Chủ Nhật, 13 tháng 10, 2013

NGOAI CAM KY DIEU.html

Mục lục:

1.NGOẠI CẢM KỲ DIỆU – NHỮNG KHẢ NĂNG BÍ ẨN CỦA CON NGƯỜI

PHẦN I:  KHÍ CÔNG

PHẦN II:  CÁC HIỆN TƯỢNG TRƯỜNG SINH HỌC

PHẦN III:  TRƯỜNG SINH HỌC

2.NHỮNG NGƯỜI CÓ NĂNG LỰC SIÊU PHÀM

1.NGOẠI CẢM KỲ DIỆU – NHỮNG KHẢ NĂNG BÍ ẨN CỦA CON NGƯỜI

    Từ lâu khoa học đã biết được rằng: cơ thể con người tự nó sinh ra các điện từ trường vật lý gọi là trường sinh học.  Ðó là năng lượng điện từ bao quanh cơ thể con người.  Sự tồn tại và bức xa năng lượng trường sinh học gắn liền với hiện tượng ngoại cảm.

    Hiện tượng ngọai cảm bao gồm các dạng cảm giác (nhận thức) không nhờ giác quan và các dạng tác động của con người tới sự vật ngoài cơ thể không nhờ tới sức cơ mà nhờ ý chí tư duy.  Biểu hiện về ngoại cảm rất đa dạng và phong phú.  Ngoại cảm kỳ diệu chỉ muốn giới thiệu với bạn đọc một số hiện tượng rất bí ẩn mà nhiều sách báo cho đó là những hiện tượng rất bí ẩn và kỳ diệu.  Ngoại cảm kỳ diệu không nhằm chứng minh với bạn đọc một “hiện tượng siêu tự nhiên” nào, mà chỉ nhằm hướng bạn đọc tới những vấn đề mà con người cần tìm hiểu, chứng minh trong tương lai về khả năng kỳ diệu và bí ẩn của chính mình.

    Ngoại cảm kỳ diệu được tuyển dịch, sưu tầm, tập hợp từ nhiều nguồn sách, báo, tạp chí… Về một vấn đề mà khoa học còn đang trong giai đoạn nghiên cứu tìm hiểu, tranh cãi nên các thuật ngữ ở đây sẽ có những điểm không thống nhất, rất mong được bạn đọc thông cảm lượng thứ.

Hằng Nga

(Tập hợp, tuyển dịch, biên soạn)

PHẦN I:  KHÍ CÔNG

*        Khí công huyền diệu

*        Xua tan mây mù, diệt trừ vi khuẩn

*        Huyền thoại Nghiêm Tân – Khí công hay trường sinh học

*        Nhà khí công và võ sĩ quyền anh

*        Thò tay vào vạc dầu sôi

    Khí công là một thuật dưỡng sinh, một dạng tu dưỡng tinh thần và luyện tập thể dục đặc biệt, đã có khoảng 2000 năm ở Trung Quốc.  Những người luyện tập khí công thành đạt trở thành những người có khả năng siêu phàm.  Họ có thể phi thân, nhìn xuyên suốt cơ thể con người, “phát công” làm di chuyển đồ vật, thay đổi thành phần hoá học của vật chất và chữa bệnh không cần thuốc mang đầy tính huyền thoại, nhưng lại là một thực tế.

Khí Công Huyền Diệu

    Nhiều cơ sở y tế ở Trung Quốc có khoa dùng khí công để chữa bệnh, để gây tê khi mổ; nhiều đơn vị an ninh dùng người có năng lực ngoại cảm đặc biệt để khám phá ra nhiều vụ án quan trọng… nhiều cơ sở nghiên cứu khoa học, hội nghiên cứu khí công học ở trung ương và nhiều thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Trùng Khánh, Quảng Châu… được thành lập.

    Hàng loạt “siêu nhân” nam, nữ về khí công có dịp biểu diễn công khai ở nhiều nơi, nhiều lần, trước đông đảo người xem trong nước và nước ngoài.

    Trương Bảo Thắng là người thành phố Bản Khê, tỉnh Liêu Ninh, là một trong các “siêu nhân” đó.

    Thuở nhỏ Trương Bảo Thắng đã có khả năng đặc biệt.  Trong lớp học, ai mất gì, như bút chì, bút máy, khăn tay… cứ tả đặc điểm, màu sắc cho anh ta biết là anh có thể nói ra vật ấy đang ở đâu hoặc do ai lấy một cách tuyệt đối đúng.  Bạn học gọi đùa anh là “thần trinh sát nhỏ tuổi.”  Nhưng thầy giáo thì nghi ngờ:  Anh ta không ăn cắp thì làm sao biết rõ ràng như thế?  Anh chỉ được được học tới hết bậc tiểu học thì phải thôi.  Lớn lên anh làm giao thông – liên lạc tại một mỏ ở Bản Khê.  Một hôm phát thư cho một chàng trai, Bảo Thắng nói:  “Người yêu của anh mời đi xem chiếu bóng đây này!”  Tưởng Bảo Thắng nói đùa, chàng trai bóc thư ra xem thì đúng là như thế.  Nghĩ rằng Bảo Thắng đã bóc trộm thư của mình ra xem, chàng trai liền báo với trưởng ban bảo vệ và tố cáo rằng Trương Bảo Thắng đã vi phạm hiến pháp, xâm phạm thư tín của công dân.  Trương Bảo Thắng được mời đến.  Anh phân trần rằng không bóc trộm thư mà chỉ vô tình nhìn thấy khi cầm đến thư, và mau mồm mau miệng nói với chàng trai kia biết.  Không tin lời anh, trưởng ban bảo vệ kiểm tra ngày khả năng đọc thư qua phong bì của anh bằng cách lấy ngay một công văng còn niêm phong kỹ, giao cho anh, bảo anh đọc.  Anh nhìn qua một lát anh cho biết công văn nói về chủ trương sinh đẻ có kế hoạch, mỗi gia đình chỉ nên có một con.  Công văn được bóc ra: nội dung đúng như Trương Bảo Thắng vừa  nói.  Thế là từ “phạm nhân”, trở thành “kỳ nhân” của mỏ, của cả vùng, rồi của cả nước.

    Viện y học Trung Quốc tỉnh Liêu Ninh mời anh đến làm thực nghiệm khoa học.  Chỉ học đến tiểu học, vả lại không biết gì về y lý Trung Quốc, nhưng tại đây anh có thể nhìn thấy rõ hướng vận động của mạch ẩn sâu trong cơ thể người mà y học Trung Quốc gọi là các kinh và lạc.  Các chuyên gia của Viện ghi chép lại, rồi so sánh với những điều miêu tả trong các sách kinh điển thì thấy hoàn toàn giống như vậy, không những thấy kỳ tài của người xưa mà còn thấy cả khả năng kỳ lạ của Bảo Thắng.  Trương Bảo Thắng còn có thể thấy màu sắc của kinh và lạc, thậm chí màu sắc kinh lạc, ở từng người: xanh, vàng, hồng.  Trước đây, có giáo sư đã dùng phương pháp truyền âm để nghiên cứu sự lan truyền của tính hiệu âm thành qua kinh lạc nhưng mới chỉ quan sát thấy được một đoạn thuộc tứ chi người thường.  Tham gia quan sát, anh đã nhìn thấy sự lan truyền ấy, cùng phương hướng của nó ở các bộ phận khác, theo kinh lạc, nhìn thấy rõ ràng lục phủ, ngũ tạng.

    Một lần đến công viên Bắc Lăng ở thành phố Thẩm Dương, bước tới gần tấm bia “hạ mã” cũ còn lại, anh nhìn tấm bia một lát rồi nói với một giáo sư đi cùng:  “Dưới bia, có tiền đồng!”  Nghe thấy thế, vị giáo sư kia tỏ vẻ không tin và nói:  “Tôi chỉ tin khi ông có cách gì lấy được tiền đồng lên đây.”  Bảo Thắng lẳng lặng “phát công” (sử dụng năng lượng ngoại cảm của mình), đưa tay ra trước mặt, một lát sau:  hai đồng tiền cổ, xanh gỉ có vết đất, nằm trong tay!

    Việc chỉ dùng ý chí mà thu được những vật thật đã xảy ra ở Trương Bảo Thắng từ khi còn nhỏ tuổi.  Hồi ấy, một lần theo cha đi chợ huyện, anh thấy người cha nhìn hàng thịt rất lâu, rồi thở dài, kéo con đi.  Chắc chắn là không đủ tiền mua, hai cha con trở về, tay không.  Ngờ đâu, đến giữa đường về, người cha thấy tay Trương Bảo Thắng cầm một miếng thịt, nặng đến 5 cân (bằng 2,5 kg).  Nổi giận, ông tát cho con một cái nên thân và mắng:

    -  Ðồ súc sinh, mày ăn cắp của người ta à?

    Trương Bảo Thắng oà lên khóc, kêu oan, kể rằng:  Biết cha muốn mua thịt nhưng không đủ tiền nên anh đã nảy ra ý muốn có một miếng thịt, và thế là nó đã đến tay anh, chứ anh hoàn toàn không ăn cắp.

    Còn ngày nay thì Trương Bảo Thắng có thể ra lệnh cho mọi vật xuyên qua giấy, vải, thủy tinh, ván gỗ, thậm chí cả tường bê tông mà không gây ra vết tích để đến tay anh, trước mặt mọi người.

    Trong nhiều lần vui đùa, anh đã cho bạn bè thấy:  anh có thể ngồi trong nhà mà làm cho một loạt giày dép để ở cửa “bay” ra bãi cỏ ngoài cổng, làm cho chùm chìa khoá trong túi một bạn “vọt” ra ngoài, đến tay anh; mượn của phòng bên một cái phích mà không cần mở cửa vào, rồi vẫn ngồi nguyên tại chỗ trả lại cái phích vào chỗ cũ.  Bạn bè làm một thí nghiệm:  Buộc một chiếc chìa khoá vào một cái chuông con và yêu cầu anh di chuyển nó đến một nơi tuỳ ý (làm như thế để dễ phát hiện).  Trương Bảo Thắng nhận thí nghiệm, cầm chìa khoá và chuông trong tay, chẳng nói chẳng rằng.  Ngồi nói chuyện một lát sau, anh mở tay ra cho mọi người xem: chìa khoá và chuông đã biến mất.  Hỏi nó đang ở đâu, anh bảo:  ở trong một cái ngăn kéo gần đây.  Mọi người kinh ngạc mở ngăn kéo:  quả nhiên có chiếc chìa khoá buộc cùng chiếc chuông và càng kinh ngạc hơn khi thấy có thể dùng ý chí điều khiển vật thể xuyên qua gỗ chắc, không có tiếng động, không gây tổn hại, trước sự chứng kiến của nhiều người.

    Trong điều kiện giám sát chặt chẽ của nhiều người, Trương Bảo Thắng có lần ngồi tại chỗ mà đưa một bao gạo nặng khoảng 50 kg từ nhà bên sang phòng đang ngồi mà không hề mở cửa, đục tường…

    Giải thích các hiện tượng như trên, người ta cho rằng đó là do anh đã “phát công” để điều khiển sự vật.  Cũng bằng cách “phát công” như thế, Trương Bảo Thắng có thể đang ngồi xem chiếu bóng, biến phim màu thành phim đen trắng, hoặc phim đen trắng thành phim trắng toát.

    Một lần, công diễn ở Quảng Châu, Trương Bảo Thắng đã chứng minh khả năng kỳ diệu của mình qua những việc như:

    – Có thể lấy một tấm giấy bạc (trong thí nghiệm là tiền giấy Áo Môn, tức Ma Cao) đã đặt trong một phong bì niêm phong kỹ, do một khán giả bất kỳ giữ, tấm giấy bạc ấy đúng về cả những chữ số đã in trên đó, lẫn chữ ký, dấu hiệu của người có tiền, và trao lại cho chủ của nó; cho một chút đường vào phong bì đựng tiền nói trên mà không ái biết; đọc được chữ viết trên mẫu giấy người ta đặt trong phong bì đó (những chữ ấy là:  Hoan nghênh Trương Bảo Thắng).

    – Có thể lấy được những viên thuốc trong một cái lọ gắn xi, ở trong tay một người được ban tổ chức mời, mà lọ và niêm phong còn nguyên vẹn sau đó lại trả lại vào lọ những viên thuốc đã lấy ra; hoặc lấy ra rồi cho vào lọ đã gắn xin một cánh hoa, một mảnh giấy, một cái kẹo…

    – Làm nguyên vẹn lại một tấm danh thiếp, có mang chữ ký của người có tên trên bưu thiếp sau khi đã nhờ một người tình nguyện nhai nát tấm danh thiếp đó.  Khi nhận phần bột nhão đã nhai từ tấm danh thiếp, Bảo Thắng hai lần cho biết còn thiếu, người tình nguyện đã tìm thấy một mẫu vụn đánh rơi, và lần sau một chút còn dính ở răng!

    Xưa nay, người ta vẫn coi đây là chuyện thần thoại.  Nhưng bấy giờ, ở Trung Quốc, người ta lại đang chú ý nghiên cứu hiện tượng lạ này ở Bảo Thắng.  Hồi nhỏ, gia đình túng bấn có lần không có tiền lấy vé, Trương Bảo Thắng nảy ra ý muốn cùng các bạn vào rạp chiếu bóng xem sao.  Bảo Thắng làm cho người soát vé lú lẫn đi bằng ý chí của mình rồi đàng hoàng bước vào rạp chiếu bóng.  Có điều anh ta không bao giờ dùng năng lực này cũng như khả năng thu được vật do ý chí, để làm việc xằng bậy.  Từ khi nổi tiếng, anh ra sức luyện tập phương pháp này.

    Một lần, một trường đại học ở Ðông Bắc làm thí nghiệm về khả năng này của anh.  40 sinh viên lanh lợi được giao nhiệm vụ canh gác tất cả các cửa ra vào và cửa sổ của hội trường thí nghiệm (có mời nhiều người đến dự để chứng kiến).  Hết sức canh giác, các sinh viên này quyết “không để một lỗ nhỏ sơ hở”.  Có ngờ đâu, anh đã vào hội trường, lúc nào mà họ không hề biết.

    40 sinh viên này chưa chịu, cho rằng Trương Bảo Thắng “có lẽ” lọt qua cửa thông gió ở nhà xí.  Và thế là họ xin thử lại; lần này, họ tăng thêm người, cử người gác cả nhà xí, bên nam cũng như bên nữ.  Sau khi có hiệu lệnh “Bắt đầu”, Trương Bảo Thắng vẫn đứng nói chuyện bình thường với một số người ở cửa ra vào.  Nhưng rồi người ta không thấy anh đâu nữa.  Thì ra, anh đã lọt qua “bức tường người” bằng phép tàng hình (“phép che mắt”) của anh và vào hội trường.

Xua Tan Mây Mù, Diệt Trừ Vi Khuẩn

    Các nhà khí công có thể phát “ngoại khí” tác động tới khí hậu, điều tiết mưa gió.  Những đêm nhiều mây, có người phát công lên trời, có thể làm mây tản ra, ánh trăng bừng sáng.  21 giờ ngày 14-9-1986, khi lớp khí công ở Trường tiểu học số 1 Bắc Kinh do thầy giáo Vương Lực thuộc phái “Ðạo gia long môn” phụ trách vừa kết thúc buổi học, học viên chuẩn bị rời trường, thì trời bỗng nổi sấm chớp, những hạt mưa to rơi lộp bộp, một trận mưa lớn sắp bắt đầu.  Vương Lực liền đứng giữa sân trường phát công lên trời, một lát mưa ngừng rơi, sấm chớp không còn nữa.  Một giờ sau Vương Lực đoán học viên đã về nhà, liền “thu công”.  Bầu trời lại nổi sấm chớp, mưa mỗi lúc một to.

    Trong các tối 29-11-1982, 9-9-1984, 10-2-1985, 15-9-1986, tại 4 địa điểm khác nhau ở Thượng Hải và trước sự chứng kiến của các nhóm người khác nhau, Toàn Quan Lương đã nhiều lần phát công lên bầu trời đầy mây, đều có thể làm mây tản ra, mặt trăng toả sáng.

    Nghiên cứu khí công ở Trung Quốc hiện nay đã lan sang ngành trồng trọt.  Viện trưởng “Viện khoa học nhân thể” tỉnh Vân Nam là Vương Gia Lâm năm 1982 đã dùng khí công xử lý giống nấm Nhật Bản.  Nhóm nấm đối chiếu chiếc lớn nhất nặng 1kg, bình thường 0,5 – 0,8 kg.  Nhóm nấm xử lý khí công chiếc lớn nhất nặng 2,52 kg, bình thường 2 kg.  Theo tự liệu Nhật Bản, giống này qua xử lý tia laser chiếc lớn nhất chỉ có 1,6 kg.  Nấm hương và mộc nhĩ là hai loại thực vật mà khả năng kháng khuẩn mốc xanh tương đối kém.  Trong điều kiệm bình thường, chỉ trong 24 giờ đã nhiễm khuẩn.  Nhưng mộc nhĩ và nấm hương qua xử lý “ngoại khí”, sinh trưởng hơn 60 ngày vẫn chưa nhiễm khuẩn.

    Từ hàng ngàn năm trước đây, người ta đã biết sử dụng “khí” – khái niệm gắn liền với võ thuật – như một phương tiện kỳ diệu nhằm tăng cường, rèn luyện sức khoẻ và chữa bệnh dưới tên gọi quen thuộc: liệu pháp khí công.  Những thành công rực rỡ của các nhà khí công nổi tiếng đương đại như Nghiêm Tân, Vương Lực Bình… là những bằng chứng hiển nhiên về sự tồn tại của “khí”.  Ít “khí” chẳng những không thể nhìn thấy bằng mắt thường mà ngay cả với các dụng cụ vật lý tinh xảo cũng chưa xác định được rõ ràng.  Ðến nay, đã và vẫn đang có rất nhiều cuộc tìm kiếm, tranh cãi với mong muốn phát hiện sự thật về “khí”.

    Ðối với các nhà ngoại cảm thì “khí” không phải là cái gì đó siêu hình, thần bí, ngược lại, hoàn toàn có thể nhìn thấy rõ ràng, có thể nắm bắt, điều khiển được.  Nhờ sự giúp đỡ của họ, các nhà khoa học Trung Quốc đã tiến hành nhiều thí nghiệm nhằm xác định bản thể vật lý của “khí”.  Theo các nhà ngoại cảm, “khí” không những chỉ tồn tại trong con người mà có mặt ở khắp nơi, cả trong đất, trong các sinh vật cỏ cây với muôn hình muôn vẻ khác nhau.  Khi theo dõi một võ sư phát công, họ thấy những dòng khí mảnh phát ra với màu sắc rực rỡ, chúng có khả năng xuyên qua cả những vật chắn dầy.  Ở những người luyện tập khí công lâu năm, ngay cả trong trạng thái bình thường, “khí” cũng toả ra tự nhiên trên đầu như những vầng hào quang mang sắc màu cầu vồng.  Ðộ sáng và chiều cao của các vầng hào quang tỉ lệ thuận với tài năng và thời gian, công phu luyện tập của các võ sư.  Ðối với những người mới tập đôi khi cũng có vầng  hào quang tương tự song màu sắc rất mờ nhạt, hình dạng khó nhận thấy.  Những nhà nghiên cứu còn nhận ra giữa màu sắc các quầng sáng và trạng thái tâm lý tình cảm của người đó có một mối liên hệ rõ rệt.  Ðất và các loại hoa cỏ cũng chứa trong nó vô số các loại “khí” có màu trắng hoặc tươi snng, đều là “thanh khí”, có tác dụng tốt đối với cơ thể con người, còn các loại khí màu sẫm, hay đen (hắc khí) có tác dụng ngược lại.  Trao đổi “thanh khí” với môi trường bên ngoài là biện pháp tốt để tăng cư! ờng sức khoẻ.

    Khí phân bố trong khắp cơ thể con người theo các đường dây gọi là những mạch kinh lạc mà nơi tiếp nối với bên ngoài là các huyệt. Đó là một bức tranh minh hoạ cho thể trạng sức khoẻ của mỗi người. Màu trắng nhạt của các đường kênh này chứng tỏ sự khoẻ mạnh của cơ thể. Còn nếu một bộ phận nào đó đường kinh lạc đổi màu (chuyển thành màu sẫm hoặc xỉn đen) thì biểu hiện sự trục trặc về bệnh lý tại nơi đó hoặc trạng thái tâm thần “có vấn đề”. Bệnh càng nặng thì màu sắc “khí” càng thẫm. Khi ấy, biện pháp chữa trị hữu hiệu nhất là thay thế phần “hắc khí” bằng phần “thanh khí” mới nhờ trao đổi với môi trường bên ngoài thông qua sự giúp đỡ của các nhà khí công, ngoại cảm.

    Vậy thực chất “khí” là gì? Theo các nhà khoa học, đó là một dáng vật chất đặc biệt, mang đầy đủa các đặc tính của vật chất thông thường. Chúng tuân theo nguyên lý “bảo toàn”… không tự nhiên sinh ra mà cũng không tự nhiên mất đi, chỉ chuyển tự dạng này sang dạng khác hoặc truyền tự vật này qua vật khác… Có thể hình dung chúng một cách gần gũi với các vật chất dạng “trường”. Các nhà khí công, bằng biện pháp phát công theo nguyên tắc “ý khiển khí” đuổi “hắc khí” ra khỏi cơ thể người bệnh và thế chỗ bằng “thanh khí” của mình (dùng ngoại khí). Cũng có thể thực hiện điều này bằng cách trao đổi khí với các cây cỏ mang khí lành bên ngoài có khả năng dễ cho (nhận) khí. Tập khí công bền bỉ, làm cho khí được lưu thông thường xuyên, kích thước các mạch kinh lạc tăng thêm, sức khoẻ con người sẽ được tăng cường một cách đáng kể và đôi khi cả trạng thái tâm tính bẩm sinh cũng sẽ đổi thay.

    Lý thuyết mà các nhà khoa học đưa ra trên đây đã được minh chứng rất cụ thể qua nhiều ca điều trị bệnh lý đạt kết quả tốt bằng liệu pháp khí công. Song công việc chưa phải là kết thúc mà còn đòi hỏi sự tiếp cận theo hướng có chiều sâu hơn, tương ứng với các cội rễ của khoa học và triết học phương Đông cùng với bao nhiêu hiện tượng kỳ bí khác còn chưa được giải thích.

    Ngày 22-12-1986, tuyết rơi đầy trời Bắc Kinh, rét 5 độ âm. Danh Sinh mặc phong phanh, đi bộ đến trường đại học Thanh Hoa. Anh được mời đến với danh nghĩa cố vấn thứ nhất Hội “khí công”. Và tại đây, các nhà bác học của trường đã mời anh tham gia vào một cuộc thử nghiệm kỳ lạ…

    Người ta trao cho Danh Sinh hai bình thí nghiệm trong đó đựng một hỗn hợp khí hyđrô và ôxít cácbon. Theo nguyên tắc, phản ứng hoá học của hỗn hợp chỉ bắt đầu xảy ra dưới áp lực 30 át-mốt-phe và ở nhiệt độ trên 280 độ C hoặc dưới tác động cúa chất xúc tác. Lúc này, áp lực trong bình là 1 át-mốt-phe, còn nhiệt độ trong phòng là 13 độ C. Danh Sinh nhìn vào bình thí nghiệm một lát và nói:

    – Tôi đã tác động xong. Có thể bắt đầu thử nghiệm.

    – Có thật không? Bởi vì tất cả diễn ra trong chưa đầy một phút – Các giáo sư tỏ ra nghi ngờ.

    Danh Sinh cười nhắc lại:

    – Đã xong rồi…

    Lúc này các giáo sư mới đi vào phòng thí nghiệm của khoa hoá.

    Năm phút trôi qua. Trên màn display xuất hiện một biểu đồ đo máy tính điện tử ghi lại xác định phản ứng hoá học đã xảy ra. Thật kỳ lạ: trong điều kiện bình thường dưới tác dụng của ngoại khí, phản ứng hoá học đã xảy ra. Tiếp đó các cán bộ phòng thí nghiệm đã đề nghị Danh Sinh tiến hành tác động ngoại khí vào các vật chất như dung dịch sinh lý học, dung dịch glu-cô, kháng sinh, nhưng ở khoảng cách tăng dần từ một vài mét đến hai nghìn ki-lô-mét. Các thí nghiệm diễn đi diễn lại đến 10 lần trong một tháng, và việc tác động được tiến hành trên 7-8 chế phẩm mà thành phần hoá học của nó dưới tác động của ngoại lực “khí” đã thay đổi rất rõ rệt.

    Ngoại lực “khí” có khả năng làm xảy ra các phản ứng hoá học.

    Trong cơ thể con người, nước chứa tới hơn 65%. Các nghiên cứu khẳng định rằng, ngoại “khí” cũng tác động được vào lượng nước đó trong con người. Nó có thể điều chỉnh và làm thay đổi quá trình sinh hoá trong cơ thể người bệnh, đó cũng chính là nguyên tắc chữa bệnh bằng khí công của Danh Sinh. Mời các bạn hãy chứng kiến một buổi chữa bệnh của Danh Sinh.

    Vào một ngày tháng 6, sân vận động “Sao-đu” ở Bắc Kinh chật ních người xem. Lúc này, một thanh niên gầy gò, vẻ mặt nghiêm nghị bước ra. Anh chỉ nói mấy lời ngắn gọn, lập tức sân vận động im phăng phắc.

    Nhiều người vô cùng ngạc nhiên. Sức mạnh nào trong những lời nói đó bắt hàng vạn con người phải im bặt? Đó chính là nguồn năng lượng mà nhà khí công nổi tiếng Danh Sinh đã phát ra.

    Sau đó, khi anh bắt đầu tiếp tục nói, trong khán giả có người bỗng nhiên cất tiếng hát, những người khác thì nhảy múa, ai đó nữa thì nức nở khóc hoặc cười hô hố, nghiên bên này, đảo bên kia – nghĩa là tất cả đều biểu hiện một hành động gì rất kỳ lạ.

    Danh Sinh đã nói chuyện liền 5 giờ đồng hồ. Trong thời gian đó, khán giả không một người nào đứng dậy đi tiểu tiện, không ai bỏ ra ngoài, không ai muốn ăn, uống gì cả… Về sau, người ta biết rằng, tất cả những điều đó là do tác động năng lượng tâm lý của nhà khí công Danh Sinh.

    Danh Sinh bắt đầu tập khí công từ lúc còn nhỏ. Sau khi tốt nghiệp Viện Y học Trung Quốc ở thành phố Tren-du, Danh Sinh đã kết hợp thành co6ng y học Trung Quốc, khí công và khả năng năng lượng sinh học của mình, chữa được nhiều bệnh nặng và nan y. Hàng nghìn người bệnh từ trong nước và nước ngoài đã tìm đến Danh Sinh. Danh Sinh đã biểu diễn trước hàng nghìn khán giả phương pháp chữa bệnh nguyên thủy do anh áp dụng, đó là phương pháp chữa bệnh từ xa mà ta còn gọi là thần giao cách cảm.

Huyền Thoại Nghiêm Tân – Khí Công Hay Trường Sinh Học

    Ở Trung Quốc những năm gần đây, phong trào tập khí công phát triển rất nhanh, đồng thời cũng lưu truyền nhiều chuyện kỳ lạ về việc các nhà khí công phát “ngoại khí” chữa bệnh. Trong đó nổi bật là huyền thoại về phương pháp dùng “ngoại khí” chữa bệnh của nhà khí công bác sĩ Nghiêm Tân, 39 tuổi (1989).

    Nghiêm Tân sinh trưởng ở một làng nhỏ miền núi, cây xanh, nước trong, thuộc huyện Giang Dân, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Nghiêm Tân có vóc người nhỏ nhắn, dung mạo bình thường, là con thứ của một gia đình có truyền thống thượng võ. Từ nhỏ Nghiêm Tân đã yêu thích quyền cước.

    Một chuyện kỳ lạ đã đưa Nghiêm Tân đến với khí công. Vào năm bốn tuổi, một hôm bé Nghiêm Tân đang nô đùa với bọn trẻ trong rừng, bất ngờ gặp một người đàn ông trung niên. Với một thứ khinh công tột đỉnh, chỉ trong nháy mắt, ông đã biến mất, nhìn khắp bốn bề đều không thấy bóng hình, như đã bay lên trời cao hay biến vào lòng đất vậy. Thế rồi, chỉ trong thoáng chốc ông lại đột ngột biến ra, đứng trước bọn trẻ đang ngơ ngác. Bé Nghiêm Tân nhìn đến ngây người và cứ níu lấy ông đòi học võ. Cuối cùng vị cao thủ võ lâm, ẩn cư tu thân luyện công nơi núi rừng sâu ấy đã nhận cậu bé bốn tuổi này làm đệ tử. Ông đã cấm Nghiêm Tân tiết lộ thân thế bí ẩn của mình.

    Dưới sự chỉ dẫn của sư phụ, Nghiêm Tân tĩnh tâm học khí công. Ba, bốn năm trôi qua dần dần cậu bé cảm thấy xương cốt thần kinh và máu thịt trong người như thay đổi hẳn. Dòng máu trong thân thể Nghiêm Tân như sôi bỏng, hai bàn tay nóng ran rát. Ngày thường luyện công trong phòng, mắt không chút nhìn xiên, nhưng toàn thân Nghiêm Tân như đã bay ra khỏi, ra tới cánh đồng quang đãng. Khi nhắm mắt ngưng thần, trước mắt thấy nổi lên lớp lớp ánh sáng trắng loang loáng. Ánh sáng qua đi, trong đầu hiện ra hình dáng những đồ đạc bày trong phòng như bàn, ghế, giường tủ v.v… không bao lâu lại sinh ra những dải sóng óng ánh các màu. Sư phụ bảo đó là kết quả do chuyên tâm chú thần công lực đã thăng hoa mà đạt được.

    Năm tám tuổi, nhờ cha thân chinh đến cầu xin, Nghiêm Tân lại được một nhà khí công lừng danh là Hải Đăng pháp sư, vui lòng truyền dạy bí pháp.

    Hải Đăng pháp sư là bậc võ lâm lão tiền bối, võ nghệ tinh sâu, công lực phi phàm và cực kỳ nghiêm khắc đối với các đệ tử của mình. Theo tông phái của Hải Đăng pháp sư, Nghiêm Tân nhập môn, nhập đạo, được học tập một cách hoàn chỉnh các môn. Vân thông khí công, Đạt ma khí công, Thiếu lâm khí công, Thiếu niên tinh quyền, Tỉnh lã là quyền (bao gồm đường quyền từ thứ năm đến thứ chín của phái Thiếu Lâm). Hình ý quyền, La Hán quyền, rồi đao thương, kiếm, côn, kích, roi v.v… đa ban võ nghệ. Tiếp sau đó, Nghiêm Tân lần lượt luyện công học nghệ với hơn hai mươi vị sư phụ, họ hoặc là võ lâm đại sư, hoặc là khí công đằng gia, hoặc là những cao thủ trong người nắm những tuyệt chiêu thần kỳ của chư gia môn phái. Nghiêm Tân nghiền ngẫm, trau dồi những sở trường, thế mạnh của từng môn phái và dần dần hình thành công phu đặc sắc độc đáo của bản thân.

    Khi luyện công, Nghiêm Tân chọn giờ Tý và giờ Dần theo học thuyết “tý ngọ lưu chú” trong y học cổ truyền Trung Quốc, vào giờ Tý và giờ Dần, khí huyết trong cơ thể con người đặc biết thịnh vượng, luyện công vào giờ khắc đó sẽ có thêm tác dụng đòn bẩy. Nghiêm Tân thường luyện công trong rừng, trên núi, ở những vùng gần mạch nước là những nơi có địa từ mạnh, mượn ngoại lực của địa từ trường trợ lực, có thể thúc đẩy nội khí tăng trưởng.

    Để đạt tới đỉnh cao trong võ công, Nghiêm Tân ghi lòng tạc dạ giáo huấn của sư phụ, giữ nghiêm “Thất giới” (tức là bảy điều kiêng kị). Ngoài kiêng rượu, sắc, tài, khí còn kỵ ngôn (không xuất ngôn hại người), kỵ ngủ (đêm luyện công vào giờ Tý, buổi sáng lại phải dậy sớm vào giờ Dần để luyện công, rất ít ngủ). Đồng thời Nghiêm Tân quanh năm ăn chay, kiêng mỡ, lỵ tanh. Năm mười một tuổi, khi nhắm mắt phát công, những vật thể trước mắt nổi rõ trong đầu với hình khối và màu sắc hoàn toàn giống và rõ như đang mở mắt nhìn. Khi công phu đã thâm hậu, nhắm mắt phát động, Nghiêm Tân đã có thể thấu thị xuyên suốt cơ thể con người, không chỉ “thấy được” hình dáng bên ngoài, mà còn “thấy được” cả xương cốt máu xám, dây thần kinh phát sáng và dòng máu mầu sẫm đang tuần hoàn trong huyết quản.

    Năm mười ba tuổi, Nghiêm Tân đã có khả năng phát ra ngoại lực để chữa bệnh cho con người. Năm đó Nghiêm Tân trở thành học trò của lão y sư Trịnh Bá Chương, một thầy thuốc có tiếng tăm trong giới đông y Trung Quốc. Năm 1974, Nghiêm Tân thi vào Học viện y khoa Thành Đô, đi sâu học tập một cách hệ thống kiến thức lý thuyết và thực hành của Đông y và Tây y. Năm tháng trôi qua, Nghiêm Tân đã tập hợp được trong mình những hiểu biết y học, võ thuật, khí công và nhiều công năng đặc dị khác, rèn luyện đạt tới một bản lĩnh kỳ diệu, một tài năng chữa bệnh thần kỳ. Trở thành một thầy thuốc hành nghề giữa dân gian, ông làm được những kỳ tích con người khó tưởng tượng nổi, được thiên hạ to6ng xưng là “Thiên phủ thần y, Hoa Đà tái thế”.

    Khí công chữa bệnh mang đầy sắc thái truyền kỳ, nhưng lại là một sự việc có thật trong cuộc sống hiện nay ở Trung Quốc, mà Nghiêm Tân là một sự thật sinh động.  “Huyền thoại” về Nghiêm Tân có rất nhiều, chúng tôi xin nêu ở đây một vài câu chuyện “người thật việc thật”.

1.      Chữa đau bụng và giải độc

    Năm 1978, tại công trường mở rộng nhà ga xe lửa Thành Ðô, một người thợ trẻ đột ngột bị đau bụng dữ dội, cơn đau dồn dập làm anh ta lăn lộn giãy giụa dưới bùn đất, mồ hôi lạnh vã ra nhễ nhại.  Vừa lúc ấy Nghiêm Tân đi qua, tình cờ nhìn thấy liền bảo học trò là Trần Bang Vinh lấy một cốc nước, tự tay Nghiêm Tân đưa cho người thợ trẻ, như một chuyện thần kỳ, sau khi uống hết cốc nước, anh dứt hẳn cơn đau và đứng ngay dậy xúc động lẩm bẩm:  “Hôm nay gặp được Tiên Phật rồi”.  Thật ra đối với Nghiêm Tân đó là chuyện bình thường, nước thường hoặc rượu bia, Nghiêm Tân đều có thể dùng để chữa bệnh; thậm chí chỉ với một nhánh cỏ xanh ven đường, cũng cứu nổi mạng sống con người.

    Một ngày năm 1983, có một phụ nữ ở Cẩm Dương, gặp bê bối trong việc gia đình, nghĩ bế tắc, uống thuốc trừ sâu tự tử, lúc được phát hiện thì đã ở trong tình huống nguy kịch.  Người nhà cuống quít vội đưa chị đi bệnh viện, trên đường thật may vừa đúng gặp Nghiêm Tân ông liền điểm huyệt và vận khí phát công cấp cứu, chỉ trong phút chốc người đàn bà ấy nôn thốc nôn tháo, rồi hồi tỉnh dần.  Nghiêm Tân nhổ mấy nhánh cỏ xanh ven đường, dùng tay vò qua rồi bảo người phụ nữ nhai nuốt, chỉ với chừng ấy thôi, đã cứu sống một mạng người.

2.      Chữa gãy xương

    Công lực của Nghiêm Tân có thể làm cho xương cốt bị gẫy vụn rồi trở thành lành lặn như nguyên.  Vào khoảng mười giờ sáng ngày 27-4-1984, một công nhân trẻ của nhà máy thép Trùng Khánh tên là Túc Bình, bị tai nạn giao thông.  Chiếu X quang ở bệnh viện cho biết:  Hai xương bả vai bị gãy rời, vỡ vụng, khớp vai phải thoát vị.  Một tháng trôi qua, vai anh ta vẫn không động đậy được, qua kiểm tra, bệnh viện ấy chịu bó tay.  Túc Bình được chuyển tới Viện Nghiên cứu Ðông y Trùng Khánh, xin Nghiêm Tân chữa trị.  Nghiêm Tân lặng lẽ ngồi trước nạn nhân.  Hai tay duỗi ngửa từ từ nhập tịnh.  Sau mấy nhịp thở sâu, ông mở miệng:  “Hai xương bả vai gãy rời vụn.  Chỗ ghép nối ở điểm bên phải xương bả vai khoảng chừng ba phân bị trệch”.  Những điều chẩn đoán bằng phát công thấu thị của Nghiêm Tân hoàn toàn khớp với kết quả chiếu điện quan sau đó.  Tiếp đó, những dây băng chằng chịt quấn chặt lấy thân thể Túc Bình được cởi bỏ hết.  Nạn nhân được dìu nằm sấp trên giường.  Nghiêm Tân huy động cả hai tay băm đấm, xoa, bóp mạnh mẽ trên lưng Túc Bình, làm anh ta có cảm giác buồn buồn, tên tê.  Cả một vùng sau lưng mát lạnh.  Hai mươi phút sau, Nghiêm Tân thu hồi công lực, đi thăm bệnh ở các phòng khác.  Khoảng nửa giờ sau, ông quay lại nói với Túc Bình vẫn ngoan ngoãn nằm im trên giường. “Xoay ngửa người lại”. Anh ta sửng sốt nhìn Nghiêm Tân, nghĩ tai mình nghe nhầm, Nghiêm Tân hiểu ý nói thêm: “Ðừng sợ, cứ làm như là chưa từng bị làm sao ấy”. Nghe vậy, Túc Bình lấy sức xoay mìn! h và nằm ngửa ra một cách dễ dàng. “Bây giờ anh hãy làm mấy động tác giã giò co tay trên giường!”. Như huấn luyện viên đang ra lệnh cho vận động viên của mình. Nghiêm Tân nói: “Sợ gì nào, anh khỏi hẳn rồi mà!”. Túc Bình xúc động quay sấp mình, làm liên năm lần động tác co tay giã giò. Sau đó, theo lệnh của Nghiêm Tân, anh ta xuống giường, bước ra cửa, nắm lấy khung cửa làm một mạch ba mươi lần động tác co tay trên xà, còn dùng một tay nhấc lên vật nặng trên hai mươi cân.

    Ngày 10-2-1985, hai bác sĩ Lý Du và Từ Mãn ở quân y viện Tây Nam đã khám lại cho Túc Bình. Qua kiểm tra X quang và chụp phim, chứng thực vết thương đã lành hẳn, ngay những chỗ xương bị gãy vụn trước kia cũng không còn để lại dấu vết gì.

    Từ đó trở đi, công năng hai vai của Túc Bình đã hồi phục hoàn toàn. Trở lại nhà máy, những phối kiện thép nặng hàng tạ anh ta lại có thể bấy dịch dễ dàng. Anh có thể dùng sức vai để nâng vài tạ mà vẫn bình thường.

    Gặp những ca gãy xương, Nghiêm Tân chủ yếu dựa vào phát ra ngoại khí để trị liệu. Hình thức phát công này rất đa dạng. Có lúc phát công ở sát và gần cũng có khi phải phát công ở cự ly xa, hoặc cách vật cản như bức tường, cây cối… cũng có khi lại trực tiếp tiếp xúc với một bộ phận bị thương tổn của bệnh nhân để phát công.

    Cháu Dư Lập Ðộ chín tuổi, là con ông Trần Xương Cung ở nhà máy hoá chất Tứ Xuyên bị gãy dập ngón tay cái hồi tháng 4-1984. Nghiêm Tân dùng hai bàn tay mình kẹp chặt lấy ngón tay gãy của cháu rồi phát khí, cháu nói là cảm thấy nóng bỏng từng đợt ở ngón tay đó, nửa giờ sau, ngón tay cháu khỏi hẳn. Xương ngón tay trở lại lành lặn như nguyên.

    Ngày 6-7-1985 anh Dương Diệu Tổ ở Liên hiệp công đoàn thành phố Trùng Khánh bị gẫy xương bàn tay phải, mu bàn tay sưng to như một chiếc bánh bao, năm ngón tay cứng đờ. Nghiêm Tân được mời đến. Trước tiên, ông điểm mấy huyệt vì trên người Dương Diệu Tổ. Diệu Tổ cảm thấy như có dòng điện chạy qua khắp người mình. Sau đó Nghiêm Tân bước ra phòng ngoài, cách bức tường để phát công vào bệnh nhân, bệnh nhân cảm thấy toàn thân mình như trôi nổi lên, chỗ bị thương thấy giật giật lên một lúc, rồi không còn thấy đau đớn nữa. Hai giờ sau vết thương khỏi hẳn. Tay hết sưng và công năng đã hồi phục.

4.      Chữa teo cơ

    Năm 1984, chị Chu Quế Trân, giáo viên trường tiểu học số hai huyện Mật Vân, ngoại thành Bắc Kinh bị phong thấp, dẫn đến đau thắt lưng và nhức đầu.  Ðùi trái bị teo cơ, hai chân dưới gần như liệt.  Nhiều thầy thuốc Ðông, Tây y nổi tiếng điều trị vẫn không khỏi.  Trong cơn tuyệt vọng, chị viết thư cầu cứu bác sĩ Nghiêm Tân.  Sáng 24-5-1986, bác sĩ Tân đến nhà, vừa hỏi chuyện Quế Trân, vừa ngầm vận khí công chữa bệnh cho chị.  Chu Quế Trân kể lại:  “Ðang ngồi nói chuyện, tôi cảm thấy hai vai như có luồng gió thổi qua, rất lạnh.  Tôi gọi người nhà lấy thêm áo mặc.  Song bác sĩ Tân bảo:  “Ðừng sợ, tôi đang dùng khí công loại bỏ khí thấp trên người chị”.  Một lúc sau, nhà tôi thấy cánh tay trái bác sĩ ướt đầm đìa, còn cánh tay phải hoàn toàn khô ráo, đó là phép “dẫn đạo khí công”.  Sau đó bác sĩ Tân bảo tôi vào nằm nghỉ trong gian phòng nhỏ.  Mấy phút qua đi, tôi thấy một cảm giác kỳ lạ, như có luồng điện chạy qua toàn thân, các đốt sống cũng động đậy.  Cảm giác đau lưng mất dần.  Tôi ngủ thiếp đi, lúc mở mắt, nhỏm dậy lưng không đau.  Xuống khỏi giường tôi thử vặn người, đá chân, hoạt động thoải mái.  Bác sĩ Tân đã phát công chữa bệnh cho tôi qua bức tường suốt năm giờ liền, từ một đến sáu giờ chiều.  Bệnh của tôi đã khỏi hẳn”.

5.      Chữa hoại tử

    Một cán bộ xưởng máy kéo Bắc Ninh bị loại tử xương mắt cá chân, nhiều năm không đứng, không ngồi được, bệnh viện nói phải tháo khớp. Anh tìm đến Nghiêm Tân. Bác sĩ Tân bảo bệnh nhân ngâm chân vào một chậu nước, rồi bác sĩ ra chỗ vắng người vận khí công điều trị. Người bệnh ngồi im lìm như đang ngủ, gần ba giờ sau, Nghiêm Tân quay lại gọi dậy. Người bệnh trước đây không ngồi nổi mười phút, nay đã ngồi gần ba giờ, sau đó lại đi ra phố chơi một giờ liền. Bệnh nhân khỏi hẳn như là có phép lạ vậy.

6.      Rắn như thép

    Cuối năm 1986, Nghiêm Tân sang thăm Nhật Bản, cùng với đoàn đại biểu Hội nghiên cứu khoa học khí công Trung Quốc, vô tình ông đã tiếp một cuộc khiêu chiến của đồng nghiệp Nhật Bản, phải đọ khí hết phép và giành thắng lợi, làm thành một giai thoại thời sự.

    Hôm đó vào buổi tối ngày 17-11-1986, tại khách sạn Ðại Tân Cốc Tokyo, giới đồng nghiệp Nhật mở tiệc chiêu đãi các bạn Trung Quốc.  Giữa tiệc, ông Kusudu, Chủ tịch Hội nghiên cứu khoa học khí công của Nhật Bản phàn nàn với trưởng đoàn Trung Quốc Trương Chấn Hoàn, nỗi khổ do bệnh đau khớp khuỷu tay đã nhiều năm chữa trị nhưng vô hiệu của mình; ông muốn nhờ một nhà khí công nào trong đoàn Trung Quốc chữa trị giúp.  Trương Chấn Hoàn đã giao nhiệm vụ này cho Nghiêm Tân và đề nghị Nghiêm Tân sẽ nâng năm ly rượu lên Kusudu.  Khi dâng rượu sẽ phát công chữa bệnh.  Phương án trị liệu giàu kịch tính này làm người bạn Nhật Bản rất khoái.  Kusudu vốn là bậc lão thành trong giới khí công Nhật, công lực không phải loại thường.  Hơn nữa ông ta tửu lượng hơn người, từng có kỷ lục tối cao:  uống liền mười tám chai rượu mạnh mà không say, có biệt hiệu “Hũ rượu đại”.  Khi nhận nhiệm vụ, Nghiêm Tân ngầm phát công lực thăm dò biết rằng, dây chằng khớp của Kusudu bị tổn thương ở dạng mãn tính (trần cựu), ông rót một ly rượu nhỏ Mao Ðài, dùng hai tay nângcho Kusudu, Kusudu đứng lên nhậnh lấy, rồi uống một hơi cạn.   Lúc Nghiêm Tân định nâng tiếp ly th  hai thì đâu ngờ vị “Hũ rượu đại” này có vẻ chuếch choáng nói:  “Thôi, đổi uống bia”, rồi lại đòi chia cốc bia ít nồng độ này thành 4 lần uống, gọi là cho đủ năm ly.  Sau khi Kusudu nhăn nhó uống hết chỗ bia cuối cùng thì kỳ tích lập tức xuất hiện: với một bộ mặt đỏ gay, Kusudu giơ cao cánh tay đau của mình, co duỗi một lúc ! rồi vui sướng nói: “Hết đau rồi, không còn chút đau nào nữa! Công phu của Nghiêm tiên sinh quả thật cao siêu!”. Ông ta là người trong nghề, ông hiểu rằng chỗ rượu ấy đã được Nghiêm Tân xử lý bằng công lực, chỗ đau nơi khuỷu tay mình cũng đã được Nghiêm Tân phát khí chữa trị.

    Trong giới khí công của Nhật Bản cũng không thiếu những người không tin phục. Một hôm các đồng nghiệp hai nước Trung – Nhật đang vui vẻ toạ đàm, thì một nhà khí công Nhật Bản tên là Sukitari, tho6ng qua phiên dịch đề nghị được đấu “khí lực” để phân thắng bại với Nghiêm Tân. Không hiểu là do không nghe thủng ý của Sukitari hay do không hiểu sâu tính cách võ sĩ đạo của một số cao thủ trong giới khí công Nhật Bản, mà người phiên dịch sợ khi chuyển ngữ quá thẳng, làm tổn thương đến tình hữu hảo giữa đôi bên, nên ông đã dịch cho Nghiêm Tân là để “học hỏi lẫn nhau”.

    Nghiêm Tân vui vẻ nhận lời, nhưng khi nhìn sang đối phương Nghiên Tân cảm thấy sững sờ là một người đã luyện công, tập võ hơn ba mươi năm, hơn nữa lại có trong người những công n ăng đặc dị thần kỳ. Nghiêm TÂn nhận ra ngay “học hỏi lẫn nhau” ở đây bao hàm ý nghĩa gì. Sang Nhật lần này là một cuộc viếng thăm hữu nghị, Nghiêm Tân không hề chuẩn bị thi thố, đọ sức với bạn, nay họ đã chiếu thư, mà xem ra không phải là do ngẫu hứng nhất thời. Vừa rồi mình đã nhận lời, nếu làm thật, Nghiêm Tân tự hiểu công lực của mình có thể làm tổn thương đến đối phương, thậm chí có thể hủy các lục phủ ngũ tạng, như vậy không phù hợp với đạo đức trong võ lâm, không lợi cho tình hữu nghị giữa hai nước. Nhìn lại đối phương, rõ ràng không phải cỡ tầm thường, nếu có sơ suất, hậu quả khôn lường. Ngồi ở chỗ mình nhìn bên ngoài Nghiêm Tân có vẻ trấn tĩnh khác thường, nhưng trong đầu đã suy tính cân nhắc nhanh chóng. Sukitari không chút nể nang, lấy thế, vận khí, phát công lực mạnh nhằm thẳng vào mặt Nghiêm Tân. Mọi người nên hiểu đó là một nhà khí công có hạng của nước Nhật, châm cứu, điểm huyệt đều vào loại thượng thặng. Khi Sukitari vận đủ đan điền chi khí phát mạnh công vào Nghiêm Tân, thần lực đó hết sức lợi hại, nhưng Nghiêm Tân không hề cảm nhận chút nào, vẫn nói cười bình thường với mọi người, thản nhiên như không.

    Thấy luồng khí phủ đầu phát ra không có tác dụng gì, Sukitari liên tục tăng lực phát công, mồ hồi trên trán vã ra nhưng Nghiêm Tân vẫn ngồi ngay ngắn vững chãi. Thấy không ổn, Sukitari dùng khí thu công, đề nghị được thay đổi phương hướng phát khí từ sau lưng Nghiêm Tân, Nghiêm Tân ưng thuận thoải mái. Sukitari lại lấy thế, liên hồi vận khí, nhằm đúng lưng Nghiêm Tân phát công ác liệt, nhưng vẫn vô hiệu, anh ta ướt đẫm mồ hôi, trong lòng cảm thấy lạ lắm. Chính diện tấn công không thấy nhúc nhích, phát công từ sau lưng cũng không thấy nhúc nhích, phát công từ sau lưng cũng không thấy suy chuyển, hay là do cự ly quá xa? Sukitari liền đến sát bên Nghiêm Tân, áp bàn tay vào lưng ông, vận toàn lực phát khí, dùng cả cơ cánh tay đẩy mạnh vào lưng Nghiêm Tân. Không ngờ cứ như bị va phải một hòn đó to, anh ta mệt mỏi thở gấp, mồ hôi vã ra như tắm, mặt đỏ gay. Nghiêm Tân vẫn ngồi như không có việc gì xảy ra. Sukitari hiểu rằng hôm nay đã gặp phải cao thủ. Nếu như chỉ dựa vào phát lực khí công và cậy sức húc bừa bãi thì chỉ có thất bại thảm bại. Anh ta đưa hai tay điểm luôn xuống huyệt Bách hội trên đỉnh đầu Nghiêm Tân. Ðây không phải là trò đùa, nếu huyệt này bị cao thủ điểm trúng thì chí ít cũng bị ngây ra như gỗ. Nhưng Nghiêm Tân vẫn vững như Thái Sơn, an toạ bật động, không hề cảm thấy gì khác thường. Lúc này nhìn bại cục đã định, Sukitari mồ hôi đầm đìa, thở hổn hển, trợn tròn hai mắt, bất ngờ vung ra đòn hiểm độc cuối cùng, giơ ngón tay bắt mạnh vào động mạch họng của Nghiêm Tân. Tóm bắt mạch vào đ�! ��ng mạch họng là ngón đòn hiểm độc nhất. Người bị bắt trúng nếu không chết ngay thì sẽ bị tổn thương. Tuy vẫn ngồi yên thản nhiên, nhưng Nghiêm Tân hiểu rõ tính chất leo thang nâng cấp trong các động tác mà đối phương tung ra. Nhanh như cắt, khi tay đối phương vung tới, Nghiêm Tân không né tránh, cũng không trả đòn mà ông quay hẳn đầu lại để cho Sukitari tóm bắt “ngon lành”. Kết quả là Nghiêm Tân vẫn bình an. Ðến nước này, nguyên khí trong người Sukitari mất sạch, chân tay bủn rủn, toàn thân rã rời, mới biết vị khí công danh sư trước mặt mình này quả là “danh bất hư truyền.” Ông ta cúi mình nhận thua tại chỗ và nói thành khẩn: “Công phu của ngài quả là lợi hại, cao siêu! Xin bái phục.” Rồi gọi người con trai đến, hai cha con cùng khẩn cầu bái Nghiêm Tân là sư phụ. Cuộc đọ võ hấp dẫn này làm cho người Nhật Bản vô cùng thán phục tài nghệ của Nghiêm Tân. Kế hoạch dự định sẽ có một cuộc đọ quyền giữa một quyền sư Nhật Bản với Nghiêm Tân, và một nhà kiếm thuật đọ kiếm với Nghiêm Tân được đối phương chủ động xin rút bỏ.

7.      “Tác dụng xúc tác” của ngoại khí đối với các phản ứng hoá học

    Ngày 22-12-1986, tổ chức nghiên cứu khoa học khí công Trường Ðại học Thanh Hoa hợp tác với bác sĩ Nghiêm Tân tiến hành thí nghiệm một tác động của khí công đối với các phản ứng hoá học. Trên bàn thực nghiệm bằng đá đặt một bình thủy tinh thạch anh, trong chứa đầy hỗn hợp gồm khí Kyđrô và ôxitcacbon (CO). Trong công nghiệp muốn giữa hỗn hợp này có phản ứng với nhau, cần có áp suất vài chục át-mốt-phe, độ nóng 300 độ C và chất xúc tác. Nhưng lúc này trong bình chỉ có áp suất mo6.t át-mốt-phe, cũng không có chất xúc tác, nhiệt đo6. trong phòng là 13 độ C. Sau khi Nghiêm Tân phát cường công, một vị giáo sư đem bình đến đo ở máy quang phổ hồng ngoại. Qua máy tính xử lý, phổ đồ hiện trên màn hình huỳnh quang ti-vi màu, cho thấy trong bình đã xuất hiện hoá chất mới, phản ứng hoá học đã xảy ra dưới tác dụng của khí công. Mấy vị giáo sư, chuyên gia có mặt trong phòng đều công nhận thí nghiệm thành công, không phải tà thuật, phương pháp thí nghiệm chặt chẽ: người chỉ huy và người phát khí công đều không trực tiếp tham gia chuẩn bị vật thử và đo đạc.

    Ngày 27-12-1986, thí nghiệm trên được lập lại, chỉ khác là Nghiêm Tân phát công từ một nơi cách phòng thí nghiệm bảy ki lô mét. Ðịa điểm thí nghiệm cũng khác nhau. Một máy lade trong phòng thí nghiệm lade, một nước và khí hỗn hợp trong một buồng tối. Kết quả chứng tỏ phát công điều khiển từ xa, không những có thể lặp lại kết quả thí nghiệm lần đầu, mà hiệu quả còn tốt hơn.

8.      Làm thay đổi cấu tạo phân tử, tế bào

    Ngoài ra, Nghiêm Tân còn phát công ở những khoảng cách khác nhau, vào một loại vật chất có khoảng cách khác nhau, vào một loại vật chất có hiệu ứng sinh lý như nước muối sinh lý (physiological saline, normal saline) dung dịch gluco.  Khoảng cách thực nghiệm từ vài mét tới vài chục mét, từ vài ki lô mét tới hai trăm ki lô mét.  Trong không đầy một tháng đã tiến hành 10 cuộc thí nghiệm vào bảy, tám loại vật chất khác nhau.  Lần thí nghiệm lớn nhất có gần hai mươi vị giáo sư, giảng sư, nghiên cứu sinh tham gia, huy động bảy máy phân tích cỡ lớn.  Một loạt thí nghiệm đó chứng tỏ “ngoại khí” do nhà khí công phát ra để làm thay đổi rõ rệt kết cấu phân tử của axit nucleic tế bào, có thể tác động tới nhiều loại phân tử vật chất tạo nên tế bào.  Đó là một trong những nguyên nhân khiến khí công chữa khỏi bệnh.

    Hơn ba mươi năm tu thân luyện công, hơn ba mươi năm hành y chữa bệnh, với y thuật thần kỳ và y hiệu như thần thoại của mình.  Nghiêm Tân đã để lại nhiều “câu đố” không thể giải thích nổi.

    Tuy có công lực thâm hậu, thần diệu nhưng Nghiêm Tân không phải là thần tiên, không thể chữa trị được bách bệnh.  Ông đã nhiều lần nói, những cao thủ có bản lĩnh tuyệt đỉnh không thiếu gì trong dân gian.  Ông vẫn phải tiếp tục tầm sư học đạo, tinh luyện công lực.  Đồng thời Nghiêm Tân cho rằng khí công cao cấp và những công năng đặc dị không phải là thứ gì thần bí siêu hình.  Con người có chừng mười bốn tỷ tế bào đại não, thông thường mới chỉ sử dụng độ hơn một triệu tế bào, còn tuyệt đại đa số các tế bào não được tồn chứa một cách lặng lẽ, vô dụng.  Ông mới luyện công được mấy chục năm, cùng lắm cũng chỉ mới khai thác thêm được một phần rất nhỏ nữa trong sự tàng trữ khổng lồ ấỵ  Luyện công lực như vậy còn rất xa mới tới được đá sâu của công phu, có luyệt suốt đời cũng không tới nổi sự tận cùng của tiềm năng con người.

    Các dạng năng lượng đặc biệt khác thường (hay còn gọi là công năng đặc biệt khác thường) mà Nghiêm Tân có thể bức xạ mỗi khi “phát công” còn là một thế giới đầy bí ẩn đối với mỗi chúng ta.  Ở đầy các dạng bức xạ năng lượng của khí công và trường sinh học (hào quang sinh học, chất plasma học) có mối liên quan nào chăng?  Phải chăng tập khí công có thể khai thát được những năng lượng sinh học tiềm ẩn trong mỗi con người – Năng lượng trường sinh học?

    Giải đáp được vấn đề này thật không dễ dàng, chúng ta tin rằng, rồi đây một ngành khoa học mới sẽ ra đời nghành khoa học của thế kỷ 21 sẽ giúp ta hiểu sâu về những khả năng của chính bản thân mình.

 Nhà khí công và võ sĩ quyền anh

    Cuối năm 1985, công chúng yêu võ thuật của thành phố New York (Mỹ) đã chứng kiến một cảnh tượng kỳ lạ:  võ sĩ quyền anh “tầm cỡ” Mỹ đã xin “chào thua” nhà khí công nhỏ bé Trung Quốc, khi trận đấu võ chưa bắt đầu.  Một ngày giá lạnh sau lễ Nô-en, thầy trò Hải Đăng và Phạm Ứng Liên (trong đòan đại biểu điện ảnh Trung Quốc đang thăm ở Mỹ) đã biểu diễn những đường võ kỳ tài, trước ống kính các máy quay, máy ghi và khán giả đặc kín nhà hát New York.  Khán giả yêu võ thuật vô cùng kinh ngạc và thán phục hai bậc võ sư Châu Á nhỏ bé nhưng đầy tài năng này.  Sau nhiều lần cúi đầu đáp lễ giữa tiếng vỗ tay không dứt của khán giả, Phạm Ứng Liên đang chuẩn bị bước xuống, thì một thanh niên da trắng lực lưỡng, cao hơn Liên hẳn một cái đầu, bước lên sân khấu đầy tự tin, yêu cầu được đấu võ tại trận với anh.

    Đây là một quyền sư dạy võ, ở một lò võ lớn bản xứ, tên anh ta là Mai-cơn, không chỉ là một võ sĩ quyền anh tầm cỡ, từng có kỷ lục hạ đo ván đối thủ ngay đòn đầu tiên, anh còn lắm được nhiều môn võ công nước ngoài như: nhu đạo, không thủ đạo, Karate…  ngoài ra anh đã từng bỏ ra hai năm để nghiên cứu môn phái “Vịnh xuân quyền” của Trung Quốc.

    Qua phiên dịch, Phạm Ứng Liên n’i với Mai-cơn “Anh có thể dùng quyền cước hay gậy gộc công kích vào bất kỳ vào bộ phận nào trên thân thể tôi, trừ bộ hạ và phần đầu.  Tôi sẽ không tránh né cũng không phản kích.  Nếu anh có thể đánh đổ được tôi, chúng ta sẽ đấu võ với nhau.  Nếu không tôi xin được đáp lễ anh một quyền.  Tất nhiên như “ngài” muốn, thì tôi cũng sẽ vui lòng miễn bỏ quyền ấy.”

    “Ồ” — Mai-cơn cười nhạt.  Sau một phút ngưng thần, anh ta vận đủ khí lực và nhằm đúng vào vùng tim Phạm Ứng Liên ra luôn một đòn “Hắc hổ moi tim”.  “Đùng”, tiếng chạm đòn vang như trống dậy.  Trong tiếng ồn kinh hãi của khán giả, Phạm Ứng Liên vẫn vững chãi đứng đó, vẻ mặt không chút thay đổi.  Mai-cơn quay lại nháy mắt với khán giả, giơ quả đấm lên nhìn một cách hài hước.  Tiếp đó anh ta vung quyền cực mạnh đấm tới tấp vào ngực, bụng, lưng, và phần sườn Phạm Ứng Liên.  Nghe tiếng đòn “đùng đùng” ghê rợn đó, những khán giả nhát gan, phải nhắm mắt quay đi.  Thấy Phạm Ứng Liên vẫn thản nhiên mỉm cười tươi tắn, Mai-cơn liền sử dụng cước pháp Karate, liên tiếp phóng ra những cú đá dữ dằn vào vùng lá lách anh.

    Cả một trận quyền cước hùng hổ ấy làm anh chàng Mai-cơn vạm vỡ mệt lử, thở dồn dập.  Song, bên bị đòn thì vẫn mỉm cười, bình an như không có việc gì xảy ra cả.

    Thấy Mai-cơn không muốn tấn công tiếp, người phiên dịch nhắc nhở:  “Hình như bây giờ đến lượt ngài Phạm Ứng Liên xuất chưởng?”  Mai-cơn thót mình, lắc đầu lia lịa:  “Không, không…”, rồi bắt chước thói quen của các võ sư phương Đông, anh ta khoanh tay cúi chào và nói giọng kính phục:  “Võ nghệ của ngài thật là lợi hại, thật là cao siêu”.  Anh ta còn để lại danh thiếp cho Phạm Ứng Liên, rồi mới bước xuống sân khấu.

    Đây là một thực tế khách quan, chúng ta thừa nhận mà chưa hề giải thích được cơ chế của hiện tượng này.

Thò tay vào vạc dầu sôi

    …Vào tháng tư năm 1987, có một buổi biểu diễn ca múa nhạc tại phòng ca múa “Quý Tân” của một khách sạn ở thành phố Ngũ Dương (Quảng Châu, Trung Quốc); đang lúc sôi nổi thì người phụ nữ chủ trì buổi diễn bước ra tuyên bố:  “… Sau đây là một tiết mục độc đáo:  tiên sinh Lương Chính Long từ Hồng Kông tới, sẽ biểu diễn “Nhiệt ứng công”.”

    Người ta khiêng ra một chiếc vạc lớn, đường kính tới hơn một mét.  Vạc được đặt trên một lò lửa đang cháy rừng rực.  Trong vạc, dầu đang sôi, một người vứt vào trong vạc dầu hai, ba mảnh tôn, lập tức những mảnh tôn theo dầu sôi sùng sục, nổi chìm lên xuống.  Có thể thấy rõ là nhiệt độ dầu đang rất cao.

    Lương Chính Long bước ra, râu dài, tóc dài, vai khoác một chiếc áo choàng mầu vàng, chân đi giầy vải đen – trang phục của võ phái; ông đứng trước vạt dầu, tĩnh tâm, tĩnh khí, ngưng thân một lát, vận công phát lực, khí theo ý chuyển, hai tay phát động vài chiêu thức như chim ưng vồ mồi, rồi hét lên một tiếng “hây”, tay phải thọc thẳng vào vạc dầu sôi, trong khoảnh khắc vớt ra một thanh dùi sắt dài chừng một mét, vứt trên mặt đất.  Mọi người vừa thán phục vừa kinh ngạc.  Sau đó, mọi người đứng vây quanh Lương Chính Long để quan sát chuyện trò với ông.  Người ta chỉ thấy bàn tay phải của ông hơi to hơn bàn tay trái, sau khi vớt vật từ tron dầu sôi ra, da tay phải hơi hồng lên một chút.  Ngoài ra không có gì khác cả.

    Lương Chính Long chỉ vào cái đai thắt chặt trên cổ tay và nói:  “Thường chỉ sau khi biểu diễn xong, tôi phải toạ công ngay để phát tán hết nhiệt độc.  Nhưng lần này, vì không toạ công ngay được, nên tôi phải thắt cái đai này phòng nhiệt độc vào tim.”

    Người thường bị bỏng thì da phồng rộp lên và mọng nước, nhưng Lương Chính Long sau bảy ngày chỉ bong đi một lớp da mỏng.  Sau mười lăm ngày, lại tiến hành biểu diễn được.

    Khỉ hỏi ông về biệt tài này, Lương tiên sinh kể:  “Công phu này gọi là Nhiệt ứng công, thuộc vê nội ngạnh công của Thiếu lâm bắc phái.  Trong Thiếu lâm Đạt ma quyền có hai môn “Ứng trảo công” là Nhiệt công và Lãnh ưng”.

    Luyện “Nhiệt ứng công” thì tay phải tẩm luyện trong cát nóng, nước nóng.  Khi vận động, kinh lực tập trung vào một tay, nhiệt phát tán từ tay có thể nâng cao nhiệt độ của một gầu nước lạnh.

    Luyện “Lãnh ưng công” thì tay phải tẩm luyện trong một khối băng, nếu công phu thành công thì có th ể làm cho nhiệt độ bồn nước hạ thấp xuống.

    Thuở đó, Lương Chính Long sống ở Quảng Châu, ngày ngày đi học phải đi qua một ngõ nhỏ.  Lương phát hiện ra một ông già ngày ngày luyện công không hề ngưng nghỉ.  Thấy thích thú, Lương ngày nào cũng tới xem ông tập, thế là hai người trở thành sư phụ và đệ tử.  Lương Chính Long bắt đầu luyện công từ ngày đó, tới nay đã hơn hai mươi ba năm.

    Năm năm đầu tập luyện công phu cơ bản, sau đó luyện “tháp sa” (cắm tay trong cát được hung nóng).  Hai năm sau, luyện tập lấy vật từ nước sôi, sau đó lấy vật từ trong dầu sôi.  Hơn hai mươi năm đã tro6i qua, sư phụ họ Đàm đã tạ thế, nhưng Lương Chính Long vẫn ngày ngày luyện tập công phu không hề ngưng nghỉ.

    Lương Chính Long còn biểu diễn, lấy dùi nung đỏ từ trong lò than đá của xưởng luyện gang thép.  Đạo diễn vô tuyến truyền hình hôm ấy lấy ngay nhiệt kế giới hạn 400 độ C đo nhiệt nhiệt độ lò than, nhưng nhiệt kế nổ ngay.  Ngoài ra, thỉnh thoảng Lương Chính Long còn biểu diễn công phu tay không bóp vụn hai mươi bốn chiếc thìa.

    Thời gian gần đây, ngoài những yêu cầu biểu diễn hoặc đóng phim ở trong nước, Lương Chính Long cũng đã được mời đi biểu diễn công phu ở nhiều nước trên thế giới.

    Một cuốn sách xuất bản cuối năm 1984 ở Mỹ với tựa đề “Thế giới kiện học sĩ đại toàn”, ghi chép các kỷ lục công phu của các kỳ nhân, cũng ghi nhận công phu “Nhiệt ứng công” của Lương Chính Long.  Sách ghi nhận “Công phu này có thể đương đầu với nhiệt độ 1300 độ C”.

PHẦN II:  CÁC HIỆN TƯỢNG TRƯỜNG SINH HỌC

*        Các hiện tượng mang tính thông tin

*        Cô bé có khả năng tiếp xúc với sinh vật ngoài trái đất

*        Người phụ nữ có khả năng nhìn xuyên suốt cơ thể người khác

*        Nhà tiên tri huyền bí

*        Vanga – Nhà tiên tri tài ba

*        Những người có thể thấy được tương lai

*        Nhìn bằng tai

*        Xem bói bằng gương

*        Người có đôi tay thần

*        Kính hiển vi sống

*        Người có cặp mắt thần

*        Nhìn bằng da

*        

*        Các hiện tượng mang tính năng lượng

*        Người nam châm

*        Thỏi nam châm sống

*        Cô bé từ trường

*        Người phát điện

*        Tia chớp trong phòng

*        Người tàng hình

*        Cô bé phóng lửa

*        Cậu bé bốc cháy

*        Phương pháp chữa bệnh kỳ lạ của bác sĩ A-na-tô-li Ca-spi-rốp-ki

*        

*        Các hiện tượng mang tính thông tin năng lượng trường sinh học

*        Bàn tay có khả năng kỳ diệu

*        Cô phù thủy mắt xanh

*        Ðôi bàn tay của thiên thần

*        Khả năng kỳ lạ của đôi bàn tay

*        Ðôi tay có phép màu

*        Chữa bệnh qua điện thoại

*        Con người với khả năng kỳ lạ

*        Bàn tay kỳ diệu của Nina Kirianôva

*        Trí nhớ kỳ diệu

Cô bé có khả năng tiếp xúc với sinh vật ngoài trái đất

    Bé gái Theodora, mười ba tuổi đang sống êm đềm với gia đình, ở một làng nhỏ gần thành phố Shoumen (Bungari), thì bỗng một hiện tượng lạ lùng xảy ra làm đảo lộn tất cả.  Lần thứ nhất vào một ngày tháng 2-1988, vườn cây cùng ngôi nhà của bé ở đều rung chuyển.  Lần thứ hai xảy ra vào một năm sau, lần này rung động mạnh hơn và đồ đạc trong nhà tự dưng di chuyển một cách đáng kinh ngạc.  Hiện tượng rung động xảy ra, làm mọi người trong gia đình Theodora đều vô cùng sợ hãi, riêng Theodora thì gần như khiếp đảm và từ đó cô thường bị khủng hoảng thần kinh.  Khi cơn khủng hoảng qua đi, cô bé thường kể về những hiện tượng kỳ lạ.

    Bé Theodora kể rằng:  cô đã nhìn thấy nhiều sinh vật lạ lùng từ một hành tinh xa xăm trong vũ trụ đến viếng thăm trái đất và đã đột ngột đi vào nhà bé.  Chính Theodora đã nhìn thấy họ thật rõ ràng.  Đó là những sinh vật nom thật kỳ dị, họ là những cư dân ngoài trái đất, có đời sống cao và có nền văn minh hơn hẳn con người trên trái đất.  Họ có khả năng di chuyển rất nhanh và rất xa bằng tốc độ ánh sáng.  Đặc biệt chỉ có Theodora là có thể tiếp xúc và nhìn thấy những sinh vật này.  Bé cho biết:  họ có nhiều thể dạng, có sinh vật giống người, tuy nhiên người đẹp thì thật đẹp, như thiên thần trong các huyền thoại.  Có người thật xấu, có những sinh vật trông thật dữ tợn, như ác quỷ hiện hình.

    Hiện tượng kỳ lạ về bé Theodora đã lan truyền khắp nước Bungari, gần như tất cả mọi người, nhất là giới y học rất quan tâm.  Riêng cô bé Theodora, thì sau mỗi lần tiếp xúc với các sinh vật ngoài trái đất, càng có nhiều cử chỉ khác lạ, có lúc cô bé lo lắng sợ sệt, có lúc bé lại rất sáng suốt, bình tĩnh, diễn đạt các vấn đề rất trôi chảy, mạch lạc.  Sự hiểu biết của cô bé hình như ngày càng phát triển tốt hơn.  Các bác sĩ thần kinh và các nhà tâm lý học Bungari đã tiến hành nhiều cuộc tiếp xúc khám bệnh cho Theodora, đều khẳng định:  cô bé không bị bệnh tật hoặc một bệnh tâm thần nào cả.

    Nhà nghiên cứu các hiện tượng vũ trụ Valentin Phomenko (Liên Xô) đã được các nhà bác học Bungari mời sang đê/ tìm hiểu hiện tượng bé Theodora.  Sau khi tiếp xúc với cô bé, nhà nghiên cứu hiện tượng vũ trụ Liên Xô đã cho báo chí biết rằng:  “Quả thật, đây là người có khả năng tiếp xúc và nhìn thấy các hiện tượng, các sinh vật lạ của vũ trụ mà những người khác trên quả đất không có được”.  Theo Valentin thì cô bé Theodora có khả năng lớn lao về thần giao cách cảm, nên cô bé có thể đi vào trong một thế giới không phải ba chiều như của loài người trên trái đất, mà là bốn chiều.

    Thần giao cách cảm là sự giác cảm về mặt tâm lý hay còn goại là Telepathy hoặc Télépathie.  Đó là khả năng mà con người có thể thu nhận được các thông tin ở rất xa, bằng một giác quan nào đó.

    Hiện này, phần lớn các nhà khoa học đã công nhận thần giao cách cảm là một hiện tượng thật, do một giác quan có thể gọi là giác quan thứ sáu cảm nhận.

    Theo các nhà nghiên cứu về thần giao cách cảm thì chính cô bé Theodora có giác quan “thứ sáu” ấy.  Cơ thể cô bé có được một trường sinh học đặc biệt, nên cô có khả năng thu nhận thông tin tư duy từ xa, giống như một máy thu vô tuyến điện vô cùng nhạy.  Theo B.B. Kadinski thì sóng điện từ, có kèm theo các hình ảnh của tư duy từ não người phát ra, để đi đến tế bào vỏ não của người nhận, có khả năng xuyên qua các trở ngại:  không khí, gỗ, nước, kim loại… và đi được khoảng cách rất xa.

    Nhờ thần giao cách cảm mà Theodora có thể xuất hiện được trong không gian bốn chiều và nhìn thấy, tiếp xúc được với các sinh vật ngoài trái đất như cô bé mô tả.

    Như trên đã nói, nhà nghiên cứu những kỳ bí của vũ trụ Valentin Phomenko đã cho rằng:  Cô bé Theodora có khả năng lớn lao về thần giao cách cảm, nên có thể đi vào trong thế giới không gian bốn chiều, trong khi loài người hiện đang sống trong một thế giới không gian ba chiều (chiều dài, chiều rộng và chiều cao).  Chính nhờ cái chiều thứ tư, mà cô bé được những diễn biến khác thường của những quá trình vật lý mới, mà con người trên trái đất chúng ta không có được.

    Chúng ta biết rằng, thế giới ba chiều của chúng ta gồm ba chiều cơ bản: chiều dài, chiều rộng, và chiều cao vuông góc với nhau.  Còn không gian bốn chiều thì ngoài ba chiều cơ bản trên, còn có chiều nữa, chiều này vuông góc với cả ba chiều trên sẽ tạo ra một không gian bốn chiều.  Chiều vuông góc với cả ba chiều trên được gọi là chiều thứ tư.

    Trong các chuyện khoa học viễn tưởng, đã viết rất nhiều câu chuyện liên quan đến chiều thứ tư.  Đó là những hiện tượng kỳ diệu, về những khả năng di chuyển trong không gian theo kiểu “cân đẩu vân”, như trong chuyện Tề Thên đại thánh có thể vượt hàng vạn dặm, hoặc xa hơn nữa, có thể vượt luôn cả hàng trăm triệu năm ánh sáng.  Theo tưởng tượng của các nhà văn viễn tưởng, thì điều này có thể được thực hiện chỉ trong thế giới không gian bốn chiều.

    Giả sử rằng, nếu có một không gian bốn chiều bao lấy không gian ba chiều của chúng ta, thì muốn vượt qua một khoảng cách xa xăm vô cùng tận, con người không cần phải đo vòng vo, mà có thể đạt tới đích thật mau, bằng cách tiến vào “cái khe hở” của chiều thứ tư.  Khe hở này chính là biên giới ngăn cách hai thế giới (không gian ba chiều và không gian bốn chiều).  Để dễ hiểu hơn, chúng ta hãy tưởng tượng rằng, có các sinh vật sống ở thế giới hai chiều.

    Thế giới của chúng chỉ có chiều dài và chiều rộng.  Như thế, chúng chỉ có thể di chuyển, hoạt động trong một mặt phẳng.  Chúnc không thể bước ra ngoài mặt phẳng và tiến vào chiều thứ ba như chúng ta được.  Do đó, những sinh vật hai chiều không biết gì về sinh vật ba chiều, một thế giới khác với thế giới hai chiều của chúng.  Có thể một lý do nào đó, đôi khi sinh vật hai chiều “có thể đạt được những điều kỳ bí” như khi chúng muốn di chuyển từ M đến N, qua một khoảng vô cùng xa và đạt tới đích thì phải trải qua hàng chục năm chẳng hạn.  Nhưng vì một lý do nào đó, mặt phẳng (không gian hai chiều) bị cong lại trong không gian ba chiều, nên điểm M bây giờ gần điểm N, hoặc trùng với N.  Lúc đó, sinh vật hai chiều sẽ đạt tới đích trong nháy mắt.

    Từ lý luận và tưởng tượng trên, chúng ta hãy nghĩ đến không gian bốn chiều.  Nếu thế giới ba chiều vì một lý do nào đó có sự cong đi (thuyết tương đối tổng quát cho biết là thế giới của chúng ta thực sự bị cong) thì tình trạng tưởng tượng như đã thấy khi mặt phẳng (không gian hai chiều) bị cong, khi đó từ không gian ba chiều, có thể có những sinh vật có khả năng đi vào chiều thứ tư và cô bé Theodora là một thí dụ điển hình.  Theo Cô-ma-côp thì chỉ có vật lý tương lai tổng quá, mới có khả năng giải thích được hiện tượng kỳ lạ và bí ẩn và trường hợp cô bé Theodora.

    Khoa học ngày này mới chỉ ở bước nghiên cứu.  Chúng ta tin rằng trong một tương lai không xa, với sự tiến bộ của nhiều ngành khoa học đặc biệt là ngành vật lý điện tử, tin học, vũ trụ, sinh học… con người sẽ hiểu rõ được hiện tượng kỳ lạ của Theodora.

Người phụ nữ có khả năng nhìn xuyên suốt cơ thể người khác

    Năm 1978, ở thành phố Donetsk thuộc Ucraina (Liên Xô) một dây cáp điện 380 Vôn bị đứt, đã gây tai nạn cho một nữ công nhân ba mươi bảy tuổi, tên là Yulia Vorobiova.  Suốt hai giờ liền các thầy thuốc ở trạm y tế cố gắng cứu chữa nạn nhân, nhưng vô ích…

    Sự cố xảy ra hôm thứ bảy, thứ hai tuần sau, một giáo sư thuộc Viện y học đưa một nhóm sinh viên đến nhà xác.  Một sinh viên đến bên cạnh nạn nhân coi như đã chết hẳn, bỗng thấy chị ta cử động, và chị được đưa ngay vào bệnh viện.  Sau hai tuần lễ, chị hồi tỉnh, rồi nói được, nhưng hai tháng sau đó, chị thấy đau đớn kinh khủng.  Chị kể lại:  “Sáu tháng liền tôi không ngủ được.  Hình như có cái gì luôn luôn cựa quậy trong đầu tối, cứ loé lên và nhức nhối ghê gớm trong tế bào của tôi”.

    Tất cả mọi sự chăm sóc và thuốc men đều vô hiệu.  Chị xin được ra viện và hy vọng về nhà mình chị sẽ ngủ được.  Hy vọng đó đã thành sự thật.  Chị ngủ ngon giấc và dần dần bình phục.   Chính lúc chị bình phục, đã xảy ra một việc làm đảo lộn mọi quan niệm cũ của chị về thực tại.  Chị kể:  “Một buổi sáng tôi ra cửa hàng mua thịt, tại bến xe, có một phụ nữ đang đứng chờ xe.  Tôi lại gần quan sát chị ta… và kinh khủng quá, hình như tôi đã nhìn xuyên qua thân thể chị ta.  Không, không, còn hình như gì nữa, tôi hoàn toàn nhìn thấy qua lớp quần áo và lớp da, tất cả ruột gan của chị với những chi tiếg nhỏ nhất.  Bây giờ tôi đã quen rồi, nhưng hồi đó, thì tôi cứ tưởng như mình hoá điên”.

    Câu chuyện này, tôi mới trực tiếp nghe kể lại năm 1987, nhưng trước đây, những người tôi quen đã cho tôi biết, ở vùng Dobasa có một phụ nữ chỉ nhìn người bệnh một lần, cũng có thể đoán được mọi thứ bệnh trong cơ thể.  Tất nhiên là thoạt đầu tôi không tin, và tôi quan tâm tìm hiểu sự việc bằng cách đến tận nơi.  Yulia vẫn ở Donetsk trong một căn nhà ba phòng với hai con, một trai, một gái đều là sinh viên.  Đó là một phụ nữ tầm vóc trung bình, tóc sáng, mắt nâu, da không bóng.  Thấy tôi, chị nhã nhặn hỏi:

    – Anh vu lòng để tôi nói rõ sáng nay anh đã dùng gì rồi chứ?

    – Tất nhiên – Tôi thích thú đáp, và tin rằng mình sẽ được cuộc vì sáng nay vội quá tôi chưa ăn gì.

    – Anh đã uống một thứ nước đo đỏ, chắc là nước bột hoa quả.

    Tôi sửng sốt.  Quả là tôi vừa uống hai ly ở khách sạn.  Tôi liền đề nghị được phép  xem chị khám bệnh.  Chị trả lời là không nhậnh bệnh nhân bao giờ.  Hàng nghìn người tìm cách nhờ chị giúp đỡ, có người đến tận nhà, có người viết thư cầu mong chị cứu họ “thoát khỏi tình thế hiểm nghèo”.  Chị buộc phải từ chối:  “Tôi không phải là thầy thuốc, mà chỉ có một ít kiến thức thô điển về y học mà tôi học lỏm được…”.

    Luồng điện đã làm chị bị mất sức một cách nghiêm trọng.  Đặc biệt là những lúc thay đổi thời tiết.  Chị thấy rất khó chịu và đau mình kinh khủng.  Tuy vậy, chị vẫn phải tiếp những người bệnh bám dai nhất.

    Với một phụ nữ từ xa đến, chị bảo ngay:

    – Chị không có bệnh gì đáng kể đâu, không cần uống nhiều thuốc như vậy.  Chẳng qua là vì cuộc sống thiếu vận động, làm cho cặn Ural đọng lại trong cơ thể.  Không nên tự buông lỏng mình, cần hoạt động tích cực hơn, chỉ có thế thôi.

    Khám một người bệnh khác, một người đàn ông đứng tuổi, chỉ sau không đầy một phút, chị nói:

    – Anh bị sưng lá lách.  Hôm qua anh đã uống rượu.  Anh không được uống vốtka, rượu vang.  Tuyệt đối không được uống các thứ đó.

    Tôi đã đi hỏi các thầy thuốc trong thành phố và được biết rằng họ rất coi trọng hiện tượng Vorobiova.  Bác sĩ S.Selderova tuyền bố:  “Yulia là một hiện tượng có một không hai.  Chị đã không đoán nhầm một hiện tượng nào.  Chị đặc biệt quan tâm tới trẻ em và không bao giờ nhận tiền thù lao, mặc dù chị chỉ có một khoản trợ cấp nhỏ để sống”.

    ỴEidvertine, bác sĩ trưởng bệnh viện số chín của thành phố công nhận:  “Vorobiova đoán bệnh rất chính ax’c.  Chị bảo mắt phải của tôi không nhìn rõ bằng mắt trái (từ trước tôi không để ý đến điều này), tai phải của tôi nghe tốt hơn tai trái (đúng là tôi đã bị chấn thương trong một lần bơi dưới biển).

    Praskovia P. ở cạnh nhà Vorobiova kể lại:

    – Một hôm, tôi thấy khó chịu.  Đội cấp cứu tới, các thầy thuốc nghi tôi bị nhồi máu cơ tim, thức chăm sóc tôi suốt sáu giờ, tôi bèn yêu cầu Vorobiova đến khám.  Chị tới, nhìn tôi và nói:  “Không phải nhồi máu cơ tim mà là co giật chỗ ống thực quản gặp dạ dày”.  Điều đó đã được xác nhận.

    Phép lạ chăng?  Chúng ta là những nhà duy vật.  Chúng ta có thể giải thích hiện tượng Vorobiova được không?  Trả lời câu hỏi của tôi, I. Taranenco, giáo sư giảng dạy tại Viện Y học Donetsk nói:  “Tôi nghĩ rằng người ta có thể giải thích hiện tượng này bằng tác động của luồng điện vào bộ não con người, làm cho nó có khả năng tiếp nhận bức xa tia hồng ngoại của các bộ phận trong cơ thể”.

Nhà tiên tri huyền bí

    Chúng ta đã được nghe nhiều chuyện về các nhà tiên tri thần bí của các thế kỷ trước.  Bí quyết nào đã giúp các nhà tiên tri dự đoán được trước tương lai của một con người, một đất nước, một dân tộc, thậm chí cả những biến đổi lớn lao trên hành tinh của chúng ta.  Điều này chưa biết ai có thể lý giải được.  Chúng ta chỉ có thể giả thiết, đó là những con người có tri giác “ngoại cảm siêu đặc biệt” xuyên suốt thời gian, không gian để nhận biết tương lai.  Ở nhiều nước trên thế giới, từ lâu người ta đã thừa nhận sự tri giác ngoại cảm là một hiện tượng khoa học có thật.  Hiện nay có nhiều trường đại học ở một số nước đang tiến hành nghiên cứu hiện tượng kỳ lạ này.  Còn đây là câu chuyện về nhà “đại tiên tri” của nước Pháp thế kỷ thứ XVI:  Mise Noch Dama, làm nghề thầy thuốc tại gia, nhưng ông rất quan tâm đến lịch sử, triết học, tôn giáo và đặc biệt là chiêm tinh học.  Nhà tiên tri đã bỏ bốn năm ghi lại toàn bộ những thành quả nghiên cứu của mình trong cuốn “Các thế kỷ”.  Cuốn sách gồm mười hai tập, mỗi tập gồm một trăm bài thơ tứ tuyệt.  Vì những bài thơ này đều là những bài thơ dự đoán về tương lai, nên còn goại là “thơ tiên tri”.

    Mở cuốn “Các thế kỷ” ra, mỗi một bài thơ làm cho người ta kinh ngạc: mặc dù ở thế kỷ XVI, nhưng vị thầy thuốc đã tiên đoán những sự kiện của thế kỷ XX, chẳng hạn:

    “Một đảng lớn chinh phục hai bờ sông Danube

    Chu8~ thập ngoặc là biểu tượng cu/a tử thần

    (Chiến tranh thế giới thứ hai, phát xít Đức đã từng xưng hùng xưng bá ở châu Âu, và biểu tượng của chúng là “chữ thập ngoặc”).

    Chưa xong trận, ba chàng khổng lồ đã ăn mừng chiến thắng.

    Mục tiêu tiến công chỉ còn lại một mặt trời.

    (Liên Xô – Anh – Mỹ đã đánh bại phát xít Đức ở châu Âu, chỉ còn lại Nhật Bản đất nước mặt trời).

    Nữ nhi bay vào vũ trụ

    Và không lâu sau vị quốc trưởng qua đời

    (Tháng 7-1963, Liên Xô phóng con tàu vũ trụ mang theo nhà nữ phi công vũ trụ và tháng 11 năm đó tổng thống Mỹ Kenedy bị ám sát).

    Mấy câu thơ trên chỉ là những ví dụ đơn giản.  Ngoài ra việc xuất hiện ôtô, máy bay, quân đồng minh đổ bộ lên vùng NOrmadic (miền Bắc nước Pháp); Mussolini bị bêu xác trên đường phố, bom nguyên tử buộc Nhật Bản phải đầu hàng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai… đều được nêu trong những bài thơ của vị thầy thuốc kỳ lạ đó.  Trong đó, điều người ta vô cùng ngạc nhiên là tên của Phrancô hoàn toàn đúng, còn tên của Hitle chỉ sai một chút.  Nghe nói những sự kiện lịch sử đã xảy ra, ông dự đoán chính xác tới chín mười chín phần trăm.

    Một người sống ở thế kỷ XVI, lại tiên đóan được những sự kiện xảy ra bốn trăm năm sau đó, mà tỷ lệ chính xác lại rất cao, khiến nhiều người nảy sinh ra những nghi vấn:  Vị thầy thuốc Mise Nach Dama, liệu có phải là nhân vật có thực hay không?  Cuốn “Các thế kỷ” đúng là cuốn sách có thực không?

    Nhưng nhân vật Mise NOch Dama đã được đưa vào cuốn từ điển nổi tiếng thế giới, cuốn từ điển “Bách khoa của Wcbaster”.  Còn “Các thế kỷ”, hiện nay chỉ còn lại hai cuốn, một cuốn ở Anh và một cuốn ở Pháp, và đều được đặt trong thư viện quốc gia.

    Ở nước Pháp, còn lưu truyền một câu chuyện có thật về tài tiên đóan của Mise Noch Dama như sau:

    Một ngày của năm 1551, một vị thầy thuốc, nhà tiên tri Mise Noch Dama được mời vào cung để đoán số mệnh cho vua Pháp là Henri II.  Nhà tiên tri sau khi ngắm nhìn kỹ đôi mắt đang đắm chìm trong tửu sắc của nhà vua liền lạnh lùng nói:  “Thưa điện hạ, sẽ có một ngày nào đó, não của điện hạ sẽ bị một vũ khí có đầu nhọn đâm vào, có thể bởi vết thương này mà tính mạng nhà vua bị đe doạ.  Cái ngày đó theo tôi sẽ xảy ra trong vòng mười năm tới”.

    Mười năm trôi qua, mọi việc đều bình yên vô sự.  Mọi người hầu như đã lãng quên lời tiên đóan của nhà tiên tri.  Nhưng vào một đêm cuối cùng của kỳ hạn mười năm đó, bi kịch đã xảy ra: buổi tối hôm đó, vua Henri II bỗng nổi hứng lên bảo viên đội trưởng đội cận vệ cùng tập đấu thương.  Khi viên đội trưởng giơ ngọn thương đâm vào nhà vua, chẳng may miếng da bảo hiểm bọc đầu thương rơi ra, mũi thương đâm qua mũ sắt nhà vui, làm nhà vua bị thương ở vùng não.  Nhà vua kêu lên một tiếng rồi ngã vật xuống.  Chín ngày sau ông tắt thở.  Đến lúc này, mọi người mới nhớ tới lời tiên đoán của vị thầy thuốc, nhà tiên tri Mise Noch Dama trước đó mười năm.

    Lúc này, điều mà mọi người tranh luận nhiều nhất là bài thơ tiên đoán rằng:  đến tháng 7 năm 1999 sẽ có những biến động lớn trên hành tinh chúng ta.  Mọi người đua nhau dự đoán xem điều gì sẽ xảy ra?  Có người cho là có một trận động đất lớn, người đoán có một cuộc tiến công của người hành tinh khác, có người cho rằng đó là do khí quyển bị ô nhiễm nặng…

    Nếu đi sâu tìm hiểu những bí mật của người xưa, chúng ta sẽ vô cùng kinh ngạc về trí tuệ tuyệt vời của các nhà thông thái thời cổ, trong đó có các nhà tiên tri.  Nhiều dự đoán về vật lý, thiên văn…  cũng như tương lai đã thành hiện thực.  Chià khoá của những điều bí ẩn đó là ở đâu?  Chúng ta còn chưa biết.

Vanga – Nhà tiên tri tài ba

    Bà Van-ga sinh ngày 31-11-1911, người Bungari, là một hiện tượng đặc biệt là kỳ lạ.  Bà có thể tiên đoán những sự kiện sẽ xảy ra trong tương lai một cách chính xác.  Nhiều người Bungari và người nước ngoài đã được tiếp xúc với Van-ga đều sửng sốt về tài năng khác thường của bà.  Một cuốn sách tư liệu về Van-ga đã được xuất bản, chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc một số trích đoạn của cuốn sách này, bài đăng trên báo Văn học (Liên Xô cũ).

    Một đêm đầy lo âu của năm 1941, Van-ga nằm mơ, một giấc mơ kỳ lạ.  Trong mơ, Van-ga gặp một người kỵ sĩ… Ông ta cao to, tóc màu hạt dẻ sáng và đẹp như thiên thần.  Trên mình vậnh những đồi binh khí của chiến binh thời xưa và các thứ đó lấp lánh dưới ánh sao.  Con ngựa có cái đuôi trắng xoà ra cào móng xuống đất.  Người kỵ sĩ nhảy xuống ngựa và bước vào căn buồng tối.  Ông phát ra ánh hào quan, làm cho căn buồng trở nên sáng rõ như ban ngày.  Hướng về phía Van-ga, ông ta nói bằng giọng trầm:  “Mọi thứ trên đời sắp lẫn lộn hết cả và nhiều người mất đi.  Con sẽ đứng ở nơ này và đoán trước về những người sống và những người chết.  Đừng sợ!  Ta sẽ ở bên con và bảo cho con biết phải phán những gì…”.

    Cũng từ đó, Van-ga trở thành nhà tiên tri danh tiếng.  Trường hợp tiên đoán đầu tiên của Van-ga được bắt đầu như sau:  Bà vợ của người láng giềng tên là Milan Patenốp ngồi khóc, vì chồng bà đã lâu chẳng có tin tức gì, bà lo cho số phận những đứa con của mình vì nghĩ rằng chúng sẽ phải chịu cảnh mồ côi.  “Bác đừng khóc nữa và hãy đi về nấu bữa tối đi, vì bác Milan của bác tối nay sẽ về, người chỉ mặc mỗi bộ quần áo lót thôi”.  – Van-ga bỗng nói với bà – “Tôi nhìn thấy bác ấy.  Bây giờ bác ấy đang nấp ở một cái khe cách thành phố không xa”.  Người đàn bà nghĩ là Van-ga thương bà nên nói thế và đi về.  Tối hôm đó bà đợi đến nửa đêm, nhưng ông chồng vẫn không về.  Bà tự giận mình đã cả tin câu chuyện cổ tích của Van-ga và bỏ đi nằm.  Một lát sau bà tỉnh giấc bởi tiếng gõ rất nhẹ vào cửa sổ, bà sợ hãi nhìn ra ngoài đường và suýt nữa thì ngất xỉu đi.  Ông Milan đang đứng ngoài sân và quả thực là chỉ mặc quần áo lót, ông trốn khỏi trại tù binh và đã chui lủi rất lâu trước khi về được đến nhà.

    “…Ngày 8-4-1942 một người bà con vủa Van-ga kể, bà già Tina đến chỗ chúng tôi và nói rằng hôm nay chúng tôi sẽ được một vị khách rất quan trọng đến thăm.  Bà ta không nói đó là ai mà chỉ giải thích rằng năm 1919 người này đã gtrọ ở nhà bà ta.  Bà ta ra về và một lát sau lại trở lại với một người đàn ông trung bình, mắt nâu, có ria mép, đỉnh đầu bị hói mặc chiếc áo vét tông xám và chiếc quần chơi gôn.  Ông ta hỏi Van-ga xem cô ấy có dành cho ông được một ít thời gian không?  Tôi hỏi bà già Tina xem đó là ai, bà ta nói thầm rằng, đó là vua Bungari Bôrit IIỊ  Van-ga đứng vào chỗ quen thuộc của mình ở góc phòng và trước khi người ta kịp hỏi, cô ấy nói bằng một giọng rất nghiêm khắc:  “Cường quốc của Người sẽ lớn lên, sẽ trải ra rất rộng, nhưng Người hãy chuẩn bị sẵn sàng để chui vào vỏ quả hồ đào”.  Rồi lập lại:  “Hãy sẵn sàng!”.  Bà nói thêm “Hãy nhớ ngày 28-8″.  Nhà vua không hỏi gì thêm và bối rối bỏ đi.  Ông ta chết ngày 28-8-1943.

    Khả năng tiếp xúc với người chết của Van-ga đã gây ấn tượng rất mạnh với nhà phê bình văn học Đodorapco Pêtơrop.  Tờ “Tuần báo tin tức Xôphia” số từ ngày 24 đến 30-7-1975 đã đăng tư liệu rất hay do ông ghi lại, trong đó có những đọan sau:

    “… Thật ra, tôi không có ý định đến xem bói.  Hình nghư Van-ga nhận thấy tâm trạng đó của tôi trong những ngày đầu ở Petroritra, bởi vì sau đó bà đã nói với một người bạn luật sư của tôi:  “Anh ta đến đây với ý muốn để tôi không nói gì vơ”i anh ta, nhưng tôi đã nói…” người bạn đã giới thiệu tôi với Van-ga, có ôtô và anh ta mời chúng tôi ra ngoài thành phố chơi sau bữa ăn.  Chúng tôi đến làng Xamuilôp, bên cạnh đó vẫn còn những bức tường pháo đài của vua Xamuil.  Trong xe, tôi im lặng và chỉ trao đổi với anh bạn vài lời.  Chúng tôi lên pháo đài một lát.  An-ga ở lại trông xe với người em gái của mình.  Một lần khi tôi đứng cách xe độ bảy, tám mét, bà bỗng nói.  Những lời nói của bà rõ ràng là dành cho tôi.  “Cha anh đang ở đây Pêtơrô”.  Có nghĩa là như Hamlet, tôi đang đứng trước linh hồn của cha tôi.  Tôi có thể nói với bà cái gì đây?  Cho tôi đã chết từ mười lăm năm trước.  Nhưng Van-ga bắt đầu kể về ông với những chi tiết kỹ lưỡng đến nỗi tôi như hoá đá…  Bà nói rằng:  “Cha tôi nói tên tôi là Sviatcô hoặc là Đơdơ-rapcô gì đó”.  Tôi nói tên tôi là Đơdơrapcô.   Sau đó bà nói :  “Bố tôi nói bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, ông là một luật sư nhưng cũng dạy cả môn chính trị kinh tế học Thổ Nhĩ Kỳ ở Sumen cho đến ngày 9-9″.

    Có những trường hợp thật ngạc nhiên.  Năm 1979 khi diễn viên V.T. và nhà văn I.X. đến thăm, bà Van-ga bảo người em gái:  “Cứ để họ ngoài sân một lát, tôi phải nhận được ám hiệu tiếp họ cái đã”.  Khi V.T vừa bước chân qua cửa, bà kêu lên với ông:  “Tại sao anh không thực hiện ý muốn của người bạn tốt nhất của anh là Iuri Gagarin?  Khi anh ấy chuẩn bị bay chuyến bay thử nghiệm cuối cùng, anh đã đến chỗ anh và nói:  “Tôi không có thời gian, bởi vậy tôi rất mong anh sẽ mua một chiếc đồng hồ báo thức và đặt nó trên bàn viết.  Đó là kỷ niệm về tôi đối với anh”.  V.T. đã kinh ngạc và nói rằng, tất cả đã đúng như vậy, nhưng trong cơn nhốn nháo vì cái chết của Gagarin, ông đã quên mất và không mua đồng hồ.  Van-ga còn nói:  “Nhưng anh cần phải biết tất cả, Ị Gagarin không chết.  Anh ấy bị bắt”.  Nhưng ai bắt, tại sao bắt và bắt đi đâu thì bà không nói:  “Anh cần phải viết và tiếp tục bộ phim?  Nhưng chỉ khi “anh vẫn còn là chủ chòm”.  Anh cần phải đến Tây Ban Nha và tìm gặp ở đó, một người nào đó tên là Vlađimia.  Ông ta sẽ kể cho anh nhiều chuyện, chỉ cho anh những chi tiết hay để miêu tả”.

    Van-ga tiếp nhiều loại người.  Bà dành cho từng người số thời gian khác nhau, bởi vì bà xác định rất rõ, ai cần những lời nói của bà và cần ở mức độ nào.  Đa số mọi người không thất vọng khi ra khỏi chỗ bà.  Những người còn lại có lẽ không để ý và nhớ đến những lời nói bình thường của Van-ga.  Bà không bao giờ nói một cái gì ngẫu nhiên cả, những lời đó cần phải được suy ngẫm kỹ.  Trong thời gian tiếp xúc với Van-ga, trí nhớ của mọi người trở nên rất yếu.  Họ nhớ được rất ít những điều bà nói.  Điều này không chỉ xảy ra riêng với khách đến xem đối với họ, điều đó thật dễ hiểu:  việc tiếp xúc với “siêu nhân” làm họ sững sờ, gây tình trạng sốc, mà cả với chúng tôi, những người luôn luôn bên cạnh bà và tưởng như đã quen với tài năng khác thường của bà.  Chúng tôi chỉ nhớ là bà đoán đúng, nhưng cụ thể như thế nào thì nhớ rất ít, và thường mỗi người một phách.

    Van-ga tuyên bố: “Tôi có mặt tại điểm nóng nhất của hành tinh và trông thấy những cảnh máu chảy, những diễn biến của thảm hoạ thiên nhiên.  Buổi tối mọi người ngủ, còn tôi thì lật giở những trang lịch sử tồn tại của nhân loại, đau buồn với bi kịch của mọi người.  Nhiều nhà văn đã muốn ghi những lời phán truyền của Van-ga vào băng nhưng đều vô hiệu, vì Van-ga không thích cả phim lẫn băng ghi âm.  Hình như bà có một “phép màu” nào đó, và chính “phép màu” này đã làm cho nhiều cuộc nói chuyện thú vị tưởng như đã được ghi vào băng bị xoá sạch và biến thành những bài hát dân ca, điệu nhảy, không có trong chương trình ghi âm.

Những người có thể thấy được tương lai

    Khả năng của con người thật vô cùng vô tận.  Vượt xa những trường hợp nhìn “xuyên qua” tường gạch, qua vải đen bịt mắt, Giuna Đavitasvili (Liên Xô cũ) đã chứng minh được khả năng “nhìn” những sự vật cụ thể ở nơi cách xa mười ngàn dặm.  Có những người lai có thể “thấy” được tương lai.  Đây là một vấn đề khoa học đang được nhiều nhà khoa học để tâm huyết tích cực xây dựng – ngành khoa học mới nghiên cứu về hiện tượng tiên đóan tương lai.  Hiện tượng tiên đóan tương lai thật đa dạng, nhiều khi chính xác một cách kỳ lạ.  Có thể kể với các bạn một vài mẩu chuyện kỳ thú sau:

    Năm 1957, tại Viện bảo tàng Istamboul (Thổ Nhĩ Kỳ) người ta khám phá ra nhiều bản đồ của một thuyền trưởng hải tặc tên là Piri Reis, người gốc Ai Cập, năm 1951 đã cùng vua đánh chiếm thành Mascate (Arập).  Khi trở về Ai Cập, Reis bị vua Ahpacha tịch thu toàn bộ tài sản cướp bóc.  Sau đó, Reis bị vua Solima (Thổ Nhĩ Kỳ) bắt đem xử tử.  Reis để lại cho đời hai bản đồ về Hồng Hải và biển Eglée.  Ngoài ra, Reis còn vẽ một bản đồ thứ 3 (từ năm 1513 đến 1525) trình bày cả tên Mallery đã khảo sát bản đồ với sự trợ giúp của Phòng Hải đồ thuộc hải quân Hoa Kỳ.  Sau khi xem xét kỹ càng các bản đồ xưa này bằng những phương pháp khoa học hiện đại, các nhà chuyên môn phải nhìn nhận giá trị cổ xưa của nó và không khỏi lạ lùng vì bản đồ vẽ đúng y những bờ Nam Mỹ, Bắc Mỹ và Nam Băng Dương.  Không những đúng đường nét bờ biển mà còn đúng cả địa hình bên trong đất liền của núi, đồi, thung lũng, cao nguyên.  Cả những mỏm núi ngầm dưới Nam Băng Dương cũng được vẽ với đầy đủ cao độ (những mỏm núi này chỉ được khám phá năm 1952).  Một chi tiết khác:  Groenland được ghi trong bản đồ của Reis dưới hình thức ba hòn đảo với nhau – đúng như khám phá của một đoàn thám hiểm Pháp – Mỹ vào những năm 1960, nhờ những dụng cụ đo lòng biển tối tân.  Như vậy, những bản đồ vẽ vào năm 1550 còn đúng hơn cả những bản đồ của năm 1950.  Người ta cho rằng, Reis đã dựa vào những tài liệu có từ cuối thời băng thạch để vẽ là cách đây hơn một vạn năm.  Phương tiện duy nhất để thảo những b�! ��n đồ loại này chỉ có thể là máy bay.  Thế nhưng lúc ấy làm gì có máy bay và dụng cụ chụp ảnh?  Thật kỳ lạ!

    Cũng không kém phần lạ lùng, văn hào Anh Jonathan Swift trong quyển Guliver du ký, đã viết về những khám phá của các nhà thiên văn xứ Laputa như sau:  “Họ bỏ ra gần trọn đời mình để quan sát thiên thể… Họ đã khám phá ra hai ngôi sao nhỏ – hai vệ tinh quay xung quanh sao Hoả, vệ tinh bên trong cách trung tâm sao Hoả một khoảng cách bằng ba lần đường kính của nó, còn khoảng cách vệ tinh bên ngoài thì bằng 5 lần đường kính sao Hoả.  Vệ tinh thứ nhất bay một vòng đúng mười giờ và vệ tinh thứ hai bay một vòng đúng hai mươi giờ rưỡi”.

    Lúc ấy vào năm 1726.  Đoạn tả quá rõ ràng về kích thước hai vệ tinh của sao Hoả của Swift, đã làm cho Voltaire Flammarion đả kích mạnh mẽ, họ cho rằng Swift quá tưởng tượng.  Phải đợi đến năm 1877 vấn đề ấy mới được tỏ rõ.  Chiều ngay 11 tháng 8 năm ấy, nhà thiên văn Hall đã quay kính viễn vọng mạnh nhất của đài thiên văn Hoa Thịnh Đốn, hướng thẳng về sao Hoả (Hỏa tinh hôm đó ở vào thời kỳ gần trái đất nhất).  Thế là vệ tinh Phobos được phát hiện vào 6 hôm sau đến lượt vệ tinh Demos, Hall đã đo được quỹ đạo của hai vệ tinh này.  Mọi người đều kinh ngạc:  chẳng những Swift đã đóan đúng kích thước và khoảng cách sao HOả bằng ba đường kính của nó, trong khi khoảng cách thật sự là 2,77 (khoảng 9.230 km); ông còn viết thời gian quay một vòng đúng 10 giờ, trong khi sự thật là 6,95 (khoảng 12.400 km) và vòng quay đúng là ba mươi giờ mười tám phút thay cho hai mươi giờ rưỡị

    Ở đây, chỉ có thể giải thích nhờ trí tưởng tượng phong phú, Swift đã thấy trước được hai vệ tinh sao Hoả, nhưng độ chính xác của khoảng cách và vòng quay như đã nêu trên, thì chịu, không thể giải thích được vì sao Swift đề cập được như vậy?

Cũng vậy, Alexei Tolstoi (1883 – 1945) đã nêu được các chi tiết thuộc tính của tia laser trong quyển “Tia sáng giết người của kỹ sư Garin” trước khi tia laser được phát hiện.  Hoặc trường hợp một nhà văn Tiệp Khắc, đã nhắc đến hình tượng “người máy” trong tác phẩm của mình trước khi các rô-bốt ra đời.  Có lẽ họ đã nhìn thấy trước trên cơ sở óc tưởng tượng phong phú của mình và dựa vào các tiền đề khoa học kỹ thuật phát triển ở đầu thế kỷ hai mươi.  Đó cũng là trường hợp nhìn thấy tương lai trước hàng thế kỷ của Jules Verne, nhà văn Pháp (1828-1905).  Ông nói:  “Mặc dù tôi tưởng tượng, tôi hư cấu, nhưng bao giờ tôi cũng đứng trên mảnh đất của sự thật”.  Trong vòng non nửa thế kỷ qua, các tiên đóan của Jeles Verner đã trở thành hiện thực, chẳng hạn:  Con người đã tổng hợp kim cương (J. Verne đã viết đến ở quyển “Sao Nam”), sản xuất tàu ngầm (qua miêu tả ở “Hai vạn dăm dưới đáy biển”), phóng vệ tinh lên mặt trăng (từ Trái đất lên Mặt trăng), lắp đặt các trạm ra đa (Đoàn thám hiểm Barsac)… Năm 1896, nhà văn Anh Mathow Philip Shiel đã cho xuất bản một quyển sách, nói về hành động tàn sát dã man hàng vạn con người của một tập thể sát nhân tại Châu Âu.  Bọn này sử dụng các lò thiêu người để hủy diệt con người.  Chúng có tên là đoàn SS (viết tắt của hai chữ Société de Sport) cũng là tựa đề của cuốn sách nói trên.  Đó cũng chính là sự thật đau lòng xảy ra gần bốn mươi năm sau.  Cuộc tàn sát dã man hàng vạn người Châu Âu của tập đoàn S.S! của Hitler (Ðức quốc xã).  Cuốn sách này chưa bao giờ được dịch ra tiếng Ðức và ngay thời Ðức quốc xã.

    Năm 1898, nhà văn Mỹ Morgan Robertson đã đưa in cuốn tiểu thuyết hàng hải.  Quyển sách nói về một chiếc tàu thủy khổng lồ – thương thuyền Titan – vượt đại dương có ba chân vịt, chở 3 ngàn hành khách.  Một đêm tháng tư, trong chuyến du hành đầu tiên Titan đã đụng phải băng thạch và bị chìm.  Mười bốn năm sau, ở ngoài đời, trong đêm 14 rạng ngày 15-4-1912, một thương thuyền đã gặp tai nạn và chìm trong vùng biển Bắc Ðại Tây Dương sau khi đụng phải băng thạch, thuyền ấy có tên là Titanic.  Hôm ấy là chuyến du hành đầu tiên, tầu chở ba ngàn hành khách.  Tàu có ba chân vịt và dài đúng bằng độ dài của chiếc tàu viết trong tiểu thuyết.

    Năm 1892, các tàu thủy trên tàu tuần tiễu Araguari của Braxin vớt đượt một cái chai, trong chai có một bức thư kêu cứu:  “Trên tàu Sê Hêro có nổi loạn…”.  Trong thư đó, còn viết rõ toạ độ nơi tàu Sê Hêro của nước Anh đang đi tới.  Tàu Araguari vội phóng nhanh tới nơi, sẵn sàng tấn công bọn cướp trên tàu Sê Hêro.  Ðến nơi, quả nhiên họ găp tàu Sê Hêro, trên tàu này vừa đúng xảy ra một vụ bạo loạn, nhưng vụ bạo loạn đã bị dẹp và không có ai t rên tàu gửi đi bức thư cấp cứu nào cả.

    Vậy tại sao lại có bức thư trên?  Hoá ra là cách đó mười sáu năm, nhà văn G.Pacminhton đã sáng tác cuốn tiểu thuyết Sê Hêro (Anh hùng biển cả), ông bèn thả xuống biển năm ngàn cái chai đựng các trích đọan cuốn tiểu thuyết của ông, để quảng cáo.  Một trong những chiếc chai này, đã rơi vào tay các thuỷ thủ tàu Araguari và họ đã gặp một con tàu Sê Hêro có thật.

    Thật là sự trùng hợp thật kỳ lạ phải không các bạn?

Nhìn bằng tai

    Ðầu năm 1979, trong một xóm nhỏ của huyện Ðại Túc, tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) xảy ra một chuyện kỳ lạ, làm dư luận xôn xao.

    Một buổi chiều cuối năm, em Trần Tiểu Minh gặp bạn học cùng lớp là Ðường Vũ trên đường đi học.  Hai em vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ.  Bỗng Ðường Vũ kéo tay Tiểu Minh bảo:  “Này Tiểu Minh, trong túi bạn có một bao thuốc là thơm hiệu “Phi Yến”, phải không?”.  Tiểu Minh ngỡ ngàng đến sững sờ.  Bất giác, em nhớ tới những lần đó nhau “đoán chữ” ở trường, bất cứ chữ gì hỏi đến Ðường Vũ là cậu ta đều đoán chính xác.  Nhưng lần này thì thôi nhé:  “Bạn lại phịa ra rồi, trong túi tôi làm gì có bao thuốc lá nào!”  Ðường Vũ lại kêu lên:  “Bạn nói dối, trong túi bạn đang có một bao thuốc lá “Phi Yến”.  Tôi nhìn rõ mồn một”.  Tiểu Minh vẫn khoăng khăng không chịu và nói:  “Làm sao bạn c  thể nhìn thấy, ở đâu nào?”.  Chưa dứt lời, Ðường Vũ thọc tay vào túi áo của Tiểu Minh, nói to:  “Nó nằm ở đây” và rút trong túi ra một bao thuốc lá “Phi Yến”.  Ðường Vũ nói với bạn, không hiểu sao, mình tự nhiên nhìn thấy bao thuốc là trong túi cậu.  Nhưng không phải bằng mắt mà bằng bộ não.  Bình thường, chơi trò đoán chữ, chỉ cần đưa tờ giấy lên lỗ tai là chữ viết trên giấy lập tức hiện lên trong não.  Chỉ cần để ý “nhìn” một chút là có thể nhìn thấy được hết.

    Chẳng khác gì chuyện thần thoại, Tiểu Minh không sao tin nổi.  Nhưng chính em đã nhiều lần nhìn thấy trong trò chơi “đố chữ” ở trường.  Ðường Vũ đã đưa giấy lên tai và đoán đúng chữ viết trong đó.  Thật diệu kỳ, Tiểu Minh kéo bạn chạy một mạch đến trường, kể hết đầu đuôi sự việc cho thầy giáo chủ nhiệm nghe.

    Thầy giáo chủ nhiệm thường đã biết ít nhiều về chuyện này.  Nhưng ông vẫn nghĩ rằng, chuyện xảy ra trong trò chơi con nít, nên chưa thực sự chú ý.  Giờ đây, khi nghe sự tường thuật đầy hứng thú của học trò, ông vẫn cứ nửa tin nửa ngờ.  Trăm nghe không bằng một thấy!  Hãy làm một cuộc thí nghiệm xem sao.  Thế là, thầy viết mấy chữ lên mảnh giấy, vo viên rồi gọi hai người vào.  Tự tay thầy nhét viên giấy vào lỗ tai Ðường Vũ và không cho Ðường Vũ đụng tay vào.  Chưa đầy hai phút sau, Ðường Vũ reo lên:  “Thưa thầy”, thầy đã viết “Tôi là Ðường Vũ”, bốn chữ phải không ạ?”  Thầy giáo hết sức ngạc nhiên, chẳng lẽ đây là sự thật hay sao?!  Thầy lại đi vào phòng bên cạnh, viết liền nhiều chữ vào mảnh giấy và vo viên lại thật nhỏ, tự ta6 thầy làm thứ tự từng viên vào lỗ tai Ðường Vũ.  Người học trò như một vị “thần” và chỉ sau nửa phút, một phút… là em đã lần lượt “nhìn” ra chữ viết trên tất cả các viên giấy:  “Huyện Ðại Túc, Tứ Xuyên, Trung Quốc”,  “Tôi là một người học trò”, “Văn hoá, khoa học, kỹ thuật”, “Lợn, chó, ngựa, bò, dê”, “Tai tôi biết nhận chữ”, “36+18=54″ v.v…  Và thậm chí em vẽ lại đầu những đầu người, các con vật nhỏ mà thấy giáo đã viết lên trên giấy.  Tin này, đã làm xôn xao mạnh mẽ trong cả vùng.  Chưa bao giờ, nhà Ðường Vũ lại ồn ào náo nhiệt như lúc bấy giờ.  Những người hiếu kỳ nối nhau đến để được tận mắt chứng kiến kỳ tích này.

    Tin Ðường Vũ biết nhận chữ bằng tai không cánh mà bay.  Phóng viên của tờ “Tứ Xuyên nhật báo” Trương Nại Minh nghe tin, muốn đến tận nơi tìm hiểu.  Trên đường qua huyện Giang Tân, được biết em Ðường Vũ đã được cán bộ điạ phương đón lên.  Thế là anh vội vàng tới huyện, để cùng các cán bộ khác tham gia vào việc thí nghiệm.  Họ đã viết nhiều chữ lên các mảnh giấy gấp đôi, gấp bốn và vo viên.  Sau đó kiểm tra từng viên giấy một, đến khi quả quyết không có kẽ hở nào thì họ mới đưa vào lỗ tai Vũ, để em nhận biết.

    Ngồi giữa đám người lớn đang tò mò mong đợi.  Ðường Vũ nhẹ nhàng đưa từng viên giấy lên tai và đọc vanh vách ra từng chữ một trên đó.  Ðiều đáng kinh ngạc là em đã đọc không sai một chữ bài thơ Ðường của Lý Bạch:  Ánh trăng soi trước sân, ngờ ngợ giọt sương rơi, ngẩng đầu ngắm trăng sáng, cúi đầu nhớ quê nhà”.  Ðiều đó, quả là vượt quá sức tưởng tượng.

    Trương Nại Minh và cán bộ địa phương không thể tin nổi sự thực trước mắt mình.  Họ suy nghĩ, bàn tính tìm mọi phương pháp thích hợp hơn, để xác nhận thêm sự thực đó.

    Ngày hôm sau, họ đề nghị Ðường Vũ là sẽ nhờ em nhận chữ trong phòng tối.  Ðường Vũ gật đầu, vui vẻ nhận lời.  Thế là cuộc thí nghiệm mới lại bắt đầu.  Trong một gian phòng tối bưng.  Ðường Vũ lần lượt nhận ra tất cả chữ viết trên mười tờ giấy vo viên.  Ðặc biệt, em còn nói với mọi người về màu sắc của chữ, chữ viết bằng bút lông, bút máy hay bút chì…  Tất cả những người tham gia viết chữ, đã tự tay mình đưa viên giấy của mình viết lên tai Vũ, đã thừa nhận đó là một sự thực không thể phủ nhận.

    Ðường Vũ nói với mọi người là tay em như có điện, khi vừa cầm mẩu giấy có chữ, là trong óc em, có ngay sự phản ứng ban đa6`u, đến khi viên giấy để vào lỗ tai, thì bộn não cứ như màn ảnh hiện rõ từng nét trên đó.  Nếu như, lúc ấy người em vui vẻ, hoàn cảnh yên tĩnh thì đường nét các chữ hiện lên rõ hơn và sáng hơn, chẳng những em có thể viết ra những chữ em đã học, mà còn có thể “vẽ” ra những chữ chữ Hán chưa biết và cả chữ Anh nữa.

    Trương Nại Minh cho rằng:  dù hiện tượng này chưa tìm được cơ sở để giải thích, nhưng chắc chắn nó vẫn tồn tại một cách khách quan.  Vậy thì em Vũ có gì khác với các bạn cùng lứa tuổi?  Và hiện tượng này có giá trị gì đối với khoa học không…?

Xem bói bằng gương

    Rai-sa Nhi-cô-lai-ép-na là một người đàn bà đứng tuổi, có đôi mắt mầu xanh và cái nhìn cởi mở, hiện đang sống (1990) ở thủ đô Mát-xcơ-va.  Bà làm việc tại Ban tìm kiếm người thất lạc thuộc Hội những người có khả năng khác thường.

    Rai-sa nổi tiếng vì một khả năng đặt biết mà người ngoài cuộc chúng ta thường gọi là xem bói.  Nếu như bà “phù thủh” Van-ga hay xem bói bằng một viên đường thì Rai-sa lại hay dùng gường và giấy.  “Tiếng lành đồn xa”, một phóng viên của báo Sự thật thanh niên tên là O. Ca-ma-da đã đến gặp Rai-sa xem thực hư ra sao.  Anh nói với Rai-sa là mình có một người bạn đang làm phóng viên tại Mê-hi-cô, đề nghị bà nói đôi điều về người ấy.  15 phút sau, Rai-sa đã miêu tả như sau:  “Người bạn của anh đang ở nhà, đang ngồi bên một chiếc bàn gỗ màu nâu.  Trong phòng có cả vợ anh ta, một phụ nữ hơi cao, tóc màu thẫm, chải rất gọn ghẽ.  Bạn của anh khoảng 30-35 tuổi, khuôn mặt to, cởi mở.  Hôm qua anh ấy mặc một chiếc áo sơ mi sáng màu, bên ngoài áo Blu-dông, anh ta đi qua một toà nhà trông khá lạ mắt, kiểu như cái tháp có hình ô-van, trên mái có nóc nhọn”.  Ca-ma-da không tin nên đã gọi ngay điện thoại đường dài cho ngay bạn mình ở Mê-hi-cô, nhưng thật không ngờ, hầu như mọi chi tiết đều trùng lặp hoàn toàn.  Thậm chí người đàn ông ở Mê-hi-cô còn kể rằng hôm qua vợ anh mới đi làm đầu và chiều hôm qua anh có đi qua toà nhà của phòng thương mại quốc tế, đó là toà nhà hình tháp, mái ô-van có nóc nhọn.

    Sự chính xác đến ngạc nhiên đó vẫn chưa đủ thuyết phục Ca-ma-da.  Anh tiếp tục hỏi Rai-sa:  “Thế kỳ nghỉ phép năm ngoái tôi đã đi nghỉ cùng ai?”.  Người đàn bà trả lời tuyệt đối chính xác và đề nghị anh hãy hỏi cái gì đó khó hơn.  Ca-ma-da bèn lấy tấm ảnh mà toà soạn của anh mới nhận được, bỏ và phong bì, dán kín.  Lập tức Rai-sa nói:  “Trong phong bì là ảnh một chàng trai, áo sơ mi mở phanh cúc, tay áo xắng cao, tóc bù xù…”  …. Lại một lần nữa tất cả đều đúng như in!

    Theo lời Rai-sa thì bà học “nghề” này từ bà cô của mình, còn bà cô lại học từ một người anh trai và ông chú ruột.  Có một điều lạ là mẹ của Rai-sa là bà Ða-r-a I-va-nô-va lại hoàn toàn không biết bói, mặc dù đã tập thử mấy lần.  Rai-sa nói:  “Ðể bói được thì phải cần một cái gì đó, mà chính tôi cũng không biết đó là cái gì, chỉ biết rằng rất cần.  Ðã nhiều lần tôi cố gắng giải thích cho mình xem cái đó là cái gì nhưng không có kết quả.  Trên thực tế, việc bói toán của tôi không có gì bí ẩn và phức tạp cả:  chỉ cần nhắm mắt lại, đốt mảnh giấy mà trong đó có ghi câu hỏi cần bói, rồi làm vài động tác nữa là tất cả đều hiện rõ trong tấm gương, y như trên màn ảnh:  những con người, nhà cửa, câu cối.v.v…

    Lần đầu tiên Rai-sa thử bói là khi bà còn làm việc ở một hiệu uốn tóc.  Hôm đó Rai-sa quyết định bói xem cô bạn cùng làm việc với mìh đã sắp lấy chồng hay chưa….  Trên tấm gương xuất hiện một hình người mặc áo lính nhưng không rõ mặt.  Rai-sa nói với bạn:  “Sắp tới cậu sẽ lấy một chàng bộ đội, nhưng hiện giờ cậu chưa hề biết anh ta đâu.”  Quả nhiên 8 tháng sau, cô bạn của Rai-sa làm quen với một người đang phục vụ trong quân đội và họ đã kết hôn với nhau.

    Cách đây mấy năm, một người quen của Rai-sa có nhờ bà bói cho bà bạn của mình có cô con dâu mất tích đã ba năm, công an tìm mãi vẫn chưa thấy tung tích.  Rai-sa nói:  “Hãy nói lại với bà ấy là cô con dâu của bà vẫn đang sống.  Hiện tại cô ta đang ở đâu đó vùng ven Tát-sken.  Cô ấy sống cùng hai người đàn ông, một già, một trẻ”.

    Nửa năm sau, đúng là bà mẹ chồng nhận được thư của con dâu, báo tin rằng đang sống ở Bu-kha-ra, sắp tới sẽ trở về nhà.

    Hồi con trai của Rai-sa còn nhỏ, có lần cậu bé bị ốm rất nặng, các bác sĩ khẳng định đưá bé sẽ không qua khỏi…  Quá đau buồn, Rai-sa quyết định bói cho mình xem sao, không ngờ trên tấm gương lại xuất hiện cảnh đứa bé ngồi chơi trên đi văng bên cạnh người chú của mình.  Thực tế đã đúng y như vậy, đứa con khỏi bệnh, người chú đến và họ cùng nô đùa trên đi văng.  Rai-sa nói rằng nếu tấm gường xuất hiện cảnh bệnh tật, chết chóc, tai nạn v.v…  thì trên thực tế khó lòng tránh khỏi, trước sau cũng sẽ xảy ra.

    Có lần Rai-sa còn giúp ủy ban điều tra hình sự Thành phố Mát-xcơ-va tìm ra thủ phạm đã từng ăn cắp gây án nhiều lần.  Rai-sa có thể miêu tả thủ phạm một cách chính xác, dù cho vụ án đó có xảy ra 5 hoặc 10 năm trước.  Cih? có điều bí mật là:  Rai-sa không bao giờ bói về những người đã chết.

    Chồng của Rai-sa luôn luôn phàn nàn là ông không thể nào giấu được bà điều gì.  Bà  luôn biết chính xác trong túi ông có bao nhiêu tiền.

Người có đôi tay thần

    Chị là một phụ nữ hiện đại, không tin vào ma quỷ, chỉ tin vào khoa học.  Là họa sĩ trong một nhà máy ở Mát-xcơ-va, sau giờ làm việc, chị thường xuyên tới phòng thí nghiệm thần giao cách cảm, thuộc Hội khoa học kỹ thuật vô tuyến điện tử và tin học mang tên Pô-pốp.  Dưới sự chỉ đạo của giáo sư, tiến sĩ khoa học kỹ thuật Cô-gan.  Chị đã làm khoảng năm nghìn thí nghiệm với bản đồ.  Người ta cũng đề nghị Lút-mi-la xác định vật để trong phong bì kín – hình tròn, vuông, ngôi sao….  Có những loạt thí nghiệm chị trả lời đúng 25/15.  Kết quả này không chỉ khẳng định khả năng bất thường của chị, mà còn loại bỏ các ý kiến nghi ngờ rằng thực nghiệm và hiện tượng thần giao cách cảm là khái nghiệm kỵ nhau.

    Có nhiều thí nghiệm khác phức tạp hơn.  Một bác sĩ khoa hồi sức đặt cuốn giấy điện tâm đồ lên bàn.  Nhiệm vụ của Lút-mi-la là không được mở ra xem, nhưng phải kể về tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân.  Dù có nhìn thấy các hình tâm đồ, thì chị cũng chẳng hiểU gì.  Vậy mà khi sờ hai tay lên tờ giấy, lần nào chị cũng nói đúng, cụ thể tình trạng của bệnh nhân:  còn sống hay không, sức khoẻ thế nào.  Theo lời ông trưởng phòng thí nghiệm, trong hàng trăm thí nghiệm, có 3/4 số lần thành công và được ghi vào biên bản.  Đây là một thí nghiệm điển hình:  Hơn hai năm trước có một binh sĩ mất tích trong khu vực quân sự thuộc U-crai-na, các cuộc tìm kiếm không mang lại kết quả.  Nhưng tiếng đồn về phòng thí nghiệm bí ẩn ở Mat-xcơ-va lan rộng khắp liên bang, nên thân nhân người mất tích đã tới nhờ Lút-mi-la giúp đỡ.  Chị đồng ý, yêu cầu cho xem ảnh người mất tích và tấm bản đồ nơi anh ta phục vụ.  Điều đầu tiên, Lút-mi-na xác định anh lính đã chết.  Với tấm bản đồ (chị vẫn giơ hai tay lên tấm bản đồ để rút ra kết luận thực) chị xác định khu vực tử thi nằm.  Song khu vực được xác định quá rộng, gần 20 km vuông, nên không thể tìm kiếm được.  Lút-mi-la bèn đến tận nơi, với tấm bản đồ chi tiết hơn, khu vực tìm kiếm thu hẹp lại còn 1 km vuông.  Chị nói rõ:  “Người này bị giết, cạnh xác có con dao”.  Thông tin đặc biệt này được đưa vào hồ sơ, nhưng người ta lại tìm kiếm nơi khác, nơi điều tra khẳng định.  Mấy tháng sau, dân địa phương tình cờ phát hiện xác người chế! t đúng nơi chị nói, bên cạnh có con dao!

Sau khi có những bài báo đăng về chị và được giới thiệu trên vô tuyến truyền hình, hàng ngàn người đã nhờ chị giúp.  Chẳng hạn công dân Côn-ki-na ở Mát-xcơ-va đề nghị chị nói giúp về số phận cu/a người cha bỗng nhiên mất tích.  Lút-vi-la trả lời:  Ông cụ còn sống nhưng bị bệnh nặng vùng não.  Thông tin này xem ra rất lạ, vì xưa nay ông cụ chưa bị đau đầu bao giờ.  Hơn nữa, Lút-mi-la chỉ rõ nơi ông cụ nằm trên bản đồ Mat-xcơ-va và khuyên người nhà hỏi các bệnh viện.  Quả nhiên, họ tìm thấy cụ già trong bệnh viện thành phố với căn bệnh “đứt mạch máu não”.

    Phòng thí nghiệm cũng thu hút các nhà điều tra hình sự, những người chỉ quen làm việc với bằng chứng.  Lút-mi-la nhiều khi cũng giúp được họ cung cấp những thông tin như:  “Người đó bị giết bởi hai kẻ quen biết từ trước, chết vì hai cú đánh vào đầu, xác bị vù dưới đất.  Chị chỉ ra cả vị trí.  Không lâu sau, lời khẳng định chính thức được gửi tới:  “Tử thi được phát hiện đúng chỗ chị đã nói, lấp dưới đất.  Người nạn nhân bị giết do hai người bạn cũ gây ra, bị đánh vào đầu”.

    Trong hơn một trăm trường hợp phòng thí nghiệm biết kết quả chắc chắn, Lút-mi-la không sai một lần.  Tiến sĩ Cô-gan cho rằng:  “Trong khoa học cái thực sự mới mẻ chỉ là cái ngày hôm nay chúng ta chưa chấp nhận.  Nhiệm vu của khoa học là phải nghiên cứu những điều chưa hiểu được…”.

Kính hiển vi sống

    Theo giáo sư tiến sĩ R.Hin-xơ thuộc viện nghiên cứu y-quang học Mu-ních, đôi mắt của chị V. Dây-đe, 33 tuổi sống ở thành phố Lút-vít-xbuốc (CHLB Đức), là một kính hiển vi sống kỳ diệu.  Trên bức bưu ảnh bình thường, chị V.Dây-đe có thể viết hẳn một bài văn, hơn 236 nghìn chữ cái.  Chị đã viết bản trường ca Chúa sơn lâm của đại thi hào Gớt trong ba mặt giấy khổ 7×8 mi-li-mét.  Vốn là bác sĩ chuyên khoa về miệng, chị V.Dây-đe chỉ làm công việc theo sở thích này vào những lúc rảnh rổi.  Chị viết bản trường ca trên bằng một chiếc bút chì cứng, và cứ viết xong hai chữ cái lại phải vót lại bút chì để có nét mảnh như ý.  Mỗi một trang viết như vậy, chị Dâ-đe phải làm việc cật lực trong ba ngày liền.

    Khả năng nhìn hết sức tinh tường giúp chị rất nhiều trong nghề thầy thuốc, song lại gây than thở:  “Tôi đọc báo rất vất vả vì những sợi giấy cứ đang vào nhau nhằng nhịt làm rối cả chữ viết.  Tôi cũng không thể n ào xem được các buổi truyền hình màu vì trên màn ảnh chỉ thấy những chấm màu chẳng ra hình thù gì cả.

Người có cặp mắt thần

TTL là một cô gái trẻ đẹp, mắt sáng long lanh, năm nay (1995) vừa tròn 30 tuổi.  Cô làm y sĩ bộ tổng tham mưu Quân đội Nhân dân trong nước.  Những người sống quanh cô gọi cô là người có đôi mắt thần bởi cô có khả năng nhìn xuyên qua cơ thể người khác và “nhìn” được bằng tai.  Một tờ báo lớn đã mời TTL đến biểu diễn khả năng của mình.  Đông đảo các nhà báo tham gia cuộc thử nghiệm với thái độ bán tín bán nghi.  Đầu tiên một người lấy giấy viết hàng chữ gì đó, vo lại rồi nhét vào tai cô.  TTL trầm tư một lát rồi nói:  “Đây là 3 chữ “Cảm ơn cô” viết bằng bút máy trên giấy trắng”.  Cả phòng họp ồn lên, người ta truyền nhau xem mảNh giấy vừa được lấy ra vuốt phẳng.  Sau khi xác nhận khả năng đóng chữ đúng của cô, người ta chuyển sang phần thử nghiệm xem cô đoán bệnh có “thần” như thế không?

Trong một căn phòng được tắt đèn và kéo rèm các cửa cho tối, TL bắt đầu khám bệnh cho một bệnh nhân nữ được đưa tới.  Không một lời hỏi han, cô nhìn chăm chú vào cơ thể người bệnh sau lớp quần áo rồi nói:  “Đại tràng của chị bị loét, không thấy có khối u nào”.  Bệnh nhân kinh ngạc một cách thán phục: “Chỉ chẩn đoán rất chính xác.  Đúng như kết quả kiểM tra bằng máy cu/a bệnh viện cách đây mất hôm”.  Rồi bệnh nhân hỏi tiếp:  “Vì sao khi mắt chị nhìn tôi, thì tôi thấy n’ng ran và hơi đau như thế?”.  TL đáp:  “Tôi cũng không rõ vì sao, những người bệnh khác cũng đều có cùng ý như thế, chỉ có khác là mạnh hay yếu thôi.  Cá biệt bệnh nhân còn có phản ứng run run bắn.  Thậm chí ngất xỉu”.

    Người ta nêu các câu hỏi thì cô trả lời hết sức thoải mái tự tin:

    – Công năng đặc biết có tính dị truyền không?  Công năng đặt biết của chị được phát hiện từ bao giờ?

    – Có di truyền.  Còn cụ thể thì tôi không rõ.  Ông nội tôi có khả năng đặt biệt loại “thị cảm”, ông chỉ cần nhìn người là biết chứng bệnh nào không thể chữa chạy được.  Ông bèn dặn thân quyến họ kiếm thứ ngon nhất cho họ ăn và chuẩn bị lo chuyện ma chay.  Kết quả dự đoán của ông bao giờ cũng đúng.  Hồi đó người ta còn mê tín, họ cho rằng tại ông tôi nguyền rủa, vì thế họ kéo đến đánh chết ông tôi.

    Công năng của tôi được phát hiện khi tôi 4 tuổi, cứ đến đêm là tôi thấy bố mẹ tôi là những bộ xương, sợ quá tôi kêu thét lên.  Năm lên 8 tuổi, ra đường tôi thấy trong bụng một người có một em bé rất “ngộ”, bèn đi theo và xem khiến người ta rất sợ hãi.  Năm tôi học cấp 3, có người đến nhờ tôi xem trong bụng có giun sán không, đa số là các bà đến nhờ tôi xem họ đang chửa con trai hay con gái.  Sau 5 năm học tại trường quân y, tôi xem bệnh chính xác, đâu là gan, đâu là tụy.

    – Công năng của chị có chữa được bệnh không?

    – Hiện giờ tôi không rõ, một lần có một người bệnh nhân trong bệnh viện, tôi vừa nhìn thì người bệnh đó ngất đi, sau đó bệnh tình bà ta không chạy chữa gì mà tự nhiên khỏi cả – điều này vì sao tôi không rõ.

    Mấy năm qua tôi đã chuẩn đoán cho 4 vạn người bệnh, tỷ lệ chính xác 90%, hình ảnh trên máy là đen trắng và phẳng, còn tôi nhìn thấy được màu sắc nội tạng.

    – Mỗi ngày chị khám cho bao nhiêu người?

    – Mỗi ngày 3 người, người đầu tiên nhìn rất rõ nét, người thứ hai còn được, người thứ 3 thì đã mờ; sau một ngày làm việc về tôi không muốn ăn uống gì cả, 2 chân nhũn ra, đồng tử mắt giãn ra, người rất mệt mỏi, trí nhớ bị giảm sút.  Thường phải 4 – 5 giờ sau cơ thể mới trở lại bình thường.

    Nhìn qua vật cản còn gọi là khả năng thấu thị.  Trên thế giới có nhiều người có khả năng nhìn thấu thị như nhà ngoại cảm U-ri-ge-be người I-xra-en, bà I-u-lia Vô-rô-bi-ô-vơ người U-cơ-ren (thuộc Liên Xô cũ) v.v…

    Khả năng cảm nhận bức xạ hồng ngoại của những bộ phận trong cơ thể con người.  Giải thích về hiện tượng người có ý kiến cho rằng:  trường sinh học với mật độ năng lượng lớn sẽ tương ứng với bức xạ có tầng số cao, mà các bức xa có tần số cao lại có khả năng xuyên sâu tực những tia Xquang vậy.  Hiện tượng thấu thị cách xa đó là khả năng lan toả đặc biệt của năng lương trường sinh học.  Ở Việt Nam có Đỗ Bá Hiệp có khả năng nhìn xuyên qua đất, em Nguyễn Thủy Vân (Hà Sơn Bình) nhìn xuyên qua vật cản.

Nhìn bằng da

    Chúng ta đã biết ở Liên Xô có Vô-rô-bi-ô-va, có thể bằng mắt nhìn xuyên suốt cơ thể con người.  Còn nhà khí công Nghiêm Tân (Trung Quốc) cũng có thể nhìn xuyên suốt cơ thể con người, khi ông muốn chuẩn đoán bệnh cho một ai đó.  Có người có thể dùng tai để nhận biết chữ viết.  Bằng các thực nghiệm khoa học, các nhà khoa học BẮc Kinh (Trung Quốc) đã chu8″Ng minh được tính chân thực của “thị giác không dùng mắt”.  Khả năng “thị giác không dùng mắt” còn thể hiện ở da.  Hiện nay, trên thế gio8″i có hang trăm người qua luyện tập, có thể dùng ban tay mà biết được màu sắc đồ vật và đọc chữ.  Lần đầu tiên, các thầy thuốc Liên Xô phát hiện ra giác quan mới này ở Rô-da Cu-lê-xô-va (sinh năm 1940), thành phố Ni-giơ-ni-Ta-ghin.

    Năm 1960, Rô-da hai mươi tuổi, phụ trách nhóm kịch của những người mù, thấy người mù sờ chữ nổi để đọc sách, cô thử bịt mắt tập đọc sách bằng tay và bí mật chơi một mình trò ấy mấy năm liền.  Rô-da nhắm mắt sờ biết màu sắc, biết rõ hình in trên tem, bao diêm, bao thuốc lá.  Người ta lồng sách vào vỏ gối, bảo Rô-da một tay bịt mắt, tay kia thọc trong áo gối sờ chữ và cô đã đọc luôn cả hai trang sách.

    Hồi đó, tại rạp xiếc trẻ em mơ”i khánh thành ở phố quê hương Ni-giơ-ni Ta-ghin, không bao giờ thiếu tiết mục của cô Rô-da.  Cô đã đến biểu diễn ở Toà soạn báo Khoa học và đời sống.  Rô-da đọc được bằng khuỷu tay và ngón chân những trang in chữ to bỏ trong phong bì, những con số viết lên không khí trên một tờ giấy trắng, như thể nhận biết dấu vết hơi ấm ngón tay người vừa viết.  Rô-da nhận xét:  “Lúc đọc sách, tôi có cảm giác nóng ấm trên các ngón tay khi gặp màu đen, cảm giác lạnh khi gặp màu trắng”.

    Tại Viện Lý sinh thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, viện sĩ B. Rô-ma-nốp đã tự tay bịt mắt Rô-da bằng vải đen nhồi bông, viện sĩ ỊB Kô-da-dep cẩn thận lấy thêm tập hoạ báo dày che mắt cô, một người nữa đặt dưới bàn chân trần của cô cách 5 cm một tờ báo, nhưng Rô-da vẫn đọc lưu loát.  Nhắm mắt, cô nhận biết được người và vật đứng cách xa hai, ba mét.

    Rô-da Cu-lê-xô-va sờ qua kính, những đọc được dễ dàng những chữ đánh máy màu đen, tuy thế cô không đọc nổi những chữ trên giấy nến hằn rõ hơn, nhưng không có màu.  Rô-da bịt mắt xem các bức tranh càng sáng càng rõ, song tắt đèn thì mù tịt.

    Như thế chứng tỏ đây không phải là xúc giác cơ học của da, mà là một cảm giác quang học giúp da nhận biết ánh sáng, màu sắc, không cần áp da vào bề mặt màu.

    Mặc dù vậy, da nhận biết màu một cách gián tiếp, khác với mắt nhìn.  Khi màu sắc tác động, da như vào những chấm, những đường sáng, những sóng điện từ…  Thị giác của da tốt nhất với màu tím, rồi đến màu đỏ (hai rìa quang phổ), kém các màu vàng, xanh da trời.

    Người có khả năng nhìn bằng da cũng nhạy cảm với các sóng điện tử và nhiệt.  Rô-da Cu-lê-xô-va đã tìm ra cách chuẩN đóan một số bệnh làm tăng nhiệt một số vùng trong cơ thể.  Cô còn có thể đoán được ý nghĩ của những người chung quanh.

    Với giác quan đặc biệt sờ thấy màu sắc, hơn nữa nhìn thấy qua vật cản, Rô-da Cu-lê-xô-va, trung tá an ninh Liên Xô, đã lập những chiến công hiểN hách trong công tác tình báo và được Nhà nước Xô Viết tặng thưởng huân chương Sao Đỏ.

Người nam châm

    Khó tin được có một con người như thế, nhưng đó lại là sự thật.  Phóng viên tờ báo “Nước Nga Xô Viết” đã đến gặp La-cô-dơ-lốp, một thiếu ta công an đã về hưu hiện ở làng Xan-truc-xcơ (Liên Xô cũ), và thử bằng cách đưa những đồ vật như thìa, dĩa, muỗng và các đồ dùng bằng sắt đến gần người La-cô-dơ-lốp, thì thấy tất cả đều bị thân thể ông “hút” chặt vào.  Sau đó, phóng viên đã đổi hướng thử.  Kết quả, mọi phía của cơ thể La-cô-dơ-lốp đều có tác dụng như nhau.  HIện tại, La-cô-dơ-lốp chưa thử xem có “hút” được vàng hay không (vì bản thân ông không có), còn những kim loại màu thì cơ thể ông đều hút được.  Có thể nói đây là một hiện tượng lạ, xuất hiện ở một con người.  Bản thân La-cô-dơ-lốp cũng đang rất muống nghe ý kiến của các nhà chuyên môn về hiện tượng này.  Gần đây, Liên Xô lại phát hiện trường hợp chị T.Ka-di-mi-rô-va ba mươi ba tuổi, diễn viên múa của nhà hát nghệ thuật “Text” thành phố Rô-xtốp cũng có khả năng hút và giữ được khá lâu trên người những vật dụng làm từ thép không gỉ, chất dẻo, thủy tinh, thậm chí “hút” được cả chiếc bàn là.  Rõ ràng hiện tượng người nam châm là có thật.

Thỏi nam châm sống

    Alecxây Antipôp là một thanh niên bình thường.  Cha mất sớm, anh ở cùng mẹ từ nhỏ, mẹ anh là một thầy lang chữa được nhiều bệnh mà bệnh viện phải bó tay.

    Alecxây lớn lên như một chàng trai khác, mê thể thao.  Năm 1995 đột nhiên anh bị ngất xỉu vì rối loạn nhịp tim.  Chẳng có gì nghiêm trọng, nhưng trong lòng Alecxây cảm thấy cứ lo lo, và thường xuyên tự xoa bóp.  Có lần anh cảm thấy như bàn tay dính chặt lấy lồng ngực.  Rồi bệnh tim cũng khỏi luôn.  Và hai bàn tay anh xoa mạnh vào nhau tựa hồ cũng hút chặt vào nhau. Đến lúc đó Alecxây mới khám phá ra là trong cơ thể mình tiềm tàng một từ lực khá mạnh, có thể dùng để chữa bệnh và thực thi bao trò “ảo thuật” nữa.

    Alecxây nhớ lại nghề thầy lang của mẹ.  Biết đâu anh thừa hưởng được cái “mát tay” của mẹ.  Alecxây cũng đã lặng lẽ thử sức.  Những vật dụng bằng thép trên bàn ăn, trong nhà bếp dễ dàng bám vào da trần của anh như có keo dán.  Những thứ khác, nặng hơn, như chiếc ghế sắt chẳng hạn, anh phải tập trung nội lực nhiều hơn.

    “Đỉnh điểm” của sức nặng là tấm gang nặng 120 kg!  Trong vòng 7 phút liền!  Tuy nhiên “tiết mục” gây “đứng tim” nhất là Alecxây Antipôp đã “dán” toàn bộ thân hình mình vào thùng một chiếc xe tự đổ.  Thùng được nâng thẳng lên, nhưng Alecxây vẫn dính chặt vào đáy trơn bóng.  So với những người có từ lực thì hiện nay Alecxây là người có từ trường mạnh nhất.

Cô bé từ trường

    A-na-tô-li A-lêch-xan-đrô-vich Ca-ra-tren-cô và Da-nu-ta Hen-ri-khôp-na từ lâu đã quen với “những vụ thí nghiệm” mà đứa con gái mười ba tuổi In-ga của họ, hàng ngày vẫn gọi đó là “những trò ảo thuật”.  Nhưng những khả năng phi thường của In-ga, lại làm cho các bác sĩ và nhà báo đến thăm gia đình Ca-ra-tren-cô, lâm vào cảnh bế tắc, không tìm được lời giải đáp.  Như các trẻ em khác, In-ga vui vẻ, xã giao, nhạy cảm, thích chạy, nhảy dây, chơi đùa với các bạn, thích vẽ và mơ ước có một con chó nhỏ và không một phút nào cháu mất khả năng tác động lên đồ vật cả.  Phóng viên báo Láo Động (Liên Xô cũ) đến nhà em, kể lại rằng, bé sẵn sàng lặp lại những thí nghiệm.  Cô bé chìa lòng bàn tay ra và áp vào lòng chảo nhôm, chiếc chảo nhôm bị hút lên như có từ trường hút vậy.  Cha em bỏ vào chảo hai quả tạ hai ki lô gram và một chiếc buá, tất cả đồ vật bị hút, treo lơ lửng bất chấp mọi định luật.

     – In-ga, cháu có cảm thấy nặng không?

    – Không nặng một chút nào.

    Tôi đề nghị cháu rửa tay và lau sạch, nhưng sau đó bàn tay mềm mại, dịu dàng của cháu lại vẫn treo được chảo trong đó đựng cuốn sách “Bách khoa toàn thư”, hộp thuốc đánh răng, bút bi, bút chì.  Tôi thử nhẹ nhàng gỡ chiếc bút chì ra, tôi cảm giác là có một từ trường mạnh tác động tới bút chì.  Chỉ hai lọ và đồ thủy tinh là không chịu tác động của thứ từ trường kỳ lạ kia mà thôi.

    Từ bé, In-ga đã nhận thấy các đồ vật cứ dính vào tay mình như thìa, dĩa… còn khi đến cửa hàng, người bán hàng ngạc nhiên thấy hàng cứ dính vào tay cháu.  Có điều, cháy không bao giờ để ý đến điều đó.  Mãi đến những năm đã lớn tuổi hơn, cháy làm trò “ảo thuật” treo thìa, dĩ, bút… trước sự chứng kiến của hàng xóm, bố mẹ.  Bố cháu lo rằng “thuộc tính từ trường có ảnh hưởng tới sức khoẻ của cháu, nên gia đình đã mời phó giáo sư Trường đại học Crôt-nui; bác sĩ thần kinh V.Can-sun khám cho cháu.  Bác sĩ kể:  “Tôi đã nghiên cứu hệ thần kinh của cháu.  Đó là một cháu gái bình thường và hoàn toàn khoẻ mạnh.  Khả năng đặc biết của cháy không hề gây hại.  Chỉ có lòng bàn tay là có thuộc tính từ trường, còn mu bàn tay thì không có.  Nói đúng ra, đó không phải là từ trường, mà là sức hút không riêng các đồ vật bằng sắt, mà cả nhôm, chất dẻo, giấy nữa.  Bản chất của hiện tượng này hoàn toàn không hiểu được.  Bề mặt lòng bàn tay con người có nhiều các cơ quan thụ cảm, chính ở đây tích tụ nhiều lượng tiềm năng sinh học.  Nhưng như vậy vẫn chưa đủ để giải thích hiện tượng kỳ lạ này.  Các nhà vật lý và các nhà chuyên gia sẽ giúp chúng ta làm sáng tỏ hiện tượng đó.

    Mới đây, tại trường đại học Crôtnưi, trong một cuộc hội thảo, In-ga đã dùng tay hút một chiếc ví, tay kia hút một chùm chià khoá, trước sự chứng kiến của một tập thể giáo viên và sinh viên của trường.  Không chỉ lòng bàn tay mà cả lòng bàn chân của em cũng có sức hút.

    “Trường In-ga” tác động không chỉ đến các đồ vật vô tri vô giác, mà còn tác dụng lên bản thân con người nữa. Tôi đứng quay lưng lại cháu, cháu đưa tay tới gần đầu tôi, tôi cảm thấy người hơi đung đưa, nhiệt độ từ cổ và gáy truyền dần xuống chân.  Bất chợt, có một nội lực nào đó kéo tôi về phía sau, hướng tới đôi tay đang chìa ra của cháu.  Đành phải ngừng thí nghiệm, nếu không tôi sẽ bị ngã.

    Theo giáo sư V.Vôn-tren-cô, Phó Chủ Nhiệm ủy ban về những vấn đề trao đổi lượng thông tin trong thiên nhiên:  Tôi muốn lưu ý tất cả mọi người rằng cần phải có thái độ thiện chí và cẩn thận đối với cháu bé.  Vì tâm thân của những người có những khả năng đặt biệt, rất có thể bị tổn thương và mối quan tâm không lành mạnh, thái độ dai dẳng mưu toan lợi dụng “hiện tượng” vào những mục tiêu nào đó, có thể gây ra những hậu quả không lường trước, và có khi bi thảm.  Hãng hỗn hợp Xô-Bun về thử nghiệm thần giao cách cảm, sẽ tổ chức gặp gỡ với các phương pháp nghiên cứu đã được kiểm nghiệm.

Người phát điện

    Ở Trung Quốc, có một người phụ nữ là cán bộ thuộc cơ quan nhà nước.  Chị tên là Liu-In và còn rất trẻ so với tuổi ba mươi lăm của mình.

    Tháng 11 năm 1983, Liu-In thấy trong người trào lên một làn sóng nóng.  Sức khoẻ của chị giảm đi rất nhan.

    Người ta đưa chị vào bệnh viện.  Một điều lạ lùng là người chị tự nhiên phóng điện, khiến cho bác sĩ cũng như người đến gần chị đều bị điện giật.

    Hiện tượng phóng điện ở chị mất đi khi chị vận động, nhưng khi chị sờ vào vật liệu dẫn điện thì chính chị lại bị điện giật.

    Liu-In vẫn còn được điều trị trong bệnh viện.  Các nhà khoa học rất quan tâm nghiên cứu hiện tượng phóng điện kỳ lạ này.  Song vẫn không hiểu nổi cơ chế phát điện trong cơ thể chị.

Tia chớp trong phòng

    Kỹ sư K.Tuốc-kin sống trong căn hộ bình thường, trên tầng hai của toà nhà mười tầng ở Ka-xtắc, thành phố Tôm-xcơ (Liên Xô).  Bỗng dưng, cuộc sống trong gia đình anh bị đảo lộn.  Cứ đêm đến, là trong phòng ngủ lại vang lên tiếng nổ kèm theo ánh chớp sáng lòa.  Mới đầu còn thưa, sau liên tục, có khi cả cột sáng loá như ánh lửa hàn bùng lên ở góc phòng, mà sau đó tuyệt nhiên không để lại một dâú vết thủng hay muội than nào.  Cũng có khi ánh chớp đó vỡ ra theo hình cầu kèm theo tiếng nổ …

    Tuốc-kin đã cho mời thợ điện đến kiểm tra, song không phát hiện được điều gì.  Theo lời khuyên nhiều người, anh đã thấm ướt thảm sàn nhà, dùng khăn ướt phủ lên lò sưởi, song đều vô hiệu.  Luồng ánh sáng chói lòa vẫn lọt qua tấm thảm vút lên tận trần nhà.

    Nhóm nhà nghiên cứu thuộc Ban lý thuyết Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô đã đến căn hộ của Tuốc-kin đặt thiệt bị, máy ảNh, máy ghi âm.  Đến khoảng hai giờ đêm, sấm chớp lại nổi lên và được các thiết bị ghi lại.  Điều kỳ lạ là trước và sau tiếng nổ, đều thấy nhiễu ở dải sóng ngắn và cực ngắn.  Các thiết bị đặc biệt đã phát hiện thấy, ở nền buồng ngủ có hai điểm dị từ.  Sau khi lật tấm trải nền, dỡ bỏ các ván sán, các chuyên gia đã phát hiện thấy, ở một điểm dị từ có lỗ thủng cạnh cháy xém.  Lần theo lỗ thủng các nhà nghiên cứu tìm được sợi dây điện đôi bị cháy nằm trong bê tông.  Sau khi cắt, bỏ sợi dây cháy và cách điện sợi dây đó, tiếng nổ và chớp trong phòng biến mất.  Tuy nhiên chưa ai hiểu được quan hệ giữa đầu dây điện nằm trong phòng và cột sáng chói sừng sững cách đó một mét rưỡi.

    Hiện tượng tương tự như vậy cũng xảy ra trong một thư viện ở Mát-xcơ-va.  Hai thủ thư đã nhìn thấy một vật sáng chói, dài như cái thước, lửng lơ bay trong phòng.  Sau khi “dạo quanh” một lượt trong phòng, vật sáng đó lặng lẽ xuyên qua phòng, rồi biến mất, không để lại một vết nào trên tường cả.

    Cũng tại đó, một năm sau, đã xảy ra chuyện kỳ lạ:  tấm kính bên trong cửa sổ hai lớp kính, đột nhiên rugn lên, rồi vỡ tan, trong khi cả trong và ngoài cửa, khi đó chẳng có ai.

Người tàng hình

    Một buổi tối, trong ngôi nhà của một cô giáo già, sống cùng một cháu nhỏ.  Khoảng chín giờ tối, khi cô đang chấm bài, đứa cháu đang học bài thì có tiếng lạo xạo, như ai đang đổ tiền xu.  Họ mở cửa ra xem thì không thấy có chuyện gì.  Khi quay vào nhà họ nghe thấy nắp ống khói cọt kẹt.  Tiếng động đó chuyển dần theo ống khói, rồi sau đó là những tiếng gõ cộc, cộc, như người dùng búa nện ở dưới sàn.  Những tiếng gõ ấy chỉ xuất hiện khi cô cháu ở nhà và kéo dài đến nửa đêm, rồi chuyển đến sâu xuống lòng đất.  Cuối cùng là những tiếng sột soạt rồi tắt hẳn.

    Có người đã thử chui xuống gầm nhà lục soát, khi có tiếng gõ.  Nhưng ngoài mạng nhện chăng chằng chịt ra, đã không tìm thấy cái gì.  Ngay cả hang hay vết nứt cũng không có. 

    Mới đây những tiếng gõ như vậy đã xảy ra ở mọi toà nhà cổ nằm ngay trong thủ đô Mát-xcơ-va, trong phòng của ba cô thợ sơn.  Một hôm vào lúc nửa đêm, các cô nghe thấy tiếng gõ cửa, mở ra chẳng thấy ai.  Sau đó lại thấy tiếng gõ cửa, mở ra lại không thấy ai.  Rồi sau đó, cửa tự mở ra, rồi tự đóng lại.  Hoảng hốt, ba cô lúc đầu tìm cách tự vệ, sau chạy sang phòng các bạn trai nhờ giúp đỡ.  Họ chèn cứng cửa, lấy khăn bông bịt các khe hở.  Tiếng gõ mất đi nhưng lại nghe thấy tiếng đập thình thịch, giận dữ.  Thế là các cô phải gỡ bỏ khăn bông.  Thợ điện, công an đến tìm kiếm nhưng đều không đem lại kết quả.

    Sau dần ba cô quen, thậm chí còn “nói chuyện” được với người “tàng hình” bằng ngôn ngữ đặc biệt:  Một tiếng gõ là “có”, hai tiếng gõ là “không”, còn dậm chân thình thình là “anh ta” tức giận.

    Dân dần “anh ta” đã kể cho các cô nghe về mình, nói chuyện với nhiều người, đóan được tên của họ có mấy chữ, biết giờ giấc, biết người đó vừa làm gì …  Hơn nữa “người tàng hình” còn “giỡn chơi” các phóng viên truyền hình làm trục trặc camera của họ.

    Cũng ở Mát-xcơ-va, tại ngôi nhà mười bốn tầng ở ngoại ô, trong căn hộ nằm trên tầng cùng của gia đình Rô-ma-chen-cô.  Chuyện bắt đầu từ chiếc máy điện thoại.  Một hôm, sau khi nói chuyện qua điện thoại được ba, bốn phút, thì đột nhiên mất tín hiệu, khi kiểm tra thì dây bị lưỡi dao cạo cắt ngang.  Họ nối lại, sau mươi, mười lăm phút dây lại bị cắt ngang.  Tưởng là dây dẫn cũ, họ liền thay dây mới, song việc đó vẫn tiếp diễn.  Tiếp đó, là loa truyền hình bị hỏng.  Thợ sửa chữa đến kiêm tra thấy trong loa có một nắm dây rối tung.  Ai đó đã nghịch hỏng.  Trong một thời gian dài, gia đình nghĩ cậu con trai mười bốn tuổi của mình nghịch, song cậu đã thề không ngịch vì ham kỹ thuật và thích lái ô tô.

    Một tối, Rô-ma-chen-cô nhìn thấy bình ngưng đặt sát trần trong góc phòng rỏ nước, mười lăm năm nay binh ngưng đó chảy nước có một lần.  Anh đã mời thợ đến sửạ  Tưởng xong, ai ngờ nước từ trần phòng khác lại nhỏ xuống.  Anh đành phải gọi thợ và đem con ra hành lang ngủ.  Ở đó nước lại nhỏ ướt mặt bọn trẻ.  Họ đành thức chờ đội cấp cứu đến.  Và kỳ lạ thay, khi đội cấp cứu đến, tất cả đều bỗng như không có chuyện gì xảy ra.  Đội cấp cứu ra khỏi, mọi chuyện lại lặp lại.  Thảm chăn gối ướt sũng, Ban quản lý nhà cửa phải đem đèn to đến sấy đồ đạc trong phòng.  Thế nhưng, khi vừa tắt đèn là nước lại xối xuống, làm nổ tung cả bóng đèn.  Đèn chùm trong phòng lớn cũng nổ, rất tất cả bắt đầu cháy.  Bắt đầu từ tấm khăn phủ trên máy thu hình (mà máy đã rút khỏi mạch điện), tấm khăn phủ trên đàn piano, rèm cửa, quần áo, vật dụng khác.  Một điều kỳ lạ là ngọn lửa không nóng, tiếp đó là các đồ vật trong nhà bắt đầu lung lay và bay tung.  Bắt đầu là con dao găm đến máy điện thoại, cái chặn giấy, gạt tàn thuốc, đèn bàn… tất cả bay tung lên rồi vỡ tan, chưa hết nước lại như được ai đó rót vào giấy, áo khoác.  Cuối cùng, trong nhà sực lên mùi thơm, bay từ những giọt trông như giọt keo lốm đốm trên tường….

    Hiện tượng trên bắt chúng ta phải suy nghĩ bởi trong tự nhiên không có hành động nào xảy ra mà không chịu sự kiểm soát của chính tự nhiên.  Nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là công nhận, ghi nhận những hiện tượng đó, để nghiên cứu, tìm hiểu để biết rõ bản chất của nó.

    Ðến nay đã hơn hai mươi giả thuyết về vấn đề này, song chưa có giả thiết nào hoàn chỉnh, bởi đây là hiện tượng phức tạp của những cái đã biết và chưa biết.  Hy vọng rằng mọi sự nghiên cứu nghiêm túc, trong một ngày gần đây, các nhà khoa học cho chúng ta lời giải đáp thoả đáng, như lịch sử của sét hòn.

Cô bé phóng lửa

    Ở một thôn nhỏ, gần Xô-rôm-cơ (Bê-lô-ru-xi-a), tại một ngôi nhà của hai bà cháu, đã xảy ra một hiện tượng cháy kỳ lạ.  Một ngày, cũng bình thường như mọi ngày, đột nhiên vải trên giường, rèm cửa, thảm, khăn trải bàn… từ trong nhà của hai bà cháu bùng cháy.  Thật may, xe cứu hoả đến kịp thời và dập tắt đám cháy.  Nhưng ngày hôm sau, cũng tại đây lại xảy ra một vụ cháy dữ dội hơn, và mọi biện pháp chữa cháy của đội cứu hoả nông trường đều vô hiệu.  Lửa vẫn bùng cháy từ rèm cửa, thảm, chăn đệm…  Các đội viên đội chữa cháy của huyện tới nơi được nhìn thấy một cảnh tượng kỳ lạ.  Lửa bốc lên từ chính miếng giẻ lau sũng nước, kính để trong bao, cây thông nhựa, thuốc… để trơ trọi trên giá cũng tự bốc cháy.  Ðám cháy chỉ tắt khi mọi đồ đạc trong nhà được mang ra ngoài.

    Một giờ sau, mọi người quyết định thử xem cháy do đâu?  Họ đem hai bao, một đựng đầy bột mì và một đựng đầy bột trân châu, nhúng nước cho ướt sũng, rồi đem vào nhà.  Và ngay lập tức, ngọn lửa lại đột ngột bốc lên tại chính giữa bao, tiếp đó là lan sang hai bên.

    Tối hôm đó, cô bé phải ngủ nhờ nhà cô giáo, tại đây chiếc áo măng-tô của cô bé lại bốc cháy.  Xét nghiệm các đồ vật bị bốc cháy, người ta không tìm thấy dấu vết của chất có thể tự bốc cháy.  Cô bé có khả năng tự phóng lửa chăng?  Chính bé cũng không biết được!  Thật kỳ lạ!  Các nhà khoa học Liên Xô cho rằng, đây có thể là hiện tượng tự vận động dưới tác động của những lực phi vật lý.

Cậu bé bốc cháy

    Cậu bé Xa-sa trông cũng bình thường như mọi cậu bé học trò khác.  Xa-sa học lớp 7 thuộc E-na-ki-ep (Liên Xô cũ).

    Bỗng từ tháng 11 năm 1986, một hiện tượng lạ kỳ xảy ra, cậu bé Xa-sa xuất hiện ở gian phòng nào, thì đồ đạc ở đó tự bốc cháy, bóng đèn điện nổ tung, chai lọ tự mở nút, máy giặt quần áo bị lật ngược…

    Hiện tượng của bé Xa-sa khiến nhiều bạn đọc và các nhà khoa học quan tâm.  Vì vậy, toà soạn báo “Tin Tức” Liên Xô đã mời Xa-sa và mẹ lên Mát-scơ-va, để các chuyên gia y tế khoa học xem xét.

    Sau khi làm các xét nghiệm khoa học, các chuyên gia thuộc Viện Điều dưỡng tâm thần trung tâm khoa học Liên Bang, thuộc Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô đã kết luận:  Cậu bé thần kinh bình thường.  Như vậy, cậu bé không thể là một sinh thể “phóng hoả” chăng?  Và cũng không phải là con người đặc biệt, có những khả năng đặc biệt chăng?  Chính các nhà khoa học cũng thừa nhận:  Đây không phải là một vấn đề dễ dàng.

    Các hiện tượng tương tự cũng đã xảy ra ở Mát-xcơ-va và một số nước khác.  Tạp chí Điện tử và Điện tử vô tuyến số 3 năm 1982 của Mỹ cho rằng, đây là hiện tượng “Pôn-tơ-gây” nghĩa là “Trò khuyấy đảo của thần linh”.  Biểu hiện của chúng giống nhau:  các đồ đạc bị đổ vỡ, bị bay xa, đôi khi bốc cháy.

    I-xa-côp, viện sĩ viện hàn lâm khoa học Liên Xô, cộng tác viên của tờ Tin Tức cho rằng:  đây là hiện tượng thôi miên thời điểm.  Theo thuyết này, thì hoặc bản thân nạn nhân tự nhiễm, hoặc ai đó trong số người xung quanh gây nhiễm.  Tại thời điểm này, con người có thể thực hiện bằng cách vô ý thức, một công cơ học tức thời, không thể tưởng tượng nổi – và ngay lập tức trở lại trạng thái bình thường của mình.

    Bằng cách đó có thể lý giải được hiện tượng các đồ vật bị quăng quật, xô đẩy, xê dịch chớp nhoáng.

    Tiến sĩ toán lý An-dri-an-kin (Liên Xô cũ) cho rằng:  Có nhiều nhân tố địa lý của môi trường xung quanh, tạo điều kiện cho sự hình thành của sự kiện nói trên.  Tuy nhiên để nó bộc lộ hoàn toàn đòi hỏi, cả những tính chất sinh lý đặc biệt của mọi người, tức là cần một loạt nguyên nhân, nhưng cần chính “những tính chất sinh lý” nào, để có thể làm văng bật cả cầu chì điện (ở độ cao mà không có thang thì con người không thể với tới), làm nổ cả những bóng đèn điện chưa thắp, những chai lọ đựng các thứ khác nhau.  Chúng tôi không thể yên tâm với những câu hỏi này.  Cả câu hỏi – Từ đâu xuất hiện lỗ thủng trên kính cửa sổ cũng vậy, không biết đây có phải là một chi tiết thường gặp trong những hiện tượng tương tự không?

    Còn đây, là ý kiến bình luận về sự cố E-na-ki-ep của giáo sư, tiến sĩ hoá học Đmi-tơ-ri-ep, trưởng phòng thí nghiệm hoá lý và phóng xạ của Viện nghiên cứu vệ sinh học công cộng, mang tên Xư-in của Viện Hàn lâm y học Liên Xô;  “Chúng tôi coi sét hòn là nguyên nhân, nó không nhấ thiết phải có dạng quả cầu cháy sáng, như mọi người thường quan niệm, vốn là hậu quả của sét dây được quan sát thấy trong lúc có giông.  Trong thực tế, đa số sét hòn không liên quan gì đến sét dây, và chúng là những chất đặc sít, được kết tụ trong áp suất khí quyển.  Có những sét tối rất khó nhìn thấy, mặc dù những người chứng kiến từng quan sát thấy chúng vào ban ngày và đã chụp ảnh.  Sét hòn không nhất thiết có bản chất điện hoàn toàn, chất tạo ra chúng có thể mang hoặc không mang điện tích lớn.

    Như vậy, trong trường hợp này, rõ ràng có tác đo6.ng của loại sét đó, loại sét hòn dạng phân tán và biến thành khí.  Nó có thể tồn tại ở trạng thái này, trong một thời gian khá lâu.  Khi xảy ra quá trình hút bám, tức là sự hấp thụ chất bởi vật liệu xung quanh – cũng là lúc xảy ra các hiện tượng các đồ vật bị bốc cháy.  Sét hòn có khả năng nổ với công xuất cao, làm xê dịch đồ đạc.  Điện tích phân hoả của chúng đã làm cháy các dây dẫn điện và điện thoại, làm bật tung cầu chì v.v… trong phòng thí nghiệm của chúng tôi.  Nghiên cứu các quá trình hoá lý khác nhau trong môi trường bao quanh, trong đó bản chất sét hòn, đã quan sát thấy không ít các biểu hiện tương tự của nó.  Cho nên, hoàn toàn chẳng có gì phi tự nhiên trong “hiện tượng lạ” xẩy ra ở E-na-ki-ep cả.  Nguyên nhân của nó rất cụ thể.  Cả em bé lẫn gia đình không có lỗi.  Họ chỉ là nạn nhân của sự cố, mà kết quả là bị bắt cháy.

    Theo kết luận của hội khoa học do Ban lý thuyết Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, tổ chức về vấn đề này, có sự tham gia của Xa-sa và mẹ em, thì đây có thể là hiện tượng tự vận động của lực phi vật lý (tekekinesis spontaneus), một dạng của hiện tượng poltergeist, mà khoa học đã biết đến và đã xảy ra nhiều trên thế giới, song gần đây xuất hiện nhiều ở vùng Mát-xcơ-va.  Giả thiết cho rằng, đây có thể là những hiện tượng tự vận động đặc biệt, sinh ra dưới tác động của những nhân tố phi vật lý và mang mầu sắc tâm thần có nguồn gốc khác nhau.

Phương pháp chữa bệnh kỳ lạ của bác sĩ A-na-tô-li Ca-spi-rốp-ki

    Bác sĩ nội khoa tâm lý A. Ca-spi-rốp-xki là một người đầu tiên trên thế giới, thực hiện gây mê phẫu thuật thành công qua truyền hình và chữa được nhiều bệnh khác cũng qua truyền hình.  Bác sĩ A. Ca-spi-rốp-xki đang mang đến cho người bệnh, đặc biệt cho những người có tật nguyền niềm hy vọng lớn lao.  Đài truyền hình trung ương Liên Xô đã dành cho A. Ca-spi-rốp-xki nhiều buổi chữa bệnh nhân đạo, kết quả thu được thật đáng kinh ngạc.

    Đầu tiên, là việc bác sĩ đã gây mê qua truyền hình cho hai phụ nữ đang bị bệnh nặng, cần phải phẫu thuật.  Cơ thể của hai người phụ nữ này mang tố chất tự điều chỉnh cao, dưới tác động cu/a tâm lý có thể nhanh chóng tiết ra chất Endofrin giảm đau.  Nhờ có lòng tin của bệnh nhân vào khả năng của bác sĩ trị liệu nội khoa tâm lý, ca mổ được tiến hành mà không cần gây mê.  Nhờ có A. Ca-spi-rốp-xki gây mê qua truyền hình, bệnh nhân hoàn toàn không cảm thấy đau đớn, thậm chí còn mỉm cười và trả lời các câu hỏi, một trong hai người còn hát khi ca mổ vẫn đang được tiến hành.  Hiện nay, cả hai phụ nữ này (là O.Igrato^va và L.Lurosêva) đã khỏi bệnh và khoẻ mạnh.

    Đầu năm 1989, A. Ca-spi-rốp-xki thực hiện năm buổi chữa bệnh, trên đài truyền hình U-crai-na với mục đích là để chữa bệnh đái dầm, một căn bệnh thường gặp ở trẻ em và rất khó chữa.  Nhưng kết quả lại không ngờ:  Sau khi xem các chương trình này, nhiều người với các căn bệnh khácnhau, bắt đầu cảm thấy mình khoẻ hẳn.  Và A. Ca-spi-rốp-xki thường xuyên nhận được nhiều bức thư.  Có bốn ngàn bức thư báo tin đã khỏi bệnh giãn tĩnh mạch, một trăm sáu mươi hai người đã thấy mất sẹo sau khi mổi, mười chín người bớt lên cơn động kinh, nhiều người mắc bệnh đái đường không cần đến thuốc nữa…  Đó là một điều kỳ diệu và những kết quả thật lạ kỳ.

    Nhiều người vẫn giữ cả bệnh án, có ghi kết quả khám bệnh giai đoạn trước và sau khi chữa theo phương pháp của Ca-spi-rốp-xki.  Nhiều bức thư gửi cho ông viết:  “…Cám ơn bác sĩ!  Ở làng tôi người ta vẫn thường cười chế tôi là một con người phì nộn quá cỡ.  Thế  mà sau khi xem buổi truyền hình mà bác sĩ trình diễn, tôi đã gây đi được 12 kg.  Vì vậy tôi có một hy vọng và một niềm tin lớn vào ông”.

    A. Ca-spi-rốp-xki cho biết:  cơ thể con người là một điều kỳ diệu và trong mỗi cơ thể đều có một hệ thống tự điều chỉnh.  Để hệ thống đo hoạt động được, bác sĩ trị liệu nội khoa tâm lý phải có tác động đến nó.  Nếu không chẳng có kết quả gì cả.  Theo Ca-spi-rốp-xki, trong các buổi chữa, có sự tiếp xúc giữa hai điều bí mật:  Bí mật tác động và bí mật hấp thụ.  Một cơ thể nếu được “chỉnh” đúng trạng thái “chữa bệnh”, sẽ có phản ứng với các tác động chính xác.  Trong cơ thể, hình như có “Máy tính” đang làm việc.  Bộ óc con người biết đó điều gì đang xảy ra trong cơ thể, trong mỗi tế bào và A. Ca-spi-rốp-xki biết cách bật ra “những tia lửa thân”.  “Máy tính” tự điều chỉnh bỗng hoạt động và bệnh tật bắt đầu rút lui.

    A. Ca-spi-rốp-xki đã làm được những điều kỳ diệu.  Chính ông đã dũng cảm mở tung cánh cửa của liệu pháp nội khoa tâm lý, tăng cường các khả năng của nó, bằng cách tác động lên các mặt bí ẩn của tâm lý con người.

    Con người và những phương pháp chữa bệnh A. Ca-spi-rốp-xki là một đề tài lý thú, nhưng không dễ dành cho ngành y học và thế giới và nhiều nhiều ngành khoa học khác nghiên cứu.

Bàn tay có khả năng kỳ diệu

    Cách đây trên hai mươi năm, ở Liên Xô người ta phát hiện thấy những khả năng kỳ lạ ở một người phụ nữ bình thường, bà Cu-la-ghi-na, vợ của một kỹ sư đóng tàu chỉ lo việc nội trợ trong gia đình, có ba con.  Bà chỉ cần sờ tay vào da thịt người khác, là có thể gây bỏng cho người đó, bà có thể xê dịch các vật dụng, mà không cần mó tay vào, như là chuyển chỗ chiếc bút máy của nhà báo, làm quay lại kim la bàn, làm nghiêng bàn cân…  Những điều kỳ lạ này đã được thông tin trên báo chí.  Nhiều người đã đến tận nơi để xem xét, nghiên cứu, trong đó tất nhiên có những nhà khoa học.  Kỹ sư Cu-la-ghi-na đã tự mình thực hiện một bộ phim tài liệu về vợ mình.

    Tiếng đồn lan ra nước ngoài và người ta kéo đến từ khắp nơi:  Mỹ, Nhật Bản, Úc, Tây Âu…  Một hãng truyền hình Nhật Bản đã trả cho Liên Xô mười lăm nghìn đô la, để được Uỷ Ban Nhà Nước Phát Thanh và truyền hình Liên Xô giúp đỡ họ quay một bộ phim vê Cu-la-ghi-na.

    Đến đầu những năm 80, “hiện tượng K” được Viện sĩ anh hùng lao động Y. Cô-đa-rep cùng giáo sư P. Gu-la-ep nghiên cứu.  Bắt đầu buổi thí nghiệm, Cu-la-ghi-na trình diễn bằng cách lấy ra một chiếc la bàn thông thường và huơ tay phía trên.  Một lúc sau thì kim la bàn động đậy.  Bà nói:  Đây là bước “khởi động”.  Tiếp theo, nhà bác học đặt lên mặt bàn có trải vải nhựa, một chiếc nắp bút bằng kim loại.  Sau khi huơ tay vài lần, Cu-la-ghi-na lại làm cho nó chạy theo tay chị tới tận mép bàn….  Ông cho rằng, Cu-la-ghi-na đã “gồng” rất mạnh, để tạo ra dòng điện mạnh tới hàng trăm kilôvôn.  Vì vậy, đến lần hẹn sau, Y. Cô-da-rep chuẩn bị sẵn một vôn kế điện tĩnh, rồi đấu nó với nắp bút bằng một sợi dây dẫn dài mảy và vứt lên đèn chùm.

    Cu-la-ghi-na lại làm cho nắp bút chuyển động y hệt lần trước, nhưng lạ chưa, kim vôn kế không hề nhúc nhích, vậy là, hiện tượng kỳ lạ này không thể giải thích được bằng phương pháp điện tĩnh.  Y. Cô-da-rep đã bị chinh phục.  Ông nói:  “Tôi có cảm tưởng là để giải thích được hiện tượng này, thì chỉ có một cáh duy nhất là thừa nhận rằng, có thể tác động lên quy luật của không gian và thời gian bằng sức mạnh của ý chí”.  Để nhiều nhà khoa học được chứng kiến, người ta đã tiến hành tiếp hàng loạt thí nghiệm, tại căn phòng rộng của ViệnI. Ki-cô-in.  Tại đây, Cu-la-ghi-na đã làm sửng sốt nhiều nhà bác học bằng cách điều khiển cho chiếc ly nhỏ chuyển động mà không cần tới bất cứ một “sợi chỉ” nào.

    Sau thuật điều động từ xa, Cu-la-ghi-na lại chiều những khán giả muốn bà cho một “liều bỏng”, chỉ chạm tay vào đâu, chỗ ấy cháy xém.  Chưa hết, bà còn có thể gây bỏng từ xa.  Giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Liên Xô, Bra-ghin-xki là người chịu đau dai nhất.  Vết bỏng của ông nặng đến nỗi mấy ngày sau, vẫn chưa bong.  Trên các vết ấy, có những hạt ánh như thể được phủ bởi một lớp tinh thể nhỏ li ti.  Khi giáo sư Y. Cô-da-rep đề nghị chữa giúp chứng viêm rễ thần kinh vùng thắt lưng, bà đã đỏ mặt lên và “đốt” cho ông mốt phát vào đó.  Về sau, vợ nhà khoa học này đã cạo ra ở vết bỏng một thìa cà phê những chất như thể muối.  Kết quả xét nghiệm cho thấy, đó là loại muối natri và kali thông thường vẫn có trong cơ thể con người.

    Viện sĩ Y. Cô-da-rep đã cùng giáo sư Iu. Gu-lia-ep, đặt phòng thí nghiệm chế tạo cho họ hai micrô đặt biệt:  một micrô ngưng tụ và một micrô gốm.  Mỗi micrô được xếp trong vỏ bao diêm và được đấu với một bộ khuyếch đại và một máy hiện sóng điện tử.  Micrô ngưng tụ được đem ra thí nghiệm trước, vì nó nhạy hơn.  Khi Cu-la-ghi-na đưa tay về phía bao diêm và “gồng” thì trên màn hiện sóng lập tức xuất hiện xung, rồi xung này vụt tắt ngay.  Micrô không hoạt động được nữa.  Khi mở ra, người ta thấy nó như bị “đột phá”, mang rung của nó thụt vào phần đế.  Sau khi sửa chữa cấp tốc, micrô lại được mang ra thí nghiệm.  Song cũng giống như lần trước, các xung âm quá mạnh, đã làm cho micrô hỏng ngay.  Thế là chiếc thứ hai micrô gốm phải “xung trận”.  Nó làm việc hoàn toàn trôi chảy.  Nằm trong một bao diêm, micrô vừa chuyển động vừa phát ra những xung hỗn loạn, có đồ thị dốc đứng.  Điều này chứng tỏ, đôi tay Cu-la-ghi-na phát ra siêu âm.  Đó là một phát hiện hớn, làm chấn động giới khoa học Liên Xô.

    Để vững tin hơn, các nhà khoa học lại tiến hành thêm một thí nghiệm nữa.  Lần này, các xung được ghi lên băng từ đặt biệt (có dải tần số tới hai trăm kilôhec), và được xử lý bằng một thiết bị đặt biệt, trên máy điện sóng chùm đia điện tử, rồi được chụp lại.  Bằng cách này, người ta xác định được độ dài cỡ ba phần trăm giây của các mặt xung dốc đứng.  Tuy nhiên, bản chất vật lý của các xung này ra sao thì đến nay vẫn chưa rõ.

    Trong quá trình nghiên cứu, giáo sư Y. Cô-da-rep bỗng nẩy ra sáng kiến, thử nghe xung này xem sao.  Kết quả là người ta đã nghe thấy bằng tai, những âm thanh hỗn loạn khi Cu-la-ghi-na “gồng”.  “Gồng” càng mạnh thì tiếng phát càng nhanh.  Y. Cô-da-rep đã nhiều lần xác minh lại xung mà ông tìm ra, nhưng vẫn chưa dám tin rằng tay người có thể phát ra xung âm.

    Hiện tượng “động từ xa” ở Cu-la-ghi-na là do bàn tay của bà phát ra những siêu âm, đây là một phát hiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, liên quan đến sinh học, sinh lý học, và y học.

    Đôi bàn tay của Cu-la-ghi-na còn phát quan và sự bức xạ này được ghi nhận bằng dụng cụ.  Đó là một máy khuyếch đại quang điện tử và một máy ghi chỉ số.  Để ghi lại tác động đối với máy khuyếch đại quang điện tử, rồi một người khác giữ chặt tay bà ở bên trên.  Tất cả đều được che kín để đảm bảo hoàn toàn tối.  Trời nóng làm tay bà vã mô hôi:  máy vẫn không chỉ.  Cu-la-ghi-na lo lắng.  Bà ra sức “gồng”.  Cuối cùng con số hiện ra, bắt đầu lớn dần.  Hết con số chín, nó nhẩy vọt lên gấp hàng nghìn lần của dòng tối.  Có cảm giác là Cu-la-ghi-na đã đuối sức, nhưng bà không dừng lại được, ngay cả khi có lệnh ngừng.

    Ngoài ra, Cu-la-ghi-na còn có thể phát ra xung lượng điện này và các xung âm kể trên là hai mặt của một quá trình.  Trong cả hai trường hợp, tay của bà phóng ra những hạt, sau khi mới đi được một đoạn đường ngắn, đã đập ngay và màng rung của micrô.  Một trong hai khả năng là:  hoặc bản thân các hạt này mang điện tích hoặc chúng làm ion hoá không khí.  Khi rơi vào mặt phẳng kính, chúng làm kính bị mờ, rơi vào bề mặt da, chúng ta ra ở đó những tinh thể cực nhỏ, kích thích các đầu cuối thần kinh, gây xung huyết bất thường và tạo bỏng giống như cao mù tạc.

Đây là một quá trình sinh lý thống nhất của con người mà ta chưa hề biết tới.  Tuy nhiên, đây vẫn chưa phải là tất cả.  Cu-la-ghi-na còn có khả năng làm chua nước, và rõ ràng là những hạt phóng ra từ bàn tay ưa nước, vì thế dễ bị hấp thụ và tan vào nước.  Sự hiện diện của luồng hạt nhân này là không thể phủ nhận.  Tuy nhiên, để có được những luận chứng khoa học về thuật điều động từ xa, cần phải đo các cơ thể, tính toán các điện trường và khẳng định được rằng hiệu điện của chúng đảm bảo làm xuất hiện các hạt đủ mạnh, để dịch chuyển các đồ vật có trọng lượng đã định trong trường lực.  Khoa điều động từ, không thể là xảo thuật mà là một thực tế vì các đồ vật dịch chuyển không nhiễm từ và không hề có một “sợi chỉ” nào hết.

    Cuối cùng Cu-la-ghi-na còn có khả năng “đọc bằng gáy” và dập tắt tia lade.  Trường hợp đầu phần nào giống hiện tượng thần giao cách cảm, còn trường hợp sau thì chưa nhận được sự đánh giá thống nhất của các giới chuyên môn.  Viện sĩ A-lêch-xan-drôp trực tiếp chỉ đạo cách thí nghiệm khác nhau, kể cả việc cho Cu-la-ghi-na tiếp xúc với cá heo trong phòng kín ở Ba-tu-ni trên biển Bắc.  Năm 1982, khi trung tâm thí nghiệm sinh học, bằng phương pháp vô tuyến điện tử mới thành lập, Cu-la-ghi-na là đối tượng đầu tiên được nghiên cứu.  Kết quả khẳng định:  Cu-la-ghi-na có khả năng làm tăng khá lớn tính dẫn điện của không khí xung quanh lòng bàn tay mình, bàn tay của bà có thể phát ra ánh sáng và cả âm thanh.  Hiện tượng huỳnh quang mạnh đến mức có thể nhìn thấy bằng mắt thường và âm thanh phát ra lớn ngang bằng tiếng động do cá heo phát ra, có thể nghe được không cần tăng âm.  Ngày nay ở Lê-nin-grát, “hiện tượng Cu-la-ghi-na” không những được các nhà khoa vật lý học cũng rất quan tâm, vì người ta nhận thấy nhiệt phát ra từ bàn tay của Cu-la-ghi-na có tác dụng chữa bệnh đáng ngạc nhiên.

Cô phù thủy mắt xanh

    Mê-ri Ba-gan-ri là cô gái người Grudia, cô có đôi mắt to xanh khác thường và tuyệt đẹp.  Năm cô 20 tuổi, người ta phát hiện ra cô có khả năng chữa bệnh kỳ lạ nhân một chuyện rất tình cờ.  Cô kể:

    Một lần khi tôi đang về nhà thì trông thấy một đám đông giữa phố.  Lại gần, tôi nhận ra một cô giáo trẻ của tôi đang la hét và co giật.  Họ hàng, hàng xóm đã trói cô vào giường nhưng cô không bình tĩnh được.  Người ta cho gọi bác sĩ từ làng bên.  Tôi bất ngờ cảm thấy cần phải giúp đỡ và tôi lại gần, cô vẫn co giật, tôi bắt đầu dùng hai bàn tay vuốt nhẹ dọc theo lưng cô.  Khoảng gần 20 phút sau cô bắt đầu nằm yên.  Trong thời điểm ấy tôi cảm thấy rất rõ trạng thái căng thẳng trong toàn thân mình qua đi.  Tôi nhìn cô giáo đã nằm yên, yêu cầu những người xung quanh cởi trói, dùng nước sạch rửa mặt cho cô…  Sáng hôm sau, cô đã tự dậy được tuy chưa khoẻ hẳn, và có thể làm những việc nội trợ.  Trong làng người ta đồn tôi là phù thủy.

    Sau lần đầu tiên đó, Mê-ri đã chữa khỏi bệnh cho nhiều người.  Bằng một cảm giác nào đó, Mê-ri xác định được chính xác nơi bệnh tật ẩn náu trong cơ thể người bệnh, hơn thế, cảm giác của người bệnh cũng được chuyển cho cô.  Cô kể về các cảm giác của mình trong khi đang chữa bệnh như sau:

    – Tôi “truyền” năn lượng vào chỗ bị đau, và cảm thấy thời điểm năng lượng “rời” khỏi tôi.  Tôi cũng cảm thấy nó tập trung trong cơ thể người khác, cảm thấy tay tôi như “giật” khỏi người bệnh, và khi đó tôi ngừng quá trình chữa.

    Tác dụng trường sinh học của cô lớn nhất đối với trẻ em, nhất là trẻ em còn bú.  Cô có thể chữa được một số bệnh tâm thần trẻ em, bệnh động kinh, lác, dị ứng…  Cơ thể trẻ em nhạy cảm.  Vì khác với người lớn, chúng dễ thư giãn, trong tiếp xúc chúng tự nhiên hơn, cơ thể chúng chưa bị “nhiễm bẩn” bởi các loại thuốc.  Và cái chính, theo Mê-ri, đứa bé càng bé thì càng gần với tự nhiên hơn.  Nhưng cô cũng đã giúp nhiều người, rất n nhiều người không còn trẻ nữa…

    Một vị giáo sư 59 tuổi, mắc chứng đau đầu nhiều năm, mỗi cơn đau kéo dài 2-3 ngày.  Thuốc thang vô hiệu.  Mê-ri đã cắt cơn cho ông sau 12 buổi chữa.  “Điều cô làm thật kỳ diệu.  Tôi thấy dường như có cái đầu khác” -  Vị giáo sư thú nhận.

    Một người đàn bà 63 tuổi liệt tay trái và chân trái, nằm liệt giường đã hơn 10 năm.  Bằng các phương pháp hiện đại, người ta xác định được nguyên nhân do tuần hoàn não ở bán cầu đại não phải bị rối loạn.  Sau 16 buổi chữa bệnh của Mê-ri, người bệnh bắt đầu tập đi.

    Việc tiếp xúc với người bệnh làm cho Mê-ri cảm thấy dễ chịu.  Có thể do ý thức là cô đã giúp người bệnh bớt đau khổ, hoặc khỏi hẳn.  Và còn một nguyên nhân khác nữa:  đôi khi cô cần phải giải phóng bớt năng lượng thừa tích lại trong cơ thể.  Khi cô truyền năng lượng cho người khác qua tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp, cô cảm thấy dễ chịu cả về tâm lý và sinh lý.  Đó là đặc điểm khác biệt – thường ở những người có khả năng chữa bệnh tương tự thì việc tiếp xúc với người bệnh lại làm cho họ mệt mỏi.

    Năm 1988, các nhà khoa học mời cô gái Gru-di-a trẻ này về viện phẫu thật mang tên Vi-snhốp-xki để làm thí nghiệm chẩn đoán bệnh cho các bệnh nhân đang chữa ở đây.

    Thật bất ngờ, Mê-ri bắt đầu từ các bác sĩ.  Chỉ một vài giây, cô phát hiện ra một bệnh kín ở một trong số họ, sau này chẩn đoán đã được khẳng định.  Sau đó, cô khám cho 70 bệnh nhân khác, Mê-ri nói:

    – Khi tôi nhìn thấy một người, tôi xác định ngay tình trạng sức khoẻ của người ấy bằng đặc điểm bên ngoài.  Tất cả đều có ý nghĩa: mắt, da…  và các mùi.  Tôi cảm thấy chúng từ khá xa.  Sau đó, chỉ còn giúp người bệnh thôi.  Tôi đánh giá người khác rất chính xác – ai khiêm tốn, ai chính trực, nhưng thường tôi không từ chối một ai cả, kể cả những người tôi không ưa.  Được giúp đỡ mọi người là một niềm vui lớn, tôi thường khổ tâm khi thấy đau đớn của người khác.  Khi đó tôi ra với thiên nhiên.  Thiên nhiên là thầy thuốc của tôi.  Thiên nhiên cho tôi sức mạnh, đặc biệt là mặt trời, tôi có thể nhìn mặt trời rất lâu mà không cần kính râm.

    Một hội đồng khoa học với các giáo sư giỏi đã tiến hành nghiên cứu hiện tượng Mê-ri bằng những thiết bị khoa học kỹ thuật hiện đại.  Các kết quả trên máy ghi điện âm cho thấy trường sinh học của Mê-ri Ba-gau-ri rất mạnh.  Thế nhưng cô dùng trường này để chữa bệnh như thế n ào thì vẫn còn là điều bí ẩn.

Ðôi bàn tay của thiên thần

    Một bé gái độ 6 tuổi đi cùng với bố mẹ đến nhờ bác sĩ siêu cảm, thấy thuốc Grigôrievna Saverđôva khám và chữa bệnh.  Đôi bàn tay bác sĩ âu yếm nhẹ nhàng đặt lên vùng lưng bụng bé gái và để như vậy vài phút.  Cả vùng lưng và bụng của bé ấm lên.  Sau buổi chữa thứ 11 bé khỏi hẳn bệnh sỏi thận.

    Đôi bàn tay toả năng lượng chữa bệnh nhờ vậy những viên sỏi trong thận đã bị nghiền nát để thải ra ngoài cơ thể.  Hàng chục bệnh nhân của chị đã tránh được những ca phẫu thuật khó khăn.

    Chị đã nhận được vô số thư.

    “Tôi đáng lẽ ra phải phẫu thuật ở túi mật.  Bây giờ tôi khoẻ mạnh.  Xin cảm ơn chị!  Cơvasa X.M.”

    “Tôi đến gặp bác sĩ vì mắc bệnh vú và có sỏi ở túi mật.  Sau ba buổi chữa, bệnh vú khỏi, còn sau buổi thứ sau sỏi bị nghiền nát và bắt đầu thải ra ngoài.  Larionôva E.E.”

    “Sau buổi chữa thứ tư đứa con gái của tôi tên là Olia, 9 tuổi, vốn bị điếc đã bỏ máy nghe và không cần đeo nó nữa.   Xin cúi chào chị!  Xaliaeva” .v.v…

    Đôi tay chị dường như sát vào thân người bệnh, qua mấy phút thì rời xuống, tựa như theo hiệu lệnh của ai đó.

    – Đôi tay của tôi – bác sĩ Saverđôva nói – tựa như nhiễm nam châm.  Sau đó bỗng nhiên sứt hút biến mất và đôi tay được thả ra.  Phóng viên báo phụ nữ Liên Xô cũ lại hỏi:

    – Làm thế nào mà chị biết được bệnh nhân mắc bệnh gì?

    – Nếu như có sỏi trong người thì tay tôi cảm thấy đau.  Trong quá trình khám, tay tôi nóng dần lên và thậm chí xuất hiệm cảm giác tựa như có hơi nóng bốc ra từ tay.  Khi phát hiện có khối u ác tính, tay tôi cảm thấy lạnh, tựa như để gần cục nước đá.  Tiếc rất tôi bất lực trong việc cứu giúp những bệnh nhân như vậy, đàn phải từ chối.  Không đảm nhiệm việc chữa bệnh cho ai đã ngoài sáu mươi.

    Kết thúc buổi liệu pháp chị chìa cho tôi xem lòng bàn tay mình.  Trên đó có vết tím không lớn, tựa như bị bỏng vì tia chớp nhỏ.

    – Cái gì thế này ?  Tôi hỏi.

    – Đây là cái chỗ mà bàn tay tôi chạm vào phần đau nhất trên tuyến sữa của bệnh nhân bị viếm vú.

    Người thầy thuốc này có sức lôi cuốn mọi người không chỉ nhờ tài chữa bệnh khác thường, mà còn do lòng nhân hậu và tâm hồn hào hiệp – những yếu tố đã gây được cảm tình trong cuộc tiếp xúc với nhau ngay từ phút mới làm quen.

    Đỗ vào trường đại học, sau khi tốt nghiệp chị trở thành nhà sử học có bằng cấp.  Chị dần dần từng bước chị nhận thức được khả năng chữa bệnh của mình.  Nhưng chị bao giờ cũng tự chữa bệnh cho ba đứa con và sau này cho cả những đứa cháu của mình.  Năm năm trước đây chị quyết định làm nghề chữa bệnh một cách nghiêm chỉnh.  Chị đọc rất nhiều sách báo y học, nghiên cứu thuật chữa bệnh Tây Tạng.  Chị tốt nghiệp khoá thầy thuốc siêu cảm ở Tibilixi.  Rồi chị bắt đầu tiếp bệnh nhân.  Trung tâm y học nhân gian ở Mát-xcơ-va chú ý tới chị.  Người ta giúp Tamara Grigôrievna trải qua thử nghiệm trong các điều kiện lâm sàng và khẳng định hiệu quả chữa bệnh rất cao của chị.

Khả năng kỳ lạ của đôi bàn tay   

    Cậu bé Marcơ Herieski người Hung-ga-ri hiện giờ (1990) 13 tuổi.  Từ một năm nay cậu bỗng có khả năng nhìn và tác động tài tình vào các đồ vật khác nhau.  Khi cậu nhìn vào dao ăn, thìa, đĩa thì các vật này có thể bị uốn cong hoặc là chuyển động.  Cậu nhìn vào đồng hồ, đồng hồ có th ể nguừng quay và ngưIợc lại nếu đồng hồ đang chếtthì sẽ chạy, cánh cửa tày điện đang từ từ khép lại sẽ đứng yên ngay nếu cậu nhìn vào nó, và chiếc la bàn sẽ quay loạn xạ nếu cậu nắm nó trong lòng bàn tay.  Nói chung “tài nghệ” của cậu không thua kém gì ông Uri Hellerơ – người Luân Đôn có tài làm đồng hồ lớn Bigbell ngừng chạy.

    Theo ý kiến của cha mẹ cậu bé là bà Điula và ông Anđrâya thì rất có thể Marcơ có khả năng này là do ảnh hưởng của sét hòn.  Hè năm ngoái có một cơn gông rất lớn, sấm sét đã làm hỏng ti vi và các đồ điện khác trong nhà.  Còn Marcơ thì khẳng định rằng sét hòn đã lọt qua lỗ khoá cửa, làm cho các ngón tay của em bị ngửa ra.  Từ đó trở đi em bắt đầu nhận thấy những khả năng kỳ lạ của mình.

Ðôi tay có phép màu

    Ông nổi tiếng không phải nhờ điện ảnh, mà nhờ khả năng ngoại cảm.  Nhiều cuốn sách viết về ông đã được xuất bản ở Mỹ, Anh, Đức, Phần Lan, Nhật Bản, Nam Tư, Hy Lạp, Ba Lan, và dĩ nhiên, ở cả Liên Xô.  Viện sĩ Viện hàn lâm khoa học Liên Xô M.B. Ken-đức đã gọi ông là “hiện tượng kỳ lạ” của thế giới.

    Vậy Ec-mô-la-ép là người thế nào?  Ông ra chào đời trong một hoàn cảnh đặc biệt:  Đêm 15-6-1938 ở An-ma A-ta (thủ đô Ca-dắc-xtan) xẩy ra một trận động đất dữ dội.  Một dòng thác đất đá khủng khiếp ấy xuống thành phố …  Chính vào lúc này, bà mẹ Ec-mô-la-ép đang trở dạ trong bệnh viện.  Và tại đây, trong tiếng ầm ầm của thiên tai, vào lúc 1 giờ 15 phút sáng, đứa trẻ ra chào đời, mẹ tròn con vuông…

    Phải chăng việc ra đời trong hoàn cảnh khắc nghiệt đó đã ảnh hưởng đến thể chất cậu bé?  Không ai dám khẳng định điều này.  Chỉ biết rằng lúc lên ba tuổi một hiện tượng kỳ lạ đã đến với cậu.  Khi cuộc chiến tranh chống phát xít bắt đầu (1941), gia đình Ec-mô-la-ép phải đi sơ tán.  Trong ngôi nhà họ đến ở, có nhiều loại nhện độc, bọ cạp rất nguy hiểm, nhất là đối với trẻ em.  Nhưng thật kỳ lạ, cậu bé lại gần, thay việc đưa tay định bắt các con vật cậu lại “ru ngủ” được các con vật nguy hiểm này, rồi đem chúng tập trung vào một chỗ trong hầm nhà trước sự ngạc nhiên, sợ hãi của mọi người.

    Khi lớn lên, Ec-mô-la-ép học trường điện ảNh, trở thành đạo diễn, và với khả năng kỳ diệu của mình, ông nổi tiếng.  Có lần ông nói:  “Bằng mắt nhìn, tôi có thể treo được các đồ vật trong không gian”.

    Ông rút một cành cúc trong lọ cắm hoa, nắm giữa hai lòng bàn tay.  Tập trung tư tưởng.  Một vài phút sau ông tách hai bàn tay ra, cành cúc treo lơ lửng giữa hai lòng bàn tay, cánh hoa nở bung ra các phíạ  Ông cũng làm được như vậy với các đồ vật khác, các vật đó cũng được một sức mạnh vô hình nào đó nâng lên và treo lơ lửng giữa hai lòng bàn tay.  Một hôm, có một phóng viên nhà báo đến phỏng vấn Ec-mô-la-ép và ghi âm lời nói của ông.  Ông nói chuyện bình thường.  Nhưng người phóng viên này về mở máy ghi âm để nghe thì lại hoá ra phần toạ đàm giữa hai người đã không được ghi vào băng, mà phần trước vẫn không bị xoá.

    Các nhà khoa học đã mời Ec-mô-la-ép đến phòng thí nghiệm để thử nghiệm.  Một máy đo sinh học đặc biệt được trường sinh học của Ec-mô-la-ép lớn hơn gấp mười nghìn lần trường sinh học của người bình thường.  Hiện nay Ec-mô-la-ép vừa làm phim vừa nghiên cứu ngoại cảm, chữa bệnh cho mọi người không lấy tiền.

Chữa bệnh qua điện thoại

    Anh A-lec-xan-đrơ Tsar có những khả năng thật kỳ lạ:  Anh có thể từ xa đọc được ý nghĩ của người khác, chữa được những bệnh nặng qua điện thoại; nói được quá khứ, tương lai.  Đã 20 năm, anh chuyên nghiệp làm tất cả những “phép lạ” ấy.  Anh nói:  “Bố tôi làm giám định viên về học vấn tại UNESCO.  Cụ sống ở nước ngoài một thời gian dài, đặt biệt ở Ấn Độ.  Tôi cũng may mắn có dịp nghỉ hè ở nước đó (trong thời gian còn học phổ thông) thường đến những chỗ hành hương đặc sắc của người theo đạo Hinđu, các vùng thượng nguyồn của Hymalaya cách Sam-ba-la không xa, đến các trường Yoga…

    Người ta thích những buổi trình diễn của tôi vì tôi không chỉ kể về việc không thể có phép lạ, mà còn phô bày cho thấy – A-lec-xan-đrơ mỉm cười, thú thật là anh thích thực hiện những cuộc gọi hồn.  Chẳng hạn, trong trường đào tạo những người quản lý, anh gọi hồn trong những buổi liệu pháp tâm lý.

    – Có thể tôi gọi những hồn ma đích thực, mà có thể đầy là trò chơi của trí tưởng tượng tập thể.  Cái chính là điều đó khơi mở tiềm thức của mọi người và khơi mở mở tâm lý tiếp xúc.

    – Sau những buổi chữa bệnh của anh, người liệt đi về nhà không dùng đến nạng, những người khác sáng mắt ra, số khác nữa bỏ rượu.  Nhưng “tôi không phải là thầy thuốc và không chữa bệnh.  Tôi dạy các phương pháp tự điều chỉnh, dùng năng lượng sinh học, tự rèn luyện (autotraining), các phương pháp suy tư và giúp mọi người tự chữa bệnh.  Điều đó không phải nguy hiểm.  Có lần trong hai ngày tôi đã chữa cho con trai tôi khỏi một số khuyết tật về nói.  Sau đó chính tôi mất khả năng nói một số tiếng, nói lắp và nói chớt trong bốn tháng.”

    Đây không phải là mối nguy hiểm duy nhất rình rập A-lec-xan-đrơ.  Thường thường, sau những lần trình diễn của anh, có những người chẳng bệnh tật gì muốn anh giúp họ.  Mafia yêu cầu anh tìm số vàng đã mất hay một người đang lẩn trốn.  Nhưng các thuật sĩ có một quy tắt:  không dính líu với chính trị, không dùng khả năng siêu việt của mình để làm giàu.  “Tôi không vi phạm điều cấm kị đó, nhưng đôi khi không thể từ chối… vì thế, tôi ra mắt không phải với tên mình mà dưới nhiều bí danh.  Ngoài ra những đồng nghiệp cạnh tranh đôi khi gọi điện thoại dọa trừng trị về thể xác”.

Con người với khả năng kỳ lạ

    Nhà siêu ngoại cảm U-ri-gie-lơ người Anh, từ lâu đã nổi tiếng ở các nước Phương Tây về khả năng kỳ lạ của mịnh Gần đây, khán giả truyền hình Việt Nam mới được biết đến anh qua màn ảnh nhỏ. U-ri-gie-lơ sinh trưởng và lớn lên ở thị trấn Xô-Ninh bên dòng sông Thêm êm đềm, chỉ cách thủ đô Luân Đôn về phía Tây khoảng năm mươi km. Ngay từ tthời niên thiếu, U-ri-gie-lơ đã thể hiện những khả năng tuyệt diệu. U-ri-gie-lơ kể: “Có một lần cả gia đình tôi đang ngồi quanh bàn ăn, bỗng chiếc thìa mà tôi đang câm trong tay bị cong lại như một cánh cung, mặc dù tôi không hề dùng sức bóp nó, lúc đó tôi chưa đầy năm tuổi. Và một thời gian sau thì tôi có thể đoán được ý nghĩ của mẹ tôi, có thể biết được ai sẽ thắng khi chơi bài, hoặc chỉ nhìn vào mắt người vừa vẽ một bức tranh nào đó, là tôi có thể vẽ lại y hệt bức tranh đó trên giấy. Ít lâu sau tôi học cách làm cho đồng hồ hỏng chạy được và tiến hành nhiều thí nghiệm lý thú khác.Trong thời gian dài, tôi đã đi hàng chục nước, biểu diễn trong các nhà hát, các chương trình tạp kỹ truyền hình”.

    Một số lượng thư tín khổng lồ được gửi đến Xô-Ninih cho U-ri-gie-lơ, bày tỏ ngưỡng mộ đối với khả năng kỳ diệu của anh. Đặc biệt trong ngày lễ Giáng Sinh 1989, qua truyền hình U-ri-gie-lơ đã chữa được hàng vạn chiếc đồng hồ hỏng. Anh quả là con người có nhiều “phép lạ”. U-ri-gie-lơ đã đi thăm nhiều nước, ở đâu anh cũng làm cho mọi người, nhất là các nhà khoa học kinh ngạc về khả năng siêu ngoại cảm của mình. Tại Cộng Hòa Liên Bang Đức anh đã dùng sức mạnh tưởng tượng, làm cho cầu thang điện ở một cửa hàng bách hoá ngừng chạy. Còn ở Nhật BẢn, anh đã làm một chiếc máy tính siêu hạng ngừng hoạt động. Nếu muốn, anh có thể xoá bỏ toàn bộ chương trình được ghi trên đĩa từ của máy vi tính và tiến hành những thực nghiệm thần giao cách cảm đặc biệt phức tạp.

    Chính thời gian đó đã diễn ra một loạt sự kiện làm cho biến đổi toàn bộ sự sống của U-ri-gie-lơ, anh được mời đi tìm kiếm các mỏ dầu hoả, vàng, và kim cương.  Sau một khoá đào tạo, Giêlơ cùng đoàn khảo sát địa chất, bay trên hàng ngàn ki-lô-mét vuông rừng nhiệt đới ở Bra-xin, vùng duyên hải Mê-hi-cô, sa mạc ở Úc, quần đảo Xa-lô-môn…  Trong vòng mười năm, anh đã tham gia hơn mười cuộc thám hiểm và góp phần tìm ra bảy mỏ “vàng đen” và các kim loại quý hiếm khác.

    U-ri-gie-lơ đã trở thành triệu phú và chủ hãng.  Hiện giờ lĩnh vực hoạt động của anh rất rộng lớn:  từ việc giúp tìm kiếm khoáng sản, đến việc thiết kế đồ chơi có tác dụng giáo dục và phát triển trí tuệ trẻ em.

    U-ri-gie-lơ là một người điều độ, không hút thuốc và hầu như không uống rượu.  Nam nay anh bốn mươi ba tuổi, nhưng vẫn rất sung sức và tráng kiện như một chàng hai mươi tuổi.  Cuối năm 1989, trước ngày lễ Giáng sinh, U-ri-gie-lơ lại làm giới báo chí thế giới xôn xao:  anh đã dùng lực tưởng tượng làm dừng chiếc đồng hồ “Bích Ben” nổi tiếng ở Luân Đôn, đặt trên tháp toà nhà Nghị Viên Anh.

    Mới đây, U-ri-gie-lơ đã làm một thử nghiệm thân giao cách cảm nhỏ vơ”i Xi-xcôp-xki, phóng viên tạp chí Thời Mới (Liên Xô cũ).  Anh đề nghị Xi-xcôp-xki vẽ một vật bất kỳ trên giấy, rồi đi sang phòng khác.  Xi-xcôp-xki vẽ một vòng tròn và giấu tờ giấy vào một quyển sách.

    – Anh hãy nhìn vào mắt tôi và cố gắng vẽ lại trong óc mình bức tranh đó.  U-ri-gie-lơ đề nghị.  Và sau vài giây, U-ri-gie-lơ cầm bút vẽ lên giấy, đưa cho Xi-xcôp-xki.  Trên mảnh giấy là một hình tròn.  Kỳ lạ hơn, U-ri-gie-lơ cũng bắt đầu vẽ từ chính điểm mà Xi-xcôp-xki xuất phát.  Khi đem so sánh hai hình tròn, thì chúng gần như khớp nhau.

    U-ri-gie-lơ đang dự định thăm Liên Xô trong năm nay.  Anh nói:  “Tôi muốn đến nghị Trung tâm chỉ huy chuyến bay vũ trụ cho phép tôi thử chữa những chỗ hỏng trên các trạm “Phô-bớt”.

    U-ri-gie-lơ là con người kỳ lạ, những việc anh làm được là có thật mà ta vẫn tưởng như là huyền thoại.  Hiện nay, nhiều nhà khoa học và nhiều ngành khoa học vẫn đang quan sát và tiếp tục nghiên cứu về nhà siêu ngoại cảm kỳ lạ nầy.

Bàn tay kỳ diệu của Nina Kirianôva

    Nhà ngoại cảm Liên Xô Nina Kirianova là một người có “đôi bàn tay kỳ diệu”.  Với đôi bàn tay này bà có thể “nghe” thấy không chỉ những gì bạn mới nghĩ đến.  Bà có thể nói cho bạn một cách chi tiết không chỉ về quá khứ mà cả tương lai của bạn và chuẩn đoán rất chính xác về tất cả những bệnh tật mà bạn đã mắc phải cũng như sẽ chịu đựng trong tương lai.  Bà có thể biết được tất cả trong khi đứng cách bạn mấy bước chân mà không phải nhọc công sờ vào người bạn.

    Nina có một người bà.  Dân làng vẫn gọi bà của Nina  là “bà già thầm thì”, bởi lẽ là bà chữa bệnh bằng cách lẩm bẩm điều gì đó rồi đắp lá cây lên vết thương và thế là vết thương kín miệng.  Có người gọi bà là “kẻ bịp bợm”, nhưng hễ ốm đau lại đến cầu cứu bà.

    Nina phát hiện ra khả năng ngoại cảm khác thường của mình từ lúc mười lăm tuổi.  Nói đúng hơn là lúc đó Nina đã bắt chước người bà của cô và thử chữa bệnh cho bệnh nhân đầu tiên là bố cô.  Ông bị bệnh muối đọng ở khớp khuỷu.

    Nina hình dùng sự đọng muối là một cái cưa với hàng răng lớn cùn, trơ, đang gặm nhấm dần từng đốt xương của bố.  Cô dùng tay xoa xoa vào khớp xương của bố, gắng sức “bẻ” những chiếc răng cưa tưởng tượng.  Không ngờ, kết quả thật mỹ mãn.  Đến nay thì bố cô đã quên mất là đã có thời ông mất ăn mất ngủ vì cân bệnh quái ác này.  Chỉ có nhà ngoại cảm là không quên cách chữa đầu tiên của mình.  Từ đó, Nina đã sử dụng “biệt tài” của mình cả vào những chuyện nghịch ngợm.  Chẳng hạn, trong giờ học cô đã tác động đến thầy, cô giáo để không bị gọi lên bảng hoặc “thuyết phục” cô giáo “quên” khi ghi điểm kém vào sổ.  Dần dần Nina cảm thấy rằng, cô khác hẳn với những người bạn cùng tuổi và về một mặt nào đó, cô còn mạnh hơn cả người lớn.  Thoạt đầu, Nina cảm thấy sợ hãi, đặc biệt là lúc cô mười chín tuổi.  Dường như có sự chấn động nào đó trong cơ thể cô.  Không thể trông cậy vào bác sĩ, cô tìm đến người bà của cô.  Bà cho cô biết là trong cô đang có sự giằng co giữa cái thiện và cái ác.  Cái nào thắng thì cô sẽ phục vụ cho cái đó.  Trong cái điều tưởng như khôi hài này lại có những mầm mống của sự thật.  Sau một thời gian, nhưng cơn ngất lịm qua đi vì trong cô chỉ còn ham muốn làm điều thiện.  Chẳng hiểu từ đâu xuất hiện ở Nina Kiranôva những kiến thức về triệu chứng các căn bệnh, những phương pháp điều trị, cách thức tiến hành các buổi chữa bệnh, làm thế nào để diệt trừ ổ bệnh và hiệu quả của nó.  Dù cố cô! tìm hiểu, cô không thể nào giải thích được nguồn gốc của những lời mách bảo, chỉ dẫn ấy.  Cô biết chính xác có thể chữa bệnh khỏi cho ngưi này, còn người kia thì cô đành chịu bó tay.  Nếu vi phạm “điều cấm” thì bản thân cô cũng bị trừng phạt bởi những cơn đau đầu như búa bổ.  Cô đã học được cách tìm hiểu căn nguyên của sự tổn thương trường sinh học và chẩn đoán rất chính xác.  Những từ “trường sinh học”, “dự trữ năng lượng”, “tiêu hao năng lượng”, “cầu lửa” cũng “tự” đến với cô và rất có ích với một nhà ngoại cảm.

    Nina Kirianôva là một người khiêm tốn, không hề quảng cáo cho “sự gần gũi với sức mạnh siêu nhiên” của mình, cũng không hứa hẹn với bệnh nhân điều gì cả.  Chỉ sau vài buổi chữa bệnh bằng bàn tay “phát sóng” của mình, Nina có thể chữa cho bệnh nhân khỏi những căn bệnh hiểm nghèo.

    Các nhà khoa học đã dùng nhiều phương pháp để kiểm nghiệm lại kết quả chữa bệnh của Nina và đều nhất trí khẳng định rằng:  bàn tay của Nina có khả năng chữa bệnh thật kỳ diệu.

Trí nhớ kỳ diệu

    Từ ngàn xưa, con người đã biết tới trí nhớ của mình và cố gắng tìm hiểu xem thế nào là trí nhớ.  Cho tới nay, trí nhớ được định nghĩa là:  khả năng tái tạo lại kinh nghiệm đã có, là một đặc tính chủ yếu của hệ thần kinh, thể hiện qua khả năng bảo quản lâu dài những thông tin về sự kiện cu/a thế giới bên ngoài và những phản ứng của cơ thể đưa những thông tin đó vào vùng nhận thức hành vi.  Có hai loại nhớ, nhớ trong chốc lát:  bảo quản trong não vài giây hay vài phút và nhớ dai:  thông tin được bảo quản trong não suốt đời.

    Đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về bộ não con người.  Người ta đã biết về mô hình tư duy của não và các quá trình điện.  Căn cứ vào kích thước và tốc độ của sóng não, người ta có thể biết được trạng thái hoạt động, nghỉ ngơi của một người nào đó.  Song hiểu biết của con người về chính bộ não của mình còn rất ít ỏi so với khả năng lớn lao mà bo6. não có thể làm được. Ai cũng biết não người ta là một “bộ nhớ” tuyệt vời, chưa có ai có thể nói chắc chắn dung lượng thông tin mà não người có thể chứa được?  Cũng như các quá trình ghi nhớ, tái hiện rồi tưởng diễn ra như thê” nào?  Làm thế nào để tập được cách nhớ?  Trí nhớ có phải là khả năng bẩm sinh không?  Làm thế nào để luyện tập được trí nhớ?  Trên thế giới đã lưu truyền nhiều huyền thoại về trí nhớ thần kỳ của con người.

    Ở Nam Tư có chú bé thần đồng mười tuổi, tên là Miôđrac Mitrit học lớp bốn trường phổ thông cơ sở, đồng thời làm việc ở phòng thí nghiệm khoa toán – tự nhiên và là sinh viên của khoa đó thuộc học viện sư phạm.  Ở trường phổ thông em còn chủ trì các nhóm ngoại khoá vật lý và hoá học.  Kiến thức vật lý hạt nhân, hoá học và thiên văn vượt xa các học sinh lớp cuối của trường và còn vượt nhiều sinh viên của viện sư phạm.  Miôđrac Mitrit bắt đầu biết nói khi bảy tháng, biết đọc lúc một tuổi rưỡi!  Trước khi vào lớp vỡ lòng em đã thuộc trên một trăm bài thơ, đặc biệt thơ của thi sĩ nổi tiếng Aidec Adimôp.

    Ở Adecbaidan (Liên Xô) có chú bé thần đồng Cốt-chia Xla-vin đã vào đại học lúc mười ba tuổi.

    Còn bây giờ xin các bạn hãy làm quen với một “thần đồng” về trí nhớ:  Anh Nô-vi-côp nhân viên một cơ sở điều dưỡng ở Ep-bi-tô-ri-a (Liên Xô):

    Từ bé Nô-vi-côp đã say mê, khâm phục những người có trí nhớ kỳ diệu như A-lec-xan-đrơ Ma-kê-đôn-su-vô-rốp, Na-pô-lê-ông là những vị tướng biết rõ từng binh sĩ.  Say mê trước tài năng cu/a Lê-vi-tan, Ai-va-rôp-xki, những hoạ sĩ có thể vẽ lại những bức tranh bằng gtrí nhớ chính xác đến từng chi tiết vụn vặt nhất.  Từ đó anh quyết định tìm cách rèn luyện trí nhớ.  Qua tìm hiểu nhiều tài liệu, tham khảo ý kiến nhiều chuyên gia trong lĩnh vực này, Nô-vi-côp đã chọn cho mình một cách rèn luyện có nguồn gốc lâu đời.  Tập nhớ từ ít đến nhiều.  Thí dụ, hôm nay chỉ học thuộc lòng một dòng, ngày mai học lấy hai dòng trên cơ sở đã nhớ chắc một dòng hôm trước.  Cứ như vậy cho đến khi học thuộc lòng được vài trang.  Kết quả phương pháp học này là nội dung bài đãhọc được nhớ rất dai và dễ hiện ra trong trí nhớ.  Hơn nữa, khi đó khả năng nhớ tăng lên rất nhiều.  Phải nắm vững nguyên tắc cơ bản:  chỉ học thêm cái mới trên cơ sở ôn lại cái cũ.

    Kinh nghiệm tập nhớ của Nô-vi-côp cho thấy rằng, phải tập trung khi ghi nhớ một điều gì, có vậy ấn tượng mới mạnh.  Mọi sự cẩu thả sau này đều khó sửa lại.  Khi ghi nhớ một cái nào đó, đầu tiên phải ghi nhớ những nét cơ bản nhất sau mới đến những chi tiết kém quan trọng hơn.  Phải đồng thời sử dụng mọi giác quan của mình.  Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ, anh đều hồi tưởng lại những sự kiện diễn ra trong ngày.  Cố nhớ lại những khuôn mặt đã gặp trong ngày….  Như vậy qua đó, đồng thời với khả năng ghi nhớ, ta còn học được những khả năng quan sát và nhận xét.  Một điều cơ bản là thần kinh cũng như cơ bắp, phải rèn luyện từ từ, mỗi ngày một tí.  Mọi cố gắng quá sức đều bất lợi, còn nếu đều đặn, mỗi ngày một tí sẽ cảm thấy tiến bộ rõ rệt.

    Khi nhìn một vật hay bức tranh nào đó, Nô-vi-côp thường mở mắt ra, nhắm mắt lại mấy lần, mỗi lần đều thử so sánh cái đã nhìn thấy với cái nhìn trong óc đó, ta có thể ghi nhớ được nhiều thứ.  Mầu sắc trong trí nhớ của Nô-vi-côp được hoá mã theo cách đặc biệt.  Mầu xanh da trời là bồ câu, mầu vàng con mèo, màu đen là cái bàn.  Khi nhìn các màu, anh cứ nhìn trong óc thấy những vật đó.  Còn riêng với các con số thì mỗi số là một màu:  số không màu trắng, số một – xanh, số hai – vàng…  Khi đó quá trình tính, chẳng hạn khai căn một số phức tạp, mầu sắc hiện trong óc anh như bản giao hưởng màu sắc, một vòng cầu vồng và các màu nhanh chóng sắp xếp lại theo trình tự nhất định và anh chỉ có việc chuyển các mầu đó thành số, ra kết quả.

    Nhờ có trí thông minh và quá trình tập luyện kiên trì mà Nô-vi-côp có trí nhớ tuyệt vời.  Các nhà khoa học đã làm nhiều thí nghiệm để ghi nhận trí nhớ kỳ diệu của anh.  Đây là phòng thí nghiệm:  hình ảnh đầu tiên đập vào mắt mọi người là một mớ những vòng tròn được vẽ bằng phấn nằm lộn xộn, chồng chất lên nhau trên một tấm bảng đen.  Chỉ nhìn thôi, đã thấy nhức mắt.  Vậy mà… Nô-vi-côp bước nhanh vào phòng và chỉ cần có ba giây đồng hồ nhìn lên bảng và một phút suy nghĩ, trong khi ngón tay anh như lần theo những vòng tròn tưởng tượng trong không khí, anh đã nói chính xác số vòng tròn có trên bảng.

    Thí nghiệm với ba mươi vòng giấy mầu khác nhau, được treo theo trật tự tùy thích trên một sợi dây, anh đã nhớ được rất chính xác trật tự các màu.

    Dưới đây là một thí nghiệm phức tập nhất đã được Nô-vi-côp thực hiện như là chuyện thường vậy.  Chỉ chưa đầy hai giờ, anh đã học thuộc lòng được cuốn danh bạ điện thoại gồm gần hai ngàn số.  Chính xác hơn, anh chỉ thuộc ba số cuối.  Như vậy trong đầu anh tổng cộng tới ba ngàn chữ số sắp xếp theo trật tự nhất định mà anh nhớ rõ vị trí của từng số.

    Khả năng của Nô-vi-côp cò nhiều, và đặc biệt hơn cả là anh có thể dễ dàng ghi và xác thông tin trong “bộ nhớ” của mình.  Nếu phải ghi nhớ lượng thông tin lớn thì Nô-vi-côp cần chuẩn bị chút ít, anh xoá bớt những thông tin không cần thiết.  Khả năng sử dụng “bộ nhớ” của anh thật tuyệt diệu.  Anh “lần đi” trong trí nhớ của mình dễ dàng như đi trên đoạn đường quen thuộc.

    Hiện tượng Nô-vi-côp cho thấy khả năng của con người thật là to lớn.  Rèn luyện là quá trình làm thức dậy những năng lực tiềm tàng đó và đây chính là chiếc chìa khoá của một trí nhớ kỳ diệu.

PHẦN III:  TRƯỜNG SINH HỌC

*        Những khả năng bí ẩn

*        Hiện tượng huyền bí – Thôi miên hay chữa bệnh

*        Thôi miên phải chăng là giấc ngủ?

*        Tiềm thức và nhận thức

*        Thần giao cách cảm

Những khả năng bí ẩn

    Có những hiện tượng nghe qua tưởng như vô lý, nhưng đó lại là một điều hoàn toàn có thật.

    Một cô gái bên chiếc bàn nhỏ, trên bàn bày những que diêm.  Cô xoè bàn tay và quay những vòng tròn quanh các que diêm đó, tay cô hoàn toàn không chạm vào que diêm.  Một lúc sau các que diêm chụm lại và chạy khắp bàn.  Cuối cùng rơi ra khỏi bàn.  Giừa bàn tay cô gái và que diêm không có một sợi dây nào.  Khi các que diêm được úp trong bình thủy tinh, cô cũng vẫn có thể làm cho chúng chuyển động.

    Lại một thí nghiệm khác:  cô nhìn chằm chằm vào quả trứng, một lúc sau quả trứng bị tách ra, và lòng trắng cũng tách khỏi lòng đỏ.

    Có nhiều báo cáo khoa học về khả năng của một số người có thể làm cong cái cùi dìa mà không phải đụng tay vào, có thể làm di chuyển đồ vật trong phòng…  Năng lượng ấy gọi là Telekinesis (từ tiếng Hy Lạp, Tele – từ xa, còn Kinein – chuyển động).

    Vì sao những người này lại có thể làm cho đồ vật chuyển động mà không cần phải đụng tay vào hoặc kéo nó bằng một sợi dây?  Nhiều người cho rằng điều đó không thể có được, mà chỉ là một trò ảo thuật.  Nhưng nếu cách đây một trăm năm, ta không thể tưởng tượng nổi, lại có thể có máy bay bay nhanh hơn tiếng động, hoặc con người có thể lên mặt trăng.  Quả là còn nhiều vấn đề mà con người còn chưa biết gì về mình.  Hai trăm năm trước đây con người còn chưa biết gì về điện.  Có thể còn có những khả năng mà chúng ta chưa tìm ra và rất có thể chính những khả năng ấy sẽ giải thích được điều mà hiện nay ta cho là không thể có.

    Cô gái và các que diêm chuyển động nói trên đã được thử nghiệm bằng các thiết bị đặc biệt.  Nhưng ta phát hiện xung quanh người cô có một từ trường mạnh hơn bình thường.  Trong khi làm thử nghiệm, tim cô đập nhanh hơn bình thường, toàn thân cô ở trong một trạng thái kích động giống như đang giận dữ.  Sau đó cô tỏ ra mệt mỏi và rất yếu, giống như cô vừa trải qua một cơn choáng hoặc một cơn bệnh hiểm nghèo.  Như vậy, chứng tỏ là cô gái đã sử dụng một năng lượng đặc biệt để làm các que diêm chuyển động.

    Những tấm ảnh của Kirlian chụp cô gái có khả năng Telekinesis chứng tỏ rằng chất plasma sinh học của cô gái mạnh hơn bình thường và mắt cô ta phát ra dải ánh sáng đặc biệt mạnh.  Ánh sáng đó chứng tỏ rằng ở những điểm có năng lượng mạnh hơn, mà năng lượng có nghĩa là lực:  lực để làm một cái gì đó.

    Có nhiều việc mà phần đông chúng ta cho là không thể có thì một số người lại có thể làm được.

    Còn có một khả năng khác của con người gọi là khả năng viễn cảm hoặc cách cảm (Telepathy).  Người có khả năng viễn cảm có thể trông thấy những vật không trực tiếp ở trước mặt, họ có thể làm việc đó bằng cách đọc trong ý nghĩ của người khác.  Chẳng hạn họ có thể mô tả hình dáng một đồ vật mà người khác đang nhìn và trong khi chính họ lại không trông thấy những đồ vật ấy.  Vào những năm 1939, một người tên là Rhine đã làm nhiều thí nghiệm.  Ông dùng một bộ bài gồm hai mươi lăm quân, trên đó các hình khác nhau như hình vuông, hình tròng, tam giá, xoáy ốc…  Ông mời nhiều người có khả năng viễn cảm đến thử nghiệm, ông yêu cầu người đó nói xem ông đã chọn quân bài nào, kết quả cho thấy hầu hết những người được hỏi đều trả lời đúng quân bài mà ông nhìn vào.

    Có nhiều chuyện về những người bỗng nhiên nhận được tin của người thân ở cách xa.  Điều đó thường xảy ra khi người thân ôm hoặc sắp chết.  Chẳng hạn một người bỗng nhiên cảm thấy chồng mình bị tai nạn ôtô, và khi chị tìm đến chỗ người chồng đang đi công tác thì quả nhiên sự việc xảy ra đúng vào ngày giờ chị cảm thấy bồn chồn trong lòng.  Điều này thường đặc biệt xảy ra đối với những người sinh đôi cùng một trứng.

    Điều đáng ngạc nhiên trong viễn cảm là khoảng cách ở đây không quan trọng.  Một người tên là Va-si-li-ep tìm ra hai người có khả năng như vậy:  người này có thể làm cho người kia đi ngủ chỉ bằng cách nghĩ đến chuyện ngủ.

    Còn có những ngưòi có khả năng kỳ lạ trên cơ thể, chẳng hạn ở Tây Tạng, có những người luyện tập để không biết rét là gì.  Họ sống trên núi cao có băng tuyết, không cần mặc quần áo ấm và không cần đốt lửa sưởi, mà không hề bị cảm lạnh như những người bình thường.  Nhiều người Tây Tạng có thể chạy rất nhanh trên những chặng đường dài.  Bằng cách luyện tập, những người này có thể thở một cách đặc biệt, khiến họ có thể chạy liên tục suốt ba mươi giờ.

    Đã có một cuốn phim về những người luyện tập Yôga ở Ấn Độ, họ có thể nằm trên một tấm phản đóng đầy đinh.  Đây không phải là trò ảo thuật.  Đây là chuyện có thực.  Bằng cách luyện tập, họ làm cho cảm giác đau bị mất đi.  Cũng có thể rèn luyện thân thể để làm cho máu ngừng chảy.  Có nhiều chuyện về những nhà Yôga tự để cho người khác chông sống mình dưới đất, sau một thời gian, đào lên, họ vẫn sống bình thường.  Trong thời gian bị chôn sống dưới đất, họ chỉ thở thoi thóp, tim họ đập rất chậm.  Họ có vẻ như chết, và sẽ sống lại khi nào họ muốn.

    Còn có những người có khả năng tác động đến cây trồng.  Ở nước Anh có câu tục ngữ về những người có “ngón tay xanh”, có nghĩa là những người giỏi trồng cây.  Người ta tin rằng ở những người này, khi nào họ nói với cây cối bằng những lời dịu ngọt thì có thể làm cho cây mọc tốt, nếu họ dùng lời lẽ nặng nề hoặc to tiếng thì có thể làm cho cây ngừng mọc.  Thật khó nói điều đó là có thật hay không.  Nhưng nhiều người đã nghiên cứu và chứng minh âm nhạc có tác động đến sự sinh trưởng của cây trồng.  Một nữ sinh viên Mỹ đã thử chơi những bản nhạc khác nhau, để nghiên cứu tác động của âm nhạc đến cây trồng.  Khi cô chơi những bản nhạc cổ điển (của Bách hoặc Bethoven), cô nhận thấy cây mọc về hướng cái loa, nhưng khi cô chơi những bản nhạc giật gân thì cây hướng về phía ngược lại, hình như chúng muốn chạy trốn tiếng ồn đó.  Như vậy, nếu cây thích nhạc êm dịu và không thích nhạc mạnh, thì cũng có thể nó thích giọng nói nhẹ nhàng hơn giọng nói to, nặng nề.

    Một khả năng lạ lùng khác, là một số ít người có thể tìm được nước ngầm.  Đó là cách thăm dò mạch nước.  Người đi tìm mạch nước, hai tay cầm một cành cây giơ thẳng ra trước mặt, đi dọc những nơi muốn tìm mạch nước.  Khi dưới đất có mạch nước, cành cây chuyển động:  nó rung lên hoặc nẩy lên trong tay người đó.  Cách thăm dò mạch nước này, tỏ ra có hiệu quả, nên ở nhiều nước những người thăm dò này được nhà nước trả lương.

    Người ta cho rằng cơ thể con người “biết” được khi nào ở dưới mặt đất có nước là do năng lượng hoá học, hoặc năng lượng điện.  Vì hơn sáu mươi lăm phần trăm trọng lượg cơ thể là nước, có thể là nước trong cơ thể con người nhận được những tín hiệu của nước dưới mặt đất.  Các tín hiệu này chạy qua các cơ quan đang căng lên, do cánh tay đang giơ ra trước mặt đến cái cành cây, làm cho nó chuyển động.  Không phải ai cũng có khả năng này.  Những phụ nữ thường có khả năng này nhiều hơn nam giới, và người ta càng đi thăm dò nhiều, thì càng dễ thành công.

    Nhiều con vật, chẳng hạn như voi, cũng có thể tìm nước dưới mặt đất và khi lâu ngày trời không mưa, sống suối đều cạn, chúng có thể biết chỗ để đào đất tìm nước.  Có thể voi đã dùng vòi của chúng, giống như người tìm nước dùng cành cây.

    Loài vật rất có khả năng tiếp nhận một số tín hiệu ấy. Còn bồ câu chẳng hạn, tuy nó có vẻ là những con chim ngờ nghệch nhưng nếu bạn đem bỏ chúng vào trong một cái hộp và đưa chúng đi xa hàng trăm kilômét rồi thả chúng ra, chim có thể tìm về chuồng cũ một cách dễ dàng, không cần đến bất cứ một phương tiện gì.

    Mèo và chó cũng nhiều khi tìm được về nhà cũ trên những quãng đường rất xa.  Chúng ta thường được nghe chuyện những con mèo tự nhiên biến mất khi người nuôi nó dọn đến nhà mới, vì chúng nó tìm về nhà ở cũ.  Ta không biết nó tìm đường như thế nào.  Nhiều loài chim cũng vậy, hàng năm, chúng đi “du lịch” từ vùng này đến vùng khác.  Đó là hiện tượng di cư của các loài chim.  Người ta cho rằng chim căn cứ vào mặt trời và những ngôi sao để tìm đường bay.

    Ta biết rằng loài vật thường có giác quan mạnh mẽ hơn con người.  Cá mập có thể ngửi thấy mùi máu ở cách xa nhiều dặm.  Con dơi có thể nghe được những âm thanh mà con người không nghe được.  Con cú có thể nhìn rất rõ trong đêm đen.  Có nhiều các ví dụ như vậy.  Có thể là chúng có khả năng tiếp nhận các loại tín hiệu khác mà giác quan không tiếp nhận được, ít nhất theo cách hiểu của chúng ta hiện nay.

Hiện tượng huyền bí – Thôi miên hay chữa bệnh

    Thôi miên là một môn khoa học lâu đời, từ thời cổ xưa con người đã dùng nó để phục vụ cho cuộc sống của mình.  Bác sĩ Franz Anton Mesmer (1722-1815), người Áo, được coi là người sáng lập ra thuật thôi miên hiện đại.  Ông là người đầu tiên trên thế giới, tại được thiết bị thôi miên.  Anton Mesmer đã xuất phát từ sự sống trên trái đất, vì rằng vũ trụ được chứa đầy một chất lỏng vô hình – chất lỏng vũ trụ hay còn gọi là “dung dịch từ”.  Ông cho rằng chất lỏng vũ trụ có thể xuyên qua cơ thể con người và có thể điều khiển được bằng từ trường.  Do đó có thể trật tự hoá dòng chất lỏng hỗn độn để điều trị thôi miên do người của “trời” tại ra và được truyền cho người bệnh qua chất lỏng vũ trụ (dung dịch từ).

    Đến nay, người ta vẫn còn hoài nghi về hiện tượng từ trong cơ thể sống.  Song hiện tượng này vẫn xuất hiện ở mọi thời.  Đặc biệt là vui Sac-lơ đệ nhị của Anh, người trong suốt cuộc đời của mình đã điều trị cho chín mươi nghìn bệnh nhân bằng phương phát từ.  Bác sĩ người Anh (1808-1859) đã tiến hành nhiều ca phẫu thuật, dùng thôi miên để gây mê.  Alecxan Dôpgiencô, người lãnh đạo trung tâm gây mê của Ucraina và Trường bác sĩ toàn Liên Bang ở Ucraina đã được trao danh hiệu cao quí nhờ phương pháp chữa bệnh bằng thôi miên.  Ông đã dùng thôi miên chữa được những bệnh nan y trên thế giới như: bệnh nghiện rượu ở phụ nữ, nghiện ma túy, dị ứng, nói lắp, đái dầm ở trẻ em và một loạt bệnh khác.

    Một buổi thôi miên kéo dài hơn ba giờ, điều trị được ba mươi người trở lên.  Trong quá trình này cơ chế bảo vệ tâm lý của người bệnh được phát động.  Hiểu quả chữa bệnh của Dôpgiencô và các học trò của ông đạt 90% trở lên mà không cần sự giúp đỡ của các nhà tâm lý, bác sĩ tâm thần hay thuốc mê.  Ngay 31-3-1989, bác sĩ nội khoa tâm lý Ạm. Ca-spi-rốp-xki, đã thực hiện thành công việc thôi miên gây tê qua cầu truyền hình, cách hàng nghìn kilômét cho bệnh nhân đang nằm trên bàn mổ.  Đây là một điều kỳ diệu làm xôn xao dư luận thế giới.

    Vào cuối những năm bảy mươi của thế kỷ hai mươi, nhiều nhà ý học đã bắt đầu quan tâm đến hiện tượng kỳ lạ trên.  Và đã thành lập “hội điều trị bằng thôi miên” gồm các chuyên gia có uy tín của Hội đã tăng lên gấp năm lần.

    Thôi miên là môn khoa học của sự thư giãn thần kinh và cơ thể, giúp cá nhân một con người dễ tiếp nhận những công việc tích cực, dùng thôi miên có thể làm giảm đau cho các chấn thương và những đau đớn phiền não của phụ nữ.

    Thuật thôi miên được sử dụng rộng rãi trong hai cuộc thế chiến, để làm dịu chứng loạn thần kinh của chiến sĩ.  Các Hội y học Mỹ và Anh chính thức sử dụng biện pháp này vào năm 1955 và 1958.  Trong quá trình bị thôi miên, tất nhiên có sự thay đổi về sinh lý học nhất định.

    1.  Các cơ rất dễ điều khiển.

    2.  Khả năng nói có thể bị hạn chế và chứng quên bắt đầu.

    3.  Thôi miên có thể làm cứng đờ một tay, một chân hay toàn bộ thân thể.  Các pháp sư thường dùng “trò” này biểu diễn trên sân kháu.  Họ có thể làm cho diễn viên nằm ngang lơ lửng hoặc nằm ngang giữa hai ghế, đầu đặt trên một ghế và chân đặt trên ghế kia.

    4.  Hệ thần kinh chức năng bị tác động trong quá trình thôi miên, làm cho các bộ phận cơ thể như tim, phổi và các cơ quan nội tạng khác thay đổi.

    5.  Các chức năng nội tiết dịch insulin, ra kinh nguyệt hay sinh ra sữa đều có thể điều khiển được.

    6.  Các giác quan như nhìn, nghe, nếm, ngửi hay cầm nắm có thể rất chính xác và cũng có thể không, trong quá trình thôi miên.

    Thôi miên thực chất là một trạng thái đặc biệt của thần kinh, là một sự nghỉ ngơi hoàn toàn của tinh thần cũng như thể chất.  Trạng thái đó được gọi là “xuất thần”.

    Thôi miên còn được áp dụng rất có hiệu quả đối với hồi sức.  Có hai loại thôi miên.  Có thể giả định rằng chúng ta có tương tác với các quá trình tiềm thức.  Một số người gọi hiện tượng thôi miên là “sự phân ly tỉnh táo”.  Trường hợp này người “bị” thôi miên (hay gọi là tiềm thức của “chủ thể”) dễ dàng bị điều khiển.  Họ nhìn thấy các vật không tồn tại và ngược lại, không nhìn thấy các vật đang tồn tại.  Nói một cách khác là khi con người bị đắm mình trong hư ảnh thì ta có thể ám thị họ mọi điều.

Thôi miên phải chăng là giấc ngủ?

    Từ “thôi miên” có gốc tiếng Hy Lạp là Hypnos có nghĩa là giấc ngủ.  Nhưng thực chất thôi miên không phải trạng thái giống như giấc ngủ.  Những người được thôi miên hoàn toàn có khả năng tự giác trong quá trình thí nghiệm.  Những người ngủ thì không thể biết những gì xảy ra quanh họ.  Luận điểm cho rằng thôi miên giống như giấc ngủ là không có cơ sở.  Điện não đồ của người được thôi miên khác điện não đồ của người đang thức.  Người được thôi miên cũng có những phản xạ giống như ở trạng thái thức tỉnh.  Tuy nhận biết của họ về thực tế những hạn chế bởi vì họ chỉ tập trung vào một lĩnh vực nào đó, mà không bị phân tán bởi hoàn cảnh xung quanh.

    Theo giáo sư Walter Bongartz thì một đối tượng để thôi miên phải có khả năng n gồi đồng trước sự có mặt của người khác.  Đây là khả năng bẩm sinh chứ không phải nhờ luyện tập mà có .  Ông cho rằng thôi miên có thể so sánh với trạng thái thư duỗi sâu hoặc trạng thái người ta đạt được khi “thiền”.  Một người ở trạng thái thôi miên cũng có khả năng chấp nhận những điều trái ngược hiển nhiên nhất.

    Một cuộc nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ cho thấy:  Thôi miên có tác dụng làm giảm nỗi sợ hãi của người bệnh trước phẫu thuật và làm giảm đau đớn do phẫu thuật gây nên.  Thôi miên còn được áp dụng để chữa bệnh cho một số người mắc bệnh tâm thần, giúp người bệnh nhớ lại một số thử nghiệm và một số giai đoạn trong đời sống của họ (tuổi thơ ấu chẳng hạn).  Trong ngành điều tra hình sự thôi miên có thể giúp các nhân viên điều tra tìm ra tội phạm.  Người ta còn phát hiện ra rằng, thôi miên có tác dụng tốt trong nhiều vấn đề của phụ nữ như:  Điều hoà kinh nguyệt, điều trị tốt hiện tượng nôn mửa khi thai nghén, tăng sức đề kháng của phụ nữ với bất kỳ sự đụng chạm nào thuộc sản khoa…

    Những bí ẩn củ a hiện tượng thôi miên vẫn đang được các nhà khoa học nghiên cứu.  Giáo sư Wlater Bongartz cho rằng:  Thôi miên không có ảnh hưởng tới bất cứ một nguyên tắc luân lý nào trong cuộc sống của chúng ta.

Tiềm thức và nhận thức

    Khoa học cho rằng những quá trình suy nghĩ của não mà con người không nhận thức được chính là hoạt động tiềm thức của não.  Hoạt động tiềm thức của não giữ một vai trò đáng kể trong hoạt động của con người.

    Nhiều dạng thông tin từ những cơ quan bên trong và thế giới bên ngoài được đưa đến não và để lại dấu vết ở đó.  Nhưng không phải mọi thông tin đều được nhận thức của con người ghi nhận.  Thí dụ một người nào đó đang đi trên đường, mắt nhìn thấy một bức tranh tuyệt đẹp treo tại một cửa hiệu.  Nhưng hình ảnh này có thể không đi vào nhận thức, nếu như trong thời điểm đó con người đang mãi suy nghĩ về một chuyện khác.  Tuy nhiên chính mắt đã trông thấy bức tranh, tín hiệu đã đi vào não và để lại trong não dấu vết của nó.  Sau này trong một lúc nào đó dấu vết đó có thể bất ngờ “hiện ra”, thường là trong giấc ngủ.  Trong giấc ngủ người đó có thể thấy rõ là mình đang đi và trông thấy bức tranh tuyệt đẹp trước mặt.  Trong những trường hợp khác, những thông tin như vậy không hoàn toàn đi vào nhận thức rõ ràng của con người, thường gây ra cảm giác lo sợ, một linh cảm báo trước hiểm nguy.  Có rất nhiều thực tế khẳng định sự tồn tại của linh cảm.

    Một trăm năm trước đây, một chuyện kỳ lạ đã xảy ra với người khách trọ ở một khách sạn nhỏ bên sông Vônga.  Từ khi đến ở khách sạn, cứ saáng đến người khách lại cảm thấy một cảm giác hồi hộp khó tả và cảm giác đó theo đuổi anh ta suốt mấy ngày.  Cho đến một tối anh ta tự nhiên xoay chiếc giường vẫn nằm sang góc khác, nhờ vậy anh ta ngủ yên.  Đến đêm, chiếc dầm nhà rơi xuống đúng chỗ kê chiếc giường lúc chưa xoay sang góc khác.

    Anh thợ máy sau khi hoàn thành công việc chuẩn bị cho đội máy bay đi tuần tra, thì tự nhiên thấy một cảm giác khó tả như báo trước tai hoạ sắp đến.  Nửa giờ sau, có thông báo là phi công của một trong ba máy bay mà anh đã bảo dưỡng phải hạ cánh bắt buộc vì động cơ hỏng.

    Ta có thể giải thích hai hiện tượng trên như thế nào?  Hoạt động tiềm thức của não đóng vai trò gì ở đây?  Chính cái khách sạn nhỏ này đã cũ kỹ, cần phải sửa chữa từ lâu.  Chiếc dầm trong phòng mà người khách trọ đã ngủ đã quá mục, có thể rơi xuống bất cứ lúc nào.  Khi có người đi trên đó nó kêu cót két.  Ban ngày tiếng động này không nghe được vì khách sạn quá ồn.  Đêm đến trong giấc ngủ não vẫn hoạt động và nếu có ai đi trên đó thì tiếng động tất nhiên sẽ đến với não, và não tiếp nhận với mối lo ngại.  Tiềm thức cho biết cái trần có thể sụp đổ xuống.  Nhưng tín hiệu đó không đi vào nhận thức vì vậy mỗi sáng dậy người khách lại có cảm giác hồi hộp.  Cứ vậy đến một lúc nào đó, ý nghĩ chuyển giường chợt đến trong nhận thức của người đó và anh ta đã chuyển giường.

    Đối với người thợ máy bảo dưỡng máy bay cũng vậy.  Người kỹ thuật viên giàu kinh nghiệm trong khi bảo dưỡng đã đón bắt được một cái gì đó không ổn trong động cơ.  Nhưng hỏng hóc này không đáng kể, nên không đi vào nhận thức mà chỉ có tiềm thức bị đánh động, báo trước một tai hoạ.

    Con người có đặc trưng là khi suy nghĩ điều gì, thường đi theo sự phát triển logic của quá trình suy luận.  Trong khi đó, hoạt động có tính chất linh cảm và tiềm thức của não thường đi vào nhận thức của con người dưới dạng kết luận đã có sẵn mà không có chứng minh.  Cái đó giống như một linh cảm bất ngờ, mặc dù trước đó là cả quá trình hoạt động vô thức của não, đôi khi căng thẳng và kéo dài.

    Một người bệnh trong cơn thôi miên được lệnh quên hết những gì mà bác sĩ thôi miên đã nói.  Mâý ngày sau trong cơn lo lắng, bồn chồn anh ta cầm ống nói gọi cho bác sĩ.  Mặc dù số điện thoại không nhớ (vì được lệnh phải quên) anh vẫn quay số như một cái máy và đã quay đúng số của bác sĩ.

    Thí nghiệm trên được tiến hành với nhiều người trong nhiều lần và lần nào kết quả cũng như vậy. Điều này chứng minh rằng:  Tiềm thức trong thời điểm cần thiết đã hoạt động, nhắc con người nhớ lại lệnh của nhà thôi miên đồng thời nhắc cho con người số điện thoại đã quên.

    Giữa tiềm thức và nhận thức luôn luôn có tác động qua lại, có trường hợp cái nọ biến thành cái kia.  Thí dụ chuyện lái xe:  Khi học lái, mỗi một hành động của con người là hoàn toàn có ý thức.  Qua vài năm thực hành người lái xa lái như một cái máy, trừ trường hợp nguy cấp, tiềm thức báo cho con người những gì cần làm: Phanh gấp hay rẽ ngoặt.

    Có nhiều trường hợp, khi một người đang ngủ, người ta cho đọc bên tai nhiều lần một câu chuyện nào đó, hoặc một bài học nào đó.  Và tiềm thức sẽ ghi nhận tín hiệu thông tin này vào não.  Đến một lúc nào đó tiềm thức có thể biến thành nhận thức và người đó sẽ nhớ được câu chuyện, bài học được nghe trong giấc ngủ như là mình đã tự học thuộc vậy.  Não người quả là một thế giới đầy bí ẩn và đầy tiềm lực.  Khoa học ngày nay mới chỉ biết được rằng:  Tiềm thức ghi nhân thông tin vào một tế bào não nào đó và tiềm thức có thể “mách bảo” con người dưới dạng linh cảm báo mộng, hoặc báo cho con người những gì cần phải làm, khi tình huống đột xuất xảy ra.

Thần giao cách cảm

    Nhiều nước trên thế giới đã thừa nhận thần giao cách cảm (tri giác ngoại cảm) là một hiện tượng khoa học có thật.  Thần giao cách cảm còn goại là hiện tượng Telepathy (Telepathy theo nghĩa tiếng Hy Lạp là cảm giác từ xa) nghĩa là sự chuyển động của một hình ảnh nào đó, một ý nghĩa nào đó, từ ý thức của một người vào ý thức của một một người khác.  Telepathy thường là ngẫu nhiên, chẳng hạn bố mẹ nhận được tín hiệu báo hiệu mối nguy hiểM đang đe doạ con mình, trực tiếp từ ý nghĩa của nó.

    Telepathy cũng có thể là có ý thức.  Nó có thể là một hình ảnh duy nhất, mà cũng có thể là một chuỗi những hình ảNh, những hành động liên tục.

    Anh Sidney (người Anh) được xem là một trong các nhà tiên phong nghiên cứu về “truyền tư tưởng” qua “thần giao cách cảm”.  Anh đã từng thí nghiệm thành công trên đài phát thanh BBC.  Anh Sidney bắt đầu nghiên cứu và đã từng làm quen với các tri giác ngoại cảm từ năm 1943.  Từ năm 1943 đến năm 1949 anh đã làm nhiều cuộc thể nghiệm.  Anh Sidney kể lại rằng hồi anh bị bắt làm tù binh ở Tân Gia Ba và bị giam trong trại Chinga của Nhật như sau:

    “Một hôm tôi tình cơ được đọc một bài báo đăng trên tờ Reader Digest nhan đề là “Các bạn hãy thử khả năng truyền tư tưởng của mình đi”.  Tôi có nói chuyện lại với một người bạn là anh Rusell Braddon, thì anh bảo tôi:  “Ở đây tụi mình không có gì để làm, tại sao mình không thể thử chơi cho vui?  Tôi liền theo đúng lời chỉ dẫn trong bài báo để luyện tập.  Chúng tôi làm năm lá bài với các màu đỏ, xanh lơ, xanh lá cây, vàng, và tím.  Sau đó một người chọn lựa lá bài và tập trung tư tưởng vào chúng, để người kia đoán màu sắc của từng lá bài.  Chúng tôi nhận thấy rằng khi chúng tôi thần giao cách cảm tập trung tư tưởng thật sự thì các kết quả đạt được tới bảy mươi phần trăm.  Nếu tâm trí chúng tôi để đâu đâu thì chúng tôi chỉ đạt không hơn ba mươi phần trăm.  Về sau chúng tôi thử phương pháp khác là lấy cỗ bài tây để một người bạn vẽ đằng sau lá bài cho chúng tôi đoán.  Nhờ phương pháp truyền hình đằng sau các lá bài như trên và về sau với phương pháp truyền cả chữ, cả câu, chúng tôi khám phá điều cơ bản của thần giao cách cảm.  Muốn truyền các hình ảnh đi cho người khác được, ta phải cố gắng tập trung tư tưởng và ý chí, cố gắng hết sức bình sinh và không bỏ nửa chừng.

    Từ đó, tôi và anh bạn càng ngày càng say mê thần giao cách cảm và quyết định đi xa hơn…  Cũng chính nhờ sự say mê rèn luyện thần giao cách cảm mà tôi đã một lần thoát chết.  Hồi đó trong trại giam tôi vẫn giấu dưới giường một máy thu thanh nhỏ xíu để nghe vào mỗi tối, biết các cuộc hành quân của quân đội Mỹ tại Thái Bình Dương, rồi ngày hôm sau báo tin mừng cho các bạn tôi biết…  Vào một đêm, tự nhiên tôi thấy xuất hiện rõ trong trí óc tôi hình ảnh hai tên lính Nhật, tay cầm tiểu liên xăm xăm đi về phía phòng tôi.  Tôi vội đem giấu máy thu thanh vào trong cái lỗ kèn “Sắc xô”.  Liên đó hai tên lính Nhật không mời mà đến bằng xương bằng thịt đứng trước mặt tôi.  Chúng lục lọi khám xét khắp nơi nhưng đành phải bỏ ra đi tay không.  Ngày hôm sau, anh Braddon (người bạn cùng luyện tập tư tưởng với tôi) báo cho tôi biết:  “Tối qua tao rất lo cho mày.  Tụi Nhật tới khám phòng tao vì chúng nghi tao có máy thu thanh.  Khi chúng đi rồi, tao sợ chúng sang phòng mày, tao bèn hết sức tập trung tư tưởng để báo động cho mày biết.  Vậy tối qua mày có cảm thấy gì không?”

    Tôi đáp là có nhận được một bức thông điệp bằng hình của anh.

    Thế rồi sau khi giải phóng, tôi vẫn tiếp tục nghiên cứu cùng với vợ tôi.  Nhiều người Anh còn nhớ, một ngày cuối năm 1949, anh Sidney đã cùng vợ (cô Lesley) làm một thí nghiệm thần giao cách cảm nổi tiếng.  Trước một trăm năm mươi người chứng kiến tại chỗ và hai mươi lăm triệu khán giả truyền hình, anh Sidney đã truyền được bằng tư tưởng cho người vợ trẻ (ở cách xa, trong một phòng nhỏ của ngọn tháp Luân Ðôn), một câu phức tạp “Anh phải bỏ cuộc khiêu vũ, vì thợ điện nói không còn điện nữa”.  Lesley đã nhận được “bức thông điệp” của chồng, và qua màn trắc nghiệm, mọi người đều chứng kến:  Lesley đã nói lại nội dung trên không sai một chữ.  Tín hiệu tư duy của Didney được truyền sang cho vợ thông qua môi trường vật chất nào?  Trường điện?  Trường từ?  Trường hồng ngoại?  Trường siêu âm?  Tổng hợp của tất cả các trường này?  Hay trường vật lý tương lai mà ta chưa biết.  Và người đã giải mã những tín hiệu đó ra sao để hiểu được ý nghĩa tư duy của người khác?  Đây quả là những câu hỏi không dễ trả lời.

    Ngày nay, nhiều người đã biết tới hiện tượng thần giao cách cảm.  Mới đây, tại Liên Xô có một số nhà khoa học đã làm nhiều trắc nghiệm về thần giao cách cảm ở ngay giữa Mat-xcơ-va và Lê-nin-grat.

Tháng 2 năm 1071, nhân chuyến bay lên mặt trăng của phi thuyền Apolo 14, phi công vũ trụ Mỹ Scott MiChell đã làm các thí nghiệm về thần giao cách cảm.  Tại một phòng riêng ở Cape Kenedy, bốn nhà khoa học đã truyền mệnh lệnh bằng tư tưởng cho Scott Michell, để anh theo đó mà thi hành.  Kết quả, các cuộc thí nghiệm đã than`h công ngoài ước muốn của mọi người.  Các nhà khoa học cho rằng:  Nghiên cứu về thần giao cách cảm rất cần cho ngành vũ trụ học.

                                                                                                                                Hết

2.NHỮNG NGƯỜI CÓ NĂNG LỰC SIÊU PHÀM

    …Từ cổ đại đến nay, không hiếm những con người kỳ lạ xuất hiện.  Những người này có thể nhìn thấy hoặc, nghe ở những khoảng cách xa đến hàng vạn dậm, có thể ví họ như những nhân vật thần thoại trong truyện cổ tích, truyện phong thần, Tây Du Ký với những con người có thiên lý nhĩ và thiên lý nhãn.  Lại có người có khả năng đọc tư tưởng của kẻ khác, họ có thể biết người ở xa hay ở gần đang suy nghĩ, dự định, tính toán gì.  Có người có khả năng chuyển di hay làm biến dạng đồi vật.  Có người có khả năng làm cho người khác ngủ thiếp đi và đưa họ về những giai đoạn quá khứ xa xăm của ngay trong một đời hay nhiều đời nhiều kiếp.  Họ cũng có khả năng dùng ý chí để khiến một người trở thành bất động trong một thời gian nào đó tương tự như phép Ðịnh Thân mà các sách truyện cổ thường nêu.  Có người con có khả năng di chuyển nhanh và xa theo phép khinh thân…  Có người ngồi một chỗ nhưng lại có thể đến thăm viếng một nơi xa xôi nào đó qua hiện tượng xuất hồn.  Có người thấy được quá khứ và cả tương lai.  Có người thấy được những cõi giới khác mà loài người gọi là cõi giới vô hình nhờ huệ nhãn.  Có người tiếp xúc được với những sinh vật lạ lùng khác mà người sống trên quả đất này đã không thấy được.  Có người có khả năng đưa mình vào tình trạng chết một thời gian để rồi sống lại.  Ðiều kỳ lạ là càng ngày, trên thế giới càng xuất hiện nhiều những con người có khả năng siêu đẳng lạ lùng vượt xa hẳn những khả năng mà con người thường có �! �ược.  Những con người ấy không phải là những vị cao tăng, những vị đạo sư, những người sống trên những núi non hay rừng rậm hoang vu dày công tu luyện.  Những người ấy đang ở ngay trên thành phố văn minh hiện đại hay trên những đất nước mà những gì được gọi là siêu linh huyền bí đều bị coi là mê tín dị đoan, nhảm nhí.  Những con người kỳ lạ ấy có khả năng tạo ra những nguồn điện lực mạnh mẽ phát sinh từ cơ thể, từ đôi mắt, từ đôi bàn tay hay cả thân mình.  Có người có thể dùng năng lực điện trường của mình để sưởi ấm người khác hay làm cho tuyết tan.  Có người dùng nhân điện ấy để chữa bệnh hay có thể đốt cháy những vật mà họ chạm vào.

    Nhiều người có khả năng siêu việt trong phép chữa bệnh qua khoảng cách bằng lời nói và đôi mắt.  Có người đưa bệnh nhân về quá khứ để tìm nguồn gốc phát  sinh bệnh trạng…  và đặc biệt hơn nữa là có người có khả năng tìm được người đã chết bị mất tích xác thân…

    Những con người có khả năng kỳ diệu đó là những người có năng lực siêu phàm vì những khả năng mà họ có hoàn toàn vượt xa khả năng của những con người bình thường.

    Ngày nay, mặc dầu khoa học chưa hoàn toàn giải thích được sự kiện của vấn đề tuy nhiên không vì thế mà giới khoa học coi thường cũng như gán ghép sự huyền hoặc lên sự kiện vì thực tế những con người có khả năng siêu phàm đang hiện hữu trước mắt những nhà khoa học nơi những viện nghiên cứu khoa học nổi danh khắp thế giới.

    Hiện nay vấn đề tuy còn nhiều tranh luận nhưng thực tế, các nhà kh oa học đã bắt đầu nghiên cứu vấn đề một cách vô cùng nghiêm túc.  Tính đến nay có đến 6000 nhà khoa học trên khắp thế giới đang ra sức nghiên cứu tìm hiểu những khả năng, những hiện tượng lạ lùng đầy vẻ siêu phàm phát sinh từ những con người bằng xương bằng thịt.

     Cuốn sách những người có năng lực siêu phàm qui tụ một số những con người có khả năng lạ lùng ở khắp nơi trên thế giới.  Sách được phân ra làm 2 phần.  Phần thứ nhất trình bày về những nhân vật có NĂNG LỰC SIÊU PHÀM.

    Phần thứ hai đề cập đến những con người tuy không phải có năng lực siêu phàm nhưng tài năng của họ cũng được coi là kỳ lạ hiếm có.

    Cuốn sách này đáng lý đã được xuất bản từ lâu tại Việt Nam vào năm 1989.  Nhưng vì tình trạng khó khăn về kiểm duyệt cũng như in ấn khiến bản thảo bị giữ rất lâu gần một năm mãi đến khi tác giả sắp đến ngày lên đường định cư ở Hoa Kỳ, bản thảo vẫn còn chờ xét duyệt.  May mắn là trong chuyến xuất cảnh, tác giả đã lấy lại được tập bản thảo và khi đến Hoa Kỳ, bản thảo đã được sửa chữa và bổ sung thêm khá nhiều tài liệu quý giá.

    Từ năm 1990 đến nay (1993) cuốn sách mới được ra mắt độc giả.

    Cuốn sách đã được tăng cường khá nhiều tài liệu trong nước cũng như ở nước ngoài.  Ðặc biệt nhất là các tư liệu của giáo sư Nguyễn Hoàng Phương, nhà nghiên cứu nổi tiếng về Trường sinh học.  Cũng như những tài liệu sưu tập từ năm 1950 đến năm 1992 của nhà giáo Ðoàn Văn Hai.  Những tư liệu có từ quốc nội đã góp phần rất lớn trong việc soạn thảo cuốn sách này.  Ngoài ra tác giả cũng tham khảo thêm một số lớn sách vở tài liệu tại các thư viện Hoa Kỳ, những tài liệu qua các sách báo tạp chí và vô tuyến truyền hình, đặc biệt là bộ sách People’s Almanac của Davia Wallechirsky và Irving Wallace.  Tất cả chi tiết này đều được chúng tôi ghi lại đầy đủ ở phần tài liệu tham khảo.  Mặc dầu được sự hổ trợ của nhiều học giả, nhà sưu tập, các sách báo, tạp chí trong và ngoài nước nhưng tác giả tin chắc rằng cuốn NHỮNG NGƯỜI CÓ NĂNG LỰC SIÊU PHÀM vẫn còn nhiều thiếu sót.

    Hy vọng sẽ nhận được những góp ý phê bình cũng như sự đóng góp tài liệu cùng lời chỉ giáo của quý vị cho lần tái bản được súc tích và đầy đủ hơn.

Hợp chủng quốc Hoa Kỳ

California, 1992

Ðoàn Văn Thông

[Cao Học Sinh Vật Học 1972 (VN)

Nguyên giảng viên Ðại Học Khoa Học Huế 1971-1972

và Ðại Học Duyên Hải Nha Trang 1973-1975]

Do NXB Nguồn Sống phát hành 1994

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét