiếng khắp thế giới. Không phải vậy. Thật ra thì tôi chẳng lấy gì làm vui khi viết lên những lời phê bình trên. Nhưng trong thời đại ngày nay, quốc gia đang tiến triển về mọi mặt, chúng ta không có quyền giam giữ người dân trong những điều sai lầm mê hoặc đã không còn giá trị. Để độc giả có thể thấy rõ vấn đề hơn, và để thấy rằng tôi không có nhắm vào cá nhân Thầy Nhất Hạnh, tôi xin giới thiệu bài phê bình của một người Mỹ một phần Chương 4 trong cuốn "Living Buddha, Living Christ" của Thiền sư Nhất Hạnh. Tôi xin để bài này trong phần Phụ Lục (xem ở cuối cuốn sách).py

 

 Trần Chung Ngọc, sachhiem.net, ngày 22/10/09

NDVN, ngày 1/11/09

TÔI ĐỌC "BÁT NHÃ LÀ MỘT CÔNG ÁN THIỀN" Của Thiền Sư Nhất Hạnh

                                                                               Trần Chung Ngọc

Vài Lời Nói Đầu:

Bài viết này thuộc loại không nên viết nhưng lại không thể không viết. "Không nên viết" vì tôi là một Phật tử, và "không thể không viết" cũng vì tôi là một Phật tử. Là một cư sĩ còn lăn lộn trong vòng thị phi thế tục mà viết bài nhận định về "Công án" của một Thiền sư đã thoát tục, vang danh khắp thế giới như Thiền sư Nhất Hạnh, thì thật quả là "không nên viết". Nhưng trong lãnh vực học thuật trí thức, tôi lại không thể không viết, vì đọc suốt bài "Bát Nhã Là Một Công Án Thiền" của Thiền sư Nhất Hạnh, tôi vẫn không hiểu thế nào là "công án Bát Nhã", so với cái hiểu trước của tôi về thế nào là một "công án", vì vậy cho nên không thể không viết. Rất có thể, tôi chưa đủ khả năng để hiểu "công án" của Thiền sư Nhất Hạnh. Tuy nhiên, là một Phật tử không ít thì nhiều đã thấm nhuần "Kinh Nền Tảng Đức Tin" (Kinh Phật thuyết cho người dân Kalama] của Phật Giáo, tôi muốn nói lên những suy tư của mình về một vấn nạn không chỉ liên quan đến Tu Viện Bát Nhã mà có thể liên quan đến Phật Giáo Việt Nam nói riêng, đất nước nói chung, dù rằng những suy tư này, với những giới hạn của chúng, có thể làm cho một số người không hài lòng, phật ý.

Thành thực mà nói, đọc bài viết trên ký tên Nhất Hạnh, với sự hiểu biết của tôi về Thiền Sư Nhất Hạnh qua một số không ít những tác phẩm viết về Phật Giáo của Thiền sư trước đây, tôi thật tình không dám tin đó là sản phẩm trí tuệ của Thiền sư Nhất Hạnh. Tôi có cảm tưởng là tên tuổi và uy tín của Thiền sư ở ngoại quốc đã được sử dụng cho những mục đích có thể nằm ngoài vòng kiểm soát của Thiền sư. Nhận định này của tôi có thể sai, nhưng tôi không thể nào nghĩ khác được, sau khi đọc đi đọc lại bài "Bát Nhã Là Một Công Án Thiền". Thật vậy, trong "công án Bát Nhã" này tôi thấy cả một tu viện, mấy trăm Tăng thân Làng MaiPháp Nạn của Phật Giáo Việt Nam. [Thích Nhất Hạnh: Bát Nhã đây là Tu Viện Bát Nhã ở Bảo Lộc, là Tăng thân Bát Nhã đang gặp khó khăn và đang là một mối băn khoăn cho chính quyền, là Pháp nạn của Phật giáo Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ thứ hăm mốt], trái ngược hẳn với sự hiểu biết của tôi về những "công án" mà tôi đã đọc, thường chỉ là một mẫu đối thoại, một đoản văn, một câu chuyện ngắn ngắn thuộc về Thiền Đạo . Những công án nổi tiếng nhất trong Thiền Tông Phật Giáo chỉ là một chữ "mu" [vô = không] hay ngắn gọn như "Vạn pháp qui nhất, nhất qui hà xứ: Tất cả đi về một, một đi về đâu", hoặc "Tiếng vỗ của một bàn tay là gì?". Vậy bài viết này chỉ để trình bày một khúc mắc trong lòng, hi vọng có thể giải tỏa được nỗi bức xúc của tôi.

Tôi không phải là đệ tử của Thiền sư Nhất Hạnh, nhưng điều này không có nghĩa là tôi ở phe nào đó chống Thiền sư. Trái lại, tôi đã viết nhiều bài bênh vực Thiền sư, từ chuyện Thiền sư phản chiến khi xưa cho đến vụ Thiền sư phát biểu về vụ Bến Tre sau vụ 9/11 xẩy ra trên nước Mỹ [http://www.giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=1015]. Tôi cũng đã giới thiệu cuốn "Đường Xưa Mây Trắng" [http://www.sachhiem.net/TCN/TCNtg/TCN24.php]  của Thiền sư mà tôi cho là một tuyệt phẩm. Và tôi cũng đã hai lần đưa lên Internet bài "Tùng" của Thiền sư, một trong những bài mà tôi ưa thích nhất của Thiền sư. Lâu lắm rồi, tôi đã có lần định theo chị Chân Huyền đến Làng Hồng [khi còn chưa đổi tên thành Làng Mai] tu học. Nhưng có lẽ vì chưa đủ duyên nên tôi không thực hiện được ý định. Rồi thời gian qua, tôi cũng đã thành thực tỏ ý là tôi không đồng ý với một số điểm trong những bài thuyết giảng ngoài lề Phật Giáo của Thiền sư. Vậy quý độc giả hãy coi bài viết này là một bài phân tích và thảo luận thuần túy trí thức về một phương pháp thiền quán quan trọng trong Phật Giáo để đưa hành giả đến giác ngộ: công án, và chỉ như vậy thôi.

Thật ra, phân tích thảo luận trí thức về "công án" là rời xa công án rồi, vì công án chỉ có thể chứng nghiệm chứ không thể luận bàn. Nhưng hiểu thế nào là công án, trong lịch sử Phật Giáo công án thiền được phát triển từ bao giờ, nhằm mục đích gì, công dụng của công án là như thế nào, có tác dụng đối với những hành giả như thế nào, tôi cho không phải là chuyện vô ích. Đây là những điều cần biết trước khi đi vào bài "Bát Nhã Là Một Công Án Thiền" của Thiền sư Nhất Hạnh. (Xin lược bỏ một đoạn phân tích chi tiết về công án)

 

Và bây giờ chúng ta hãy đi vào bài "Bát Nhã Là Một Công Án Thiền" của Thiền sư Nhất Hạnh.

 

۞۞۞

 

Mở đầu Thiền sư Nhất Hạnh viết:

Bát Nhã đây là Tu Viện Bát Nhã ở Bảo Lộc, là Tăng thân Bát Nhã đang gặp khó khăn và đang là một mối băn khoăn cho chính quyền, là Pháp nạn của Phật giáo Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ thứ hăm mốt. Công án là một vấn nạn cần phải giải quyết bằng niệm, định và tuệ chứ không thể chỉ bằng trí năng của ta.

"Công án Bát Nhã" của Thiền sư Nhất Hạnh, theo đúng tinh thần của Công án, là để cho các hành giả quán chiếu "Bát Nhã" như là một "thoại đầu", như Thiền sư đã viết rõ trong bài. Nhưng Bát Nhã là gì? Theo Thiền sư thì Công án Bát Nhã là Công án Tu Viện Bát Nhã ở Bảo Lộc, Công án Tăng thân Bát Nhã đang gặp khó khăn và đang là một mối băn khoăn cho chính quyền, Công án Pháp nạn của Phật giáo Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ thứ hăm mốt., có nghĩa là Tu viện Bát Nhã ở Bảo Lộc là một thoại đầu để quán chiếu, Tăng thân Bát Nhã đang gặp khó khăn và đang là một mối băn khoăn cho chính quyền là một thoại đầu để quán chiếu, và Pháp nạn của Phật giáo Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ thứ hăm mốt là một thoại đầu để quán chiếu.

Nhưng thực ra Tu Viện Bát Nhã, Tăng Thân Làng Mai, và Pháp Nạn Của Phật Giáo Việt Nam có phải là những thoại đầu để tham cứu như là tham cứu một công án không. Câu trả lời nằm trong câu hỏi. Tiện đây chúng ta cũng nên bàn qua về những "thoại đầu" trên.

· Thoại đầu 1: Tu Viện Bát Nhã. Quán chiếu thoại đầu "Tu viện Bát Nhã" là quán chiếu cơ sở vật chất "Tu Viện Bát Nhã" hay là quán chiếu "vụ việc xẩy ra ở Tu Viện Bát Nhã"? Nếu quán chiếu cơ sở vật chất của Tu Viện Bát Nhã thì quán chiếu cái gì, toàn bộ cơ sở, hay chỉ có thiền đường, nhà bếp v…v… Còn quán chiếu vụ việc xẩy ra ở Tu Viện Bát Nhã thì còn loạn tâm hơn nữa, vì vụ việc này là sự tổng hợp của rất nhiều yếu tố, trong đó có mặt của chính Thiền sư, của 400 Tăng sinh Làng Mai, của Giáo Pháp Làng Mai, của chính quyền, của vị trụ trì Tu Viện, của chính quyền địa phương, của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, của công an, của côn đồ, của người dân địa phương v…v… và v…v…

· Thoại đầu 2: Tăng Thân Bát Nhã. Phần này xin để cho các Tăng thân Làng Mai và Tăng thân Bát Nhã quán chiếu, hoặc cho bất cứ ai muốn quán chiếu..

· Thoại đầu 3: Pháp Nạn Của Phật Giáo Việt Nam [trong những thập niên đầu của thế kỷ thứ hăm mốt]. Nhưng thực ra Pháp Nạn của Phật Giáo Việt Nam là ở đâu? Nó ở ngay trong Làng Mai với những "giáo pháp" như:

- Đức Ki Tô Hằng Sống là Con của Thượng Đế, đã phục sinh, và nay vẫn còn tiếp tục sống.

- Chúng ta phải quán chiếu mọi hành động và mọi lời dạy của Chúa Giêsu trong cuộc đời Ngài, như một mẫu mực để chúng ta tu tập. Giêsu sống đúng như lời dạy của Ngài, cho nên suy gẫm cuộc đời Chúa Giêsu là điều tối cần thiết để hiểu giáo lý của Ngài.

- Tội tổ tông cũng có thể được chuyển hóa khi một người tiếp xúc với Thánh Linh. Giêsu là con của Thượng Đế…

- Nơi duy nhất chúng ta có thể tiếp xúc với Giêsu và Nước Chúa là ở trong nội tâm mình.

- Khi chúng ta theo dõi và tiếp xúc một cách sâu sắc với cuộc đời và giáo lý của Chúa Giêsu,

chúng ta có thể thâm nhập vào sự thật của Thượng Đế. Tình yêu, sự hiểu biết, lòng can đảm, sự bao dung, là những biểu hiện của cuộc đời Chúa Giêsu. Thượng Đế xuất hiện với chúng ta qua Giêsu Ki Tô. Với Thánh Linh và Nước Chúa ở trong Ngài.

Mấy câu trên được tác giả John WorldPeace trích lại khi viết bài “A Response to: ‘Living Buddha, Living Christ’ by Thich Nhat Hanh” trên trang nhà http://www.johnworldpeace.com/tnhanh4.html. Sau đây là vài nhận định điển hình của John phê bình Chương 4 trong cuốn sách ‘Living Buddha, Living Christ’.

[John: Well! No Brother Hanh, Jesus did not live exactly as he taught. His admonition to turn the other cheek did not apply to his actions in the Temple. There are many such examples in the gospels of the New Testament in the Christian Bible. For more examples go to The Saying of Jesus

John: Well again Brother Hanh, I do not think you want to make this kind of statement.

Further you can see here the precedent that Jesus set for later Christians to deal accordingly with non-Christians and their pagan religions.

I truly respect you Brother Hanh, but you are attempting to write about Christianity which you do not fully understand ]

Thế kỷ 21 mới chưa hết MỘT thập niên. Và trong thập niên này Việt Nam được hân hạnh tổ chức Lễ Tam Hợp của Liên Hiệp Quốc để kỷ niệm Ngày Sinh, Ngày Thành Đạo, và Ngày Nhập Niết Bàn của Đức Phật. Thiền sư cùng Tăng thân Làng Mai đã về dự. Thiền sư cũng đã về Việt Nam làm Trai Đàn Giải Oan cho những người đã khuất. Thiền sư cũng đã được Thủ Tướng Phan Văn Khải và Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết tiếp kiến. Thiền sư cũng đã được dân chúng và Giáo hội đón tiếp với thảm đỏ, lọng vàng. Vậy Pháp nạn là ở đâu, làm gì có Pháp nạn?

Chỉ sau vụ việc ở Tu Viện Bát Nhã vào hai năm cuối của thập niên đầu, thế kỷ 21, Thiền sư mới cho rằng có Pháp nạn và đó là Pháp Nạn Của Phật Giáo Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ thứ hăm mốt. Vậy phải chăng Thiền sư cho cái mà Thiền sư gọi là "Pháp nạn Bát Nhã" cũng là Pháp nạn của Phật Giáo Việt Nam? Pháp nạn Bát Nhã [nếu thực sự có] tuyệt đối KHÔNG PHẢI là Pháp Nạn của Phật Giáo Việt Nam. Làng Mai không phải là Phật Giáo Việt Nam, dù ở Việt Nam có một số tu theo Giáo Pháp Làng Mai.. Làng Mai chỉ là một tổ chức tôn giáo có Tổng Hành Dinh ở Pháp.

Pháp nạn thật ra đã có từ lâu, ở trong những cụm từ phân biệt "Ấn Quang và Quốc Tự", "Thống Nhất và Quốc Doanh". Khi xưa, Hòa Thượng Thích Đôn Hậu đã nhìn thấy Pháp Nạn trong nhận định: "bản thể của Tăng bị lu mờ, nội bộ Tăng bị phân hóa và thành phần của Tăng có nhiều quan điểm dị biệt, giới hạnh suy kém và hiểu biết đạo lý một cách cục bộ, phiến diện". Ngoài ra, vai trò của chính quyền địa phương hay của chính quyền trung ương liên hệ đến vấn đề xã hội không phải là không quan trọng. Trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam, không thiếu gì những trường hợp kiểm soát việc tu hành của các Tăng sĩ, có khi còn bắt Tăng sĩ hoàn tục. Nhận định như vậy không có nghĩa là những biện pháp của chính quyền đối với các Tăng sinh ở Tu Viện Bát Nhã là đúng với truyền thống văn hóa của Việt Nam.

Vì cùng là một "công án Bát Nhã" nên hành giả phải quán chiếu cùng lúc ba thoại đầu. Nhưng ai là hành giả?

Thiền sư Nhất Hạnh viết:

Công án Bát Nhã là của mọi người, là của mỗi cá nhân và cũng là của từng tập thể. Công án ấy có thể được tham cứu bởi một vị tu sinh Bát Nhã, một học tăng đang theo học tại một trường Trung Cấp Phật Học trong nước, một vị Thượng Tọa trong Giáo Hội, một chú Công an, một ông Bộ trưởng, một vị Linh mục Công giáo, một vị Mục sư Tin lành, một ủy viên Bộ Chính Trị, một vị chủ tịch Hội Đồng Nhân Dân Thành Phố, một bí thư Tỉnh Ủy, một ủy viên Trung Ương Đảng, một nguyên thủ quốc gia, một chủ bút nhật báo hay tạp chí, một nhà trí thức, một nhà nghệ sĩ, một nhà doanh thương, một giáo chức, một ký giả, một vị trú trì, một vị đại sứ.

Trong một đoạn khác, Thiền sư Nhất Hạnh viết;

Ngày xưa, vua Trần Thái Tông ngộ đạo nhờ tham cứu công án "bốn núi" và công án "con người thật không có vị trí (vô vị chân nhân) ". Thiền sư Liễu Quán ở Phú Yên ngộ đạo nhờ tham cứu công án "tất cả đi về một, một đi về đâu? " và đã đệ trình kiến giải tại chùa Ấn Tôn (Từ Đàm), Huế.

Điều này có nghĩa là tham cứu Công án là để ngộ đạo. Hi vọng mọi người chúng ta, xin để tôi ra ngoài, và tất cả các vị trong danh sách trên của Thiền sư Nhất Hạnh, đặc biệt là Chủ Tịch Nguyễn Minh Triết, hay một chú Công an, hay một Linh Mục Công giáo hoặc Mục sư Tin lành đều có thể ngộ đạo [đạo nào?] nếu có thì giờ và để tâm tham cứu cùng lúc ba thoại đầu trên. Hi vọng Chủ Tịch Nước hãy bò việc nước, công an bỏ việc giữ gìn trật tự an ninh trong xã hội, Linh mục Công giáo bỏ các khóa lễ, Mục sư Tin Lành bỏ nói bậy v…v… để giải quyết công án của Thiền sư Nhất Hạnh. Giải quyết như thế nào? Thiền sư đã dạy rõ:

Công án không thể được giải quyết bằng lý luận, bằng biện chứng pháp, dù là biện chứng pháp duy tâm hay duy vật, mà phải được giải quyết bằng niệm lực và định lực, nghĩa là bằng năng lượng của chánh niệm và chánh định… Niệm có nghĩa là nhớ tưởng, là canh cánh bên lòng, là nâng công án lên từng giây từng phút trong đời sống hàng ngày của mình để quán chiếu, không phút giây nào xao lãng. Niệm phải liên tục không được gián đoạn. Khi ăn cơm, khi mặc áo, khi tiểu tiện hoặc đại tiện, khi uống trà, khi tắm gội, hành giả phải đưa công án lên để mà quán chiếu.

Cứ thế mà theo thì sẽ giải được công án của Thiền sư, và Thiền sư bảo đảm là:

Giải được công án thì ta thấy khỏe, không còn lo sợ thắc mắc gì nữa, là thấy được con đường đi, là đạt được sự an tâm.

Như vậy, chúng ta thấy rằng, "Công án Bát Nhã" của Thiền sư Nhất Hạnh thực ra không phải là một "công án Thiền", vì cái gọi là "công án" này phát sinh từ một tâm trạng bất mãn, vì hào quang sáng rực của mình ở ngoại quốc có vẻ như không phát huy được mà còn bị lu mờ ở trong nước, vì những mục đích không thành đạt, hi vọng không thành. Hơn nữa, Thiền sư đã lấy những ý nghĩ một chiều rất chủ quan của mình về vụ việc ở Tu Viện Bát Nhã để áp đặt lên đầu nào là đại úy Công an, nào là hàng giáo phẩm của Giáo hội, thành phần của ban Tuyên Giáo Trung Ương, ủy viên chính trị hay ủy viên trung ương Đảng, và cả vị nguyên thủ quốc gia nữa, để họ phải nghĩ theo những ý nghĩ của mình, bất kể đến khung cảnh chính trị, đến bối cảnh xã hội, và nhất là đến sự góp phần của những nguyên nhân mà chính mình tạo ra để đưa đến vụ việc ở Tu Viện Bát Nhã. Chứng minh?

Chúng ta hãy đọc:

Pháp môn Làng Mai có thể là cơ hội hiếm có để hiện đại hóa đạo Phật ở Việt Nam, và bốn năm hành trì ở Việt Nam hình như đã chứng tỏ được khả năng của pháp môn ấy. Vậy thì tại sao ta lại chịu áp lực của Trung Quốc để đàn áp và tiêu hủy ngay một nguồn sinh lực quý báu của ta? Pháp môn thực tập Làng Mai là một phần trong di sản văn hóa đất nước, hiện thời đang có khả năng đóng góp đáng kể cho một nền văn minh đạo đức toàn cầu, không phải chỉ trên mặt lý luận mà quan yếu nhất là trên mặt thực tế. [Có chủ quan lắm không? Thế giới có hơn 6 tỷ người, có bao nhiêu người thực tập theo Pháp Môn Làng Mai? Việt Nam có hơn 80 triệu người, có bao nhiêu người thực tập theo Pháp môn Làng Mai? Và Pháp Môn Làng Mai có thể hiện đại hóa đạo Phật ở Việt Nam như thế nào, hiện đại bằng cách đưa Phật tử vào vòng mê tín của Ki Tô Giáo??]

"Bát Nhã ngày xưa, nay đã thành mưa, rơi xuống mặt đất, nẩy hạt Bồ đề." [Hạt Bồ Đề của Làng Mai có nẩy mầm kết hoa ra trái ở Việt Nam được không?]

Tại sao mình chỉ muốn tu thôi mà người ta không cho mình tu? Tại sao các bậc tôn túc muốn che chở bảo lãnh cho mình tu mà nhà nước lại không cho bảo lãnh? Mình có biết chính trị là cái gì đâu và chẳng tha thiết gì tới chuyện chính trị, tại sao người ta cứ nói là mình làm chính trị và tại sao cứ nói Bát Nhã là một mối đe dọa cho an ninh quốc gia?

[Chắc Thiền sư Nhất Hạnh quên rằng: Trong chuyến đi Việt Nam vào cuối năm 2007, Thiền sư đã nói với Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết rằng nhà nước nên dẹp bõ ngành công an tôn giáo và giải tán Ban Tôn giáo chính phủ, cơ quan giám định những sinh hoạt tôn giáo.

Rồi đến 2008, niên giám của Làng Mai đề xuất với chính phủ hãy từ bỏ Chủ Nghĩa Cộng Sản, bỏ chữ "Cộng Sản" ra khỏi tên của Đảng chính trị cầm quyền, và bỏ cụm từ "Xã hội chủ nghĩa" ra khỏi tên chính thức của nước, "Cộng hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Vậy, dù Thiền sư vô tình hay hữu ý, dù Thiền sư muốn hay không muốn, thì những tuyên bố của Thiền sư là một ứng xử chính trị: đối tượng là chính trị, lãnh vực là chính trị, nội dung là chính trị, hậu quả là chính trị. Không biết chính trị là cái gì thì lại càng không nên dính vào chính trị]

Tại sao phải giải tán cho được Bát Nhã dù phải áp dụng những biện pháp như thuê côn đồ, vu khống, lừa gạt, đánh đập, đe dọa. [Phải chăng vì Tăng thân Làng Mai đã bất chấp luật pháp quốc gia về đăng ký, bảo hộ v..v… Phải chăng vì những tuyên bố chính trị của mình]

Tại sao hơn một năm trời mà không dẹp được họ? Họ có gì để phải bám víu vào cái chùa này? [Tại vì họ đã được Thầy của họ dạy: "Hãy cứ ngồi yên như núi", như là một thách đố]

Thiền sư Nhất Hạnh cho rằng một vị đại úy công an phải thấy rằng Bát Nhã đã trở thành công án của đời mình. Mình mất ăn, mất ngủ. Nhưng bây giờ mình đã thấy những thủ đoạn ấy là gian trá, là thấp hèn, là trái với lương tâm con người.

Trước sự kiện côn đồ giả danh Phật tử để phá phách Tu Viện Bát Nhã, Thiền sư cảm thấy: "Hành động này làm cho mình muốn nôn mửa, nhưng mình lại không dám nói ra"

Thiền sư Nhất Hạnh cũng cho rằng Bát Nhã là một vấn đề nhân quyền ở Việt Nam nhưng cũng là một công án cho một nhà lãnh đạo chính trị cao cấp như một vị nguyên thủ quốc gia hoặc một vị bộ trưởng, nước mình có hay không có chân trong Hội Đồng Bảo An hay Ủy Ban Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc và các vị này phải cảm thấy hổ thẹn, lương tâm mình không an ổn vì không dám can thiệp vào chuyện nội bộ của Việt Nam.

Tôi không muốn bàn thêm về cái gọi là "công án Bát Nhã" của Thiền sư Nhất Hạnh mà nội dung phần lớn là lên án Đảng [Hay tại vì ta là người Mác-xít, ta không có quyền quy y, ăn chay và giữ giới?], hàng giáo phẩm Giáo hội, ngành công an, Thượng tọa Thích Đức Nghi, Bộ Chính Trị, Trung ương Đảng v…v…, vì đối với Thiền sư, tất cả đều sai lầm trong vụ việc ở Tu Viện Bát Nhã, do đó tất cả đều cần phải quán chiếu "công án Bát Nhã" để sám hối và đạt được sự an tâm.

Vài Lời Kết:

Tôi đã đọc khá nhiều sách của Thiền sư Nhất Hạnh. Tôi đã giới thiệu với một số bạn trẻ, thoải mái hơn khi đọc tiếng Anh, bản dịch cuốn "Đường Xưa Mây Trắng" [Old Path, White Clouds]. Tôi đã học được nhiều từ những tác phẩm của Thiền sư viết về Phật Giáo. Tôi nghĩ rằng những điều Thiền sư giảng về "Chánh Niệm", "Tỉnh thức", "Hiểu và Thương", "Thở vào tâm tĩnh lặng, thở ra mỉm miệng cười" v…v… rất cần cho xã hội Việt Nam ngày nay. Nhưng thành thực mà nói, tôi cảm thấy rất đáng tiếc khi Thiền sư càng ngày càng đi ra ngoài sở trường của Người về Phật Giáo để đi vào những sở đoản như về Ki Tô Giáo, về nhập cảng một số hình thức xã hội trong truyền thống văn hóa của nước ngoài như "Thiền Ôm", "Bông Hồng Cài Áo" mà theo tôi, không cần thiết và có thể không thích hợp trong nền văn hóa Việt Nam, và gần đây dính vào chính trị.

Có thể chính sự thành công của Thiền sư ở ngoại quốc đã làm cho Thiền sư thay đổi, chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng trong một số phát biểu của Người đượm nhiều khoa trương về Tăng thân Làng Mai, nhất là trong bài giảng "Con Người Lý Tưởng Và Hạnh Phúc" của Thiền sư tại San Jose Civic Auditorrium chiều chủ nhật 12/9/99. Nhưng chính những sở đoản này đã làm cho Giáo Pháp Làng Mai không thể ăn sâu bám rễ ở Việt Nam dù Giáo pháp này rất thành công ở ngoại quốc. Phật Giáo Việt Nam phải thay đổi, hiện đại hóa, nhưng điều này không có nghĩa là phải pha trộn với những điều mê tín hoang đường của Ki Tô Giáo mà ngay cả những bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo cũng đã bác bỏ. Phật giáo có cả một rừng Kinh điển, một nguồn tâm linh vô tận, và dù chúng ta có khai thác suốt đời cũng không làm sao tận dụng được tất cả gia tài của Đức Phật và các Tổ để lại. Pha trộn với những lễ tiết mê hoặc, "trí tuệ" với "đức tin", thì Phật Giáo không còn là Phật Giáo nữa mà trở thành Phật Giáo lai căng.

Một thí dụ về một điều giảng dạy của Thiền sư mà tôi cho là không thích hợp với người Việt Nam. Thiền sư dạy, để tỏ lòng kính yêu mẹ, tối tối hãy vào nói với mẹ "Mẹ ơi, con yêu Mẹ lắm". Điều này con nhỏ có thể làm, và bà Mẹ Việt Nam có thể nói: "Ơ cái thằng này ngớ ngẩn" vì chuyện con yêu Mẹ là chuyện đương nhiên, không cần phải nói ra bằng miệng. Đối với người đã trưởng thành thì nếu quan tâm tới bố mẹ, người con thường chỉ hỏi: "Hôm nay Bố Mẹ ăn có ngon miệng không?" vì "ăn ngon miệng" chứng tỏ rằng sức khỏe của Bố Mẹ bình thường, không có gì phải lo ngại. Người Việt Nam sống về nội tâm rất nhiều, không có hời hợt bên ngoài như người Tây phương. Buổi sáng, trước khi chia tay nhau đi làm, vợ chồng Mỹ thường hôn nhau đến chụt một cái, nói "I love you". Nhưng tỷ lệ ly dị trên nước Mỹ là trên dưới 50%. "Bông hồng cài áo", "Ngày của Mẹ", "Ngày của Cha", "Ngày Valentine", "Ngày Haloween" [trước là ngày Lễ Chư Thánh], và ngay cả "Ngày Giáng Sinh", tất cả chỉ là những hình thức bề ngoài của thương vụ.

Bài "Bát Nhã Là Một Công Án Thiền" cũng thuộc vào sở đoản của Thiền sư Nhất Hạnh. Vì những bức xúc về vụ việc ở Tu Viện Bát Nhã, Thiền sư đã viết lên một bài chẳng liên quan gì đến "công án" cả, ít nhất là "công án" theo sự hiểu biết thông thường trong Thiền Tông Phật Giáo. Hơn nữa, trong bài, Thiền sư đã để lộ ra những dằn vặt tâm tư của mình, dù ẩn sau những dẫn giải hoa mỹ về "công án". Điều này chúng ta có thể thấy rõ qua văn phong bất xứng với Thiền sư trong nhiều đoạn trong bài.

Tôi nghĩ rằng Thiền sư Nhất Hạnh cũng chưa giải quyết được công án Bát Nhã do chính mình đề ra. Vì tôi không thấy sự an tâm của Ngài trong suốt bài viết. Điều này thật quá rõ ràng vì Thiền sư viết với một giọng trách cứ đượm nhiều chua chát, cay đắng về những chuyện nằm ngoài Tông chỉ của Thiền công án: "Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật” . Hơn nữa, Thiền sư thực sự có thiện chí để giải quyết vụ Bát Nhã cùng với chính quyền không. Theo dõi thông tin, chúng ta biết:

"Để giải quyết mâu thuẫn trên tại Tu viện Bát Nhã, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn, trong chuyến thăm Pháp cuối tháng 9/2009, có đề nghị gặp Thiền sư Thích Nhất Hạnh (đã được thông báo trước một tháng) để bàn cách giải quyết vụ việc nhưng Thiền sư từ chối không gặp, lấy lý do là đã có chương trình sang Mỹ hoạt động tôn giáo"

Chúng ta thử xem hoạt động tôn giáo của Thiền sư là những gì. Theo chương trình trong Lá Thư Làng Mai số 32 thì những hoạt động này như sau:

- 6/9/2009: Ngày quán niệm tại Tu viện Lộc Uyển.

- 8/9 – 13/9: Khóa tu tiếng Anh tại Tu Viện Lộc Uyển.

- 19/9: Pháp thoại công cộng tại Pasadena

- 20/9: Ngày quán niệm.

- 23/9 – 27/9: Khóa tu tiếng Việt tại Tu Viện Lộc Uyển.

- 2/10 – 5/10: Khóa tu tiếng Anh tại Tu Viện Bích Nham, New York.

- 9/10: Pháp thoại công cộng tại nhà hát Beacon, New York.

- 10/10: Ngày quán niệm chung với viện Omega tại trung tâm New York.

Tôi tự hỏi, tất cả những hoạt động tôn giáo trên quan trọng đến độ Thiền sư không thể để ra 1, 2 ngày để tìm cách giải quyết vấn đề 400 Tăng sinh trẻ của Thiền sư đang gặp khổ nạn tại Tu Viện Bát Nhã hay sao? Hơn nữa, Làng Mai có cả một đoàn Giáo Thọ xuất sắc, nổi tiếng, kể cả Sư Bà Chân Không, không ai có thể thay thế Thiền sư trong một số hoạt động tôn giáo thông thường như quán chiếu, khóa tu, mà nhiều Chùa, nhiều Tu Viện khác cũng thường tổ chức hay sao? Nhà nước đã đưa tay ra, nhưng Thiền sư đã không thèm bắt tay, viện một lý do không có tính cách thuyết phục. Nếu chương trình hoạt động tôn giáo của Thiền sư là một chương trình đặc biệt do một quốc gia thỉnh cầu không thể thay đổi và không ai có thể thay thế được thì lý do hoạt động tôn giáo của Thiền sư khả dĩ có thể chấp nhận. Nhưng đây là những hoạt động hàng năm của Thiền sư trên đất Mỹ, năm nào cũng quán niệm, năm nào cũng có khóa tu, những hoạt động này quan trọng hơn là việc giải quyết vấn nạn Bát Nhã hay sao? Nhiều người cho rằng đó là một hành động cống cao ngã mạn.

Người ta trách cứ là Pháp môn Làng mai chủ trương nam nữ cùng tu, trái với truyền thống nam nữ tu riêng của Việt Nam. Thực tế cho thấy tu riêng cũng chưa chắc đã đoạn tuyệt được tình ái huống chi là "lửa gần rơm lâu ngày cũng bén", nhất là đối với giới trẻ chưa đủ định lực. Khi xưa, Đức Phật đưa ra Bát Kỉnh Pháp, chẳng phải là hạ thấp vai trò của phái nữ, mà là tạo nên một khoảng cách đạo đức giữa Nam và Nữ, đề phòng củi lửa.

Người ta cũng trách cứ Thiền sư là, theo quy định của Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN), nếu người tu hành dưới 18 tuổi phải có người giám hộ và phải xin ý kiến cha mẹ, nhưng đa số những người theo pháp môn Làng Mai đều dưới 18 tuổi đã không tuân thủ quy định này.

Và nhất là, người ta cũng trách cứ Thiền sư là, tại Tu Viện Bát Nhã, Thiền sư đã bổ nhiệm Phó Trụ trì Tu viện Bát Nhã, tấn phong giáo phẩm Hòa thượng cho một vị sư của Việt Nam mà không thông qua Trụ trì tu viện Bát Nhã và GHPGVN.

Nếu thật đúng là như vậy thì những điều trách cứ này cho thấy Thiền sư đã coi thường truyền thống văn hóa của Phật Giáo Việt Nam, coi thường Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, hậu quả ra sao, chúng ta có thể đoán trước được, nhưng không ngờ lại đưa đến vụ việc ngoài ý muốn của mọi người tại Tu Viện Bát Nhã, gây ảnh hưởng không đẹp cho tất cả mọi phía, từ chính quyền cho đến GHPGVN và Làng Mai. Có thể vì cái danh của Thiền sư quá lớn ở ngoại quốc nên Thiền sư thấy không cần phải quan tâm đến hiện thực xã hội ở Việt Nam hay truyền thống Phật Giáo ở Việt Nam.

Tôi hi vọng Thiền sư có thể khiêm tốn một chút trước Nhà Nước, trước đại khối Phật Giáo Việt Nam, nhận ra những hoạt động trái khoáy của mình, và nhất là nhận ra những sở đoản của mình, trở về với những sở trường, tập trung vào việc phát huy Giáo Pháp Làng Mai về Phật Giáo, chỉ là Phật Giáo, không gì ngoài Phật Giáo, và không biến Thiền Tông thành Giáo Tông.

Mấy chuyến về Việt Nam của Thiền sư Nhất Hạnh là cơ hội bằng vàng để cho "Giáo Pháp Làng Mai về Phật Giáo", nghĩa là những giáo pháp thuần túy Phật Giáo, phát triển và hội nhập vào đại Khối Phật Giáo Việt Nam. Nhưng tiếc thay cho Làng Mai, chỉ vì một số hoạt động có tính cách trình diễn phô trương, một số bước đi chính trị vụng về, một số thái độ có vẻ cống cao ngã mạn, cho nên đã tạo thành một yếu tố tôn giáo trong nhiều yếu tố khác như chính trị, xã hội v..v… để đưa đến vụ việc rất đáng tiếc ở Tu Viện Bát Nhã. Nhưng đây cũng là cơ hội để chính quyền trung ương cũng như địa phương kiểm điểm lại những biện pháp của mình, để Làng Mai nhận thức đúng được thực tế xã hội và "hạ mình để chinh phục" [stoop to conquer], và Giáo hội Phật Giáo Việt Nam cũng nên lo việc chấn chỉnh nội bộ, thanh lọc hàng ngũ, lấy lại vai trò của cổ nhân: quốc sư đối với chính quyền, tôn sư đối với quần chúng.

 



Phần Phụ:

Vài Nét Về Tự Do Tôn Giáo.

Tôn giáo là một thành phần của xã hội, không thể đứng ngoài xã hội hay đứng trên xã hội. Do đó những hoạt động tôn giáo phải ở trong vòng luật pháp quốc gia. Không ai có thể nói rằng, luật pháp quốc gia đó không đúng, hay tôi không đồng ý với luật pháp đó, cho nên tôi không có bổn phận phải theo luật pháp đó. Quan niệm như vậy là làm loạn xã hội chứ không phải là tự do tôn giáo hay tự do tín ngưỡng. Nhập gia tùy tục, nhập giang tùy khúc. Cả nước Úc và Giáo hội Công giáo cũng không thể thay đổi được việc Singapor treo cổ một giáo dân Công giáo người Úc gốc Việt về tội buôn ma túy. Cả nước Mỹ cũng không thể thay đổi được việc Singapor đánh đòn một công dân Mỹ vì tội phá hại công ích. Sau vụ 9/11 ở New York, Mỹ đã ra luật mà nội dung vi phạm đời tư cá nhân của công dân Mỹ, nhưng dù người dân không đồng ý cũng bắt buộc phải chịu đựng. Mỹ là một nước có thể nói là có tự do tôn giáo nhất trên thế giới, nhưng chính quyền Mỹ luôn luôn kiểm soát hoạt động của tôn giáo. Vụ David Koresh ở Waco Texas là một vụ điển hình. Một vụ điển hình khác là về Osho, trước là Bhagwan Shree Rajneesh. Nghe nói Việt Nam ngày nay cũng có nhiều người hâm mộ Osho. Nhưng thực chất Osho như thế nào rất ít người biết.

Sau đây là vài dòng về Osho.

Osho sinh năm 1931 và chết năm 1990, 58 tuổi. Thời gian ở Ấn độ, Rajneesh đã nổi tiếng là một "sex guru". Năm 1981, Osho xin nhập cảnh Mỹ để chữa bệnh. Vì những lời thuyết giảng hấp dẫn có sức lôi cuốn quần chúng, quần chúng thường là sơ cơ, [điểm chung của các nhà truyền giáo thành công, thí dụ như Pat Robertson, Jerry Falwell v..v… ở Mỹ] của Rajneesh nên Rajneesh và các đệ tử thành lập ở bang Oregon một cộng đồng gọi là Rajneeshpuram. Cộng đồng tôn giáo này đã vi phạm luật di trú của Mỹ, có nhiều người đến trú ngụ bất hợp pháp qua các dịch vụ kết hôn giả, và phạm nhiều tội ác hình sự (crimes). Rajneesh bị chính quyền Mỹ điều tra về vụ Rajneesh khai gian khi xin visa nhập cảnh Mỹ, và những tội ác hình sự ở Rajneeshpuram, và sau một cuộc dàn xếp của luật sư của Rajneesh với chính quyền Mỹ, Rajneesh bị phạt $400000 và bị trục xuất khỏi Mỹ.

Rajneesh đi lang thang tìm nơi định cư nhưng 21 quốc gia từ chối không cho nhập cảnh. Sau cùng Rajneesh trở về cố quốc, Ấn độ, và định cư ở Pune, lập một tổ chức thiền [meditation foundation, truyền bá Giáo pháp Osho, tên mà Rajneesh đổi thành năm 1989. Muốn biết rõ hơn những chi tiết về con người thực và giáo lý thực của Osho, độc giả có thể tìm đọc trên: http://en.wikipedia.org/wiki/Osho_%28Bhagwan_Shree_Rajneesh%29. Độc giả cũng nên tìm đọc trong http://www.quangduc.com/Diendan/80hientuongosho.html, bài "Hiện Tượng Osho" của Hoàng Liên Tâm. Osho cũng đã từng tiên đoán là chiến tranh nguyên tử sẽ xảy ra trong thập niên 1990.

Các học giả về tôn giáo đã đánh giá con người và học thuyết của Osho như thế nào?

Theo Giáo sư về tôn giáo ở đại học Oregon, Ronald O. Clarke, thì "Rajneesh đã để lộ tất cả những đặc điểm điển hình của sự rối loạn tinh thần về nhân cách "cái Ta" của mình, thí dụ như là ý niệm vĩ đại về sự quan trọng và duy nhất của chính mình; bận tâm với những tưởng tượng về sự thành công vô hạn của mình; về một sự cần thiết phải được người ta thường xuyên chú ý đến và kính ngưỡng." [Ronald O. Clarke, Emeritus Professor of Religious Studies at Oregon State University, argued that Osho exhibited all the typical features of narcissistic personality disorder, such as a grandiose sense of self-importance and uniqueness; a preoccupation with fantasies of unlimited success; a need for constant attention and admiration] Xin độc giả hãy đọc các học giả tôn giáo đánh giá Osho trong về Osho trong bài bằng tiếng Anh ở trên Wikipedia sau đây.

Assessments by scholars of religion

Some scholars have suggested that Osho, like other charismatic leaders, may have had a narcissistic personality.[216][217][218] In his paper The Narcissistic Guru: A Profile of Bhagwan Shree Rajneesh, Ronald O. Clarke, Emeritus Professor of Religious Studies at Oregon State University, argued that Osho exhibited all the typical features of narcissistic personality disorder, such as a grandiose sense of self-importance and uniqueness; a preoccupation with fantasies of unlimited success; a need for constant attention and admiration; a set of characteristic responses to threats to self-esteem; disturbances in interpersonal relationships; a preoccupation with grooming combined with frequent resorting to prevarication or outright lying; and a lack of empathy.[218] Drawing on Osho’s reminiscences of his childhood in his book Glimpses of a Golden Childhood, he suggested that Osho suffered from a fundamental lack of parental discipline, due to his growing up in the care of overindulgent grandparents.[218]Osho’s self-avowed Buddha status, he concluded, was part of a delusional system associated with his narcissistic personality disorder; a condition of ego-inflation rather than egolessness.[218]

In questioning how the total corpus of Osho’s work might be summarised, Bob Mullan, a sociologist from the University of East Anglia, stated in 1983: “It certainly is eclectic, a borrowing of truths, half-truths and occasional misrepresentations from the great traditions. It is also often bland, inaccurate, spurious and extremely contradictory.[219] He also acknowledged that Osho’s range and imagination were second to none,[219] and that many of his statements were quite insightful and moving, perhaps even profound at times,[220] but what remained was essentially “a potpourri of counter-culturalist and post-counter-culturalist ideasfocusing on love and freedom, the need to live for the moment, the importance of self, the feeling of “being okay“, the mysteriousness of life, the fun ethic, the individual’s responsibility for their own destiny, and the need to drop the ego, along with fear and guilt.[221]

Writing in 1996, Hugh B. Urban similarly found Osho’s teaching neither original nor especially profound, noting that most of its content had been borrowed from various Eastern and Western philosophies.[172]What he found most original about Osho was his keen commercial instinct or “marketing strategy”, by which he was able to adapt his teachings to meet the changing desires of his audience,[172] a theme also picked up on by Gita Mehta in her book Karma Cola: Marketing the Mystic East.[222] In 2005, Urban observed that Osho had undergone a “remarkable apotheosis” after his return to India, and especially in the years since his death, going on to describe him as a powerful illustration of what F. Max Müller, over a century ago, called “that world-wide circle through which, like an electric current, Oriental thought could run to the West and Western thought return to the East.”[223] By negating the dichotomy between spiritual and material desires, and reflecting the preoccupation with the body and sexuality characteristic of late capitalist consumer culture, Osho had apparently been able to create a spiritual path that was remarkably in tune with the socio-economic conditions of his time.[223]

Trần Chung Ngọc, sachhiem.net

Phụ Lục:

NHỮNG ĐIỂM THỈNH CẦU VÀ ĐỀ NGHỊ
CỦA PHÁI ĐOÀN ĐẠO TRÀNG MAI THÔN ĐẾN CHỦ TỊCH NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM


(Bản thỉnh cầu đã được Thầy Làng Mai đích thân trao cho ngài Chủ Tịch nước Nguyễn Minh Triết trong dịp phái đoàn Làng Mai được thừa tiếp tại Phủ Chủ Tịch ngày 05.05.2007)

http://www.thuvienhoasen.org/lathulangmai31.jpg1. Xin chính phủ ra lệnh lập một đài tưởng niệm thuyền nhân thiệt mạng trên biển cả tại Vũng Tàu.

2. Xin cho các thân nhân của những người được chôn trong các nghĩa trang quân đội VNCH cũ được dễ dàng viếng thăm, cúng lễ và bốc mộ.

3. Xin chính phủ yểm trợ việc xây dựng tháp kỷ niệm Bồ tát Thích Quảng Đức tại TP HCM.

4. Xin cho những người gốc Việt cư trú ở nước ngoài được về nước thăm viếng, làm việc, đầu tư, giảng dạy, hoằng pháp mà không cần Visa.

5. Xin bắt đầu cho phép một số những người gốc Việt cư trú ở nước ngoài được có song tịch (quốc tịch đôi) để họ có dịp bày tỏ niềm trung thành của họ với tổ quốc và quê hương.

6. Xin đừng xem các thầy và các sư cô gốc Việt về nước để yểm trợ Phật giáo là những giáo sĩ ngoại quốc và xin cấp phát dễ dàng cho các vị ấy loại Visa làm việc tôn giáo nhiều lần trong 5 năm một cách dễ dàng mau chóng. Xin chính phủ cho phép các vị ấy chia sẻ sự tu học của mình đến mọi tầng lớp nhân dân trong cũng như ngoài các cơ sở của giáo hội cũng như tại các cơ sở công cộng khác của đất nước mà không có sự phân biệt kỳ thị.

7. Xin có một chính sách đặc biệt đối với Phật giáo, bởi vì đạo Phật đã là nền móng dựng nước và giữ nước trong gần hai ngàn năm, và là yếu tố chính của nền văn hóa Việt Nam.

8. Để Phật giáo theo kịp đà hội nhập vào đời sống mới, chấm dứt tình trạng ủng trệ hiện nay và đóng góp tích cực phần mình vào công trình văn minh hóa nếp sống gia đình, cộng đồng và xã hội, xin cho phép Phật tử Việt Nam tự do thành lập nhiều hội đoàn Phật giáo với những nét đặc thù của mình. Những hội đoàn này chỉ cần đăng ký hợp pháp là có thể hoạt động được ngay như ở bất cứ một nước văn minh nào trên thế giới. Phật tử Việt Nam có quyền chọn lựa một hoặc nhiều hội đoàn thích hợp để có cơ hội đóng góp công phu và tài năng của mình. Những hội đoàn này có quyền truyền bá tư tưởng và pháp tu tập của mình ra các nước ngoài (tương tự như phương thức W.T.O trong lãnh vực kinh tế). Các hội đoàn đó có thể bao gồm: Giáo Hội Phật Giáo Nguyên Thỉ, Giáo Hội Phật Giáo Thiền Tông, Giáo Hội Phật Giáo Tịnh độ Tông, Giáo Hội Phật Giáo Khất Sĩ, Giáo Hội Phật Giáo Thiên Thai Giáo Quán Tông, Giáo Hội Phật Giáo Thiền Tịnh Đạo Tràng, Giáo Hội Phật Giáo Sư Sãi Tây Nam Bộ, Giáo Hội Phật Giáo Nam Tông K'mer, Giáo Hội Phật Giáo Thống Nhất, Giáo Hội Đạo Bụt Nhất Quán, Giáo Hội Phật Giáo Hiện Đại Hóa, Gia Đình Phật Tử, Hội Sinh Viên Phật Tử, Hội Học Sinh Phật Tử, Hội các nhà Khoa Học Phật Tử, Hội các nhà Giáo Phật Tử, Hội Y Sĩ Phật Tử, Hội các nhà Văn Phật Tử, Hội Phật Học Nam Việt, Giáo Hội Tăng Già Chỉnh Lý, v.v…

9. Xin cho Tăng Ni được phép hành đạo khắp nơi trên lãnh thổ quê hương (như Hòa thượng đệ nhất Pháp chủ Thích Đức Nhuận tuyên bố) không bị hạn chế bởi vấn đề hộ khẩu, có quyền dựng chùa viện bất cứ ở đâu không kể nơi đó có nền chùa cũ hay không – các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Lào Cai, Thái Nguyên, v.v…

10. Xin chính phủ thực hiện việc tách rời tôn giáo khỏi chính trị và chính trị khỏi tôn giáo… ngưng lại mọi quản chế của chính quyền trên giáo quyền, giải thể Ban Tôn giáo Chính phủ và trước hết là ngành Công an Tôn giáo. Tất cả các đoàn thể tôn giáo đều được sinh hoạt tự do trong khuôn khổ pháp luật hiện hành, như bất cứ một hội đoàn văn hóa, thương mại, công nghiệp và xã hội nào. 

http://www.langmai.org/images/stories/lathulangmai/pdf/ltlm_31_final_phan_1.pdf
Lá thư Làng Mai số 31 – 04/02/2008 

A response to: "Living Buddha, Living Christ"

by Thích Nhất Hạnh

 

A Response to:

 

" Living Buddha, Living Christ" by Thich Nhat Hanh

 

       Copyright 1999 – 2002

       By John WorldPeace

       All rights resered

       nguồn http://www.johnworldpeace.com/tnhanh4.html

 

CHAPTER FOUR: LIVING BUDDHA, LIVING CHRIST

 

A. His life is His Teaching

 

TNH: There is a science called Buddhology, the study of the life of the Buddha. As a historical person, the Buddha was born in Kapilavastu, near the border between India and Nepal, got married, had on child, left home, practiced many kinds of meditation, became enlightened, and shared the teaching until he died at the age of eighty. But there is also the Buddha within ourselves who transcends space and time. This is the living Buddha, the Buddha of the ultimate reality, the one who transcends all ideas and notions and is available to us at any time. The living Buddha was not born at Kapilavastu, nor did he pass away at Kushinagar.

 

Christology is the study of the life of Christ. When speaking about Christ, we also have to know whether we mean the historical Jesus or the living Jesus. The historical Jesus was born in Bethlehem, the son of a carpenter, traveled far form his homeland, became a teacher, and was crucified at the age of thirty-three. The living Jesus is the Son of God who was resurrected and who continues to live. In Christianity, you have to believe in the resurrection or you are not considered a Christian. I am afraid this criterion may discourage some people from looking into the life of Jesus. This is a pity, because we can appreciate Jesus Christ as both a historical door and an ultimate door.


John:
The fact that Christians believe that Jesus was the only son of God, and was in fact God as part of the Trinity of Father, Son and Holy Spirit is what makes Christianity exclusive to all the other religions and prevents any acknowledgment that the other major religions of the world have any validity.

 

    Christians only comprise one sixth of the world population and yet they believe that they have the only path to salvation. Christians on every level listen to what others have to say about their religion but never really listen because they believe they have the only true son of God.

 

    This elitist viewpoint has been the cause of Christian genocide throughout the world. When Christianity came into contact with the indigenous people of America they had no reservations about destroying their civilizations and their religions because all religions other than Christianity were pagan. In fact, Christians believed it was their God given mandate to convert or kill off all other religious ideas on the planet.

 

    For the Christian bureaucracy to acknowledge the validity of any other religion would have the effect of destroying Christianity. Without the literal Son of God, Christianity is just another religion among many.

 

TNH: When we look into and touch deeply the life and teaching of Jesus, we can penetrate the reality of God. Love, understanding, courage and acceptance are expressions of the life of Jesus.


John:
Well this is what is talked about in Christianity but Love means love other Christians, understanding means understanding God through Christianity, and acceptance, true acceptance means the acceptance of other Christians.

 

    Jesus was somewhat of an elitist himself because he uttered such words as “Do not give dogs what is holy’, and “Do not cast your pearls before swine.” These are not loving, understanding or accepting statements. They are statements that reflect an elitist attitude such that if you are not with us, you are against us. And it is my belief that these statements have been carried forward in the Christian doctrine and dogma which is not only not understanding, but unsympathetic and outwardly combative toward non-Christians.

 

    It has always been interesting to me that one of the great Christian hymns is “Onward Christian Soldiers, marching as to war.” And so it has been. Christianity marching on other cultures and religions as if going to war.

    And this attitude has not changed even today as evidenced by the Pope of the Catholic Church’s comments a few years ago that disparaged the Buddhist religion. Christians talk about love, understanding, forgiveness and acceptance but if you look carefully you will find that these terms are really restricted to other Christians and not to all the world.

 

TNH: God made himself known to us through Jesus Christ.


John:
As he also made himself known through the Buddha, Mohammed, Baha’U'llah, Bodhidarma, Krishna, Joseph Smith and Moses. And in truth, as he makes himself known through every man woman and child.

 

TNH: With the Holy Spirit and the Kingdom of God within him, Jesus touched the people of his time. He talked with prostitutes and tax collectors, and had the courage to do whatever was needed to heal his society.


John: T
oday Christians talk to sinners in order to bring them to Jesus. Christians believe that all human beings need to be saved and only by embracing Jesus as the literal Son of God and the savior of the world can one go to heaven after death. Christians are not accepting of sinners. They see them as people to be saved. And when it is determined that a person cannot be saved then the Christians move on to the next potential convert.

 

    Jesus was not really trying to heal Jewish society but was trying to attack the Jewish religious bureaucracy for its hypocrisy. And this is what got him killed. The Buddha did the same thing as he rejected the Hindu bureaucracy and its hypocrisy. It was not a matter of healing society but was a matter of awakening people to their own inner spirituality which was being manipulated by the religious bureaucracy.

 

TNH: As the child of Mary and Joseph, Jesus is the Son of Woman and Man.


John:
With all due respect, Brother Hanh, Joseph was Jesus’s father in name only. One of the foundations of Christianity is that Jesus was the literal Son of God and the virgin Mary. Mary was a virgin when she became pregnant with Jesus. This is again why Christians give only polite lip service to other religions. Christians belief that Jesus is the only literal Son of God. No other religion can make that claim and so all other religions are inferior to Christianity; so believe Christians.

 

TNH: As someone animated by the energy of the Holy Spirit, he is the Son of God.


John:
No, Brother Hanh, Christians will tell you that he was the literal Son of God. We are all animated by the Holy Spirit if you believe that we are all children of God. But according to Christians there has only been one literal Son of God and that was Jesus.

 

TNH: The fact that Jesus is both the Son of Man and the Son of God is not difficult for Buddhist to accept.


John:
Brother Hanh, I submit that it is impossible for any Buddhist to accept that Jesus was the literal Son of God. If a Buddhist were to accept this, that Buddhist would surely renounce Buddhism and embrace Christianity.

 

TNH: We can see the nature of nonduality in God the Son and God the Father, because without God the Father within him, the Son could never be.


John:
Brother Hanh, my truth is that we are all sons and daughters of God as was Jesus. But from a scientific biological perspective in this earthly reality, Christians belief that the biological father of Jesus was the literal anthropomorphic one God himself. Son of God is not a metaphor for Christians but a literal fact.

 

TNH: But in Christianity, Jesus is usually seen as the only Son of God.


John:
Jesus is not usually seen as the only Son of God but always seen as the literal Son of God and if you do not believe this, then you cannot be a Christian.

 

    I notice Brother Hanh that you skip over this very controversial issue. You skip over the one obstacle that forever prevents any true common ground of understanding between Christians and Buddhists or any other religion. Brother Hanh, your refuse to openly state that Buddhist would never embrace Jesus as the literal biological Son of God.

 

TNH: I think it is important to look deeply into every act and every teaching of Jesus during his lifetime, and to use this as a model for our own practice.


John:
Well again Brother Hanh, I do not think you want to make this kind of statement. You see Jesus when he came to the Temple in Jerusalem became highly upset at the commerce going on within the Temple. He became so upset that the made a whip and began to turn over tables and whip the vendors. I do not think that you advocate such extreme behavior.

 

    Further you can see here the precedent that Jesus set for later Christians to deal accordingly with non-Christians and their pagan religions.

 

    And you can also see why the Jewish bureaucracy was instrumental in having Jesus crucified. Jesus was bad for business and if left unchecked would have overturned the entire Jewish religious establishment. The way of this world is the way of materialism and money. And when spiritual philosophy interferes with making money then it is the spiritually that must be subordinated. This is the reality that you sir do not understand in your position as a monk.

 

    I truly respect you Brother Hanh, but you are attempting to write about Christianity which you do not fully understand and you do not bring to your discussion a personal knowledge of how the vast majority of human beings make a living in the world.

 

    This is why I feel that I must continue to practice law. If I can maintain my spirituality while working in the most combative profession on the planet, then I can be an example to others. They cannot discount what I have to say because I do live in the real world, in their world.

 

TNH: Jesus lived exactly as he taught, so studying the life of Jesus is crucial to understanding his teaching.


John:
No Brother Hanh, Jesus did not live exactly as he taught. His admonition to turn the other cheek did not apply to his actions in the Temple. There are many such examples in the gospels of the New Testament in the Christian Bible.

 

    For more examples go to The Saying of Jesus

 

TNH: For me, the life of Jesus is His most important teaching, more important that even faith in the resurrection or faith in eternity.


John:
Well now Brother Hanh, I see how you diplomatically get around the issues of Jesus as the literal Son of God, born of the virgin Mary and dying for the sins of man, and rising from the dead; in essence the guts of Christianity.

 

    You sir, avoid this subject and look at Jesus outside this role of the true Son of God. You avoid saying that you do not believe in Jesus as the savior of the world. And I expect that you will now in the rest of your book compare Jesus to Buddha without referring to the guts of the Christian doctrine and dogma. I commend you the effort.

 

    But in the end, when your book is finished, the question will still be asked by your Christian audience, “Do you believe in Jesus as the literal Son of God who died for your sins?” If you answer yes, then you are a Christian and must remove your Buddhist robes. If you answer no, you will be thanked for your interesting lecture.py

 

 

 

Trần Chung Ngọc, sachhiem.net, ngày 22/10/09

NDVN, ngày 1/11/09

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét