Đây là tập họp một Bài-ba-tập – gọi là một trilogie cũng được, về một giai đoạn lịch sử nhìn theo hướng toả rộng dần: 1/ “Hành trình khởi phát của một anh hùng” nhìn từ một cá nhân; 2/ “Nhà ta: người Miền Dưới” như lời nhận định từ bên trong về một tập đoàn tông tộc; và 3/ “Ả Trần, Mai Kiện, Hồi Hột – Phía khuất của sửđược-kí” đặt vấn đề một giai đoạn lịch sử Việt Nam trong tính chất quốc tế của khu vực. Sức mạnh ào ạt của hệ thống đế quốc Sa mạc – Trung nguyên tràn xuống nam va chạm mạnh với một tập đoàn sông nước vừa thu thập quyền bính đất đai nhưng vẫn chưa tách khỏi trọng tâm bềnh bồng phía biển, khiến biến động vướng víu đến toàn khu vực nước được nối kết. Lịch sử triều Trần, lịch sử thời đại này, do đó, xứng đáng được hưởng một lối nhìn khác, không giản dị như của sử thần xưa về một triều đại riêng biệt, hay của sử gia mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa được nâng cấp lên đến đỉnh cao trong cuộc chiến vừa qua mà thật ra vẫn loay hoay trong một khung cửa hẹp. cửa hẹp. 2006. Ban biên tập giúp thêm vài chú thích, ở đây tôi giữ nguyên văn của mình, có thêm bớt vài câu chữ, xếp đặt cho hợp với lần tập họp này.
Westminster gần đầu năm mới 2007
I HÀNH TRÌNH KHỞI PHÁT CỦA MỘT ANH HÙNG
Tôi “biết” ông Trần Hưng Đạo – không biết Trần Quốc Tuấn – lần đầu là nơi tờ truyện tranh xuất hiện đồng thời với truyện bà Thánh Jeanne d’Arc (Trinh Nữ thành Orléans – La Pucelle d’Orléans), thời Thống chế Pétain cổ động cho một tinh thần yêu nước Đại Nam của Đại Pháp trong khuôn khổ Đại Nhật Nhĩ Man. Tranh vẽ ông anh hùng đứng giữa quân tướng cờ xí đuôi nheo, mặc đồ hát bội, chỉ tay xuống sông Hát “Thề rằng…” Lúc đi học, biết thêm nhiều về ông nhưng vẫn còn tin rằng chuyện chỉ tay xuống sông Hát là có thật, là “chân lí không thể nào thay đổi”. Vướng víu đó khiến cho lúc đã hơi già, thấy tượng ông đứng bên bờ sông Sài Gòn lại tin lời người ta bảo rằng ông chỉ gươm xuống sông là mượn ý của một bàvăn, hối thúc “Mau mau kéo neo mà chạy! Dong buồm ra khơi!” Quá khứ chồng chất, dù bằng huyền thoại, cũng là một thứ chân lí khó tẩy xoá, ông còn đứng đấy để đời thêm một chuyện tiếu lâm. Nhưng cũng thật may vì là anh hùng cứu nước, ông không bị ghép tội là tài sản của nguỵ, khỏi bị đập phá sau 4-1975 như người ta đã đập phá những tượng khác, theo cách hiểu bình thường, không có ý nghĩa chính trị phe phía nào, như trường hợp khối tượng Bông lúa của Bậc thầy ở Cần Thơ nghe nói được thay bằng hình Lãnh tụ xấu-ỉnh, bỏ thì… không dám, mà vương thì tội nghiệp cho xứ sở. Như chuyện hàng ngàn cây hoa sữa mỗi nơi, đang toả “hương thơm” ngào ngạt trên các tỉnh miền Trung!
Lịch sử nào thì cũng có những vạn vẹo của nó, cả như lịch sử nói về ông danh tướng này. Mà đâu có cần phải tìm chi cho xa. Suốt cả bốn ngàn năm văn hiến chỉ có một hai bộ sử mỏng, chịu khó lật tìm, chịu khó đọc cho thanh thản thì thấy ngay.
* Đã không chỉ là chuyện cá nhân thì phải lôi cả dòng họ ra bàn. Huệ Tông, ông vua cuối triều Lí lấy vợ họ Trần đẻ ra hai cô công chúa: Thuận Thiên (1216), Chiêu Hoàng (1218) và nhường ngôi (1224) cho cô công chúa nhỏ 6 tuổi mà không hiểu tại sao không cho cô lớn. Trần Thủ Độ đem cậu cháu Trần Cảnh (1218-1277) vào cung hầu hạ rồi “đóng cửa thành, cửa cung” tuyên bố “Bệ hạ đã có chồng rồi” để có màn trình diễn tiếp theo là ngôi vua về tay họ Trần. Ta không hiểu Thuận Thiên lấy chồng lúc nào nhưng có lẽ Thủ Độ muốn chắc ăn đã gả luôn cô cho Trần Liễu (1211-1251), anh của Trần Cảnh, đề phòng danh nghĩa ngôi vua khỏi lọt vào tay kẻ khác vì hình như theo thói tục đương thời rơi rớt từ bằng chứng chuyển tiếp Đinh Lê, chính người nữ Lí mới có thể “khoác hoàng bào” cho kẻ cướp ngôi nào đó. Bà Thuận Thiên mắn đẻ đã cho ra một loạt Trần Tung (1230-1291), Trần Quốc Tuấn (1232-1300), Trần Doãn (chắc là sinh khoảng 1233-36), và Trần Quốc Khang (1237-1300) còn nằm trong bụng khi xảy ra biến cố di-dời mẹ. Cặp Trần Cảnh – Chiêu Hoàng rủi ro hơn, sinh được con trai đặt tên Trịnh thì chết ngay (1233). Có thể tạm hiểu điều này, không chờ sử quan giải thích, vì cả hai cha mẹ đều chỉ mới 15 tuổi trong khi Trần Liễu có Trần Tung lúc 19 tuổi. Sau này, khi Chiêu Thánh đến tuổi 40, được gả cho Lê Tần, vẫn có hai người con. Thế mà Trần Thủ Độ hoảng lên. Ông cũng tự biết mình ít học, tưởng Cảnh (Thái Tông sau này) sẽ tuyệt tự theo hướng dòng Lí, nên thấy bà Thuận Thiên có một dãy con, thêm đang có mang, thật chắc-ăn, liền lôi về cho vua. Oán thù n�! �y ra giữa hai nhà, liên quan đến nhân vật ta đang bàn: Trần Quốc Tuấn.
Sự kiện gọi là incest của dòng họ Trần bị người sau la lối (“Chỉ có họ Trần làm trái lẽ”, Ngô Sĩ Liên) nhưng ngay lúc đương thời không thấy ai đề cập bài bác. Không thấy ở Lê Tắc, gia thần của Trần đã đành mà cũng không thấy ở người lật ngôi Trần như Hồ Nguyên Trừng. Người nay khi nhìn về phía nam, thấy người Chàm cũng không quan tâm chuyện cấm kị hôn nhân kiểu phụ hệ nên cho rằng có lẽ Trần theo thói tục đó. Sau lúc ngượng ngùng né tránh lờ đi thì người ta lại tìm cách bào chữa, ví dụ cho rằng họ Trần lấy hoàng hậu trong tộc là để giữ gìn ngôi vua khỏi lọt vào tay kẻ khác. Nhưng như thế thì ai là nữ trong họ Trần cũng được, tại sao các bà hoàng, các bà vương hầu chỉ được chọn phần lớn là thân cận con chú bác ruột? Dấu vết “gom về Trần” chỉ nghiệt ngã trong một giai đoạn của triều đại chứ không phải xuyên suốt từ lúc khởi phát đến hồi tàn cục, và sự nghiệt ngã sít sao đó không phải không có dấu ấn nặng nề từ vụ xung đột Trần Cảnh – Trần Liễu.
Hãy nhìn ngay từ đầu. Người đương thời đã chứng kiến hoạt động tình dục của họ nhà vua không theo quan điểm “tông phả”. Cùng họ Trần nhưng Trần Khánh Dư không bà con gì với Trần đang làm vua cả. Mẹ Trần Cảnh họ Lê, Cô Hai họ Trần có ông cậu mà cô thông dâm là Tô Trung Tự, nghĩa là có thể bà nội Trần Cảnh họ Tô! Thế mà Trần Thái Tông lại gả con gái lớn cho Trung Thành Vương, con Nhân Đạo Vương, và bị Quốc Tuấn cướp. Tước Vương đó là để dành cho con thứ phi, con đích tập ấm của một “vương” trong quy định năm 1241, cho nên ông con rể hụt của Thái Tông hẳn là cháu ruột gọi Thái Tông bằng bác! Chuyện này thì không có liên hệ gì đến việc truyền ngôi vậy mà vẫn xảy ra. Và xét hành tung các nhân vật Trần thì thấy họ “loạn” hơn nhiều. Để lại nhiều chứng cớ nhất, “quậy tới bến” là Cô Hai họ Trần / Công chúa Thiên Cực / vợ Lí Huệ Tông / vợ Trần Thủ Độ sau rốt. Công chúa Thiên Thành, con Thái Tông, đã ở trong nhà “chồng” trước khi tuyên bố hôn lễ, và trong thời gian “ăn cơm trước kẻng” cũng không nề hà tiếp cạu Quốc Tuấn mà ông cha chồng không hay biết. Chuyện thường tình tiếp theo: Cô em chắc là cùng cha khác mẹ của Quốc Tuấn, mới có chồng (Thánh Tông) ba tháng đã sinh con (Nhân Tông) mạnh khoẻ, chứng cớ là sau này đánh đuổi quân Nguyên hai lần, làm tổ sư một môn phái Thiền Việt mà gần đây một học giả trong nước ép làm sư phụ của Phật Thầy Tây An ở tận hóc núi Sam, như một bằng chứng tiền định anh trước em sau về sự kiện đất nước thống nhất. Cô công chúa của ông vua này, làm dâu ô! ng danh tướng, có dịp làm quen nhóm khác, lại “chịu đèn” Trần Khánh Dư. Trần có lẽ thuộc tộc Đản sinh sống trên sông nước như sử quan ghi “đời đời làm nghề đánh cá.” Cứ suốt ngày, suốt đời nhảy từ thuyền này qua thuyền khác thì không thể lấy người xa được, không cần tìm gái ở xa. Rồi thành thói quen. Thói quen đó lại được tình thế biện minh thêm khi chiếm kinh đô của kẻ khác ở Thăng Long, cô lập, nhìn trước nhìn sau chỉ thấy người cùng họ sít sao trong lúc sinh lực trẻ đòi hỏi. Lấy người khác tông chỉ là chuyện bất thường, là “tai nạn”. Nhưng dù với sinh hoạt đó thì cũng không thể không khiến người ta ghìm được tức giận khi bị cướp vợ. Như Trần Liễu.
Nổi loạn bị thua, thoát chết nhờ ông em làm vua bênh vực, ông nuôi mối hận dặn con trả thù. Thù được cả nhà nuôi dưỡng. Trần Doãn, có lẽ là người con út của Thuận Thiên trước khi bà mang bụng chửa vào cung, cậu này, trước cảnh quân Mông Cổ đe dọa ở biên giới Vân Nam vẫn dẫn cả nhà trốn sang Tống – thất bại (1256). Có vẻ như Trần Kiện, cháu nội ông, hàng Nguyên năm 1285, sử cho là xung đột với Đức Việp (cùng bà nội, khác ông) cũng là dây dưa từ đây, thêm rối rắm giành gái ngay trong đời mình. Sao Liễu không chỉ định người con trưởng Trần Tung? Sử lại cũng không ghi đành chỉ phỏng đoán. Ông này sau đi tu thành Tuệ Trung Thượng sĩ cho người đời ca tụng, nên chắc là bản tính mềm yếu không thể giao trọng trách được (“ngay từ hồi để chỏm đã hâm mộ cửa Không” – Trần Nhân Tông). Thế thì, chuyển hi vọng vào người thứ hai, người lúc sinh ra được thầy tướng đoán “ngày sau có thể giúp nước cứu đời”. Với Trần Liễu thì, có thể trả thù nhà.
Ông Quốc Tuấn này đã chứng tỏ bản lĩnh của mình, hơn cậu em “tiêu cực, chủ bại”, chỉ lo trốn đi mà không biết tấn công vào kẻ thù. Ông lựa lúc người ta phô trương việc gả con gái, Trưởng công chúa đấy! trong “hội lớn 7 ngày đêm, bày các tranh về lễ kết tóc và nhiều trò chơi cho người trong triều ngoài nội đến xem” mới dàn trò cướp con gái, để làm bỉ mặt kẻ thù của gia đình, đang làm chủ nước. Xông vào ngay nhà tình địch, êm thấm, chủ nhân không hay biết. Chỉ là ăn vụng, nhà chồng cô gái không hay biết thì cứ đánh nhanh rút nhanh, việc gì phải làm toáng lên? Ấy là vì muốn mục đích chiếm người được công khai hoá, tạo gấp gáp “thành tích” dâng Cha già, vì hai tháng sau thì Trần Liễu chết (tháng 4âl. 1251). Vậy là mới mười chín tuổi, trên một chiến trường nhỏ, Quốc Tuấn đã chứng tỏ được khả năng của mình. Thái Tông, lúc bấy giờ đã nắm thực quyền, chỉ còn cách điều chỉnh lại lỗi lầm mình không gây ra nhưng phải gánh vác. Ông làm dịu sự kiêu căng của kẻ thắng, chịu gả con cho Quốc Tuấn, nghĩa là đem trả một người bù lại một người đã mất đi của gia đình kia. Phía khác, ông đền cho người mất vợ cũng thật xứng đáng vì đã đem ruộng đất cấp cho người mới bỏ sông nước lên bờ. Thái Tông cũng là một người như thế nên mới kí nhường ngay một lúc hai ngàn khoảnh ruộng – không hẳn 200 000 mẫu như quy định của chữ “khoảnh” (Hán Việt tự điển Thiều Chửu) mà chỉ là một lối nói phóng tay, nhưng chắc không ít. Vậy là ông không thấy tiếc hùi hụi như ông điền chủ Lí Nhân Tông bám của ngay cả lúc h�! �p hối. Vả lại ruộng Vĩnh Hưng đó cũng là của cướp đoạt (từ Lí) thôi!
Vẫn còn nhiều lắm, vì mấy năm sau (1254), trước sự đe dọa của quân Mông Cổ sát biên giới, ông đã đem “quan điền” ra bán, 5 quan một mẫu, là giá tô thuế của lãnh chúa nhỏ nạp cho vua Lí (3 thăng) trong 5 năm, cũng là giá của 15 thăng gạo, giá mua 5 nô tì trong năm đói 1290. Quan điền thường được dịch là “ruộng công” theo nghĩa “ruộng của công xã (?!)” nhưng chính là ruộng tư của ông (như giải thích năm 1277 về chữ “quan gia” của Trần Quốc Toại dựa vào Hán thư). Lần bán ruộng chạy giặc này tất có điểm kết quả tích cực khi nổ ra nguy cơ đất nước bị Mông Cổ / Nguyên xâm chiếm, chắc chắn là sẽ chiếm luôn cả miếng đất ông vương hầu, thổ hào nào đó đã mua được. Hịch tướng sĩ nói rõ: Chút “ruộng vườn chăm chút để nuôi gia đình” đến lúc có giặc “cũng không chuộc được tấm thân ngàn vàng…” Thế thì đem gia đồng, hương binh làm quân cần vương cứu nước như lời Ngô Sĩ Liên liên hệ đến trận chiến 1257.
Chiến thắng gia đình đó vẫn không làm cho Quốc Tuấn nguôi ngoai. Vai trò cứu nước, địa vị sau này của ông trên trần thế cũng như ở Cõi trên quá cao nên có chuyện gì kể về ông cũng chỉ là với mục đích đề cao ông. Rủi ro là với con mắt sắc mắc của người sau, sự việc sẽ có hơi khác. Đúng ra không phải rủi ro mà là may mắn bởi vì nhờ đó, lịch sử sẽ mang tính “người” hơn. Nhắc chuyện Quốc Tuấn quên thù riêng, phục vụ tông tộc mà đỉnh cao là vua (người nay lại hiểu là phục vụ Nước), sử quan kể chuyện Quốc Tuấn tỏ lòng trung trinh như thế nào. Nhắc chuyện Trần Liễu dặn “vì cha (mà) lấy thiên hạ”, sử quan nói rằng Quốc Tuấn “không cho là phải” nhưng vẫn “ghi nhớ trong lòng.” Đúng vậy, ghi nhớ đến mãi “khi vận nước lung lay, quyền quân quyền nước đều do ở tay mình”, nghĩa là sau 1289, sau lúc thắng Nguyên được bình công phong làm Đại Vương.
Sử quan kể chuyện lúc đó Quốc Tuấn đem lời dặn của cha nói lại với đầy tớ, với con. Sao lại nói chuyện hệ trọng, chết người như thế, chuyện trên danh nghĩa là chỉ có cha con biết với nhau, chỉ những người ở địa vị chủ nhân biết thôi, mà đem ra nói với đầy tớ, với cả những người không phải là người, chỉ là loại đếm đầu theo cây (cây quýt – Thánh Tông), chỉ đáng mang tên loài vật: Voi Rừng, Cồng Cộc nếu không thấy là cần thiết đến mức độ phải vượt qua nghi lễ, qua ước thúc của xã hội đương thời? Chuyện gì quan trọng đến thế nếu không là mớm lời bàn âm mưu, âm mưu đảo chính khi nhận ra mình đã đủ thế lực trong tay? Nói như thế nào, lộ ý muốn thực hiện như thế nào để “hai người gia nô can ông”? Đầy tớ là loại dưới tay, không chịu theo cũng không hề gì, một khi có dịp cử sự thì họ phải theo thôi, cho nên Quốc Tuấn quay sang hỏi một bộ phận của Tập thể làm chủ, hỏi ông con lớn, Quốc Nghiễn/Nghiện. Ông này đã được tước vương, có mẹ là con một ông vua, có vợ là con ông vua tiếp, danh vọng có đủ để không dám đánh mất, nên tỏ lời can nhưng lại thiên về tình, cho ra vẻ cao cả: “Khác họ cũng còn không nên huống chi là cùng một họ.” Còn không tin, lại đi hỏi người con khác, ông con nhỏ. Không nuôi chí lâu dài thì việc gì phải khổ tâm đến thế? Bàn tay có ngón dài ngón ngắn, ông Quốc Tảng được hỏi, được dịp bày tỏ tán thành ý ông nội, tuy nhiên lại cũng thấy thời thế đã khác, việc chắc khó khăn hơn, nên phải viện dẫn chứng tích quá khứ, lôi ra gương ông Lưu Dụ làm ruộng trở thành ông Cao Tổ nhà Hậ! u Tống để ủng hộ chủ trương lật đổ.
Con người nếu mãi còn đi theo mơ ước thì thấy mộng lúc nào cũng đẹp nhưng đến khi phải đối đầu với thực tế thì mới giật mình. Trần Quốc Tuấn suốt đời mơ mộng trả thù, có thể quên đi một khoảng thời gian vì các vấn đề thiết thân hơn, ở đây là trận chiến với Nguyên Mông, nhưng khi có cơ hội như lúc nắm quyền này thì ước mơ cũ nổi lên. Có ai can, trái ý mình thì nín lặng, khoả lấp mà chí nung nấu lại càng tăng. Ông Đại vương (tước chỉ dành cho con của Hoàng hậu) cầm quân quốc trọng sự, ông chủ nô việc gì phải khen ngợi, khóc lóc trước mặt đầy tớ nếu không phải là để mua chuộc, khoả lấp một sai lầm lỡ lời có thể dẫn đến tan tành cả thân danh, nguy hiểm đến tính mệnh? Thế nhưng đến khi có người tán thành thì mới thấy ra việc tiếp theo: Làm cách nào để cướp quyền? Quyền mình thì lớn thật, thế nhưng bàn chuyện cướp ngôi với đầy tớ thì tớ doạ ngược lại, bàn với con thì một người đã rụt rè. Quyền mình lớn thật nhưng cả một hệ thống đã thành hình, lúc này ông Hưng Đạo Đại vương có định đi vào cung để phế bỏ một ông vua cũng phải qua quân tuần hành, cấm vệ, không có chuyện như bà Thuỵ mẹ nuôi trước kia nửa đêm đến gõ cửa nhà Thái Tông. Có mang quân từ Vạn Kiếp về thì cũng không biết bao nhiêu đường đất cản trở, không biết bao nhiêu quân binh đối đầu. Lúc này không còn phân biệt nhà Liễu này, nhà Cảnh nọ mà qua liên hệ hôn nhân đã chỉ còn có nhà họ Trần như Trần Nghiễn chỉ ra. Liên hệ hôn nhân lúc này đã trở nên rối mù khiến chúng ta bây giờ phải thắc mắc: Họ xưng hô với nhau làm sao? Hưng Đạo Đại Vương! muốn cướp ngôi thì không phải chỉ động đến con cháu Trần Cảnh – nếu cho rằng có thể tách hẳn được ra, mà động đến cả tập thể họ Trần. Đứng trên chót vót của tập thể ấy là ông vua mà cả gia nô riêng biệt cũng xem là phải trung thành hơn là với ông chủ trực tiếp của mình, như Dã Tượng, Yết Kiêu khẳng định. Mượn điển tích người hàng thịt có phải họ đã nhắn ngầm với chủ rằng: “Ông mà lật đổ vua thì chúng tôi làm thịt ông đấy”? Và Quốc Tảng khi tán thành ý kiến ông nội chắc không ngờ rằng mình đã chặt đứt cơn mơ đeo đẳng nhiều năm tháng của cha. Tỉnh mộng thì phải quyết định xoá sai lầm của mình, nhanh chóng, cương quyết như khi phải điều quân nơi chiến trường: Đòi giết Quốc Tảng, không cho nhìn mặt đến cả lúc chết!
Chuyện ồn ào đến mức sử quan ghi được đến chi tiết như thế, chắc hẳn đã đồn vang khắp kinh thành, đất nước. Những người hầu cận đã từng lấm lét nhìn lên đầu mũi giáo bịt sắt của ông Tiết chế đứng gần vua. Các ông vua ngồi trên ngai nhấp nhổm mà không cách nào khu trừ được, chỉ còn cách nín lặng chờ “nó” vứt đi thôi. Và nhìn kĩ lại ta thấy dòng vua đã nhượng bộ rất nhiều, đã tìm đủ phương cách để tạo hoà hoãn, bảo vệ mình. Thánh Tông biết tạo ra cả một không khí chia đều quyền lực, trách nhiệm với tinh thần tương thân tương ái (1268): “Thiên hạ là của tổ tông… người nối nghiệp phải cùng hưởng phú quý với anh em trong họ…” Biết mối nguy là ở đâu, ông kết thông gia hai tầng, gấp bội, với người anh khác cha: Gả con gái cho người, đổi về hai con dâu cho người sẽ làm vua, cho tự tiện phong chức rồi tâu sau chẳng khác nào ông vua thứ hai, viết trên bia ở sinh từ của Quốc Tuấn (nghĩa là ngay lúc ông này còn sống) gọi ông anh là Thượng phụ – như Lã Vọng lập nghiệp cho nhà Chu… Sinh từ đó hẳn là đặt ở Vạn Kiếp, trung tâm quyền lực riêng biệt của Quốc Tuấn trong lúc nhóm Trần làm vua thì xúm xít ở Thiên Trường. Mặt khác, ông cũng lo bảo vệ dòng mình. Quốc Khang, con Trần Liễu theo bụng mẹ vào cung, được Thái Tông coi như con, thế mà Thánh Tông phong tướng cho ông em ruột (hơn) Quang Khải (1261, 1271), đẩy Quốc Khang đi châu Diễn (1270), lại còn rình mò đe doạ ông anh xây nhà lớn. Khi chọn thầy cho con (Nhân Tông) cũng lấy người che tên đạn cho cha mình: Lê Phụ Trần.
Tới ông vua-rể (Nhân Tông) lại phải lo thu xếp chuyện cô em (hay chị?) làm dâu ông danh tướng, thấy không đủ thoả mãn liền đi “ăn nem” nhà khác (chuyện trước 1285). Vua sai đánh chết Khánh Dư … xuống chiếu đoạt hết quan tước (“con nuôi vua” nên coi như là hoàng tử, mới được phong Phiêu kị Đại tướng quân, có tước thượng vị hầu – đi vào main stream, dòng chính). Lệnh trừng phạt thật dứt khoát, ghê gớm chỉ vì vua “sợ phật ý Quốc Tuấn”! Nhưng vua dặn “chớ đánh đau quá, để không đến nỗi chết” không phải vì thương Khánh Dư mà vì Khánh Dư là một thế lực khác. Lệnh tịch thu tài sản buộc không để lại một thứ gì nhưng không động được đến đất ở Chí Linh vì nơi này vốn là “của riêng của Thượng tướng Trần Phó Duyệt”, cha Khánh Dư. Đây là một nhóm Trần khác, nhóm Trần Thăng Long không những còn cần đến họ trong chiến tranh mà cũng không thể động tới đất căn bản của họ. Tính ngang tàng của Trần Khánh Dư không phải chỉ là bản tính cá nhân mà có cơ sở tông tộc. Chiều đãi đến phải gây mâu thuẫn với một thế lực lớn khác như vậy mà sau chiến tranh họ còn bàn nhau chuyện cướp ngôi!
Nhân Tông biết rõ ông cha vợ mình. Trong buổi bình công đánh Nguyên tháng 4âl. 1289, Hưng Trí Vương Trần Hiện, con Quốc Tuấn không được Nhân Tông cho thăng trật vì đã bảo để quân Nguyên thong thả về nước mà Hiện còn đón đánh chúng. Ông vua không nhắc chuyện thả Ô Mã Nhi về nước 2 tháng trước đó, thả để an thân mà còn phải nghe lời ông Đại Vương đục thuyền cho chết – rõ ràng đã ngược với lời chiếu khôn ngoan kia, chỉ tạo thêm cớ cho quân Nguyên trở lại thôi, vậy mà vẫn phải chiều ý! Cả sử quan cũng phải chê ông danh tướng “dùng bá đạo”. Cho nên phải lo về ông cha, Nhân Tông còn lo tiếp đến ông con. Khi nghe Quốc Tảng tán thành cướp ngôi, vua liền bắt ngay cô con gái về làm dâu nhà mình (1292) để nó thấy có đà làm hoàng hậu, cha nó thấy sẽ làm cha vợ vua, không còn muốn gì hơn. Sống như ông Nhân Tông, ngoài thì lo giặc trói mang về Bắc, trong thì lo ông cha vợ, ông anh em bà con (không biết gọi bằng gì) mang quân xông vào điện tuyên bố truất phế mà không có cách diệt trừ trước, sống với sự đe doạ hàng ngày như thế, dù thấy cây gậy đã vứt bỏ đầu sắt đi rồi, cũng quả là sống với sự bất an thường trực. Sống như thế mà đi tu thì có gì phải lấy làm lạ đâu? Có điều, dù vô tình hay cố ý, Nhân Tông lập phái Yên Tử trên núi nhìn xuống đồng bằng cũng tạo ra một vị trí họp với Thăng Long của Báo Thiên, Thiên Trường của Phổ Minh bao vây Vạn Kiếp, một thế lực quần chúng Phật tử trấn áp nhóm phù thuỷ Kiếp Bạc để góp phần giữ vững cơ nghiệp cho dòng mình. Có ai lấy làm lạ rằng tại sao trong lúc các chi nhánh Trần khác đi vô chùa còn ông ! Quốc Tuấn thì trở thành tổ sư phù thuỷ không?
Thế đã có chuyển biến gì khác ở nơi con người ông danh tướng trong khi đang nuôi chí trả thù? Hãy nhìn lại chuyến xâm nhập đầu tiên của quân Mông Cổ – lúc bấy giờ chưa thể gọi là Nguyên, cuối 1257, đầu 1258. Địch tấn công, lần đầu Trần thấy một toán quân đánh ào ạt như vũ bão, toán quân dưới quyền Ngột Lương Hợp Thai đó từng có viên thủ hạ được ca tụng ngay trong Hịch tướng sĩ: “Xông pha lam sơn chướng khí trên đường muôn dặm, phá quân Nam Chiếu trong khoảng vài tuần…” Cho nên ông Hoàng đệ Thái uý (chức chưởng trên nguyên tắc là một thứ tư lệnh) không biết quân trực tiếp của mình nơi nào, run lẩy bẩy, đứng không nổi, chỉ ngồi dựa mạn thuyền, không nói được, ráng viết ra hai chữ “nhập Tống”! Cũng chẳng có “đoàn kết” gì nhiều như ở hội nghị Diên Hồng đời sau, có anh hầu cận mất ăn trái xoài, nhớ đời nên cả trong nguy cấp cũng không chịu chỉ cho vua biết quân địch nơi đâu. Ông chú Trần Thủ Độ để đời sau nghe được lời nói kiên quyết: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất…” nhưng chắc cũng già rồi nên không xuất hiện sao cho khả quan, có bề thua cả bà vợ chuyển sức xung động thời trẻ qua việc bảo vệ nội cung, làm việc thu thập quân khí đánh trận. Rốt lại chỉ thấy một mình vua tả xung hữu đột, bàn chuyện “cơ mật rất ít người biết rõ” với một anh khác họ từng lấy ván thuyền, có nghĩa là cả thân mình, che tên cho vua. Ngày sau vua có gả người vợ cũ tội nghiệp cho người ấy thì cũng chứng tỏ mình mang tính “người”, hơn ông sử quan chê trách dựa vào cái gọi là “nhân! 221; luân cao vời, rỗng tuếch. Điều đăc biệt: Không thấy bóng dáng ông tướng “tiết chế tả hữu tướng quân thuỷ bộ” Trần Quốc Tuấn đâu hết. Sau chiến trận, chức đó chắc vẫn còn nhưng lại chính người tả xung hữu đột trước quân thù kia đã đi sứ điều đình, và trở về được phong làm Thuỷ quân Đại tướng quân (1259), nghĩa là tư lệnh đạo quân ưu tú chủ lực của Trần, đạo quân mang tính quyết định cho chiến thắng, không phải chỉ một lần mà là cả ba lần! Nhưng đã có sự thay đổi thái độ giữa các năm 1258 đó với 1285 vì chạm đến bản thân Trần Quốc Tuấn trong quốc nạn đối phó với Nguyên. Năm tháng làm đổi thay mục đích ở đời, cuộc sống phải trải qua nhiều quanh co ngoắt ngoéo vốn không là chuyện lạ.
Ở đây không phải nói chuyện về các trận chiến. Chỉ nên nhắc rằng chiến tranh xảy ra vì Nguyên đã đòi hỏi quá, quá nhiều so với đòi hỏi của các Thiên triều trước kia. Đòi cống thì cũng được, cũng như trước thôi! đòi đặt ông toàn quyền bên cạnh vua thì trước kia tuy không có nhưng ép quá thì cũng tuân. Chỉ có điều không làm được là bảo vua sang “chầu” và mượn đường cho quân đi qua. Vua là Nước, đường là Đất của vua mà đưa cho người ta giữ thì tranh cãi làm gì cho mệt, hàng đi cho xong. Không hàng mà chưa đánh nên có sứ qua lại, cù cưa. Sứ Việt bị nhốt, sứ Nguyên ngông nghênh “đi lại nghênh ngang ngoài đường… lăng nhục triều đình… bắt nạt tể phụ… thác lệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thoả lòng tham khôn cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng để vét của kho có hạn…” (Hịch tướng sĩ). Không khí căm thù của thời đại như thế, của tầng lớp cầm quyền trong lời hịch như thế hẳn là hợp với câu thơ gằn giọng “Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?” từ trong điện thờ của Trương Hống – ông thần nước bắt đầu được phong thời chống Nguyên, để xuất phát lời nói hợp với đời Trần hơn là của đời Lí. Chuyện có liên quan ở đây là giữa sứ giả Sài Thung (tên của Bắc sử, hẳn đúng hơn) và Trần Quốc Tuấn.
Văn chương tuy có nói quá sự thật nhưng không phải không chứa đựng sự thật ở một mức độ, khía cạnh nào đó. Sứ Nguyên “lăng nhục triều đình, bắt nạt tể phụ” được sử ghi lại là trường hợp Sài Thung năm 1281 lúc đưa Trần Di Ái về làm chủ Đại Việt thay ông vua thác cớ “già yếu không sang chầu được.” Thung “ngạo mạn vô lễ”, đi thẳng vào cửa thành không xuống ngựa, bị quân lính ngăn lại, lấy roi đánh vào đầu lính. “Vua sai Quang Khải đến sứ quán khoản tiếp, Thung nằm khểnh không ra, Quang Khải vào hẳn trong phòng hắn cũng không dậy tiếp… Quốc Tuấn nghe thấy thế, tâu xin đến sứ quán xem Thung làm gì…” Tể phụ chính danh lúc bấy giờ là Trần Quang Khải nhưng cũng có thể gán cho Quốc Tuấn không phải chỉ vì nghĩa rộng của nó mà còn vì có lần Thái Tông muốn trao chức ấy cho ông (lại một cách thế mua chuộc!) Ông không thuận với Quang Khải, sử không nói rõ lí do nhưng ta cũng hiểu rằng với tâm tình che giấu như đã nói thì Quang Khải đối với Quốc Tuấn là chứng tích cụ thể nhất về mối hận của cha ông: Quang Khải là con của người mẹ bị cướp đi, là con của người cướp mẹ ông. Chuyện hoà hoãn về sau là kết quả của chiến tranh, giữa tình thế tồn vong của dòng họ. Và trong sứ quán Nguyên, Quốc Tuấn cũng bị nhục như Quang Khải. Ông hơn Quang Khải ở chỗ được Sài Thung đứng dậy vái chào mời ngồi, pha trà tiếp chuyện. Chỉ vì ông gọt tóc, mặc áo nhà sư.
Dân Mông Cổ tiếp thu Phật Giáo từ Tây Tạng nên trọng nhà sư, không cần phải chỉ là nhà sư phương Bắc như sử quan nói. Cũng như vấn đề gọi là “giặc Phật” năm 1258. Không hẳn là vì quân Mông Cổ năm đó rút lui vội vã không kịp cướp phá mà người ta gọi là giặc Phật. Thành phần quân đội phụ trợ Mông Cổ lại là quân Đại Lí, một cựu vương quốc có rất nhiều ông vua bước xuống ngai là đi làm sãi. Danh xưng chỉ một điều cụ thể có sức bám bền vững hơn là từ một suy đoán. Dân chúng đương thời hẳn thấy đám quân giặc kia đã tỏ lộ một sự kính trọng nào đó với các dạng hình Phật Giáo trong xứ (chùa chiền, sư sãi..) nên mới gọi là giặc Phật. Sự xác nhận đồng đạo trong một lúc bất ngờ sẽ vụt xuất hiện, không cần suy nghĩ như trường hợp Sài Thung này. Tuy vậy, Quốc Tuấn vẫn phải chịu nhục. Tên lính hầu cận Thung lấy mũi tên nhọn chọc vào đầu ông đến chảy máu mà Thung vẫn không can thiệp vì hành động bất chợt đã qua, lúc này Thung chỉ thấy trước mặt là một tên Nam Man, dù mang vương tước, làm tể tướng. Hình như đây mới là phút giây thay đổi dứt khoát khiến cho Quốc Tuấn dẹp thù riêng sang một bên để lo cho sự tồn vong cho dòng họ, mà cấp thời cũng là của chính mình. Phút giây ấy dẫn đến hành động vứt đầu mũi giáo bịt sắt khi hầu vua, dẫn đến hành động hoà hoãn với ông em khác cha, qua thật nhiều phen phân trần, minh chứng để sử quan phải ghi tóm tắt: “còn nhiều việc đại loại như thế”. Nỗi tức giận ấy vang vang chuyển qua lời mắng mỏ tướng sĩ đầy tớ: “Các ngươi ngồi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thân ! chịu quốc sỉ mà không biết thẹn…” Nỗi tức giận ấy làm nên một vị anh hùng cứu nước, một Đức Thánh Trần, một ông thần trị bệnh tà Phạm Nhan, con “tà” ấy đi vào đất Chiêm Thành cũ – di cư hay di tản? phối hợp với thần tại chỗ thành một cặp “các đẳng Nhang, Giàng” phù trợ / đe doạ người dân. Uy tín lớn nấp sau chiến công cứu nước, công tích làm thần nên ẩn nhẫn qua được thời thanh giáo xã hội chủ nghĩa, để ngày nay ở đền Vạn Kiếp người ta lại hăm hở cúng tế, nhảy múa cầu đảo, rước xách xiên lình.
Chuyện thắng Nguyên thì có người cho rằng ca tụng mấy cũng chưa thấy chán. Sử quan khi kín đáo “bôi xấu” anh hùng dân tộc cũng để cho công cứu nước của ông vượt lên trên tính chất phe phía, xứ sở: “Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên.” Nhưng họ cũng thấy là nên ca tụng có chừng mực khi thuật lại lời trối, lúc ốm đau của ông danh tướng. Quân Mông Cổ không phải chỉ chịu thua ở Đại Việt mà đã thua ở mọi vùng biên quyền lực của họ, như tất cả những thế lực thống trị ở thế gian này từng gặp phải. Họ thua ở Nhật Bản, Java – nếu cho rằng bão tố, biển cả là yếu tố cản trở quyết định ngoài dự tính, để phải lưu ý đến khả năng thật sự của phía thắng như ở Đại Việt thì ở đây cũng có thể nêu yếu tố thiên thời (hiểu theo nghĩa bình dân: dịch tả!), địa lợi (quân Nguyên quen với “trường trận” không thể làm chuyện “tiến chậm như cách tằm ăn”) như Quốc Tuấn nhận định từ trên giường bệnh. Ông chắc không biết chuyện Mông Cổ bị chận ở Trung Âu như những toán quân “Hun” tiếp theo. Ngay chuyện lịch sử trong nước mà ông cũng còn nhớ lộn xộn (như khi kể về “thời Triệu Vũ dựng nước” lẫn lộn với toán quân Lí Thường Kiệt) nhưng khi ông bàn chuyện trong đời, nhớ lại những biến động đã trải qua, có thêm sự bình tĩnh của tuổi già thì nhận xét thật chừng mực, về quân thù có sự nể trọng, về chiến thắng thấy có hàm ý phân vân. Cho nên khi chết dặn con: “Phải hoả táng… bí mật chôn trong vườn… san đất trồng cây như! cũ… phải làm sao cho mau mục.” Sử quan không phải nói xấu ông mà dựa vào ý chôn cất theo cách “để người đời không biết chỗ nào” nên hiểu lời dặn đó là đề phòng quân Nguyên, “sợ sau này có thể xảy ra tai hoạ đào mả chăng”, nghĩa là sợ rằng quân Nguyên còn có thể sang, và ta còn có thể chạy, không chắc có thể trở lại nhà cũ được không!
*
Con người như thế được ông cha cho “tìm khắp những người tài nghệ để dạy” con, đào tạo con với mục đích khác: chỉ là để trả thù nhà! Thù đó có lúc phải chịu chìm trong lãng quên nhưng vẫn được nung nấu gần suốt cuộc đời. Thế mà rốt cục không đạt được ý nguyện của cha, lại dùng chính sự tạo dựng kia để trở thành người phục vụ đối thủ. Nhưng ông không phải chịu trách nhiệm về sự đổi thay ấy trong đời mình – trong một chừng mực nào đó, ông cũng chỉ là một đơn vị trong biến động mà thôi. Và tuy quá khứ đã thành hình nhưng ta vẫn còn muốn hỏi: Nếu quân Nguyên sang mà không có một Quốc Tuấn được đào luyện kĩ như thế thì sao? Và nếu không có quân Nguyên sang thì sao? Triều Trần có một người cướp ngôi thành công, hay sử Trần sẽ có thêm một dòng khó hiểu: “Tên Tuấn bị chém ở… / bị sung làm khao giáp… miễn tịch thu gia sản vì ‘ngày trước có công lớn’ (chuyện một người năm 1309), vì là trong dòng họ nhà vua…” như ở những đoạn văn sử nơi khác? Và cục bê tông sẽ không đứng ở một bờ sông phía nam, mà còn đứng thì đời đời còn làm chứng tích “nói xấu chế độ / dân tộc”, ghi sẵn một trang chưa được phép viết trong dòng sử chính thống bây giờ…
tháng 9-2006
II “NHÀ TA: NGƯỜI MIỀN DƯỚI”
Đó là lời Trần Nhân Tông năm 1299, khi ông bảo xăm hình rồng cho Anh Tông để khỏi quên truyền thống nhưng Anh Tông trốn mất, từ đó các vua Trần không xăm hình rồng nơi đùi nữa. Danh nghĩa dân chài đã mất từ lâu khi Trần nắm quyền trị nước nhưng đây mới là dấu hiệu đoạn tuyệt hẳn với quá khứ dân dã của dòng họ này.
Nhóm Trần này (thay thế Lí 1226), “đời đời làm nghề đánh cá” nên dù có làm vua yên ổn, sắp xếp thứ bực tôn thất (1267), sai phủ Tông chính soạn ngọc phả của họ nhà vua (1304) thì cũng chỉ biết không quá 5 đời, ngay trên đất Đại Việt, là ở “hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường”, tỉnh Nam Định ngày nay. Kí ức xa hơn thì chỉ còn lờ mờ: “Tổ tiên là người đất Mân (Phúc Kiến), có người nói là Quế Lâm (Quảng Tây)”. Cuộc sống trên sông nước, làm di dân trôi nổi khiến họ không thể nhớ gốc tích xa hơn. Li Tana (1) đã nhìn ra đó là đăc tính của tộc Đản ghi chép trong thư tịch Trung Quốc xưa, có nguồn gốc Giao Chỉ, gọi là “Giao Chỉ Đản” (Lĩnh ngoại đại đáp 1178) và còn lưu dấu đến bây giờ.
Ngày nay người tộc Đản đã được chính quyền Trung Quốc ghi với chữ mới (Hán Việt): Đan/Đơn, bỏ mất tên với bộ Trùng khinh miệt xưa kia. Họ sinh sống dọc biển Quảng Đông, Quảng Tây, Hương Cảng, Hải Nam, qua Việt Nam, Malaysia, Thái Lan, mang các tên Thuyền Hộ, Đản, Đản Gia, Ngái, Soisangyang (Thuỷ Sinh Nhân)… Tuy được ghép vào bộ phận của tộc Hán chính thức và nói tiếng Hoa (phương ngữ Quảng Đông), nhưng bản thân những người này vẫn coi như một tộc riêng biệt, và nhiều học giả, kể cả người Hoa cũng công nhận như vậy. Người Đản thích tự gọi là “Người Sinh (từ) Nước”, trong quá khứ thường bị miệt thị, khinh rẻ. Quế hải ngu hành chí (1175) của Phạm Thành Đại ghi rõ: “Đản là tộc man sống trên biển.” Họ được mang tên “Thuyền Hộ”, cho là có chân ngắn, chỉ thích hợp với cuộc sống ở biển, có tài liệu còn nói họ có chân 6 ngón, và có đuôi! Suốt đời họ sống trên thuyền, chỉ khi chết mới lên bờ chôn mà thôi. Họ thờ Thiên Hậu (thấy dấu vết ở Việt Nam), thần cá và thần rồng. (2) Ở Việt Nam ngày nay, người Hoa lân cận gọi họ là Đản Gia Lão (Quảng Ninh, Hải Phòng.) Nhóm Đản-ỞRừng ngày xưa thì nay là Ngái (3). Nhóm Đản ở nước của thư tịch Trung Hoa bắt hàu, mò ngọc trai, thờ rồng nên còn có tên là Long Hộ (Từ hải). Tên Giao Chỉ Đản ở Lĩnh ngoại đại đáp có lẽ là để chỉ một bộ phận Đản chứ không phải là ghi nhận nguồn gốc bởi vì bộ phận Đản ở Trung Hoa rất đông, và dấu hiệu đi về phía nam rất rõ như trường hợp họ Trần, họ Mạc về sau. Với chứng cớ di chuyển ghi ở Toàn thư thì họ Trần ở đất Mân! vào khoảng thế kỉ XI, ngang với lúc Lí bắt đầu cầm quyền.
Không có xác nhận trong sử kí triều đại để chứng tỏ họ Trần là thuộc tộc Đản nhưng các bằng cớ dân tộc học dựa vào chứng liệu lịch sử và suy đoán ngay từ lời nói và sinh hoạt của họ lúc khởi đầu khiến ta nghĩ như thế, dù là có thể khiến nhiều người mang tính tự tôn phản đối. Trong các thần tích lưu giữ ở các đền thờ vùng tỉnh Thái Bình thì những người khởi đầu họ Trần đều mang tên các loài cá: Ông tổ đầu tiên (Trần) Kinh là cá Kình, Trần Hấp là cá Chắm/trắm, Trần Lí là cá Chép (lí ngư), Trần Thừa là cá Dưa, Trần Liễu là cá Nheo, Trần Cảnh là cá (Lành) Canh. (4) Khi Nhân Tông xác nhận “Nhà ta người Miền Dưới – người vùng sông biển”, phải chăng đó là âm vang của tên tông tộc “Người Sinh (từ sông) Nước / Thuỷ Sinh Nhân”? Trần Thủ Độ, người dựng nghiệp Trần, hiên ngang tuyên bố: “Ta chỉ là con chó săn thôi…”, đủ cho sử quan chê nhẹ: “… tuy không có học vấn…” Ngay cả ông vua đầu, Thái Tông, cũng không thoát nhận định: “…tuy có tư chất tốt đẹp trời ban nhưng chưa có học thức…” Đây cũng là căn cứ để ta tin vào thuyết chính Nhân Tông mới là tác giả của Khoá hư lục đầy ý nghĩa kinh sách sâu sắc. Nhưng Thái Tông nổi bật ở sự liều lĩnh, xông xáo của chàng trai sông nước khi “bỏ thuyền lớn trong cõi (thuyền biển, trên sông lớn của tông tộc), chỉ đi thuyền nhỏ” xông vào đất Tống, bị lộ hình tích lại đương nhiên bứt rào cản, nhổ cọc mang về! Đến ông anh gặp mùa nước lụt, thản nhiên dùng thuyền đi chầu, nhân dịp hiếp cung phi Lí. Lúc cùng khốn nổi loạn ! thất bại lại “dùng thuyền độc mộc, giả làm người đánh cá” đến xin hàng – và vua, qua mười mấy năm ở kinh đô, lúc đó cũng đang ở trên thuyền chứ không phải ngủ yên ấm trong cung điện lấy được của nhà Lí! Họ Trần “đời đời chuộng dũng cảm… nếp nhà theo nghề võ, thường xăm hình rồng vào đùi” (Nhân Tông). Và đàng sau những cá nhân nổi bật mang dấu vết xăm đơn giản là cả một tập đoàn rằn rện có tên “thái long” (rồng hoa): “Thời quốc sơ, quân sĩ đều xăm hình rồng ở bụng, ở lưng và hai bắp đùi”. Và dân ở Vân Đồn còn có dấu hiệu mò ngọc trai sau khi nhà Trần làm vua đến hơn trăm năm (1348). Đâu cần phải có nhà dân tộc học so sánh nào đứng đó để ghi chép?
Tính sông nước khiến ta xếp lại tên Yết Kiêu. Hai người nô nổi tiếng của Trần Quốc Tuấn, một tên là Dã Tượng (Voi Rừng) vì Đản có một bộ phận phá rừng lấy gỗ gọi là Mộc Đản, ngày nay qua Việt mang tên tộc Ngái/Ngải (Sán Ngải: Người Ở Rừng). Yết Kiêu ghi bằng chữ Hán nơi Toàn thư thường được giải thích là Chó Săn. Có vẻ dịch giả hơi vị nể một nhân vật đã đứng tên trên đường phố chứ Từ hải chỉ đưa nghĩa:”chó đồng, loại thở ngắn hơi”. Chữ “kiêu” ở sách sử mang bộ Mã nhưng cũng có chữ kiêu mang bộ Điểu, như thế hợp với chữ “yết” kèm theo (cũng có âm đọc khác) mang ý nghĩa “tháo ra”, hay đồng âm với chữ “yết” là “cổ họng”. Ta không đòi hỏi sử quan phải là nhà điểu học nhưng gộp các hình tượng từ các chữ được điều chỉnh, ta có hình dáng một con cồng cộc, con chim nuôi mang vòng thắt nơi cổ họng, bắt cá mà không nuốt được của đám dân sông nước vùng hạ Dương Tử. Lúc Trần Quốc Tuấn thua quân, thấy Yết Kiêu vẫn giữ thuyền chờ mình, thốt lên lời khen về “chim hồng hộc bay cao nhờ sáu trụ cánh”, lời liên tưởng ấy hẳn không phải là tình cờ. Tính cách sông nước cũng giải thích được sự buông thả tính dục và lối kết hôn trong thân tộc của nhà họ Trần. Lên làm vua mà con trai còn đi ăn cướp cho thoả chí tung hoành thì người nữ chọn trai cho vừa ý thích cũng chỉ là sự tương đồng trong sinh hoạt mà thôi. Cho nên, dòng họ lên làm chủ nước, Chàng Cả Trần Liễu hiếp cung phi Lí lúc ban ngày ban mặt trong lần có buổi hội họp quần thần, bị nhóm nho thần cựu trào đàn ! hặc, tuy phải xuống chức nhưng nơi chốn bị “nhơ uế” ấy lại mang tên Thưởng Xuân (hai năm sau được nhắc thêm lần nữa), biểu lộ một tâm tình phơi phới, khoái trá, đầy khích động tính dục của tập họp Trần, không một chút ân hận, hối tiếc nào.
Do tính cách di chuyển của tông tộc như thế nên bây giờ ta có thể hiểu tại sao sử quan phân vân về nguồn gốc Trần: Mân hay Quế Lâm (Quảng Tây)? Có thể trên đường phát xuất từ đất Mân, họ đã ghé vào Quảng Tây một giai đoạn. Và trước khi đến Nam Định, họ cũng đã bám trụ trên vùng Quảng Yên, với chứng tích “Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên/An Bài, Yên Hưng, Yên Bang” là đất phong (1237) cho Trần Liễu để đền bù chuyện mất vợ. Trần đến đất Việt mà ở trên sông nước thì không phải va chạm với Lí đang nắm quyền trên đất liền. Như thế cũng có nghĩa là họ hành động độc lập, chia từng khu vực quyền lực với các toán sông nước khác.
Ta không rõ các nhóm ấy tên gì nhưng thấy họ xuất hiện mang tính tập thể sông nước trong hội nghị Bình Than (1282) trên một bến sông (vũng Trần Xá), họp “vương hầu và trăm quan”, trong một ý nghĩa bao quát, thô thiển, đó là họp lãnh tụ Miền Dưới và Miền Trên (Thăng Long). Chi tiết hơn, trong tập họp đương cự Nguyên cuối 1284 có tên các xứ Ba Điểm, Bàng Hà, Na Sầm, Vân Trà / hương Trà, Yên Sinh, Long Nhãn, trong đó hai hương Ba Điểm, Bàng Hà bị trừng trị sau chiến tranh cho ta suy đoán về tính độc lập của các xứ kia. Hương Trà sau chiến thắng 1289 có người (Phùng Sĩ Chu) làm Hành khiển, chứng tỏ thiên hướng chọn người cùng phe sông nước của nhóm làm vua. Thế mà hương Trà vẫn giữ một chừng mực riêng biệt đến nỗi năm 1344 còn làm nơi phát xuất của loạn Ngô Bệ kéo dài đến 1360. Chúng ta lại còn biết thêm rằng hương Bàng Hà là gốc của Mạc Đỉnh Chi. Trần Quý Nha (tiến sĩ 1748), tác giả Công dư tiệp kí tục biên không những dựa Toàn thư mà còn dẫn địa danh để chứng minh đất Bàng Hà là của Mạc. (5) Trong cuộc chiến với Nguyên đã có rất nhiều người đầu hàng phe địch, Trần phải làm lơ, thiêu huỷ chứng cớ nhưng còn giữ tên hai hương, vì đó là chuyện “phe sông nước” của mình, trừng trị được mà không gây biến động lớn. chứ không phải chỉ có hai nơi ấy mà thôi.
Vấn đề họ Mạc cũng khá phức tạp. Có những thủ lãnh Mạc (không có gì chứng minh là đồng tông) đeo đẳng suốt đời Lí, qua Trần tuy ép mình làm gia thần (như Mạc Đỉnh Chi với Trần Ích Tắc) nhưng vẫn còn thế lực đến Hồ, Minh thuộc, Hậu Lê, qua thời gian, lập nên triều Mạc. Toàn thư đã sắp xếp ra một phả hệ liên tục kể từ Mạc Hiển Tích (thế kỉ XI), và còn cả bia đá (1470) đời Lê Thánh Tông liên hệ đến làng Cổ Trai của Mạc Đăng Dung, nhưng thư tịch Trung Quốc lại níu họ Mạc Cổ Trai vào với một dòng di cư khác. Mạc Kính Thự trong tờ biểu cầu cứu Mãn Thanh đã kể gốc ông cha ở thôn “Trà Hương, huyện Đông Quan, Quảng Đông” (6). Có thể họ Mạc thất thế phải viện dẫn thật xa đời để làm kế nhờ cậy, chứ đến lúc này thì Mạc đã hoà hợp với vùng trên, mang ý thức Việt rõ ràng rồi, chứng cớ là con cháu những người trên vùng biển chạy loạn thế kỉ XVI tập họp trên các đảo ven bờ Quảng Tây ngày nay nhận mình là Việt, rồi với sự xuất hiện của Cọng hoà XHCN Việt Nam họ đã đổi thành Kinh (7). Nhưng dù sao thì Mạc Hiển Tích ve bà Thái hậu mà không ai dám xử, Mạc Đỉnh Chi trên xứ Bàng Hà bị xoá sổ, dân làm nô mà không sao cả, còn đỗ trạng, đi sứ, tất cả chứng tỏ một vài họ Mạc đã có quyền lực riêng biệt trên một vùng đồng ruộng, sông nước làm kiêng nể các chính quyền ở Thăng Long. Cũng có thể với thế lực địa phương khó khu trừ đó mà Trần Quốc Tuấn bao dung, đưa thêm một cánh tay an toàn cho họ Mạc, với dụng ý lấy vây cánh trong âm mưu chống đối dòng làm vua để trả thù nhà theo lời dặn của cha.
Một thế lực khác dễ lẫn với Trần ở Thiên Trường vì cùng họ: Trần Khánh Dư ở Chí Linh. Không thể lẫn được vì các sự kiện tiếp nối đã chứng minh. Trong câu chuyện ông bán than vua vời không tới kể như một sự tích truyền kì thú vị, sử quan nhắc lại chuyện Trần Khánh Dư tham gia đánh quân Mông Cổ, rồi thắng quân Man ở vùng rừng núi (?), được trao chức Phiêu kị tướng quân, chức chỉ dành cho hoàng tử, hợp lí, vì lúc này Khánh Dư được coi là “Thiên tử nghĩa nam” / con nuôi vua. Chỉ bấy nhiêu đó cũng đã thấy chút khác biệt với họ Trần Thiên Trường. Cho nên về lại Chí Linh, Khánh Dư không phải chỉ là anh bán than nghèo khó vì chính sử quan cũng chép về “chiếc thuyền lớn chở than củi” xuôi sông lớn ra biển giữa nước triều gió mạnh – thuyền như thế thì chủ nhân không cần phải “Một gánh kiền khôn quẩy tếch ngàn” làm gì. Nhân Tông than thở “Nam nhi mà đến nỗi này!” là nhìn vào vị trí chủ nước của mình liên hệ đến ông cựu “nghĩa nam” chứ không phải vì ông bán than đội nón lá, mặc áo ngắn!
Khánh Dư bị thất sủng vì trai gái với bà công chúa, dâu ông mang chức vụ công là “Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội toàn quốc” nhưng bên trong luôn nuôi chí trả thù cho cha. Vua “sợ phật ý Quốc Tuấn mới sai người đánh chết Khánh Dư ở hồ Tây”. Nhưng ông lại ngầm bảo đánh nhẹ, không phải vì thương nghĩa nam mà vì thế lực Chí Linh, chứng tỏ là đã “xuống chiếu thu hết quan tước, tịch thu tài sản không để lại một chút gì” mà vẫn còn đất ở Chí Linh vì “châu Chí Linh vốn là của riêng của Thượng tướng Trần Phó Duyệt”, chắc là cha Khánh Dư, vua không thể đụng tới được. Ngày nay, trên bản đồ hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương hầu hết các xã đã bỏ tên xưa, lấy tên các nhân vật lịch sử, kể cả những người thời nay, trong đó có tên Nhân Huệ (Vương) ở môt góc hợp lưu của sông Thái Bình và Kinh Thầy. Những hành động về sau của ông tiểu thủ lãnh: phối hợp quyền lực và mưu mẹo bán nón Ma Lôi, cai trị đất Vân Đồn theo cách “gà chó đều kinh” ở cửa khẩu tiền bạc của đất nước, rồi biện bạch với vua về hành động của mình, rằng “dân, lính là vịt dành làm vật nuôi cho tướng là chim ưng”, khi bị vua “rầy la” bỏ về xứ yên lành, tất cả chứng tỏ đó không phải là hành động ngang tàng của một cá nhân mà là biểu tượng của một thế lực địa phương miền biển. Thế lực đó rồi sẽ tàn lụi khi nhóm Trần-làm-vua tóm thâu quyền hành lãnh thổ, chứng tỏ về sau không thấy dấu vết con cháu Khánh Dư đâu hết. Có thể do đó Trần Minh Tông làm thơ vịnh “… Nhân Huệ vương trang” mới có! câu (dịch): “Một góc biển trên bản đồ đã theo giáo hoá của nhà vua” (8). Xác nhận như vậy cũng phải bởi vì trong trận đánh Chiêm (1312), ông tướng ngang tàng hoảng hồn khi Anh Tông nghe lời tâu của Đoàn Nhữ Hài đã nổi giận chặt chân giám quân của Khánh Dư!
Sống riêng biệt trên sông nước, Trần không hề chuẩn bị mở rộng quyền hành trên đất liền. Nơi ấy đang có một triều đình, dù sao cũng là một trung ương cố gắng kết tập theo mẫu hình Hán Đường Tống một cách thô thiển với các ông “thư” gia làm tính, viết chữ (Hán), học kinh Phật và Nho, tập tành làm thơ, đi thi, leo lên từng cấp bậc trong triều đình… Trần Thủ Độ “không có học vấn” như sử quan chỉ rõ, có lấy nước cho họ Trần thì cũng chỉ bằng vào âm mưu thu xếp và từ quyền lực của tập đoàn. “Nhà Trần Lí nhờ nghề đánh cá nên giàu…”. Người đời nay có thể thắc mắc không biết họ đã tổ chức việc đánh bắt, phân phối như thế nào, có giống như tổ chức Đầu-nậu gần đây không, có liên kết nghề nghiệp riêng với tổ chức thương mại, cướp biển hay không để tạo thành uy thế khiến “người quanh vùng theo về, nhân có quân chúng, cùng nổi lên làm giặc.” Vậy là họ Trần đã bắt đầu đặt chân lên đất liền tuy đại bản doanh vẫn còn là một tập họp bềnh bồng của thuyền bè đông đúc, chưa hẳn có tên riêng: ấp Biển / Hải Ấp. “Ấp” không phải nhỏ như ngày nay mà là một đơn vị trong đất liền khi nổi dậy cũng khiến vua Lí phải thân chinh. Tước phong Thuận Lưu bá cho Trần Tự Khánh với nghĩa “xuôi dòng” cũng cho thấy tính lưu động sông nước của nhóm Thuận Lưu.
Vương tử Sảm (Huệ Tông về sau) lấy Cô Hai ở ấp Biển khiến Trần có cơ hội xen vào triều chính Lí với chức tước ông vương tử tay trắng phong ẩu để làm của cho hôn ước. Sự can thiệp vào chính tình Lí khiến Trần triển khai thế lực trên bộ, chiếm đất Lưu Gia của dòng Lưu Khánh Đàm, Thái uý đời Lí (9). Lưu Gia hẳn mở ra thành hương Tinh Cương, đất chôn ông thượng hoàng chưa từng làm vua và ba ông vua đầu, với dân làm đội quân nòng cốt của họ Trần lúc sơ khởi, đất được nâng lên thành Phủ (Long Hưng). Bên kia sông Hồng, hương Tức Mặc xuất hiện trên chính trường (1210) như một vị thế kém quan trọng hơn nhưng khi chiếm được chính quyền, Trần đã sai Phùng Tá Chu đến xây nhà cửa, cung điện (1239) để trở thành phủ Thiên Trường, nơi cất cung Thánh Từ của Thái thượng hoàng, chốn kinh đô thứ hai của Trần. Dòng chính đã có đất thì các vương hầu chậm chạp cũng phải lập điền trang (1266) để thành điền chủ tiếp theo, bỏ nghề sông biển. Hệ thống trang điền của vương hầu Trần mà Ngô Sĩ Liên kể ra rõ ràng nằm ở vùng biển. Ở Miền Trên, trừ các vùng của Lí chuyển qua, các thế lực địa phương vẫn còn đó, như chuyện về Đỗ Tế, ông chủ ấp Hợp bị đuổi (1216 ĐVSL), nhân Trần bận chiếm ngôi, mười năm sau trở về đất cũ để cho con cháu dựng bia đá xác nhận (Đỗ Năng Tế) có chủ quyền trên “hương Binh Hợp”, nịnh bợ nâng lên làm “ấp thang mộc” như là thuộc dòng họ nhà vua! (10) Trần Nhật Duật có lấy tiền đồn chống Nguyên là đất của công chúa Phụng Dương trên vùng Ngã Ba thì lúc rút lui cũng phải luồn lọt qua vùng “Man Lão” m�! ��i gặp quân nhà. Đến cuối đời, Nghệ Tông trốn chạy lên trấn Đà Giang cũng phải nhờ Man Lão che giấu! Sự giàu có của chủ đất Miền Trên nổi bật khi Trần suy yếu, lúc ông vua phải sai người trồng tỏi cung đốn cho việc chi tiêu riêng, thì nhà giàu Đình Bảng (đất dòng Lí), Nga Đình (Quốc Oai, đất nô Chàm?) vào cung đánh bạc ngang ngửa với vua.
Trần lúc đầu cũng phải ì ạch mới ngoi lên được trong tranh chấp. Biến động tranh giành quyền lực ở Đại Việt được thấy rõ hơn qua những ghi chép thô phác còn giữ ở quyển Đại Việt sử lược, đại loại kể chuyện đánh nhau theo tính chất cá nhân, tập nhóm nhỏ chứng tỏ thực trạng tranh chấp lúc đương thời, với những chi tiết lặt vặt khá tức cười được lặp lại: trói người bằng dây thép, “trói bằng dây thép năm vòng”, người bị trói vẫn mang cả vòng dây thép nhảy múa vui đùa! Loạn từ những năm cuối thế kỉ XII, nhà Lí lúc đầu còn đủ khả năng huy động những lực lượng lớn (như 12 000 quân đánh Sơn Lão năm 1184) nhưng càng lúc càng đuối sức. Sự việc tỏ rõ trong trường hợp thanh lọc mang dạng đầu voi đuôi chuột để lấy người về cho nhà nước năm 1198: “Dĩ Mông triệu tập tăng đồ trong xứ lại nơi kho thóc, để vài chục người có danh tiếng làm tăng, số còn lại đánh dấu vào tay bắt hoàn tục.” Lúc còn lớn quyền, Lí đi đánh nơi nào vẫn phải nhờ đến các tập họp địa phương, cho nên khi sa sút thì các nhóm này lại nổi lên như ong.
Nổi bật lúc đầu vì phải chịu đựng áp bức lớn và khá thuần nhất vì nguồn gốc xuất phát và sự kì thị kia, ngoài nhóm Hoa Lư uất ức vì bị hạ giá còn có các nhóm cựu tù binh Chàm trong thế kỉ XI đến lúc này vẫn giữ được tiếng nói, phong tục riêng. Đó là nhóm “giặc Đại Hoàng” mà địa danh (hoặc nói gọn: “hoàng” kèm danh từ chung châu/sông/người-sống-ở) chỉ hai nơi: vùng Hoa Lư và khúc sông Hồng bao gồm phủ Lị Nhân cùng với sông Đáy, chắc đã gây nên lúng túng của sử gia xưa nay. Loạn Đại Hoàng của Phí Lang xuất phát (trước 2003) từ việc những người này bị bắt xây cửa Đại Thành (tất là của thành Thăng Long), nghe nơi khác nổi dậy nên “trốn về làm phản”. Con cháu tù binh thì phải xây thành trì cung điện, nên “Đại Hoàng” ở đây là của hành cung Lị Nhân, địa điểm lập ra để trông coi nhóm tù binh Chàm ở vùng có chùa Bà Đanh – Đinh Xá, nơi dễ cho nhóm làm loạn trở về hơn là phải lạn lội đến tận Hoa Lư! Loạn có tướng giặc Phí Lang lúc đầu hàng (1205) dẫn theo đến hơn 170 “hào trưởng” rồi hai năm sau lại nổi dậy tiếp. Nhưng sử quan ghi chiến trận đều ở vùng gần Hoàng Giang của Hoa Lư, kể cả lúc Phí Lang chiếm hành cung Ứng Phong ở hạ lưu sông Đáy nên ta ngờ rằng họ đã phối hợp được với cuộc loạn của “kẻ mạo danh con cháu Đinh Tiên Hoàng” trên vùng Thanh Nghệ từ năm 1198, và kéo dài dấu vết đến năm 1214, Trần thắng (1215 ĐVSL ghi: thua). Có nhóm phía tây kinh thành, vùng ông thần Lí Phục Man với tướng quân Cam Giá Phan/”phiên” Cụ, nhóm vùng phía bắc nơi có cái mukhalinga chùa Dạm, một lú! c được Nguyễn Nọn chiếm lĩnh thu phục tướng Chàm Phan/”phiên” Ma Lôi được sử quan khen “có tài chủ động đánh thắng, dùng binh như thần”. Nhưng cũng bởi gốc tù binh lạc loài mà họ không làm nên việc lớn.
Loạn quân tập họp thành nhóm mang tính khu vực mà dấu hiệu danh xưng còn ghi lại cho thấy sự xáo trộn lớn là ở vùng hạ du lúc này nổi bật trên chính trường: nhóm lộ/hương/châu Hồng, Khoái, Nam Sách, Thuận Lưu (của Trần)… Vì thế ta không lấy làm lạ về sự kiện Trần Lí bị các nhóm khác giết. Họ Trần lúc đầu cũng chỉ là “giặc” để bảo vệ bản thân, để tồn tại, và có lẽ từ tính thuần nhất của tập họp bộ tộc, của khả năng chống chọi với sông nước, thiên nhiên, họ có sức mạnh ban đầu để bung ra, phát triển lớn. Tuy nhiên lại cũng không phải có được sự dễ dàng, suôn sẻ trên đường tiến chiếm quyền lực.
Trần Tự Khánh lên thay Trần Lí, không nhiều tự tín cho đến khi móc nối được với thế lực địa phương Lí trở cờ như Phùng Tá Chu, Phạm Kính Ân, với các nhóm cung đình và các tướng tù binh Chàm tan rã như “tướng quân Phù Lạc (vùng quanh Phù Đổng với các tên “phù”?) là Phan/”phiên” Thế (1214), “Tướng quân Cam Giá” Phan/”phiên” Cụ, Thượng tướng quân Phan/”phiên” Lân, người được Toàn thư tán dương, cho là năm 1217 cùng với Tự Khánh “xếp đặt quân ngũ, chế tạo binh khí, luyện tập võ nghệ, quân thế dần dần phấn chấn.” Rối rắm buổi đầu cho thấy Trần lại cũng xung đột với nhóm của phe ngoại như Tô Trung Tự, hay chống với chính các người dưới quyền điên đảo đổi thay phe phía trong tình hình thấy trước mắt, như Phan Lân bị giết (ĐVSL ghi thời điểm lệch lạc: 1214) vì chạy theo Nguyễn Nộn, ông Hoài Đạo Vương trên đất Thuận Thành. Phan Cụ “làm phản” (1214) bị bắt nhưng đánh nhau cho Trần Tự Khánh bị chết (1220) nên được truy phong vương tước do “chết vì nước.” Thế nhưng việc Tự Khánh nắm được tập đoàn vua Lí – cũng phải trải qua giai đoạn lọc lựa các ông hoàng kế nghiệp, cuối cùng chọn được con bài Vương tử Sảm, chịu cho rước Trần thị về cung – đã khiến ông có danh nghĩa phát triển sức mạnh tông tộc để khi chết đi, Trần Thủ Độ có cơ hội thay đổi triều đại. Sức mạnh đó toàn là ở lực lượng đường thuỷ, được nhận rõ trong các cuộc tiến quân, cả trong việc tạo thuận lợi cho quân thuỷ như trong trận đánh Nguyễn Nộn (1218), phá vỡ đê để “quân theo thế nư! ớc tràn vào”.
Với tình hình đó thì việc ông vua đầu đời bị chê “chưa có học thức” cũng là phải lẽ. Con vua, cháu chúa ra ngoài cung ăn cướp, đánh nhau tay không, lại cũng nơi bến nước bờ Đông! Điện vua, nhà vương hầu luông tuồng không tường thành phân cách để người nửa đêm gà gáy lẻn vào nhà cướp gái (Trần Quốc Tuấn) hay cậy thân tình gõ cửa bày tỏ công việc (bà Thuỵ). Bà cựu Huệ hậu, vợ ông tể tướng đương thời, đi lăng quăng bị lính chận lại, về khóc lóc với chồng. Yến tiệc triều đình để cho mọi người say khướt, “có người đội mo nang, cầm dùi làm tửu lệnh… dang tay mà hát.” Vướng víu với đám đông bình thường khiến vua làm lễ gả con gái cũng muốn phô bày cho mọi người cùng biết (1251), và còn kéo dài tới chuyện tang lễ Nhân Tông (1310), người xúm lại chật ních như đi xem đám ma nhà giàu! Vua không chịu an tâm tù túng trong cung điện, Thánh Tông đi coi chữa cháy nhà dân, Anh Tông đêm tối đi chơi bị du đãng ném đá bể đầu! Thế mà mặt khác, chỉ không lâu tổ chức triều đình, xứ sở vượt lên trên cả Lí, vua thông thạo kinh Nho, kinh Phật. Tại sao? Sử quan khen ông vua đầu, khởi phát thấp mà tiến trình xa, nhân dịp gán cho “tính trời” siêu hình cũng tán tụng luôn hiệu quả “Thánh học” của phe Nho mình. Thật ra mọi việc cũng chỉ là tuần tự nhi tiến trên nền tảng phát triển 200 năm của Lí để sử quan mỗi khi được dịp đều không bỏ qua: Hội thề tổ chức liên tục thành thường lệ, tổ chức kiểm kê đinh số ở đơn vị thấp nhất, tổ chức bên trong cung đình, sử dụng hoạn quan như điểm xuất phát xuyên suốt của quyền hành! trung ương, tổ chức lãnh thổ, thi cử thu dụng người văn học trong thế mở cửa từ phía biển, qua chiến tranh…
Có những phát kiến tốt đẹp, tạo ảnh hưởng lâu dài nhưng nhìn kĩ thì chỉ là phó sản của một toan tính khác. Như vấn đề khơi sông, đắp đê, vấn đề thuỷ lợi theo cách nói ngày nay. Đê thì trước kia cũng đã có nhưng rải rác tuỳ thuộc vào các thế lực lãnh chúa điền chủ trong vùng. Nhưng với Trần thì đắp đê lần đầu được nhắc tới là năm 1248, gọi là “để ngăn nước lũ tràn ngập” nhưng chủ yếu “từ đầu nguồn đến bờ biển”, rõ rệt là một hình thức làm đường giao thông nối kết trú sở mới của họ Trần là Thăng Long với quê hương cũ ở Miền Dưới, khu vực Thiên Trường! Thăng Long là đất địch hôm qua, còn có dân chúng thấy ông chúa cũ đi chơi xúm lại kêu khóc nhưng là trung tâm của phần đất mới chiếm được, khác với khu sông nước căn bản, vững chắc hơn nhưng lại nằm bên lề của vùng quản lí mới. Việc nối kết hai nơi bằng đường đất – có thể nhiều nơi chỉ là nối các đoạn đê có sẵn, đã khiến Trần an tâm với nơi ở mới, làm quân bình mối âu lo về tương lai. Việc ấy cũng được thực hiện cùng năm với “việc lấp các khe kênh, mở đường ngang dọc nhiều không kể xiết”. Đó là chủ trương của Trần Thủ Độ, mang ý nghĩa phong thuỷ với đương thời nhưng thật ra có tác dụng khiến các địa phương mất tính cô lập, diệt trừ các thế lực nơi ấy theo cách “đi xem khắp núi sông cả nước, chỗ nào có vượng khí đế vương thì dùng pháp thuật để trấn yểm”. Bảy năm sau (1255) lại có việc đắp đê ở Thanh Hoá, đặt các chức quan hà đê trên khắp các lộ. Công việc trị thuỷ do đó thành hình trên khắp cả n�! �ớc, mở rộng quyền trung ương lớn hơn triều trước, đưa đến việc khai thác trung châu trên diện rộng.
Như thế một chủ trương chính trị đã trở thành một chính sách kinh tế có hiệu quả lâu dài mà cũng sẽ là hệ luỵ cho các triều đại cai quản vùng đồng bằng sông Hồng này. Đê đắp càng cao theo lòng sông có phù sa bị giữ lại, khiến lụt lội vỡ đê càng mang tác hại nặng nề mà người ta lại không dám phá đê để bồi đắp đồng ruộng ngày càng cạn kiệt mầu mỡ và càng nằm sâu hơn lòng sông khiến mối đe doạ chết vì nước càng lớn hơn. Vấn nạn này đang được lặp lại ở phía nam khi các nhà trị thuỷ sông Hồng mang kinh nghiệm chiến thắng thi hành trên đất phù sa Cửu Long, không quan tâm đến những lời phản bác rụt rè tội nghiệp! Họ chưa từng biết đến đề nghị ngược đời: Phá đê sông Hồng để cứu lụt nơi này!
Kết quả nối kết hai kinh đô trên đồng, dưới biển đã đem lại thành công cho họ Trần sâu xa hơn là ta tưởng. Thăng Long đem lại vị thế chủ nước, bắt buộc vua, hoàng tộc thu thái kiến thức, từ đó mở rộng đất nước theo hướng văn minh. Thiên Trường giữ lại truyền thống dụng võ, có người dân chỉ được quyền làm lính trong đội quân nòng cốt Tinh Cương, Thiên Thuộc, mở rộng ra là cả một lực lượng thuỷ quân làm chủ suốt vùng sông biển ngay trong những lúc thất thế. Thuyền chở vua quan thoát tay giặc, quân trên thuyền tránh né khi giặc tấn công rồi quay trở lại chiếm lĩnh trận địa tạo chiến thắng. Tất cả những trận thắng quyết định đều là trên đường thuỷ. Có gì lạ khi Trần Quang Khải ca tụng Chương Dương, Hàm Tử dù chưa nhắc tới Tây Kết, Vân Đồn? Và trong khi chống đối để phát triển lực lượng, bảo vệ đất đai, Trần chắc không ngờ rằng họ sẽ đem lại ba “nhân vật lịch sử”, ba “anh hùng dân tộc” cho Đại Việt: Triệu Quang Phục, Trương Hống, Trương Hát. Truyện tích của nhân vật nào được họ Trần phong tặng để nhờ cậy thần linh yểm trợ chống Nguyên cũng đều được trưng dẫn gốc gác sách sử, thế mà ông Triệu Quang Phục bỗng nhảy ngang ra từ đời Trần với Lí-Đệtử-Phật, được phong làm Hoàng đế Cõi trên bởi chính một hoàng đế Cõi dưới, ngược ngạo không theo một nguyên tắc nào cả. Trần chẳng cần đếm xỉa gì đến nguyên tắc Nho ấy chỉ vì họ thấy đã lên cấp ở trần gian thì cũng phải nâng cấp cho kẻ được Con Rồng Bản Mệnh của tông tộc họ bảo hộ trên Cõi thiêng. Thế là ta có một ông hoàng đế Mada được! thờ cúng, xuất hiện từ đầm lầy, hoá thân vào trong sóng biển, kéo theo hai ông thần sông nhỏ hơn với tước Vương cho cân xứng và để phát lời thơ thần phù trợ: “Nam quốc sơn hà…”.
Nhưng thế quân bình của hai trục kinh đô đó rồi có lúc phải gãy đổ. Thăng Long với vị thế quan trọng thường trực phải lấn lướt Thiên Trường, nơi an dưỡng của ông vua về hưu. Miền Dưới trở thành thứ yếu từ thời điểm điển hình là lúc Anh Tông từ chối xăm hình rồng trên đùi (1299). Họ Trần đã làm chủ nước đến 2/3 thế kỉ rồi thì không vì lẽ gì lại cứ phải mang dấu vết của thời ngụp lặn xưa kia? Không phải chỉ con cháu từ chối “truyền thống” mà người thế hệ trước cũng không còn vững tin nữa. Nhân Tông có thể đòi truất phế ông con say rượu vì điều đó hợp với tính cách đương thời, nhưng khi Anh Tông trốn mất thì đành bảo “xăm cho Quốc Chẩn”, như một hành động gượng gạo để giữ thể diện, khỏi phải thú nhận mình lạc hậu với thời thế mà thôi. Truyền thống phai nhạt dần lan đến cấp dưới: từ 1323 quân sĩ không xăm hình rồng nữa, khả năng đi biển yếu đi cho nên trong chuyến viễn chinh 1376, Duệ Tông đã phải cúng cung nhân Nguyễn Bích Châu cho thần Po Riyak của kẻ địch để cầu mong được thuận buồm xuôi gió! Tình hình bên ngoài bản thân ông vua cũng đổi khác. Mối đe dọa của quân Nguyên vẫn còn đó nhưng các chuyến giao tiếp sứ thần đã làm dịu sự căng thẳng, một phần vì ngay chính dòng máu lấn lướt của Mông Cổ cũng đã hạ xuống ở Bắc Kinh. Các tướng lãnh, nhân vật chủ chốt trong chiến tranh chống Nguyên lần lượt biến đi hay tàn tạ. Trần Quang Khải chết trước, khá sớm (1241-1294), đến Trần Quốc Tuấn (1300), Nhân Tông (1308), Trần Nhật Duật (1330), lúc sống không làm gì hơn là giữ nhà cho vua đánh giặc (1312). Trần Kh�! �nh Dư khá thọ (chết 1339) còn theo vua hành quân (1312) nhưng đã biết sợ trước các thế lực mới lên. Mối lo phương Bắc nhẹ đi thì chuyển qua sự chống đối phía tây với tập đoàn Thái tràn xuống, và trở lại sự lấn lướt ở phía nam “dễ đánh” (nhận định của Trần Khắc Chung) để Đoàn Nhữ Hài, đại diện lớp nho sĩ tuy còn ở địa vị gia thần nhưng nương theo sự phát triển đất nước lọt được vào triều chính, nhân đó dựa hơi vua lấn lướt công thần, hoàng tộc Trần, đe doạ Trần Khánh Dư ngay trên chiến địa.
Nguyên tắc truyền ngôi “thuần chủng Trần” cũng không được duy trì nữa vì Minh Tông (lên ngôi 1314) là cháu ngoại Trần Bình Trọng, nghĩa là chỉ mang dáng Trần ở bề ngoài chứ thực có phần là gốc Lê của Lê Hoàn! Nhìn ở khía cạnh này ta dễ hiểu nguyên cớ vụ Minh Tông giết Quốc Chẩn, cha vợ mình (1328). Tập họp triều chính đã đa tạp, truyền thống “thuần chủng” đã phai lạt thì việc Quốc Chẩn đòi chờ hoàng hậu, con mình, sinh con rồi mới lập thái tử không còn có thế đứng vững vàng nữa. Hình như đây lại còn có nguyên do là sự xung đột giữa hai gia đình Quốc Chẩn và Nhật Duật, khi sử nhắc chuyện nô tì của Nhật Duật không những chỉ bị ức hiếp ngoài sông mà nô của Quốc Chẩn còn xông cả vào nhà giữa của Nhật Duật để bắt người khiến bà tướng phải than trách chồng quá nhu nhược. Minh Tông lại là con nuôi của Nhật Duật, phe phía thật rõ ràng. Con (hay em) của Nhật Duật đã tố cáo Quốc Chẩn mưu phản, và khi sự việc vu cáo vỡ lở cũng phải đợi vài năm sau, có phải là sau khi Nhật Duật chết đi (1330)? Rồi gia nô của Quốc Chẩn trả thù thì chỉ nhắm vào gia nô, vào loại Trần “giả” như Khắc Chung chứ không thấy len tới nhà Đại Vương Tể tướng. Nhưng quan trọng hơn, là sự việc đã động đến ông vua biết mình vốn không phải “thuần chủng”. Cho nên khi thấy tố cáo cha vợ âm mưu làm phản thì giết ngay, không chịu nghe lời can của Phạm Tông Mại để ba mươi năm sau còn hối tiếc. Quốc Chẩn mang trên đùi dấu vết rồng xăm tình cờ hồi 30 năm trước, chắc không ngờ rằng đó là chứng cớ của một thời đã qua, chứng cớ chết ngư�! �i vì làm cản trở tiến hoá, chỉ còn đường phải huỷ diệt mà thôi. Và ngay trong truyền thống không xa xưa gì, truyền thống mới tạo lập thời tông tộc lên ngôi cửu ngũ, là ăn chay, tu Phật mà Minh Tông cũng tỏ dấu thờ ơ, ngăn cản không cho hoàng hậu đi tu khi mình chết đi.
Ý thức thuần chủng Trần dành cho ngôi vị tối cao lại một lần phai lạt đến mức xoá nhoà khi Dụ Tông mất (1369), Dương Nhật Lễ lên ngôi vì là con (ghẻ) của một ông hoàng thái tử Trần. Họ Dương được ghi trong sử có lẽ vì các biến chuyển về sau chứ tình hình có dáng giống như Minh Tông xưa, Nhật Lễ làm vua vẫn mang họ Trần, nghĩa là sự truyền ngôi khá thuận thảo. Tên “Vong Danh” mà Hồ Nguyên Trừng sử dụng (11) khi nói về ông vua rủi ro này chỉ là một dấu vết phủ nhận về sau. Bà Thái hậu đã ủng hộ, tông thất Trần chỉ chống đối khi thấy có cơ nguy đến tính mệnh họ vì ông vua mới muốn trở lại họ Dương. Nghệ Tông, người sẽ lật ông, chỉ bỏ chạy khi nghe lời cảnh cáo “người ta muốn hại ông…”, và khi thắng thế vẫn tỏ ra vị nể Dương, để tin tức ra vào thong thả khiến ông này có thể lừa gọi kẻ phản bội vào nhà để giết. Người “phản bội” đó, Trần Ngô Lang tỏ ra rất có uy tín lúc đương thời vì được Nhật Lễ giao quân quyền, và cũng từng xuất hiện khi sử nhắc chuyện ông khinh rẻ một thượng tướng (1335), có nhà cho Dụ Tông ghé trên đường rong chơi (1366), thế mà khi Nhật Lễ thất thế, gọi đến ông vẫn vào, quỳ xuống cho Nhật Lễ bóp cổ đến chết. Đến lúc đó Nghệ Tông mới chịu giết Nhật Lễ. Có cách nào giải thích khác về uy thế của Nhật Lễ trong triều Trần hay không?
Nhưng vấn đề đối với chúng ta ở đây là khi dấy quân chống với Nhật Lễ, Nghệ Tông phải lên miền Trung du, phối hợp với quân Thanh Hoá trước rồi mới về vùng Thiên Trường cỗi gốc. Miền Dưới không còn là trung tâm chủ lực của Trần nữa. Lúc này lối khai thác tính chất bồi lắng của hệ thống sông Hồng, Thái Bình đã khiến cho cả vùng căn bản của họ Trần nằm sâu trong đất liền, dẫn theo cơ nghiệp truyền thống của họ càng bám vào Thăng Long với tính cách trung tâm Đại Việt của nó. Trần Quốc Kiệt, rõ ràng gốc thân vương Trần, coi lộ Tân Hưng (vùng Thái Bình) đã đắp đê ngăn nước mặn lấn đất biển thành ruộng (chuyện năm 1404, nhắc về trước). Vương hầu Trần mở rộng trang điền của mình theo cách đó và đã thấy dấu hiệu tiêu cực của công trình đắp đê khiến nước không vào đồng, không cứu được hạn hán, gây đói khổ ảnh hưởng đến đám gia nô sống ở các nơi đó phải vùng lên nổi loạn (1343, 1354) với các nhân vật nổi bật: Ngô Bệ (1344-1360) và một người tên Tề xưng là cháu ngoại Hưng Đạo Vương, gợi lại một mối rối loạn cung đình cứ tưởng đã chìm khuất từ lâu. Trấn Đà Giang mà Nghệ Tông đến lánh nạn giữa những người “Man”, có lẽ là liên hệ đến thái ấp ban cho con gái Trần Thủ Độ trước kia, nhưng lực lượng chủ chốt để lật đổ Nhật Lễ có bà công chúa Ngọc Tha đầy nam tính cầm đầu lại là ở hương Đại Lại, Thanh Hoá, đất của họ Lê/Hồ từng cung cấp hai người con gái làm cung phi cho Minh Tông, ông vua Trần lạc giống. Bà công chúa Ngọc Tha đóng vai chủ chốt trong việc phục hồi cơ nghiệp cho họ Trần, sau được gọi t�! �ng là “Hương thơm của đất nước” / Quốc Hinh, từng bảo Nghệ Tông: “Anh đi đi, em sẽ mang bọn gia nô dẹp nó cho!” thế mà lại chạy về Đại Lại, tìm gia nô ở quê mẹ mình! Sử quan ghi thoáng qua địa danh ấy nhưng ta biết rằng Nghệ Tông thành công là nhờ lực lượng nơi này, cũng là cỗi gốc của mẹ ông – một trong hai cung phi họ Lê của Minh Tông, nơi có người khởi nghiệp thay thế Trần: Lê/Hồ Quý Li.
Mười 2006
(1). Li Tana, “A View from the Sea: Perspectives on the Northern and Central Vietnamese Coast”, Journal of Southeast Asian Studies 37(1), Feb. 2006, 100. Nhân tiện xin cảm ơn anh Lê Quỳnh BBC đã gửi tặng tài liệu.
(2). P. Hattaway, Operation China, Piquant, California 2000, 169. (3). Viện Dân tộc học, Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc),
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 1978, 388, 389. (4). Nguyễn Duy Hinh (Văn minh Đại Việt, Nxb. Văn hoá Thông tin & Viện Văn hóa Hà Nội 2005, 148) dẫn Đông A liệt thánh tiểu lục lưu giữ ở thôn Cổ Xá xã Phong Châu, huyện Đông Hưng, Thái Bình và ở các nơi thờ Trần Quốc Tuấn. Tập nghiên cứu hơi dày (958 trang) so với thực tế cần thiết, giá rút lại còn độ một phần tư thì tránh được cho tác giả khỏi mang tiếng về bản quyền. (5) Vũ Phương Đề, Công dư tiệp kí, Nxb. Văn học 2001, 209. (6) Li Tana, bđd, 101, chú 69. Tác giả viết tên làng theo lối phiên âm mới, không có chữ Hán kèm theo nên việc chuyển sang chữ Hán Việt thông thường ra tên Trà Hương, là của ban biên tập Talawas. Xin cảm ơn. Chứng cớ về bia 1470 lấy ở Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nguyễn Quang Hồng chủ biên, Nxb. Khoa Học Xã Hội 1992, t. 255, 256. (7) P. Hattaway, sđd, 232. (8) Thơ văn Lí Trần, II, tập thượng, Nxb. Khoa học xã hội, 1989, 801-802. (9) Viện Sử học – Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam. Nhà Trần và con người thời Trần, T/t UNESCO Thông tin Tư liệu Lịch sử và Văn hoá Việt Nam xb., H. 2004, 82, 166-184. (10) Văn khắc Hán Nôm… sđd, t. 250, 251. (11) Nhiều tác giả, Nam Ông mộng lục và những truyện khác, Nxb. Văn học 2001, 16. *Các chứng dẫn khác đều lấy của Toàn thư, Đại Việt sử lược.
III Ả TRẦN, MAI KIỆN, HỒI HỘT – PHÍA KHUẤT CỦA SỬ-ĐƯỢC-KÍ
Giữa năm 1289, trong thời gian bình công luân tội về trận chiến với quân Nguyên, sử quan ghi rõ có hai hương Bàng Hà và Ba Điểm vì “quân dân” hàng giặc nên quân thì bị đồ làm lính của vương hầu, dân bị buộc làm nô tì cho các quan lớn trong triều. Và nói thêm: “Trước kia, người Nguyên vào cướp, vương hầu, quan lại nhiều người đến doanh trại giặc xin hàng. Đến khi giặc thua, bắt được cả một hòm biểu xin hàng. Thượng hoàng (Thánh Tông) sai đốt hết đi để yên lòng những kẻ phản trắc”. Hú hồn! Tuy nhiên sử quan cũng không thấy rằng Thánh Tông đã mua sự an toàn của dòng họ mình bằng hành động có dáng bao dung kia.
Tuy là không kể rõ từng “vương hầu” (anh em thân thuộc) khác nhưng không thể phủ nhận các tang chứng rành rành nên phải có thái độ đối với những người mang tăm tiếng rõ rệt: Trần Ích Tắc, Trần Kiện (cháu nội Trần Liễu), Trần Văn Lộng (cháu Trần Thủ Độ). Còn có Trần Di Ái nữa, nhưng việc đã xử xong tức thời rồi. Hãy nhìn xem cách xét xử để rõ tình thế.
Sau những năm bị bức bách sang chầu, đến 1281, Thánh Tông (Thượng hoàng, và đối với Nguyên là vua Việt) bất đắc dĩ phái một sứ bộ sang Nguyên, cầm đầu là ông em họ Trần Di Ái. Gặp dịp chộp được một tôn thất Trần, Nguyên liền ra lệnh thay thế Thánh Tông, cho Di Ái về nước (1282) theo bước sứ thần Sài Thung đã nghênh ngang đến Thăng Long trước để truyền báo lệnh Thiên tử lớn (1281). Toan tính của Hốt Tất Liệt không thành, vả lại đâu có nề hà gì một con cờ thí nhỏ, nên toán “việt gian” không có quân bảo vệ khiến ngay chính sử quan chỉ ghi bình thường “… bọn Trần Di Ái đi sứ về nước.” Lê Tắc cũng nhận rằng Di Ái (hiểu là toàn sứ bộ) “sợ, ban đêm trốn về nước” – không có quân hộ tống. Kết quả thấy rõ: Hai tháng sau, Di Ái (được sử đổi tên, ghi là “Ải”) bị đồ làm lính Thiên Trường, nhân viên dưới tay bị đày vào đơn vị Tống binh. Không có ai bị giết hết. Thánh Tông đã xử sự rất đúng. Sao ông không cử mấy ông em ruột (khác mẹ) như Trần Nhật Duật từng được ca tụng là một Quách Tử Nghi của Đường, một mình đi vào đất địch với lời nói hiên ngang: “Nếu nó giáo giở với ta thì triều đình còn có vương khác đến”? Sao không cử Trần Ích Tắc cho tiện thể lộ mặt chống đối khỏi phải dài dòng về sau? Hay gửi Trần Quang Xưởng khuất lấp mà tên lưu lại sử sách chỉ nhờ một gia thần gặp lúc đắc thế? Gửi đi một ông em họ là Thánh Tông cũng đã có ý nghĩ dùng một con cờ thí tồi rồi. Ông biết phần lỗi có ở mình dù đó là do tình thế cực chẳng đã. Cho nên đày ông em, tiếng là làm “! lao công chiến trường” nhưng ở quân Thiên Trường của nhà mình thì chỉ là về quê ghi sổ sách tôm cá tanh tưởi, than củi đen điu mà thôi. Các nhân viên khác của sứ đoàn hưởng lây ân huệ từ đó để khỏi phải chết phanh thây, xẻo thịt.
Với tình hình “phân biệt đối xử” như vậy nên Trần Kiện, Trần Văn Lộng phải đổi làm họ Mai trong lúc Trần Ích Tắc chỉ bị chê là nhát như đàn bà mà thôi. Trần Kiện có cái thù của ông nội thêm mối hận mới là giành gái với Trần Đức Việp (em Nhân Tông, ông vua đương thời thực thụ đối với dân Đại Việt). Thế rồi phải trấn giữ ở đất xa, thật thuận tiện cho ý nghĩ đầu hàng được thực hiện – Trần Văn Lọng chắc cũng một phần giống như thế. Sử quan phục vụ chủ Trần nên không cần nhắc đến một gia thần của Kiện mà sử gia ngày nay một thời chà đạp để nêu danh yêu nước của mình, cam chịu mù kiến thức thay vì tìm chút sự kiện của thời đại không thấy ở đâu khác: Lê Tắc chỉ nổi danh (xấu) vì một quyển sách để lại, nếu không thì người ta cũng chẳng biết ông là ai. An Nam chí lược (1) được văn nhân Trung Quốc ca tụng vì mớ kiến thức về đất nước ông rời bỏ nhưng điều quan trọng ở một hướng khác, đối với ta, là tâm tình tha thiết với chủ cũ và những người liên quan đã chứng tỏ vai trò phụ thuộc của riêng mình và địa vị thấp của nho sĩ đương thời – địa vị mà họ cảm nhận thành thật, chỉ dám kiêu ngạo với hoạn quan dốt nát như trường hợp Đinh Củng Viên lên mặt để hưởng nhờ cậy, với Lê Tông Giáo, ông “bõ” quản lí đất gốc Thiên Trường của dòng vua. Và nên lưu ý, có “nho sĩ” cũng chỉ làm gia nô, như trường hợp nói sau về gia nô tên Khoáng bị lãnh tội chết thay cho chủ vốn thuộc đẳng cấp vương hầu, vì biết chữ, đã “làm thư nặc danh phỉ báng nhà nước (Vua)”. Tuy nhiên việc! hầu hạ dòng vua cũng không hấp dẫn lắm đâu: Có ông Bạch Liêu đỗ trạng nguyên ở vùng thứ hai của nước, vùng Trại, lại chê không làm quan triều đình, chỉ chịu làm “môn khách” / gia thần cho ông Đại Vương Trần Quang Khải thôi.
Các biến động phù trợ dòng vua đẩy hào sĩ / nho sĩ lên một bực như Đỗ Khắc Chung mang họ Trần – trường hợp độc nhất lập công trong nguy khốn cùng cực, còn thì ông Phạm Ngũ Lão – không phải đan sọt giữa đường! mà văn võ toàn tài, chiến công lai rai, giàu đến mức không thèm chiến lợi phẩm, giàu có đủ để con ông vua lê lết đến làm quen nhờ cậy, rốt lại cũng chỉ lấy được con nuôi ông Đại Vương – đứa con gái nào đó, rồi len lỏi đẩy con vào cung thì vẫn không được đoái hoài, rốt cục xin vua đi tu, chết già! Ông “Học sĩ (đọc/biết) Ngàn Chương sách” Nguyễn Sĩ Cố có mả chôn được coi là rộng cả ngàn mẫu nhưng chức chỉ là đặt cho có tên, còn một ông đồng liêu khác thì trông coi mấy cái mũ quan quân! Cho nên đến cuối đời, Nghệ Tông đẩy luôn ông Chu An cao quý trồi sụt vào miếu Khổng Tử ngồi chung với ông Trương Hán Siêu “chơi với kẻ không đáng chơi”, với Đỗ Tử Bình “ăn chặn vàng đút lót” của Chế Bồng Nga, chạy về bỏ vua chết tươi trên mặt trận, thêm ông quý tộc Trần Nguyên Đán “bó tay bỏ mặc vận nước”, trở cờ gả con cho họ Hồ để cầu an thân – lối sắp xếp thờ tự này không mang “ý thức dân tộc”, “đề cao Thánh giáo” nào cả mà chỉ là một cách phân loại, xếp chung một nhóm mà thôi. Danh tiếng “kẻ sĩ”, “sĩ phu” – không đi theo với “hào kiệt”, chỉ có khi gắn vào bia đá thế kỉ XV, và hơi nổi trội dưới thế kỉ loạn lạc XVII, XVIII mà thôi.
Việc hàng Nguyên của hai người trước có thể coi là thụ động, cơ hội nhưng với Trần Ích Tắc thì sử quan chỉ rõ là có ý thức, có toan tính, vì ông “từng gửi thư riêng cho khách buôn ở Vân Đồn xin quân Nguyên xuống Nam.” Dù cho rằng đó là vì ý xấu muốn tranh ngôi với anh (Nhân Tông) nhưng sử quan vẫn không ngớt lời khen Ích Tắc “thông minh hiếu học, thông hiểu lịch sử lục nghệ, văn chương nhất đời” chi li cả đến những loại nghề vặt như đá cầu, đánh cờ… Đến lúc ông hàng Nguyên, sử quan dường như muốn bào chữa cho ông còn viện dẫn linh thiêng, nhắc rằng ông là thần nhân báo mộng đầu thai, thần nhân ba con mắt như Siva thành người, hẹn sẽ “về phương Bắc”. Chứng cớ bất thường này có vẻ như một vướng víu của tình hình đương thời mà sử quan, qua thời tuyệt tình một lần nữa với việc chống Minh, đã không rứt bỏ được. Có chút gì bình thường của quá khứ còn rơi rớt mãi đến lúc sử quan cầm ngọn bút lên?
Giai đoạn chống phương Bắc của Trần thường được coi chỉ mang một tính chất trong cả ba lần đánh nhau. Tựa đề “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông…” (điểm một tên tình cờ) của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1975) (2) là một ví dụ. Gom góp sự việc vào một đề mục gọn ghẽ giúp cho người ta mau hiểu nhưng cũng khiến tập tính biếng lười, lầm tưởng việc đời lúc nào cũng là giản dị như vài nét chữ gộp lại. Thật ra Trần chỉ chống quân Nguyên có hai lần: 1285, 1287-88, lần đầu 1257-58 là chống quân Mông Cổ. Đây không phải là chuyện “chơi văn giỡn chữ”, không phải đặt căn bản ở sự chính danh cầu kì mà là vạch ra sự khác biệt về tính chất lực lượng cùng tham vọng thời đại khác nhau của đoàn quân phương Bắc. Đành rằng người lập nên triều đại Nguyên là Hốt Tất Liệt đã có mặt trong toán quân chiếm Vân Nam năm 1252 nhưng ông chỉ chính thức làm vua Trung Quốc (1280) sau khi đánh tan Nam Tống. Trận chiến 1257-58 ở Đại Việt chỉ là của một toán quân Mông Cổ và phụ lực, tìm đường đánh ép tiêu diệt Nam Tống mà không thành công thôi. Đánh tan quân Tống (1279), chiếm Trung Nguyên, Hốt Tất Liệt – không chỉ là Khan của Sa mạc nữa, mà còn là Hoàng đế toàn Trung Nguyên, có cả một vùng đất mới, rộng lớn, kết tập được lực lượng mới, đưa tầm mắt ra xa hơn cùng với những hệ luỵ của khả năng vừa gộp thêm trong vòng tay. Về phía Đại Việt, cách thế ứng xử cũng đổi thay theo tình thế mới đó: Bắt nhốt sứ Mông Cổ đến ngất ngư năm 1257 nhưng Sài Thung năm 1281 lại một mình một ngựa xông vào cửa kinh thành, nghênh ngang không thèm! tiếp tể tướng Việt chịu nhũn đến sứ quán cầu chuyện. Sự liên tục của hệ thống chỉ huy trên cao làm cho người đương thời đã không thấy được sự đổi thay tính chất sử dụng quyền bính sẽ mở ra những hướng tiến nhiều nẻo về sau, trong đó có cả sự rủi ro không nằm trong toan tính lúc đầu. Còn đối với người sau, sự liên tục của thời gian là điểm tựa nối kết xuyên suốt để cho óc nhân tuần bám giữ luận cứ đã thành hình.
[Như cuộc chiến Ba mươi năm vừa qua. Úi dà! Sách vở viết thành đống ném ra Chợ trời đọc không hết, trong nước chất đầy kệ bán không trôi mà còn đòi xen vào! Nhưng ở đây chỉ lược qua điều khuất lấp, điều bị lấn át. Lịch sử không lặp lại nhưng bản tính con người vẫn có chút gì tương đồng - để người nay đọc mà hiểu được người xưa. Huống hồ lịch sử vốn là quá khứ hiển hiện lại bởi người thời nay nên dễ rộng lượng dung chứa một ít đòi hỏi điều chỉnh. Không phải lan man, vô định hướng mà là ước mong nhận chân quá khứ sít sao hơn.
Trong khoảng trống quyền lực ở vùng châu Á, trực tiếp hay gián tiếp gây nên do đế quốc địa phương Nhật Bản xô đổ các đế quốc Tây Âu rồi lại thất bại tan rã, các thuộc địa thừa cơ nổi lên đi tìm đường riêng của mình trong đó, Việt Nam với thế lực chính trị có tổ chức nhất vì thêm ưu thế yểm trợ quốc tế (Liên Xô và thành phần thiên tả toàn cầu), đã nhất quyết đi theo con đường xã hội chủ nghĩa - kẻ địch gọi là "nhuộm đỏ Việt Nam", người bình dân gọi nôm na là "làm cọng/cộng sản". Tính chất xuyên suốt bề ngoài của một phía trong ba mươi năm chiến tranh giành độc lập được gìn giữ bởi hình treo của các lãnh tụ lúc nào cũng trẻ như ba mươi, bốn mươi, của dáng vẻ tiên phong đạo cốt đậm đà tình thân ái khiến cô giáo dạy văn vào Nam vẫn khóc mùi mẫn trong lớp khi nhắc đến đôi dép của Người, khóc không ngượng ngùng giữa đám bạn đồng nghiệp mất-dạy, vô-lương được "lưu dung" mà còn "ăn nói linh tinh". Các lãnh tụ Việt đến hơi sớm trong lịch sử, khỏi phải chịu cảnh thần tượng F. Castro té lăn cù lồm cồm bò dậy trước ống kinh truyền hình thế kỉ XXI, mà lại được bồi đắp dồn dập bởi kĩ thuật tuyên truyền tinh vi, trong đó công lớn còn phải kể từ nơi kẻ địch hào phóng của họ. Chứng cớ mới nhất là trong lúc người ta "phần thư", triệt hạ mồ mả để tiêu diệt quá khứ đối phương (giữa khi sử gia "yêu nước" tha hồ chửi Gia Long và đồng bọn đào mả Tây Sơn!) thì Mĩ (qua một tên nguỵ VNCH) lưu giữ và trao trả tập nhật kí của cô bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm khiến "tác phẩm" thành một best-seller nhờ công nhà nước đẽo gọt, cổ đ! ộng ép mua, và cô, thay vì nằm thui thủi trong nghĩa trang nào đó lại được lên tượng đồng, bia xi măng, đứng tên bệnh viện ở Quảng Ngãi nối kết tình "vì Miền Nam", thêm một cái đinh cho cái ghế người cầm quyền chưa đổ nhưng hơi lung lay - bồi đắp dù mới sầy sướt cũng vẫn là hay hơn!
Những người làm chính trị chuyên nghiệp bôn-sê-vích không chừa một sơ hở nào cho sự dẫn dụ: Họ làm cách mạng giải phóng dân tộc là để làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Giải phóng dân tộc chỉ là phương tiện cho cách mạng xã hội, do đó tâm tình yêu nước được ca tụng cũng chỉ là để phục vụ Đảng mà thôi. (Cũng như không nói cho dân cày biết, chia ruộng là để sau này thu góp chung lại làm hợp tác xã vậy.) Không tin cứ giở Văn kiện Đảng ra xem, đứa nào ngờ nghệch cả tin, ráng chịu! "Vừa đánh vừa đàm", đàm xong đánh tiếp cho đến khi đạt mục đích, phái đoàn Canada giám sát hiệp định Paris biết rồi nên la làng, bỏ chạy. Ai tin ở mấy tờ giấy kí kết đó thì cứ cãi nhau cho vui đi. Nói cho ngay tình: không chịu cũng phải ráng mà chịu. Con cá trong lờ giương đôi mắt đỏ. Năm 1955, mới vừa ở "vùng Tự do", biết chuyện bà già có liên hệ thân tộc bị bắt quỳ trên đá dăm, giang tay đỡ cục đá, đầu đội thúng cứt cho người ta xối nước lên, ra đến "vùng Tạm chiếm" nghe bà già ngồi trên xe lửa ga Nha Trang kể chuyện đấu tố như thời Chu Văn Vương bên Tàu vẽ vòng trên đất nhốt tội nhân ("gọi địa chủ ra 'kể khổ', 'đấu lí' nếu nhận tội thì cho về", khoẻ re), nghe xong mà quay cuồng đầu óc, thấy trời đất không còn chỗ nào để dung thân được nữa! Nhìn lên bản đồ thế giới: một mảng đỏ rực phía tây đẩy tư bản chân trên bờ chân dưới biển, trách nào người hùng chống Cộng Kravchenko của J'ai choisi la liberté, J'ai choisi la justice không kê khẩu súng vào màng tang, bóp cò (1946). Phía đông, mảng đỏ thò ngón tay qua bán đảo Triều Tiên, xuống đến bờ Bến Hải với c�! �c ngón khác giấu kín hành quân theo Issara Lào, Issarak Miên, quân du kích Việt Hoa ở Thái Lan, ở Mã Lai, với hàng triệu đảng viên cộng sản ở nước Hồi giáo Nam Dương, du kích Huk ở Philippin... Cho nên học sinh trường Kiến Thiết Sài Gòn (và nhiều trường khác) chuyền nhau dưới bàn tờ giấy kêu gọi ra khu tập kết. Con cá ngoài mương lấp ló muốn vô... Không phải loại cá lòng tong, cá chốt mà cả thứ thường vỗ ngực tự phụ hay được xã hội cho là cá thu, cá chép...
Sự lầm lẫn cũng là bình thường với con người chỉ có một thời gian để sống và một không gian cụ thể để cựa quậy / vùng vẫy - ông Nguyễn Hiến Lê biết rõ muộn màng điều ấy, nhưng hơn người khác là đã công khai thú nhận ở bản hồi kí bị cắt xén trong nước. Nhiều người, khi mới ngậm cái đầu dê treo quảng cáo, có kẻ vội vã khen "Sống ở trên đời...", rồi thấm thuốc bị allergie, ụa mửa, ợ ngáp ("Ông Bà hành"), văng ra bên lề té bò lê bò càng, gặp người nhạo chê, lại trả lời ương bướng: "Hình thức, đường lối sai lầm chứ bản chất vẫn là tốt, phải xây dựng lại." Trời đất, vài triệu người chết với hàng trăm ngàn nằm theo tục Bỏ mả của người Bà Na, chưa chịu coi là đủ sao? Ai wỡn đâu mà chịu khó đẻ con cho anh làm thí nghiệm cách mạng wài vậy cà? Ờ, nếu còn đủ dũng khí thì cứ làm cách mạng mìnhên đi. Chứ cứ hỏi con cháu anh Ba anh Tư, anh Văn anh Võ xem có muốn xây dựng lại không, cái thứ cách mạng đã chuyển qua thời đi Mercedes, đổi giống, vào chat room, viết blog, trai/gái giung giăng giung giẻ với bà già / ông già... ngày nay đã khác xa rồi đó. Một phía thì kín mít như bưng - kín đối với cả từng phân đoạn khu vực bên trong, có rỉ ra cũng không có bằng chứng nhãn tiền, huống chi đưa bằng cớ ra cũng vẫn không tin, hay bào chữa: "Quân Triều Tiên, Trung Quốc có bi nhiu đâu, Mĩ mới là nhiều!" Phía khác thì "hở" (tôi không nói "mở") để phóng viên ngoại quốc bây giờ hồi tưởng lại, khen đó là thời đại "hành nghề tự do" nhất. Thập (vạn vạn) mục sở thị, thập (vạn vạn) thủ sở chỉ, xứ sở toang hoác ra, các anh lãnh tụ chết ngay từ trong trứng n�! �ớc, ráng / may mắn còn sống thì như kiếp thiêu thân, hay vật vờ kẻ khiêng người đỡ, muốn tự đứng cũng không đứng được. Đang đánh nhau sống chết mà ba, bốn năm đổi Tổng tư lệnh một lần qua bầu cử cãi nhau chí choé, hạ nhau tận lực, cái trò chơi dân chủ đắt giá đó đến Mĩ cũng còn chịu không nổi mà! Không đủ hình ảnh để người ta thấy tình thế đã đổi khác. "Quốc gia" của Bảo Đại còn là sự lợi dụng (nhưng chính trị nào không là sự lợi dụng lẫn nhau?) nhưng điểm kí kết ở Genève là một bước ngoặt: sự đối đầu của Chiến tranh lạnh có thêm một địa điểm là Việt Nam. Đó là điểm ngoặt để ông cựu Đệ tứ Hồ Hữu Tường tung ra thuyết Trung lập chế của ông, là thời điểm tưởng có nền tảng kéo dài để ông Nguyễn Thế Truyền rời bỏ quá khứ "một phần (mang tên) Nguyễn Ái Quốc" của Việt Nam hồn mà ghi danh ứng cử Tổng thống VNCH.
Lịch sử có khía cạnh vô thức của nó, theo đó một chút lùi của thời gian sẽ giúp nhìn ra được phần tích cực bị các biến động tức thời và sự ồn ào phụ hoạ phùthịnh, che khuất. Về phía Mĩ, những ngày tháng 4-1975 cho thấy thuyết Containment thất bại một phần vì không giữ được Nam Việt Nam nhưng ván cờ domino ĐNÁ sau đó không đổ lại chứng tỏ hơn 50 ngàn lính của họ đã chết không uổng phí. Trên rẻo đất có đời sống mỏng manh hai năm được quy định cho rồi-việc, một bọn người tan tác nhờ Mĩ đưa lên, chống đỡ - mang cả xác con em họ chống đỡ giùm, bọn "bán nước đó cầm súng Mĩ (không phải A. K[alachnikov]) bắn giết đồng bào”, hục hặc bóp cổ lẫn nhau mà kéo dài đời sống được đến hai mươi năm – yểu tướng nhưng lại đủ để một xã hội công dân sơ khởi thành hình khiến sau chiến thắng quân sự người ta còn phải tìm cách tiếp tục tận diệt. “Phòng (?) trưng bày tội ác chiến tranh Mĩ Nguỵ” ở TP. Hồ Chí Minh sau 1975 còn vướng víu quá khứ (chứng cớ đứng lù lù ở đấy là tác giả một quyển sử viết không giống các danh gia Miền Bắc), đến “Bảo tàng chứng tích chiến tranh” (2005) đàng hoàng hơn, to/cao đẹp hơn thì chỉ còn Đảng ta và Pháp Mĩ, không thấy nguỵ đâu nữa. Dưới chiếc đũa thần của Đảng, hai mươi năm VNCH biến mất trong nháy mắt, pho tượng Tiếc thương từng hớp hồn người dân trong vùng đã bị nấu chảy tuyệt tích, nghĩa trang Gò Vắp đã xoá sổ (còn bao nilông bọc xác từ chiến trường về, đào lên lùng nhùng nước nhầy, thịt xương, áo quần), chút còn lại là mấy cái mả ở Biên Hoà, rồi với thời gian sẽ xây cao! ốc lên là xong.
Tuy nhiên hai mươi năm VNCH đó đã khiến cho CHXHCN VN tiếp thu một khu vực có dân chúng nằm trong vùng “mở”, họp cùng với lớp dầu mỏ thay cho củi rừng được bứng tận gốc của thời khai hoang vỡ hoá Lí Trần Lê, tất cả làm đà cho Đổi mới thành công. (Đọc “Đêm trước” Đổi mới [3], để thấy sau lưng Đảng là lù lù nguỵ đẩy cán bộ địa phương ra đại diện xí-gạt trung ương Hà Nội. Có người thấy tỉnh Đồng Nai dồn dập phát triển, lên tiếng khen thì được trả lời: “Nhưng mà Trung ương thu hết (?) ông ơi!”) Hai mươi năm đó khiến cho thế giới không thấy xuất hiện các nước CHND Lào, Kampuchia, Thái Lan, Mã Lai, CHND Sư Tử Quốc / Singapore – thành phần thứ tư của MỘT nước Trung Hoa bốn chế độ, không thấy chiến hạm (cũng) CHND Trung Quốc tuần hành ở bờ biển đối diện Australia, khiến cho tàu thuyền thế giới xuyên đông tây, nam bắc phía đông châu Á không phải nạp tiền mãi lộ vì đi ngang qua phần biển có Đảng Lao Động Việt Nam và Thủ tướng Phạm Văn Đồng thêm một lời công nhận chủ quyền, khỏi chờ đến năm 1974 góp chút công lao vào cuộc chiến Hoàng Sa. Lẽ tất nhiên nếu đứng vào quan điểm thế giới đại đồng, thái bình an lạc Pax Sinica thì lại là vấn đề khác.
Người dân thường không thể thấy được điều đó, không thể biết chuyện ông Lê Duẩn “quần kết” (chữ nghe được từ 1956) để đánh tiếp – chuyện bây giờ, xong rồi, người ta công khai ca ngợi, “Ai làm gì ai nào!” Đem gộp tập họp chữ rời rạc “yêu nước” và “XHCN” thành nhóm từ “Tổ quốc XHCN” mang niềm tin tôn giáo để tự huyễn hoặc và đàn áp người, họ có quần chúng để thúc đẩy tiến chiếm quyền hành. Còn sử dụng được “tinh thần yêu nước” thì người ta còn la: Mĩ đem quân sang Việt Nam vậy là xâm lăng chứ Việt Nam (cộng) không đem quân qua Mĩ…” Giỡn sao, cha nội! Năm 1988 đánh nhau với Trung Quốc còn tiếp tế Trường Sa bằng chiếc tàu cũ của VNCH thì làm sao mở đường HCM-trên-biển, bơi qua Thái Bình Dương để làm “nghĩa vụ quốc tế” cho đặng? Kể ra cũng còn thua Cuba đã chĩa mấy cái SAM xuống Washington D.C., đã đem Chí nguyện quân đến tận Angola, Mozambique đánh tay sai tư bản giẫy chết, chận chủ nghĩa Đại Hán trên đất Phi Châu xa xôi. Việt Nam chỉ có thể làm điều đó trong mức độ thấp hơn: đánh đế quốc hạng cá kèo qua tay tù binh Algérie, làm nghĩa vụ quốc tế “phức tạp” ở Kampuchia, đe doạ có lật đổ ở Thái Lan như là một “tất yếu của lịch sử, là phần trách nhiệm lịch sử của chúng ta” như ông Uỷ viên trung ương Đảng Trần Quỳnh nói năm 1976 với người Đại biểu nhân dân lỡ đà Nguyễn Công Hoan. (Hình như cả hai đều còn sống đấy. Câu nói được in trên sách Mĩ mà chuyển ngược lại đúng như từ miệng của một chính uỷ thì có thể tin được, chắc-như-bắp.) Nhưn! g xưng làm kẻ đứng ở tuyến đầu của một phe, đi đánh cái tiền đồn của “thế giới Tự do”, với danh nghĩa gì đi nữa thì cũng là mở rộng Tổ quốc (lớn) xã hội chủ nghĩa, một khi người ta đánh lại tất phải đụng đến cái luỹ tre có AK bảo vệ đó, sao lại la “Tui có làm gì đâu mà người ta dội bom lên đầu nhân dân con cháu vua Hùng/Bác của tui?”
“Pre-emptive war” không phải là lí thuyết chiến tranh độc đáo của riêng Tổng thống Bush đang điêu đứng, bị nhạo chê chỉ vì không thành công. (Rõ rệt chứng minh trái lại, là khi Mĩ kéo đổ tượng Saddam Hussein xong thì Pháp dịu giọng, Liên Hiệp Quốc – bị khinh rẻ trước đó, cũng nhảy vào định chia phần nên ăn đòn dân Irak hậu-Xađam.) Anh cựu tù binh gốc Chàm Bố Đông có citizenship Đại Việt mang tên Kim Trung Liệt, khi giữ thành Đa Bang cho Hồ Quý Li đã hiến kế cho chủ mới (nói tiếng Việt Chăm lơ lớ): “Hay đanh quan Minh tư ngoài cõi!” Đó là đòn “Đánh phủ đầu” theo kinh nghiệm năm 1075 của Thằng Cặt / (Lí) Thường Kiệt, bậc tiền bối của G.W. Bush! Dân Việt Nam loại bán nước hay vật vờ theo thời thế – “sao cũng được”, không nói làm gì nhưng những người “yêu nước không chịu hối cải”, hay đang thừa hưởng thành quả 1975, vẫn nhất quyết, kiên trì không nhận rằng Đảng đã khiêu khích Mĩ qua! (Nói tội nghiệp, để thông cảm: “Họ chỉ còn có chừng ấy để hãnh diện thôi mà!”) Tuy nhiên màn kịch yêu nước vẫn luôn luôn có hiệu quả. Kịch Shakespeare mấy thế kỉ rồi đâu có thiếu người dàn dựng, nhắc nhở?
Đáng lẽ phải nhắn trước “Thấy mất lòng thì xin đừng đọc” hay “Đọc qua rồi bỏ.”]
Vậy là trong hai trận chiến sau, Nguyên và Trần đã đánh nhau trên cơ sở xuất phát khác. Tống tuy yếu ớt binh lực nhưng có cả một nếp sinh hoạt nghệ thuật cao độ (chứng cớ có ông vua nghệ sĩ Huy Tông) mở rộng theo nguồn thương mại dồn dập từ phía đại dương sau khi bị các bộ lạc sa mạc Kim, Liêu cắt đứt Con đường Tơ lụa phía lục địa. Khi Mông Cổ đòi Đại Việt để họ giao tiếp với thương nhân Hồi Hột vùng Trung Á đến buôn bán nơi này thì hẳn cũng chú trọng đến những người Nam Tống núp sau danh xưng kia khi cư ngụ ở nước Việt. Họ sẽ tiếp tục truyền thống thương mại của Tống, lần này có thêm sự thúc đẩy cường ngạnh chưa mất từ sa mạc, để đè áp lực trên các nước bên kia đại dương. Và điểm đến chuyên chú đầu tiên không phải Việt Nam mà là Chiêm Thành.
Vòng cung đất nhô ra biển của Chiêm Thành là điểm tiếp nhận các thuyền buôn đến, đi từ nam Trung Quốc khi né tránh các rạng san hô, đá, cát ngầm ngoài khơi. [Chỉ ở thời chiếm hết đất liền rồi nhìn ra biển phân định biên giới, với mỏ dầu chưa nổi mà đã đánh động trên các ống khoan thăm dò người ta mới tranh giành cật lực Hoàng Sa, Trường Sa thôi.] Lê Tắc ở gần đó, với kinh nghiệm trước 1285, nói về Chiêm Thành, nêu được điểm chủ yếu: “Lập quốc tại mé biển, thương thuyền Trung Quốc vượt biển đi qua các nước phiên bên ngoài, thường tập trung tại đây để chứa củi và nước, là bến tàu lớn nhất tại phía nam.” (Tôi nhấn mạnh.) Đại Việt và Chiêm Thành đánh nhau không phải chỉ để cướp của, chiếm đất mà còn là giành bến đỗ nữa. Năm 1303, Đoàn Nhữ Hài đi sứ Chiêm, tuy biết rằng không thể cấm được nhưng vẫn lấy danh nghĩa nước lớn, treo bảng cấm buôn bán ở cửa Tì Ni / Sri Banoi / Chiêm Thành Cảng (1282) / cửa Nước Mặn (Đàng Trong) / cửa Cách Thử (nay đã lấp). Tuy có ưu thế thu lợi về quyền bến đỗ nhưng chuyện cướp phá thuyền buôn vẫn là điều không tránh khỏi. Tống muốn bảo vệ thuyền buôn của mình đã nhiều lần đòi hỏi Chiêm Thành ngăn cấm nhưng không thực hiện được. Với Nguyên còn tràn đầy sức mạnh sa mạc thì không phải chỉ đòi hỏi qua người địa phương mà tự mình đi thực hiện. Vì thế không phải là vô lí mà Hành tỉnh (một cơ quan trung ương thành lập cho địa phương) Chiêm Thành đã thành lập trước của Giao Chỉ. Không phải ngẫu nhiên mà trận đánh Chiêm xảy ra trước, vào năm 1282-83, và chuyến đánh sang Đại Việt 1285, đ�! �i “mượn đường sang Chiêm Thành” không phải chỉ là lời dối trá.
Cuộc chiến ở Chiêm Thành được ghép với Đại Việt và được sử gia Việt Nam lưu tâm (cho nước mình) nên trở thành lớn rộng, cao cả hơn mức thực tế. Tất nhiên người Chiêm không thụ động trong việc giữ gìn đất đai của họ. Quả đã có Toa Đô đem quân đánh Vijaya không bắt được chúa Chiêm, có lần thất bại trong cuộc tấn công trên núi nhưng ông cũng đã dẫn quân chiếm vùng Cựu Châu (Quảng Nam) để đánh thông sang Việt với Thoát Hoan đang ở đấy. Nhưng ông ta chỉ đem có 5000 quân cựu-Tống, số lượng rõ ràng ghi trên những toán xuất phát, lại còn chia người cho toán đi Chân Lạp – không về là phải. Với quân số như thế thì trận thất bại ở núi Nha Hầu (Ia -?) là dĩ nhiên. Thất bại lớn nhất của Toa Đô là không bắt được chúa Chiêm – cũng như trong trận 1257, tướng của Ngột Lương Hợp Thai vì không bắt được Thái Tông mà phải tự tử. Khác với những điều hay nói về “chiến tranh nhân dân”, chiến trận ngày xưa thường chỉ kết thúc khi bắt được chủ tướng. Với lực lượng có trong tay như thế mà đã không bắt được chúa thì vấn đề sứ giả điều đình qua lại hẳn nhiên không thể coi như một chiến thuật khôn khéo, tài ba tột đỉnh của người Chiêm, trong đó nhân vật phía Chiêm thực ra vẫn cho thấy tính cách lợi dụng để lấy lợi riêng cho mình, đến khi thấy không thành tựu thì bỏ trốn. Quân của Toa Đô lúc thắng thế cũng có măt hai hoàng tử Chàm theo về (rồi xoay chiều lẩn mất), lúc ra bắc cũng có các quan chức Chàm theo, sau khi thất trận bị Đại Việt trả về nam. Trong tình hình khó khăn như thế mà Toa Đô giải quyết như lịch sử đã ghi thì khi th�! �y đầu viên tướng này, Nhân Tông lên tiếng thương tiếc thật cũng đã biết đánh giá đúng người.
Trận chiến Chiêm tất yếu dẫn đến Đại Việt. Nắm được lực lượng chiến thuyền và thương thuyền của Tống, Nguyên đã mở rộng quyền hành về phía biển. Cuộc chiến lần thứ ba (1288) nặng về thuỷ quân chứng tỏ khả năng thu tóm đó tuy rằng điều tiêu cực cũng hiện rõ, là khi trao điểm sống chết của chiến dịch vào tay quân tướng đầu hàng (Trương Văn Hổ và thuyền lương tiếp tế) thì thất bại cũng có điềm thấy trước. Tuy nhiên Nguyên bao gồm Tống đã khiến các tập họp phía mặt biển dao động. Điều này dẫn đến vấn đề Trần Ích Tắc. Đã thấy tông tộc Trần gốc biển, “đời đời làm nghề đánh cá”. Và tập họp biển đó không thuần nhất, còn riêng họ Trần-mới-làm-vua thì cũng không phải lúc nào cũng thuận thảo với nhau.
[Nhắc: "Bỏ qua đừng đọc," hay "Đọc qua rồi bỏ." Một cá nhân, tập đoàn trong phát triển, gặp tình thế lớn rộng không vừa với khả năng sẵn có của mình thường thấy phát sinh những rối loạn bản thân, nội bộ mà các tay chính trị chuyên nghiệp lạc quan đặt tên là "Cơn sốt vỡ da", không biết có được ông bác sĩ nào đồng ý không. Như chuyện không (dám) nói về người Danh nhân Văn hoá hụt của UNESCO. Được đào tạo theo cung cách một chuyên viên lật đổ, phối hợp tinh thần Tam Điểm của nơi đào tạo với Thiên Địa Hội của nơi xuất phát, chàng thanh niên Nguyễn Ái Quốc trở thành Hồ Chí Minh già dặn, một lúc đầu mang khả năng đó qua mặt Quốc tế Cộng sản lấn lướt các đảng viên "cấp tiến" kiểu Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập... gạt gẫm Quốc Dân Đảng Trung Hoa, ve vãn Mĩ, từ vùng "biên khu" nhẹ áp lực truy bức của Pháp Nhật tạo dựng lực lượng riêng cho mình, tuy nhỏ bé nhưng cũng đủ "thừa hư lấy Kinh Châu", lập nước một phương - sau này tự khen: "nước XHCN / công nông đầu tiên của châu Á" trước cả đàn anh! Chút hơi âm mưu vẫn có tác dụng trong thời hỗn loạn tiếp theo còn mang tính phe phía hội kín, người đó cho phe mình ẩn náu, tránh né với bên ngoài bằng tiếng "giải tán Đảng", để dùng quyền lực chính thống công khai tiêu diệt các tập đoàn chống đối bên trong (vụ Phố Ôn Như Hầu, Hà Nội), lấy vàng thu vét từ lòng ái quốc không toan tính của dân chúng đem đút lót cho Tàu khỏi can thiệp lật đổ, mời gọi Pháp vào thay thế, tưởng dễ đòi hỏi bằng lời nói như thời mang cục gạch nóng (?!) ở Paris xưa cũ. Nhưng thời thế đã khác, khả năng xây dựng đảng! -hội-kín không đủ để quản trị nước (chưa nói đến tính từ "văn minh"), điều yếu kém đó được chiến tranh che chắn nhưng càng lúc càng bộc lộ khiến phải có sự can thiệp của những người kế tục, các đệ tử này phải vận dụng đến cả phương thức dùng thân xác lãnh tụ như phương tiện cho mục đích tiến chiếm quyền hành.
Trong chiến tranh chống Pháp, ngoài chuyện "Đêm nay Bác không ngủ, ngày mai Bác ngủ bù..." và các tấm hình ghé nhìn sa bàn... còn thì chỉ thấy ông căm cụi dịch sách Nga khoe khả năng ngoại ngữ, từ tủn mủn Sửa đổi lề lối làm việc (1947) lại vụt thoát qua khu vực viễn tưởng của Giấc ngủ mười năm (1949), rồi hụt hơi, chuyển trao việc huấn luyện đại quân, tổ chức điều hành xã hội theo phương thức Mao cho người Bạn lớn. Bởi vì các đệ tử (và ông) chỉ được thầy-chú Côn Đảo, Bà Rá, Sơn La... cấp phát bằng "Đại học" giúp hào quang đi chiếm đoạt, bám giữ chinh quyền chứ không đủ để làm nhiẹm vụ cầm quyền. Dự phóng làm Cách mạng dân tộc tư sản rồi sẽ làm Cách mạng xã hội được bày vẽ từ Quốc tế giúp họ an tâm với mẫu mực có sẵn, không cần chuẩn bị cho mình, và không để cho ai tranh việc quản lí đất nước. Họ không cần người "khác" họ, như ông Phạm Văn Đồng (1945) chê: "Thằng Phan Thanh thì được, còn cái thằng Hoàng Xuân Hãn, không xài được!" (Hoàng Văn Chí kể.) Giống như 30 năm sau, với thế giới tiến thêm một cấp dài nữa, họ lo "tiến về Sài Gòn (ta) chiếm nhà mặt tiền", móc lưới (chống) B40 dày đặc, vẫn với bài bản sao chép bậc hai từ Stalin (qua các giảng viên Liên Xô "hàng đầu" ở Hà Nội 1979), Mao (với cơ sở cộng đồng văn hoá vẫn giống), Kim Nhật Thành (với lí thuyết "Ba cuộc Cách mạng... mà Cách mạng kĩ thuật là then chốt".) (4) Giống như bây giờ với các anh sinh viên VNCH bỏ học biểu tình, khôn khéo / may mắn luồn lọt được qua thời thế với cả các anh "B quay", các anh từ hầm Củ Chi khoét rộng cho du khách chui xuống được, với những côn! g thần hậu phương, những Con Ông Cháu Cha thời mới... Mặt bằng kiến thức như thế càng giới hạn ở những nhân vật đối lập trong nước mà bằng chứng rõ rệt là vụ việc ông Hoàng Minh Chính đi chữa bệnh trên đất Mĩ.
Bởi vậy về Hà Nội, có đất đai được công nhận, có thủ đô với đại sứ các nước, ông Chủ tịch cũng còn quá nhiều thì giờ rảnh xắn quần lội ruộng để chụp hình tát nước, rảnh rang để đọc truyện ngắn của con ông Bí thư mình (Vũ Thư Hiên), không bàn được việc lớn mà tẳn mẳn sửa đổi câu chữ trong các bản văn đưa trình (ghi của phóng viên Xuân Ba), làm lộ ra dấu vết đào tạo theo khoa bảng ngày xưa, rị mọ lựa chọn từng chữ, từng câu cân đối để đưa vào trường ốc hòng "bia đá đề danh". (Phát hiện "thần sầu quỷ khốc" này của người viết là từ kinh nghiệm gia đình đấy, tuy không dám đem ra so sánh với bậc vĩ nhân.) Đến tình trạng như vậy thì các đệ tử phải ra tay bao che cho lãnh tụ. Tố Hữu nói nhẹ nhàng: "Bác đã lẫn..." Còn ông Lê Đức Thọ thì gạt ngang không cho Chủ tịch phát biểu, không phải lấn lướt (như ông Nguyễn Văn Trấn than thở, kiểu "Giá còn có Bác...") mà là để Người khỏi lộ cái "lẫn" trước nhĩ mục quan chiêm, trước quần chúng thân yêu. Người làm chính trị tinh khôn hiểu "Bạc là dân..." mà! Còn các học giả Âu Mĩ, trong mặc cảm phải chia xẻ chủ nghĩa thực dân, thì lại nhìn thấy sự êm ả tương đối của chính quyền Hà Nội - trái với những biến động thanh trừng sắt máu ở Liên Xô, Trung Quốc - cho đó là do vai trò của ông Chủ tịch (bất lực) đứng trên cao điều hoà mâu thuẫn mà không nhận ra thực tế chịu đựng, nín nhịn để cứu vớt danh vọng trong quá khứ, để cùng tồn tại với nhau của tập đoàn lãnh đạo sàn sàn nhau đó.
Kẻ coi thường người có quyền chức, trước hết là những nhân viên thân cận, gần gũi. Như chàng "thanh niên" Uỷ viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn khoe sức trai của mình với "gái" của "lão già" Chủ tịch. Cũng như ông Nguyễn Hữu Hanh mạt sát các viên chức cao cấp VNCH mà né tránh mơn man các lãnh tụ CHXHCN VN, không được lại đổ thừa cho đồng nghiệp xưa chơi xấu. Lúc này ông đang từ dưới thấp ngước lên xin việc thôi mà! Ông không được ôm hầu bao đi theo các Anh Lớn, chán nản với cái "lỗ không đáy" Việt Nam để thốt ra lời mỉa mai Phó thủ tướng Lê Thanh Nghị là "anh Bị Gậy" / The Beggar. Ông được đào tạo theo trường phái Tây phương nhắm vào việc đẩy mạnh sự phát triển cá nhân, một chừng mực nào đó cũng giống như các người vừa đi theo kháng chiến, trọng nể thì có nhưng không có niềm say mê thần tượng. Cho nên lúc đầu, khi các văn nghệ sĩ chưa quen nịnh bợ mà không ngượng miệng, và cũng không thể đợi đến thế kỉ XXI có dân chữ-nghĩa thất nghiệp để thuê mướn, ông Hồ không có người viết tiểu sử, đành phải tự mình nhân lúc rảnh rang việc nước (?!), "vừa đi vừa kể chuyện" Bác. Các đệ tử sau đó mới nhận ra ích lợi của huyền thoại chồng chất - chỉ với người xa, nhất là xa tận phía Nam, nên không nói rõ Bác đang nằm khoèo buồn bã ở bên Tàu mà cho Bác đọc lời kêu gọi "Tiến lên..." vào đêm giao thừa Tết Mậu thân. Dù sao thì hào quang cũng đã dựng lên, không thể để cho tắt nên khi Người đi-xa phải "Xin phép trái lời Bác, ướp xác Bác để một mai cách mạng thành công, bạn bè năm châu đến viếng thăm, còn thấy mặt." (Nhớ loáng thoá! ng nên không thể sát với lời nói lấn lướt ngang ngạnh một cách ngọt ngào của ông Nguyễn Văn Linh.)
Tất nhiên là có người đến coi vì tò mò nhưng lại chê là "không văn minh!" Trước kia họ không biết tận mặt đã đành nhưng có thấy cũng chỉ là nhìn người theo hình ảnh của phong trào thời đại tạo dựng lên mà thôi. Có ai chú ý đến bài tường thuật cuộc phỏng vấn Đại tướng Võ Nguyên Giáp của O. Fallaci, nhận thấy nó như một trò hề trình diễn vụng về mà ngang ngược để suy từ đó ra cái chế độ mà đương thời người ta ca tụng ngất trời không? Có ai nghe những lời của B. Russell mà thấy rằng, té ra trong một khối óc vĩ đại cũng vẫn có những ngóc ngách đần độn tối tăm, cứ lặp lại ý kiến của anh cán bộ thông tin xã "Anh hùng Núp", không cần suy nghĩ?
Cái thế không thích ứng với thời cuộc cũng thấy ở những người khác, nếu bó gọn trong vị trí cá nhân thì hoặc chỉ là chuyện nhàn đàm hoặc là mới ảnh hưởng đến bản thân mà thôi. Như chuyện Bác Tôn không có việc gì làm, muốn xem đá bóng cũng khó có vé nên các người bảo vệ phải mang xe đạp hư (không hư cũng tháo ra cho hư) để Bác loay hoay vạn bù lon con ốc chữa cho lành. Nhưng ông lại là Phó chủ tịch nước - và chuẩn bị lên chức Chủ tịch! Ngày xưa người ta cũng đặt chức tản quan để đền ơn những người có công nhưng có đâu đưa cho lên đến chức Phó, Chánh Hoàng đế? Cứ tưởng thời vua Lê chúa Trịnh đã qua từ lâu trên đất Hà Nội rồi chứ! Lạ kì là với cung cách nhào nặn thần tượng cho đám dân chúng cả tin như thế mà khi thuật lại người ta không những coi như chuyện vui mà còn như là dịp, là bằng chứng để đề cao lãnh tụ nữa! Người nữ sinh viên già làm Bài thơ [1986] gây chấn động dư luận… “đêm trước Đổi mới” (5) đã cẩn thận núp bóng Bác, đưa cho lãnh đạo đọc trước, được (Vũ Mão, Lê Đức Thọ) khuyến khích cho công bố, được nhắn nhe “Trung ương thấu rồi! Về lại lớp đi!” (Phạm Văn Đồng). Thế mà lúc bị tai nạn – “Có người đòi treo cổ tôi”, vẫn không thấy ai lên tiếng ra tay cứu giúp, phải sống “du mục” ở thủ đô, “một mình xây nhà giữa Sài thành”, được xúi vượt biên, tránh quê nhà Bình Định hăm he “Để đợi nó về đây…” cho đến hơn mười năm sau, mà năm 2002 người con còn thấy vướng vào tiếng nhơ “con phản động”. Rồi người ngoại quốc đánh động (3-2! 003), tháng 3-2006 người ta viết báo, in sách khoe công lao bảo bọc của lãnh tụ, khoe sự can đảm của cấp truyền thông thuộc hạ dù cũng hé cho thấy ông Lê Đức Thọ oai quyền trùm trời mà vẫn phải né tránh đám âm binh do mình dựng nên, đang phản kích. (6) Đâu có ai dại như ông Trần Xuân Bách.
Người ngoại quốc cứ trông chờ các Đại hội Đảng mà không biết rằng các lãnh tụ không có tí can đảm nào, “trên bảo dưới không nghe”, mắt phải lo canh chừng thành phần “cơ cấu”, lực lượng bảo thủ “bảo vệ Đảng đến cùng” đang nằm ở lớp cán bộ huyện, tỉnh (thêm sức mạnh tiền bạc thời đổi mới thu hụi-chết của các địa phương, nằm trong cái cặp bỏ quên của ông Chánh văn phòng Thủ tướng Phan Văn Khải). Lại thêm các tổ Đảng phường xã với các đảng viên già về hưu nhớ tiếc thời bao cấp an bình trong sáng đi theo hình ảnh Bác, được tô vẽ thêm từ những luận thuyết thạc sĩ, tiến sĩ của Học viện Hồ Chí Minh. (Có người được khuyến khích cật lực, rủ vào Đảng cho xứng với chức Trưởng phòng gì đó không ai đảm đương nổi, nhưng khi nạp đơn khai có ông bác ở Mĩ liền bị bác ngay – ông bác đó suốt hơn 20 năm, đêm đêm ngồi cắt chỉ, đạp máy may, ráp áo quần để nuôi con ăn học, đem xe đến chở đi Las Vegas cũng không đi!) Tình thế đó là yếu tố đe dọa ngược lên các cấp uỷ trên cao chót vót, sự đe dọa thấy cả từ vài người “đối lập” hiện nay, có bài phổ biến trên báo chí hải ngoại nhớ tiếc quá khứ bao cấp của mình! Thật may mắn cho dân Việt biết bao nếu quả đúng là có ai đó trong nước cố đẩy Việt Nam vào vòng sinh hoạt thế giới (vào WTO chẳng hạn), không phải theo kiểu “thấy người ta ăn khoai cũng vác mai chạy quấy” mà là để mượn tình thế bên ngoài, đàn áp đám âm binh do chính các lãnh tụ tạo ra mà không quản lí nổi cũng chỉ vì phải dựa vào chúng để tồn tại!
Các sử gia bây giờ mắc lo tán tụng, không đủ tâm trí rảnh rang để vẽ ra sự thay đổi đến chóng mặt của dân Việt Nam từ trong lạc hậu (có bị mắng là “nói xấu dân tộc” thì cũng xin chịu thôi), lạc hậu không phải chỉ kể từ thời điểm xung đột khởi đầu với bên ngoài mà còn tăng tiến tụt hậu trong thời gian có tranh chấp nữa – ở đó khoảng cách cấp độ văn minh cứ nhảy lên qua những thời điểm đánh dấu, ví dụ 1945, 1955, 1975, 1986… Người ta thả bom nguyên tử thì dân Việt thấy cái radio còn chạy ra phía sau xem có người nào núp ở đấy không. Người ta xây cao ốc ngước nhìn rớt nón cối mà không ngờ người chiến thắng đứng trên Đỉnh cao của thời đại dùng làm chỗ nuôi heo, xả phân làm nghẹt ống nước đến phải xách từng thùng nước ăn ì ạch lên các bậc cấp thang gác… Tính chất hội kín căn bản, chuyển qua trong hệ thống cai trị hai-tầng có cấp uỷ Đảng ẩn mặt với bên ngoài, lại thấy nổi bật trong hệ thống hành chính công khai qua thời đấu tranh Cải cách ruộng đất kinh hoàng năm 1956, sau 1975 với thời Đánh tư sản bù thiếu hụt ngân sách sau khi tiêu hết 16 tấn vàng chiến lợi phẩm, thời Bán vé chính thức đi biển để thu tiền thanh lọc nguỵ cho “The Rust Bucket Inc.”. Rồi lại vẫn thấy tiếp tục đến thời Hội nhập bây giờ, qua những cuộc vận động “quần chúng” đàn áp đám đối lập lẻ tẻ, yếu xìu… Trên bình diện quốc tế thời đã qua, là Hà Nội đóng vai chính quyền công khai, đàng hoàng tử tế xây dựng một chủ nghĩa xã hội không ai được quyền nói khác, còn Mặt trạn Giải Phóng đóng vai hội kín nổi dậy là! m “cách mạng dân tộc dân chủ”, hưởng tất cả những ưu thế thuận lợi dành cho một phong trào quần chúng rộng đường múa may với các hoạt động hợp pháp, “nửa hợp pháp”, bất hợp pháp đối với thế giới, đối với chính quyền VNCH. Với thời gian tiếp nối quá khứ, sự sử dụng đồng thời quyền lực công khai và thảo khấu đó đã chứng tỏ có hiệu quả, đã thành truyền thống rồi, khó bỏ. Khó thể ước mong có một nước Việt Nam trọng pháp như quan niệm bình thường của thế giới ngày nay được. Và đó là lí do tại sao có một nước Việt Nam an bình dưới bàn tay cai trị của một chính quyền bản xứ như đang thấy.
Không muốn đưa những chứng dẫn “tầm thường” thì hãy mượn ở nơi người ta nói nhiều, ở văn học với “truyền thống làm thơ” chẳng hạn, truyền thống khiến các lãnh tụ muốn chứng tỏ mình văn võ toàn tài, cứ phải làm thơ Con cóc, tuy không khiến cho nghệ thuật được nâng cao nhưng lại cung cấp dồi dào bằng cớ cho sử gia làm tài liệu mà không phải mang tiếng xâm phạm đến ngành khác. Có lẽ nhờ vết tích Vijaya mà Bình Định có một Collège Quy Nhơn cho dân các tỉnh nam Trung Kì, dân trời-ơi-đất-hỡi đến học tập và chắc chắn do tầm mức kiến thức của vùng, đã sản sinh ra các nhà thơ được Hoài Thanh gọi là Nhóm Bình Định. Không cao bởi vì đến trước Thế chiến II, Collège Quy Nhơn cũng chỉ mới có vài lớp ở bậc ngày sau gọi là Trung học Đệ nhất cấp / Cấp II / Trung học Cơ sở. Không cao nên không làm được văn mà chỉ mới làm thơ. Không cao nhưng cũng đủ cao hơn người khác nên Chế Lan Viên mới lầu bầu: “Cái thằng Hoài Thanh đụng gốc đa nào cũng vái!” Đủ cao nên Xuân Diệu đòi xem đá bóng khỏi trả tiền, đòi cung phụng, và kết quả khi đi-xa cũng được có tên nơi một “ngõ” của Hà Nội chật chội chen lấn, rướn thêm về Bình Định thì được thay ông Nguyễn Huệ trên bờ biển thênh thang, thuận theo chiều gió thời thế khiến người địa phương không bao giờ ngạc nhiên tự hỏi: “Sao ở đất Tây Sơn mà con đường mang tên người khởi xướng phong trào vang danh đó: Nguyễn Nhạc, lại nằm ở một chỗ khuất lấp tưỏng chừng như không có trên cõi đời này?”
Họ, cũng như một số nhà Thơ mới khác đi theo Kháng chiến, được biến cố 1945 giúp khỏi kéo dài đời sống gượng gạo. Vì nội lực chỉ có thế mà thôi. Hoài Thanh vẽ ra sự tiến triển của Thơ mới qua ảnh hưởng của dòng thơ Pháp mà không cho thấy ông Thanh Tịnh mượn hẳn của thi sĩ Pháp “Rồi một hôm nếu về cha hỏi…” – giỏi hơn ông Hữu Thỉnh với thơ Đức (dịch) vừa bị phác giác. Cho nên, một phía, Quách Tấn chuyển sang viết địa phương chí với nhiệt tình của nhà thơ, mà người biết chuyện phải thấy dè dặt khi muốn lấy làm tài liệu dẫn chứng. Phía kia, trong khi Yến Lan mờ nhạt (cũng như Thanh Tịnh, Lưu Trọng Lư, Anh Thơ…) thì Xuân Diệu phải có thêm giải thưởng của Nhà nước, của Đảng. Huy Cận lo làm Bộ trưởng. Thi sĩ Huy Thông làm quan chức khảo cổ học đe doạ những ai lạc hướng đi theo con đường “khách quan chủ nghĩa”, không chịu sự lãnh đạo của Đảng. Chế Lan Viên dừng lại ở Điêu tàn, chuyển sang Vàng sao, trên đà đó nói chuyện triết lí phục vụ Đảng (pha chút dân tộc), nhiệt tình quá trở thành Muốn nói gì thì nói: “Bọn sĩ quan nguỵ mỗi khi ra trường nấu cháo đầu người ăn để hăng hái phục vụ đế quốc tận tình.” Thơ Mới cụt đường, được cứu vớt vì chuyển qua Thơ Phục vụ.
Biến động đảo lộn ngắn không đủ kịp nhận định cứu thân xác nên ông Khái Hưng nghe người của chính quyền mới mời gọi lại vẫn đĩnh đạc mang cặp, thắt càvạt ra đi! Có kịp thấy nguy hiểm thì nhóm Đệ tứ cũng không thoát khỏi bàn tay tận diệt của đối thủ Đệ tam đã nắm được chính quyền, đối thủ mà lúc còn đế quốc làm trọng tài, họ cãi nhau ngang hàng, không lường được lúc kẻ kia có quyền hành, có vũ khí. Và nhóm Đệ tam, trên đà hăng say đã đụng độ với các nhóm quần chúng cuồng nhiệt của các tôn giáo mới, tạo những thế tử đạo tân thời (diệt Cao Đài ở Nam, Ngãi, giết Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ ở Nam Bộ), kéo dài thành những mối thù truyền kiếp. Thù dai dẳng cả từ một phía đã nắm quyền, trên chân như khi tỉnh uỷ Quảng Ngãi không cho thân nhân bốc mộ Bích Khê vì “tội (tiếng đồn) là Đệ tứ”. Biến động lớn gây đảo lộn khiến cho người thường, chỉ qua một giai đoạn ngắn ngủi năm mười năm mà đọc lại quyển sách cũ từng say mê (kể cả của ông Kim Dung), thấy nhạt nhẽo, vô duyên chi lạ. Ông Nguyễn Tường Tam vượt được Nho phong, Người quay tơ của phong kiến, thuộc địa An Nam, đem không khí Paris về tạo lập Trống mái, Bướm trắng cho Nhất Linh nhưng không đủ bình tĩnh để chịu đựng sự thất bại của Phong hoá Ngày nay tục bản (1958?), không nhận ra Giòng sông Thanh Thuỷ thiếu cái lãng mạn hào hùng phảng phất của Đôi bạn, để co lại ở Xóm Cầu Mới tủn mủn u buồn hơn cái phố huyện Cẩm Giàng xưa kia – cô Mùi đó lại xuất hiện giữa Sài Gòn đảo chính và bắt đầu twist, à terre! Lời tuyệt mệnh “Đời tôi để lịch sử x�! ��…” thường được coi là chứng tích khảng khái của kẻ sĩ nhưng có mấy phần là nỗi thất vọng của một nhà chính trị lỡ thời, của một văn gia nhận ra buổi chiều tàn xế bóng của thân danh?]
Không kể đến vấn đề Trần Quốc Tuấn, có những biến động tranh chấp trong dòng họ chỉ được ghi lại bằng những lời sơ sài, không đầu đuôi: “Tháng 2 (âl. 1283, trước khi quân Nguyên sang), trị tội Thượng vị hầu Trần Lão, cho chuộc tội 1000 quan tiền, đồ làm lính, lăng trì tên Khoáng là gia nô của Lão ở chợ Đông, vì tội làm thư nặc danh phỉ báng nhà nước.” Lệnh năm 1250 “xuống chiếu cho thiên hạ gọi vua là Quốc gia” đã bị người dịch Toàn thư (1993, II, 22) sửa lại là “quan gia” vì cho rằng “chưa có sách nào gọi vua là ‘quốc gia’”. Nhưng nguyên văn chữ “nhà nước” trên chính là “quốc gia”, đúng là chỉ người đương quyền: Nhân Tông, đâu có cần tìm sách nào cho xa! Tước Thượng vị hầu chứng tỏ Trần Lão là con một bà Phi theo thứ tự sắp xếp năm 1241. Lê Tắc nhắc đến một người bị tội, cầu cứu quân Nguyên, tên Trần Thôi, là “quốc đệ”, theo cách nhìn từ phía Nguyên, là em (thượng hoàng) Thánh Tông, hẳn là Trần Lão của sử Việt (chắc tên riêng bị bỏ, chỉ còn là “thằng cha / già / lão Trần”). Cho nên Trần Ích Tắc muốn giành ngôi của Nhân Tông không phải là kẻ lạc loài. Trong lúc sử quan ghi sơ sài vài gia thần của các tông thất khác thì với Ích Tắc đã kể ra đến 20 người được tập họp ở học đường bên phải phủ đệ, cấp cho ăn mặc, đào tạo thành tài, đủ để làm một bộ tham mưu cai trị nước khi đảo chính xong!
Trần Lão – chắc là ông em, đã thất bại, Ích Tắc phải trông chờ nơi khác. Sự trông chờ này chỉ mang tính phe phía, không phản bội “dân tộc / đất nước” như người sau kết án, bởi vì như đã nói, “vùng sông nước” ở cuối trung châu Đại Việt là phần lẫn lộn, nhập nhoà tập đoàn, khiến cho các sách đương thời (Lĩnh ngoại đại đáp thế kỉ XII, Văn hiến thông khảo thế kỉ XIII) cho rằng Đại Việt không có bao nhiêu người bản xứ, phân nửa là từ Lưỡng Quảng đến trú ngụ. Điều đó khá khó tin nên các học giả ngoại quốc ngày nay (John K. Whitmore, Li Tana) cũng bài bác nhưng ta có thể hiểu khi nhận ra rằng các quan sát viên Trung Quốc đương thời nhìn theo tình hình giao thương, nghĩa là chú trọng nhiều về mặt biển nơi tập trung lớp người sông nước tứ xứ. Tuy nhiên tình thế đó lại thuận tiện cho “Ích Tắc đưa thư nhờ lái buôn Vân Đồn xin quân Nguyên xuống nam”. Tính chất hải đảo của Vân Đồn lệch bên ngoài trung tâm Thăng Long khiến điểm tập kết buôn bán này tuỳ thuộc vào Miền Dưới hơn là Miền Trên. Khi tóm thâu quyền hành trên vùng duyên hải của Tống, thế lực của Nguyên do đó cũng lấn lướt hơn ở Vân Đồn, ở Miền Dưới, ảnh hưởng đến quan niệm chủ quyền địa vực của Trần Ích Tắc để ông nghiêng về phía bắc. Tính chất lờ mờ của “chính nghĩa” đương thời đó đã khiến cho sử quan giải thích việc “về Bắc” của Trần Ích Tắc như đã được thiên đình định trước, qua dấu vết của một thần nhân, không phải là kết quả phản bội của một nhân vật trần thế.
Nhóm Trần Miền Dưới tiến lên Thăng Long trải qua những giai đoạn bị Nguyên uy hiếp nhục nhã khiến ý thức về một khối Đại-Việt-của-họ trở nên rõ ràng hơn. (Trước Hịch tướng sĩ còn bó gọn trong tông tộc trị nước Miền Dưới đã có những lời phẩm bình cay đắng của Lê Văn Hưu 1272 Miền Trên.) Chiến thắng trên quân Nguyên đem lại sự tự tôn không phải chỉ ở tông tộc cai trị mà còn toả rộng đến đám dân dưới quyền – bị cai trị sít sao hơn, cho nên về sau (1374) có lệnh cấm ăn mặc theo người Bắc (Trung Quốc), cấm nói tiếng Chiêm, Lào theo những chuyển biến thời Trần vững vàng quyền hành tiếp theo. Cho nên Nguyễn Đại Phạp đi sứ Nguyên (1292) mới có thể trả lời Trần Ích Tắc: “Việc đời thay đổi, Đại Phạp trước vốn là tên biên chép / thư nhi cho Chiêu Đạo Vương (Trần Quang Xưởng), nay là sứ giả, cũng như Bình chương xưa kia là con vua, nay lại là người đầu hàng giặc.” “Việc đời thay đổi…” mà Trần Ích Tắc lại không biết thân phận mình để cho có kẻ thuận thời thế lên mặt dạy dỗ, từ đấy không còn ngồi ở Hành tỉnh khi sứ thần Việt qua, không còn dịp để nhìn một khuôn mặt quen thuộc, thấy một dấu vết của quê cũ, biền biệt… Ông đành chấp nhận sự lựa chọn thất bại, chỉ có thể ngồi lãnh trợ cấp của nước đến nhờ vả, lâu lâu chờ vua mới lên ngôi, tiến kinh để nhắc nhở xin phần tưởng thưởng đặc biệt… Có chút an ủi nào cho ông không khi lại chính Toàn thư cho rằng con ông là Trần Hữu Lượng, nhân vật Trưởng lão Cái bang đầy mưu mô sâu hiểm của Kim Dung, là người chống Nguyên, lập nên nhà Hán vắn ! số trước khi bị Chu Nguyên Chương tiêu diệt? Tính chất lạc loài của một nhân vật trong khu vực, cố ý chen chân hay vô tình bị đưa đẩy vào biến động quốc tế cũng thấy ở một nhóm người khác mang cái tên núp lén: Hồi Hột.
Hồi Hột/Cốt là tên do sử gia Việt bây giờ nhận ra về lớp người Tống năm 1274 tránh quân Nguyên, đem 30 thuyền chở đầy của cải vợ con vượt biển đến cánh đồng La Cát (?) rồi được đưa về Kinh thành. Tống cũng có mặt trong quân của Trần Nhật Duật, hãnh diện với một tên “gia tướng” Triệu Trung của dòng vua Nam Tống, những người không những chiến đấu bằng vũ khí mà còn tác động đến tâm lí của quân cựu-Tống dưới quyền Nguyên nữa. Có thành phần Tống binh làm nơi đày ải nhân viên sứ bộ Trần Di Ái. Chủng loại lẫn lộn ở cả hai phe phía khiến nảy ra nhận định tức cười của sử quan: “Người Tống (phe ta) và người Thát tiếng nói và y phục giống nhau”. Sự cập nhật của danh xưng làm cho người ra đi phải mang tên của phía họ rời bỏ dù đã về nơi lựa chọn mới: “quân Thát của Chiêu Văn”, khác với quân họ hô “sát Thát!” Là kẻ của thân phận lao đao phụ thuộc vào chủ, Lê Tắc đã ghi về hành trạng quanh quất phức tạp theo tình thế dời đổi của những người Tống chạy qua Việt khi nước mất (1279). Có người tự tử theo vua nhưng được cứu sống, làm thân lưu lạc lại trở về với kẻ thù cũ, quên việc đất nước đã đổi chủ, bởi vì với những người đó, lúc này, đất nước chỉ là ý niệm trừu tượng không thể sánh bằng tình quê hương cụ thể. Có người đổi xoay vì ân oán riêng tư. Có người như Trần Trọng Vi (chỗ khác viết: Huy) được Thánh Tông trọng đãi, quyết tâm “Lưu lạc thà làm ma nước Việt”, chết đi được vua làm thơ điếu nhưng con lại theo phe Trần Thôi, em Thánh Tông, trở về với quân Thoát Hoan khi�! ��n Thánh Tông sai quật quan tài trị tội. Hiện tượng tương tự cũng xảy ra trên đất Chiêm Thành tuy ta không có một Lê Tắc ghi chép mà phải qua dấu vết từ phía Nguyên. Quân Toa Đô thắng ở dọc biển khiến những người Tống lưu vong trên đất này trở cờ theo quyền lực mới, còn một tên Tăng Diên để lại. Chiêm phải giết cả hàng trăm người nhưng cũng không ngăn được kẻ khác chỉ cho quân Nguyên biết nơi trú ẩn của chúa họ để đến vây bắt.
[Còn nhiều người khác từ trong biến động của một thời đại. Phong trào vượt biên ở phía Nam gây khích động phía Bắc, xúi người "đánh bạc với Liên Hợp Quốc, có mất hào đếch nào đâu... qua Hồng Kông lấy bảy chỉ rồi về cho nhanh, kịp mùa gặt" (Đỗ Quyên 1997) nhưng vẫn để lại 2000 người giữa đảo Hải Nam, không thành Hoa, hẳn là không Việt nữa mà Mĩ thì quá xa vời. (7) Với ông Trần Trường vượt biên, qua thời gian làm chức sắc đạo Vô Vi có người lòn trôn tâm phục thì Mĩ cũng không còn hấp dẫn nữa. Ông đòi làm vua cứu nước Việt, rồi thấy việc ca tụng một ông vua có sẵn là dễ dàng hơn nên quấy đảo cộng đồng Bolsa (1999), tự biến thành con chiên ghẻ, phải mang chiếc lá tàn rụng về cội (2005). Không biết có thuyết phục nổi nhà cầm quyền trong nước bằng lời hứa đòi hai tỉ rưỡi đôla cho Việt Nam, nhờ quen với gia đình Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch Dân không mà bị chút tai nạn ở tỉnh Đồng Tháp, ông không hề hấn gì. Chỉ có điều là không còn đường ra biển nữa. Lớp người khác, dân "áo pull quần jean thay áo gấm, về xứ" có ai nhớ đến những người bị hải tặc bán cho nhà thổ Thái Lan, được Liên Hiệp Quốc cứu về lại trốn đi vì không còn mặt mũi nào nhìn đồng bào nữa? Những người đó bây giờ đang tàn tạ nơi xó rừng, góc phố tối tăm nào, ai có tâm để nhớ, những người một thời là em, là chị, là mẹ, từng có cuộc sống tuy không cao vời gì nhưng vẫn đáng được hưởng một đời bình thường, đâu phải chui nhủi vì là con cờ rủi ro của biến động, của một thời làm dân hạng nhì ở chính nơi mình sinh ra và lớn lên? Thà là họ chết đi trong b�! �ng cá!]
Tác động trên lãnh vực thương mại, sản xuất của những người Tống di tản được chứng thực ngay từ lúc đương thời. Không phải bỗng nhiên mà Thánh Tông cho đem người lạ về ở Thăng Long. Dân chạy loạn trên 30 thuyền biển kia đã chứng tỏ khả năng mang lại phồn thịnh cho nơi ở mới nên sử quan mới chịu khó ghi chép về một tên riêng là “người Kê (sửa là Cốt/Hột) quốc” với các “hàng vải lụa, dược phẩm, bày hàng mở chợ buôn bán riêng”. Họ đã từng bán loại vải quý, giá đến cả 300 quan tiền một thước (?!), từng cống người “nước Tiểu Nhân, cao 7 tấc” (khoảng 2 tấc tây, không biết có phải là cách nói quá về giống dân vùng Java mà khảo cổ học mới phát hiện gần đây không.) Và chúng ta ngày nay có một bằng chứng về hoạt động của họ và con cháu trong vấn đề “gốm Chàm / gốm Bình Định / gốm Gò Sành” theo phát hiện khảo cổ của thời đại mới.
[Có lẽ không cần căn dặn nữa. Bản thân chúng tôi trước năm 1975 đã thấy một vài miếng gốm được mang tên Gò Sành nhưng vì "bận việc nước" nên không để sự tò mò đi xa hơn. Sau 1975, cả nước làm-ve-chai: phía Nam bán ve chai còn phía Bắc "mua" ve chai. Vào.vơ.vét.về, chuyện bình thường của lịch sử, có gì mà phải xấu hổ, tô vẽ? Hết của trên mặt đất, người ta lục lọi phía dưới. Hợp với lúc các nhà khảo cổ Miền Bắc loay hoay mãi đến cạn kiệt các di chỉ kiểu Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn mà chứng minh không ra một ông Hùng Vương cụ thể, nên như một cách thế "tự giải phóng", họ vác cuốc xuổng đi vào vùng đất mới chiếm được, gây ra một phong trào nhân dân làm Khảo cổ học Đào mả. Chuyện lộ ra đến toà án thì có mấy cái hoa tai gì đó của bà Từ Dũ được cho phép nấu chảy để định giá trị thị trường mà luận tội khiến cho ông nguỵ Vương Hồng Sển kêu trời với ông cách mạng Nguyễn Đắc Xuân - ý hẳn cho rằng ông học trò cũ có quyền lắm, như cách thức các ông "nhảy núi" lúc đầu ở trong khu về lộ ra cho người ta thấy. Trong dân gian thì cứ mỗi sáng ra, người ta lại thăm hỏi nhau: "Hồi hôm ở phía nào? gò nào?" Chẳng ai biết gì cụ thể về tên tuổi các cán bộ khai quật, về hiện vật thu được, vì nếu có ai tò mò đến gần chỗ lao xao thì nghe có tiếng lên cò súng lắc cắc ghê hồn!
Bộ môn Đào mả mới nếu mở rộng ra có thể thấy mấy cái mả chôn ngồi ở Bình Thuận, Ninh Hoà (khoảng 1945 trở đi), mấy cái mồ tập thể, lấp đất rồi còn nghe tiếng rên ở Quảng Ngãi (1945) của kẻ chặt người cùn rựa, thấy độ chừng mươi cái mả chôn đứng ở Bình Định (1975) mà người sống tự nguyện đào huyệt cho mình, tự nguyện bước xuống đó để bị đập đầu cá lóc trước khi bạn bè còn lại lấp đất rồi bản thân người cuối mới nhờ người Giải phóng thức hiện khâu san bằng. (Có ai cung cấp thêm "tư liệu" không? Tư liệu về thân phận những Nghĩa quân, lớp người từ lính tới trung đội trưởng, lúc sống trong chiến tranh chỉ được hưởng quyền lợi "đánh giặc gần nhà", khi chết không có một dấu hiệu dù là cáo phó trên báo, còn khi "tan hàng" tuyệt tích thì vẫn không một dòng trên các KBC hải ngoại, nói gì đến sự lưu tâm của các chính khách an lòng không thấy "tắm máu"?) Vài trăm năm sau có nhà khảo cổ học nào tò mò thấy ra, sẽ làm báo cáo khoa học về người Việt cổ ờ Bình Định từng có táng thức lạ: chôn đứng! (Kết luận giản dị giống như các nhà khảo cổ học ngày nay thấy mấy bộ xương chôn ngồi, nằm co, xác định không thắc mắc vì không biết đến tính chất rigor mortis của khoa pháp y.) Mà nhằm-nhògì-ba-cái-lẻ-tẻ. Vụ tàn sát ở Dakson (1967) khuất lấp vì là "chuyện xứ Mọi", vụ Huế 1968 ồn ào một chút chỉ là do Mĩ nguỵ tạo bằng cớ giả (Trần Độ), đánh trống lảng che lấp tội ác Mĩ Lai của chúng. Đâu có đáng chú ý bằng hình của Nick Út, hình Đại tá Loan bắn người, bằng các tin trên tờ Times của Phạm Xuân Ẩn đưa! Phương Đông có tinh th! ần Hắc bạch phân minh, phe phía rõ rệt, đã chọn "phe" (có "bản chất" tốt) thì tự cho phép làm được tất cả, không thắc mắc gì về hành động của phe mình, cứ "cầm gươm ôm súng xông tới" giết, nếu vì lẽ gì phải tha ngoài ý muốn thì đó là "vì lòng nhân đạo / lượng bao dung trời biển của Lãnh tụ và Tổ chức". Khác với Âu Mĩ mang tinh thần tự trách ("Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng") nên cứ thắc mắc ngay cả lúc cần để chiến thắng (Hiroshima 1945), lúc trên chân (Mĩ Lai / Sơn Mĩ 3-1968), thấy chưa đủ, đến 30 năm sau khi thua còn kể tiếp, trách nào người ta không ăn vạ chất độc màu da cam để kiếm thêm... Trong lúc đó, người phe ta mang tinh thần Xuân thu Chiến quốc, thì huênh hoang khoe rằng đã lừa gạt được người với những phương cách không chừa đến cả nguyên tắc đạo lí căn bản nhất của chính nền văn hoá mình hãnh diện, như việc đưa đám ma mang hòm chứa vũ khí vào thành phố để tấn công ngày rước ông bà về vui vầy... Cán bộ Đồng Khởi Bến Tre khoe chuyện "ôm hè, giựt súng" dân vệ không cần nghĩ rằng bọn ác ôn kia không được huấn luyện để bắn đàn bà con gái! Theo tinh thần Toàn dân kháng chiến, họ xúi phụ nữ ở truồng biểu tình thị uy, đến mức quận trưởng phải lên tiếng năn nỉ: "Các bà bận quần dô rồi muốn nói gì thì nói, làm kì quá hà!"Bao nhiêu là chuyện ngỡ ngàng nhân danh mục đích thành đạt.
Kết quả thật là tốt đẹp như đã thấy nhưng đất nước cứ theo đà đó mà trượt đi. "Đêm trước" Đổi mới đầy những chứng cớ về người nắm quyền vi phạm luật pháp do chính mình đặt ra buộc dân chúng phải theo, vậy mà lừa trên gạt dưới, phục vụ cấp trên / lãnh tụ theo cách vừa sợ vừa coi thường, miễn sao cho sống được để sau cùng khoe khoang về sự thành công "khôn ngoan" của mình. Ở xứ khác, trong chế độ khác những điều ấy vẫn xảy ra nhưng người ta đâu có hãnh diện, khoe khoang? Bản thân người ta tự thấy xấu hổ, còn quần chúng cũng không nín nhịn chấp nhận những người ấy đứng trên đầu mình mà cai trị... Ấy thế mà ở Việt Nam...
Đúng là kể chuyện đánh nhau giữa các người cùng văn hoá xem ra ít nhức đầu hơn. Chuyện con cháu lính Đại Hàn (thâm nhiễm một nền văn hoá khác) tố cáo cha anh họ "mạnh tay" ở miền Trung liền bị chìm ngay tức khắc, thật khoẻ. Chừng mực nào đó thì cách đối phó với kẻ địch cũng giống quân Giải phóng gài lựu đạn trên xác lính nguỵ để có thể tiêu diệt địch quân cả sau khi im tiếng súng. Họ bắn vào người y tá lồm cồm mang túi cứu thương chạy qua chạy lại, giết chắc-ăn hơn người lính chiến đang núp kĩ, huống chi bắn y tá là giết trước cả số người bị thương về sau không còn kẻ băng bó. Ông đại tá bắn người biệt động mặc áo dân thường chắc chắn gặp được sự tương đồng với người ông bắn giết hơn là với đồng minh của ông, bởi vì kẻ địch ông cũng nửa đêm lôi đầu người đâm một dao đổ ruột bỏ ruồi bu kiến đậu - những người chết đó cũng mặc áo dân thường đấy! Gần hơn, có thể kể chuyện trong thời các nhà văn nghệ hát Nối vòng tay lớn nhỏ, thì trong trại cải tạo giữa rừng người ta lôi tù hàng binh ra bắn vài con số lẻ để dỗ yên giấc ngủ. Có người soạn thảo Công ước Genève nào đứng đó để giám sát đâu. Ông E. Adam cũng không có mặt để chụp thêm tấm ảnh đặt vào bên cạnh hình Đại tá Loan trong sự nghiệp của mình.
Sự lệch chuẩn văn hoá đã khiến ông đại tá phải tàn tạ thân danh chỉ vì sự việc qua ống kính ngoại quốc, lên báo chí đã đẩy ông vào một vùng văn hoá có tiêu chuẩn khác. Cũng vậy, người dân Mĩ đang nằm dài trong phòng ngủ có máy điều hoà không khí đã xốn xang, la ó khi nhìn lên truyền hình thấy người lính dí ngọn đuốc vào mái nhà tranh. Cuộc chiến có mặt Mĩ đưa Việt Nam vào điểm trung tâm chú ý của thế giới, theo văn vẻ của các nhà truyền thông quý tộc và phụ hoạ, trở thành "đỉnh cao của loài người", "lương tâm của nhân loại" nên người ta càng dễ xúc động. Cho đến khi đánh với Trung Quốc, Việt Nam trở lại thành một chiến trường địa phương, tin tức không sôi nổi như cũ về sự tàn phá ở các thành phố biên giới mà phi công Mĩ chừa ra nguyên vẹn, dù có anh nổi hứng ngông nghênh đòi đưa kẻ địch "trở về thời kì đồ đá." Từ đó không ai chú ý đến lời người phóng viên địa phương về việc Hồng quân khi rút khỏi thị xã Lạng Sơn đã đập nát cả đến những cái nồi đất. Phải là người suy nghĩ cùng văn hoá mới thấy điều này là không bất thường: cái nồi nấu cơm kia là vật dụng nuôi sống kẻ địch, nên là kẻ địch phải tiêu diệt. Phải đem điều đó nói với người dân Mĩ (hay ai khác) sống sung sướng quá nên trở thành khờ khạo: Cái nhà tranh kia có hầm bí mật, chứa giấu cán bộ, vũ khí bên dưới, dù chỉ có hũ gạo nuôi quân cũng là một địa điểm gây nguy hại cho quân nhà, và đốt nó không phải là đốt một túp lều rách nát, dễ thương, vô tội mà là phá huỷ một chiến luỹ đầy cạm bẫy chết người thật sự, xét về quy luật của chiến tranh! thì không cần gì phải ân hận cả. Chính sự lệch chuẩn văn hoá được che khuất thêm bằng cách biệt mức sống đã gây nên nhận thức sai lầm. Từ điểm chuẩn là cái nhà tù Mĩ nơi tù nhân đòi kiện chính quyền vì không có tivi xem giải trí, Don Luce đã tố cáo cái Chuồng cọp với các khoen xích dài theo thanh sắt trên nền nhà tối tăm, âm u nhưng rộng rãi thênh thang ở Côn Đảo. Ông không có cơ hội được thấy cái cùm tập thể làm bằng nguyên thân cây xẻ đôi, khoét tròn nham nhở, ban đêm phâp xuống cổ chân lở lói của tên tù cải tạo chỉ có 4 tấc bề ngang cho mỗi người.
Nhưng, nói cho cùng thì một lập luận cũng chỉ có giá trị khi có sức mạnh kèm theo mà thôi.]
“Gốm” của khảo cổ học tương đương với chữ céramique nhưng trong dân chúng nó chỉ các vật dụng đất nung không men, thường là đồ gia dụng. Gốm có men thô là sành, cao cấp là sứ, nhưng gốm thu lượm được trên gò Sành ở xã Nhơn Hoà, huyện An Nhơn, Bình Định là sành cao cấp – tạo ra tên riêng của gò, của làng, theo đà bán ve chai được đưa ra thị trường, thành sưu tập, lọt vào mắt một nhà nghiên cứu Úc, từ đó hình thành khái niệm về một loại hình gốm lấy tên từ nơi xuất hiện đầu tiên, gọi là gốm Gò Sành, gốm Bình Định, và do thời điểm chế tạo đoán định, được gọi là gốm Chàm, là điều chúng ta sẽ bàn nơi đây.
Ở gò Sành có dấu vết của hơn 20 lò gốm cổ. Cùng loại gốm còn thấy ở nhiều “gò” khác trên đất hai huyện An Nhơn, Tây Sơn (Bình Khê cũ). Cuộc khai quật của các nhà khảo cổ học Nhật, Bỉ, Việt các năm 1993-95, 2002 thu được một số lượng hiện vật gốm tráng men, văn in chìm nổi… phong phú và độc đáo. Gốm Gò Sành còn xuất hiện ở các vùng xa trong nước (Phố Hài ở Bình Thuận, Đại Lào, Đại Làng ở Lâm Đồng nơi có lẫn gốm Long Tuyền Trung Quốc thế kỉ XIII, gốm Nhật thế kỉ XVIII) và trên thế giới, ở bán đảo Sinai (Ai Cập), trong địa tầng di chỉ khảo cổ Juffa (Vương quốc Ả Rập Thống nhất), trong các thuyền đắm ở Philippin với tiền Vĩnh lạc (1403-27) cùng đồ sứ Trung Hoa nửa sau thế kỉ XV, nửa đầu thế kỉ XVI. Và còn thấy cũng trong thuyền đắm ở nam Trung Quốc, Thái Lan (niên đại 1403-1442).
Với nhà nghiên cứu trong nước (Đinh Bá Hoà) thì trận thắng 1471 của Lê Thánh Tông là dấu ấn lịch sử rõ rệt quyết định điểm tàn rụi của gốm Gò Sành – hoạt động trong thế kỉ XIII, XIV. Còn với học giả Nhật (Yogi Aoyagi) thì với các chứng tích không tuỳ thuộc vào biến động ở Việt, họ cho rằng các lò gốm này hoạt động trong khoảng thế kỉ XI – XIV và vẫn còn tiếp tục sản xuất tập trung trong thế kỉ XV-XVI, thậm chí còn đến thế kỉ XVIII. Chính vì thời gian tồn tại đó mà học giả Nhật, được giải thích từ chữ gò/”mound” có nghĩa là “làng” (Momoki Shiro 1993) và gợi ý từ tên gò Hời chỉ một tộc người lạ (thật ra chỉ người Chàm) nên chuyển dịch là “village of foreigners”, để cho rằng ở đây hình như là làng của người Hoa hay có liên hệ một cách nào đó với Trung Quốc. Rồi dẫn đến kết luận là loại gốm Chàm này chịu ảnh hưởng Trung Quốc hay có thể thợ là người Hoa. Như thế cũng là tiến bộ rồi vì trước khi có các phát hiện ở Bình Định thì người ta thường ghép chúng vào với gốm Trung Quốc. (8) Tuy nhiên vẫn còn sự dè dặt về vấn đề chủ nhân, là vì người ta đã đặt tên “gốm Chàm”, cho nó phải là của người Chàm, chủ nhân cũ vùng đất Vijaya/ Bình Định. Người ta chỉ mới nghĩ thêm rằng thợ ở các lò gốm kia là người Hoa mà không dám nghĩ rằng chủ nhân cũng chính là người Hoa, người Tống lưu vong khi quân Nguyên xua đuổi họ đến đất mới, không về lại nơi cũ nữa.
[Lẽ tất nhiên đời nay không phải là đời xưa nhưng những gì chúng tôi chứng kiến năm 1970 ở một vùng Bình Thuận đã để lại ấn tượng sâu sắc. Tôi đã thấy cung cách làm gốm của người Chàm qua đủ cung đoạn. Hình như người phụ nữ Chàm vì làm chủ gia tộc nên lãnh nhận hầu hết các công việc, để đàn ông cà-nhỏng làm công tử vườn rong chơi, với thời thế thì đi lính nghĩa quân theo tiêu chuẩn sắc tộc để khỏi xa nhà, hay nhậu nhẹt theo các ông Xế ở các lễ hội cổ truyền, theo các ông chức sắc Việt bàn chuyện cứu dân (Chàm) cứu nước (Việt). Anh trung sĩ đơn vị tôi chỉ vác cuốc ra các ụ mối ngoài đồng đem về một mớ đất sét rồi bỏ đó cho bà vợ với chú bé chập chững bên cạnh, đập vụn đất, nhào trộn nước, nắn từng khoanh đất sét tròn đặt trên cái bệ gỗ, tự mình đi quanh, từng vòng từng vòng nhỏ to chồng chất làm nên cái nồi, cái ấm, cái trả, cái trách... đem cất ở khoảng êm mát nào đó trong nhà rồi đi nấu cơm, dệt vải. Một ngày làm vài cái, để đó đến khi chỗ chứa đã chật, gốm đã dịu nước thì đem ra khoảnh đất trống, quơ củi đốt, khói bay mù trời!
Tất nhiên đó chỉ là gốm gia dụng nhưng không thể ngăn sự suy luận đi xa hơn. Toàn cảnh làm chúng tôi liên tưởng đến chuyện thi đua xây tháp được nghe kể và sau này thấy ông Nguyễn Đình Tư đem vào sách Non nước Phú Yên của ông, với tên nhân vật lịch sử Lương Văn Chánh, quan trấn thủ đương thời. Ông ta vốn là người "yêu chuọng hoà bình", không muốn gây tranh chấp binh đao tàn hại đến cả dân tộc dưới-tay, nên đề nghị với người Chàm hai bên thi đua xây tháp xem "ai thắng ai". Trong khi người Chàm hì hục đào đất, lụi hụi nhào trộn nước, đúc gạch... thì ông quan bảo lính lấy tre đan kết tháp, phất giấy lên, xong ngay! Muốn cho bọn Hời tâm phục khẩu phục, ông lại đề nghị đốt tháp xem ai hoàn thành việc tiêu thổ nhanh hơn ai. Kẻ ưu việt thắng là quy luật đương nhiên của lịch sử. Chuyện đời xưa nhưng cũng có chút gì là "vang bóng một thời". Người ta suy ngẫm đến việc xây tháp của người Chàm. Tất nhiên đến nay thì đã có rất nhiều thí nghiệm khoa học, phân tích chất liệu... để đưa ra nhiều lời giải thích khá thoả đáng. Nhưng với người "tay không" thì nhìn không thấy một cái lò gạch nào của người Chàm để lại, phối hợp chuyện đốt tháp với thực tế đốt gốm giữa trời, người ta phải nghĩ rằng người xưa đã thực hiện theo cung cách đó, tất nhiên với một tổ chức phức tạp hơn. Điều đó cũng dính dáng đến vấn đề các trang trí trên phần gạch của tháp. Trước năm 1975 có ông đạo diễn buôn đồ cổ, xây tháp Chàm trong vườn ở Sài Gòn, cũng khắc, cũng chạm nhưng các hình voi ngựa, garuda... xù xì thô kệch vì gạch nung đã chín, khó tạo hình. Ông Hà Thúc ! Cần này cũng là người đã sưu tập gốm Gò Sành đánh động đến sự chú ý của học giả ngoại quốc đưa đến vấn đề công nhận nó bây giờ. Tuy nhiên nếu nhìn tượng con voi trên tháp Bà Nha Trang (tháp nhỏ) trơn láng, uyển chuyển đường nét, như từ quá khứ hiện về lồ lộ qua khối gạch rêu phong, ta chỉ có thể hiểu rằng nó đã được thực hiện lúc cái nền còn là đất mềm, không quá mềm để chảy nhão ra, còn chịu đựng được sức nặng chồng lên theo một chừng mực tính toán nào đó, chạm hình xong người ta mới nung toàn thể - hay từng phần của toàn thể lên, để cố định hình dạng. Mà thôi, đừng lấn sang chuyện người khác!]
Chỉ có thể thấy là người Chàm cho đến nay không biết đến bàn xoay để làm vò hũ, nồi trả, nói chi đến làm đồ sành cao cấp. Trên tháp Chàm không hề thấy vật dụng sành sứ gắn theo như trên lăng vua Khải Định! Gốm Gò Sành có dấu gạch/ngói (tiles) tráng men mà không thấy trên tháp Chàm, trước nhất là loại hiện diện trong vùng Bình Định, vốn được cho là xây cất trong các thế kỉ XI, XII, XIII (không đến 20 năm cuối của thế kỉ này vì tình hình chiến tranh với Nguyên.) Những di vật gốm Islam, Tống, Minh, cả gốm thời Lê cũng tìm được nơi này nhưng nhà khảo cổ không cho ta thấy tính chất bộ phận của chúng trong các tháp. Các cấu trúc phụ thuộc khác (nhà ở, thành phần kiến trúc cần thiết cho hành vi tế lễ…) bây giờ không còn nữa để được suy nghĩ thêm. Gốm tráng men celadon là chuyên ngành của người Hoa, là chứng tích riêng biệt của gốm Tống, Nguyên kế tục Tống. Tất nhiên tới địa phương khác đất gốc nó phải có ứng biến đổi thay mà vì chúng ta chỉ phát hiện được vật-câm, nên chỉ có thể đoán mà thôi. Gốm Gò Sành (tên khoa học nên không cần thay đổi) được gọi là gốm Chàm vì xuất hiện trên đất Chàm xưa, nhưng là của những người Tống lưu vong sản xuất, chủ cũng như thợ, không cần phải chỉ là thợ, và thợ không phải không có người địa phương được mướn vào làm – tên gò Hời còn lại cũng là thêm một bằng chứng. Dấu vết thế kỉ XI mà học giả thấy trên gốm của họ là di chủng của quá khứ (thế kỉ XI còn là của thời đại Tống) bởi vì đã không thấy chúng trên các tháp ở Bình Định / Vijaya, nghĩa là chúng chỉ xuất hiện trong thời bình v�! �� sau, sớm nhất là những năm cuối thế kỉ XIII, qua thế kỉ XIV, thời gian tương đồng với phỏng đoán của các nhà khảo cổ học. Gốm đó là chứng tích của một tập đoàn dân tộc bỏ chạy đến đất Chàm, có kẻ bị giết vì sự xung đột của các đối phương nơi họ sống gây vạ, trong đó không phải họ không có phần trách nhiệm, cuối cùng một lớp người bám trụ được, như bà con họ ở tất cả các nơi khác, và đem lối sống, kiến thức kĩ thuật từ quê gốc, thực hiện trên đất mới. Họ vẫn phải làm một vài vật dụng của địa phương theo sự thích ứng với nơi ở mới, như những cái Kala còn để lại cho thấy, nhưng rõ ràng không phải là một bộ phận khắng khít với truyền thống nơi họ nương tựa. Những con người đã chết, những kết quả phi vật chất đã tan biến, hoà lẫn với địa phương không còn có thể nhận ra, nhưng dấu vết vật chất thì khó huỷ hoại: Các đồ gốm sành cao cấp đã theo thương thuyền đi khắp thế giới, và còn lại nơi dấu vết các lò nung sụp đổ, chìm lấp.
Với cung cách luồn lách trên đất lạ để tồn tại, tạo thịnh vượng còn được chứng kiến đến tận ngày nay, tập đoàn lưu vong đó có thể thoát qua biến cố xung đột Chàm Việt, rồi khi đất thuộc về Việt, họ lại luồn lách qua các thủ lãnh địa phương mà chúa Nguyễn nuôi dưỡng bằng cách thu tiền phong chức như Lê Quý Đôn còn thấy. Tiền mua chức của các thổ hào hẳn không sai chạy là có sự đóng góp của các chủ lò sành sứ trong vùng. Con cháu họ tàn tạ dần theo sự chuyển hướng dòng thương mại chung, hoặc mua ruọng thành địa chủ, hoặc thuê ruộng thành tá điền trở thành người địa phương, hay cùng với những lớp người sau, đóng chốt ở các “thị tứ” Nước Mặn, Cảnh Hàng, Đâp Đá (có Canh Hãn xã, Thạch Kiều trên bản đồ 1774), An Thái theo dọc sông Côn từ dưới biển lên nguồn Tây Nguyên… Không biết có nhà cổ tiền học có khả năng nào chịu khó nhìn vào đống tiền đồng – vẫn các niên hiệu Tống nhiều nhất, không thấy dấu vết triều Nguyễn, đang được cất giữ ở nhà Bảo tàng tổng hợp Bình Định để đưa thêm một suy ngẫm về tình hình thương mại thời chúa Nguyễn trở về trước của vùng này không. Chịu khó một chút mới có thể tìm thêm kiến thức còn không, cứ lấy (tiền đồng) của người làm (tiền đồng) của mình thì vẫn chỉ là ngông nghênh với nhau mà thôi.
Một dấu vết về sản xuất gốm như thế cũng thấy ở Đại Việt tuy khuất lấp hơn vì ở đây đã có truyền thống bàn xoay, gốm sành sứ trước Trần, không đợi đến người Tống bỏ xứ lưu vong vì quân Nguyên. Người ta thấy gốm Trần có loại hình Long Tuyền của Trung Quốc. Gốm Gò Sành ở Đại Làng, trong con thuyền đắm ở Pallawan cũng nằm chung với gốm Long Tuyền. Khu sản xuất Chu Đậu chìm khuất, chỉ mới phát hiện từ 1984, được cho rằng có đời sống từ thế kỉ XIV, phát triển và tàn tạ chung một nhịp với Gò Sành gợi ý ra một ảnh hưởng cùng thời. Và cùng loại với Chu Đậu còn có Thanh Khơi, Hợp Lễ… Dù có những rối loạn triều chính, đất nước Đại Việt sau hồi thắng Nguyên cũng tiếp tục đi theo những bước phát triển riêng của nó. Triều đình Nguyên với cái chết của Hốt Tất Liệt (1293), bãi bỏ lệnh chinh Nam (1294), đã trở thành giải đãi, dịu bớt sức hăng của thời ở sa mạc. Cho nên Chu Đạt Quan đi sứ Chân Lạp (1296) đã chỉ quan sát xứ sở đó như một du khách (9) chứ không xoi mói như một sứ thần nước lớn. Khuôn mẫu tổ chức chính trị, xã hội theo mẫu hình Trung Hoa đẩy từng lớp nho sĩ Đại Việt vào triều nhiều hơn theo với các kì thi, với nhu cầu giảm dần gia thần của các vương hầu Trần. Cho nên đến năm 1323 thì sử quan nho gia thấy đầy phấn khởi: “Nhân tài rộ nở”. Cũng năm 1323 đó, lính Trần bỏ xăm hình rồng, đoạn tuyệt với một truyền thống. Người nhiều hơn chức nên mới có ông Thiên chương học sĩ Nguyễn Sĩ Cố đã nói, và Nhân Tông mới phàn nàn với ông con (chuyện năm 1320): “Cái nước bằng bàn tay mà sao phong quan tước nhiều! thế!” Và theo lời Nghệ Tông (1370), vào khoảng năm Đại Trị (1358-1369) “bọn học trò mặt trắng được dùng, đem phép cũ của tổ tông thay đổi theo tục phương Bắc… nhiều không kể xiết.”
Điều đáng chú ý ở đây là cũng năm 1323 đó có việc đúc tiền kẽm, không nói rõ tên nhưng chắc là lấy theo niên hiệu đương thời: Đại Khánh, Khai Thái. Việc đó chỉ thực hiện được một năm thì huỷ bỏ chứng tỏ người ta thấy bất lợi – có thể là không cạnh tranh được với tiền đồng, hay đã bắt đầu gây khủng hoảng tuy chưa mạnh như với chúa Nguyễn thế kỉ XVIII sau này. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ là một nhu cầu có thật đã xuất hiện theo với sự phát triển thương mại trong vùng, bởi vì sau niên hiệu Khai Thái ta có niên hiệu Đại Trị đã đúc tiền đồng hiện nay còn lại trong sưu tập với số lượng tương đối lớn, nhiều kiểu dáng, nhiều hơn hẳn các niên hiệu khác của Trần. Thế rồi sự phát triển của sản xuất, thương mại tuy không đưa đến sự xoá bỏ tầng cấp xã hội nhưng cũng làm dịu sự cách biệt. Con ông vua lê lết đến chơi nhà ông gia thần (Phạm Ngũ Lão), ông vua (Dụ Tông) đánh bạc với nhà giàu trong dân, ông Trần Khắc Chung ngay lúc còn mang họ Đỗ khuất lấp đã khiến hình quan không dám xử em mình, đến lúc chen vào tông tộc quý hiển của đất nước, làm “Thủ tướng”, lại khen vợ con “quân nhân” biếu món ăn ngon, Trương Hán Siêu làm quan đề cử của vua trông coi chùa lại gả con gái cho người nô của chùa… Họ Trần từ bỏ vai trò chủ ruộng của Lí, lên làm chủ nước nên để người thay mặt trực tiếp trông coi ruộng đất, tích trữ làm giàu, tìm cách bứt phá khỏi tầng cấp xã hội dành cho họ.
Trên vùng có sách sử ghi chép, bằng cớ ảnh hưởng của quân lưu vong Tống tỏ rõ rộng lớn, sâu xa hơn ở đất Chàm. Dấu vết của nhóm người Tống không phải chỉ ở tầng lớp trên của Đại Việt mà đã đem ảnh hưởng chồng chất thêm một lớp văn hoá của mình trên một nơi thờ cúng địa phương. Từ biến động kinh hồn của trận chiến Nhai Sơn (1379), tác động đến Đại Việt như sử quan ghi “Qua 7 ngày có đến hơn 10 vạn xác chết nổi lên mặt biển”, cửa Cờn của Nghệ An vốn là một nơi thờ cúng cá Ông (voi), đã trở thành chỗ bà cung phi Tống hiển linh đoạt quyền thần Po Riyak, không nổi sóng lớn, giúp cho Trần Anh Tông đem quân đánh thắng Chiêm Thành (1312). Rồi hai thế kỉ sau, lại thêm ông Hùng Vương XIII giữa-trời chen vào thành một thứ thần pha trộn, đủ để thờ, để sợ mà không cần thắc mắc đến gốc gác nơi đâu. Giống như xa tận về phía nam, một đền thờ thần Balaha của Thuỷ Chân Lạp chuyển qua thần Bạch Mã của Việt lại trở thành chùa Ông Bổn, giằng co giữa Thành hoàng (bổn cảnh) và Thái giám Trịnh Hoà!
Có tướng đầu hàng đánh trận giúp chủ mới cho đến chết (Trương Hiển 1298), có người đem trò du hí (Đinh Bàng Đức) góp vui thêm cho cuộc sống dân dã. Trâu Tôn về hàng, chữa bệnh cho các vương hầu trở thành giàu có. Con là Trâu Canh vào cung mà khả năng chuyên môn – như một sexologue trước thời đại, đủ sức cứu bản thân dù có làm liều: Cứu thái tử khỏi chết, chữa bệnh liệt dương cho vua, không những bằng thuốc mà còn bằng ngôn từ lí thuyết, chỉ dẫn thực hành (“hay dùng những câu kì lạ, những kế quỷ quyệt để dụ” Dụ Tông, chuyển phương pháp chữa trị qua bà công chúa chị Thiên Ninh), “đụng” đến cung nữ mà khỏi chết, còn truyền trong dân gian rằng lẩn khuất ở bờ ao, bờ mương đâu đó có sợi dây leo “tăng cường sinh lí”. Và cuối cùng, nhưng chưa hết, có người phường hát Lí Nguyên Cát mang đến đất Việt lối “tuồng truyện” đã quyến rũ danh tướng Trần Nhật Duật “không ngày nào không mở cuộc hát xướng, làm trò”, lối du hí đã đi vào cung, suýt lật đổ triều đại sớm hơn 30 năm, với con của người đào hát: Dương Nhật Lễ.
Có thể nghĩ rằng việc cải cách âm nhạc, ăn mặc theo lối người Bắc của nhóm nho sĩ vào triều năm 1323 cũng có đà từ sự hiện diện của nhóm Tống lưu vong, nhưng lối “cải cách không kể xiết” đó đã gây phản ứng bất lợi. Sự suy tàn của gốm Chu Đậu có vẻ trùng hợp với chính sách “dân tộc hoá” cụ thể bằng lẹnh trở về thời Khai Thái của Nghệ Tông (1370), của lệnh cấm ăn mặc theo lối người Bắc (1374) đã chận nguồn tiếp tế nhân lực, kĩ thuật từ ngoài vào. Sự suy tàn của gốm Gò Sành lại có lẽ là do nguyên nhân biến động địa mạo nơi này. Nhà khảo cổ ngày nay thấy một khu lò bị bỏ vì con đường nước ra sông lớn bị bồi lấp. (10) Nhìn ở tầm mức rọng hơn cũng thấy có hiện tượng tương tự. Đường nước thông ra biển: Sri Banoi / Chiêm Thành Cảng / cửa Tì Ni / cửa Nước Mặn đang trên đà cạn dần. Đã có vùng đất bồi sau này mang tên Gò Bồi, quê mẹ Xuân Diệu, xuất hiện xa hơn Nước Mặn về phía đông (vì dòng chảy đã yếu đi?) chăn lối ra biển trong khi các đụn cát dồn lên từ phía bờ đông nối hòn đảo có núi Rổ Đó Khổng Lồ của “…Bình Nam đồ” thành bán đảo Phương Mai ngày nay. Lại cũng có thể nghi ngờ sự lấp cảng không hẳn chỉ vì yếu tố thiên nhiên mà là có sự can thiệp của con người. Chiến tranh từ cuộc nổi dậy của Tây Sơn đã gây sự tàn phá nội địa, làm cho thuyền bè xa lánh, cảng khẩu bỏ luống, không có sự chăm sóc của con người… Chứng cớ rõ rệt là trên bản đồ 1774, Nước Mặn là “hải môn thâm” thế mà khi phái đoàn Macartney đi ngang qua (1793) nó chỉ còn là một lạch nước nhỏ và biến ! mất trên bản đồ 1801 của L. Barizy. Phải nói đến tác động của địa mạo vì sự phát triển của gốm Gò Sành không thấy có nguyên nhân lụn bại vì yếu tố chính trị mà có thể nói nó đã là yếu tố xây dựng triều đại vinh quang cuối cùng của vương quốc Chiêm Thành: triều đại Chế Bồng Nga. (11)
Kì lạ, không thấy dấu tích trên đất Chàm tên ông thủ lãnh khi tiến quân ra Thăng Long đã làm cho vua tôi Việt khóc lóc chia tay, kẻ được lệnh đánh giặc, người chạy trốn theo tiền của cất giấu. Không thấy một bia Chàm nào mang tên có thể xác nhận tương đương với Chế Bồng Nga của sử Việt. Niên giám Hoàng gia của Chàm đưa ra tên (Po) Binosuor nhưng niên đại thì không giống: 1328-1373. Người ta đã chỉ cho chúng tôi một vùng cát trắng ở (Hoà Đa?) Bình Thuận, bảo rằng nơi đó có mả một ông vua không được nằm trong các đền miếu thờ cúng, vì mất đầu. (12) Chi tiết đó có vẻ hợp với Chế Bồng Nga bị Trần Nguyên Diệu cắt đầu định đem về Trần lập công chuộc tội, nhưng nếu như thế thì lớp tro được La Ngai đem về chôn trong nước phải ở Bình Định / Vijaya chứ sao lại là Bình Thuận? Tuy nhiên dù coi Chế Bồng Nga đã đem đến giai đoạn cực thịnh của Chiêm Thành hay chỉ là tia nắng quái chiều hôm của lịch sử nước này, thì ông cũng là một nhân vật nổi bật chưa từng thấy trong tương quan Việt Chàm. Điều đó phải có lí do sâu xa từ trong hiện tình đương thời của đất nước này. Cả sử quan cũng phải ghi nhận: “Chiêm Thành từ đời Lê Lí tới đây, quân lính hèn nhát, hễ quân ta đến là đem cả nhà chạy trốn hoặc họp nhau khóc lóc xin hàng. Đến Bồng Nga, La Ngai mới tập họp dân họ lại bảo ban dạy đỗ, thay đổi dần dần thói cũ, trở nên can đảm hăng hái, chịu được gian khổ nên thường hay sang cướp, trở thành tai hoạ của nước ta.”
Sự kiện có những người nổi bật như thế thật đáng lưu ý để nối kết với một hiện tượng riêng biệt, vì vùng đất của “vương quốc” Chiêm Thành bị chia nhỏ theo từng khu vực sông ngắn, ngăn cách bởi những dãy núi đâm ra biển, khó cho sự thống nhất từ xưa. Hãy kể vào giai đoạn gần gũi là khi Anh Tông thân chinh (1312), ngoài “Quốc chủ” Chiêm Thành ở Vijaya còn có “trại chủ” Câu Chiêm (Kẻ Chàm?, Quảng Nam). Mối đe doạ của Nguyên còn khiến hai nước Chàm Việt phải giữ thế liên kết mà dấu hiệu rõ rệt là cuộc hôn nhân Huyền Trân – Chế Mân. Hai chốt gạch có chữ “trần” (Hán) tìm thấy ở Mĩ Sơn năm 2004 (và một chốt nữa của năm 2006) có thể là dấu hiệu một công trình xây cất công quả của Nhân Tông khi thăm Chiêm tìm liên kết (1301). Ông đã đi với tính cách một hoà thượng – “vân du” nên hẳn có vật biếu tặng Chiêm, và “quốc danh” Trần từng chỉ có trên các đồng tiền của vua (Nguyên Phong, Thiệu Phong…) không thể được sử dụng bừa bãi, trên đất lạ cũng phải là chỉ dấu của “quốc gia” / vua. Sức ép của phương Bắc yếu đi dẫn theo sự liên kết lơ là của hai nước, huống nữa tầng lớp nho sĩ đang lên sau chiến tranh nâng cao thêm ý thức tự tôn của Việt, cho nên sau khi Chế Mân chết là xung đột tiếp tục xảy ra. Chiêm vẫn bị đàn áp, phải “chạy trốn hay khóc lóc xin hàng”. Tiến trình vực dậy phải qua sự phát triển thương mại, dấu hiệu là ở cửa biển chính Tì Ni, là “bến tàu xung yếu… nơi tụ tập người buôn bán (tuy) phức tạp” nhưng vẫn có tổ chức với “viên c! oi cảng” mà Đoàn Nhữ Hài ranh ma hù doạ (1303).
Khảo cổ học ngày nay cho ta thấy món hàng chính là “gốm Gò Sành” tung ra khắp thế giới. Tổ chức sản xuất gốm cao cấp đã mang tính cách phức tạp, đòi hỏi kĩ thuật cao, kỉ luật nội bộ, đưa lên thành món hàng quốc tế lại còn phải thêm kiến thức về giao dịch, tất cả là nền tảng của một vùng Vijaya phục hưng mà Đoàn Nhữ Hài không thể thấy đến chi tiết được. Sự buôn bán phồn thịnh trên mặt biển làm đà cho việc tạo dựng một lực lượng thuỷ quân hùng mạnh. Sự bình yên này lại kéo theo nhiều sự thịnh vượng khác, trong đó có nghề đánh cá. Thầy giảng Ý Odoric de Pordenone (không đến Champa) ghi chuyện vào thế kỉ XIV rằng có “một điều rất kì lạ, là mọi loài cá trên biển đều đến đây, tựa như người ta không thấy gì trên biển ngoài cá cả…” Nhà du hành A Rập Ibn Batutah đến Panran cũng nói: “dường như tất cả các loài cá đều tụ tập ở đây”. Sự dồi dào đó còn thấy dưới thời chúa Nguyễn, trên tấm bản đồ “Giáp ngọ niên (1774)…” có vẽ tháp Phố Hài (Phan Thiết) như cái tháp chùa 9 từng, có ba con cá quay đầu về tháp với ghi chú “Mỗi năm ngày tháng 5, bọn cá quay đầu chầu về tháp”. Và dân Việt đến thay thế, ngày nay cũng vào khoảng thời gian ấy có tế lễ, có hội Cầu ngư, chỉ khác là dùng phương tiện văn hoá của mình: hát Bả trạo. Trên nền tảng của sinh hoạt phồn thịnh đó là vai trò của những cá nhân nổi bật, biết thu tóm sinh lực chung để phục vụ cho tham vọng riêng của mình: Chế Bồng Nga, La Ngai như sử quan đã nêu ra.
Sự hồi phục của Chiêm Thành trở lại lần đầu qua nhiều thế kỉ là trận đánh thắng quân can thiệp của Trần đưa Chế Mỗ về nước tranh quyền (1352). Không thấy bóng dáng Chế Bồng Nga nhưng đã thấy hiện tượng lính Chàm “thay đổi dần dần thói cũ, trở nên hăng hái…” Không thấy mặt Chế Bồng Nga nhưng đã thấy quân Chàm cướp phá châu Hoá (1362) sau năm tấn công Dĩ Lí xa hơn về phía bắc (1361). Và đòi đất cũ, đánh tan quân Trần ở Quảng Nam (1368). Đó là lí do, sau khi thanh toán nội bộ (Dương Nhạt Lễ 1370), Trần Duệ Tông với nhiều năng động hơn, đã tiếp tục thanh lọc nội bộ theo lệnh chỉ cấm nói tiếng Chiêm (1374) khiến đám nô Chàm từ đây mất tính cách riêng biệt họ giữ được trên hai, ba trăm năm nhờ sự buông lỏng của Lí. Và ông chuẩn bị tấn công Vijaya. Ông thất bại, chết trên chiến trường (1377) để quân Chiêm tràn ra ào ạt, liên tục (1377, 1378 cướp Thăng Long, 1380, 1382, 1383) đưa tên Chế Bồng Nga xuất hiện trong sử Việt (1380), tung hoành đến khi chết (1390) mà không để lại dấu tích nào ở quê hương mình, khác với những đảo lộn gây ra trên đất Bắc.
Với sử quan mang tinh thần nước lớn miệt thị phiên liêu thì những dòng khen Chế Bồng Nga như trên đã là quá nhưng sự lấn lướt của Chiêm trong thời gian này có vẻ còn trầm trọng hơn các sự kiện được ghi chép. Trong trận phản công 1378 sau khi thắng Duệ Tông, Chế Bồng Nga đem các tôn thất Trần bị bắt, trở cờ, lập một triều đình nguỵ chiêu dụ dân Việt. Người nổi bật là Trần Húc, con Nghệ Tông, cưng đến mức mang tên là Con ngựa non của Vua / “Ngự Câu Vương”, khi lấy vợ được cha tự thân đón dâu khiến sử quan phải chê trách. Bên cạnh Chế Bồng Nga còn có các tôn thất Trần khác. Toán quân nguỵ đánh ra đã khiến gây dao động phe phía: Sử quan nói đến “dân Nghệ An ăn ở hai lòng còn dân Tân Bình, Thuận Hoá thì phần nhiều làm phản theo Chiêm Thành”. Toán người này khi bị thua (Trần Húc bị chiêu dụ trở về bị giết) thì có người chạy sang Minh cầu cứu (Trần Thiêm Bình) gây mối loạn lan cả về phía bắc. Quân Chiêm không phải chỉ đánh ra rồi rút về theo loại chiến tranh Gíó mùa truyền thống mà còn có dáng đã chiếm đóng dài lâu. Họ có mặt thường xuyên ở vùng Thanh Hoá, mùa đông năm 1389 vẫn còn tiến công chứ chưa chịu rút về theo gió bấc. Khi có người bội phản chỉ thuyền Chế Bồng Nga cho quân Trần bắn thì vua Chiêm bị chết chứng tỏ đó là nơi dọn làm chỗ đồn trú cố định. Và quân La Ngai kéo về lại không đi đường thuỷ mà theo đường bộ chứng tỏ quân bộ, phần quân mang nhiẹm vụ chiếm đóng đã có đội ngũ rành rẽ. Nhưng dù thất bại, vai trò nổi bật của Chế Bồng Nga làm suy yếu nhà Trần đã suy yếu sẵn cũng góp phần tạo dựng con ngư�! �i thay thế họ Trần: Lê (Hồ) Quý Li, người làm nổi lên vùng Trại bên lề các chính quyền Thăng Long.
Với con người này là bắt đầu một thế lưỡng cực bắc nam của Đại Việt cứ kéo dài mãi vì khả năng quản trị đất nước của các triều đại tiếp theo đã không theo kịp với lãnh địa bành trướng. Hồ Quý Li đem thêm một “đô” – Tây Đô để đối chọi với Đông Đô, Thăng Long cũ, đưa một lượng người lớn về phía nam để làm quân bình đất nước có đô mới ở trung tâm. Hiểu biết xa về phía nam từng được Lê Tắc ghi nhận “Chiêm Lạp Vương, Cầm Bồ Gia” (Cambodgia / Kampuchia, người xưa chép sách ngắt câu thành: “chiêm lạp, vương cầm, bồ gia”.) Không biết đó là do kiến thức ông có từ quê nhà (1285) hay thêm mới từ Trung Quốc. Nhưng trong trận chiến với Ai Lao ở Nghệ An 1335, Đoàn Nhữ Hài đã biết đến Mekong / “sông lớn” Tiết La mà ông dự tính “sau khi thắng trận, bắt được tù binh theo dòng xuôi xuống, đi qua Chân Lạp và các nước phiên khác, diễu võ giương oai, dụ bảo con em các nước ấy vào chầu…” Mộng tưởng không thành vì thất trận, chết đuối nhưng đã mở đường kiến thức cho Hồ Hán Thương năm 1404 dự tính lấy hết đất Chàm (Bản Đạt L[R]ang – Pandaran), luôn phần Chân Lạp (Hắc – vùng Tức Khmau / Cà Mau?, Bạch / La Bích / Lovek?, Sa Li Nha?) đến giáp giới Xiêm La.
Việc khai thác phía nam cùng với những biến động tự trị một phần do ảnh hưởng quân Chiêm phục hồi đã làm nổi lên những thổ hào thiểu số gốc Thái. Ở trung châu phía bắc các tập đoàn này bị chận lại vì các cuộc viễn chinh của triều đình, nhưng có vẻ nơi phía nam, tộc đoàn Thái đã lấn lướt nhiều hơn chỉ vì Trần, “người Miền Dưới” tuy có khả năng nhưng cũng gặp phải giới hạn của mình. Điều đó chứng tỏ ở những trận thua vùng Nghệ An (1334-36) vì quân Trần đã xa Thăng Long mà còn lấn qua đến Mekong như đã thấy. Và lệnh cấm “nói tiếng Lào” hẳn là do tình hình lấn lướt chủng tộc này. Tuy nhiên ở phía bắc, nhóm Thái gần với Trần nên có tên riêng (Ngưu Hống) trong sử còn ở phía nam khuất lấp, họ chỉ là những nhóm vô danh theo các triền sông đi xuống các đồng bằng phía đông, lẫn lộn với các tập đoàn thiểu số khác, chịu nói tiếng Việt, việt hoá / trung châu hoá với các họ Phan, Phạm, Trịnh, Hoàng, ẩn giấu theo liên hệ hôn nhân tộc đoàn cả bên trong các họ Lê, Nguyễn của Mường nữa… Vị thế lãnh đạo trên trước của họ lại vẫn không mất trước đám dân gốc Việt tại địa phương nên với triều đình, họ là “thổ hào” nhận chịu chức tước cai trị, quản lĩnh binh lính trong vùng, có trường hợp đủ sức chen vào triều chính Hồ-Trần như Phan Mãnh (1391) – thất bại. Sức mạnh thiểu số đơn lẻ không làm họ thành đạt cao hơn nhưng khi gặp cơ hội phối hợp với các lực lượng khác thì có kết quả khả quan đến tột đỉnh. Đó là trường hợp thành công của nhóm Mường Thái Lam Sơn trong công cuộc chống ách đô hộ nhà ! Minh, kết thúc vào năm 1428.
11-06
(1) Lê Tắc, An Nam chí lược, Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam, Viện Đại học Huế xb. 1961. (2) Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm, Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỉ XIII, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội 1975. (3) Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh 2006. (4) Donald Stone Macdonald, The Korean – Contemporary Politics and Society, Westview Press 1990, 179. (5) Nxb. Thông tấn 3-2006. (6) Xem thêm Phạm Thị Xuân Khải, “Mùa xuân nhớ Bác”, tự sự của tác giả, Nxb. Thông tấn 12/2006, nhất là các trang 170. 171. (7) P. Hattaway, Operation China, Piquant, California 2000, mục “Vietnamese”. (8) Yoji Aoyagi, “Production and Trade of Champa Ceramics in the 15th Century” in Commerce et Navigation en Asie du Sud-Est (XIVe-XIXe siècle), Nguyen The Anh &Yoshiaki Ishizawa eds., L’Harmattan 1999, 91-100. Tạp chí Xưa và Nay, số 280, tháng 3-2007 có nhiều bài về gốm Gò Sành, trong đó đáng chú ý là các mặt Kala đất nung nói là có xuất xứ từ gò Sành, nhưng suy luận của tác giả bài viết lại dẫn đến Mĩ Sơn của thế kỉ XII. Tất nhiên thợ gò Sành vẫn có thể làm mặt Kala cho việc thờ cúng của dân địa phương được như thường. (9) Châu Đạt Quan, Chân Lạp phong thổ kí, bản dịch của Lê Hương, Kỉ Nguyên Mới xb. Sài Gòn 1973. Hay của Hà Văn Tấn, Nxb. Thế Giới Hà Nội 2006. (10) Trịnh Cao Tưởng, Nguyễn Tiến Đông, “Thông báo sơ bộ kết quả khai quật khu lò gốm cổ Gò Hời (Bình Định)” trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 2002, Nxb. Khoa học Xã hội 2003, 836. (11) Li Tana “A View from the Sea: Perspectives on the Northern & Central Vietnamese Coast” in Journal of South-East Asian Studies 37 (1), Feb. 2006, 96) ghép liền cao trào sản xuất gốm ở Đại Việt ! với sự hưng khởi của Chiêm Thành dưới thời Chế Bồng Nga: “… it is notable that the flourishing of Viet ceramics during the fourteenth century coincided with the heyday of Champa, under the king known as Chế Bồng Nga.” Lúc này bà đang bàn về Việt Nam nên nhấn mạnh đến Chu Đậu mà nhắc Gò Sành một cách thoảng qua: “Vietnamese wares have… been found in… Cham ceramics from Go Sanh have been found in these same locations.” Nhưng đó là bà nhìn sự trỗi dậy của Chế Bồng Nga theo với nền thương mại thế giới (ở đây là qua vật phẩm gốm) trong vòng tay thương nhân Hồi Hột (theo bà là người Tống Islam) chứ không bàn đến vấn đề gốc sản xuất là của Tống lưu vong. (29-12-06) (12) Có thể vì lâu ngày chúng tôi đã lầm hay vì người địa phương trong chiến tranh đã xác định mơ hồ. Theo ông Ngô Văn Doanh (Lễ hội chuyển mùa của người Chăm, Nxb. Trẻ 2006, 160, 167, 168) thì mộ của Chế Bồng Nga / Pô Bil Thuôr (chỉ có cái đầu là một tảng đá lớn) nằm về làng Bình Nghĩa của người Chăm Bà La Môn, thuộc xã Phương Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Môn, thuộc xã Phương Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận. 2007)
HẬU CHẤN CỦA “TRẦN” 1 15.12.2006-Đoan Hùng Góp ý về bài “À Trần, Mai Kiện, Hồi Hột – Phía khuất của sử-được-ki” Ông Tạ Chí Đại Trường cho rằng “Sự suy tàn của gốm Chu Đậu trùng hợp cới chính sách “dân tộc hoá” cụ thể
bằng lệnh trở về với thời Khai Thái của Nghệ Tông (1370), của lệnh cấm ăn mặc theo lối người Bắc (1374) làm cạn kiệt nguồn tiếp tế nhân lực, kĩ thuật từ ngoài vào”.
Ở đây tôi e rằng có một sự nhầm lẫn nào đó về niên đại hoặc có thể ông dùng thuật ngữ “gốm Chu Đậu” khác với cách hiểu thông thường chăng? Gốm Chu Đậu để chỉ dòng gốm xuất hiện cuối thế kỉ 14, lên đỉnh cao ở thế kỉ 15-16 và suy tàn ở thế kỉ 17. Di vật tuyệt đẹp, có tính “quốc tế” của dòng gốm này là chiếc bình được trưng bày tại Bảo tàng viện Topkaki Sary, Istambul. Niên đại của nó (1540, Lê Nhân Tông) không cần phải đoán định phức tạp vì may mắn là người hoạ sĩ… cao hứng viết trên bình: Thái Hoà bát niên, Nam Sách Châu, tượng nhân Nam Sách Bùi thị hí bút”, một điều hi hữu đối với gốm Việt. Như thế khi Trần Nghệ Tông ra cái lệnh đầy tính “dân tộc” năm 1370 thì gốm Chu Đậu mới tập tễnh biết đi, hoặc cũng có thể là… chưa có! Ai chả biết rằng tính dân tộc quá khích có thể làm hại kinh tế đến dường nào, một sự thật nhãn tiền! Tuy thế, “mượn xưa nói nay” mà không sát lịch sử thì có thể vừa không “đạt” vừa ảnh hưởng không lấy gì làm hay với một sử phẩm nghiêm chỉnh. Về cái nhìn Lê Tắc là “phản quốc” và sự “chà đạp” ông ta, thì có thể không phải chuyện “copyright by”… sử thần cộng sản. Trong bài giới thiệu bản dịch An Nam chí lược của Trần Kinh Hoà, Viện Đại học Huế 1960, linh mục Cao Văn Luận viết: “Nói về cuốn An Nam chí lược ai ai cũng biết soạn giả Lê Tắc là một tên phản bội với Tổ quốc. Trong lúc nước nhà đang gặp ngoại xâm, xã tắc nguy cấp, nhân dân đau khổ, Lê Tắc cùng bọn Trần Kiệm (1), Trần Ích Tắc, không những kh�! �ng phấn đấu để cứu nước cứu dân, trái lại nhẫn tâm làm tôi địch. Hơn nữa trong bộ An Nam chí lược, Lê Tắc quên mình là người Việt, dựa vào lập trường và quan điểm người Nguyên để soạn tập. Chẳng hạn như những lời nịnh nọt a dua của soạn giả, những đoạn văn kiêu ngạo tự tôn tự đại trình bày trong các chiếu chỉ của nhà Nguyên và trong các bài tựa các danh nhân hồi ấy, điều khiến chúng ta vô cùng uất ức và đau đớn.” Cách nhận định về Lê Tắc kiểu đó, có thể sai lầm quá khích chăng! Dẫu sao nó không có tính “Ý thức hệ”… quốc cộng!
(1) Người viết nhớ lộn nên nói lịu tên Bùi Kiệm của Nguyễn Đình Chiểu chăng?
18-12-2006 Tạ Chí Đại Trường Trả lời ông Đoan Hùng Xin cảm ơn về những nhận xét của ông, nhất là trong câu trích ra về gốm Chu
Đậu. Tôi không phải là nhà khảo cổ học, càng không là chuyên viên về gốm nhưng có đọc sách đã viết, như người dùng một chuyên ngành khác cho việc của mình. Vì thế tôi cũng nghe nói đến cái bình gốm 1450. (Hình như tác giả lỡ tay viết lộn 1540.) Có lẽ vâng lời ông tôi sẽ đổi khác câu viết trên nhưng cốt cán của vấn đề là tôi không cố ý cho rằng gốm Chu Đậu chỉ là của dân Tống lưu vong. (Thời gian quá dài với chi tiết bằng cớ qua hiếm hoi để hấp tấp kết luận.) Xin đọc một câu khác của tôi: “Một dấu vết về sản xuất gốm như thế cũng thấy ở Đại Việt tuy khuất lấp hơn vì ở đây đã có truyền thống bàn xoay, gốm sành sứ trước Trần, không đợi đến người Tống bỏ xứ lưu vong vì quân Nguyên…. Khu sản xuất Chu Đậu… được cho rằng có đời sống từ thế kỉ XIV, phát triển và tàn tạ chung một nhịp với Gò Sành, gợi ý ra một ảnh hưởng cùng thời… (Tôi mới nhấn mạnh trong lần chép lại này.) Chính trong bài viết của ông cũng cho thấy đời sống gốm Chu Đậu kéo dài trong khoảng các học giả Nhật định cho gốm Gò Sành. Vấn đề cũng như nhắc chuyện Trâu Tôn, Trâu Canh không có nghĩa là trước khi có các tù hàng binh Nguyên này thì vua Lí Trần lúc ốm đau chỉ vật vã nằm chờ chềt. Còn ưu thế chữa trị vượt lên người đương thời của Trâu Canh trong triều Minh Tông thì rõ ràng là điều không thể chối cãi. Phải nhắc thêm những người đó là vì ngưới ta chỉ ưa nói chuyện Tuệ Tĩnh (mà lại không biết thuộc thế kỉ XIV hay XVII) hay Lê Hữu Trác, thời gian mà Toàn thư còn nhắc đến con cháu Trâu Canh và trong dân gian có chuyện sợi dây leo ở bờ ao l�! �m “tăng cường sinh lí.” Chuyện sản phẩm Chu Đâu đời Lê thì lại qua thật xa lúc khởi đầu nữa, của một thời thuộc Minh, lại cũng gợi ý thêm về một lớp tù hàng binh mới. Gốm là “vật câm” như tôi đã nói (cái bình 1450 kia vẫn được người ta cho là điều hãn hữu) nên sự suy đoán đặt vào một khung hạn hẹp, chặt chẽ với dấu vết rời rạc, lỏng lẻo thật khó thuyết phục người. Nhất là với những người không muốn tin. Cái thành Cổ Loa còn đó! Ông Đào Duy Anh ở vào thời kì nhiệt tình dân tộc đưa ra đầu mũi súng không nói làm gì, chứ tôi chỉ bước theo, lại vào thời kì cầm passport đi ngoại quốc như đi chợ mà cũng không thấy biết đến đời kiếp nào cái thành đó được trả về cho chủ cũ.
Vả lại, nói đúng ra chuyện Chu Đậu chỉ là thoáng qua của một ý định lớn hơn, tuy càng khó thuyết phục hơn, là giải thích vấn đề Chế Bồng Nga, vấn đề sự hưng khởi của vương quốc Chiêm Thành trong phần sau của thế kỉ XIV. Không có tài liệu viết tay của đương thời thì dùng một phát hiện mới của khảo cổ học là gốm Gò Sành để, theo tôi, gỡ cái bí của sử học, khỏi phải “nhai lại truyền thống”, chán phèo! May cho tôi là con cháu Chế Bồng Nga bây giờ không đủ sức tức giận khi tôi cho rằng đám Tống lưu vong đã tạo sự phục hồi cho cha ông họ. Viết để có việc làm cho chân tay bại xụi rảnh rang, không nghĩ rằng mình buộc được ai phải nghe theo. Cho nên khi muốn theo kịp đời sống vài thế kỉ của gốm Gò Sành theo học giả Nhật thì phải nghĩ thêm ra chuyện các ông Tống kia (hay cả người mới tới tiếp) sẽ hành động ra sao đối với chính quyền chúa Nguyễn. Tuy có bám vào Lê Quý Đôn nhưng lại cũng là suy đoán mỏng manh, nên thấy càng khó thuyết phục người hơn. …
Tiếp theo là vấn đề Lê Tắc. Còn khó để khỏi mất lòng nhau hơn, bởi vì đã thấy ông dùng các chữ “sử thần cọng sản” và “ý thức hệ quốc cộng”. Về câu trích từ lời nói của linh mục Cao Văn Luận, không phải tôi không biết, quyển sách dịch đó qua bao nhiêu trôi nổi đang nằm cạnh tôi đây. Việc ông nêu nó ra làm căn cứ cho lập luận chê trách sự thiên lệch (và cả sự xấu xa) của tôi càng chứng tỏ chúng ta có cách biệt khá xa về quan điểm sống, về nhận định lịch sử. Ông có thể đọc lại những dòng tôi viết về vị trí của Lê Tắc trong nhà Trần Kiện nói riêng, về vị trí gia thần của nho sĩ đương thời đối với quý tộc Trần, nói chung hơn nữa về vị trí đương thời của họ Trần-làm-vua ở vùng đất họ vừa chiếm được của Lí và phải chống với quân Nguyên. Không đồng ý với tôi nói thì thôi, tôi không có ý định thuyết phục ông. Nêu bằng chứng từ ông Cao Văn Luận vẫn không thuyết phục tôi được, dù trong hàm ý ông có thể cho Cao Văn Luận là cùng “phe chính trị” với tôi – để giá trị đồng thuận của ông Cao Văn Luận với ông được cao hơn. Tôi không kẽ vạch ông Cao Văn Luận không phải vì không biết ông ta đã nói những gì mà chỉ giản dị vì trong khuôn khổ đang bàn, ông Cao Văn Luận không phải là đối tượng để đưa vào đối thoại. Chúng tôi được đào tạo trong một môi trường chỉ thừa nhận nói chuyện chuyên môn với chuyên viên mà thôi. Ông Cao Văn Luận là Viện trưởng Đại học chứ không phải là sử gia, quyền chức thì có nhưng chuyên môn sử học thì không. Các sử gia cộng sản (lạ, xưng là làm cộng sản mà cứ thấy ! mất lòng khi người ta dùng chữ “cộng sản”, chỉ ưa dùng các chữ lộn sòng “dân chủ cộng hoà”, “dân chủ nhân dân”, “xã hội chủ nghĩa” mà thôi) các sử gia trong nước có thấy tôi kì kèo cũng nên lấy làm hãnh diện là mình hơn ông Cao Văn Luận (nếu không ngại bị ghép với nguỵ), vì được đối xử như chuyên viên của một ngành khoa học, như một sử gia. Tôi thừa nhận rằng lối viết “tân hình thức” / “hậu hiện đại” tào lao của tôi dễ làm mất lòng lắm. Chỉ vì tôi nói cái phía mà người ta giấu để giương danh mình nhưng phía của tôi trình bày nhỏ nhoi quá, so ra làm sao bì được với hàng hàng lớp lớp, trùng trùng điệp điệp sách vở chính thức? Những người nằm trong vòng tay quyền bính chính thống không thường được nghe lời nói trái lại, cứ tưởng là mình nắm vững chân lí đời đời, đã làm hại cho ngành khoa học mà còn có khi dựa vào thời thế lấn lướt người khác để tiến thân, dù chỉ là kiếm một chút hư danh. Cứ khen Nguyễn Huệ thống nhất đất nước – ông Nguyễn Huệ đó khoái trá thì cũng được đi, lại chửi bới kẻ nào nói “không phải”, bắt chúng nó đi cải tạo, về vườn đuổi gà để chỗ cho mình chiếm, đến khi nhận ra sự thật trái lại thì cứ bình tĩnh nói ngược lại, không ngượng ngùng mà có khi còn hãnh diện là biết sửa chữa sai sót nữa! Có thể nhiều cá nhân không có ý nghĩ như thế nhưng ở trong một hệ thống tự cho mình có quyền làm sai thì phải chịu chung vậy, nhất là khi mình còn đang hưởng lợi thế từ đó, cả việc lợi dụng tình thế đó. Chính cái lợi thế đương quyền đó là �! �iều kh! iến sử gia trong nước phải lãnh trách nhiệm nhiều hơn đối với ngành mình nếu có người chỉ trích, lời chỉ trích càng nặng nề hơn khi lí lẽ được bảo vệ không nằm ở kiến thức mà là ở quyền lực, được phối hợp với quyền lực. Thấy trận Đống Đa vang danh quá mà sao không có tướng ở xứ mình tham gia liền sổ toẹt Đô đốc Long đem ông Đô đốc Đông lên hàng đầu, củng cố lịch sử mới bằng cách viết sách bắt học trò tụng niệm, đưa lên từ điển bách khoa, đặt tên đường tứ phương tám hướng, ai phản bác cũng không ngăn được “bước tiến của lịch sử” – núp bóng quyền lực thành công như thế thì làm sao chỉ nghe lời năn nỉ mà sửa chữa được? Bên ngoài nước không nên đi chỉ trích mấy cái hội nghị quyền tiền lập đền Hùng nhưng nếu thấy có ai mò mẫm mấy cái thành quả mtDNA để chứng minh sự hiện hữu của ông Lạc Long Quân và bà Ấu Cơ thì không nhịn được. Còn thấy ở các trường đại học trong nước cứ dạy 18 ông vua Hùng và bà Thái hạu Dương Vân Nga thì phải la to lên! (1) Có sự nặng nhẹ trong đối xử chỉ là từ thế nặng nhẹ của thành luỹ bảo vệ phản kích – hay từ cách nhìn vào sức ỳ của bảo thủ mà thôi. Hình như tôi đã bàn hơi xa chuyện ông Lê Tắc cụ thể, nhưng với tinh thần sử học yêu nước, bán nước thì chắc cũng không lạc đề lắm đâu. 16-12-2006
(1) Năm 2007, ngày 10-3 âm lịch (26-4-2007) bắt đầu cả nước nghỉ lễ Quốc tổ Hùng Vương theo trình tự dân chủ kiểu một cơ quan quần chúng yêu cầu và được Quốc hội chấp thuận, Chính phủ thi hành. Về mặt khoa học, đây là một bằng chứng về sự ngu độn nằm ở cấp bực cao nhất đất nước tuy Quốc hội vẫn chỉ là một cơ quan thừa hành. Báo chí đua nhau tán tụng, hãnh diện làm con cháu ông Tổ riêng của người Việt đa số mà không lưu tâm gì đến ông tổ của mấy mươi “dân tộc anh em” còn lại, chỉ cần biết hân hoan nhận lãnh “lộc Tổ” tự đền Hùng chia cho 64 (?) tỉnh thành như cung cách cai trị kiểu gia trưởng từ gia đình, làng xóm lên đến cấp bực nước / quốc gia thời WTO. Những người nhiệt tình ở Tp. Hồ Chí Minh đưa phản đối lên tờ Tuổi Trẻ về việc vào ngày thiêng liêng này mà lại đóng cửa đền Hùng trong Sở Thú không cho họ vào chiêm bái. Không ai cho họ biết rằng đền “Quốc tổ” này là cướp của một đền thờ lính bản xứ từng theo tiếng gọi Rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc, qua chết bên Tây! Cửa đền mà có mở thì con cháu vua Hùng thời mới chỉ lạy mấy ông ách, ông đội… thôi chứ làm gì có Tổ trong đó! Cũng như trong đền ở phía Bắc có thể chỉ là mờ mờ nhân ảnh mấy ông vác xà gạc đi rừng chứ làm gì có các ông Vương đường bệ cai trị 15 Bộ bát nháo trong sách vở!
28-5-2007 2 10-1-2007. Đặng Thế Đại Một hướng tìm hiểu vể bản chất tín ngưỡng thành hoàng làng … Năm 1898 [!?] cuốn Thần, người và đất Việt của Tạ Chí Đại Trường được xuất
bản ở Mĩ. Với tôi đây là cuốn sách gợi ra rất nhiều ý kiến độc đáo về tín ngưỡng Việt Nam khiến người đọc phải suy nghĩ, dù nhiều khi tác giả không trình bày đầy đủ luận cứ. Tạ Chí Đại Trường đã dành nhiều tâm huyết để cố gắng giải quyết vấn đề nguồn gốc của ngôi đình. Giải thích lệnh của Trần Thừa bắt đưa tượng Phật vào thờ ở đình trạm, ông cho rằng việc thờ dâm thần tà thần đã được đưa vào đình trạm ngay từ lúc đầu, lệnh nói trên là nhằm vào việc bài trừ các thần “bậy bạ” này. Tuy nhiên ông không đưa ra bằng chứng. Vả lại ông cũng không giải thích vì sao nhà Trần vừa mới lên đã muốn bài trừ quỷ thần trong dân gian. Theo ông thần buộc phải nép bóng Phật song vẫn giữ tính riêng biệt và từ thế kỉ XV thì thần đã có đủ uy tín như Phật và đình tách ra thành dòng riêng, không còn là đình trạm nữa. Ông cũng không giải thích rõ điều này và không giải quyết tận gốc câu hỏi vì sao tín ngưỡng Thành hoàng lại trở thành phổ biến, kể cả tại những vùng đất mới khai phá sau này, dù ông đã lí giải quá trình đó, khi cho rằng với sự phát triển của Nho học, chính tầng lớp trí thức Nho giáo làng xã nắm lấy quyền quản lí đình làng, tìm cách nâng cao uy thế của làng xã, dung nạp và phát triển quan niệm ông thần địa phương được triều đình chuẩn nhận. Việc ông mở rộng “tiền thân” của đình ra các hành cung của vua Trần và chú trọng sử dụng những tư liệu về hành cung để phác dựng quá khứ ra đời của ngôi đình e rằng không thoả đáng vì số hành cung rất ít và hành cung hẳn là có quy mô lớn hơn đình nhiều. Thê! m nữa việc đưa các thần “bậy bạ” vào hành cung chắc không dễ. Đó là chưa kể về chức năng, hành cung thuộc về nhà nước, nó vốn không thuộc về cọng đồng làng, cũng không phải là nơi công cộng như đình trạm, nên không dễ gì chuyển nó thành nơi thờ tự hay nơi sinh hoạt chung của cọng đồng làng được…
22-1-2007 Cái đương nhiên của quyền lực. Trả lời ông Đặng Thế Đại
Trong bài “Một hướng tìm hiểu về bản chất tín ngưỡng thành hoàng làng” (Talawas 10-1-2007) ông có nhắc đến một phần nội dung chương VI của quyển Thần, người và đất Việt nên xin nói một số vấn đề thắc mắc của ông, ví dụ về các thần “bậy bạ” có ở đình trạm trước khi đặt tượng Phật, hay vấn đề đình đi theo các nơi khai khẩn mới… thì ông có thể đọc ngay trong quyển sách vì xin nhớ đây là một chương, một phần của quyển sách. Nếu không thấy thì do lỗi tôi vụng về. Trong mấy mươi năm kiếm ăn, tôi không làm việc ở một cơ quan nghiên cứu nào cả, và cũng chỉ dạy học một vài năm thôi nên không biết cách viết một giáo trình sao cho sáng sủa. [Không thấy hai câu này trên Talawas, không biết đã tự bỏ vào lúc nào.]
Đằng khác, khi đọc lời chú số (1) của chương sách, ông sẽ thấy câu: “Trừ những chú dẫn thêm, các tài liệu (dùng) cho phần này đã được ghi ở bài ‘Một trú sở của thần linh Việt: Cái đình làng’”. Hình như chỉ với cái đầu đề ấy là đủ đóng góp một ít về “tinh thần dân tộc” như ở những bản nghiên cứu của các người khác rồi đấy. Cũng may mà ông đọc bản in 1989 mới có câu ấy chứ tôi đã bỏ nó đi trong các bản in 2000, 2006 rồi.
Hình như ông không quan tâm nhiều đến các sách vở của những người như chúng tôi đã viết ra – chuyện cũng thường tình thôi. Bài “Một trú sở…” viết tháng 9-1985, được in ở tạp chí Văn HọcVăn Học 1986) khi tôi còn ở trong nước, và được tập họp với những bài khác để in trong quyển Những bài dã sử Việt 1996 khi tôi qua Mĩ. Hình như quyển này sắp được in lại ở Việt Nam theo điều được người ta hiểu là chính sách cởi mở của chính quyền trong nước hiện nay. Bạn bè, người trước lạ sau quen ở Hà Nội đã giúp tôi len lách qua thực tế để cho nó (và những quyển sách khác) ra đời tuy bản thân không bằng lòng cho lắm, vì xét lại thì các thứ đã viết ra hơn hai mươi năm trước tất nay phải lạc hậu một ít rồi.
Những người làm chính trị chuyên nghiệp, nhất là các chính khách của phương Đông truyền thống, họ hiểu rất rõ giá trị của quyền lực, cho nên cố lập triều đại trước đã rồi sau đó tha hồ ban phát để cho đến cả nạn nhân cũng được cho là hưởng ơn mưa móc. Chỉ có điều là thiệt thòi cho kiến thức chung mà thôi. Cho rằng tôi kiêu ngạo cũng được đi. Nhưng các bài về tiền cổ Việt Nam của tôi trong quyển Những bài dã sử… đó, từng được tự động tái bản trên báo Chợ (báo phát không) bên ngoài, giá được phổ biến trong nước thì đỡ tốn giấy rất nhiều, đỡ công các nhà “cổ tiền học” trong nước tha hồ “múa” bấy lâu nay. Tất nhiên là loại chữ nghĩa khuất lấp chạy vòng quanh như thế đã đem lại thiệt thòi cho tác giả về phương diện tinh thần: “Giáp ngọ niên Bình Nam đồ” được đưa ra ở Sài Gòn (Hồng Đức bản đồ, 1962) khẳng định năm Giáp ngọ đó là 1558, người lập là Nguyễn Hoàng, trong khi tôi đính chính lại là năm 1774 với chủ nhân là Bùi Thế Đạt (Thần, người và đất Việt 1989, 214, chú số 10) thế mà khi trở về Việt Nam, chỉ thấy có Li Tana (Nghiên cứu Lịch sử số 11[342] 2004.) Và chuyện cái đình làng cũng vậy.
Cũng không nên trách người trong nước. Có người ở Mĩ làm luận án về Tây Sơn mà không hề biết đến quyển Lịch sử nội chiến… của tôi. Chẳng hay ho gì lắm đâu để mà khoe, sách viết đến gần nửa thế kỉ rồi, chính chủ nó cũng không buồn ngó lại, nhưng nó đã làm ồn ào trong nước suốt mười năm, sao lại không biết đến nó? Chỉ có một cách giải thích: Người nghiên cứu chỉ nhìn vào sách vở “chính thống”, của đương quyền mà thôi. Lại cũng là chuyện bình thường. Sách vở trùng trùng điệp điệp trong phát biểu chính thức chỉ nói đến “phe” mình đang là đại diện nước mà thôi. Có râu ria gì chút ít cho kẻ khác, kẻ dưới tay thì chỉ là cốt để nâng nước mà thôi. Có râu ria gì chút ít cho kẻ khác, kẻ dưới tay thì chỉ là cốt để nâng 2007, Talawas 11-1-2007) nói chuyện sách dịch tác phẩm triết học từ nước ngoài sau 1945… 1954 “chỉ tập trung trong các tác phẩm Mác Lênin” khiến ” chúng ta hầu như bị đứt hàng trăm năm với tinh hoá trí thức toàn diện của nhân loại”. Cái “chúng ta” đó chỉ có một nửa vùng đất từ “ải Nam Quan (của Tàu!) đến mũi Cà Mau” thôi. Đem cái đương nhiên của quyền lực trở thành cái tự nhiên của tâm trí, và đóng kết thành chân lí của lịch sử. Ấy là ông Nguyên Ngọc đã được một người bạn ngoài nước nhắc chừng đến chuyện 25 triệu người biến mất không vết tích rồi đó! (Câu này có trong nguyên bản, đã “chạy lạc” khi đưa lên Talawas.) Nhưng tại sao buộc ông phải nhớ điều đó, phải xoá bỏ vị trí thuận lợi của mình? Chưa kể ngoài ảnh hưởng vì tác động khoả lấ! p của quyền lực, người nghiên cứu (cả học giả nước ngoài) còn mang trong mình mầm mống phù thịnh ngay từ trong tiềm thức.
Vậy thì trở lại chuyện cái đình và ông thành hoàng ở đó. Trong bài “Một trú sở Việt của thần linh: cái đình làng”, tôi đã dựa trên văn bản xưa mà lập ra mối liên kết giữa đình tạ, đình trạm, đình hành cung, đình làng, (móc thêm cái nhà Rông) – đâu ra đó, không sử dụng chữ lập lờ, và xác định các thành phần của ông thần ở đó đổi thay số phận chìm nổi theo quyền bính tại chỗ và đà “Nam tiến”. Dừng lại ở sự kiện vững chắc, theo thời gian xuất hiện là đủ, không cần ôm đồm gây rối trí. Chấp nhận các sự kiện “cao cả”, “thánh thiện” mà bỏ qua chuyện tầm thường tệ hại thì không phải là làm việc nghiên cứu. Cái nào không có thì “đoán” nhưng không dám “vẽ” ra nhiều và cũng không có quyền phép nào ép ai phải nhận hết. Lẽ tất nhiên ý kiến của tôi là một thứ “lạc đạo” (hérésie) khó được chấp nhận không phải vì khó khăn của cách biệt chính trị do thời thế tạo nên mà còn chồng chất vì đụng chạm đến thành trì bảo thủ nữa. Tác giả chỉ dựa nhiều vào bằng cớ văn bản của ông Hà Văn Tấn (hình như của cả ông Nguyễn Duy Hinh, Đinh Gia Khánh) mà không biết rằng ông ta không nói đến cái lệnh 1496 “giao đình cho làng”, một lệnh chính thức công nhận khởi đầu của thể chế đình làng cùng sinh hoạt của nó. Bỏ qua hay không biết? Đằng nào cũng là gây lúng túng nhưng bỏ qua thì có cái lợi là giữ được lập luận truyền thống là cái đình làng đã xuất hiện từ thời thành lập làng/nước gì đó – muốn móc nối vua Hùng thì thêm cái nhà công cộng, cái nhà Rông. Và do đó ông ! thành hoàng ngồi trong đình miếu kia tất không đổi gì mấy. Những lần về VN, tôi cố tìm mua quyển sách của ông Nguyễn Duy Hinh, không được, nhưng theo sự dẫn giải của ông Đặng Thế Đại thì hình như ông ấy cũng có ý kiến tương tự về đình tạ, đình trạm, đình của vua ra đến đình làng… Và ý kiến của ông Đinh Gia Khánh nữa. Có thể mừng vì sự tương thông đó, cũng như vào đầu những năm 90 của thế kỉ vừa qua, tôi đã thấy lí giải đình tạ, đình trạm, đình làng trong một số tạp chí Kiến Trúc trong nước. Tác giả có trích Phan Kế Bính, trích các tác giả nói về đình Nam Bộ chẳng hạn để cho người đọc thấy ông cũng chịu nhận những thay đổi khi cái đình làng, ông thành hoàng đi về phương Nam, nhưng cốt yếu là muốn nói: không đổi gì lắm, chỉ là râu ria địa phương. Không phải đâu. Đình làng miền Trung (phần đất Đàng Trong cũ) có khác cả về nội dung thành hoàng, không phải con cháu vua Hùng, tướng tá Bà Trưng gốc “trâu ma rắn thần” (chớ cho rằng Alex. de Rhodes “phỉ báng dân tộc”), không là người mà chỉ là các ý niệm triết lí Nho hiện thân thành các ông vô danh “hộ quốc tí dân…”, lẫn lộn hay chịu chia chỗ ngồi với các con Ngựa thần không-cu, các Bà Chúa Xứ, các Đĩ Dàng “dâm ô, trắc nết, đã chết rồi mà còn muốn…” Đình làng miền Nam tách ra làm cái “nhà việc”, “nhà vuông” với cái đình thần, còn ông thành hoàng thì yếu thêm một bực, yếu xìu, không giữ nổi cái trụ sở độc nhất khiến dân làng có thể đem nó hối lộ cho chúa Ngu Ma Nương, để ông thành dân homeless! Ông thần ngay từ đầu đã mang m! ột quá! khứ, rồi thay hình đổi dạng, uy lực trồi sụt, sống trong các trụ sở mang công năng tuỳ thời đại – những điều đó, những xáo trộn đó không làm bộ mặt thần khác đi đối với dân chúng, không ảnh hưởng gì đến sự tôn sùng của dân chúng sao? không khiến người nghiên cứu dè dặt trong lập luận khởi đầu sao? Có thể phân trần là tác giả chỉ muốn “nhìn vào hình thức chung nhất, phổ quát nhất… bỏ qua tính chất địa phương (dù có thêm chữ “phong phú”) của tín ngưỡng thành hoàng.” Nhưng như thế là mắc vào điều như ông Nguyên Ngọc vướng phải ở trên – với ông Nguyên Ngọc là chuyện thời sự ngày nay, thời đại gần, với ông Đặng Thế Đại (và rất nhiều người khác) là suốt cả lịch sử nước Việt, là căn tính được gọi là “văn hoá” Việt. Hèn gì về Sài Gòn, nhắc đến cái hội nghị Việt Nam học năm 1998 gì đó, nghe có tiếng la: “Việt Nam học chỉ là Bắc Kì học!” Tôi không định phất cờ chạy theo mấy ông bạn quen cũ – có người là dân con nhà vương hầu mới. Tuy nhiên như đã nói, cái đất nước có 4000 năm văn hiến, chạy dài đến mũi Cà Mau sao lại chỉ có thứ văn hoá nhấp nhổm trên đèo Ngang, – lại có khi còn muốn chỉ quanh quẩn ở đất Thăng Long vòi vĩnh UNESCO kỉ niệm 1000 năm, để lịch sử dừng lại ở thời ông Lê Thánh Tông sau khi “mang gươm đi mở cõi” thì chết đi vì bệnh tim la (?) khiến gươm thần, ấn thần biến mất? (Tạm cho là) một nửa nước, (tạm cho là) một nửa dân mà không có kí-lô nào hết trong giá trị của toàn đất nước sao? Văn hoá, văn minh ở đó chỉ là sao bản của nền văn minh s! ông Hồ! ng / Đông Sơn / Thăng Long “rực rỡ” sao? Loại quan niệm “Văn hoá Nam tiến” này đã chung đúc thành một lề lối suy nghĩ lấn lướt / xu phụ (tùy chủ thể đứng ra khảo sát) đến trở thành bình thường, tự nhiên, nhất là khi áp dụng vào phần cuối của đất nước. Cho nên thấy có mấy cái trống đồng thì ắt phải có người Việt cổ ở đây từ đầu Công nguyên, không cần biết họ có đào hầm Củ Chi hay không. Bắt ông-đạo Phật Thầy Tây An ở núi Sam làm đồ đệ chân truyền của ông Trúc Lâm Đại Sĩ Trần Nhân Tông; thấy có mục thả bè trong tục Cúng Việc lề thì không chịu coi là hành động ứng hợp với môi trường sông nước mà nhất định phải là ý thức tưởng nhớ đến “tổ tiên ta từ miền Bắc (đi thuyền) vào”; đến tục thờ thần Bạch Mã trong đình của dân đi biển Quảng Ngãi cũng nhất định không có nguồn gốc nào khác hơn là ông thần Long Đỗ thay áo… Có gì khó lắm đâu, chỉ cần đổi thay quan niệm sống, chui ra khỏi cái vỏ xơ cứng của thành kiến tự phụ, nhìn theo nét động của văn hoá thì vừa đúng với sự kiện thu thập được để lí thuyết trở thành chính xác mà con người cũng trở nên văn minh hơn. Các người cầm quyền địa phương có thể an tâm với lợi lộc kinh tế chia xẻ thời Đổi mới, nhưng dân “chữ nghĩa” thì lại rất buồn về cái lối xoa đầu, vỗ vai khen dân Nam Bộ “chất phác”, “thật thà” như có phóng viên khen ông Chu Phạm Ngọc Sơn, như ông Đặng Thế Đại khen ông Sơn Nam “bộc trực… có trực cảm rất Nam Bộ (vụt ăn vụt nói, may ra mà đúng thôi!)” Như ai đấy khen “văn Nam Bộ” c! ủa Nguy! ễn Ngọc Tư (sao không là văn Việt Nam?), vậy. Cứ bằng lòng làm em thì sẽ còn được khen dài dài.
Chỉ là chuyện mở đầu phân trần về một đoạn sách mà nói dài, nói “sang đàng”, nói “bắt quàng” quá nhưng như cụ Nguyễn Du đã dạy: “Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông” tuy chưa tới đáy, chưa đủ khắp các nhánh… Bằng lòng vậy thôi, để dành chỗ cho người khác.
12-1-2007 29-1-2007. Đặng Thế Đại Mấy lời thưa lại với cụ Tạ Chí Đại Trường Tôi vừa được đọc bài “Cái đương nhiên của quyền lực – Trả lời ông Đặng Thế
Đại” trên Talawas, sợ rằng cụ có chút hiểu lầm, tôi xin đáp từ ngay. Tôi xin trình bày lần lượt. Trong Thần, người và đất Việt (bản in 1989) cụ có đưa ra những lập luận từ các
lệnh 1474 và 1496, nhưng không dẫn nguồn, nên bạn đọc không biết các lệnh ấy ghi trong sách nào, nội dung ghi lại cụ thể ra sao để tự mình kiểm tra, vì thường vẫn có những cách hiểu khác nhau từ một tư liệu sử. Cuối chương đúng là cụ có chú thích: “Trừ các chú dẫn thêm, các tài liệu cho phần này đã được ghi ở bài’Một trú sở của thần linh Việt: Cái đình làng’.” Và chỉ có thế! Bạn đọc lại tự hỏi: “Bài một trụ sở…” này đăng ở đâu, khi nào? Chỉ đến bài “Cái đương nhiên…” nói trên tôi mới biết cụ cho biết nó đăng trên tạp chí Văn học ở Mĩ. Tôi nghĩ mỗi cuốn sách phải có đời sống độc lập. Bạn đọc không thể cứ chạy lòng vòng để tìm nguồn của một tư liệu. Tuy vậy tôi cũng đã lục tìm trong Đại Việt sử kí toàn thư và cả vài sách cổ của ta (Đại Việt thông sử, Khâm định…) nhưng không thấy có ghi chép gì về hai cái lệnh trên. (1) Chính vì chưa kiểm tra được, tôi chưa dám tin vào những lập luận của cụ. Đấy là lí do duy nhất trong bài của mình tôi chưa dám tin vào những lập luận của cụ, mặc dù tôi rất kính trọng cụ. Đấy là lí do duy nhất khiến trong bài của mình tôi không nhắc đến những lập luận đó. Trước mỗi ý kiến, tôi chỉ quan tâm đến nội dubg khoa học của nó mà thôi, không cần biết ý kiến ấy là của ai, người Nam hay Bắc, trẻ hay già, nổi tiếng hay vô danh, thái độ chính trị ra sao, tiểu sử thế nào. Cụ có thể thấy ngay trong bài “Một hướng tìm về…” mà cụ chê trách, tôi đã dẫn bài của ông Nguyễn Tiến Hữu in ở miền Nam từ 1973, mà đến nay tôi vẫn chưa biết g�! � về ông ấy, ngoài bài báo nói trên. Có thể đó là do tôi thiếu hiểu biết. Tôi đã toan đặt câu hỏi ngược lại với cụ, tại sao bài của ông Nguyễn Tiến Hữu có tính cách khai mở nhiều vấn đề về tín ngưỡng Thành hoàng mà không thấy cụ nhắc đến. Nhưng tôi thấy làm như vậy là vô lí, vì không thể đòi hỏi nhà nghiên cứu nào cũng phải biết ngay mọi tác giả, mọi bài báo bàn về vấn đề của mình, chưa kể đến sự sơ suất mà ai cũng có lúc mắc phải.
Tuy nhiên tôi cũng thừa nhận rằng tôi rất yếu về mặt tư liệu. Có những cái do khách quan. Chính sách kiểm duyệt nhập khẩu khiến cho sách báo của người Tây Mĩ nhập về còn dễ hơn sách báo của Việt kiều. Người ta tìm đọc Li Tana dễ hơn là tìm đọc Tạ Chí Đại Trường thì cũng là thường tình. Cuốn sách của cụ mà tôi có trong tay là bản photo đã nhiều lần đến mờ hết chữ, vậy mà cho đến trước khi nó được in lại ở Việt Nam vẫn có người cầu cạnh tôi để sao chụp lại. Cái tạp chí Văn học ở Mĩ đã đăng bài của cụ đến nay tôi vẫn chưa nhìn thấy lần nào. Đó là cái tình trạng đáng buồn có thật ở Việt Nam. Dĩ nhiên ngoài cái khách quan ấy, còn lí do là bản thân tôi kém về quảng giao, ít quan hệ với những người ở nước ngoài. Tôi tự biết, tôi không khác gì ếch ngồi đấy giếng. Nhưng không lẽ bỏ nghề. Thôi thì cứ liều viết lên mạng, được cụ trả lời, nhờ thế biết thêm một ít, phá dần cái miệng giếng ra. Vì vậy tôi thực lòng cám ơn cụ.
Về ông thành hoàng từ Huế trở vào mà cụ cho rằng “chỉ là các ý niệm Nho hiện thân thànnh các ông vô danh ‘hộ quốc tí dân’…” và nhiều người khác cũng nói rằng chỉ là ông “Bản cảnh thành hoàng” hay “Đương cảnh thành hoàng” chung chung, không tên tuổi, không thần tích thì tôi thấy lại là bằng chứng về cái vai trò liên kết làng-nước của ông ta. Người dân đi xa đất tổ, lập làng lập ấp, vẫn cần một cái ý niệm ấy để gắn làng ấp mới với đất nước, nếu không thì sao người ta cố cố dựng nên một ông thần ý niệm như vậy để thờ.
… tôi sẽ xin minh hoạ thêm điều ấy [... rất Nam Bộ cũng là rất Việt Nam và hơn nữa còn là rất Việt Nam] trong một bài báo tiếp theo (chỉ xin lần lữa chừng 5-7 ngày), trong đó, dĩ nhiên tôi không dám bàn đến những lĩnh vực mà mình không biết rành (cụ đã mở rộng vấn đề ra đến văn học, dịch thuaật, khoa học xã hội nói chung…): Tôi sẽ viết về cái mà cụ đã đặt tên là dòng tiên tri Nam Bộ.
(1) Thực ra ông Nguyễn Duy Hinh có dẫn tư liệu trong Hồng Đức thiện chính thư liên quan đến việc đặt hậu ở đình, vào năm Hồng Đức 27 và 28, không biết có phải là cái lệnh mà cụ nói đến không, nhưng theo tư liệu này thì không nói gì đến quyền sở hữu của đình. Nguyễn Duy Hinh đã nhấn mạnh: Nhà giàu có tiền của bỏ ra làm đình không có nghĩa là đình thuộc quyền quản lí cá thể (Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam. KHXH, H. 1996, 376-380). Bình 2007:Nghe nói lại mà chen vào bàn thì kể cũng bậy nhưng vẫn thắc mắc:
Nhà giàu bỏ tiền ra làm đình mà lại giao cho tập thể quản lí? Có khùng không? Vấn đề qua thời gian có thể phức tạp hơn nhiều mà ta lại không đủ chứng cớ để phân tích nhưng nếu tập thể làm chủ thì làm sao có chuyện bày lập hậu để trả tiền công dịch, chuộc tội phạm pháp, đền mạng giết người…? Chỉ có tác giả sống trong không khí tập thể chặt chịa không đường ngoi mới nghĩ rằng mình bỏ tiền ra thì phải đưa cho người khác làm chủ!
3 Hậu chấn ngược lên 1975
Nghe nhắn: bài “Ả Trần, Mai Kiện…” đã làm cho Việt Nam (!?) không bằng lòng. Tháng 4-2007 về Sài Gòn biết rõ hơn, là những người liên can đến việc tái bản quyển Lịch sử nội chiến… cũng bị phiền hà. Đã gọi phone xin lỗi cô biên tập (vì không biết ai khác nữa). Nhân tiện cũng biết rằng ông Nguyễn Phan Quang vẫn bảo lưu ý kiến cũ, và đi vào tiệm sách thấy ông in lại một bài loại đó trong một tập họp các danh tác của ông. Nghe nói, người có thẩm quyền phán (đại khái): “Nếu tái bản thì nên biên tập cho kĩ…” Khỏi lo, theo tình hình in ấn trong nước và tính trung thực của người Việt Nam hiện giờ thì cứ in nối bản, đâu có cần phải xin tờ giấy phép mới? Còn nói muốn tìm “ý đồ chính trị” trong quyển Lịch sử nội chiến… kiểu “sách phục vụ chính sách Việt Nam hoá của Nixon…”, làm “xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng của cả dân tộc đối với một thế hệ Việt Nam – thế hệ Quang Trung”… thì đến năm 2007 này chỉ có ông Nguyễn Phan Quang mới tìm ra mà thôi – điều này lại cũng là thường tình vì trong nhân gian vẫn có những người sợ mở mắt ra!
Ông Nguyễn Phan Quang có thể an tâm với việc bảo lưu ý kiến của mình vì còn được rất nhiều che chắn, không chỉ bởi bè bạn cùng thời thế mà còn cả hệ thống không muốn “mất mặt” nữa. Những năm sau 1975, ý kiến của ông được cổ động, loan truyền, bảo vệ bởi súng đạn. Nhưng thời Đổi mới đã có người thay ông nói khác đi, lắp ghép lại những ý tưởng của chúng tôi trong quyển sách kia (thật ra thì cũng của bất cứ ai, vì nó là bình thường rõ rệt) trong đó có một trong Tứ trụ của nền sử học Quốc gia, “chép” lại sách hẳn hoi. Ông Nguyễn Phan Quang khỏi cần đính chính. Uy tín “sử gia” của thời hung hăng về trước giúp ông làm nhà giáo được “viện trợ” cho cái Miền Nam chỉ còn lại một đám hàng thần lơ láo phụ hoạ, giúp ông đứng tên (có tiền) trong các biên soạn sử học địa phương (một lần thấy trong quyển địa chí của tỉnh Tiền Giang, mới tập I mà đã rất bề thế!) Sách vở còn lại được bạn bè cổ động: kiểu lời khen của một trong “Tứ trụ…”, Đinh Xuân Lâm, về tập họp Một số công trình sử học Việt Nam (của PGS. TS Nguyễn Phan Quang) với lời tán dương nhà sử học tài danh “đã tỏ ra sắc sảo và tinh tế khi đánh giá anh hùng dân tộc Quang Trung đã ‘cùng nhân dân đổi mới tư duy’ trong vị thế một nhà cải cách… đã ‘hé mở lối thoát’ cho đất nước ở cuối thế kỉ XVIII…” (Nghiên cứu Lịch sử số 11[367] 2006, 76.) Lời khen vì bạn học cũ, trơn tuột theo thời thế kiểu đó làm sao khiến ông Nguyễn Phan Quang nhận ra mình cần phải sửa đổi?
Quyển Thần, người và đất Việt của Tạ Chí Đại Trường (1989) theo một ấn bản hiếm hoi vào Việt Nam được trong nước đem photo qua nhiều lần chồng chất (ghi nhận của Lại Nguyên Ân), cho mướn đến tay học giả đã mòn sứt (Nguyễn Huệ Chi) mà vẫn còn có người đòi chụp lại (lời Đặng Thế Đại trên), thế mà nó được tái bản ở Việt Nam (đầu 2006) vẫn không có một lời trên cơ quan sử học Nhà nước. Quyển Lịch sử nội chiến ở Việt Nam từ 1771 đến 1802 được tái bản ở Việt Nam (vẫn phải né tránh với một tên hơi khác) gây xôn xao bên ngoài (top ten 1-2007 ở BBC, và phỏng vấn lung tung…) bởi những người tội nghiệp mong chờ một chút thay đổi văn minh ở quốc nội, quyển sách đó được lẳng lặng tiêu thụ nhanh chóng, hẳn rồi cũng không được giới thiệu ví dụ ở Nghiên cứu Lịch sử bởi vì có sách của ông Nguyễn Phan Quang rồi: Phong trào Tây Sơn và anh hùng dân tộc Quang Trung, quyển sách dồn dập cóp nhặt nên không lưu ý đến thứ bậc anh em Tây Sơn… Có ai đem đối chiếu thời thế thì sẽ bị mắng:”Được in lại là phúc lắm rồi, cay cú, gay gắt chi nữa, chuyện cũ!”
Được che chắn kĩ như thế, lần này không phải bởi quyền lực của súng đạn (chỉ hờm sẵn, nếu cần thôi) mà là bởi sự an bình trong đắc thắng, trong sự biếng lười suy nghĩ, nhắc lại: được che chắn kĩ như thế thì việc gì ông Nguyễn Phan Quang phải phủ nhận mình?
19-5-2007
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét