Ba chị em họ Tống
Nguyên tác: Nguyễn Vạn Lý
Chương 010
Trường Võ Bị Hoàng Phố
Trường võ bị Hoàng Phố được đặt tại một hòn đảo trên dòng sông Châu Giang, cách Quảng Châu mười dặm. Trong thập niên 1870, một căn cứ quân sự và một trường huấn luyện hải quân của nhà Mãn Thanh được thiết lập tại đây. Bây giờ người ta chỉ cần đóng thêm những căn nhà gỗ cho các khóa sinh ở.
Thoạt đầu Quốc dân đảng chỉ quyết định tuyển mộ những khóa sinh thuộc tỉnh Quảng Đông, nhưng những người đi tuyển mộ khóa sinh đều bị các sứ quân đối lập bắt giam hoặc ám sát hết. Do đó nhà trường phải mở một cuộc thi tuyển lựa trên toàn quốc. Tôn Dật Tiên rất ngạc nhiên khi có ba ngàn ứng viên đủ điều kiện nộp đơn. Năm trăm trong số ba ngàn ứng viên được tuyển ngay cho khóa học đầu tiên. Các trường quân sự của Trung hoa vào thời kỳ ấy thường gặp phải rất nhiều khóa sinh mù chữ, nhưng tại Hoàng Phố, hầu hết khóa sinh của lớp đầu tiên đều tốt nghiệp trung học và có trình độ văn hóa cao.
Điều Tôn Dật Tiên và Borodin không ngờ được là phần đông các khóa sinh đều là người của Lục Hội. Đám anh chị này thấy không thể bỏ lỡ cơ hội được huấn luyện tại trường Hoàng Phố, và sau này sẽ được nắm giữ những chức vụ quân sự quan trọng. Thực ra người đứng ra tuyển lựa khóa sinh là Trần Quả Phu, cháu của Trần Kỳ Mỹ. Trần Quả Phu vốn là một đảng viên quan trọng của Lục Hội từ lâu. Kể từ khi Trần Kỳ Mỹ bị ám sát chết, thì hai anh em Trần Quả Phu giữ chức vụ của Trần Kỳ Mỹ trong Lục Hội, và được Tưởng Giới Thạch đỡ ! đầu. Tổng cộng, Trần Quả Phu tuyển mộ được bảy ngàn khoá sinh từ mọi cấp bực của Lục Hội. Họ là những người sẽ trở thành bộ tham mưu then chốt của Tưởng Giới Thạch. Vào lúc đó đảng cộng sản cũng không được tổ chức chặt chẽ và có ảnh hưởng tới thời cuộc bằng những đàn em của Tưởng Giới Thạch tại trường Hoàng Phố.
Khóa đầu tiên tại trường Hoàng Phố khai giảng ngày 5- 5- 1924. Tưởng Giới Thạch nắm quyền chỉ huy trưởng, và Liêu Trọng Khải, một người khuynh tả được giáo dục tại Hoa Kỳ, là đại diện của Quốc dân đảng tại trường Hoàng Phố. Dưới quyền của Tưởng và Liêu Trọng Khải có sáu phân khoa, gồm các phân khoa chính trị, huấn luyện, giảng huấn, điều hành, quân y và quân nhụ Các giảng viên được thu nạp từ các trường quân sự Nhật Bản, trường võ bị Bảo Định và Vân Nam. Dưới sự điều hành của Liêu Trọng Khải, trường Hoàng Phố đã có một chương trình huấn luyện chính trị khá đầy đủ, gồm có các khóa học về kinh tế, lý thuyết quân chủ, lịch sử Trung hoa, và lịch sử cách mạng của tây phương. Về mặt quân sự, Tưởng Giới Thạch nhấn mạnh đến kỷ luật và bốn đức tính quân sự, như can đảm, mạo hiểm, uy quyền và đạo đức. Tinh thần trách nhiệm tập thể được đề cao.
Trường Hoàng Phố đặt nặng việc huấn luyện về kỹ thuật với các huấn luyện viên Nga sộ Lần đầu tiên một quân đội cơ khí ! tối tâ! n được hình thành. Tại Trung hoa các sứ quân chỉ dùng vũ khí mới như súng và pháo binh với mục đích thay thế pháo. Các bức tường thành bao quanh các thị trấn Trung hoa thường làm bằng đất, nên chỉ cần một phát đại bác cũng đủ phá vỡ tường để xông vào chiếm thành.
Theo truyền thống quân sự Trung hoa, thì các thứ đạn dược chỉ dùng để tạo ra sự nổ lớn nhằm áp đảo tinh thần đối phương để đòi một sự nhượng bộ chính trị. Nhưng chiến lược mới được giảng dạy tại trường Hoàng Phố thay đổi tất cả. Borodin và Tưởng Giới Thạch không hài lòng với những kẻ địch hoảng sợ.
Hai người muốn kẻ địch phải chết, và đấy là công dụng đích thực của vũ khí tối tân. Sau hòa ước Versailles, các nước tây phương không được phép chở vũ khí cho Trung hoa, vì thế Nga sô là nước cung cấp vũ khí cho Trung hoa nhiều nhất. Riêng trong năm 1925, Nga sô chở tới Trung hoa một số lượng vũ khí trị giá gần ba triệu đồng tiền Nga, và còn rất nhiều nằm chờ sẵn sàng tại hải cảng
Đây là một nhiệm vụ rất khó khăn cho Tống Tử Văn. Nền kinh tế của Trung hoa đang gặp khủng hoảng. Sau đệ nhất thế chiến, các nước tây phương quay trở lại khai thác Trung hoa như trước. Trong lúc đó nhiệm vụ chính của Tống Tử Văn là lo sao có đủ tiền cho các hoạt động hàng ngày của Quốc dân đảng. Sau đó Tống Tử Văn phải tổ chức lại nền kinh tế của Quảng Đông, và áp dụng được chế độ thuế khóa mới. Tống Tử Văn đã thành công hoàn thành được hai mục tiêu này.
Tống Tử Văn là một người lùn và mập, và có một khuôn mặt tròn. Ông tốt nghiệp về kinh tế tại đại học Harvard danh tiếng, và có nhiều bạn Mỹ. Tống Tử Văn đã đề nghị một loạt những biện pháp kinh tế khẩn cấp năm 1924, kể cả việc đánh thuế hầu hết mọi sản phẩm. Tháng 2 năm đó, họ Tống yêu cầu các thương gia “Cho vay” mỗi người từ 5 dến 500 đô lạ Sự thành công đáng kể nhất của Tống Tử Văn là thành lập được Ngân hàng Trung ương đầu tiên tại Quảng Đông, và chính họ Tống là giám đốc. Thực ra số tiền lớn để thành lập ngân hàng này là của Nga sô cho vaỵ Trước khi có chế độ thuế khoá của Tống Tử Văn, thì các sứ quân tha hồ đánh thuế v�! � giữ lại một phần lớn trước khi gửi cho chính quyền trung ương. Hàng hóa bị đánh thuế mỗi lần qua cổng thành hoặc qua một cây cầu.
Vì thành quả này, Tống Tử Văn được thăng thưởng lên chức bộ trưởng tài chánh. Vì hiểu được sức mạnh của ngòi bút được hỗ trợ bằng súng đạn, Tống Tử Văn thành lập một quân đội và các quan tòa riêng để đi thâu thuế. Trong thời gian hai năm Tống Tử Văn giữ chức bộ trưởng tài chánh, ngân quỹ của tỉnh Quảng Đông gia tăng gấp mười lần, từ 8 triệu năm 1924 lên đến 80 triệu năm 1926 mà không phải tăng thuế.
Sự thành công của Tống Tử Văn thật là lớn lao, nhưng cũng tạo ra một sự chống đối mới. Giới tư bản tại Quảng Đông vốn đã e dè trước sự liên hệ chặt chẽ với chế độ cộng sản Nga của Tôn Dật Tiên, nay họ coi Tống Tử Văn chỉ là một người Bôn- sê- vích, một người thâu thuế cho Tôn Dật Tiên. Các thương gia tư bản Quảng Đông coi Tôn Dật Tiên cũng chỉ là một sứ quân, và một thứ sứ quân nguy hiểm đối với họ vì dính dấp với cộng sản. Các hội viên phòng Thương Mại Quảng Đông bắt đầu thảo luận việc thành lập một đạo quân riêng. Họ đã chán bị bắt nạt, và sẵn sàng đứng lên chống lại Tôn Dật Tiên.
Phòng Thương Mại Quảng Đông được Anh quốc trợ giúp ngầm để thành lập một Lực lượng Tình nguyện của Thương gia. Người đứng đầu là thương gia Trần Liên Phố, một tỷ phú có rất nhiều cơ sở thương mại và kỹ nghệ, như cơ xưởng dệt lụa, hai hãng bảo hiểm, mười ngân hàng và vô số những tiệm cầm đồ. Trần Liên Phố có rất nhiều tài sản t! ại Trun! g hoa và hải ngoại, và cũng là một nhà mại bản mạnh nhất tại miền nam Trung hoa. Thoạt đầu Trần Liên Phố yêu cầu các thương gia phải đóng tiền ủng hộ Lực lượng Tình nguyên, một lực lượng đông tới 50 ngàn binh sĩ. Lực lượng này cũng nhận được vũ khí và ngân quỹ hoạt động từ Anh quốc. Khi Tống Tử Văn áp dụng chế độ thuế khóa mới thì Lực lượng Tình nguyện bắt đầu tồn trữ vũ khí đợi ngày khai chiến. Lực lương đặt mua năm ngàn khẩu súng của Đức, nhưng khi số súng này chở tới Quảng Đông thì bị chính quyền Tôn Dật Tiên bắt được. Những súng bị tịch thu được chở tới giao cho trường võ bị Hoàng Phố. Tưởng Giới Thạch ra lệnh cho các khóa sinh phải sẵn sàng tấn công Lực lượng Tình nguyện của Thương gia.
Ngay lập tức, lãnh sự Anh tại Quảng Châu hăm dọa Tôn Dật Tiên rằng hải quân Anh sẽ can thiệp nếu Quốc dân đảng tấn công Lực Lượng Tình nguyện của Thương Gia. Tôn Dật Tiên nổi giận đánh điện phản kháng với chính phủ Anh, nhưng không được phúc đáp. Phòng Thương mại đòi Quốc dân đảng trả lại cho họ số vũ khí bị tịch thu, và phát động một cuộc chống đối việc tăng giá gạo. Borodin đề nghị Tôn Dật Tiên ra lệnh thiết quân luật, tịch thu mọi cửa tiệm đình công đóng cửa, và cấm di chuyển hàng hóa ra khỏi thành phố. Borodin cũng ra lệnh cho đảng cộng sản và công nhân cũng như nông dân đứng lên chống lại Lực lượng Tình nguyện của Thương Gia. Trong lúc số phận Quảng Châu đang lâm vào tình trạng nguy hiểm thì Tôn Dật Tiên thấy rằng không nên làm hại mộng lớn thống nhất đất nước của ông chỉ vì một biến cố địa ! phương.! Tôn Dật Tiên liền phát động chiến dịch Bắc phạt. Borodin và Tưởng Giới Thạch vô cùng tức giận. Đúng lúc đó thì chiếc tàu Vorovsky của Nga sô chở vũ khí từ
Khi nghe tin có vũ khí mới từ Nga sô tới, Tôn Dật Tiên ra lệnh cho Borodin gửi ngay vũ khí đó ra mặt trận cho ông. Tưởng Giới Thạch rất quan tâm đến tình hình tại Quảng Châu, bèn khuyên Borodin không nên nghe lời Tôn Dật Tiên. Tôn Dật Tiên càng tức giận và đánh điện bắt Tưởng Giới Thạch phải ra mặt trận trình diện ông ngaỵ Tường từ chối không tuân lệnh Tôn Dật Tiên. Phòng Thương mại đề nghị trả 200 ngàn đô la cho số vũ khí của họ bị tịch thụ Tôn Dật Tiên thấy rằng có thể trả lại một phần vũ khí cho phòng Thương mại, vì đã có vũ khí mới của Nga sô vừa chở tới. Ông ra lệnh phải trả cho phòng Thương mại một nửa số vũ khí bị tịch thụ Tưởng Giới Thạch đồng ý, nhưng chỉ trả lại súng thôi, và giữ lại tất cả đạn dược.
Ngày lễ Song Thập năm đó được tổ chức trọng thể bằng một cuộc diễn hành của các khóa sinh trường võ bị Hoàng Phố, trong đó có cả Lâm Bưu. Các khóa sinh được tăng cường bằng các quân đoàn sinh viên và quân đoàn công nhân của Quốc dân đảng. Dân chúng nghi ngờ không biết cuộc diễn hành này là một cuộc lễ kỷ niệm thực sự, hay là một sự cố tình gây hấn của Borodin và Tưởng Giới Thạch. Đoàn diễn hành tiến thẳng tới bến tàu, nơi phe Lực lượng Tình nguyện của Thương Gia đang chuyển vũ khí được trả lại xuống tàu. Hai bên đụng độ nhau, và bên Quốc dân đảng có một số người bị bắn hạ.
Tôn Dật Tiên vội trở về Quảng Châu thì thấy Borodin và Tưởng Giới Thạch �! �ang sửa soạn cuộc tấn công vào Lực lượng Tình Nguyện của Thương Gia. Cuộc tấn công sẽ khởi sự vào nửa đêm, và lực lượng tấn công của Tưởng gồm có 800 khoá sinh trường Hoàng Phố, 220 khóa sinh của Hồ Nam Quân Học Viện, 500 khóa sinh của Vân Nam Quân Học Hiệu, vài ngàn cảnh sát, 250 binh sĩ, tất cả các cố vấn quân sự người Nga, và 320 công nhân tự vệ do Mao Trạch Đông huấn luyện. Tống Tử Văn cẩn thận di chuyển tất cả tiền bạc của chính phủ lên chiếc tàu Vorovsky của Ngạ Sau đó là lệnh di tản các nhân vật quan trọng như Tôn Dật Tiên, Tống Khánh Linh, Tống Tử Văn, Borodin, và các cố vấn Nga sô.
Đúng 10 giờ đêm, các khóa sinh Hoàng Phố của Tưởng mở cuộc tấn công khắp thành phố. Đây không phải là một cuộc phục kích thông thường. Nhiều khu vực của thành phố bị đốt cháy. Các cuộc chiến đấu ngoài đường phố thật là đẫm máu. Sự tàn phá tài sản và thiệt hại nhân mạng ghê gớm đến nỗi các thương gia Quảng Châu mất tinh thần. Sau 20 giờ hỗn loạn, các thương gia đầu hàng. Những toán Lực lượng Tình nguyện sống sót đều bị khóa sinh Hoàng Phố tước khí giới. Ngày hôm đó được gọi là Ngày Thứ Tư Đẫm Máu. Đến chiều tối hôm đó, thành phố Quảng Châu chỉ còn là những đám lửa cháy chưa tắt. Các khu vực người ngoại quốc cũng bị đốt cháy và bị cướp bóc tài vật.
Đối với Tưởng Giới Thạch thì đây là một chiến thắng huy hoàng! . Tưởn! g và phe nhóm tại Thượng Hải không thương tiếc gì sự hủy hoại của phe tư bản tại Quảng Châu. Đây chỉ là một màn chó cắn lẫn nhau, giữa những phe tư bản vốn thù nghịch nhau. Trận đánh này là dịp thực tập tốt đẹp nhất cho các khóa sinh của Tưởng Giới Thạch, và cũng dạy các thương gia Quảng Châu một bài học về chính trị của thế kỷ 20. Kể từ đó, quân đội Quốc dân đảng làm chủ Quảng Đông.
Borodin bình tĩnh nhận xét tình hình. Quân đội mà Borodin thành lập và Tưởng Giới Thạch huấn luyện đã hành động thành công đúng theo nhật lệnh, mặc dù quân đội ấy phải đương đầu với một địch quân đông gấp mười lần. Các cố vấn quân sự Nga đã chứng tỏ tài năng của họ. Một điều may mắn là đúng lúc cần nhất thì có vũ khí của Nga sô chở tới.
Sự bất tuân lệnh của Tưởng Giới Thạch làm Tôn Dật Tiên rất khó chịu, nhưng nay trước chiến thắng lớn lao này, Tôn Dật Tiên cũng phải cố nuốt đi sự chua chát. Để bày tỏ sự vui mừng của mình, Tôn Dật Tiên sai thiết lập một khải hoàn môn ngay trước con tàu Vorovsky của Ngạ Trong y phục toàn trắng, Tôn Dật Tiên và bộ tham mưu tiến lên tàu Vorovsky, ngỏ lời cám ơn các cố vấn, thuyền trưởng và hải hành đoàn Nga sô.
Chiến thắng Quảng Châu là một thành công quân sự của Tưởng Giới Thạch và các khóa sinh Hoàng Phố, nhưng đối với Tôn Dật Tiên thì đó là một thất bại chính trị to lớn. Trước khi rời Quảng Châu đi chinh phạt miền bắc, Tôn Dật Tiên cho biết Quảng Châu là một vấn đề đã chết. Cả thàn! h phố �! �ã chống lại Quốc dân đảng. Nhưng Tưởng Giới Thạch và Borodin không nghe lời Tôn Dật Tiên cứ tiến hành việc trừng phạt Quảng Châu. Thành phố Quảng Châu không bao giờ tha thứ cho Quốc dân đảng. Tôn Dật Tiên nói với các lãnh tụ Quốc dân đảng rằng phá hủy một thành phố không có ích lợi gì cả; khi tất cả một thành phố đứng lên chống lại Quốc dân đảng thì đó là một thất bại của Quốc dân đảng. Bây giờ Tôn Dật Tiên cần một thành phố khác thay thế Quảng Châu làm thủ đô cho nước cộng hòa của ông.
Chương 011
Tôn Dật Tiên Từ Trần Và Tưởng Giới Thạch Lên Ngôi
Ngày 15- 5- 1925 tờ New York Times loan báo cái chết của Tôn Dật Tiên. Trước khi chết, Tôn Dật Tiên tìm cách đi Bắc Kinh, hy vọng có thể tránh được biện pháp quân sự bằng cách liên hiệp với các tướng đang kiểm soát thủ đô miền bắc. Các sứ quân làm chủ miền bắc đã bị Phùng Ngọc Tường loại ra ngoài, và họ Phùng muốn nhường cho Tôn Dật Tiên chức tổng thống tại Bắc Kinh, thay vì chức Tổng thống Đặc Biệt tại Quảng Đông. Lời mời của Phùng Ngọc Tường đưa ra đúng lúc Tôn Dật Tiên đang muốn bỏ Quảng Châu và tìm một thủ đô khác. Phùng Ngọc Tường vốn là một viên tướng theo đạo Thiên Chúa, và đã dùng vòi nước rửa tội tập thể cho binh sĩ dưới quyền. Phùng Ngọc Tường khoe khoang đã dạy dỗ quân sĩ biết phải là tôi tớ của dân chúng, và rất khe khắt với quân phong và quân kỷ. Năm 1924, họ Phùng chán ghét những âm mưu chống đối lẫn nhau của các sứ quân liền chiếm Bắc Kinh, và yêu cầu Nga sô trợ giúp. Nga sô đang giúp Tôn Dật Tiên và Quốc dân đảng trong mưu toan Bắc phạt, nhưng cũng ủng hộ họ Phùng, và đã phái cố vấn và gửi quân viện tới giúp họ Phùng.
Phùng Ngọc Tường biết rõ sức mạnh đang lên của Quốc dân đảng, và danh tiếng của Tôn Dật Tiên. Phùng cũng hiểu rằng bất cứ sự liên kết nào cũng có lợi. Đầu năm 1925, Phùng Ngọc Tường liên lạc với Borodin và đã đi tới các điều kiện hợp tác tốt đẹp. Bây giờ mọi sự đều tùy thuộc T! ôn Dật Tiên. Nhưng đối với Tôn Dật Tiên thì thời giờ không còn nhiều nữa. Tôn Dật Tiên đã 58 tuổi, và có bệnh đau bao tử. Trước khi rời Quảng Châu, Tôn Dật Tiên đã cẩn thận sắp xếp lại các chức vụ trong Quốc dân đảng, và giao cho Hồ Hán Dân điều khiển tổng quát. Tôn Dật Tiên cùng Khánh Linh và Borodin lên đường đi Bắc Kinh. Trên đường đi, Tôn Dật Tiên ghé Thượng Hải và Nhật Bản trước. Tại Nhật Bản, Tôn Dật Tiên nhận được một sự đón tiếp rất lạnh nhạt, vì Nhật Bản khó chịu sự liên kết với Nga sô của ông.
Ngày 4- 12- 1924, Tôn Dật Tiên trở về Trung hoa và tới hải cảng Thiên Tân, với hai bàn tay trắng và một trái tim đầy nhiệt tình. Trong một cuộc hội họp thảo luận với sứ quân Trương Tác Lâm của Mãn Châu, Tôn Dật Tiên ngất xỉu vì đuối sức. Trong ba tuần lễ kế tiếp, Khánh Linh lúc nào cũng túc trực ngồi bên cạnh săn sóc Tôn Dật Tiên. Ngày 31- 12, một chuyến xe lửa đặc biệt chở Tôn Dật Tiên về Bắc Kinh, tại đó một đám đông trên một trăm ngàn người đứng chào đón Tôn Dật Tiên tại ngay nhà ga, nhưng ông lúc đó mệt quá, không thể đứng lên chào mừng đám đông được. Ngày 26- 1- 1925, Tôn Dật Tiên được chở tới bệnh viện, và tại đây người ta khám phá ông bị ung thư gan, và đã đến giai đoạn không thể chữa được nữa.
Khi tin Tôn Dật Tiên bị bệnh sắp chết được tung ra thì tất cả những cộng sự thân tín đều tấp nập trở về, đứng bên giường bệnh của ông. Ba phụ tá quan trọng nhất của Tôn Dật Tiên gồm có nhà chính trị hữu khuynh Hồ H�! �n Dân, ! nhà chính trị tả khuynh Liêu Trọng Khải và cố vấn quân sự Tưởng Giới Thạch phải ở lại Quảng Châu, vì họ đang có nhiệm vụ giữ vững thủ đô miền nam. Trên giường chết, Tôn Dật Tiên thành lập Hội đồng Chính trị Trung ương thay mặt ông tại Bắc Kinh, và Uông Tinh Vệ được giao phó nhiệm vụ điều khiển Hội đồng này.
Khi nhà đại cách mạng nằm chờ chết thì hai vấn đề lớn được đặt ra: Có nên tiếp tục sự liên kết với cộng sản không, và ai sẽ thay thế Tôn Dật Tiên lãnh đạo cuộc cách mạng. Một cuộc tranh quyền bắt đầu ngay từ đó, âm thầm nhưng quyết liệt và đẫm máu. Tại Nga sô, Lênin cũng vừa mới từ trần. Borodin đánh điện về xin chỉ thị khẩn cấp, nhưng không được trả lời, vì Stalin và Trotsky còn mải tranh dành quyền hành. Trong khi đó, quanh giường chết của Tôn Dật Tiên, người ta đang cố lợi dụng những giây phút cuối cùng của nhà cách mạng này. Borodin thì nói: “Trong giờ phút cuối cùng, Tôn Dật Tiên còn tỉnh táo và nói: “Ước gì Nga sô tiếp tục giúp đỡ Trung hoạ” Tưởng Giới Thạch ở xa Tôn Dật Tiên hàng ngàn dậm, cũng nói cho mọi người biết trong giờ phút lâm chung, Tôn Dật Tiên đã lấy hết hơi sức tàn ra để gọi ba chữ: “Tưởng Giới Thạch.”
Trong lúc đó bên giường chết của Tôn Dật Tiên, Uông Tinh Vệ đọc chúc thư cuối cùng của ông. Tôn Dật Tiên nghe xong, đồng ý và run tay ký với sự giúp đỡ của Khánh Linh. Chúc thư này để lại cho Khánh Linh tất cả những sách! vở, gi! ấy tờ và vật dụng cá nhân của ông trong căn nhà đường Rue Molière tại Thượng Hải. Trong suốt cuộc đời cách mạng, Tôn Dật Tiên đã thu được hàng triệu đô la quyên góp được, nhưng khi chết ông chỉ để lại cho vợ một ít sách vở và đồ dùng cá nhân, chứ không có tiền bạc gì. Dưới đây là nguyên văn chúc thư của Tôn Dật Tiên ký ngày 11- 3- 1925:
“Trong 40 năm qua, tôi đã cống hiến đời tôi cho chính nghĩa Cách Mạng Quốc Gia, mà mục tiêu là nâng Trung Hoa lên địa vị độc lập và bình đẳng với các quốc gia khác. Kinh nghiệm 40 năm qua khiến tôi tin tưởng rằng, để đạt được mục tiêu này, chúng ta phải thức tỉnh quần chúng và liên kết với cuộc chiến đấu chung của các dân tộc khác trên thế giới đã đối xử bình đẳng với tạ”
“Cuộc Cách Mạng vẫn chưa được hoàn thành. Xin các đồng chí hãy đi theo những văn liệu của tôi, như Kế Hoạch Tái Thiết Quốc Gia, Tam Dân Chủ Nghĩa và Tuyên Ngôn Của Quốc Hội Đầu Tiên, và phải tận tâm áp dụng những tài liệu này. Trên tất cả, lời tuyên bố triệu tập Quốc Dân Đại Hội Trung Hoa của chúng ta và việc bãi bỏ các hiệp ước bất bình đẳng phải được thực thi càng sớm càng tốt. Đây là huấn thị chân thành của tôi cho mọi người.”
Bản chúc thư trên đây về sau được đọc trước mỗi buổi họp của Quốc dân đảng, và trở thành một bài “Phúc Âm” của phong trào tôn thờ Tôn Dật Tiên. Một lá thư từ giã Nga sô viết bằng Anh ng! ữ đư�! ��c Tống Tử Văn đọc lên cho Tôn Dật Tiên nghe trước khi ông ký. Lá thư này được xuất hiện trên từ báo Sự Thật của Nga sô.
Ngày 11- 3- 1925, Tôn Dật Tiên yêu cầu được chuyển sang nằm trên một chiếc ghế bố của binh sĩ. Đúng 9:30 sáng ngày 12- 3- 1925 Tôn Dật Tiên từ trần, hưởng thọ 59 tuổi. Trong hai tuần lễ, trên nửa triệu người đã đến nghiêng mình trước linh cữu của ông. Rồi quan tài của ông được đưa lên chùa Thanh Vân ở phía tây Bắc Kinh. Tôn Dật Tiên ước muốn được chôn cất tại một ngọn núi bên ngoài thành phố Nam Kinh, nơi có lăng tẩm của hoàng đế đầu tiên nhà Minh.
Cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên được coi là một cuộc cách mạng vĩ đại nhất Trung Hoa, kể từ sau cuộc cách mạng của Tần Thủy Hoàng. Tôn Dật Tiên chưa thực hiện được những điều ông ấp ủ, nhưng ông cũng đã đưa ra những tư tưởng mới, thay đổi hẳn chế độ chính trị và cải tạo xã hội Trung Hoa. Học thuyết của Tôn Dật Tiên thể hiện trong ba nguyên tắc: Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do và Dân sinh hạnh phúc. Người ta gọi học thuyết này là Tam Dân Chủ Nghĩa. Tôn Dật Tiên được toàn thể người Trung Hoa tôn kính như một bậc Quốc Phụ.
Tưởng Giới Thạch, Nhà Lãnh Đạo Mới
Trong Quốc dân đảng, những người hy vọng nhất để kế vị Tôn Dật Tiên gồm có Hồ Hán Dân, Uông Tinh Vệ và Liêu Trọng Khải. Trong ba người này thì Liêu Trọng Khải có uy thế nhất, vì Liêu Trọng Khải chủ trương thân Nga, được Borodin và phe cộng sản hết sức ủng hộ. Chính Liêu Trọng Khải đã cố vấn cho Tôn Dật Tiên và khuyên Tôn Dật Tiê! n nên đ! i theo Nga sộ Khi Tôn Dật Tiên chết thì Liêu Trọng Khải là tổng đốc Quảng Đông.
It ai nghĩ đến một ứng viên thứ tư: đó là Bố già Đỗ Đại Nhĩ. Đỗ Đại Nhĩ cũng có ý nhòm ngó địa vị lãnh đạo Quốc dân đảng, nhưng hắn cũng biết nhược điểm của hắn chỉ là một tên cướp và trùm buôn lậu, không đủ uy tín để lãnh đạo. Đỗ Đại Nhĩ đi đến một kết luận là phải đặt người của mình vào chức vụ lãnh đạo Quốc dân đảng. Người mà Đỗ Đại Nhĩ cần dùng chính là Tưởng Giới Thạch, một người vẫn chịu ơn Đỗ Đại Nhĩ.
Các công nhân tả phái tại Thượng Hải tổ chức những cuộc biểu tình liên miên, gây ảnh hưởng tai hại cho các tổ chức thợ thuyền Lục Hội của Đỗ Đại Nhĩ. Đỗ Đại Nhĩ thấy đến lúc cần phải ra tay, và phái Curio Trương xuống Quảng Đông trợ giúp Tưởng Giới Thạch đoạt quyền hành và loại phe tả ra khỏi Quốc dân đảng. Ngày 20- 8- 1925, Liêu Trọng Khải tới dự một phiên họp tại Quảng Châu. Khi Liêu Trọng Khải vừa bước xuống xe thì một toán năm người chĩa súng vào họ Liêu và bắn xối sả. Liêu Trọng Khải ngã gục xuống chết ngay trước trụ sở Quốc dân đảng. Borodin và Tưởng Giới Thạch liền mở một cuộc điều tra về vụ ám sát Liêu Trọng Khải. Một người tình nghi được dẫn tới cho Tưởng. Trong lúc thẩm vấn, Tưởng nổi giận rút súng bắn chết người tình nghi đó tại chỗ. Cuộc điều tra hoàn toàn thất bại, không tìm ra tung tích thủ phạm. Nhưng phần đông đều cho rằng thủ phạm là đàn em của Đỗ Đại Nhĩ, vì cảnh sát nhận thấy vụ giết Liêu Trọng Khải rất giống với các vụ ám sát của Lục Hội.
Cái chết của Liêu Trọng Khải tạo ra một khoảng trống trong ban lãnh đạo Quốc dân đảng, và Curio Trương được bầu vào chức vụ Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc dân đảng ngày 19- 5- 1926. Tuy nhiên Curio Trương chỉ đóng vai trò mở đường cho Tưởng Giới Thạch. Chỉ vài tuần sau, ngày 7- 7- 1926, Curio Trương từ chức để Tưởng được bầu vào chức chủ tịch này, đúng như dự định của Bố già Đỗ Đại Nhĩ. Con đường cho Tưởng Giới Thạch nắm quyền và trở thành một nhà độc tài của Trung Hoa đã rộng mở.
Phe Tưởng Giới Thạch chủ trương phải loại bỏ nhà chính trị trung lập Uông Tinh Vệ và phe cộng sản. Tưởng quyết định đánh phe địch một đòn ác liệt bất ngờ. Một đêm tất cả các nhân viên chính trị và chính ủy tại trường võ bị Hoàng Phố bị bắt giữ. Các cấp chỉ huy cộng sản cũng bị bắt. Các tay anh chị tấn công đám nông dân có thiện cảm với cộng sản tại nhiều nơi. Đến sáng thì Tưởng Giới Thạch hoàn toàn làm chủ Quảng Châu. Uông Tinh Vệ hoảng sợ, đến ra mắt và nộp cho Tưởng Giới Thạch tất cả ấn tín của văn phòng Quốc dân đảng, và sau đó xuống tầu thủy đi Âu châu “để chữa bệnh.” Tưởng Giới Thạch ra lệnh tất cả các cố vấn Nga sô phải rời khỏi Trung hoa.
Các lãnh tụ cộng sản vội bỏ trốn. Nhưng vài ngày sau, Tưởng Giới Thạch! lên ti�! ��ng xin lỗi, và cho biết đã có sự hiểu lầm, đồng thời thả hết những người bị bắt giữ. Tưởng hứa sẽ trừng phạt các sĩ quan có trách nhiệm trong vụ bắt bớ này. Nhưng Tưởng Giới Thạch đã chính thức trở thành nhà lãnh đạo tối cao của Quốc dân đảng như Tôn Dật Tiên trước kia.
Các nhà lãnh đạo cộng sản tại Trung Hoa và Nga sô đều không phản ứng kịp thời trước sự chiếm quyền của Tưởng Giới Thạch. Lúc đó tại Nga sô, Stalin và Trotsky còn mải gầm gừ giết nhau, và Borodin thì không có mặt tại Quảng Châu. Khi Borodin trở về, Tưởng đến tận nơi xin lỗi Borodin, và hứa sẽ loại bỏ những phần tử hữu khuynh trong Quốc dân đảng. Lần này Borodin bị Tưởng lừa thêm một lần nữa. Thực ra Tưởng đang cần loại trừ một số đảng viên không chịu khuất phục, không chịu nộp tiền bảo vệ cho Lục Hội.
Bây giờ Borodin phải tiếp tục hợp tác với Tưởng Giới Thạch. Tưởng yêu cầu Nga sô phải ủng hộ chiến dịch Bắc phạt của Quốc dân đảng, nếu không liên minh Nga- Hoa sẽ chấm dứt, và người Nga phải rời khỏi Trung Hoa ngay tức khắc. Stalin ra lệnh cho Borodin phải chiều theo ý Tưởng Giới Thạch, và phải thay đổi bất cứ cố vấn Nga nào mà Tưởng không thích.
Khi địa vị có vẻ vững rồi, Tưởng liền sai Curio Trương thay mặt mình tới cầu hôn với bà Tống Khánh Linh, quả phụ của Tôn Dật Tiên. Khi Tôn Dật Tiên còn sống Tưởng lúc nào cũng coi ông như một bậc sư phụ, nhưng bây giờ Tưởng muốn kết hôn với bà vợ góa của Tôn Dật Tiên. Tưởng nhìn thấy ở Khánh Linh một cơ hội chính trị quan trọng, vì Khánh Linh được coi là biểu tượng cho công cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên. Nếu lấy được Khánh Linh thì Tưởng sẽ có cái uy tín của Tôn Dật Tiên, và được một khối đa số người Trung Hoa thần phục. Nhưng bà Tống Khánh Linh cự tuyệt lời cầu hôn của Tưởng. ! Bà vốn khinh bỉ Tưởng là một con người vô tư cách, và cho rằng việc cầu hôn này không phải là do tình yêu mà chỉ là tham vọng chính trị.
***
Tưởng Giới Thạch nối tiếp công cuộc Bắc phạt của Tôn Dật Tiên, và cuộc chinh phạt bắt đầu vào mùa hè 1926. Mục tiêu đầu tiên là lưu vực sông Dương Tử, 600 dặm về phía bắc. Đại quân Bắc phạt chia làm hai đường tiến quân. Một cánh quân do phe cộng sản chỉ huy tiến về thành phố Vũ Hán. Một cánh do chính Tưởng chỉ huy và tiến về Nam Xương và Thượng Hải.
Phe cộng sản tận tình khai thác cuộc hành quân Bắc phạt. Tới đâu phe cộng cũng kêu gọi nông dân và công nhân đứng dậy chống lại các sứ quân. Cuộc tiến quân của phe cộng có sự trợ giúp của các sĩ quan Nga sô nên có kết quả rất tốt. Những hứa hẹn của cộng sản đã khiến nông dân hăng hái làm tai mắt từ hậu phương của các sứ quân. Các kỹ thuật phá hoại của các đảng viên cộng sản cũng gây nhiều khó khăn cho các sứ quân. Phe cộng sản còn âm mưu cướp công của Tưởng Giới Thạch bằng cách tổ chức những cuộc nổi dậy kiểu cộng sản của công nhân tại Thượng Hải.
Đối với Tưởng Giới Thạch thì kẻ thù bất cộng đới thiên là cộng sản. Tưởng biết phe cộng đang muốn nhuộm đỏ Thượng Hải, nên Tưởng hành quân một cách rất nhàn tản, không muốn tiến tới Thượng Hải ngaỵ Tưởng muốn dùng các tay anh chị trong Lục Hội làm thịt công nhân và phe cộng tại Thượng Hải trước. Tưởng muốn dưỡng quân nên tránh mọi giao chiến với các sứ quân, và hạn chế hoạt động của các cán bộ cộng sản đư! ợc phá! i đi theo Tưởng. Tưởng còn cấm chỉ nông dân không được trả thù các sứ quân và giới phú hào. Các quan sát viên ngoại quốc lại khen ngợi Tưởng là một nhà quân sự có tinh thần trách nhiệm.
Đến tháng 10- 1926 thì cánh quân do cộng sản chỉ huy đã chiếm được Vũ Hán, Hồ Nam và Hồ Bắc. Đến tháng 12 thì cánh quân này chiếm được Giang Tây và Phúc Kiến. Vũ Hán là một thành phố lớn và giầu thịnh, vì thế chính phủ Quốc dân đảng rời thủ đô từ Quảng Châu lên Vũ Hán, trong đó có Borodin, bà Tống Khánh Linh, và Tống Tử Văn. Các nhượng địa của Anh tại vùng tây bắc này cũng bị quân đội Bắc phạt phe cộng sản chiếm lại. Anh quốc liền phái một đạo quân viễn chinh hùng hậu sang Trung Hoa, với nhiệm vụ cố giữ nhượng địa quan trọng nhất của Anh là Thượng Hải.
Đạo quân Bắc phạt phía đông của Tưởng Giới Thạch tiến vào Nam Xương, một thành phố cổ kính, và nằm chờ tại đó. Trong khi đó tại Thượng Hải, các cán bộ cộng sản nhận được những mệnh lệnh mâu thuẫn của Stalin. Họ dự định làm một cuộc nổi dậy vào tháng 10, trước khi đại quân của Tưởng tới. Các Bố già Hoàng Mặt Rỗ và Đỗ Đại Nhĩ biết được kế hoạch nổi dậy của phe cộng sản nên cũng chuẩn bị đối phó, tấn công lại phe cộng sản.
Tưởng phái một viên tướng của mình tới Thượng Hải, và cho phe công nhân biết Tưởng sẵn sàng ủng hộ và trợ giúp cuộc nổi dậy của công nhân bằng một “đơn vị đặc biệt” được huấn luyện tại trường Hoàng Phố. Đỗ Đại Nhĩ thông báo cho viên sứ quân tại Thượng Hải biết các kế hoạch của phe c! ộng s�! �n, và viên sứ quân này đã sẵn sàng chờ đợi. Khi cuộc nổi dậy của công nhân cộng sản khởi sự thì họ không thấy “đơn vị đặc biệt” mà Tưởng hứa sẽ trợ giúp họ. Các công nhân chỉ thấy hỏa lực rất mạnh của viên sứ quân đang chờ đợi sẵn. Phe công nhân và cộng sản bị thảm bại nặng nề; rất nhiều công nhân và cán bộ cộng sản bị giết trong cuộc nổi dậy này.
Phe cộng vội phái Chu Ân Lai tới Thượng Hải để cứu nguỵ Chu Ân Lai chỉ huy và tổ chức lại các lực lượng xung kích cộng sản đã bị đánh bại và đang mất tinh thần. Chu Ân Lai là một người cộng sản thành thị, từng làm việc chặt chẽ với Borodin, và có một số kinh nghiệm công xã tại Ba Lệ Phe cộng sản không biết được rằng họ đang xông vào một cái bẫy do Tưởng và các tay anh chị Lục Hội đang giăng sẵn.
Sau cuộc tàn sát tháng 10, Thượng Hải vẫn còn trong tình trạng căng thẳng. Người ta lo sợ Thượng Hải sẽ bị cộng sản chiếm. Các thương gia đem gia đình trốn vào khu tô giới Pháp, có quân đội Pháp canh gác cẩn mật sau rào kẽm gai và các ụ đất. Quân Anh tăng cường đông nhất, cứ một người dân Anh sống tại Thượng Hải thì có hai quân sĩ tới bảo vệ. Phi cơ Anh bay tuần thám trên không phận, và dưới hải cảng có trên 30 chiến hạm của Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ý và Bồ Đào Nhạ Viện binh ngoại quốc vẫn tiếp tục tới.
Phe cộng sản và công nhân Thượng Hải hiểu nhầm ý của Tưởng Giới Thạch, và quyết định phát động cuộc nổi dậy ba ngày trước khi quân của Tưởng! tới n�! �i. Ngày 19- 2- 1927, xe điện và tầu thuyền trên sông ngừng chạy, nhà bưu điện bị khóa lại, các xưởng máy im lặng, và các cửa tiệm trên đại lộ Nam Kinh cũng đóng cửa. Tất cả sinh hoạt của Thượng Hải ngừng lại theo lệnh của cộng sản trong một cuộc đình công lớn nhất.
Lúc đó đại quân của Tưởng Giới Thạch vẫn còn cách xa Thượng Hải. Nằm chờ sẵn cuộc đình công của cộng sản là các cảnh sát được vũ trang đầy đủ, và các lính đánh thuê của sứ quân địa phương. Tất cả lực lượng này được sự hỗ trợ của cảnh sát quốc tế. Công nhân đều vắng mặt nên mục tiêu lúc đầu chỉ là những sinh viên đi phát truyền đơn, và một số công nhân vác biểu ngữ đình công. Cảnh sát và quân lính xông ra, lôi các sinh viên và thợ thuyền ra giữa đường và chặt cổ họ. Bên trong các tô giới, cảnh sát quốc tế cũng bắt giữ những sinh viên phát truyền đơn và đẩy họ ra ngoài cho các lính đánh thuê chặt đầu. Riêng ngày 19- 2 có tới hai trăm người bị chặt đầu. Đầu của họ được cắm vào những cây sào và vác đi rước khắp thành phố để thị uỵ Hàng ngàn người hoảng sợ bỏ trốn khỏi Thượng Hải.
Hai ngày sau, các cuộc hỗn chiến xảy ra ngoài đường phố. Lực lượng sứ quân địa phương xông ra, mặc sức chém giết những kẻ hôi đồ, công nhân và cán bộ cộng sản. Trong lúc phe cộng sản mong đợi quân của Tưởng Giới Thạch tới giúp thì Tưởng ra lệnh cho binh sĩ đừng lại, cách Thượng Hải 25 dặm. Những cái xác không đầu nằm rải rác khắp đường phố. Mấy tuần sau, viên t�! �ớng ra! lệnh chặt đầu phe cộng sản được Tưởng thăng chức Tư lệnh Đệ Bát Quân Đoàn.
Phe cộng sản tại Thượng Hải thấy không mong được Tưởng giúp, nên quyết định tự lực đứng lên đảo chánh cướp chánh quyền Thượng Hải vào đêm 22- 3- 1927. Chu Ân Lai không quên kinh nghiệm đau đớn của cuộc hỗn chiến ngoài đường phố hồi tháng 10 năm trước, nên đã tổ chức lại lực lượng năm ngàn cán bộ cộng sản thành từng tiểu tổ, mỗi tổ 30 người. Các tiểu tổ này được công nhân hỗ trợ. Lực lượng của Chu Ân Lai được vũ trang bằng gậy, búa hoặc dao. Tuy nhiên họ cũng có khoảng 150 khẳu súng Mauser và mỗi tiểu tổ được phát cho một khẩu Mauser. Về nhân sự thì phe cộng sản không gặp khó khăn. Vào đêm đảo chánh, cộng sản có 800 ngàn công nhân đi theo. Riêng Chu Ân Lai dẫn 300 người tấn công sở cảnh sát và chiếm được nhà máy điện, và trung tâm điện thoại điện tín. Đến trưa ngày hôm sau, toàn thể Thượng Hải rơi vào tay cộng sản. Những binh lính cuối cùng của sứ quân Thượng Hải đầu hàng tại ga xe lửa lúc 6 giờ chiều. Đúng lúc đó thì đại quân của Tưởng tới nơi.
Một cánh quân khác của Tưởng tiến chiếm được thành phố Nam Kinh. Một số nhà cửa của các nhà truyền giáo bị cướp bóc. Ba tên lính của Tưởng bắt được một phụ nữ Mỹ, lôi lên lầu và hiếp bà tạ Tin này được truyền tới Thượng Hải, và lan tràn khắp báo chí thế giới. Chính phủ Hoa Kỳ liền mở một cuộc điều trạ Vì vụ này, Tưởng tiếp ! tục ở! đưới tầu thủy của mình, không dám lên bờ, sợ bị dính líu vào vụ hãm hiếp tai tiếng. Trong khi đó Thượng Hải nằm hoàn toàn trong tay cộng sản, dưới quyền chỉ huy của Chu Ân Lai và một nhóm vài ngàn cán bộ. Nhưng tại Hàng Châu, các đàn em của Bố già Đỗ Đại Nhĩ tấn công và triệt hạ các cơ sở của công nhân tả phái, và hạ sát bất cứ ai chống lại họ.
Khi tầu của Tưởng cặp bến Thượng Hải, Tưởng lập tức đến một nơi họp bí mật với Bố già Hoàng Mặt Rỗ. Ngày hôm sau Tưởng ra lệnh thiết quân luật tại Thượng Hải, nhưng chưa ra tay ngaỵ Một cuộc thương lượng ngầm đang diễn ra giữa giới tài phiệt Thượng Hải và Lục Hội. Tưởng có thể tiêu diệt phe cộng sản và lấy lại được Thượng Hải cho các thương gia ngay, nhưng Tưởng muốn được trả công một cách xứng đáng. Văn hào Pháp André Malraux đã viết trong Số Phận Con Người như sau: “Không phải vì bạn trả tiền cho Tưởng mà ông ta sẽ diệt cộng sản, trái lại chính vì ông ta diệt cộng sản mà bạn phải trả tiền cho ông tạ”
Các triệu phú Thượng Hải cuối cùng đã đồng ý cho Tưởng “Vay” một số tiền ba triệu đô la để được bảo vệ chống lại cộng sản! Số tiền này được nộp ngày 4- 4 như là một số tiền đặt cọc trước. Vài ngày sau các nhà triệu phú sẽ phải cho Tưởng “Vay” thêm 7 triệu đô la nữa. Một nhóm thương gia khác phải bỏ ra 15 triệu đô la cho Tưởng xử dụng và vài ngày sau đó lại “Cho vay” thêm 30 triệu nữa để Tưởng có thể thiết lập một chính phủ ôn ! hòa tạ! i Nam Kinh. Như vậy tổng cộng Tưởng thu được 50 triệu đô la trong việc giải phóng Thượng Hải. Tuy nhiên đó chỉ là tiền nổi, còn tiền chìm bao nhiêu thì không ai biết được.
Ngày 1- 4 tại Mạc tư khoa, Stalin tuyên bố: “Tôi đã được báo cáo Tưởng Giới Thạch sẽ chống lại cách mạng. Tôi biết hắn đang cướp tay trên của chúng ta, nhưng chính hắn sẽ bị đè bẹp. Chúng ta sẽ bóp nát hắn như bóp một trái chanh rồi liệng đị” Tuy vậy Stalin không cho phép cộng sản Trung hoa chống lại Tưởng, và tờ Sự Thật của Nga vẫn ca ngợi cuộc tiến quân của Tưởng vào Thượng Hải như là một bước tiến mới trong công cuộc cách mạng thế giới. Stalin ra lệnh cho cộng sản Trung hoa phải tập hợp công nhân lại, dấu vũ khí để dành khi cần dùng tới. Trong khi đó Tưởng tuyên bố quyết định chống lại phe cộng sản tại Vũ Hán, và các lãnh tụ, đảng viên cộng sản và sinh viên công nhân thân cộng đều bị truy lùng gắt gao.
Ngày 6- 4 tại Bắc Kinh, 500 quân của sứ quân Mãn châu Trương Tác Lâm tấn công vào trụ sở của phái bộ ngoại giao Nga sộ Hai mươi đảng viên cộng sản Trung hoa bị bắt tại trụ sở này, trong đó có Lý Đại Chiêu và hai người con gái của ông tạ Lý Đại Chiêu là người thủ thư tại thư viện Bắc Kinh trước kia đã từng giúp đỡ Mao Trạch Đông kiếm được việc làm tại thư viện trong lúc Mao Trạch Đông đang túng quẫn. Lý Đại Chiêu bị quân của Trương Tác Lâm tra khảo rất tàn độc, và cuối cùng ông ta bị đè xuống! để b�! �� thắt cổ một cách thật từ từ để ông ta chịu một cái chết rất chậm. Người con gái 17 tuổi của Lý Đại Chiêu cũng bị tra khảo dã man, và cũng bị thắt cổ chết như thân phụ. Tưởng Giới Thạch đánh điện xin lỗi Nga sô về vụ tấn công trụ sở ngoại giao của Nga sô tại Bắc Kinh. Tưởng đoan chắc là có sự hiểu lầm trong vụ này.
Tại Thượng Hải ngày 11- 4, quân đội Anh và Nhật tấn công vào các nơi ẩn nấp của các cán bộ cộng sản. Những tù binh bắt được đều giao lại cho quân của Tưởng để hành quyết. Lúc 4 giờ sáng ngày 12- 4, các tay anh chị của Lục Hội bắt đầu ra tay tấn công phe cộng sản tại khắp thành phố. Các cấp lãnh đạo của cộng sản tan tác. Phần lớn bị bắt và giết, trừ một số nhỏ, trong đó có Chu Ân Lai, trốn được về Hán Khẩu. Theo tác giả Edgar Sno
thì các tay anh chị Lục Hội đã giết được từ năm ngàn tới mười ngàn người thuộc phe cộng sản trong suốt 9 giờ hoành hành. Ngày 13- 4, các nhà lãnh đạo cộng sản còn lại tổ chức một cuộc đình công mới. Gần một trăm ngàn công nhân xuống đường, tiến về bộ chỉ huy của Tưởng Giới Thạch. Nhưng họ bị quân sĩ hai bên đường bắn hạ hàng loạt. Những người bỏ chạy trốn cũng bị quân Quốc dân đảng lôi ra giữa đường và dùng lưỡi lê đâm chết. Ã't nhất trên 300 người bị giết trong cuộc xuống đường.
Đến đây thì Thượng Hải hoàn toàn nằm trong tay của Tưởng Giới Thạch và Bố già Đỗ Đại Nhĩ. Chính phủ tả phái tại Vũ Hán phản đối và ra lệnh cách chức và bắt giam Tưởng Giới Th�! ��ch, nh�! �ng mệnh lệnh của Vũ Hán vô giá trị, vì Tưởng nắm tất cả sức mạnh quân sự lúc bấy giờ. Borodin tổ chức một chiến dịch tuyên truyền chống lại Tưởng, nhưng thất bại. Cuối cùng Borodin phải đốt hết hồ sơ, và sắp đặt cho các cố vấn Nga trở về nước.
Chương 012
Ba Chị Em, Ba Tâm Hồn
Sau khi Thượng Hải được giải phóng khỏi tay cộng sản, giới tài phiệt lúc đầu coi Tưởng Giới Thạch là cứu tinh của họ. Nhưng chẳng bao lâu, họ kinh hoàng khám phá rằng Tưởng chính là nguồn thống khổ của họ. Nhà báo Solosky viết: “Tất cả mọi hình thức gây khốn đốn cho các thương gia giầu có đều được che dấu dưới chiêu bài tiêu diệt cộng sản. Đàn ông bị bắt cóc và cưỡng buộc phải cúng tiền cho ngân quỹ quân đội. Chưa bao giờ lịch sử Thượng Hải được chứng kiến những kinh hoàng như thế.”
Tờ New York Times kể: “Tình cảnh của các thương gia Thượng Hải thật đáng thương. Dưới sự sinh sát của nhà độc tài Tưởng Giới Thạch, các thương gia không biết điều gì sẽ xảy ra ngày mai… Tịch thu tài sản, cưỡng bách cho vay, trục xuất và có thể là hành quyết.” Thương gia giầu có nhất Thượng Hải là người họ Phúc bị Tưởng hỏi vay 10 triệu đô lạ Khi họ Phúc từ chối, Tưởng ra lệnh bắt giam họ Phúc và tịch thu tất cả tài sản. Cuối cùng họ Phúc phải cúng cho Tưởng một số tiền lớn hơn số tiền Tưởng hỏi “Vay” lúc ban đầu.
Tưởng đặt ra một loạt công khố phiếu, và dùng quân đội và các tay anh chị ép buộc mọi nhà buôn lớn nhỏ phải muạ Một triệu phú từ chối không mua thì con trai ông ta bị bắt cóc. Một thiếu niên con trai một thương gia bị bắt vì tội phản cách mạng, nhưng khi nhà thương gia có con bị bắt, ủng hộ Tưởng hai trăm ngàn đô la thì đứa con được tha ngaỵ Một chủ hãng dệt phải chuộc đứa con trai bị bắt! với số tiền bảy trăm ngàn. Một thương gia khác phải nộp nửa triệu khi đứa con trai ba tuổi tự nhiên mất tích. Nhưng sau khi người thương gia nộp tiền rồi thì đứa con ba tuổi lập tức xuất hiện ngay trước cửa nhà. Đây là đường lối tống tiền quen thuộc của Lục Hội. Nay Tưởng áp dụng triệt để như là quốc sách. Tuy vậy Tưởng vẫn chưa thỏa mãn.
Mỗi tháng Tưởng cần 20 triệu để trả lương cho quân đội. Tưởng cần phải đặt ra một hệ thống thuế khóa lâu dài. Điều Tưởng cần là phải có một nhà chuyên môn để thâu thuế cho mình. Đúng lúc đó thì Tống Tử Văn từ Vũ Hán tới. Tống Tử Văn ngây thơ tin tưởng rằng Thượng Hải vẫn trực thuộc chính phủ Vũ Hán, và họ Tống đến Thượng Hải để tìm cách thu lợi tức cho chính phủ Vũ Hán.
Tống Tử Văn biết rằng những số tiền Tưởng “Vay” được trở thành tài sản riêng của Tưởng. Còn công sở và quân đội thì phải tự lo liệu lấy, thường là bằng cách ăn hối lộ. Tất cả những tiền bạc này không bao giờ được gửi tới chính phủ Vũ Hán. Lúc đó các thương gia Thượng Hải chưa biết sự rạn nứt giữa chính phủ Vũ Hán và Tưởng. Điều họ biết rõ là họ không muốn tiếp tục “ủng hộ” tiền cho Tưởng như thế. Họ muốn nhận được những giấy tờ bảo đảm sau này chính phủ sẽ trả lại tiền cho họ. Họ cần có một người có uy tín như bộ trưởng tài chánh Tống Tử Văn đứng ra ngăn cản Tưởng. Tống Tử Văn đã cương quyết từ chối không ký chấp nhận những cuộc tống tiền công khai của Tưởng. ! Thực ra! sự bướng bỉnh của Tống Tử Văn cũng vì tài sản nhà họ Tống tại Thượng Hải.
Điều này đã đẩy Tống Tử Văn và Tưởng trực tiếp đối đầu với nhau. Ngày 18- 4 Tưởng tuyên bố thành lập chính phủ quốc gia tại Thượng Hải và Nam Kinh, tách hẳn chính phủ Vũ Hán, và yêu cầu Tống Tử Văn ở lại làm bộ trưởng tài chánh. Thoạt đầu Tống Tử Văn từ chối, nhưng hai ngày sau họ Tống chấp nhận với điều kiện không phê chuẩn những cuộc tống tiền của Tưởng. Tưởng lập tức đóng cửa văn phòng của Tống Tử Văn, và bổ nhiệm một người khác làm bộ trưởng tài chánh. Tưởng còn ra lệnh cho quân đội tại Quảng Đông giữ tất cả tài sản của Tống Tử Văn tại ngân hàng. Đến đây Tống Tử Văn phải cộng tác vô điều kiện với Tưởng.
Lúc đó Tưởng Giới Thạch đang ra công chinh phục Tống Mỹ Linh, sau khi bị Khánh Linh cự tuyệt lời cầu hôn. Tống Ái Linh và Đỗ Đại Nhĩ hết sức giúp cho Tưởng được toại nguyện. Thoạt đầu Mỹ Linh không ưa Tưởng. Trước mắt nàng, Tưởng chỉ là một tay võ biền thô tục, có nhiều liên hệ tai tiếng với giới anh chị và gái giang hồ tại Thượng Hải và Quảng Châu. Mỹ Linh chỉ chấp nhận cho Tưởng viết thư thăm hỏi, và mỗi khi hai người gặp nhau tại nhà Ái Linh đều có Ái Linh và Khổng Tường Hy chứng kiến.
Về phần Tống Tử Văn thì bị chính bà chị Ái Linh và anh rể chèn ép, vì họ không thích những tư tưởng tự do của Tống Tử Văn. Vợ chồng Ái Linh thúc đẩy Tưởng phải làm áp lực với Tống Tử Văn và sai người của Lục Hội theo rõi họ Tống. Tống Tử Văn cảm thấy hoang mang, và chỉ th�! �ch trở! lại căn nhà của Khánh Linh trên đường Molière, để tránh những màn tẩy não của Ái Linh. Càng ngày Tống Tử Văn càng mất tự tin trước sức mạnh của Tưởng, một người dung túng cho quân đội Quốc dân đảng mổ bụng các thiếu nữ, và lấy ruột quấn quanh cổ nạn nhân trong lúc nạn nhân đang hấp hối.
Sau khi trục xuất Tưởng Giới Thạch ra khỏi Quốc dân đảng, chính phủ Vũ Hán càng ngày càng suy yếu. Hải quân Anh và Mỹ tiến vào sông Dương Tử, lập hàng rào ngăn chặn việc chuyên chở lúa gạo, dầu và than đá, gây thêm khó khăn về kinh tế cho chính phủ Vũ Hán. Ngay tại tỉnh Hồ Nam, quê hương của Mao Trạch Đông, một viên tướng trung thành với Tưởng Giới Thạch đã chiếm được thủ phủ Trường Sa và đánh bại được quân đội nông dân của cộng sản. Uông Tinh Vệ cũng muốn bỏ Khánh Linh về đầu hàng Tưởng Giới Thạch. Khi Stalin đánh điện ra lệnh thành lập đạo quân công nông 50 ngàn người, thì các giới chức Quốc dân đảng tại Vũ Hán đều nghiêng về phía Tưởng Giới Thạch, trừ Tống Khánh Linh. Họ cho rằng Nga sô đã phản bội lời hứa trước kia với Tôn Dật Tiên. Chính phủ Vũ Hán tìm cách liên minh với tướng Phùng Ngọc Tường, một viên tướng theo đạo Thiên Chúa, và đã được Stalin viện trợ nhiều vũ khí. Nhưng Phùng Ngọc Tường đang bí mật liên kết với Tưởng Giới Thạch.
Tống Tử Văn trở về Vũ Hán mang theo thông điệp của Tưởng: Vũ Hán và Nam Kinh có thể liên kết với nhau, với điều kiện là phải loại cộng s�! �n và Bo! rodin ra khỏi Quốc dân đảng. Đồng thời Tưởng treo giải thưởng cho ai giết được Borodin. Thực ra phe Quốc dân đảng tại Vũ Hán cũng đang muốn loại bỏ cộng sản, nhưng trở ngại duy nhất là sự chống đối quyết liệt của Tống Khánh Linh, không chịu liên kết với Tưởng Giới Thạch.
Trong suốt buổi đại hội đảng ngày 15- 7, Khánh Linh đả phá mọi ý kiến liên kết với Nam Kinh. Đến tối bà mệt nhoài và giận dữ thì Tống Tử Văn đến năn nỉ thuyết phục. Tống Tử Văn cho Khánh Linh biết tất cả những hăm dọa phá hoại của Ái Linh nhắm vào Khánh Linh. Khánh Linh vẫn cương quyết không chịu hợp tác với những người tại Thượng Hải. Bà cho biết nếu chính phủ Vũ Hán sụp đổ, bà sẽ trở về Thượng Hải và tiếp tục chống lại Tưởng Giới Thạch.
Tống Tử Văn rất hoảng sợ trước quyết tâm của Khánh Linh, và xin Khánh Linh đi dạo với mình ngoài bờ sông, để tránh sự dòm ngó của những người theo dõi. Khi chỉ còn hai chị em trên bờ sông, Tống Tử Văn cầm tay Khánh Linh và năn nỉ bà chị đừng bao giờ trở về Thượng Hải. Tống Tử Văn cẩn thận ghé sát vào tai Khánh Linh, thì thầm chính Ái Linh đã dự định ám sát Khánh Linh nếu Khánh Linh trở về Thượng Hải. Ái Linh đã từng ra lệnh ám sát một số người chống đối đi ngươc quyền lợi của bà tạ Mặc dầu viễn ảnh có thể bị chính người chị ruột của mình ám sát, Khánh Linh vẫn cương quyết giữ vững lập trường.
Phe cộng sản tại Vũ Hán cũng cảm thấy tình thế đang xoay chiều bất lợi. Một số bắt đầu tìm cách lẩn tránh, và khuyên Borodin nên trở về Nga sộ Các nữ cán bộ trẻ! tuổi t! rước kia cắt tóc ngắn để bày tỏ sự dấn thân của mình, nay để tóc dài trở lại. Khi các cán bộ cộng sản vắng bóng trên đường phố Vũ Hán thì những toán an ninh và anh chị từ Thượng Hải tới chiếm giữ những cơ sở của cộng sản, và bắn chết bất cứ ai bén mảng tới những cơ sở này. Borodin nhận được bản tuyên cáo long trọng từ điện Cẩm Linh: “Vai trò cách mạng của chính phủ Vũ Hán đã chấm dứt và đã trở thành một lực lượng phản cách mạng.” Ngày 14- 7, Mao Trạch Đông và các lãnh tụ cộng sản khác lặng lẽ rời bỏ Vũ Hán.
Tống Tử Văn trở lại gặp Khánh Linh và mong bà thay đổi ý định. Nhưng Khánh Linh đang viết một tuyên cáo lên án Tưởng Giới Thạch. Bên cạnh Khánh Linh lúc ấy chỉ còn tướng Đặng Diễn Đạt, nguyên giám đốc chính trị tại trường võ bị Hoàng Phố. Họ Đặng rất được kính nể, và trung thành với đường lối cách mạng của Tôn Dật Tiên. Nếu không có sự can thiệp của Mạc tư khoa và nhóm anh chị Lục Hội vào chính trường Trung hoa thì Đặng Diễn Đạt đã là người lãnh đạo Trung hoa, chứ không phải là Tưởng Giới Thạch. Đặng Diễn Đạt lên án Tưởng là người thoán nghịch, và phản bội lý tưởng của Tôn Dật Tiên. Hoàn cảnh của chính phủ Vũ Hán thật là cheo leo. Một bên là Tưởng Giới Thạch và các tay anh chị Lục Hội, và một bên là Stalin và đảng cộng sản thế giới. Đi về phía nào cũng phản lại con đường Tôn Dật Tiên đã vạch ra.
Ngày 14- 7, Khánh Linh công bố bản tuy! ên cáo ! cuối cùng của bà. Bà công khai lên án Tưởng Giới Thạch tiếm đoạt quyền lãnh đạo quốc gia và phản bội công cuộc cách mạng. “Tưởng Giới Thạch không phải là người của Tôn Dật Tiên, mà chỉ là một kẻ phiêu lưu quân sự, một kẻ đàn áp, một con ký sinh trùng hưởng thụ trong một hệ thống nô lệ.” Ngày hôm sau, chính phủ Vũ Hán trục xuất mọi đảng viên cộng sản theo lệnh của Tưởng. Borodin biến mất. Khánh Linh và Đặng Diễn Đạt cũng bỏ trốn.
Khánh Linh cải trang và dùng thuyền đánh cá xuôi sông Dương Tử, trở về Thượng Hải để thu xếp công việc riêng một cách hấp tấp. Sợ bị chị ruột ám sát hoặc bị Tưởng giam lỏng tại nhà, và dùng danh hiệu bà cho những hành động có lợi cho Tưởng, Khánh Linh quyết định tiếp tục cuộc chống đối tại hải ngoại. Khánh Linh quyết định sang thăm Mạc tư khoa theo lời đề nghị của Borodin. Một đêm bà cải trang làm một người hành khất và trốn ra bờ sông. Một con thuyền nhỏ chờ sẵn và chở bà ra một chiếc tàu chở hàng của Ngạ Sáng hôm sau con tầu rời bến và trực chỉ hải cảng
Borodin và bà vợ Fanya không được may mắn trên đường hồi hương. Fanya bị quân của sứ quân Mãn châu Trương Tác Lâm bắt được. Để tránh tai tiếng với ngoại giao đoàn, Trương Tác Lâm muốn biện minh việc hành quyết Fanya bằng một phiên tòa xử công khai. Borodin liền dùng 200 ngàn hối lộ cho viên thẩm phán. Sáng sớm ngày 12- 7, vụ án Fanya được xử mau lẹ trong lúc Trương Tác Lâm còn đang ngủ. Fanya được tha bổng vì vô tội và lập tức được dấu kín. Viên thẩm phán cũng bỏ vợ con ở lại, trốn sang Nhật hưởng một cuộc đời về hưu thoải mái với số tiền hối lộ lớn. Trương Tác Lâm tức giận cực điểm, và sai quân lính lùng bắt cho được Fanya. Lúc đó Fanya trốn trong một đền thờ Khổng Tử tại Bắc Kinh. Đền thờ này đã được sửa chữa làm nơi trú ngụ cho người ngoại quốc. Khi cuộc lùng bắt của Trương Tác Lâm lắng dần thì Fanya cải trang làm một nữ tu và trốn về Tây Bá Lợi Á.
Trong khi đó, Borodin trốn trong căn nhà của Tống Tử Văn tại Hán Khẩu. Nhờ ngoại giao đoàn can thiệp, Tưởng Giới Thạch đồng ý cho Borodin được rời khỏi Trung hoa, nhưng không được đi qua lãnh thổ của Tưởng. Borodin và đoàn tùy tùng phải làm một cuộc hành trình qua sa mạc Gobị Khi tới Tràng Châu, đoàn người của Borodin gặp Phùng Ngọc Tường. Họ Phùng đòi Borodin phải nạp tiền mãi lộ, phải trả tiền sửa chữa những con đường, những cây cầu và việc trồng cây cối dọc đường đi. Thực ra những con đường và cầu mà Phùng Ngọc Tường nói đến không hề có tại v! ùng sa mạc này, và cây cối thì đã trồng từ đời nhà Đường, nhà Tống. Phùng Ngọc Tường bảo đảm trên đường đi, đoàn người của Borodin sẽ không bị một sứ quân nào khác đòi tiền nữa. Sau khi nộp tiền mãi lộ, Borodin và đoàn tùy tùng được Phùng Ngọc Tường tiễn đưa trọng thể. Khi tới Đồng Quan, Borodin gặp lại tướng Đặng Diễn Đạt, và tất cả cùng vượt qua Mông Cổ để trở về Nga sô.
Khánh Linh cùng Engene Trần, một nhân viên cao cấp của Quốc dân đảng, tới Mạc tư khoa bằng xe lửa từ hải cảng
Từ khách sạn Metropole, Khánh Linh được đưa tới cung điện của Nga hoàng, trước kia vô cùng huy hoàng lộng lẫy nhưng nay chỉ là một cung điện trơ trụi, vì đồ đạc đã bị cướp đi hết. Khánh Linh gặp lại Đặng Diễn Đạt, nhưng vẫn cảm thấy hết sức cô đơn và bất lợi. Cả ba người, Khánh Linh, Eugene Trần và Đặng Diễn Đạt, được Stalin mời tham dự cuộc đại hội đảng cộng sản. Đặng Diễn Đạt được mời lên phát biểu ý kiến, và họ Đặng đã không bỏ lỡ cơ hội trình bày quan điểm của mình. Đặng can đảm cho biết sự trợ giúp của Nga sô rất được người Trung hoa hoan nghênh lúc đầu, nhưng cuộc cách mạng của Trung hoa là một việc hoàn toàn thuộc người Trung hoa, và không thể tiến hành theo đường lối của đảng cộng sản thế giới, cũng như không thể phục vụ cho mục tiêu của cộng sản được. Đặng nhấn mạnh cuộc cách mạng cộng sản chỉ là một hiện tượng của Âu châu, và không thể đem áp dụng tại Á châu được, vì Á châu là một vùng phong kiến, bán ! thuộc địa trong đó các cải cách nông nghiệp là vấn đề quan trọng nhất, cần phải giải quyết. Sự kết hợp với phong trào cộng sản quốc tế chỉ đưa cuộc cách mạng Trung hoa đi đến chỗ sai lầm, và kéo dài nỗi thống khổ của người Trung hoa.
Stalin nổi giận trước bài diễn văn của Đặng Diễn Đạt, và lập tức sai mật vụ bắt giam Đặng Diễn Đạt. Nhưng Đặng Diễn Đạt đã biết trước sự nguy hiểm và ngay đêm đó trốn khỏi Mạc tư khoa, tiến về phía nam, vượt qua biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Tình thế tại Mạc tư khoa lúc đó bất lợi cho Khánh Linh. Borodin thì đang ở trong tình trạng bị thất sủng, và có thể bị trừng phạt vì thất bại tại Trung hoa. Borodin thường nhắc lại kinh nghiệm với Quốc dân đảng Trung hoa như là “Một cái cầu tiêu, dù bạn giật nước nhiều lần thế nào thì nó vẫn còn mùi hôi.” Một người Nga nữa có thể giúp Khánh Linh được là Joffe thì đang bị bệnh lao phổi nặng. Joffe là người đã ký kết thỏa hiệp đầu tiên với Tôn Dật Tiên. Trotsky đề nghị đưa Joffe ra ngoại quốc để trị bệnh, nhưng Stalin từ chối. Một hôm Joffe viết một lá thư cho một người bạn, rồi dùng súng lục bắn vào đầu tự tử.
Khánh Linh mỗi lúc một chán nản tuyệt vọng hơn. Trong vòng hai năm trời, cuộc đời bà đã từ một vị đệ nhất phu nhân trở thành một goá phụ bị lưu đày. Nhưng bà vẫn là một “Món hàng” vô cùng quan trọng mà bất cứ ! một lã! nh tụ cách mạng Trung hoa nào cũng muốn có. Một hôm bà rất đỗi kinh ngạc và uất giận khi thấy báo New York Times loan tin bà sắp sửa kết hôn với Eugene Trần, và điện Cẩm Linh đang tổ chức tuần trăng mật cho hai người. Bà biết được tin này là nhờ một người Anh đến chúc mừng bà về “Cuộc hôn nhân sắp tới” của bà. Theo truyền thống Trung hoa, một góa phụ trẻ sẽ mất hết đức hạnh khi tái giá. Bà biết có người trong nhóm Tưởng Giới Thạch, có thể là chính bà chị Ái Linh của bà, có dã tâm phá hoại uy tín của bà.
Khánh Linh đau đớn đến ngất xỉu, và bị bệnh tới ba tuần lễ. Khi bà vừa khỏi bệnh thì bà lại bị giáng thêm một đòn chí tử nữa: Bà đau đớn được tin em gái bà là Tống Mỹ Linh sắp sửa kết hôn với Tưởng Giới Thạch. Bà cho cuộc hôn nhân giữa Mỹ Linh và Tưởng Giới Thạch là một sỉ nhục cho nhà họ Tống, và bà rất khinh bỉ Tưởng Giới Thạch. Bà xót xa hiểu rằng câu chuyện bịa đặt về vụ hôn nhân của bà với Eugene Trần chỉ là một âm mưu dọn đường cho hôn nhân của em gái bà với Tưởng Giới Thạch. Người ta muốn làm tăng ý nghĩa cuộc hôn nhân của Mỹ Linh và Tưởng bằng cách làm giảm giá trị của một cuộc hôn nhân khác trong gia đình nhà họ Tống, vì Eugene Trần là người Trung hoa từ Phi châu về, và được coi như lai da đen. Trước kia người quyền thế nhất trong gia đình nhà họ Tống là Tống Khánh Linh, phu nhân của tổng thống Tôn ! Dật Ti�! �n. Bây giờ danh dự đó là của Tống Mỹ Linh, phu nhân của Tưởng Tổng Tài.
Khánh Linh nhờ Eugene Trần đánh điện cho Mỹ Linh, khuyên em gái không nên kết duyên với “Con yêu râu xanh đó.” Nhưng Mỹ Linh bỏ ngoài tai lời khuyên của bà chị. Khánh Linh không bao giờ tha thứ em gái đã cho Tưởng Giới Thạch mượn cái tên của nhà họ Tống. Đối với Khánh Linh, cuộc hôn nhân giữa Mỹ Linh với Tưởng là một điều chua chát cho bà, bởi vì nó chứng tỏ gia đình bà đã rõ ràng cắt đứt với bà, và khoác cho Tưởng Giới Thạch cái uy tín chính trị của Tôn Dật Tiên.
Rồi một tin vui cũng đến với Khánh Linh khi bà nhận được tin mật cho biết Đặng Diễn Đạt đã bình yên tới Thổ Nhĩ Kỳ, và hiện đang sống tại Bá Linh, thủ đô Đức quốc. Khánh Linh đã chán ngấy Mạc tư khoa, và tìm đường đi Bá Linh để gặp người đồng chí thân tín của bà.
Chương 013
Đám Cưới Của Tống Mỹ Linh Và Tưởng Giới Thạch
Ba tuần lễ sau vụ tàn sát phe cộng tại Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch ngỏ lời cầu hôn Mỹ Linh, và được Mỹ Linh chấp nhận. Cuộc hôn nhân lần thứ ba của Tưởng là một tính toán chính trị. Niềm mơ ước thiết tha nhất của Tưởng là được làm người thừa kế chính thống của Tôn Dật Tiên. Quần chúng Trung hoa kính ngưỡng Tôn Dật Tiên như thần thánh. Hình ảnh của ông hiện diện khắp nơi. Bất cứ một chính khách hoặc một tướng lãnh nào có được một sự liên hệ với Tôn Dật Tiên, dù rất xa xôi, lúc ông còn sống, cũng có thể tạo được một sự nghiệp chính trị quan trọng nhờ sự liên hệ ấy. Làm rể nhà họ Tống quả thực là một cơ hội vô cùng thiết yếu đối với Tưởng, để được công nhận nối tiếp công cuộc cách mạng của Tôn Dật Tiên. Tưởng vẫn mong có thể cầu hòa được với Khánh Linh và Tống Tử Văn bằng cách trở thành một người em rể của họ. Tuy thế không phải là Tưởng không say mê Mỹ Linh. Tưởng vẫn tự phụ là một tay anh hùng chọc trời khuấy nước một thời, và theo truyền thống Trung hoa thì cuộc đời của một người anh hùng phải có bóng dáng giai nhân thì mới thực toàn vẹn.
Lúc đó Tưởng đang cần sự ủng hộ của các nước tây phương. Tưởng không biết ngoại ngữ, trừ tiếng Nhật. Nếu có Mỹ Linh làm vợ, Tưởng sẽ có “Tai và miệng” để đương đầu với người tây phương. Ngoài ra Tưởng rất phục khả năng chuyên môn về kinh tế tài chánh của Tống Tử Văn. Viễn tượng tài chánh củ! a Tưởng rất đen tối. Tài sản của các thương gia Thượng Hải chỉ có giới hạn. Tưởng không thể tiếp tục tống tiền khai thác họ mãi. Quân đội của Tưởng mỗi ngày một bành trướng và do đó Tưởng cần tiền trả lương cho binh sĩ ngày một nhiều hơn. Tưởng thấy cần phải tìm nguồn tài trợ của ngoại quốc. Con đường duy nhất Tưởng có thể tìm được sự viện trợ và đầu tư của ngoại quốc là qua gia đình nhà họ Tống, đặc biệt là Tống Tử Văn, một người có uy tín với các ngân hàng, công ty và chính phủ ngoại quốc.
Tống Tử Văn không đồng ý cho em gái kết hôn với Tưởng Giới Thạch, vì Tống biết Tưởng dính dáng vào nhiều tội ác như cướp của, tống tiền, giết người. Không những thế, Tưởng còn trải qua nhiều đời vợ. Nhưng điều Tống Tử Văn khó chịu nhất là Tưởng đã chiếm đoạt hết số bạc dự trữ tại Ngân hàng Trung ương, một công trình mà Tống Tử Văn đã đem hết tâm huyết ra thực hiện. Tuy vậy Tống Tử Văn cũng không chống lại được cuộc hôn nhân này, vì Tống luôn luôn bị bà chị cả Ái Linh tham tiền làm áp lực, tẩy não, bắt phải đi theo con đường của bà đã vạch ra. Hôn nhân của Tưởng và Mỹ Linh chính là công trình mà Ái Linh nhất quyết thực hiện cho bằng được cho mục tiêu làm giàu của mình.
Khánh Linh thì hoàn toàn chống đối cuộc hôn nhân, vì theo bà thì cả hai bên trong cuộc hôn nhân này đều là những người lợi dụng, chứ không hề có tình yêu đích thực. Tuy nhiên mười năm sau, Khá! nh Linh n! hận xét, “Lúc đầu cuộc hôn nhân này không phải vì tình yêu, nhưng bây giờ thì đã có tình yêu giữa hai người. Mỹ Linh yêu Tưởng và Tưởng cũng yêu Mỹ Linh. Nếu không có Mỹ Linh thì cuộc đời của Tưởng sẽ khốn đốn hơn thế.”
Nhiều người mới gặp Ái Linh đều tưởng bà là một người khả ái, có bản chất tốt như tên của bà. Nhưng thực ra, bà là người quyết định hầu hết mọi việc quan trọng trong gia đình nhà họ Tống và họ Khổng. Ái Linh và Khổng Tường Hy lấy nhau năm 1914 tại Nhật trong khi tỵ nạn tránh Viên Thế Khải. Khi trở lại Thượng Hải, Ái Linh sống trong căn nhà số 139 đường
Seymour Road
Nhưng khi về đến nhà chồng, Ái Linh thấy nhẹ hẳn người khi trông thấy dinh cơ đồ sộ của nhà chồng. Đó là một lâu đài mênh mông, nằm giữa những khu vườn trồng đầy kỳ hoa dị thảo, và có trên 500 gia nhân. Ái Linh sinh con gái đầu lòng là Khổng Lệnh Tuấn tại đây năm 1916, và ba đứa con sau sinh tại Thượng Hải. Con cái của Ái Linh được cưng chiều như những bông hoa lan cực quý. Khổng Lệnh Kiệt, người con trai thứ hai của Ái Linh, rất ngỗ nghịch. Cậu quý tử này học lái xe hơi năm mới có 15 tuổi. Một hôm Khổng Lệnh Kiệt đang lái xe tại đường phố đông đúc của Thượng Hải thì bị một cảnh sát Ấn Độ chặn xe lại. Khi người cảnh sát định cảnh cáo Khổng Lệnh Kiệt về tội lái xe ẩu, thì cậu quý tử này rút súng bắn đứt ngón tay cái của người cảnh sát.
Người con gái thứ ba thì kiêu căng phách lối. Thú tiêu khiển kỳ lạ của cô chiêu này là mặc quần áo đàn ông rồi đi dạo phố. Khổng Tường Hy cung phụng cho con cái một đời sống rất xa hoa trong một dinh thự nguy nga tại khu tô giới Pháp. Khổng Tường Hy là đại diện của hãng dầ! u Standard Oil tại Trung hoa. Ông cũng là trung gian giữa các sứ quân miền bắc. Trong cuộc xung đột giữa Tưởng và chính phủ Vũ Hán, chính Khổng Tường Hy đã dùng tiền mua chuộc Phùng Ngọc Tường đứng về phe Tưởng.
Sau khi về nhà chồng, Ái Linh nắm giữ tất cả tài sản nhà chồng, có từng đoàn thư ký và kế toán phụ tá. Bà đã dùng uy tín của chồng để thu thập được những tin tức tài chánh cần thiết để làm giàu thêm. Người ta tin rằng Ái Linh đã dùng tiền bạc để thuê người ám sát những nhà tài phiệt đối thủ, hoặc những người chống đối không chịu nhượng bộ hoặc cộng tác với bà. Ái Linh đã có liên hệ mật thiết với Bố già Đỗ Đại Nhĩ và các tay anh chị của Lục Hội. Lúc đó tại Á Châu có một tổ chức của phụ nữ với mục đích ám sát hoặc trừng phạt đàn ông. Người ta tin rằng người đứng đầu tổ chức này là Ái Linh. Bà được coi là một người đàn bà độc ác, cương quyết, thông minh, quỷ quyệt và nhiều tham vọng, kín đáo điều khiển tất cả mọi công việc làm ăn của dòng họ.
Tháng 4- 1927, Ái Linh và Khổng Tường Hy hết sức giúp Tưởng vắt tiền của các thương gia kinh hoàng tại Thượng Hải. Tưởng thường tới thăm vợ chồng Ái Linh. Đô đốc Bristol, tư lệnh hạm đội Mỹ tại Á Châu, một lần đến thăm gi! a đình ! Ái Linh, đã hết sức khâm phục cách tiếp đãi khách của những người trong nhà họ Tống. Tưởng Giới Thạch cũng từng chứng kiến gia đình nhà họ Tống chinh phục cảm tình của người tây phương một cách dễ dàng.
Khi Tưởng ngỏ lời cầu hôn với Mỹ Linh vào tháng 5- 1927 thì đó là giai đoạn chót của công cuộc sắp đặt theo đúng ý Ái Linh. Khi Tống Tử Văn phản đối cuộc hôn nhân thì bị bà chị cả cảnh cáo nếu không đồng ý thì Tống Tử Văn sẽ không thể hoạt động gì tại Thượng Hải. Cuối cùng Tống Tử Văn nhượng bộ vào tháng 6 để được tái bổ nhiệm chức bộ trưởng tài chánh, và được tự do hoạt động trong lãnh vực kinh tế tài chánh. Tống Tử Văn cũng hứa giúp Ái Linh và Khổng Tường Hy thuyết phục bà mẹ chấp nhận cuộc hôn nhân.
Thoạt đầu bà Tống Giáo Nhân không chấp nhận hôn nhân của Mỹ Linh với Tưởng vì Tưởng không phải là người đạo Thiên Chúa, và vì những cuộc hôn nhân trước kia của Tưởng. Ái Linh liền khuyên mẹ đi nghỉ mát tại Nagasaki, Nhật Bản, và đến tắm tại các suối nổi tiếng trong vùng Kamakurạ Gia đình sẽ đi theo bà sau. Mục đích của Ái Linh là tống khứ bà mẹ bướng bỉnh này đi cho khuất mắt.
Đúng lúc đó Tưởng gặp khó khăn với các sứ quân miền bắc. Các sứ quân này kín đáo liên kết với Tưởng và Lục Hội, qua mặt các tướng lãnh cao cấp của Tưởng. Nhưng sau đó các sứ quân miền bắc ngầm báo cho các tướng của Tưởng biết Tưởng đã ngầm liên kết với k�! � địch! sau lưng họ. Đây là một đòn ly gián có thể gây xáo trộn trong hàng ngũ Quốc dân đảng. Trong lúc Tưởng nổi giận, cực lực cải chánh sự đi đêm thầm lén của mình thì các sứ quân miền bắc bất thần tấn công lực lượng Quốc dân đảng. Các tướng của Tưởng đang hoang mang, bị đánh bất ngờ, phải rút về sông Dương Tử. Trong một cơn phẫn nộ, ba tướng cao cấp nhất của Quốc dân đảng tuyên bố sẽ không nghe lệnh của Tưởng nữa. Sau khi thảo luận với Bố già Đỗ Đại Nhĩ và Curio Trương, Tưởng ra thông cáo “để giữ vững sự đoàn kết của đảng, ” Tưởng từ chức tất cả mọi chức vụ trong Quốc dân đảng, và rút lui khỏi sân khấu chính trị.
Tưởng chơi một đòn chính trị cổ điển. Tưởng rời khỏi Thượng Hải, bề ngoài có vẻ từ bỏ mọi tham vọng, nhưng mục tiêu là để các tướng lãnh đối đầu quay lại cắn giết lẫn nhau. Tưởng đem theo hai trăm vệ sĩ đi vào một vùng hoang vu tại núi Vũ Lĩnh Sơn, một nơi nghỉ mát ưa thích nhất của các lãnh tụ Lục Hội, và nằm dưới sự kiểm soát của Bố già Đỗ Đại Nhĩ.
***
Tống Mỹ Linh đã tiết lộ cho bạn bè biết mình sẽ kết hôn với Tưởng Giới Thạch. Đến tháng 9 thì mọi người dân Thượng Hải đều nghe biết tin đó. Rồi ngày 16- 9, Ái Linh mở một cuộc họp báo tại tư gia, xác nhận việc hôn nhân. Ái Linh giới thiệu Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh với các phóng viên và nhiếp ảnh viên báo chí, và tuyên bố, “Tưởng tướng quân s�! �� kết ! hôn với em gái của tôi.” Các ký giả tuôn ra vườn hoa chụp hình cặp trai tài gái sắc nhất Thượng Hải. Ngày hôm sau, hình ảnh Tưởng tươi cười đứng bên cạnh Mỹ Linh xuất hiện trên báo chí khắp thế giới. Không ai thắc mắc về số phận hai người vợ trước của Tưởng Giới Thạch. Một trong những người vợ cũ của Tưởng là Trần Khiết Như bị Tưởng đuổi sang Hoa Kỳ. Những tấm hình chụp năm 1925 cho thấy Trần Khiết Như là một người đàn bà dáng dấp cao, rất đẹp và đang mang thai. Để sửa soạn hôn lễ của Tưởng với Mỹ Linh được êm đẹp, Bố già Đỗ Đại Nhĩ sắp xếp cho Trần Khiết Như sang sống tại Hoa Kỳ. Tại đây Trần Khiết Như ghi danh học tại đại học
Cuộc tình duyên với Mỹ Linh gỡ rối cho Tưởng được nhiều vấn đề khó khăn. Các tướng đang chống lại Tưởng thấy Tưởng được vào làm rể nhà họ Tống, và trở thành người thừa kế chính thống của Tôn Dật Tiên, nên tha thứ những lỗi lầm của Tưởng trong việc liên kết với các sứ quân miền bắc. Mọi người quan tâm đến hôn nhân của Tưởng nhiều hơn là các chuyện cũ. Ngày 28- 9, Tưởng xuống tàu sang Nhật để chính thức xin bà Tống Giáo Nhân cho phép được kết hôn với Tống Mỹ Linh. Lúc còn ở Thượng Hải, bà Tống Giáo Nhân từ chối không chịu tiếp kiến Tưởng, nhưng khi Tưởng thân hành sang tận
Bà Tống Giáo Nhân không hài lòng. Hai người con gái lớn của bà đều làm hôn lễ tại Nhật bản, Bà vẫn ao ước hôn lễ của cô con gái út phải được cử hành tại nhà thờ Tống Charlie do gia đình bà giúp tiền xây cất. Nhưng giáo hội Methodist cấm các mục sư không được chủ hôn cho những người đã ly dị. Cuối cùng chỉ có một mục sư đồng ý đến nhà riêng của nhà họ Tống cầu nguyện với tân lang và tân giai nhân thôi. Hôn lễ cử hành ngày 1- 12 tại tư gia nhà họ Tống, đường
Seymour Road
Khi Tưởng và vợ tới Vũ Lĩnh Sơn thì lập tức Tưởng phải tham dự một cuộc họp quan trọng của Quốc dân đảng, từ 8 giờ sáng đến 8 giờ tối. Tình trạng Trung hoa trở nên tồi tệ mau lẹ sau vụ từ chức của Tưởng. Các cấp lãnh đạo Quốc dân đảng phải mời Tưởng trở về đảm nhận chức vụ quốc trưởng. Ngày 10- 12, Tưởng được phục hồi chức vụ Tư lệnh Tối cao Quân đội, rồi được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương. Một lần nữa Tưởng trở thành lãnh tụ số một của Trung hoa.
Sự trở lại chính quyền của Tưởng kèm theo một sự biểu diễn sức mạnh của các tướng lãnh. Các tướng Quốc dân đảng lại tin tưởng quyền lãnh đạo của Tưởng và mở lại chiến địch đánh bại các sứ quân miền bắc. Nhưng quân Nhật lúc đó không muốn các sứ quân miền bắc thua chạy ra ngoài Vạn Lý Trường Thành, tạo rối loạn cho Mãn châu đang nằm trong tay Nhật. Người Nhật lập tức đưa ra những cảnh cáo mạnh mẽ, bằng cách ám sát sứ quân Mãn châu Trương Tác Lâm trong lúc viên sứ quân này đang đi xe lửa. Sứ quân Thiểm Tây tràn vào chiếm Bắc kinh, và dâng cho Quốc dân đảng, và chính phủ của Tưởng Giới Thạch trở thành chính phủ đại diện cho toàn thể Trung hoa.
***
Quyết định kết hôn với Tưởng Giới Thạch biểu lộ ý chí sắt đá của Mỹ Linh. Năm 1927, Mỹ Linh tự nhận là 27 tuổi, nhưng thực ra lúc đó nàng đã 30 tuổi rồi. Mỹ Linh đã từng từ chối lời cầu hôn của khá nhiều người theo đuổi, kể cả những thương gia giầu có, và những thanh niên tài năng nhiều tham vọng, trong đó có cả thống chế Trương Học Lương của Mãn Châu. Mỹ Linh tuyên bố thà ở giá còn hơn làm vợ một trọc phú. Về chính trị thì Mỹ Linh thường chê bà chị Khánh Linh quá lãng mạn, và bênh vực hành động tàn sát của Tưởng tại Thượng Hải năm 1927, vì cho rằng chỉ có phe cộng sản và giai cấp hạ lưu bị thiệt thòi.
Trước mắt Mỹ Linh, Tưởng là một người có nhiều tiền không thua kém gì các tay đại triệu phú khác. Hơn nữa, Tưởng lại có quyền hành. Thực ra Mỹ Linh không quan tâm lắm đến tiền bạc như bà chị Ái Linh. Ái Linh lớn lên trong lúc! Tống Giáo Nhân đang ra công xây dựng sản nghiệp và chắt chiu tiền bạc. Ái Linh cũng mang hằn dấu vết ham tiền của ông bố. Vào thời Khánh Linh thì nhà họ Tống đã giầu sang lắm rồi, và tâm hồn Tống Giáo Nhân không còn bần tiện tham lam như thuở còn nghèo. Tâm tình này phản ảnh ở lòng thương xót những kẻ bần cùng của Khánh Linh. Khi Mỹ Linh lớn lên thì thì tài sản nhà họ Tống đã bảo đảm lắm, và nàng coi tiền như một tiện nghi, chứ không phải là một mục tiêu đi tìm kiếm. Mỹ Linh là người hăng hái và có nhiều ý tưởng mới, nhưng phạm vi hoạt động của nàng rất giới hạn, không thể tự hoàn thành được những điều ước muốn.
Tưởng Giới Thạch có thể dâng hiến cho Mỹ Linh quyền hành mong muốn. Đối với Tưởng, quyền hành có nghĩa là khả năng kiểm soát được hoàn cảnh và con người. Đối với Mỹ Linh thì quyền hành là sức mạnh. Tưởng đã cống hiến Mỹ Linh cơ hội làm những thay đổi lịch sử, thay đổi đời sống của Trung hoa theo ý chí của nàng. Mỹ Linh rất thích người khác phải khâm phục và vâng lời mình. Người Trung hoa nhận xét về ba chị em nhà họ Tống như sau: “Một người yêu tiền bạc, một người yêu quyền hành và một người yêu nước Trung hoạ”
Vì quá hăng say bày tỏ quyền hành mới có, Mỹ Linh đã đẩy Tưởng vào thế khó xử với Lục Hội ngay sau tuần trăng mật. Lúc đó phần đông các nhân vật quan trọng tại Trung hoa, kể cả Tưởng Giới Thạch, phải đóng tiền bảo vệ cho Lục Hội. Mỹ Linh coi việc nộp tiền cho Lục Hội như thế là một điều sỉ nhục, không còn uy quyền gì nữa. Mỹ Linh lý luận với Tưởng rằ! ng bây g! iờ Tưởng là người mạnh nhất Trung hoa thì không cần phải đóng tiền bảo vệ nữa. Mỹ Linh rất hãnh diện về dòng họ Tống nhà mình, và không ngờ rằng chính Tống Tử Văn vẫn phải đóng tiền bảo vệ nàng cho Lục Hội.
Tưởng nghe vợ nói cũng siêu lòng. Sau tuần trăng mật trở về Thượng Hải, một hôm Tưởng phải đi họp và đến chiều tối mới về. Trong lúc Mỹ Linh ở nhà thì được một chiếc xe Rolls- Royce sang trọng có tài xế và một người đầy tớ gái đến đón Mỹ Linh về nhà thăm bà chị Ái Linh. Mỹ Linh bước lên xe đi, nhưng không bao giờ về tới nhà bà chị Ái Linh. Khi Tưởng Giới Thạch trở về không thấy vợ đâu thì lo âu vô cùng. Tưởng cầm điện thoại gọi cho Tống Tử Văn. Tống Tử Văn hiểu ngay sự việc gì đã xảy ra. Tống liền gọi một số điện thoại đặc biệt chỉ một số rất ít người biết, và được giọng nói của Bố già Đỗ Đại Nhĩ trả lời. Đỗ Đại Nhĩ lạnh lùng nói:
“Bà Tưởng vẫn bình yên và mạnh khoẻ như thường. Người của Lục Hội gặp bà sáng nay đi lang thang tại những nơi nguy hiểm mà chỉ có một người đầy tớ gái theo hầu. Vì sự an toàn của bà Tưởng, Lục Hội đã phải đưa bà về một biệt thự sang trọng và đối xử với bà vô cùng lễ độ vì địa vị tôn quý của bà là vợ của nhà lãnh đạo quốc gia. Tuy mọi người hết sức làm bà vui lòng, nhưng dường như bà rất bất bình và không chịu ăn uống gì cả. Ch�! �ng tôi ! rất tiếc rằng Tưởng tướng quân quá bận rộn công việc quốc gia đại sự, không săn sóc bảo vệ cho chính mình và bà vợ được. Đó là một việc vô cùng bất cẩn trong một thành phố nguy hiểm như Thượng Hải. Bây giờ ông nên lại đây ngay, làm một vài thủ tục thông thường, nhưng cần thiết cho sự an toàn của em gái ông.”
Tống Tử Văn toát mồ hôi trán, vội vàng chạy lại tư dinh của Bố già Đỗ Đại Nhĩ lúc nào cũng được canh gác vô cùng cẩn mật, để dẫn cô em gái đang được “Săn sóc” tại đó và đưa về cho Tưởng Giới Thạch. Đó là một thông điệp rõ ràng: Đỗ Đại Nhĩ giật sợi giây xích trên cổ Tưởng để nhắc cho Tưởng biết bổn phận của Tưởng đối với Lục Hội. Khi kết hôn với Tưởng Giới Thạch, Mỹ Linh không biết rằng mình sẽ phải làm dâu cho cả “Gia đình” của Tưởng. Nhưng Ái Linh và Khổng Tường Hy biết. Khánh Linh và Tống Tử Văn cũng biết. Mãi đến khi bị bắt cóc Mỹ Linh mới hiểu rằng từ nay Đỗ Đại Nhĩ là Bố già của mình.
Chương 014
Hai Chị Em, Hai Chiến Tuyến
Cuộc sống của Khánh Linh tại Mạc tư khoa ngày càng đen tối, ảm đạm, cô đơn giữa cảnh thiếu thốn và cái lạnh khủng khiếp. Đến tháng 12- 1927, lấy lý do tham dự hội nghị của Mặt Trận Chống Đế quốc tại Brussels, thủ đô nước Bỉ, Khánh Linh trốn khỏi Nga sộ Tại Brussels tháng 12- 1927, Khánh Linh được bầu làm Chủ Tữch Danh Dự của Mặt Trận. Trong số những người ngồi cùng bàn chủ tọa với Khánh Linh, người ta thấy có nhà bác học Albert Einstein, văn hào Maxim Gorky, chánh khách Nehru của Ấn Độ…
Trong dịp này, nhà văn Romain Rolland viết về Khánh Linh như sau: “Bạn tưởng bà Tống Khánh Linh xuất chúng của chúng ta chỉ là một bông hoa đẹp hương thơm tỏa khắp thế giới hay sao? Không, không! Bà chính là một con sư tử đang phá tung tất cả mọi màng lưới.” Sau hội nghị
Khánh Linh để hết tâm trí vào hoạt động phong trào chống phát- xít và chống đế quốc. Bà được bầu làm chủ tịch phong trào này hai lần. Bà gặp lại người đồng chí thân tín Đặng Diễn Đạt. Hai người nỗ lực thành lập Lực Lượng Thứ Ba để cho người Trung hoa một lựa chọn mới, ngoài Quốc dân đảng và cộng sản.
Tại Nam Kinh, Quốc dân đảng đang tìm cách đánh lừa Khánh Linh trở về Trung hoa bằng cách tổ chức lễ chuyển hài cốt của Tôn Dật Tiên, từ Bắc Kinh về chôn tại ngọn Bích Sơn bên ngoài thành Nam Kinh, theo đúng ý nguyện của Tôn Dật Tiên lúc còn sống. Việc làm này vừa lôi kéo được Khánh Linh trở về, vừa có lợi chính trị cho Tưởng Giới Thạch. Tưởng đang ra công tu bổ cải tiến Nam Kinh, và đổi danh hiệu B! ắc Kinh thành Bắc Bình. Nam Kinh trở thành thủ đô chính thức của Trung hoa dưới thời Quốc dân đảng.
Tưởng ra lệnh cho Tống Tử Lương, người em trai trong gia đình nhà họ Tống sang Bá Linh tìm và khuyên bà chị Khánh Linh trở về Trung hoa. Khánh Linh biết rõ thâm ý của Tưởng Giới Thạch nên trước khi rời Bá Linh, bà ra một thông cáo khẳng định bà trở về Trung hoa là để tham dự lễ chuyển hài cốt của Tôn Dật Tiên, và bà rút ra khỏi mọi hoạt động chính trị của Quốc dân đảng. Bà cũng tố cáo Quốc dân đảng hiện nay đã đi ngược các nguyên tắc căn bản của Tôn Dật Tiên, chồng bà và cũng là người sáng lập ra Quốc dân đảng.
Khi Tống Tử Lương hoảng sợ và phản đối bản thông cáo của bà chị thì Khánh Linh nghiêm khắc nói với em, “Nhà họ Tống phải phục vụ Trung hoa chứ Trung hoa không phải phục vụ gia đình nhà họ Tống.” Bà dùng xe lửa đi ngang qua Nga sô để trở về quê hương. Tới địa điểm đầu tiên của Trung hoa, bà được rất đông dân chúng đến chào mừng. Tưởng Giới Thạch tổ chức lễ đón tiếp Khánh Linh rất trọng thể. Khánh Linh cho đó là mục đích tuyên truyền của Tưởng và tuyên bố với các ký giả:
“Đã có sự phản bội và xuyên tạc hoàn toàn phong trào quốc gia. Sự phản bội cách mạng này do những người đã có liên hệ tới phong trào quốc gia. Những người này đang cố gắng lôi kéo Trung hoa đi vào con đường nghèo khó quen thuộc để mưu đồ cho quyền lực cá nhân.”
! Khi tới Bắc Kinh, Khánh Linh lặng lẽ tránh mọi người trong gia đình nhà họ Tống. Khi tới ngọn núi Bích Sơn giữa khí hậu nóng nực ẩm thấp, bà phải trèo lên ngọn núi và chịu đựng những lễ nghi rất dài cho tới lúc nhìn thấy quan tài của chồng được yên nghỉ thì bà trốn về Thượng Hải. Trong hai tháng đầu, bà giữ im lặng. Đến đầu tháng 8, bà công bố một bản tuyên cáo chống lại Tưởng Giới Thạch, dưới hình thức một bức điện tín gửi sang Bá Linh.
.”.. Chính phủ phản động Nam Kinh đang kết hợp với lực lượng đế quốc trong những cuộc đàn áp dã man chống lại quần chúng Trung hoa. Chưa bao giờ sự phản bội của các nhà lãnh đạo Quốc dân đảng phản động lại tỏ lộ một cách vô sỉ trước thế giới như hiện naỵ Vì đã phản lại công cuộc cách mạng quốc gia, họ tất nhiên sẽ trở thành công cụ của đế quốc và tìm cách gây chiến với Nga sộ Nhưng quần chúng Trung hoa sẽ đứng về phía cách mạng. Sự khủng bố sẽ chỉ giúp động viên quần chúng và củng cố quyết tâm của chúng ta tới chiến thắng.”
Tưởng và Bố già Đỗ Đại Nhĩ rất căm phẫn bản tuyên cáo của Khánh Linh. Người ta lo ngại rằng chưa bao giờ Khánh Linh gần cái chết như thế. Khi bản tuyên cáo được in ra và phát tại đường phố thì các người phân phát bị bắt ngaỵ Đã có những cuộc trả thù tại Nam Kinh. Khi một người bạn hỏi Khánh Linh cảm thấy thế nào về sự đàn áp bộc phát, bà để tay lên ngực và trả lời, “Tôi cảm thấy thoải mái trong lòng vì chính tôi đã gửi bản tuyên cáo này. Điều gì sẽ xảy ra cho cá mhân tôi vì việc làm này không quan trọng đối với tôi.” Nhà của bà bị canh gác, và những người đến thăm bà đều bị theo dõi. Ngay lúc đó một tờ truyền đơn sau đây xuất hiện:
Bán Thông Cáo Đẫm Nước Mắt Gửi Cho 400 Triệu Đồng Bào
“Sau chiến dịch chinh phạt miền bắc của lực lượng cách mạng năm ngoái, Tưởng Giới Thạch, vốn là một tên tống tiền, đã dùng danh nghĩa Quốc dân đảng và nhà lãnh tụ Tôn Dật Tiên để chiếm quyền hành.” “Tưởng Giới Thạch đã hành động như vua Kiệt vua Trụ là hai hôn quân giết cả những ai thì thầm… Nhiều loại công khố phiếu đã được dùng cho tài sản riêng của cá nhân Tưởng Giới Thạch. Tiền của hắn bỏ vào ngân hàng ngoại quốc lên tới 50 triệu đô la… Ngân khoản hàng năm để nhập cảng đồ dùng trong cầu tiêu của Tống Mỹ Linh, người vợ bất hợp pháp của hắn, lên tới 4 triệu đô lạ Mỗi tờ giấy đi cầu của mụ ta được chế tạo có chất thuốc tốn kém tới 20 triệu đô lạ Đôi giầy của mụ ta làm bằng kim cương tốn phí 800 ngàn đô la và một bộ áo đáng giá 500 ngàn. Chưa bao giờ có một sự xa phí đến như thế… “
Thực ra tờ truyền đơn này hơi phóng đại sự thực. Mỹ Linh có một chứng bệnh ngoài dạ Da Mỹ Linh ửng đỏ từng chỗ mỗi khi bà hoảng hốt hoặc tức giận. Tính khí Mỹ Linh rất nhạy cảm nên thường hay thảng thốt. ! Một bu�! ��i chiều, đầy tớ phải thay áo lót cho cho Mỹ Linh ít là vài lần. Đây là cuộc chiến giữa hai chị em nhà họ Tống, nhưng phần yếu thế về phía Khánh Linh. Kẻ thù của Khánh Linh gồm có chính phủ Nam Kinh, Đỗ Đại Nhĩ, chị và các em của chính bà. Nhưng bà biết rằng kẻ thù đáng sợ nhất của bà lại chính là những người họ Tống. Bà biết những người này chẳng từ một điều gì mà không làm.
Khánh Linh sang Bá Linh một thời gian ngắn để bàn thảo cùng Đặng Diễn Đạt. Khánh Linh khuyên Đặng Diễn Đạt nên về hoạt động ngay tại Trung hoa, thành lập Lực Lượng Thứ Ba ngay tại Thượng Hải. Đặng lén trở về Thượng Hải và lôi cuốn được nhiều người tại khắp Trung hoa, những người không thích cộng sản và khinh bỉ Quốc dân đảng. Đôi khi Đặng xuất hiện trước đám đông, lên án chính phủ Nam Kinh đã phản lại quần chúng, và trở thành công cụ cho quân phiệt, địa chủ và tài phiệt.
Người Trung hoa tưởng đã có được một lựa chọn chính trị mới với Lực Lượng Thứ Ba của Đặng Diễn Đạt. Nhưng Tưởng và Bố già Đỗ Đại Nhĩ đã liên kết với lực lượng cảnh sát của Anh và Pháp trong khu tô giới, và tìm được chỗ trú ẩn của Đặng Diễn Đạt. Đặng bị bắt và giao cho mật vụ của Nam Kinh. Tưởng giam Đặng Diễn Đạt bên ngoài Nam Kinh và ra lệnh tra tấn ông ta trong nhiều tháng trời.
Khánh Linh cố gắng một cách tuyệt vọng để giải cứu Đặng Diễn Đạt. Bà thân hành tới Nam Kinh, xin gặp Tưởng và hạ mình năn nỉ Tưởng tha cho Đặnh Diễn Đạt. Tưởng ngồi im l�! �ng, khô! ng trả lời trong lúc Khánh Linh hết lời van xin. Cuối cùng Tưởng nói vắn tắt, “Tôi đã ra lệnh giết hắn rồi.” Thực ra ngày 29- 11- 1931, Đặng Diễn Đạt bị lôi ra khỏi phòng giam, và bị thắt cổ bằng giây kẽm gai. Các tay đao phủ của Tưởng rất thiện nghệ thắt cổ nạn nhân rất từ từ, kéo dài cả giờ để nạn nhân nếm mùi đau khổ. Lúc Khánh Linh năn nỉ Tưởng thì Đặng Diễn Đạt đã chết từ nhiều ngày trước rồi. Khánh Linh rất đau lòng. Khi trở về Thượng Hải, bà tố cáo vụ ám sát chính trị này:
“Ngày nay không còn dấu diếm được sự kiện Quốc dân đảng đã mất tư thế là một tổ chức cách mạng. Quốc dân đảng đã bị hủy diệt, không phải do kẻ thù bên ngoài, mà là do chính các nhà lãnh đạo của đảng. Cách mạng bây giờ chỉ là tàn sát và khủng bố. Dưới chiêu bài chống cộng, Quốc dân đảng tiếp tục các hoạt động phản cách mạng. Những người trung thành với cách mạng thì bị tra tấn cho đến chết, như trường hợp của Đặng Diễn Đạt, một người cương quyết, nhẫn nại, trung thành và can đảm.”
***
Trái với Khánh Linh, một người bị săn đuổi hăm dọa tứ phía, Mỹ Linh đã trở thành một sức mạnh trong hậu trường chính trị. Người của Tưởng Giới Thạch biết được tính tình hay thay đổi và kiêu hãnh của Mỹ Linh, thường lấy lòng Mỹ Linh bằng những nghi lễ rất long trọng. Ánh hưởng của Mỹ Linh đối với Tưởng trong hai chục năm đầu lên xuống tùy theo lòng trung thành của Tưởng, và sự thành công của bà tạo được sự ủng hộ của ngoại quốc cho chế độ của Tưởng. Mỹ Linh đã viết những bài báo dài đăng trên các tạp chí Mỹ có lợi cho Tưởng.
Hai năm sau ngày cưới, Mỹ Linh nhắc lại lời hứa rửa tội theo đạo Thiên Chúa của Tưởng. Mỹ Linh không còn chờ lâu được nữa. Thân mẫu bà đã 61 tuổi rồi, và sức khoẻ suy kém. Một điều nhiều người ngạc nhiên là bà Tống Giáo Nhân về sau lại đặc biệt quý chàng rể út họ Tưởng nhất. Bà nghĩ rằng thiên mệnh đã đặt vào gia đình nhà họ Tống, vì liên tiếp hai con gái bà, Khánh Linh và Mỹ Linh, đã đạt được địa vị mẫu nghi thiên hạ. Nhà họ Tống có hai người con rể nối tiếp nhau làm tổng thống nước Trung hoa. Bà cho đó là đặc ân của gia đình bà.
Ngày 23- 10- 1930, Tưởng rửa tội tại nhà thờ Tống Charliẹ Quần chúng Trung hoa vô cùng kinh ngạc trước tin này, nhưng người Mỹ thì rất hoan hỉ. Sau tám năm chống đạo Thiên Chúa một cách cực đoan tại Trung hoa, thì bây giờ với sự rửa tội của Tưởng, công việc của các nhà truyền giáo có vẻ thuận lợi rõ rệt! . Mục tiêu rửa tội của Tưởng vẫn còn là một bí ẩn, nhưng bà Tống Giáo Nhân thì rất đỗi hài lòng. Năm 1931, bà từ trần trong niềm mãn nguyện.
Những bài báo của Mỹ Linh về những vấn đề quốc sự Trung hoa, sự chiến đấu chống lại những sứ quân phong kiến và cộng sản của Quốc dân đảng, và về những viện mồ côi, đã gây được một ấn tượng tốt về Trung hoa tại ngoại quốc. Một chuyên viên Úc châu, W. H. Donald, được mời trở lại làm cố vấn cho Quốc dân đảng. Donald đã thành thực chỉ trích sự hiểu biết rất giới hạn của Tưởng và Mỹ Linh về Trung hoa. Theo Donald thì Tưởng biết rất ít về đất nước của mình, chưa đi hết các tỉnh. Tưởng có thể giỏi đối phó với các sứ quân và chỉ huy quân đội, nhưng Tưởng không biết dân chúng Trung hoa đang nghĩ gì và muốn gì. Tưởng hoàn toàn tùy thuộc vào những báo cáo của thuộc hạ, và chỉ ngồi trong văn phòng rồi ra mệnh lệnh.
Trong khi đó thì tại biên giới hai tỉnh Giang Tây và Phúc Kiến, Mao Trạch Đông đang xây dựng một nước cộng hòa sô viết với sự hậu thuẫn của nông dân. Mao thành công lôi cuốn được sự ủng hộ của nông dân, và như vậy Tưởng rất khó mở một cuộc chiến tranh thắng lợi chống lại cộng sản và thống nhất đất nước. Tưởng không có khả năng kêu gọi được sự hưởng ứng của quần chúng. Trái lại Tưởng còn có những hành động rất phản tuyên truyền. Một hôm Tưởng đến một làng hẻo lánh và trông thấy một người dùng lá quốc kỳ quấn ngang lưng. Khi được hỏi tại sao xúc phạm đến quốc kỳ như thế, người đó tự nhận là một đồ tể chuyên nghề giết! heo, và! cho biết quấn quốc kỳ ngang lưng như vậy là vì quốc kỳ màu đỏ nên máu heo có dính vào cũng không làm hoen ố thêm. Tưởng giận sùi bọt mép, và đòi treo cổ bác đồ tể đó ngay.
Mỹ Linh không có ảnh hưởng gì đối với người Trung hoa. Bà chỉ được người ngoại quốc chú ý. Mỗi khi đi đâu, bà chỉ thường nói chuyện với các nhà truyền giáo, các hội quán phụ nữ. Cuối năm 1933, Mỹ Linh nhất định đòi ra mặt trận tại vùng Giang Tây. Lúc đó lực lượng cộng sản đang chịu những tổn thất to lớn sau những chiến dịch tiêu diệt của Tưởng. Nhưng quân của Tưởng không đủ sức đuổi cộng quân ra khỏi căn cứ địa an toàn của họ. Khi không có sự hiện diện của quan sát viên ngoại quốc, quân đội của Tưởng tàn phá làng mạc, đốt ruộng vườn và xử tử những nông dân nào không chịu bỏ làng ra đi. Khi Mỹ Linh đến thì bà được báo cáo rằng những sự tàn phá đó là do cộng sản gây ra. Mỹ Linh không tiến xa hơn nữa để biết rõ sự thực.
Các chiến dịch cuối cùng của Tưởng do tướng von Seeckt của Đức quốc xã chỉ huy tỏ ra thành công. Hitler rất thích chủ trương của Tưởng chỉ nhằm tiêu diệt cộng sản trong nước hơn là đương đầu với quân xâm lăng Nhật Bản.
Tướng von Seeckt dùng một chiến thuật rất tốn kém khiến Tưởng càng ngày càng phải đòi thêm tiền từ bộ trưởng tài chánh Tống Tử Văn. Hans von Seeckt đã đòi Tưởng phải xây hàng t! răm dậ! m đường xa lộ tiến vào an toàn khu của cộng sản tại Giang Tây, xây những pháo đài, rồi đưa xe tăng tấn công quân cộng sản cùng với sự yểm trợ của pháo binh và không quân. Chiến dịch của Hans von Seeckt gây nạn đói cho dân chúng trong vùng cộng sản. Tưởng tung vào trận đánh 700 ngàn quân để chống lại 150 ngàn quân cộng sản. Kết quả là 60 ngàn quân cộng sản bị tiêu diệt và trên một triệu dân chúng bị giết hoặc chết đói. Cuối cùng Mao Trạch Đông và hồng quân của khu sô viết Giang Tây phải bỏ căn cứ, làm một cuộc chạy trốn lên vùng núi non hoang giá của Thiểm Tây, lập căn cứ mới và chờ cơ hội phục thù. (Xin đọc cuốn Vạn Lý Trường Chinh, cũng của Nguyễn Vạn Lý.)
Phong Trào Đời Sống Mới và Đạo Quân Áo Xanh
Trong một cuộc họp với các nhà truyền giáo, Mỹ Linh biết chính phủ Nam Kinh muốn có được sự ủng hộ tài chánh của tây phương thì Tưởng cần phải đưa ra những chương trình xã hội. Mỹ Linh lập tức nắm lấy cơ hội này và thành lập Phong Trào Đời Sống Mới. Mỹ Linh bắt đầu bằng bốn đức tính của người Trung hoa: Lịch sự – phụng sự – lương thiện – danh dự. Mỹ Linh thay đổi những đức tính này cho giống với quan niệm của giới trung lưu tại Hoa kỳ. Phong Trào Đời Sống Mới của Mỹ Linh rất giống với nguyên tắc sống lịch sự của người Mỹ, và dùng những khẩu hiệu kêu gọi người Trung hoa theo một nếp sống mới. Những khẩu hiệu này gồm có: Đừng khạc nhổ, An toàn trước đã, Coi chừng bước chân, Giữ tay mặt, Sắp hàng tại đây, Không k! hí mát ! và ánh nắng mặt trời, Đánh răng, Uống sinh tố, Yêu quý láng giềng, Tiết kiệm…
Nhiều người Trung hoa đã là nạn nhân của Phong Trào Đời Sống Mới. Từng nhóm hướng đạo sinh mang theo những thùng gỗ, đứng canh ngoài đường phố. Khi một người đi ngang qua mà đội nón bèo nhèo, miệng ngậm điếu thuốc lá thì lập tức một hướng đạo sinh chặn người đó lại, bước lên chiếc thùng gỗ, lột nón người đó ra, vuốt cái nón cho thẳng lại và giật điều thuốc từ miệng nạn nhân và liệng xuống rãnh nước. Xong rồi, người hướng đạo sinh kính cẩn chào nạn nhân, và bước xuống khỏi cái thùng gỗ và chờ nạn nhân khác.
Người Trung hoa rất khó chịu với cảnh như vậy, nhưng người ngoại quốc rất tán thưởng. Các viên chức chính phủ nhận biết chiến dịch này sẽ được lòng Tưởng phu nhân nên đều tích cực tham gia. Các tiểu đội cảnh sát đánh đập bất cứ ai dám khạc nhổ nơi công cộng. Khạc nhổ là một thói quen của người Trung hoa, và luật lệ mới của Phong Trào Đời Sống Mới bắt được rất nhiều người vi phạm mỗi ngày. Ngay cả những người không đi ngay ngắn cũng bị chỉ trích. Những người đi ăn nhà hàng mà uống thêm rượu, hoặc gọi quá nhiều món ăn và cho bồi tiền típ là lập tức bị lính lôi ra đường đánh đập, vì không theo khẩu hiệu Tiết Kiệm của bà Tưởng. Nhiều nhà hàng đã phải bán rượu bằng những bình trà để che mắt các hướng đạo sinh đứng canh chừng.
Những thiếu nữ dùng son! môi, ho! ặc mang nón và áo đầm thì bị cảnh sát giữ lại, rồi đóng dấu “Ăn Mặc Kỳ Cục” bằng mực đỏ lên người. Các thợ hớt tóc, uốn tóc cho khách hàng, hoặc bán những bộ đồ tắm hở hang, đều bị sỉ nhục trước đám đông. Các khẩu hiệu của Phong Trào Đời Sống Mới được viết khắp nơi, tận hang cùng ngõ hẻm. Tuy nhiên Phong Trào Đời Sống Mới cũng thực hiện được nhiều việc ích lợi, như vệ sinh công cộng, xây cống và phát triển hệ thống nước máy. Các tục lệ cổ hủ như đốt pháo, đốt vàng mã cho người chết bị cấm chỉ. Mọi người được khuyên phải rửa tay, rửa mặt ba lần một ngày, phải tắm gội ít nhất mỗi tuần một lần, phải rửa và luộc rau trước khi ăn, và không nên hút thuốc lá.
Mỹ Linh cố gắng không hút thuốc lá trước công chúng, cho đúng với những khẩu hiệu của bà trong Phong Trào Đời Sống Mới do chính bà phát động. Nhưng thực ra Mỹ Linh nghiện thuốc lá của Anh và hút liên miên tại nhà riêng, hoặc tại những nơi không ai trông thấy. Tưởng Giới Thạch cũng đứng sau hỗ trợ cho chiến dịch của vợ, kêu gọi nông dân không được khạc nhổ và bắt xe lửa phải chạy đúng giờ. Tưởng muốn quần chúng phải tuân theo kỷ luật, và không ngần ngại dùng hình phạt đánh đập tàn nhẫn những ai vi phạm lời kêu gọi của Phong Trào Đời Sống Mới. Phương châm của Tưởng có ba điều chính: Chủ nghĩa quốc gia, Tuyệt đối tin tưởng vào Lãnh Tụ Tối Cao, và Quân sự hóa quần chúng.
Tưởng rất khâm phục Hitler. Hitler tổ chức đạo quân Áo Nâu thì Tưởng cũng lập đạo quân Áo Xanh. Đạo quân Áo Xanh thoát thai từ tổ chức mật v! ụ của! hai anh em Trần Quả Phu và an ninh quân đội của Thái Lý. Trần Quả Phu thành lập được một hệ thống tình báo bao gồm hầu hết mọi ngành trong chính phủ. Thái Lý được coi là người đáng sợ nhất Trung hoa trong suốt hai mươi năm. Thoạt đầu Thái Lý là một phụ tá của Bố già Đỗ Đại Nhĩ. Sau đó Thái Lý vào học tại trường Hoàng Phố. Thái Lý được giao phó ngành phản gián chống lại Nhật Bản và cộng sản. Bề ngoài Thái Lý trông rất hiền lành, lúc nào cũng mỉm cười. Dưới quyền Thái Lý là một trăm ngàn nhân viên an ninh và hai trăm ngàn dân anh chị Lục Hội.
Hai tổ chức mật vụ của Trần Quả Phu và Thái Lý được đội quân Áo Xanh hỗ trợ. Đội quân Áo Xanh bắt chước đường lối đảng Hắc Long của Nhật. Nhiệm vụ của đội quân Áo Xanh là ám sát chính trị, thủ tiêu những “Kẻ thù của quốc gia.” Đội quân Áo Xanh chỉ có khoảng mười ngàn người và do các sĩ quan gốc Lục Hội chỉ huỵ Tất cả đều tham gia nghi lễ trích máu ăn thề.
Phong Trào Đời Sống Mới mà Mỹ Linh rất hãnh diện chỉ là sự tiếp nối của đội quân Áo Xanh, với mục đích kỷ luật hóa Trung hoa cho tham vọng của Tưởng và phe nhóm. Khi mật vụ của Trần Quả Phu tra tấn và thắt cổ Đặng Diễn Đạt thì không phải chỉ một mình Khánh Linh xúc động đau đớn. Nhiều nhà trí thức từng cộng tác với Tưởng, như viện trưởng đại học Bắc Kinh, tự nhận đã lầm đường, đang phục vụ giúp đỡ một con quái vật. Họ liên kết với Khánh Linh, nhưng cuối cùng phần lớn đều bị ám sát hoặc bị ghép vào những tội mà họ không hề phạm, và bị kết án tử hình. Sáu nhà văn trẻ, ! trong đ�! � có chồng của nhà văn nổi tiếng Đinh Linh, chống lại Tưởng bị đạo quân Áo Xanh bắt được. Sáu người bị bắt phải đào một cái hố rộng. Khi họ đào xong, họ bị những người Áo Xanh trói chân tay, liệng xuống hố và chôn sống.
Chương 015
Cuộc Xung Đột Trung, Nhật Tại Thượng Hải
Trong thời gian giữ chức bộ trưởng tài chánh cho chính phủ Nam Kinh, Tống Tử Văn đã đắc lực giúp Tưởng Giới Thạch về tài chánh bằng cách phát hành các công khố phiếu để thu hút tiền bạc của giới thương gia. Họ Tống đã phá hủy sức mạnh của tư bản Trung hoa, biến họ thành nô lệ cho chế độ độc tài của Tưởng. Công khố phiếu thu hút hầu hết tiền bạc của giới tư bản, và do đó tiềm năng phát triển kỹ nghệ của Trung hoa bị ảnh hưởng tai hại. Khi Khổng Tường Hy lên giữ chức bộ trưởng tài chánh thay Tống Tử Văn thì tất cả công trình thuế khoá của Tống Tử Văn đều sụp đổ, và các tỉnh trở lại đường lối thu thuế cũ. Lúc đó không còn những vụ tống tiền một cách lộ liễu như năm 1927 nữa, nhưng vẫn còn sự ép buộc giới thương gia phải cúng tiền cho Tưởng. Tuy vậy, lợi tức thu được vẫn không đủ cho Tưởng phát động những chiến dịch tiễu trừ cộng sản. Tống Tử Văn yêu cầu tiết giảm quân phí, và đòi thành lập Ủy ban Ngân sách với sự hậu thuẫn của các nhà tư bản Thượng Hải. Tưởng đành phải thiết lập Ủy ban này, nhưng với thành phần là các sứ quân, như Tưởng, Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn và Lý Tông Nhân. Tống Tử Văn là người dân sự duy nhất trong ủy ban. Khi quân đoàn Bắc Phạt tiến tới Bắc Kinh thì các sứ quân say men chiến thắng càng mặc sức vơ vét tiền bạc. Tưởng bắt các ngân hàng cho vay ba triệu, và bắt Tống Tử Văn phải lên Bắc Kinh gây quỹ 50 triệu cho chính phủ bằng cách bán công khố phi�! ��u. Trung hoa hoàn toàn nằm trong tay các sứ quân tham lam, luôn luôn đòi hỏi tiền cho những lính ma và các chiến dịch ma của họ.
Khi các nhà tư bản Thượng Hải tìm cách chống lại Tưởng thì lập tức một cuộc biểu tình tràn vào cơ sở của phòng Thương mại, cướp phá tài sản và cuối cùng phòng Thương mại được tái lập với người và đường lối của Bố già Đỗ Đại Nhĩ.
Năm 1931 khi sứ quân Trương Tác Lâm của Mãn châu đi hàng hai, không chịu hợp tác hẳn với người Nhật thì xe lửa của họ Trương bị phe quá khích Nhật giật mìn nổ. Con trai là thống chế Trương Học Lương lên thaỵ Người Nhật ám sát Trương Tác Lâm với hy vọng Trương Học Lương sẽ hợp tác với Nhật. Nhưng khi Trương Học Lương quyết định liên kết với Nam Kinh thì Nhật chiếm những khu vực kỹ nghệ giầu tài nguyên của Mãn châu, và sát nhập vào Triều Tiên. Quần chúng Trung hoa vô cùng phẫn nộ thái độ thờ ơ của Tưởng Giới Thạch trước sự xâm lăng trắng trợn của Nhật Bản. Tưởng chỉ yêu cầu quần chúng phải “Giữ một sự bình tĩnh xứng đáng.”
Quần chúng nổi loạn, phá các cơ sở thương mại Nhật Bản tại Thượng Hải, và yêu cầu chính phủ phải tuyên chiến với Nhật. Tưởng vẫn hoàn toàn im lặng. Người ta cho rằng giữa Tưởng và Nhật đã có một thỏa hiệp mật. Ngoài ra Bố già Đỗ Đại Nhĩ và gia đình Tống Mỹ Linh có liên hệ thương mại mật thiết với người Nhật. Trong những trường hợp khó khăn như vậy, Tưởng chỉ đề nghị áp dụng nguyên tắc của môn võ công Thái Cực, nghĩ! a là khi! kẻ địch áp lực mạnh, ta chỉ nên đứng né sang một bên để kẻ địch mất đà và tự ngã.
Lần này dường như quần chúng không chấp nhận sách lược thụ động của Tưởng, vì chờ đợi mãi kẻ thù vẫn chưa tự ngã. Quần chúng tự động đứng lên tẩy chay hàng hóa Nhật. Giữa tháng 1 năm 1932, năm nhà sư Nhật bị dân chúng Trung hoa hành hung ngoài đường phố, một người bị tử thương sau đó. Một toán dân Nhật bạo động trả thù, kết quả là một cảnh sát Trung hoa và một người Nhật thiệt mạng. Ngày 18- 1, năm người Nhật bị đón đánh bên ngoài một nhà máy dệt khăn. Hai hôm sau, năm mươi thanh niên Nhật vũ trang kiếm và gậy đi trả thù. Toán người Nhật nổi lửa đốt cháy một nhà máy dệt khăn, và hai người Trung hoa tử nạn.
Chính phủ Nhật chính thức đòi Trung hoa phải xin lỗi, trả phí tổn chữa trị cho nạn nhân Nhật, và giải tán các tổ chức bài Nhật. Tới ngày 24- 1, chiến hạm Nhật tiến vào Thượng Hải. Hai ngày sau, trong lúc thị trưởng Thượng Hải chưa trả lời thì lãnh sự Nhật ra tối hậu thư, và thông báo cho các lực lượng ngoại quốc tại Thượng Hải biết quân Nhật sẽ tấn công thành phố ngày 28- 1 nếu không được thị trưởng Thượng Hải trả lời thỏa đáng. Hội đồng thành phố Thượng Hải tuyên cáo tình trạng khẩn cấp. Trong hoàn cảnh đó, Tưởng Giới Thạch vẫn giữ im lặng, vẫn theo đuổi nguyên tắc của võ công Thái Cực, mặc dù quân đội của Tưởng đông hơn quân Nhật. Tưởng chỉ kêu gọi hội Quốc Liên can thiệp và dời chính phủ Nam Kinh tới một địa điểm an toà! n hơn.
Đô đốc Nhật Shioza
a tuyên bố, “Người Trung hoa chỉ biết kinh sợ sức mạnh thôi.” Việc tấn công Thượng Hải có mục đích bắt người Trung hoa phải khiếp sợ và phục tùng Nhật Bản. Nhưng chính tại đây, người Nhật đã đụng phải sức kháng cự anh dũng của Lộ quân 19 dưới quyền chỉ huy của tướng Thái Đình Khải. Lộ quân 19 tự động chiến đấu bảo vệ Thượng Hải không do lệnh của Tưởng. Lộ quân 19 di chuyển từ Quảng Đông và được lệnh đóng tại Thượng Hải để phục vụ cho Bố già Đỗ Đại Nhĩ. Nhưng khi quân Nhật tấn công Thượng Hải thì mọi người kinh ngạc trước sự chiến đấu dũng cảm của lộ quân này. Tướng Thái Đình Khải tuyên bố, “Quân Nhật có tất cả sức mạnh của chiến tranh hiện đại. Họ có chiến xa, pháo binh, phi cơ và một hạm đội mạnh nhất Á Châu, trong khi chúng tôi chỉ có súng trường và súng máy. Nhưng sự kháng chiến của chúng tôi được xây dựng trên nguyên tắc căn bản: Quyền của bất cứ dân tộc nào tự bảo vệ chống lại ngoại xâm, đe dọa sự sống còn của quốc gia họ. Quân sĩ thuộc Lộ quân 19 biết rất rõ điều này, và họ chiến đấu với một tinh thần rất cao.”
Lộ quân 19 có 45 ngàn binh sĩ tham dự cuộc cách mạng quốc gia năm 1926, và là lộ quân đầu tiên tại Trung hoa và gồm những quân nhân tình nguyện. Lộ quân 19 được coi là đạo quân thiện chiến nhất tại vùng hạ lưu sông Dương Tử. Khi Tưởng Giới Thạch lợi dụng thời cơ chiếm đoạt Thượng Hải th! ì lộ q! uân 19 bất mãn, nhưng vốn là những quân nhân có kỷ luật, họ tuân lệnh rút ra khỏi Thượng Hải. Khi quân Nhật tiến vào Thượng Hải thì họ quay trở lại trong quyết tâm bảo vệ Thượng Hải. Trong hai ngày đầu, toàn thể Trung hoa nức lòng ủng hộ họ, theo dõi sự chiến đấu dũng cảm của những đứa con yêu của tổ quốc. Hàng ngàn thanh niên tìm đến hỗ trợ cho Lộ quân 19.
Cuộc chiến diễn ra dữ dội tại từng đường phố. Quân Nhật phải mất 34 ngày hành quân, huy động cả hải quân, không quân và 65 ngàn lục quân mới đẩy lui được Lộ quân 19 ra khỏi Thượng Hải. Lộ quân 19 bị thiệt hại nặng, phân nửa lực lượng bị tiêu diệt và cần phải được tăng cường gấp rút. Trong lúc Lộ quân 19 chiến đấu chống lại một lực lượng địch quá chênh lệch về sức mạnh thì quân đội gồm hai triệu người của Tưởng án binh bất động, đứng nhìn Lộ quân 19 chiến đấu và sắp tan rã. Tưởng hứa tăng cường 100 ngàn quân cho Lộ quân 19, nhưng về sau chỉ phái hai sư đoàn 87 và 88, tổng cộng chỉ có 15 ngàn quân. Hai sư đoàn này mới thành lập chưa có kinh nghiệm tác chiến, và bị tiêu diệt hai phần ba lực lượng.
Tống Tử Văn phải tung đạo quân thu thuế 30 ngàn người của mình vào chiến trường để trợ giúp Lộ quân 19. Tuy vậy phía Trung hoa không chống lại được sức mạnh của quân Nhật có vũ khí quá tối tân. Vào lúc ngưng bắn ngày 3- 3- 1932 thì 600 ngàn người Thượng Hải trở thành dân tỵ nạn, sự buôn bán ngưng trệ hẳn, lợi tức suy giảm 75 phần trăm, 900 cơ xưởng kỹ nghệ và thương mại bị phá hủy, một sự thiệt hại lên tới 170 triệu.
�! �ứng tr! ước sự tàn phá khủng khiếp của trận chiến, Tống Tử Văn phải tuyên bố, “Nếu Trung hoa phải lựa chọn giữa cộng sản và quân phiệt Nhật Bản thì Trung hoa phải đi theo cộng sản.” Tống Tử Văn rất căm phẫn và tủi nhục khi Trung hoa bị Nhật Bản xâm lăng, thoạt đầu là Mãn châu, và bây giờ là Thượng Hải, trong lúc đó hội Quốc Liên không hề lên tiếng can thiệp. Lời tuyên bố nẩy lửa của Tống Tử Văn đã đưa ông vào vị trí chống đối lại Tưởng Giới Thạch.
Đối với Tưởng thì mối lo tâm phúc là cộng sản, và luôn luôn đòi tiền để chi dùng cho những chiến dịch tiễu trừ quân cộng sản. Tống Tử Văn và giới tài phiệt Thượng Hải rất bất mãn, cho rằng Tưởng đã không nhìn thấy mối nguy thực sự là Nhật Bản. Giới tài phiệt đứng lên tổ chức Phong Trào Chống Nội Chiến, và chống lại việc dùng quân sự để giải quyết những vấn đề chính trị nội bộ. Tuy nhiên Phong trào này không đạt được kết quả mong muốn.
Lộ quân 19 được quần chúng kính phục như những vị anh hùng và Tưởng Giới Thạch rất khó chịu sự kiện này. Tưởng liền ra lệnh cho Lộ quân 19 tiến vào vùng Phúc Kiến để đương đầu với quân du kích cộng sản. Khi đẩy Lộ quân 19 anh hùng ra khỏi Thượng Hải, Tưởng muốn mượn du kích cộng sản tiêu diệt dần đơn vị được quần chúng ngưỡng mộ. Tống Tử Văn bất mãn và từ chức. Nhưng Tưởng không thể để mất một cây tiền như Tống Tử Văn, và đi đến một sự dung hoà là Tống Tử Văn vẫn tiếp tục giữ bộ trưởng tài chánh, và được kiêm thêm chức phó thủ tướng, và được thực sự nắm quyền thủ tướng. Thủ tướng Uông Tinh Vệ phải tuyên bố từ chức vì lý do sức khoẻ, cần phải đi điều trị tại ngoại quốc, và Tống Tử Văn đảm nhiệm chức vụ quyền thủ tướng.
Trong khi đó quân Nhật tại Mãn châu đang cố gắng chiếm thêm những vùng đất của tỉnh Hồ Bắc, với danh nghĩa là dẹp quân cộng sản. Tống Tử Văn cực lực chống lại sự xâm lăng của quân Nhật, và mở chiến dịch tẩy chay hàng hóa Nhật tại khắp lãnh thổ Trung hoa, và lên án hội Quốc Liên làm ngơ trước sự xâm lăng trắng trợn của Nhật. Khi quân Nhật tấn công Hồ Bắc thì chính Tống Tử Văn đã đích thân lên Hồ Bắc để đối phó với tình thế cùng thống chế Trương Học Lương, trong lúc Tưởng Giới Thạch vẫn im lặng một cách khó hiểu.
Tống Tử Văn trở về Thượng Hải, mở một cuộc bán công phố phiếu để tài trợ cuộc chiến đấu kháng Nhật. Nhưng Tưởng đã ra lệnh rút quân khỏi thủ phủ Hồ Bắc, bỏ mặc cho quân Nhật tiến chiếm. Đúng lúc đó, Uông Tinh Vệ được thông báo đã khỏi bệnh, và trở về nắm lại chức thủ tướng từ tay Tống Tử Văn, và ký một hiệp ước đình chiến với Đông Kinh. Hòa ước này thực ra chỉ là một sự đầu hàng và dâng tỉnh Hồ Bắc cho Nhật Bản.
Tống Tử Văn được một nhà xuất bản Mỹ mời qua Hoa Kỳ. Tại đây Tống đã thành công gây được sự tin tưởng và vay được một ngân khoản 50 triệu mỹ kim. Tống Tử Văn hy vọng phát triển kỹ ngh�! �� Trung ! hoa. Nhưng khi trở về Trung hoa thì họ Tống bị người Nhật dùng áp lực đòi Tưởng loại Tống ra khỏi chính quyền. Điều tệ hại hơn nữa cho Tống Tử Văn là trong lúc vắng nhà, Tưởng đã xài thâm thủng một số nợ lớn nữa và bắt Tống Tử Văn phải tìm cách bù đắp.
Ngày 25- 10- 1933, Tống Tử Văn và Tưởng Giới Thạch bàn cãi về các biện pháp tìm thêm ngân khoản khẩn cấp. Tưởng buộc tội Tống Tử Văn đã không kiếm đủ tài chánh khiến cho các chiến dịch tiêu diệt cộng sản bị thất bại. Khi Tống Tử Văn cãi lại thì Tưởng nổi nóng, vung tay tát vào mặt họ Tống. Tống Tử Văn đứng dậy bỏ ra về và nộp đơn từ chức bộ trưởng tài chánh và phó thủ tướng. Khi trả lời báo chí, Tống Tử Văn châm biếm rằng mình “Mắc bệnh” nên phải từ chức, nhưng khi nói chuyện riêng, họ Tống thú nhận làm bộ trưởng tài chánh không khác gì làm một con chó cho Tưởng Giới Thạch. Dẫu sao người Nhật đã toại nguyện khi Tống Tử Văn không còn trong chính phủ nữa.
Khổng Tường Hy được chọn lên làm bộ trưởng tài chánh thay thế Tống Tử Văn. Trong suốt 11 năm sau đó, Khổng Tường Hy hoàn toàn làm theo lệnh của Tưởng, và hủy hoại tất cả công trình về tài chánh của Tống Tử Văn. Vào năm 1945, vật giá leo thang tới 2, 500 phần trăm so với lúc Khổng Tường Hy mới đảm nhận chức bộ trưởng tài chánh. Người Trung hoa phải gánh tiền ra chợ để mua vài trái trứng. Đó là thành quả của bộ trưởng tài chánh Khổng Tường Hỵ Những thất bại của Khổng Tường Hy khiến Tưởng Giới Thạch cảm thấy! cần ph! ải có một tài năng như Tống Tử Văn. Tưởng cho mời Tống Tử Văn trở lại làm bộ trưởng tài chánh, nhưng Tống Tử Văn từ chối.
Thực ra sau khi bị Tưởng làm nhục, Tống Tử Văn có thể bỏ đi Hương Cảng khuyếch trương việc kinh doanh và làm một đại tài chủ thế giới, nhưng Tống Tử Văn vốn còn trẻ tuổi, còn nhiều năng lực, và nhất là còn tinh thần ái quốc, nên ông vẫn nán ở lại, mong làm một cái gì cho đất nước. Tưởng Giới Thạch có quyền, nhưng không biết cách tìm ra tiền. Tống Tử Văn biết cách làm đầy túi tiền, nhưng lại không ưa nổi Tưởng, vì thế Tống chỉ nhận làm cố vấn, và muốn Khổng Tường Hy tiếp tục chức bộ trưởng tài chánh làm trái độn giữa Tưởng và họ Tống. Tống Tử Văn không muốn nhìn mặt Tưởng nữa. Sau đó là những đạo luật mới về ngân hàng, bắt các ngân hàng phải đóng một phần tư tài sản của họ vào công khố phiếu chính phủ. Một số ngân hàng lớn chống đối. Nhưng Tưởng, Khổng Tường Hy và Tống Tử Văn đã hoạch định kế sách quốc hữu hóa các ngân hàng lớn, và anh em nhà họ Tống như Tống Tử Văn, Tống Tử Lương, Tống Tử An và Bố già Đỗ Đại Nhĩ được bổ nhiệm vào các chức vụ điều khiển các ngân hàng mới được quốc hữu hóa. Các ngân hàng mới này được quyền phát hành giấy bạc.
Trong chức vụ mới, Tống Tử Văn có dịp thu đoạt được một tài sản vĩ đại. Người ta đồn Tống Tử Văn có rất nhiều cổ phần trong các công ty General Motors và Du Pont của Mỹ. Bố già Đỗ Đại Nhĩ cũng trở thành “Một nhà từ thiện hay giúp đỡ kẻ nghèo” rất nổi tiếng. Số tiền giấy phát hành nhiều hơn số quý kim bảo đảm. Từ năm 1935 đến 1937, tiền giấy được gia tăng từ 453 lên 1477 triệu, mà chỉ một nửa được bảo đảm bằng quý! kim như bạc. Còn lại trên 500 triệu chỉ là giấy lộn, không có giá trị gì, do chính phủ in ra để trả nợ. Sau năm 1937, người ta không biết số tiền giấy được in ra là bao nhiêu, vì đó là năm cuối cùng chính phủ Nam Kinh công bố về ngân sách và các sự chi tiêu. Và cũng từ đấy nền tài chánh của Trung hoa đi vào một giai đoạn bi thảm nhất trong lịch sử tiền tệ thế giới. Đó cũng là công trình của Tưởng Giới Thạch và Khổng Tường Hy.
Bố Già Đỗ Đại Nhĩ
Dưới chính quyền Tưởng Giới Thạch, Bố già Đỗ Đại Nhĩ trở thành một nhân vật “Khả kính” của Thượng Hải, điều khiển nhiều ngân hàng lớn, kể cả Trung Quốc Ngân Hàng. Tại bất cứ đâu, người ta cũng thấy ảnh hưởng của Đỗ Đại Nhĩ. Tuy vậy, bản chất của Đỗ Đại Nhĩ vẫn là một người thô bạo của thế giới anh chị. Khi hội đồng tiền tệ được thành lập, Khổng Tường Hy đề nghị Đỗ Đại Nhĩ làm hội viên của hội đồng đó thì viên cố vấn Leith- Ross người Anh phản đối vì tai tiếng của Đỗ Đại Nhĩ. Khổng Tường Hy nói thẳng rằng Đỗ Đại Nhĩ là người cầm đầu giới anh chị đông hàng ngàn người sẵn sàng tuân lệnh, và có thể gây rắc rối bất cứ lúc nào.
Những cuộc bàn cãi bí mật về tài chánh diễn ra tại nhà Khổng Tường Hy, và thường có Ái Linh tham dự, vì bà là chủ nhân. Ái Linh nghe được tin tức gì thì lập tức báo cho Đỗ Đại Nhĩ. Một lần Ái Linh cho Đỗ Đại Nhĩ biết tin tức về sự thay đổi hối xuất ngoại tệ. Đỗ Đại Nhĩ hiểu lầm nên đầu tư lầm, và bị mất 50 ngàn bảng Anh, một số tiền lớn vào thời đó. Đ�! � Đại ! Nhĩ không chấp nhận sự thua thiệt này, và đòi Khổng Tường Hy lấy tiền của Ngân Hàng Trung Ương đền bù cho mình. Khi Khổng Tường Hy từ chối, thì ngay tối hôm đó một cỗ quan tài do sáu người phu nhà đòn khiêng đến đặt trước nhà họ Khổng, một cảnh cáo quyết liệt của Bố già. Lập tức sáng hôm sau, Khổng Tường Hy vội vã triệu tập một buổi họp tại Ngân Hàng Trung Ương, và ngân hàng đồng ý đền bồi cho một “Công dân ái quốc” mới bị thua lỗ trên thị trường hối đoái.
Dịch vụ nha phiến của Bố già Đỗ Đại Nhĩ được Tưởng Giới Thạch sử dụng như là một quốc sách. Các sứ quân và chính phủ Nam Kinh tận dụng khai thác nha phiến làm nguồn lợi tức chính yếu. Khi tổ chức độc quyền nha phiến của Nam Kinh đụng độ với khu vực của Đỗ Đại Nhĩ tại Chiết Giang và Giang Tô thì lập tức chính phủ rút lui, không dám đụng chạm tới quyền lợi của Đỗ Đại Nhĩ. Lúc đó các nhà trí thức Trung hoa và tây phương cực lực phản đối việc sử dụng nha phiến quá nhiều tại Trung hoa. Đến năm 1928 thì nha phiến xâm nhập vào mọi tầng lớp người Trung hoa. Phòng thương mại Qúi Châu còn dùng nha phiến làm đơn vị hối đoái chính thức. Tại Vân
Vì sự tranh chấp khu vực buôn bán va chạm nhau nên Tưởng Giới Thạch tìm gặp Đỗ Đại Nhĩ để thương lượng, và hai người đi đến một giải pháp mới. Đỗ Đại Nhĩ được giao phó nhiệm vụ đặc trách tiễu trừ cộng sản, một chức vụ giúp Đỗ Đại Nhĩ tha hồ giết bất cứ ai không ưa, chỉ cần gán cho người đó là cộng sản. Lục Hội của Đỗ Đại Nhĩ được độc quyền bán nha phiến và được chính phủ bảo vệ, ngược lại Đỗ Đại Nhĩ phải đóng thuế trước cho chính phủ Nam Kinh 6 triệu.
Sau khi Đỗ Đại Nhĩ trả 6 triệu cho Tống Tử Văn, thì hắn lại đổi ý và đòi lại số tiền đó. Tống Tử Văn liền trả cho Đỗ Đại Nhĩ cả 6 triệu, nhưng bằng công khố phiếu chứ không phải là tiền mặt. Đỗ Đại Nhĩ hiểu rằng công khố phiếu chỉ là giấy lộn. Lập tức một cuộc ám sát Tống Tử Văn xảy ra tại một ga xe lửa. Khi Tống Tử Văn vừa bước ra khỏi sân ga thì súng nổ loạn xạ liên hồi và thuốc súng bốc lên mù mịt. Tống Tử Văn nhào xuống nấp sau một cây cột. Khi tất cả im lặng, Tống Tử Văn trông thấy viên thư ký của mình bị trúng đạn khắp người, nằm chết gục giữa đống máu, tập tài liệu trong tay viên thư ký cũng rơi tung tóe. Một điều! lạ là Tống Tử Văn đứng ngay bên cạnh mà không trúng một viên đạn nào.
Thực ra Đỗ Đại Nhĩ chỉ muốn cảnh cáo Tống Tử Văn không được lừa dối mình. Một trong những vùng sản xuất thuốc phiện giàu nhất là miền bắc Trung hoa, và khi Nhật Bản chiếm vùng này trong những năm đầu của thập niên 1930 thì Tưởng mất hẳn nguồn tài chánh lớn lao ấy. Nhật Bản dùng thuốc phiện nguyên chất của miền bắc Trung hoa để chế tạo chất bạch phiến và có lợi hơn. Tưởng liền cấm người Trung hoa dùng bạch phiến. Và cuối cùng Tưởng kết thúc một hiệp thương với người Nhật Bản, và mua thuốc phiện của Nhật Bản sản xuất tại Trung hoa trong khu vực chiếm đóng của người Nhật.
Bạch phiến là một thứ thuốc vẫn được dùng để chữa trị cho những người muốn bỏ thuốc phiện. Năm 1931, hội Quốc Liên ấn định mức sản xuất bạch phiến, chỉ cho sản xuất dùng cho y học thôi. Cũng năm đó, Bố già Đỗ Đại Nhĩ khánh thành một nhà từ đường rất lớn, mới xây cất cho dòng họ tại Cao Châu. Lễ khánh thành rất náo nhiệt và tốn kém, kéo dài tới ba ngày, và có hàng ngàn nhân vật quan trọng trong chính phủ tới dự. Tưởng Giới Thạch trao tặng Đỗ Đại Nhĩ một bức chướng, ca ngợi sự đóng góp vĩ đại của Đỗ Đại Nhĩ cho nhân loại. Khi buổi lễ khánh thành chấm dứt thì nhà từ đường của Đỗ Đại Nhĩ trở thành một xưởng chế tạo bạch phiến lớn nhất Trung hoa. Xưởng chế tạo bạch phiến này dùng thuốc phiện mua lại của Nhật từ miền bắc Trung hoa. Nhờ công của Đỗ Đại Nhĩ, người Trung hoa được hưởng một nguồn cung cấp bạch phiến rất dồi dào.! Người! Trung hoa dùng bạch phiến để cai thuốc phiện, nhưng bỏ được thuốc phiện thì họ lại nghiện bạch phiến.
Đỗ Đại Nhĩ trở thành người có nhiều tước vị nhất Thượng Hải. Khi Tưởng Giới Thạch trở thành lãnh tụ Quốc dân đảng thì Đỗ Đại Nhĩ được phong chức đại tướng. Đỗ Đại Nhĩ đã hối lộ chia phần với tổng lãnh sự và cảnh sát trưởng tại tô giới Pháp để được tự do buôn bán bạch phiến. Lần đầu tiên việc này đến tai chính phủ Ba Lệ Lập tức một đô đốc được phái sang dọn dẹp tham nhũng. Đỗ Đại Nhĩ bị loại khỏi hội đồng thành phố. Viên tổng lãnh sự và cảnh sát trưởng chuẩn bị trở về Pháp, dưỡng già với tài sản khổng lồ do Đỗ Đại Nhĩ hối lộ. Đỗ Đại Nhĩ cho rằng đã bị viên tổng lãnh sự và cảnh sát trưởng phản bội. Đỗ Đại Nhĩ liền mời hai người này dự một bữa tiệc tiễn biệt. Đỗ Đại Nhĩ sai bỏ thuốc độc vào đồ ăn, và kết quả là viên tổng lãnh sự và vài người khác chết ngay tại chỗ. Viên cảnh sát trưởng tuy thoát chết, nhưng cũng bị bệnh trong nhiều tuần lễ. Viên tổng lãnh sự mới tới thay thế hoảng sợ, vội cộng tác với Đỗ Đại Nhĩ, và sai cảnh sát hộ tống tất cả những chuyến giao hàng bạch phiến của Đỗ ĐạI Nhĩ. Việc làm ăn của Đỗ Đại Nhĩ lại phát đạt như cũ. Tuy nhiên bây giờ Đỗ Đại Nhĩ không thấy cần thiết khu vực Thượng Hải nhỏ hẹp nữa, trong khi Tưởng cho phép Đỗ Đại Nhĩ được buôn bán tại khắp các khu vực do Quốc dân đảng kiểm soát. Thỉnh thoảng Đỗ Đại Nhĩ cũng nhắc cho chính quyền Nam Kinh biết sự nguy hiểm của mình. Với lợi tức vô cùng lớn lao thu đ! ược nh! ờ dịch vụ bạch phiến, Đỗ ĐạI Nhĩ bắt đầu khuynh loát chính phủ bằng tiền ấy. Đỗ Đại Nhĩ bỏ tiền mua máy bay của Mỹ và tặng cho chính phủ Nam Kinh từng phi đội. Ngày Tưởng ăn mừng sinh nhật ngũ tuần, Đỗ Đại Nhĩ tặng Tưởng một chiếc phi cơ mới mua, có sơn một hàng chữ “Diệt Trừ Thuốc Phiện Tại Thượng Hải.”
Một ký giả Thụy Sĩ phỏng vấn Đỗ Đại Nhĩ và công nhận hắn là một người quyền lực nhất Trung hoa, một người vừa là trùm du đãng vừa là nhà tài phiệt. Đỗ Đại Nhĩ nắm tất cả mọi dịch vụ về ma túy tại Trung hoa. Các hoạt động ma túy của Đỗ Đại Nhĩ vươn tới tận Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Tất cả thư tín gửi qua bưu điện Thượng Hải đều được người của Đỗ Đại Nhĩ đọc và kiểm duyệt trước. Chiến dịch diệt trừ thuốc phiện của Tưởng Giới Thạch được coi như là một trò hề. Tất cả thuốc phiện mà chính phủ của Tưởng tịch thu được đều giao lại cho Ủy ban Diệt trừ Thuốc phiện do Đỗ Đại Nhĩ chỉ huỵ Những thuốc phiện này đáng lẽ phải được tiêu hủy đi thì lại tái xuất hiện trên thị trường.
Năm 1936 Bố già Đỗ Đại Nhĩ xin được rửa tội theo đạo Thiên chúa. Mỹ Linh vô cùng xúc động, vì cho rằng Đỗ Đại Nhĩ trở lại đạo là nhờ những buổi đọc kinh và đọc Thánh Kinh theo giáo hội Methodist tại nhà Khổng Tường Hy và Ái Linh. Đỗ Đại Nhĩ chịu lễ rửa tội tại nhà thờ Tống Charliẹ Tống Mỹ Linh tuyên bố về Đỗ Đại Nhĩ vài tuần sau lễ rửa tội, “Ông Đỗ Nguyệt Thăng đang trở thành một tín đồ Thiên C! húa giá! o đích thực, vì kể từ ngày ông được rửa tội đến nay, con số người bị bắt cóc tại Thượng Hải giảm xuống rõ rệt.”
Chương 016
Vụ Bắt Cóc Tưởng Giới Thạch
Ngay cả những người Trung hoa thân Nhật cũng phải kinh hoàng trước sự bao vây của Nhật Bản. Khi họ áp lực đòi Tưởng Giới Thạch phải có thái độ rõ rệt với Nhật Bản thì họ chỉ muốn làm dịu bớt sự căng thẳng, chứ không muốn có một sự đụng độ vũ trang với Nhật Bản. Năm 1935 vì chưa sẵn sàng một cuộc chiến tranh toàn diện với Nhật, Tưởng phải đề nghị ký một hiệp ước thân hữu với Nhật, nhượng lại tất cả quyền lợi thương mại và tô giới của các nước Âu Châu cho Nhật. Đây là một sự nhượng bộ lớn lao mà nhiều người Trung hoa yêu nước cực lực phản đối. Bộ ngoại giao Nhật Bản vội đồng ý chấp nhận ngay, nhưng lúc đó phe quân phiệt Nhật đang thắng thế và đang muốn chinh phục Trung hoa, nên bác bỏ đề nghị của Tưởng.
Đến đó thì Tưởng biết rằng Nhật Bản sắp sửa khai chiến. Ngay từ năm 1931, một cố vấn của Tưởng đã báo động rằng Nhật Bản sẽ chiếm Mãn châu nhiều tháng trước khi sự việc này thực sự xảy ra. Lần này, Tưởng cũng không ngạc nhiên trước thái độ hung hăng của phe quân phiệt Nhật. Tưởng không thiếu vũ khí. Khổng Tường Hy đã sang tận Đức mua về một số lượng vũ khí rất lớn của hãng Krupp. Trung hoa cũng là khách hàng mua vũ khí và phi cơ quan trọng nhất của Hoa Kỳ.
Đúng như người ta dự đoán trước, quân Nhật tấn công và chiếm Thái Nguyên và yêu cầu quân đội Quốc dân đảng rút lui khỏi tỉnh Hà Bắc. Khi quân Quốc dân đảng chịu rút lui thì Nhật Bản lập tức xáp nhập các tỉnh Hà Bắc, Sơn Đông, Sơn Tây, và Sáp ! Cáp Nhĩ thành một khu tự trị dưới sự kiểm soát của quân Nhật. Quân Nhật làm chủ tất cả vùng đông bắc Trung hoa cho tới tận bên ngoài thành phố Bắc Kinh.
Trong khi đó Mao Trạch Đông và hồng quân Trung hoa trốn khỏi căn cứ sô viết Giang Tây đã đến được Diên An sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Lực lượng cộng sản vô cùng suy yếu sau một cuộc đào tẩu gian nan kéo dài cả năm trời. Phe cộng sản lúc này rất cần thời gian để bồi dưỡng sức mạnh và phát triển. Mao rất sợ Tưởng Giới Thạch mở cuộc tấn công ngay, nên phải lôi phe quốc gia chống Nhật hợp tác, như một sự che chở trước sức mạnh của Tưởng. Người Trung hoa ái quốc đặt mục tiêu chống quân xâm lăng Nhật lên trên tất cả.
Mao Trạch Đông lợi dụng được lợi điểm đó từ người quốc gia, và biến họ thành đồng minh nhất thời trong lúc lực lượng cộng sản còn quá yếu. Các sinh viên kính phục những người dám chống Nhật, và coi họ là anh hùng. Ngày 9- 12- 1935, hàng chục ngàn sinh viên tại Bắc Kinh biểu tình đả đảo Nhật Bản. Cuộc biểu tình được toàn quốc chú ý, và bà Khánh Linh cũng từ bỏ cuộc sống ẩn dật tại Thượng Hải, và dấn thân chiến đấu, thành lập Phong Trào Liên Minh Cứu Quốc.
Mạc tư khoa cũng sợ Nhật Bản nên ra lệnh cho đảng cộng sản Trung hoa chấm dứt việc tuyên truyền chống Tưởng Giới Thạch, và phải kết hợp với Quốc dân đảng thành một mặt trận thống nhất. Mao Trạch Đông phản đối lệnh của Nga sô, nhưng chưa đủ mạnh để cưỡng lệnh. Mao đành phải miễn cưỡng tìm cách liên lạc với Tưởng qua thống chế Trương Học Lương. Quân của Trương Học Lương đóng tại vùng biên giới tây bắc, bên cạnh căn cứ của cộng quân. Trương Học Lương là một sứ quân thông minh, khác hẳn các sứ quân khác là những kẻ vừa độc ác tham lam vừa thiển cận tự tôn. Sau một tuổi trẻ trác táng tại Mãn Châu và Âu Châu, Trương Học Lương nghiện thuốc phiện.
Người ta thấy có dấu hiệu những thuốc phiện của Trương Học Lương dùng đã được bào chế để hủy hoại tinh thần viên sứ quân trẻ tuổi. Trùm mật vụ Thái Lý của Tưởng Giới Thạch rất thiện nghệ đầu độc đối thủ của Tưởng bằng thuốc phiện. Sau khi thân phụ là sứ quân Trương Tác Lâm bị quân Nhật ám sát năm 1928, Trương Học Lương đã liên kết với Tưởng Giới Thạch vì lòng ái quốc bồng bột, và cũng muốn trả thù nhà. Nhưng Tưởng Giới Thạch đã ngăn cản không cho Trương Học Lương bảo vệ Mãn châu chống lại quân Nhật, và sau đó Tưởng đổ lỗi cho Trương Học Lương làm mất Mãn Châu. Sau đó Tưởng dùng Trương Học Lương làm vật tế thần mỗi khi quân Nhật chiến thắng. Trương Học Lương đành phải từ bỏ mọi chức vụ và tìm lãng quên trong khói thuốc phiện.
Một cố vấn người Úc hết sức khuyên Trương Học Lương sang chữa trị bệnh nghiện thuốc phiện tại Âu Châu. Năm 1934, từ Âu Châu trở về, Trương Học Lương là một người hoàn toàn khác hẳn trước. Sự yếu đuối ủy mị với thuốc phiện nay được thay thế bằng một tinh thần quốc gia mãnh! liệt. ! Trương Học Lương tin rằng phải cứu nước Trung hoa bằng cách khuyến dụ Tưởng Giới Thạch phải cứng rắn với Nhật Bản. Trương Học Lương đã bàn cãi vấn đề này với Tống Tử Văn, và hai người thấy rằng chỉ có một cuộc đảo chánh mới thay đổi được tình thế.
Đầu năm 1936, Trương Học Lương âm thầm ra lệnh cho quân của mình tại biên giới không được tấn công quân cộng sản. Trương Học Lương tin rằng phần lớn những người đi theo cộng sản là vì Tưởng Giới Thạch và các thế lực ngoại bang đã đưa Trung hoa đến chỗ suy đồi. Trương Học Lương quyết định rằng người Trung hoa sẽ không bắn giết lẫn nhau trong khi quân ngoại xâm đang tàn phá đất nước. Thực ra bất cứ ở đâu, cộng sản Trung hoa cũng lợi dụng những tấm lòng ái quốc chân thành nhưng ngây thơ như Trương Học Lương để chiến thắng, và khi người quốc gia nhận chân được cộng sản thì thường quá trễ rồi.
Tháng 6 năm đó, Trương Học Lương bí mật gặp Chu Ân Lai, và bàn thảo xem hai bên có thể quên được những mối bất đồng, để có thể phát triển được một chiến lược chung không. Lúc đó phe cộng sản còn quá yếu, và rất cần sự liên kết với các lực lượng quốc gia để sinh tồn, và chờ thời gian phục hồi được sức mạnh. Cả Chu Ân Lai và Trương Học Lương đều tin rằng giải pháp duy nhất là thành lập một mặt trận thống nhất. Trương Học Lương rất trọng lời hứa. Ngay lập tức Trương Học Lương ra lệnh mọi hành động quân sự chống lại cộng sản ngưng hẳn, và thiết lập một sự liên lạc giữa hai bộ tham mưu, và văn phòng của Phong Trào Liên Minh Cứu Quốc đ�! �ợc t�! � chức khắp miền tây bắc Trung hoa.
Phe Tưởng Giới Thạch phong thanh biết được sự khác lạ của vùng biên giới tây bắc, nhưng các điệp viên của Thái Lý không biết rõ sự hợp tác của Trương Học Lương và cộng sản như thế nào. Vào đúng lúc Tưởng định tung ra chiến dịch tiêu diệt cộng sản, thì các điệp viên chỉ báo cáo cho Tưởng biết các tư lệnh của vùng tây bắc không thể tin tưởng được nữa. Mối ưu tư tâm phúc của Tưởng là cộng sản, chứ không phải là quân xâm lăng Nhật Bản. Tưởng rất nhạy cảm trong công cuộc chống cộng, và cho rằng việc Nhật Bản chiếm một phần đất Trung hoa chỉ là một sự thua thiệt nhất thời. Tưởng tin rằng trước sau gì người Trung hoa cũng đánh đuổi được quân Nhật. Nhưng hiểm họa cộng sản mới thực là lâu dài và khó chữa. Chính vì thế, Tưởng quyết định bay lên Tây An với mục đích hăm dọa Trương Học Lương phải thi hành lệnh tấn công quân cộng sản.
Khi Tưởng Giới Thạch tới nơi, Trương Học Lương đề nghị nên bãi bỏ chiến dịch diệt cộng, và phải thành lập một mặt trận chung với phe cộng sản để chống kẻ thù chung là quân xâm lăng Nhật Bản. Trương Học Lương nhấn mạnh lúc đó là thời cơ của một cuộc chiến tranh cứu nước chứ không phải là lúc mở một cuộc nội chiến. Tưởng nổi cơn lôi đình và bỏ về tổng hành dinh Quốc dân đảng tại Lạc Dương, cách xa Tây An 300 cây số. Trương Học Lương đi theo để tranh luận thì Tưởng giận dữ mắng nhiếc Trương Học Lương là một người quá ngây thơ.
Ngày 4- 12- 1936, Tưởng quay trở lại Tây An, và thông báo sẽ tiến hành chiến ! dịch ti! êu diệt cộng sản vào ngày 12- 12. Tưởng sẽ bổ nhiệm một tướng tư lệnh mới tại vùng tây bắc, và thuyên chuyển Trương Học Lương về miền nam cùng với quân đội và thuộc hạ của Trương Học Lương. Trương Học Lương và Dương Hổ Thành cố gắng trình bày những lý lẽ xin Tưởng tái xét lại quyết định trên, nhưng Tưởng tức giận bước ra khỏi phòng, và cùng vệ sĩ lái xe tới vùng suối nước nóng tại đồi Ly Sơn, cách Tây An 12 dặm. Suối nước nóng này nổi tiếng từ đồi nhà Đường. Chính tại đây Đường Minh Hoàng thường đứng dưới hàng liễu rủ để ngắm Dương Qúy Phi tắm. Cũng chính tại đây tướng An Lộc Sơn cũng thường tới tắm chung với Dương Qúy Phi, và cũng vì thế An Lộc Sơn phản loạn nhà Đường để chiếm Dương Qúy Phi, người được coi là đẹp nhất đời Đường, và là một trong Tứ Đại Mỹ Nhân của Trung hoa.
Trương Học Lương và Dương Hổ Thành nhận thấy tình trạng nguy hiểm của họ. Nếu họ không làm gì cả thì sẽ mất địa vị hiện tại của họ và khi về miền nam, họ sẽ trở thành những người bất lực. Chính Dương Hổ Thành đã đi tới giải pháp bắt cóc Tưởng Giới Thạch để bắt buộc phe Quốc dân đảng phải nhượng bộ, không tấn công phe cộng sản nữa, và tập trung tất cả sức mạnh chống lại ngoại xâm.
***
Tưởng Giới Thạch có thói quen dậy sớm, và đứng khoanh tay trước cửa sổ mỗi buổi sáng. Sáng ngày 12- 12 tại vùng nghỉ mát đồi Ly Sơn, Tưởng cũng dậy sớm, tháo bộ! răng gi! ả đặt lên bàn ngủ cạnh giường và đứng trước cửa sổ một giờ. Nơi cư ngụ của Tưởng được 50 vệ sĩ canh gác, do một sĩ quan nổi tiếng khát máu chỉ huỵ Đúng 5:30 sáng, Tưởng đang đứng im lặng, nhìn ra rặng núi xa, bên ngoài bức tường hoa của vườn sau, thì 4 xe vận tải lớn chở 120 binh sĩ đến trước cổng. Viên tiểu đoàn trưởng ra lệnh mở cổng. Khi người gác cổng từ chối không chịu mở cổng thì binh sĩ bên ngoài nổ súng.
Tưởng Giới Thạch giật mình khi nghe tiếng súng nổ. Tưởng hoảng hốt tưởng là một cuộc phản loạn của binh sĩ cộng sản. Súng nổ mỗi lúc một rát hơn, rồi ba vệ sĩ thân tín chạy vào phòng yêu cầu Tưởng phải trốn. Tưởng vội vàng vùng chạy ra cửa sau, quên cả bộ răng giả trên bàn ngủ. Khi chạy tới cuối vườn, ba vệ sĩ khiêng Tưởng lên và đẩy Tưởng ra bên ngoài bức tường. Tưởng té xuống đất, xương sống bị trẹo và một bên mắt cá chân bị sưng tấy. Vùng đồi phía sau đầy sỏi và gai góc. Tưởng hoảng sợ chạy ngược lên đỉnh đồi, chân đạp cả vào gai góc. Mắt cá chân và xương sống Tưởng mỗi lúc một đau đớn hơn. Trong khi đó cuộc lục soát đi tìm kiếm Tưởng vẫn tiếp tục. Tất cả 50 vệ sĩ của Tưởng bị bắn chết từng người một, khi toán binh sĩ tiến vào lục soát các phòng. Khi biết chắc Tưởng đã bỏ chạy rồi thì toán binh sĩ bắt viên chỉ huy vệ sĩ của Tưởng về Tây An, và đóng đinh hắn lên cổng thành.
! �! � Toán quân phản loạn biết chắc Tưởng phải chạy lên đồi, nên tiểu đoàn bao vây ngọn đồi, và dàn thành hàng ngang tiến lên lục soát. Sau hai lần lục soát, toán quân phản loạn vẫn không tìm thấy Tưởng. Họ trở lại căn nhà nghỉ mát của Tưởng và tìm thấy bộ răng giả của Tưởng, cùng với cuốn nhật ký và một số tài liệu. Phải mất bốn giờ nữa, vào khoảng 9 giờ sáng, một tiểu đội phản loạn tình cờ trông thấy Tưởng đang cố nằm nép sát vào một khe núi bên trong. Tưởng lạnh run, mệt nhoài và đau đớn vì những vết thương ở chân và xương sống. Một người lính nhảy xuống, vác Tưởng lên khỏi hang rồi cả bọn khiêng Tưởng xuống đồi. Tưởng được xe hơi chở về Tây An, và được một đội quân nhạc dàn chào. Trương Học Lương tiến ra và dẫn Tưởng vào một căn phòng ngủ, tại đó một bác sĩ đang chờ sẵn để săn sóc vết thương cho Tưởng. Cuộc phản loạn thành công hoàn toàn, và quân sĩ của tướng Dương Hổ Thành ăn mừng chiến thắng này bằng ba ngày cướp bóc dân chúng quanh vùng.
Trương Học Lương đánh điện ra lệnh cho một lữ đoàn của mình phải chiếm phi trường Lạc Dương, nằm cách Tây An 300 cây số. Trương Học Lương sợ rằng nếu không chiếm được Lạc Dương thì Quốc dân đảng sẽ sử dụng phi trường đó để oanh tạc Tây An. Viên lữ đoàn trưởng phản đối lệnh của Trương Học Lương, và đưa bức điện tín cho viên tư lệnh Quốc dân đảng. Phi trường Lạc Dương liền được canh phòng cẩn mật, và Nam Kinh được thông báo những gì đang xảy ra tại Tây An. Quân Quốc dân đảng lập tức chiếm giữ Đông Quận, kiểm soát đèo chiến lược nằm giữa Sơn Tây và Thiểm Tây. Nhưng quân phản loạn cũng chiếm được Lan Châu, thủ đô tỉnh Cam Túc, bảo vệ được hậu phương của phe phản loạn. Trương Học Lương công bố một điện tín có chữ ký của các lãnh tụ phản loạn, yêu cầu chính phủ Nam Kinh thì hành những yêu sách sau đây: Chấm dứt nội chiến, phóng thích tù chính trị, cho phép tự do biểu tình ái quốc, cho phép các cuộc tụ họp chính trị, phải thi hành tức khắc chúc thư của Tôn Dật Tiên, và triệu tập Đại Hội Cứu Quốc ngay.
Từ lúc bị bắt, Tưởng Giới Thạch hoàn toàn khủng hoảng. Tưởng từ chối không chịu ăn, không chịu ra khỏi giường. Trương Học Lương đề nghị chuyển Tưởng tới một nơi cư ngụ sang trọng hơn, nhưng Tưởng im lặng không trả lời. Mãi tới ngày 14- 12, một cố vấn người Úc đến Tây An để dàn xếp, Tưởng mới chịu chuyển sang một tư gia. Trong khi đó thì phe thân Nhật trong chính phủ Nam K! inh do bộ trưởng quốc phòng cầm đầu, phái quân đội chính phủ tiến tới bao vây Tây An, dự định dùng bộ binh, pháo binh và không quân tấn công Tây An, lấy cớ để giải thoát Tưởng, nhưng thực ra là để diệt Tưởng để lên thay Tưởng.
Tại Thượng Hải, Tống Mỹ Linh ngất xỉu khi nghe tin chồng bị bắt cóc. Khổng Tường Hy vội nắm chức quyền thủ tướng, nhưng người ta không biết lập trường của ông ta ngả về phe nào. Phe anh chị của Bố già Đỗ Đại Nhĩ thì ủng hộ bộ trưởng quốc phòng Hà Ứng Khâm, đòi hỏi biểu dương lực lượng tiến về Tây An. Giới anh chị cũng muốn loại bỏ Tưởng để dễ kiểm soát quyền hành. Nhưng Tống Mỹ Linh đã mau lẹ tới Nam Kinh để ngăn cản bộ trưởng quốc phòng mở cuộc tấn công vào Tây An. Mỹ Linh nói với bộ trưởng quốc phòng:
“Tôi kêu gọi các ông, không phải với tư cách một người đàn bà lo lắng cho sự an nguy của chồng, nhưng với tư cách một người công dân có một thái độ thực tế, để có được một giải pháp ít tốn kém nhất cho một vấn đề quốc gia trọng đại. Nhưng những gì quý vị đề nghị thi hành ngày hôm nay sẽ thực sự gây ra nguy hiểm cho Tưởng thống chế. Vì trong tâm hồn quần chúng cũng như trong tâm hồn tôi, sự an nguy của Tưởng thống chế không thể tách ra khỏi sự đoàn kết và sự tồn tại của quốc gia này vào giai đoạn trọng đại nhất của lịch sử, thì không nên bỏ lỡ bất cứ một cơ hội có thể tìm được sự giải cứu Tưởng thống chế bằng ! phương ! tiện hoà bình.”
Trong khi đó, Khổng Tường Hy lên đài phát thanh tuyên bố, “Chúng ta rất quan tâm tìm cách cứu Tưởng thống chế. Tuy nhiên thái độ của chúng ta là không nên để sự an nguy của một cá nhân can dự vào quốc sách.” Khổng Tường Hy có thể đứng hẳn vào phe Bố già Đỗ Đại Nhĩ, hay lời tuyên bố này nhằm mục đích không cho đối phương khai thác được sự bắt cóc Tưởng. Nhưng dù lý do nào đúng thì Tưởng Giới Thạch cũng rất hoảng sợ. Tưởng sai một cộng sự viên thân tín nhất bay về Nam Kinh với mệnh lệnh cấm tấn công vào Tây An. Tuy nhiên mười một sư đoàn Quốc dân đảng đang bao vây Tây An, và tất cả phi cơ của Quốc dân đảng đều tập trung tại Lạc Dương, sẵn sàng đợi lệnh tấn công.
Tại Tây An, Tưởng bướng bỉnh bác bỏ tất cả 8 yêu sách của phe phản loạn. Dương Hổ Thành và các tướng phản loạn khác đòi bắn chết Tưởng Giới Thạch, nhưng Trương Học Lương cố gắng ngăn cản họ. Tại tổng hành dinh cộng sản, cách Tây An 300 cây số, Mao Trạch Đông rất hồ hởi nghe tin Tưởng bị bắt cóc. Mao tuyên bố trước các cán bộ, “Kể từ ngày 12- 4- 1927, Tưởng Giới Thạch nợ chúng ta một món nợ máu cao hơn núi. Đây chính là lúc phải thanh toán món nợ máu này. Phải đưa Tưởng Giới Thạch về Bảo An và giao cho tòa án nhân dân xét xử.”
Chu Ân Lai thì chờ lệnh của Mạc tư khoa để về Tây An đại diên phe cộng sản. Mạc tư khoa ra lệnh cho cộng đảng Trung hoa phải hòa giải với phe Quốc dân đảng, và phải bảo vệ sinh mạng cho Tưởng Gi�! �i Thạc! h. Chu Ân Lai phải đạt được sự hòa giải với Quốc dân đảng. Stalin nhấn mạnh phải thả Tưởng Giới Thạch thì mới mong thành lập được mặt trận thống nhất chống Nhật, vì mối lo hàng đầu của Nga sô là quân phiệt Nhật Bản sẽ tấn công Nga sộ Các phe phái tại Trung hoa phải đoàn kết với nhau và cầm chân quân phiệt Nhật tại Trung hoa. Nếu Trung hoa thất bại, không ngăn cản được quân Nhật tại Trung hoa thì quân Nhật sẽ tiến tới biên giới Nga sộ Mao Trạch Đông rất căm phẫn chịu thua lệnh của Stalin và mất cơ hội giết Tưởng Giới Thạch để trả thù. Về phía Nhật Bản thì rất bình tĩnh và thỏa mãn, vì cả thế giới được chứng kiến sự bất lực của người Trung hoa.
Việc bắt cóc Tưởng Giới Thạch có lẽ là âm mưu của Tống Tử Văn. Tống Tử Văn bất mãn thái độ quá mềm yếu của Tưởng đối với Nhật Bản, và cũng để trả thù cái bạt tai trước kia. Khi việc giải thoát cho Tưởng có vẻ bế tắc, thì Tống Tử Văn đứng ra giải quyết. Bộ trưởng quốc phòng Quốc dân đảng thông báo cho đại sứ Nhật biết chiến dịch trừng phạt Tây An sẽ tiến hành như đã định trước, và tức giận yêu cầu Tống Tử Văn không được xen vào công việc của chính phủ. Tống Tử Văn xác nhận có quyền can thiệp vào việc nước, và không cần phải tuân lệnh bộ trưởng quốc phòng, vì ông là một công dân chứ không phải là một người lính. Tống Mỹ Linh vội làm dịu bộ trưởng quốc phòng Hà Ứng Khâm bằng cách đồng ý không đi Tây An theo Tống Tử Văn.
Khi Tưởng Giới Thạch thấy Tống Tử Văn đưa cho một lá thư của Mỹ Linh, trong đó chỉ vắn tắt vài dòng ! chữ, ! 8220;Nếu trong vòng ba ngày Tống Tử Văn không trở về Nam Kinh thì em sẽ tới Tây An để sống và chết cùng với mình, ” thì Tưởng thống chế nổi tiếng tàn ác của Quốc dân đảng xúc động quá đến nỗi òa lên khóc nức nở. Tống Tử Văn bảo Trương Học Lương đi ra ngoài để ông nói chuyện riêng với Tưởng.
Tưởng cho Tống Tử Văn biết quân phản loạn thay đổi thái độ với ông sau khi đọc hết cuốn nhật ký của ông. Trong nhật ký, Tưởng viết sẽ tận lực đánh đuổi quân ngoại xâm Nhật Bản, sau khi diệt xong cộng sản. Tưởng cho Tống Tử Văn biết mối nguy hiểm chính không phải là ở nhóm phản loạn, mà là phe thân Nhật trong chính phủ Nam Kinh, đang muốn tấn công tiêu diệt Tây An và giết cả Tưởng một thể.
Đêm đó Tống Tử Văn và Trương Học Lương cùng đến bàn luận với Tưởng Giới Thạch. Tống Tử Văn cho biết phải giải quyết vấn đề gấp rút. Chính phủ Nam Kinh chỉ cho hưu chiến ba ngày. Sau đó cuộc tấn công dữ dội sẽ bắt đầu. Cuối cùng sau 24 giờ thảo luận, Tưởng đành nhượng bộ, chấp nhận toàn bộ 8 yêu sách của phe phản loạn. Tống Tử Văn vội trở về Nam Kinh và đưa Mỹ Linh cùng với trùm mật vụ Thái Lý lên Tây An. Mỹ Linh đem theo cả người đầu bếp. Mỹ Linh có thói quen không bao giờ đi xa mà không mang theo đầu bếp, không phải vì bà kén ăn, mà vì sợ bị đầu độc. Chính trường Trung hoa vào những năm 1930 đầy rẫy những vụ đầu độc đối thủ chính trị.
Khi Mỹ Linh bước xuống phi! cơ, Tr�! �ơng Học Lương trịnh trọng cúi gập người xuống chào Mỹ Linh. Trướng kia Trương Học Lương cũng là một trong những người muốn lấy Mỹ Linh làm vợ. Bây giờ Trương Học Lương lại là người bắt cóc chồng Mỹ Linh. Họ Trương đưa Mỹ Linh tới gặp Tưởng ngaỵ Vật đầu tiên Mỹ Linh đưa cho Tưởng là một bộ răng giả. Ngày hôm sau, Tưởng ngồi tiếp các sứ quân đến chào. Người lo lắng nhất là Dương Hổ Thành và các tướng tư lệnh trong vùng, những người trực tiếp chỉ huy vụ bắt cóc. Chu Ân Lai khuyên Dương Hổ Thành nhận một món tiền thật lớn của Tống Tử Văn và đem gia đình trốn sang sống tại Âu Châu.
Chu Ân Lai tới và thương thảo với Tưởng Giới Thạch liên tiếp hai ngày. Chu Ân Lai vẫn gọi Tưởng là “Chỉ huy trưởng” như lúc còn làm việc dưới quyền Tưởng tại trường võ bị Hoàng Phố. Về sau Tưởng khen Chu Ân Lai là một người cộng sản biết điều nhất. Tống Mỹ Linh cũng rất phấn khởi khi nghe Chu Ân Lai nói, “Trong hiện tình của đất nước, không ai ngoài Tưởng thống chế có thể lãnh đạo quốc giạ” Mỹ Linh cũng đề nghị với Chu Ân Lai, “Tất cả những vấn đề nội bộ của Trung hoa nên giải quyết bằng phương tiện chính trị chứ không nên dùng vũ lực. Chúng ta cùng là người Trung hoa cả mà.”
Sau khi Tống Tử Văn trao tiền cho phe phản loạn thì Tưởng Giới Thạch được tự do tới phi trường Lạc Dương để trở về Nam Kinh. Tưởng đem theo cả thống chế Trương Học Lương về Nam Kinh để trị tội. Mấy tháng sau đó, phe Quốc dân đảng coi việc giải t! hoát đ�! �ợc cho Tưởng là một chiến thắng lớn. Tuần báo Time của Mỹ bầu Tưởng và Mỹ Linh là cặp vợ chồng số một của năm 1938, và đăng hình hai người lên bìa báo.
Hành động theo Tưởng Giới Thạch trở về Nam Kinh của Trương Học Lương được nhiều người coi là thiếu suy nghĩ. Đáng lẽ Trương Học Lương phải ở lại vùng tây bắc, và phải tránh xa Tưởng. Tuy nhiên sau này Mao Trạch Đông cho biết đó là điều kiện của Tưởng khi chấp nhận 8 yêu sách của phe phản loạn. Tưởng cần phải bắt Trương Học Lương về Nam Kinh để rửa tiếng xấu bị bắt cóc. Chính Trương Học Lương vì lòng ái quốc và đại cuộc, đã lên tiếng nhiều lần trước quần chúng, chấp nhận mọi lỗi lầm trong vụ Tây An. Trương Học Lương thoạt đầu tạm trú trong nhà Tống Tử Văn, và được nhiều người cho là đã có công lớn đối với tổ quốc, vì chính Trương Học Lương đã tạo ra Mặt trận Thống nhất để chống lại Nhật Bản.
Tuy nhiên Tưởng Giới Thạch không bao giờ tha thứ cho viên thống chế trẻ tuổi và ái quốc này vì tội đã làm nhục ông, và làm hỏng kế hoạch tiêu diệt cộng sản của ông. Việc bắt cóc tại Tây An đã ám ảnh tâm trí Tưởng Giới Thạch trong nhiều năm sau đó, và đó là khởi đầ! u cho chi! ến thắng của cộng sản. Điều đáng sợ cho Tưởng là Trương Học Lương được quần chúng kính nể và là người có nhiều đức tính để trở thành một nhà lãnh đạo tối cao, thay thế Tưởng, trong khi Tưởng là một người có quá nhiều vết nhơ trước mắt quần chúng. Vì thế Trương Học Lương không thể sống tự do được. Tưởng ra lệnh quản thúc Trương Học Lương tại gia và giao cho trùm mật vụ Thái Lý canh giữ.
Các cố gắng của bạn bè Trương Học Lương, trong đó có cả Tống Tử Văn, can thiệp xin Tưởng trả tự do cho Trương Học Lương đều thất bại. Trong lúc đó mật vụ canh giữ Trương Học Lương được lệnh bắt Trương Học Lương phải hút thuốc phiện. Trong suốt thời gian bị cầm tù, Trương Học Lương chăm chú nghiên cứu lịch sử của đời nhà Minh. Người đồng mưu với Trương Học Lương bắt cóc Tưởng Giới Thạch là tướng Dương Hổ Thành cũng bị Tưởng bắt được khi ông này ở Âu Châu lén trở về Trung hoa thăm nhà. Dương Hổ Thành không được biệt đãi như Trương Học Lương, mà bị trùm mật vụ Thái Lý hành hạ suốt mười một năm trước khi bị giết chết. Vợ của Dương Hổ Thành tuyệt thực phản kháng đòi trả tự do cho chồng. Tưởng Giới Thạch để mặc cho vợ Dương Hổ Thành nhịn đói mà chết.
Nhiều năm sau, bà Tống Khánh Linh nói về việc bắt cóc Tưởng Giới Thạch như sau, “Việc làm của Trương Học Lương rất đúng. Nếu tôi ở địa vị của Trương Học Lương, tôi cũng sẽ làm như vậy. Điều khác duy nhất là tôi sẽ không thả Tưởng Giới Thạch.”
Chương 017
Vai Trò Của Tống Mỹ Linh
Trong biến cố Tây An, một số cộng sự thân tín của Tưởng Giới Thạch tại Nam Kinh chủ trương oanh tạc Tây An mà không đếm xỉa tới sự an nguy của Tưởng. Khi được trả tự do, Tưởng quyết định không giao phó lực lượng không quân cho những người cộng sự này nữa. Tống Mỹ Linh ngỏ ý thích điều khiển không lực Quốc dân đảng và được Tưởng đồng ý chấp thuận. Thế là cô con gái út của Tống Giáo Nhân trở thành tư lệnh của một binh chủng mới, nhưng cực kỳ quan trọng trong chiến tranh hiện đại.
Việc đầu tiên mà bà tân tư lệnh không quân Tống Mỹ Linh làm là thuê cựu phi công Mỹ Roy Holbrook làm cố vấn. Mỹ Linh hỏi ai có khả năng giúp không lực Quốc dân đảng thì Holbrook tiến cử Claire Lee Chennault, một người có một quá trình rất sóng gió. Chennault tới Trung hoa năm 1937, và phục vụ cho Mỹ Linh trong một thời gian thật lâu dài, và được gọi là
Lúc đó không lực Quốc dân đảng do các chuyên viênÝ huấn luyện, theo một hợp đồng với Khổng Tường Hy, và có một nhà máy Fiat hỗ trợ. Theo Holbrook thì ngườiÝ đã thành công phá hoại không lực Trung hoa. Tại trường huấn luyện, bất cứ phi công Trung hoa nào làm cho phi cơ bay được là đủ điều kiện tốt nghiệp. Không lực có khoảng 500 phi cơ, nhưng chỉ chừng 100 phi cơ bay được. Quả thực các phi cơ Quốc dân đảng lúc đó nguy hiểm cho phi công hơn là cho quân địch.
Hai tháng sau khi Chennault tới thì quân Nhật mở cuộc tấn công Bắc Kinh. Nhật mở rộng chiến tranh tới tận Thiên Tân và Thượng Hải. Đây là cơ hội cho Chennault xử dụng không lực mới được tổ chức lại. Các phi công Trung hoa có tinh thần cao và nhiệt tình yêu nước nhưng thiếu kinh nghiệm, nhưng đã bay những phi vụ rất can đảm. Rất ít phi công trở về được căn cứ. Mỹ Linh thấy không thể tiếp tục như thế, vì sẽ phí phạm các thanh niên ưu tú Trung hoa một cách vô ích. Bà yêu cầu Chennault thuê nhiều phi công kinh nghiệm ngoại quốc cho đến khi phi công Trung hoa được huấn luyện thành thạo.
Thoạt đầu một số phi công Nga sang giúp quân đội của Tưởng, vì Nga sô rất sợ Nhật bản thành công tại Trung hoa. Nhưng về sau Nga sô lơi là trợ giúp Trung hoa vì phải bận tâm tới chiến tranh tại Âu Châu hơn, và chỉ có Hoa Kỳ mới có đủ phương tiện trợ giúp được cho Quốc dân đảng. Mỹ Linh viết nhiều bài báo kêu gọi độc giả Mỹ hậu thuẫn cho việc viện trợ cho quân đội Trung hoa. Mỹ ! Linh được tờ Time hỗ trợ trong việc vận động quần chúng Mỹ.
Khi Nhật Bản tấn công các tỉnh đông bắc Trung Hoa thì Tống Tử Văn tiên đoán trong ba tháng Nhật Bản sẽ bị phá sản và có nội loạn. Nhưng ba tháng sau, Tống Tử Văn phải yêu cầu hải quân Mỹ lén đưa ông ta ra khỏi Thượng Hải. Lúc đó Thượng Hải nằm trong tay quân Nhật. Trong lúc Hoa Thịnh Đốn đang nghiên cứu đề nghị dẫn Tống Tử Văn trốn khỏi Thượng Hải thì họ Tống nhờ nhóm anh chị Lục Hội giúp ông thoát hiểm, và dĩ nhiên phải trả công cho Lục Hội rất hậu.
Trong năm 1938, quân Nhật đuổi Tưởng Giới Thạch và chính phủ Quốc dân đảng phải tháo chạy khỏi Nam Kinh, và tàn sát ba trăm ngàn dân chúng tại Nam Kinh. Tưởng và chính phủ Quốc dân đảng chạy tới Vũ Hán, rồi chạy một hơi thêm 500 dặm nữa, tới một nơi thật an toàn mà không một quân đội ngoại quốc nào có thể xâm nhập được. Đó là vùng núi non của Tứ Xuyên, và Tưởng thiết lập chính phủ tại Trùng Khánh, một thị trấn nhỏ bé nghèo nàn trên bờ sông Dương Tử. Trên đường chạy tới Trùng Khánh, chế độ Quốc dân đảng đã “Giải phóng, ” “Bảo hộ, ” và “Tịch thu” rất nhiều tiền bạc của cải của mọi tổ chức tư nhân khác nhau và các nhà giàu. Nhưng đến mùa xuân năm 1940, Tưởng lại thiếu tiền, và Khổng Tường Hy lại phải in hàng trăm triệu tiền giấy tại Hương Cảng, và chở tới Trùng Khánh. Mọi người đều biết tiền giấy đó vô giá trị. Cuộc chinh phục của người Nhật đã tạm thời làm gián đoạn đường giây bạch phiến, và cắt giảm nguồn lợi tức quan trọng nhất của Tưởn! g, trong ! lúc Tưởng rất cần tiền để mua khí giới ngoại quốc, và cũng để trả cho các sứ quân với mục đích mua chuộc và giữ lòng trung thành của họ.
Vì thế tháng 6- 1940, Tống Tử Văn được cử sang Hoa kỳ để tìm cách vay tiền của người Mỹ. Nhưng Tống Tử Văn không ưa thích những điều Tưởng làm, vì thế Tống Tử Văn ở lại Hoa kỳ trên hai năm cùng với vợ con. Nhiệm vụ đầu tiên của Tống Tử Văn là lấy được số tiền ứng trước 50 triệu cho việc xuất cảng tung- ten của Trung hoa.
Nhưng lúc đó mối quan tâm của Hoa Kỳ là Âu Châu và Hitler. Tống Tử Văn trình bày cho người Mỹ biết công cuộc bảo vệ Trung hoa của Tưởng Giới Thạch là một cuộc chiến đấu can trường chống lại quân Nhật man rợ, do các tướng Quốc dân đảng có khả năng và nhiệt tâm thực hiện. Tháng 4- 1938, Tướng Quốc dân đảng Lý Tông Nhân đã chứng tỏ quân đội Trung hoa có thể đánh bại được quân Nhật. Trong trận này quân Nhật bị thiệt hại nặng nề, nhưng Tưởng ra lệnh cho Lý Tông Nhân không được đuổi theo quân Nhật. Điều đáng buồn là quân đội Quốc dân đảng không có nhiều tướng tài như Lý Tông Nhân.
Tưởng Giới Thạch một lúc phải chống lại hai kẻ thù, và kẻ thù quan trọng nhất không phải là quân xâm lăng Nhật Bản, mà là quân cộng sản đang chiến đấu dưới chiêu bài ái quốc. Tưởng điều động trên một triệu quân án ngữ quân cộng sản tại vùng tây bắc. Những nạn nhân chính trong cuộc chiến tay ba này là dân chúng vô tội. Sử gia người Pháp Jean Chesneaux đã ghi lại thảm cảnh của người Trung hoa trong cơn khói lửa như sau:
“N�! ��i thố! ng khổ gây ra bởi sự tàn ác của quân Nhật, và các tai họa do sự bất tài của Quốc dân đảng thực là kinh khủng. Một trong những cố gắng của Tưởng nhằm ngăn chặn bước tiến của quân Nhật là giật mìn phá đê sông Hoàng Hà. Vì không được báo trước nên ba tỉnh, 11 thành phố và bốn ngàn làng đã bị ngập lụt, hai triệu người mất nhà cửa và mùa màng bị phá hủy. Dầu vậy quân Nhật cũng chỉ bị chận lại chừng ba tuần lễ thôi. Việc phá đê sông Hoàng Hà có nhiều ký giả ngoại quốc chứng kiến, nhưng chính phủ của Tưởng lên tiếng đổ lỗi cho quân Nhật.”
Khi Tưởng bị bắt cóc và bắt buộc phải thành lập Mặt Trận Thống Nhất với quân cộng sản, thì quân cộng sản được tập hợp thành Bát lộ quân do Chu Đức chỉ huỵ Nhưng Bát lộ quân cố tránh né không đụng trận với quân Nhật, để bảo toàn lực lượng. Quân cộng sản chỉ dùng chiến thuật du kích để tránh thiệt hại về quân số, trong khi đó ra sức tuyển mộ thêm quân cho Bát lộ quân. Tại nhiều nơi, quân cộng sản và quân Nhật đóng gần nhau, trông thấy nhau, nhưng hai bên đều không nổ súng. Phần lớn những cuộc giao tranh dữ dội chỉ xảy ra giữa quân Nhật và quân Quốc dân đảng. Phe cộng sản chỉ lo chuẩn bị cho cuộc chiến với Quốc dân đảng sau khi quân Nhật bại trận.
Nhiều tướng lãnh của Quốc dân đảng tỏ ra bất tài, vì thế đến năm 1940- 41, khu vực của cộng sản mở rộng rất nhiều trong khi khu vực của Quốc dân đảng càng ngày càng thu hẹp l�! �i. Trong! khi đó hoạt động tội ác của Lục Hội vẫn không suy giảm vì chiến tranh. Bố già Đỗ Đại Nhĩ được phong chức tướng, và đã khôn ngoan di chuyển tới Trùng Khánh. Bản doanh của Lục Hội tại Thượng Hải được giao cho phụ tá của Đỗ Đại Nhĩ là Cố Tử Chuân. Tưởng giao tất cả trách nhiệm quân sự trong khu vực hạ lưu sông Dương Tử cho em của Cố Tử Chuân là tướng Cố Chúc Đồng.
Lúc đó Quốc dân đảng và cộng sản thành lập Mặt Trận Thống Nhất, và một số đơn vị cộng sản chiến đấu dưới quyền chỉ huy của quân đội Quốc dân đảng. Đệ tứ quân đoàn cộng sản mới được thành lập muốn điều tra khu vực của anh em nhà họ Cố, để có thể mở cuộc tấn công quân Nhật tại Nam Kinh và Hán Khẩu. Đây là một khu vực có sự cộng tác giữa Lục Hội và quân Nhật. Lục Hội được phép buôn lậu thuốc phiện và mặc sức hoạt động tội ác, trong khi Lục Hội phải bảo vệ an ninh cho các trại lính và các cơ sở thương mại của Nhật tại lưu vực sông Dương Tử.
Cố Chúc Đồng lập tức tham khảo với Tưởng Giới Thạch và nhận định rằng đệ tứ quân đoàn là một sự hăm dọa cho lãnh địa của họ Cố. Cố Chúc Đồng ra lệnh cho đệ tứ quân đoàn phải vượt qua sông Dương Tử tới một địa điểm về bắc ngạn con sông. Viên tư lệnh đệ tứ quân đoàn phản đối lệnh của Cố Chúc Đồng, vì nếu thi hành lệnh đó thì cả đệ tứ quân đoàn sẽ phải đi vào chỗ chết, vì bắc ngạn sông Dương Tử là nơi tập trung quân Nhật đông đảo nhất. Đệ tứ quân đoàn đề nghị rút lui theo m�! �t đư�! �ng khác an toàn hơn. Khi phần lớn đệ tứ quân đoàn đã rút lui, chỉ để lại một lực lượng nhỏ chừng năm ngàn quân ở lại bảo vệ bộ tư lệnh, gồm có các cấp chỉ huy cao cấp và một số nữ cán bộ và y tá. Nhưng ngay đêm đó, Cố Chúc Đồng đem quân tới bao vây, và giết tất cả bộ tham mưu của đệ tứ quân đoàn cùng với năm ngàn quân bảo vệ. Các nữ cán bộ và y tá bị bắt hết, và bị quân lính của Cố Chúc Đồng hãm hiếp trong nhiều ngày. Họ bị giữ trong những ổ mãi dâm trong hơn một năm, ngay tại nơi xảy ra cuộc tàn sát. Nhiều người bị mắc bệnh phong tình, và một số tự tử chết.
Cố Chúc Đồng sau được bổ nhiệm làm tổng tham mưu trưởng quân đội Quốc dân đảng. Khi Tưởng Giới Thạch được phỏng vấn về vụ tàn sát này, Tưởng tuyên bố thẳng thừng, “Quân Nhật là bệnh ngoài da, còn cộng sản là bệnh trong tâm can.” Tưởng Giới Thạch nhìn xa, ngay từ đầu đã nhận thấy nguy cơ cộng sản. Tưởng là một người chống cộng quyết liệt nhất cho tới lúc chết. Quốc sách chống cộng của Tưởng đã bị nhiều tướng lãnh Quốc dân đảng bất tài, hoặc chỉ nghĩ đến quyền lợi cá nhân nên đưa đến thất bại bằng những quyết định thiếu chính trị.
Thoạt đầu người Mỹ lạnh nhạt trước nhiệm vụ xin viện trợ của Tống Tử Văn, nhưng sau khi quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng thì người Mỹ vồ lấy người Trung hoa như một đồng minh thiết yếu nhất. Ngoại trưởng Knox tuyên bố với Tống Tử Văn, “Chúng tôi sẽ giết hết những tên da vàng khốn nạn đó.” K! hông đ�! ��y ba tuần sau, Tống Tử Văn được bổ nhiệm làm ngoại trưởng Trung hoa.
Tháng 1- 1942, Tống Tử Văn gặp tổng trưởng tài chánh Morgenthau, trình bày yêu cầu của Tưởng xin vay 500 triệu mỹ kim. Morgenthau tò mò hỏi chương trình sử dụng 500 triệu mỹ kim cần phải vay, vì hiện Trung hoa đã có 650 triệu rồi. Tống Tử Văn kiên nhẫn giải thích rằng Tưởng thống chế cần một tỷ mỹ kim, gồm có 500 triệu của người Anh và 500 triệu của người Mỹ làm quỹ dự trữ để dùng khi nào cần. Mặc dầu có một vài sự phản đối, nhưng tổng thống Roosevelt yêu cầu Quốc hội Mỹ chấp thuận cho Trung hoa vay số tiền đó. Tưởng Giới Thạch đánh điện cho Tống Tử Văn, nhấn mạnh số tiền vay đó không phải trả tiền lời, không đặt điều kiện trả, không bảo đảm và không điều kiện ràng buộc về cách sử dụng. Cuối cùng Tưởng Giới Thạch vay được tiền với điều kiện của Tưởng.
Tưởng Giới Thạch hết sức hài lòng, và đã có được một nguồn tài nguyên vô tận hỗ trợ phía sau, nhờ trận đánh Trân Châu Cảng. Tưởng có toàn quyền chi tiêu số tiền vay mà không cần phải trả lời Quốc hội Mỹ. Tướng Stil
ell đã có nhận xét về thái độ của Tưởng Giới Thạch như sau, “Tôi không bao giờ nghe Tưởng nói một lời để diễn tả lòng biết ơn đối với tổng thống và quốc gia chúng ta về sự trợ giúp to lớn mà chúng ta đã cung cấp cho ông tạ Ông ta luôn luôn đòi hỏi nhiều hơn, và luôn luôn than phiền về những số vật liệu cung cấp cho ông ta là ít ỏi… Ông ta thường phàn nàn rằng người Trung hoa đã phải chiến đấu sáu, bảy năm mà chúng ta không cung cấp cho họ gì cả. Thực là thiếu ngoại giao nếu chúng ta đi sâu vào những nỗ lực quân sự mà Tưởng Giới Thạch đã đạt được từ năm 1938. Quả thực đó chỉ là một con số không.”
Đúng ra mãi đến lúc quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng thì người Mỹ mới thực sự viện trợ cho Tưởng một cách quảng đại, vì lúc đó Tưởng đang đánh kẻ thù của người Mỹ. Năm 1942, bà Tống Mỹ Linh sửa soạn sang Hoa Kỳ để vận động sự ủng hộ của người Mỹ. Tống Tử Văn kịch liệt phản đối việc cô em gái sang Mỹ, vì Tống Tử Văn cho rằng Hoa Kỳ là khu vực hoạt động của riêng ông. Nhưng lý do Mỹ Linh phải đi cầu viện cũng bắt nguồn từ những sự lục đục trong gia đình. Cuộc tình duyên giữa Mỹ Linh và Tưởng Giới Thạch đã có nhiều sóng gió. Tưởng thống chế đang tìm an ủi ở một người đàn bà khác. Mỹ Linh bây giờ gọi Tưởng là “ông ta” chứ không còn gọi là “Tưởng thống chế” hoặc “Tưởng tổng thống” nữa. Có lần bà nổi giận cho biết “Ông ta” chỉ gắn hàm răng giả vào mỗi khi đi thăm “Mụ đàn bà đó.” Một hôm Mỹ Linh bước vào phòng ngủ của Tưởng và trông thấy một đôi giầy cao gót dưới gầm giường. Mỹ Linh liền cầm đôi giầy quăng mạnh ra ngoài cửa sổ, và trúng đầu một tên lính gác đứng bên dưới. Có lần Tưởng không tiếp được khách tới bốn ngày vì mặt Tưởng bị bầm tím, sau khi trúng một bình hoa trong một cuộc đụng độ với Mỹ Linh.
Trong những năm 1940, Tưởng bắt đầu gặp gỡ nhiều người đàn bà khác. Năm 1942, Tưởng gặp lại vợ cũ là Trần Khiết Nhự Tưởng kết hôn với Mỹ Linh vì nhu cầu chính trị, phải vào làm rể nhà họ Tống để thừa hưởng cái gia tài chính trị của Tôn Dật Tiên để lại. Mỹ Linh là một người rất kiêu hãnh và thanh tịnh về tình dục. Vì thế Tưởng vẫn luyến tiếc người vợ rất điệu nghệ trong việc chăn gối là Trần Khiết Như, xuất thân từ các chốn thanh lâu của Thượng Hải. Năm 1927 Tưởng bỏ Trần Khiết Như và bắt nàng phải sang Hoa Kỳ để Tưởng có thể kết hôn với Tống Mỹ Linh. Sau đó Trần Khiết Như bí mật trở về Trung hoa, rồi mang thai, và sinh con năm 1944.
Tưởng đã có tất cả và đạt tới tột đỉnh quyền lực. Bây giờ gia đình nhà họ Tống không còn là một cần thiết nữa. Tuy vậy Mỹ Linh đã trở nên một người đàn bà nổi tiếng khắp thế giới. Một yếu điểm của Mỹ Linh là không sinh con để nối giõi quyền lực của Tưởng. Hai con trai của Tưởng nay đã lớn rồi. Vĩ Quốc đã trở về sau thời gian huấn luyện quân sự tại Đức, và không hòa thuận với Mỹ Linh. Người con trai lớn là Tưởng Kinh Quốc từ Nga sô trở về năm 1937, đem theo một người vợ Nga sộ Khi ra đón con tại phi trường, Tưởng Giới Thạch chỉ vào Mỹ Linh và nói với Tưởng Kinh Quốc, “Bây giờ con lại chào thân mẫu con đị”
Tưởng Kinh Quốc giận dữ trả lời, “Đó không phải là thân mẫu của con, ” rồi bỏ đi về Khê Khẩu, tại đó bà mẹ thực của Kinh Quốc đang chờ đợi. Tưởng Kinh Quốc rất chí hiếu với mẹ. Biến cố tại phi trường ngày hôm đó bắt đầu một cuộc tranh chấp quyền thừa kế địa vị lãnh đạo tối cao của Tưởng Giới Thạch giữa Mỹ Linh và Tưởng Kinh Quốc. Cuối cùng khi phải chạy ra Đài Loan, Tưởng Giới Thạch ngả hẳn về phía con trai, và Tưởng Kinh Quốc được lên kế vị tổng thống.
Một lý do nữa khiến Mỹ Linh phải đi Hoa Kỳ là lý do sức khoẻ. Sức khoẻ của Mỹ Linh lúc đó bỗng nhiên suy đồi mau lẹ. Năm 1942, bà cảm thấy cần phải chữa trị nhiều chứng bệnh, như đau xương sườn, lưng bị trẹo, thần kinh kiệt quệ vì bị mất ngủ, bệnh đau mũi vì hút thuốc lá nhiều quá, các răng cấm bắt đầu hành, và b! ệnh n�! �i mề đay kinh niên. Ngoài ra còn các thương tích ở xương sườn và xương sống xảy ra trong lúc bà đi quan sát chiến trường chống quân Nhật năm 1937. Lần đó, trong lúc bà ngồi trong một chiếc xe bọc sắt, giữa lúc súng đạn hai bên bắn nhau rất dữ dội thì một bánh xe trúng đạn và nổ, khiến chiếc xe trượt và lộn đi. Mỹ Linh bị văng ra ngoài xe và xương sườn bị nứt và xương sống bị trật. Xương sống của bà vẫn gây khó chịu cho bà năm năm sau, mỗi khi có sự căng thẳng về tâm trí.
Trước viễn ảnh cần thiết phải nằm điều trị trong bệnh viện lâu dài, bà không đếm xỉa gì tới sự phản đối của Tống Tử Văn. Năm đó Mỹ Linh đã 45 tuổi và Tưởng Giới Thạch hồ nghi bà bị bệnh ung thư, nên chuyến công du Hoa Kỳ cũng là một cơ hội cho bà thử nghiệm luôn thể.
Một ngày tháng 11- 1942, Mỹ Linh cùng cô cháu gái Khổng Lệnh Tuấn lên một chiếc phi cơ bốn máy do Shelton lái để đi Hoa Kỳ. Trong suốt cuộc hành trình, Mỹ Linh hoàn toàn im lặng, không trao đổi một lời với viên phi công Shelton. Về phần
Tại Hoa Kỳ, Mỹ Linh cho biết mục đích chính của bà đến Hoa Kỳ là chữa bệnh và nghỉ ngơi. Mỹ Linh nằm bệnh viện 11 tuần lễ. Bà đã được nhổ răng cấm, bệnh sổ mũi bớt nhiều. Bà được nhập viện một cách bí mật bằng một tên giả. Trong lúc nằm bệnh viện, Mỹ Linh nghe tin thủ tướng Anh Churchill đến Hoa Thịnh Đốn thăm tổng thống
Trong thời gian Mỹ Linh điều trị tại Mỹ, bà được tổng thống phu nhân
Khi Mỹ Linh ăn tiệc tại tòa Bạch Cung, tổng thống
Sau đó Mỹ Linh đi khắp nước Mỹ, ra mắt quần chúng trong một chiến dịch chinh phục cảm tình của người dân Mỹ đối với công cuộc chiến đấu của Trung hoa. Mỹ Linh ăn mặc rất xa hoa. Đôi giầy của bà gắn những viên ngọc lấy ra từ vương miện Phượng Hoàng của Từ Hy Thái Hậu. Theo vua Phổ Nghi, ông vua cuối cùng của nhà Thanh, các tay đạo tặc đã đào mả Từ Hy Thái Hậu, lôi xác bà lên, lột hết những nữ trang châu ngọc của bà, và một số ngọc được đem tặng cho Mỹ Linh. Mỹ Linh dùng một số viên ngọc gắn lên giầy của bà. Khi chuyến xe lửa của Mỹ Linh tới một thành phố nhỏ tại tiểu bang Utah, dân chúng và ngay cả học sinh có mặt tại nhà ga ngay từ lúc sáng sớm để đón tiếp bà Tưởng Giới Thạch. Khi xe lửa tới nhà ga thì Mỹ Linh còn đang ngủ saỵ Người đầy tớ gái phải mặc giả quần áo của Mỹ Linh, và ra đứng trước sân ga cúi chào một đám đông đang hồi hộp chờ đợi.
Nơi vinh dự nhất cho Mỹ Linh là
orth, Ingrid Bergman, Marlen Dietrich và Shirley Templẹ Bà được thống đốc tiểu bang đi bên cạnh và được các tài tử danh tiếng như Spencer Tracy và Henry Fonda giới thiệu. Một bản nhạc “Tưởng Giới Thạch Phu Nhân Hành Khúc” được cấp tốc soạn ra và được ban đại hòa tấu
Chuyến viếng thăm tranh thủ nhân tâm người Mỹ của Mỹ Linh rất thành công, và có sự hỗ trợ tích cực của chính quyền Hoa Kỳ. Hình ảnh Mỹ Linh được báo Time đăng lên bìa, và người ta gọi bà là “Nàng công chúa Trung hoa.” Chính bộ ngoại giao dùng mật hiệu “Bạch Tuyết” để chỉ Mỹ Linh. Ngày 4- 7- 1943, Mỹ Linh lên đường trở về Trùng Khánh.
Chương 018
Sự Chia Rẽ Trong Nhà Họ Tống
Sự nghiệp chính trị của Tống Mỹ Linh lên đến tột đỉnh tại hội nghị thượng đỉnh Cairo, thủ đô Ai Cập năm 1943, cùng với thủ tướng Anh Churchill và tổng thống Mỹ Roosevelt. Và cũng từ hội nghị này, số phận của Tưởng Giới Thạch bắt đầu đi xuống. Churchill không bao giờ có thiện cảm và tin vào tài năng của Tưởng Giới Thạch, và không bằng lòng họp thượng đỉnh với Tưởng, nhưng vì tổng thống Mỹ Roosevelt nhấn mạnh phải có Tưởng nên Churchill phải nhượng bộ. Sau khi đổ quá nhiều tiền vào Trung hoa,
Sau hội nghị
Lúc đó quân đội cộng sản chưa đủ sức đương đầu với quân Quốc dân đảng. Nửa triệu quân của Tưởng bao vây hồng quân tại miền nam, nhưng hồng quân đã tẩu thoát được lên miền bắc. Về sau mặt trận miền nam giữa quân Nhật và quân Quốc dân đảng yên tĩnh hơn. Tưởng cẩn thận lùi xa, tránh giao chiến với quân Nhật. Tưởng muốn bảo tồn sức mạnh cho mục tiêu quan trọng hơn sau này: Tiêu diệt cộng sản sau khi quân Nhật đã bị đồng minh đánh bại. Chỉ có đạo quân Quốc dân đảng dưới quyền chỉ huy của tướng Stil
ell tại Miến Điện là chiến đấu xuất sắc nhất.
Trong khu vực dưới quyền kiểm soát của Tưởng thì tình trạng tồi tệ rất mau lẹ. Tiền bạc mất giá. Hàng hóa đắt đỏ đến nỗi chỉ những viên chức và sĩ quan mới mua nổi. Tưởng ủng hộ chính sách định giá để tránh lạm phát, nhưng các thương gia và kỹ nghệ gia lập tức dấu hàng hóa để chờ lúc có giá mới bán. Từ đó nạn thiếu thực phẩm trở nên trầm trọng, và nạn đói gia tăng. Nhiều người trước kia nồng nhiệt ủng hộ Quốc dân đảng, bây giờ căm phẫn và c! hống lại sự bất lực của Quốc dân đảng. Nhiều người chống đối đã trở thành nạn nhân của mật vụ. Những kẻ dám công khai chỉ trích chính phủ thì thường bị bắt giữ, tra tấn, chặt đầu hoặc bị bỏ chết đói, hoặc trở thành người nghiện thuốc phiện trong các trại giam của Thái Lý.
Tưởng càng lúc càng thêm độc tài, và tước đoạt dần quyền hành của gia đình nhà họ Tống, và giao quyền hành của nhà họ Tống cho anh em Trần Quả Phụ Mối liên hệ giữa Tưởng và nhóm anh chị Lục Hội cũng chặt chẽ hơn, so với gia đình nhà họ Tống. Tưởng cần phải củng cố địa vị của mình. Tuy vậy ảnh hưởng của nhà họ Tống không suy yếu ngaỵ Họ vẫn giữ vững được địa vị và tài sản hiện đang có, tuy nhiên anh em nhà họ Trần đang vượt qua mặt nhà họ Tống về quyền lực và tiền bạc. Chủ trương tự do dân chủ của nhà họ Tống bây giờ bị bãi bỏ. Vì Tưởng dựa vào anh em nhà họ Trần và Thái Lý, nên Tưởng nghiêng về đường lối cai trị sắt máu. Tưởng rất được sự ủng hộ của Harry Hopkins, cố vấn chính trị của tổng thống
Tháng 4- 1945, mười lăm sư đoàn Nhật mở cuộc tấn công mới, và 300 ngàn quân Quốc dân đảng tan rã mau lẹ. Đôi khi chỉ cần 500 quân Nhật cũng đủ đuổi hàng ngàn quân Quốc dân đảng chạy bán sống bán chết. Các tướng tư lệnh Quốc dân đảng dùng xe vận tải chở gia đình và tài sản chạy sâu vào nội địa. Nhiều ông tướng Quốc dân đảng bán các đồ viện trợ của Mỹ cho quân Nhật, hoặc bán ra thị trường chợ đen. Chỉ tội nghiệp các binh sĩ cấp dưới phải chiến đấu rất thiếu phương tiện, và bị bắt buộc làm bia cho súng đạn của quân Nhật một cách đáng thương. Chính sách của Hoa Kỳ tại Trung hoa trong nhiều năm đã đặt căn bản trên những nhân vật của dòng họ Tưởng, họ Tống, họ Khổng và họ Trần, chứ không căn cứ vào hoàn cảnh thực sự của dân và nước Trung hoa.
Gia đình nhà họ Tống là những người rất ham mê tiền bạc, và có tài thu hút được tiền bạc vào tay họ. Khi Tống Tử Văn thăm viếng Hoa Kỳ, ông thành lập công ty Universal Trading Corporation do người Trung hoa điều khiển, và đã du di rất nhiều tiền viện trợ Mỹ vào các trương mục của công ty này. Các tổ chức kinh tài của nhà họ Tống được điều hành rất chặt chẽ và tàn ác. Nếu ai đi chệch đường lối thì hoặc sẽ được mua chuộc cho trở lại, hoặc bị thủ tiêu ngaỵ Bộ Ã"c chính của nhà họ Tống là Tống Ái Linh, một người đàn bà rất thông minh nhưng tàn ác. Ái Linh ngồi phía sau điều khiển tất! cả mọi dịch vụ của gia đình. Tống Tử Văn là người điều khiển mặt nổi.
Có lần một tàu hàng chở 60 chiến xa mới của Mỹ cho quân Quốc dân đảng, được báo cáo bị chìm. Nhưng thực ra thì chiếc tàu chở hàng này chưa bao giờ ra khơi, và 60 chiến xa cũng chưa bao giờ được chế tạo, nhưng số tiền trả cho 60 chiến xa ấy đã tìm đường chạy vào túi nhà họ Tống. Theo đại sứ Hồ Thích của Trung hoa tại Hoa Kỳ thì một vài tổ chức tư nhân của Mỹ mời bà Khánh Linh viếng thăm Hoa Kỳ, nhưng bà được nhà họ Tống nói thẳng cho biết bà sẽ không bao giờ được phép xuất ngoại. Chính những người nhà họ Tống đã tìm cách ngăn chặn, giữ bà Khánh Linh ở lại Trùng Khánh như một tù nhân. Chính bà Khánh Linh đã cho biết bà rất sợ “đám cướp nhà họ Tống” sẽ giết bà, vì sợ bà phanh phui những thủ đoạn bòn rút tiền viện trợ của những người trong nhà họ Tống.
Thoạt đầu chỉ có bà Khánh Linh đứng tách hẳn những người khác trong gia đình họ Tống, vì bà không chịu nổi lòng ham tiền bạc và say mê quyền lực của họ. Nhưng về sau đã có sự bất hoà giữa Ái Linh, Mỹ Linh và Tống Tử Văn, vì Tống Tử Văn tỏ ra quá độc lập và thường lấy phần hơn về cho mình. Tống Tử Văn đã làm Tưởng tức giận và vợ chồng Khổng Tường Hy phải cảnh giác đề phòng. Sự hục hặc giữa những người trong nhà họ Tống bắt đầu vào tháng 11- 1943, và tất cả đề nghị một cuộc gặp gỡ hòa giải vào tháng 12. Nhưng trong lần hòa giải này, Tưởng đã nổi nóng và liệng một tách trà vào đầu T�! �ng Tử ! Văn, và cuộc hòa giải tan vỡ.
Không phải chỉ mình Ái Linh và Mỹ Linh nghĩ rằng không thể kiểm soát được Tống Tử Văn, mà chính anh em Trần Quả Phu và Tưởng cũng cố gắng chuyển tiền viện trợ Mỹ từ tay Tống Tử Văn vào sự kiểm soát của Khổng Tường Hỵ Nhưng Tống Tử Văn không dễ dàng gì đầu hàng. Tống Tử Văn lập tức đặt các tổ chức kinh tài hải ngoại của mình ra ngoài tầm tay của Tưởng. Ngay sau màn bị ném tách trà vào đầu tại Trùng Khánh, Tống Tử Văn phái em trai là Tống Tử Lương sang Hoa Kỳ trông coi việc dùng tiền viện trợ để mua bán những thứ cần dùng gửi về Trung hoa. Trong thời kỳ này, nhiều kho hàng của Trung hoa tại Hoa Kỳ bị khai báo có hỏa hoạn hoặc bị phá hoại, và rất nhiều hàng hóa được khai là thất lạc, trong khi đó thì người lính tại Trung hoa phải chiến đấu thiếu thốn đủ mọi thứ. Các cuộc hỏa hoạn ma đã giúp nhà họ Tống thu hút được cả tỷ đô la tiền viện trợ của Mỹ. Kỹ thuật ăn cắp này cũng thường xảy ra tại Trung hoa nữa. Một ông tướng điều khiển ngành chuyển vận có biệt tài làm cho hàng trăm xe vận tải chứa đầy hàng hóa biến mất.
Viên giám đốc hãng Chuyên Chở Tây Nam có 600 xe vận tải chở hàng cho quân đội cũng chính là Tống Tử Lương. Chỉ sau khi tới Trung hoa chừng hai tiếng đồng hồ thì những hàng hóa viện trợ Mỹ xuất hiện ngay tại chợ trời. Tổng cộng khoảng 3.5 tỷ đô la viện trợ Mỹ đã đi qua bàn tay của anh em Tống Tử Văn và Tống Tử Lương. Rất ít hàng hóa viện trợ tới được nơi nhận. Một nhân viên ngoại giao Anh quốc nhận xét, “Anh em nhà họ Tống đã bỏ túi hàng t�! � đô la! viện trợ Mỹ, và phần lớn số tiền này không bao giờ đi ra ngoài Hoa Kỳ.”
Khi chuyển địa bàn hoạt động của Tống Tử Lương từ Trung hoa sang Hoa Kỳ, Tống Tử Văn đã đặt em mình ra ngoài phạm vi quyền hạn của Tưởng Giới Thạch, anh em nhà họ Trần và trùm mật vụ Thái Lý, và cả bà chị Ái Linh nữa. Tống Tử Văn thuyết phục anh em Trần Quả Phu rằng họ nên đề phòng vợ chồng Khổng Tường Hy, chứ không cần phải lo ngại mình. Thực ra anh em Trần Quả Phu vốn đã ghét và sợ Ái Linh từ lâu rồi. Ngay Khánh Linh cũng đã nói về bà chị của mình, “Nếu ÁI Linh là đàn ông thì Tưởng Giới Thạch đã bị giết rồi, và chính Ái Linh đã cai trị Trung hoa từ 15 năm về trước.”
Mỹ Linh không có khả năng như bà chị cả, và có vẻ thất bại trong cuộc tranh chấp quyền hành với con trai của chồng. Kể từ lúc Mỹ Linh ở Hoa Kỳ trở về Trùng Khánh, tình chồng vợ giữa Tưởng và Mỹ Linh cũng chẳng tốt đẹp hơn trước. Nhưng Mỹ Linh không dễ dàng đầu hàng hoàn cảnh. Mỹ Linh bây giờ tuy vẫn còn đẹp, nhưng bà có vẻ mệt mỏi và buồn bã.
Tuy vậy lòng kiêu hãnh của bà khiến bà vẫn giữ được bề ngoài là một bậc nữ lưu quyền cao chức trọng. Bà cho rằng đời sống phải là giữ vững được lý tưởng và tinh thần hài hước để có thể đương đầu với hoàn cảnh. Trong lúc dự hội nghị
Thỉnh thoảng người ta mới thấy bà đứng bên cạnh chồng, nhưng hai người có vẻ lạnh lùng với nhau. Bà có bệnh về da nên cố tránh các nhiếp ảnh gia. Và kể từ đây quyền lực nhà họ Tống bắt đầu đi xuống. Vợ chồng Khổng Tường Hy và Mỹ Linh bị mọi phía công kích. Người ta cho rằng hôn nhân giữa Tưởng và Mỹ Linh là vì lý do chính trị, và Tưởng loại Mỹ Linh khi không còn cần đến bà nữa. Mỹ Linh sửa soạn cho một chuyến đi nghỉ hè lâu dài tại ngoại quốc.
Tháng 6- 1944, Khổng Tường Hy bị cách chức bộ trưởng tài chánh, và Mỹ Linh rời Trung hoa sang Ba Tây, Nam Mỹ. Lần đầu tiên Ái Linh cùng xuất ngoại với em gái và các con. Người ta đồn đãi Ái Linh bị loại trong một cuộc tranh chấp quyền lực. Mỹ Linh tới Ba Tây để chữa bệnh, trong lúc Ái Linh thương thảo với các lãnh tụ Ba Tây để chuyển các trương mục và mua một số tài sản và doanh thương tại Sao Paulo, thủ đô Ba Tây. Gia đình nhà họ Tống trải tài sản khắp Nam Mỹ, đầu tư vào các kỹ nghệ dầu hỏa, khoáng sản và hàng hải, và thị trường chứng khoán. Đến tháng 9- 1944, hai chị em Ái Linh và Mỹ Linh bay về New York, và đến tháng 10 thì dọn vào ở dinh thự của họ Khổng tại Riverdale.
Tháng 11- 1944, tờ Daily Mail tại Luân Đôn loan tin Mỹ Linh từ bỏ chồng và sống vĩnh viễn tạ! i Hoa Kỳ. Tưởng và Mỹ Linh sẽ không ly dị nhau, sợ có hại cho tinh thần quân dân Trung hoa, nhưng Trần Khiết Như, người vợ cũ của Tưởng, cùng đứa con mới sinh đã dọn vào dinh tổng thống ở với Tưởng. Hai người con khác của Tưởng là Tưởng Kinh Quốc và Tưởng Vĩ Quốc đang hoạt động tích cực trong quân đội Quốc dân đảng. Mỹ Linh ở lại Hoa Kỳ cho tới tháng 7- 1945 mới trở lại Trùng Khánh.
Khoảng cuối năm 1943, các tướng trẻ của Trung hoa, những người tiến lên nắm các chức tư lệnh bằng chiến công trong thời chiến, quyết định rằng nếu muốn cứu vãn Trung hoa thì cần phải loại bỏ Tưởng Giới Thạch và bè lũ tham nhũng của Tưởng ngay tức khắc. Các tướng này bày tỏ quan điểm với tướng Mỹ Timberman, người phụ trách huấn luyện cho quân đội Quốc dân đảng tại miền đông, và yêu cầu ông tìm sự hỗ trợ của người Mỹ trong việc loại bỏ Tưởng và phe nhóm của Tưởng. Người Mỹ chính thức từ chối, nhưng cơ quan OSS âm thầm trợ giúp các tướng trẻ, và sửa soạn một cuộc đảo chánh. Cuộc đảo chánh dự định vào dịp kỷ nhiệm ngày Tưởng bị bắt cóc tại Tây An, trong lúc Tưởng đi Cairo Ai Cập dự hội nghị thượng đỉnh với
Tuy nhiên Thái Lý biết được âm mưu đảo chánh Tưởng, và trưng bằng cớ chứng minh những người trong chính gia đình nhà họ Tống tổ chức và tham gia cuộc đảo chánh. Không biết điều Thái Lý nói có đúng sự thực hay không, nhưng đây là một cơ hội tốt cho Thái Lý và anh em Trần Quả Phu ra tay triệt hạ gia đình họ Tống. Tuy nhiên Tống Tử Văn vẫn thoát hiểm, và vẫn giữ được quyền lực của mình. Với sự đồng ý của Tưởng, Thái Lý bắt giữ hơn 600 sĩ quan, và ngày Tưởng từ Cairo trở về thì 16 tướng trẻ và có khả năng nhất bị đem xử tử. Ngay sau đó Tưởng phục hồi chức vụ cho Tống Tử Văn, và ra lệnh cho Khổng Tường Hy phải đem vợ con ra khỏi Trung hoa.
Vợ chồng Ái Linh thua cuộc trong khi Tống Tử Văn không hề hấn gì, có lẽ vì Tống Tử Văn đi theo Thái Lý và anh em Trần Quả Phụ Cuối năm 1944, Tống Tử Văn lại nắm chức quyền thủ tướng, và vẫn kiêm nhiệm chức bộ trưởng ngoại giao. Sáu tháng sau, Tống Tử Văn được cử làm thủ tướng, kiêm nhiệm bộ trưởng ngoại giao, và còn được giao thêm chức bộ trưởng tài chánh của Khổng Tường Hỵ Tống Tử Văn trở thành một người mạnh nhất Trung hoa, ít nhất là trên giấy tờ.
Đây là giai đoạn đi xuống của gia đình nhà họ Tống, khi anh chị em chia rẽ nhau vì quyền lợi. Kể từ năm 1944, trừ Khánh Linh, mọi người trong nhà họ Tống nỗ lực xây dựng tài sản của họ tại Hoa Kỳ nhiều hơn là tại Trung hoa. Tài sản nhà họ Tống lên đến trên ba tỷ đô lạ Theo Bách Khoa Tự Điển của Anh Quốc ! thì Tống Tử Văn được coi là người giầu có nhất thế giới.
Chương 019
Những Ngày Cuối Cùng Tại Trung Hoa
Người ta phải sống tại Trùng Khánh mới cảm thấy được ảnh hưởng lớn của những nhân vật cao cấp trong Quốc dân đảng. Chính phủ kiểm duyệt gắt gao mọi tin đồn xấu xa về các tệ đoan của chính quyền, trong khi tham nhũng thối nát thì đầy rẫy khắp nơi. Người ta không còn được công khai bàn thảo những vấn đề thời sự quan trọng hàng đầu của Trung hoa, như: Nạn đói, lạm phát, mối liên hệ với ngoại quốc hoặc nhân cách của những viên chức cao cấp trong chính quyền.
Bầu không khí căng thẳng ngột ngạt của Trùng Khánh đã ảnh hưởng tới tâm thần của những người sinh sống tại đây. Tại Trung hoa có tới hai loại mật vụ. Một ngành phục vụ cho Hội đồng Quân sự Quốc gia, và một ngành trực thuộc Quốc dân đảng. Điệp viên và mật vụ của hai ngành này hiện diện khắp nơi. Người dân Trung hoa tại bất cứ đâu cũng có thể bị mật vụ bắt, ném vào trại giam hoặc trại tập trung vì bất cứ lý do gì, hoặc cũng chẳng cần lý do gì.
Quốc dân đảng đang bị chi phối bởi một nhóm người tham nhũng, dưới quyền kiểm soát của anh em Trần Quả Phụ Quốc dân đảng đã thực sự kiểm soát được tư tưởng của quốc gia bằng sự kết hợp của mật vụ, quyền lãnh đạo, gián điệp và quyền hành chánh. Trần Quả Phu, người anh lớn, kiểm soát mọi sự gặp gỡ với Tưởng Giới Thạch. Mọi giấy tờ trước khi chuyển tới tay Tưởng đều được Trần Quả Phu kiểm soát trước. Trần Quả Phu chỉ muốn Tưởng được gặp, được đọc những gì có lợi cho anh em nhà họ Trần. Người em là Trần Lập Phu còn quan trọng hơn nữa. Trần Lập Phu là một người �! �ẹp trai, làm việc không biết mệt. Người ta nói Trần Lập Phu cũng tạo được những thành tích văn chương rất đáng kể.
Tưởng Giới Thạch hoàn toàn xa lìa thực tế. Một hôm Tưởng rất đỗi kinh ngạc khi nghe tin lính Quốc dân đảng chết đói ngoài đường phố Trùng Khánh. Tham nhũng đã bóc lột cả phần ăn ít ỏi của người lính. Tưởng phái người con cả là Tưởng Kinh Quốc đi điều trạ Khi Kinh Quốc xác nhận việc lính chết đói là có thực, Tưởng đòi tự mình đi để trông thấy tận mắt. Kinh Quốc cho Tưởng xem một trại tân tuyển có những người lính mới chết đói vì sự tham nhũng và tắc trách của cấp chỉ huỵ Tưởng nổi giận cầm can vụt vào mặt viên sĩ quan chỉ huy, tống viên sĩ quan ấy vào tù, và bổ nhiệm người khác thay thế. Tuy vậy lính Quốc dân đảng vẫn tiếp tục chết đói. Tháng 8- 1944, người ta nhặt được 138 xác quân nhân chết đói ngoài đường phố Trùng Khánh. Con số thường dân chết đói thì rất nhiều, trong lúc các nhà quyền quý mở những bữa tiệc thật lớn, đến nỗi thực khách phải móc họng nôn đồ ăn trong bụng ra, để có thể tiếp tục ăn nữa.
Tưởng Giới Thạch viết một cuốn sách, cuốn Định Mệnh Trung Hoa, cố tình bóp méo sự thực để minh chứng cho hành động của mình. Tưởng đổ lỗi cho các thế lực ngoại quốc đã gây nên nỗi thống khổ của người Trung hoa. Trong số những người trong gia đình nhà họ Tống thì chỉ còn một mình Tống Tử Văn còn hợp tác với Tưởng. Tống Tử Văn đại diện cho Tưởng gặp gỡ những người mà Tưởng không ưa. Họ Tống đảm nhiệm chức vụ quyền thủ tướng, và kiêm chức bộ trưở! ng ngoạ! i giao. Tống Tử Văn sống một một cuộc đời cực kỳ xa hoa giữa một xã hội thượng lưu tham nhũng thối nát và hàng triệu người Trung hoa chết đói. Cuộc đời của Tống Tử Văn cứ thế lên mãi cho đến khi xảy ra vụ “Quan tiền vàng.”
Vì đồng tiền Trung hoa bị lạm phát mất giá nên Tưởng đưa ra một kế hoạch mới, đặt ra một đơn vị tiền tệ mới, có vàng bảo đảm, gọi là “Quan tiền vàng.” Tưởng muốn quần chúng nộp vàng cho chính phủ và đổi lấy tiền giấy bảo đảm của Tưởng. Tống Tử Văn tiết lộ tin này ra cho một số người thân tín biết, nên họ vội rút vàng trong ngân hàng ra, nếu không sẽ bị Tưởng đổi vàng lấy tiền giấy. Hôm đó là ngày Thứ Sáu. Lệnh mới của Tưởng sẽ áp dụng vào ngày Thứ Hai tuần lễ sau đó. Một số người biết tin lập tức rút vàng cất đi, và đổ xô mua thêm vàng nữa, vì tuần lễ sau đó vàng chắc chắn sẽ lên giá. Ngân hàng hôm đó phải mở cửa tới 9 giờ tối để thỏa mãn nhu cầu của người mua vàng. Cơn sốt vàng lan rộng ra nhiều thành phố khác. Tưởng nổi giận Tống Tử Văn đã biến Tưởng thành một trò hề trước quần chúng, nên yêu cầu Tống Tử Văn từ chức thủ tướng, và bổ nhiệm họ Tống vào chức tỉnh trưởng Quảng Đông. Chức vụ tỉnh trưởng Quảng Đông là một cơ hội may mắn cho Tống Tử Văn, đặt họ Tống một vị trí thuận tiện nhất để chuyển tài sản ra Hương Cảng.
Tưởng Giới Thạch cử người con trai Tưởng Kinh Quốc vào nhiệm vụ thi hà! nh luật! lệ tiền tệ mới. Tưởng Kinh Quốc được lệnh giải quyết vùng Thượng Hải trước. Kinh Quốc đã thi hành thật đúng lệnh của Tưởng, tích cực chống lại tham nhũng, thị trường đen và áp dụng luật sắt máu mà Kinh Quốc học được từ Nga sô, như thiết lập tòa án ngoài đường phố và xử tử nạn nhân ngay tại chỗ. Biện pháp mạnh của Kinh Quốc cũng có hiệu quả một phần nào, nhưng Kinh Quốc đã phạm phải hai lỗi lầm lớn. Kinh Quốc đã bắt giam con trai của Bố già Đỗ Đại Nhĩ, vì con trai của Đỗ Đại Nhĩ đã bán hàng triệu cổ phần chứng khoán ra thị trường ngay trước khi luật lệ mới về tiền tệ có hiệu lực. Hiển nhiên Bố già Đỗ Đại Nhĩ đã ngầm báo cho con trai biết sự thay đổi của luật lệ.
Con trai của Bố già Đỗ Đại Nhĩ tốt nhgiệp trường đại học MIT danh tiếng của Mỹ, và đã bị Kinh Quốc đem xử và kết án mau lẹ. Tuy nhiên con trai của Đỗ Đại Nhĩ chỉ bị phạt 8 tháng tù về tội bán các cổ phần chứng khoán trái luật, nhưng hắn không phải ngồi tù ngày nào, nhờ sự can thiệp mạnh mẽ của Bố già Đỗ ĐạI Nhĩ. Sự bắt giữ và xử tội con trai Bố già Đỗ Đại Nhĩ là dấu hiệu của một sự thay đổi mới, và Thượng Hải bây giờ không còn là Thượng Hải trước kia nữa. Có lẽ một phần vì Đỗ Đại Nhĩ đã già yếu rồi, sau nhiều năm nghiện hút, không còn nắm vững được Lục Hội như trước. Cuối cùng bị áp lực từ bên trong Lục Hội, Đỗ Đại Nhĩ bắt đầu di chuyển tài sản sang Hương Cảng, và Đỗ Đại Nhĩ phải sống chuỗi ngày tàn tại Hương Cảng.
L�! ��i lầm! thứ hai của Kinh Quốc là bắt giam Khổng Lệnh Kiệt, con trai của ÁI Linh và là cháu ruột của Mỹ Linh. Kinh Quốc khám phá được nhiều hàng hóa Mỹ và Âu Châu trong kho hàng của hãng Phát Triển Dương Tử Giang. Kinh Quốc ra lệnh bắt giữ tổng giám đốc là Khổng Lệnh Kiệt. Mỹ Linh đang ở Nam Kinh thì được tin không may đó. Bà tức giận và chất vấn chính Tưởng Giới Thạch, nhưng Tưởng từ chối không trả lời vì không biết gì về nội vụ. Mỹ Linh bay ngay đến Thượng Hải và yêu cầu giao lại Khổng Lệnh Kiệt cho bà. Sau đó Mỹ Linh gửi Khổng Lệnh Kiệt đi Hương Cảng và đi thẳng
Kinh Quốc bắt giữ Khổng Lệnh Kiệt và con trai Đỗ Đại Nhĩ có thể là do lòng nhiệt tâm muốn giữ cho luật lệ được thi hành đúng đắn, mà cũng có thể là thâm ý muốn triệt hạ uy tín địch thủ của mình là Tống Mỹ Linh. Cả Mỹ Linh và Kinh Quốc đều muốn kế vị Tưởng. Tuy nhiên sau vụ này, Kinh Quốc bị Tưởng khiển trách. Bị mất mặt, Kinh Quốc từ chức, và thua bà kế mẫu hiệp đụng độ đầu tiên.
Tưởng Kinh Quốc có ba con trai là Tưởng Hiếu Văn, Tưởng Hiếu Vũ, Tưởng Hiếu Dũng, và một con gái là Tưởng Hiếu Chương. Đó là những đứa con chính thức với vợ cả người Ngạ Nhưng hồi năm 1938, khi được 30 tuổi, Tưởng Kinh Quốc được bổ nhiệm làm chuyên viên hành chánh khu Cán Nam. Tại đây Kinh Quốc ban hành lệnh cấm hút thuốc và cờ bạc, và mở lớp huấn luyện thanh niên cả nam và nữ để đào tạo những cán bộ có khả năng hoạt động cho các chương trình của nhà nước. Trong một lớp học, Kinh Quốc chú ý tới một thiếu nữ rất xinh đẹp, và người thiếu nữ này cũng thường nhìn Kinh Quốc một cách khâm phục trìu mến.
Người thiếu nữ ấy là Chương Á Nhược, một người thông minh, lịch thiệp và có một nhan sắc mê hồn. Lúc ấy Kinh Quốc để vợ và các con ở lại Phụng Hóa, và sống một mình tại Cán Nam. Dần dần Chương Á Nhược và Kinh Quốc trở nên thân mật, và Á Nhược giúp Kinh Quốc rất nhiều trong cả công việc hành chánh và đời sống riêng tư của Kinh Quốc. Rồi hai người yêu nhau say đắm, và Á Nhược dọn về sống chung với Kinh Quốc. Người vợ cả của Kinh Quốc là người Nga, nên Kinh Quốc cảm thấy có sự khác biệt về văn hoá, nên khi gặp Á Nhược, một thiếu nữ Trung Hoa dịu dàng khả ái, Kinh Quốc tìm thấy hạnh phúc mà từ trước Kinh Quốc chưa bao giờ được hưởng. Nhưng Kinh Quốc không dám công khai kết hôn với Á Nhược, vì sợ tai tiếng có hại cho sự nghiệp chính trị, nhất là Kinh Quốc đang lép vế trước một Tống Mỹ Linh đầy uy quyền. Kinh Quốc khuyên Á Nhược tạm thời nhẫn nhục và tránh có thai.
Nhưng Á Nhược vừa yêu vừa phục Kinh Quốc nên muốn có một đứa con để ràng buộc với Kinh Quốc, và tạo một địa vị trong gia đình họ Tưởng. Hai người sống chung một thời gian thì Á Nhược hân hoan báo cho Kinh Quốc biết nàng đã có thai. Kinh Quốc lo lắng gửi Á Nhược tới tạm trú tại trường lục quân Quế Lâm. Đến ngày lâm bồn, Á Nhược rất sung sướng khi sinh đôi được hai đứa con trai. Nhưng Á Nhược không sống được lâu để hưởng hạnh phúc chồng con. Chỉ vài ngày sau khi sinh con, Á Nhược chết một cách bí mật, trước khi gặp lại người tình yêu dấu. Cái chết bí ẩn của Á Nhược đã giúp Kinh Quốc vượt qua được một vụ tai tiếng chính trị, nhưng không phải là Kinh Quốc không đau lòng. Kinh Quốc đặt tên cho hai đứa con là Chương Hiếu Nghiêm và Chương Hiếu Từ. Kinh Quốc không dám cho hai con trai của Á Nhược mang họ Tưởng, và gửi chúng về cho cho người em ruột của Á Nhược là Chương Hạo Nhược nuôi nấng.
! Hiếu ! Nghiêm và Hiếu Từ về sau du học tại Hoa Kỳ, cùng đậu tiến sĩ và giữ những địa vị quan trọng tại Đài Loan. Tuy vậy Tưởng Kinh Quốc không dám công khai nhìn nhận hai đứa con trai ngoại hôn, vì quyền lợi chính trị. Có thể Kinh Quốc đã ngầm giúp đỡ Hiếu Nghiêm và Hiếu Từ. Mãi sau này khi Kinh Quốc chết, Tống Mỹ Linh cho phép Hiếu Nghiêm và Hiếu Từ được chính thức về chịu tang thân phụ.
Trong thời gian còn làm chúa tể Hoa Lục, Tưởng Giới Thạch nghiêng về Tống Mỹ Linh trong cuộc tranh chấp quyền thừa kế chính trị giữa Tống Mỹ Linh và Tưởng Kinh Quốc, vì lúc đó vai trò của Tống Mỹ Linh có lợi cho Tưởng Giới Thạch hơn. Nhưng dần dần ảnh hưởng của Mỹ Linh với Tưởng Giới Thạch cũng suy giảm đi, khi mà Tưởng thấy không còn cần đến sự trợ giúp của nhà họ Tống nữa, đặc biệt là sau khi chạy ra hải đảo Đài Loan. Sau nột năm sống tại Hoa Kỳ, Mỹ Linh trở về Trung hoa khi đệ nhị thế chiến chấm dứt. Bề ngoài người ta tưởng cuộc tình duyên giữa Tưởng và Mỹ Linh vẫn tốt đẹp như trước. Khi Mỹ Linh trở về thì cũng là lúc Trần Khiết Như ra đi. Trần Khiết Như đã sinh được một con trai cho Tưởng Giới Thạch, nhưng hình như đứa bé chết yểu. Trần Khiết Như trở lại California, và cuối cùng quay về sống tại Hương Cảng cho tới lúc chết, đem theo nhiều bí ẩn về cuộc tình giữa nàng và Tưởng.
Tình hình quân sự và chính trị của Trung hoa mỗi lúc một thêm đen tối. Lực lượng cộng sản do Mao Trạch Đông lãnh đạo ngày một tiến thêm và mạnh thêm trong khi khu vực của Tưởng ngày một thu hẹp lại. Người Mỹ cũng có một cái nhìn khác! về Tru! ng hoa. Trong cuộc tranh cử tổng thống năm 1948, phe Tưởng liên kết với ứng cử viên cộng hòa Thomas Dewey chống lại tổng thống Truman. Nhưng cuối cùng Truman thắng cử. Truman từ chối viện trơ' ạt cho Tưởng để đánh lại cộng sản. Mỹ Linh qua thủ đô Hoa kỳ yêu cầu một ngân khoản trợ cấp 3 tỷ đô la, trong lúc Quốc hội với đa số thuộc đảng Cộng Hòa chỉ chấp thuận cho Tưởng vay một tỷ đô lạ Người Mỹ cho rằng đã quá trễ để trợ giúp Tưởng.
Trong năm 1948, viễn tượng thất bại của Tưởng đã quá rõ ràng. Đúng ngày bầu cử tổng thống Mỹ năm 1948, cộng quân mở cuộc tấn công vào đạo quân Quốc dân đảng trấn giữ vùng đồng bằng Trung hoa tại Hoài Hải. Trận đánh kéo dài hai tháng và quân Quốc dân đảng thất trận. Trong số 550 ngàn quân Quốc dân đảng tại Hoài Hải thì 325 ngàn bị cộng quân bắt làm tù binh. Trong những giây phút cuối cùng của trận đánh, Tưởng ra lệnh oanh tạc chính quân Quốc dân đảng để tránh đồ quân nhu rơi vào tay cộng sản.
Chuyến đi cầu viện của Mỹ Linh hoàn toàn thất bại, và bà chán nản lui về sống ẩn dật trong khu dinh thự của nhà họ Khổng tại New York. Trong lúc đó tổng thống Truman nói về những con người lừa đảo trong chính phủ Trùng Khánh, và cho rằng một tỷ đô la viện trợ của Mỹ hiện đang ở ngay Hoa Kỳ, trong những trương mục của các viên chức thối nát Quốc dân đảng. Khi thế chiến thứ hai chấm dứt, chế độ Quốc dân đảng sụp đổ mau lẹ, như một cây cột đã bị thối mục bên trong.
Cuộc điều tra của Hoa Kỳ cho thấy nhiều trương mục của Khổng Tường Hy và Tống Tử Văn đến từ các ngân hàng của chính hai người này tại Trung hoa. Nhiều người trong nhà họ Tống làm chủ nhiều bất động sản tại khắp nước Mỹ. Tống Tử Văn và Khổng Tường Hy làm chủ nhiều chứng khoán rất lớn. Nhiều nhân viên làm việc tại sứ quán Trung hoa cuối cùng trở thành tù nhân bên trong khu dinh thự của nhà họ Khổng. Những người này không được viết thư về quê nhà, không được ra khỏi khu vực, và không được trả lương. Một số bỏ trốn, nhưng bị bắt lại. Nhà họ Khổng dạy các người dám bỏ trốn này một bài học bằng cách treo họ lên trần nhà, và đánh đập tàn nhẫn.
Sau này trong một cuộc phỏng vấn, tổng thống Truman nhận xét về gia đình nhà họ Tống, “Tất cả họ là những tên ăn cắp, từng người một. Họ ăn cắp trên 750 triệu đô la trong số 3 tỷ 8 mà chúng ta gửi viện trợ cho Tưởng. Họ ăn cắp tiền đó và đầu tư về nhà đất tại Ba Tây và ngay tại
Tại Trung hoa, Tưởng rất bận rộn sửa soạn cho cuộc đào tẩu ra Đài Loan. Một người dám ra lệnh ném bom vào ngay quân của mình để giữ một ít đồ quân nhu khỏi rơi vào tay cộng sản, thì sẽ không bao giờ để lại tài sản của mình mà không mang theo. Tưởng đặt những người trung thành nhất vào công việc vơ vét tiền bạc tại các ngân hàng, và đồ quý vật tại các bảo tàng viện. Từ nhiều năm trước, Tưởng theo lời một cố vấn, đã cất dấu kho tàng nghệ thuật từ thời vua Càn Long, ông vua thứ tư nhà Thanh. Triều đại Càn Long là một thời kỳ vàng son của văn học nghệ thuật Trung hoa, và vua Càn Long đã thu thập nhiều tác phẩm nghệ thuật thành một bảo tàng viện đầu tiên của Trung hoa. Bây giờ Tưởng coi kho tàng này là di sản thuộc về mình. Các nhân viên của Tưởng đóng những nghệ phẩm thành từng kiện hàng, rồi di chuyển từ Bắc Kinh xuống Nam Kinh, và các tỉnh hẻo lánh, để tránh bị Nhật Bản và cộng sản chiếm được.
Trước khi trận đánh quyết định Hoài Hải kết thúc, trên hai trăm ngàn họa phẩm, đồ sứ quý, ngọc thạch và tượng đồng được di chuyển qua Đài Bắc. Mười một ngày trước khi trận Hoài Hải chấm dứt, Tưởng từ chức tổng thống ngày 21- 1- 1949. Tưởng nhận thấy tình thế tuyệt vọng nên từ chức để tránh cái nhục bại trận. Nhưng tuy đã từ chức, Tưởng vẫn giữ quyền lực trong tay, vẫn có quân đội, công chức, vật liệu, phi cơ, tất cả vẫn chờ đợi lệ! nh Tưởng. Các tướng Quốc dân đảng vẫn mong đợi một cơ hội nắm quyền, và chức tổng thống rơi vào tay một địch thủ của Tưởng trong Quốc dân đảng là tướng Lý Tông Nhân. Việc làm đầu tiên của Lý Tông Nhân là tìm cách thương thuyết với Mao Trạch Đông. Điều kiện của Mao là phải nộp vợ chồng Tưởng Giới Thạch, Tống Tử Văn, và vợ chồng Khổng Tường Hy để xử tội. Tuy nhiên những người Mao Trạch Đông muốn bắt giữ thì đã cao chạy xa bay rồi.
Khổng Tường Hy từ giã chính trường. Khi chiến tranh chấm dứt, Khổng đã 65 tuổi. Hai vợ chồng Khổng Tường Hy và Tống Ái Linh đã thu thập được một tài sản trị giá một tỷ đô là và đã chuyển ra nước ngoài. Năm 1946, vợ chồng Khổng Tường Hy trở lại thăm Thượng Hải một lần cuối cùng để thanh toán tài sản, và chuyển tất cả những gì có thể chuyển được sang Hương Cảng và ngoại quốc. Năm 1947, vợ chồng Khổng Tường Hy trở về thăm quê nhà tại Sơn Tây một lần cuối cùng trước khi lâu đài nhà họ Khổng bị cộng quân chiếm. Vợ chồng Khổng Tường Hy trỏ lại sống tại
Tống Tử Văn cũng vội vã ra đi, vì Tống biết mình bị coi là tội phạm chiến tranh hàng đầu, và có kẻ thù ở cả hai phía cộng sản và Quốc dân đảng. Phe Quốc dân đảng tố cáo Tống Tử Văn đã ăn cắp của công quỹ khá nhiều tiền, và yêu cầu Tống Tử Văn phải trả lại phân nửa tài sản cho quốc gia. Ngày 24- 1- 1949, Tống Tử Văn thấy thế nguy liền từ chức tỉnh trưởng Quảng Đông, và cùng vợ trốn sang Hương Cảng. Chưa bao giờ Tống Tử Văn trông chán nản như thế. Hai phe quốc gia và cộng sản đều muốn bắt Tống và Tống phải nhờ cảnh sát Anh bảo vệ tại Hương Cảng. Ngày 16- 5, Tống Tử Văn sang Pháp “để chữa bệnh, ” và đến ngày 10- 6 thì trở lại Hoa Kỳ.
Tháng hai năm 1949, mặc dầu không còn là tổng thống nữa, Tưởng thu xếp đưa tất cả số vàng dự trữ của quốc gia sang Đài Bắc. Như vậy chính phủ của Lý Tông Nhân không có tiền để trả lương cho quân đội còn đang cầm cự với cộng quân. Khi Lý Tông Nhân thấy công quỹ hết tiền, liền nhờ đại sứ Mỹ cầu cứu chính phủ Hoa Kỳ trợ giúp, để có đủ thời giờ thương thuyết với Mao Trạch Đông. Đại sứ Mỹ khuyên Lý Tông Nhân nên kêu gọi sự đóng góp ái quốc của các viên chức Quốc dân đảng đã ăn cắp hàng triệu đô la viện trợ Mỹ.
Tưởng Giới Thạch xúi giục Tôn Khoa, con trai Tôn Dật Tiên, đứng ra lập một chính phủ độc lập tại Quảng Đông, và Tưởng sẽ giúp Tôn Khoa mở một cuộc Bắc Phạt nữa. Thoạt đầu Tôn Khoa định nghe lời khuyên của T! ưởng, nhưng sau nhận ra tình thế tuyệt vọng của Quốc dân đảng, Tôn Khoa bỏ đi sang Pháp sống một cuộc đời lưu vong. Tưởng liền chuyển số quân đội trung thành còn lại qua Đài Loan. Tưởng hy vọng rằng với tài sản khổng lồ mang theo được và có đủ quân số, Tưởng có thể giữ vững được Đài Loan mãi mãi, và nuôi hy vọng chiếm lại Hoa Lục.
Tưởng ghé Thượng Hải một lần chót vào tháng 4 để gặp Bố già Đỗ Đại Nhĩ lần cuối cùng. Lý do chính Tưởng đến Thượng Hải là muốn nhờ Lục Hội và Đỗ Đại Nhĩ giúp Tưởng cướp Ngân hàng Trung hoa. Tưởng vẫn nhắm cái kho tàng gồm sáu triệu cân vàng của Ngân hàng Trung hoa từ lâu. Phân nửa số vàng này đã đi theo Khổng Tường Hy và Tống Tử Văn. Bây giờ Tưởng muốn lấy nốt phần còn lại. Quân đội của Tưởng bao vây cả khu vực ngân hàng, và hàng trăm đàn em của Đỗ Đại Nhĩ giả làm cu li lũ lượt khiêng vàng xuống tàu đậu ngay dưới bến, trước cửa Ngân hàng Trung hoa. Sau đó Bố già Đỗ Đại Nhĩ trốn sang Hương Cảng vài ngày trước khi hồng quân tiến vào thành phố ngày 25- 5. Tại Hương Cảng, Đỗ Đại Nhĩ sống thêm được hai năm nữa. Đỗ Đại Nhĩ bị tê liệt và chết ngày 16- 8- 1951. Tưởng Giới Thạch gửi một điện tín phân ưu cái chết của Đỗ Đại Nhĩ, trong đó Tưởng ca ngợi Đỗ Đại Nhĩ để lại cho hậu thế một tấm gương trung thành và ngay thẳng.
Đầu tháng 5- 1949, Tưởng bỏ chạy sang Đài Loan. Bộ trưởng quốc phòng Trần Thành đã sửa soạn Đài Loan từ tháng 10 năm trước. Nhiều nơi hẻo lánh tại Trung hoa vẫn còn nằ! m trong t! ay quân đội Quốc dân đảng. Tháng 8- 1949, Tưởng Giới Thạch và Tưởng Kinh Quốc bay trở lại Trùng Khánh. Tại Trùng Khánh lúc đó vẫn còn một người tử tù của Tưởng là sứ quân Dương Hổ Thành, người đã cùng Trương Học Lương bắt cóc Tưởng tại Tây An. Dương Hổ Thành thoạt đầu bỏ trốn qua Pháp, nhưng ít lâu sau tìm cách trở lại Trung hoa, và bị mật vụ của Tưởng bắt được. Trong suốt 11 năm, Dương Hổ Thành cùng với người con trai, con gái và vợ chồng người thư ký trung thành, sống rên siết trong trại tập trung của trùm mật vụ Thái Lý. Bây giờ trước khi vĩnh viễn rời bỏ lục địa, Tưởng làm một chuyến đI đặc biệt để ra lệnh xử tử Dương Hổ Thành và gia đình. Toàn gia Dương Hổ Thành và vợ chồng người thư ký bị hành quyết ngay trước mắt Tưởng.
Tháng 1- 1950, bà Tống Mỹ Linh trở về Đài Loan từ
Dù những va chạm trước kia với chế độ của Tưởng Giới Thạch, bây giờ Khổng Tường Hy và Tống Tử Văn cũng vẫn là những cây cầu cần thiết nối liền mối quan tâm của Hoa Kỳ với Đài Loan. Các anh chị em nhà họ Tống vẫn họp bàn để tìm cách giúp đỡ chế độ Quốc dân đảng tại Đài Loan. Mỹ Linh trở về Đài Loan năm 1950 với mục đích tranh quyền kế vị Tưởng. Nhưng trong thời gian Mỹ Linh vắng mặt, Tưởng Kinh Quốc được giao phó trọng trách phụ tá cho Tưởng Giới Thạch, và được bổ nhiệm đứng đầu phòng chính trị của bộ quốc phòng. Trong hai mươi năm sau đó, mỗi khi Mỹ Linh quay lưng đi thă! m viếng Hoa Kỳ thì ở nhà Kinh Quốc lại tiến lên một nấc thang quyền hành, càng ngày càng tới gần việc thay thế Mỹ Linh để trở thành người thừa kế của Tưởng Giới Thạch. Một lần Mỹ Linh viếng thăm Hoa Kỳ một thời gian dài, từ tháng 8- 1952 cho đến tháng 3- 1953. Khi trở về Đài Loan Mỹ Linh được tin Tưởng Kinh Quốc được mời viếng thăm bộ ngoại giao và quốc phòng Hoa Kỳ. Tưởng Kinh Quốc còn được mời thảo luận với tổng thống Mỹ Eisenhower, một vinh dự mà Mỹ Linh không có từ năm 1943.
Tuy vậy Mỹ Linh vẫn thân cận Tưởng Giới Thạch, và trong nhiều trường hợp, nói thay cho Tưởng Giới Thạch. Nhiều tướng lãnh và nhân vật cao cấp Quốc dân đảng cũng không dám làm mất lòng Mỹ Linh. Ngay Tưởng Kinh Quốc cũng phải e dè Mỹ Linh, vì Mỹ Linh rất dễ nổi giận, và thường là có sự trả đủa ngay khi bà nổi giận. Tháng 4- 1954, Mỹ Linh thăm viếng Hoa Kỳ sáu tháng để tranh đấu chống lại việc nhận Trung Cộng vào Liên Hiệp Quốc. Khi bà trở về Đài Loan để dự lễ thọ 67 tuổi của Tưởng Giới Thạch thì thấy quyền hành đã tuột khỏi tay bà rồi. Năm 1958, Tưởng Kinh Quốc được thăng chức một lần nữa, và Mỹ Linh tức giận bỏ sang Hoa Kỳ 14 tháng. Lúc đó bà đã 61 tuổi. Sau khi Mỹ Linh đi Hoa Kỳ được hai tháng, Tưởng Kinh Quốc được bổ nhiệm chức bộ trưởng không bộ. Mỹ Linh trở lại Đài Loan và sống tại đó luôn sáu năm nữa.
Năm 1965 Mỹ Linh thăm viếng Hoa Kỳ cùng với Tưởng Kinh Quốc, lúc đó là bộ trưởng quốc phòng. Người Mỹ muốn quân đội của Tưởng Giới Thạch tham chiến! tại Vi! ệt Nam, trong lúc họ Tưởng chỉ muốn người Mỹ hỗ trợ một cuộc đổ bộ tấn công chiếm lại Trung hoa lục địa. Mỹ từ chối giúp Tưởng vì nghĩ rằng Tưởng không có hy vọng thắng Trung Cộng, và do đó Tưởng cũng không chịu đem quân sang tham chiến tại Việt
Trong suốt hàng chục năm, Mỹ Linh vẫn được coi là một trong số mười người đàn bà nổi tiếng nhất thế giới. Nhưng vinh dự đó chấm dứt năm 1967, và những tin tức về bà chỉ xuất hiện trên các trang phụ của báo chí Mỹ.
Khổng Tường Hy vẫn tích cực hoạt động về tài chánh khi sang sống tại Hoa Kỳ. Mãi năm 1966 Khổng Tường Hy mới từ chức giám đốc Ngân hàng Trung hoa vì sức khỏe suy kém. Tháng 8- 1967, Khổng Tường Hy được đưa vào bệnh viện
Cuộc đời lưu đầy của Tống Tử Văn lúc nào cũng đầy hoạt động, cả chính trị lẫn tài chánh. Tống Tử Văn có nhiều cơ sở thương mại tài chánh lớn, và lúc nào cũng hoạt động cho quyền lợi chính trị của chế độ Quốc dân đảng. Tuy vậy Tống Tử Văn không bao giờ dám trở về Đài Loan, mặc dầu nhiều lần được Tưởng mời. Những đảng viên Quốc dân đảng cao cấp căm thù Tống Tử Văn làm giàu phi pháp, nhưng cũng không có cách gì trả thù được, trái lại họ rồi cũng chết dần. Trùm mật vụ Thái Lý chết trong một tai nạn máy bay sau khi cuộc chiến Quốc Cộng chấm dứt, có lẽ phi cơ bị đặt bom. Kẻ thù thứ nhì của Tống Tử Văn là Trần Quả Phu thì chết tại Đài Bắc năm 1951, lúc được 60 tuổi. Khi người anh chết, Trần Lập Phu cũng từ bỏ việc điều khiển mật vụ, và về hưu tại Đài Loan.
Tháng 4- 1971, lúc được 77 tuổi, Tống Tử Văn cùng vợ đi thăm San Francisco một lần nữa để thăm họ hàng và bạn bè. Vào tối ngày 24- 4, các bạn bè cũ tại Ngân hàng Trung hoa mở đại tiệc khoản đãi Tống Tử Văn. Trong bữa dạ tiệc sang trọng có nhiều món ăn ấy, Tống Tử Văn có vẻ rất vui vẻ hưởng của ngon vật lạ. Bỗng Tống Tử Văn đang ăn thì chợt ngừng lại, trông có vẻ ngơ ngác, đứn! g dậy ho khan rồi gục xuống. Một lát sau Tống Tử Văn tắt thở. Cuộc giải phẫu tử thi cho biết một miếng đồ ăn mắc kẹt vào ống khí quản khiến Tống Tử Văn bị chết nghẹn. Tay đại tham nhũng của Quốc dân đảng chết nghẹn vì ăn! Tổng thống Nixon và ngoại trưởng Kissinger vội đánh điện chia buồn, nhưng điện văn lại gửi cho Tưởng Giới Thạch và Mỹ Linh.
Trong thời gian này, giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng chưa có quan hệ ngoại giao chính thức, nhưng Hoa Kỳ đang bí mật thương thuyết với Trung Cộng trong mưu lược tách Trung Cộng ra khỏi Nga Sộ Tổng thống Nixon gửi điện văn sang Bắc Kinh, trịnh trọng mời bà Tống Khánh Linh sang Hoa Kỳ tham dự tang lễ của Tống Tử Văn. Trung Cộng trả lời bức điện văn của tổng thống Nixon như sau: “Về việc bà Tống Khánh Linh sang Hoa Kỳ dự tang lễ Tống Tử Văn: Vì hai nước Hoa Kỳ và Trung Hoa chưa thiết lập quan hệ ngoại giao nên không có chuyến bay trực tiếp từ Trung Hoa sang Hoa Kỳ. Chúng tôi đã liên lạc với một công ty hàng không Anh quốc để bà Tống Khánh Linh sang Luân Đôn trước, sau đó sẽ đi từ Luân Đôn sang Hoa Kỳ.”
Đồng thời tổng thống Nixon cũng nhận được điện văn của bà Tống Ái Linh cho biết sẽ đến dự tang lễ của em bà. Lúc đó Tống Ái Linh đang sống tại Hoa Kỳ. Còn Tống Mỹ Linh cũng cho biết sẽ dùng chuyến phi cơ bay thẳng từ Đài Loan sang Hoa kỳ để tham dự tang lễ của người anh ruột. Tổng thống Nixon tin tưởng cả ba chị em nhà họ Tống đang trên đường sang Hoa Kỳ, và ông dự định lợi dụng cơ hội ba chị em nhà họ Tống hội ngộ nhau để thúc đẩy công việc bang giao với Trung Cộng.
�! � Nhưng khi Tống Mỹ Linh dừng chặng đầu tiên tại phi trường Honolulu, thì bà nhận được một điện tín của Tưởng Giới Thạch như sau: “Bà đang rơi vào cái thòng lọng của Trung Cộng. Hãy dừng ngay việc sang Mỹ dự tang lễ Tống Tử Văn.” Ngày hôm sau gia đình Tống Tử Văn nhận được điện thoại của Tống Ái Linh cho biết Tống Ái Linh quyết định không tham dự tang lễ của Tống Tử Văn nữa. Tổng thống Nixon liền đánh điện cho Tưởng Giới Thạch xác nhận việc tang lễ của Tống Tử Văn là vấn đề riêng tư của gia đình nhà họ Tống, và không liên quan gì đến Trung Cộng.
Hai ngày nữa trôi qua, Tống Mỹ Linh vẫn ở lại Honolulu, và không có ý định tiếp tục cuộc hành trình nữa. Khi chỉ còn một ngày trước lễ an táng của Tống Tử Văn, chính phủ Hoa Kỳ nhận được điện văn của Trung Cộng cho biết không thuê được chuyến bay thẳng, nên bà Tống Khánh Linh không sang Hoa Kỳ được. Nixon chỉ biết thở dài và thông báo cho Tưởng Giới Thạch biết không có bà Tống Khánh Linh trong tang lễ, và đề nghị hai bà Tống Ái Linh và Tống Mỹ Linh hãy vì tình ruột thịt mà sớm đến dự tang lễ của người thân.
Mọi cố gắng của tổng thống Nixon đều thất bại. Tống Mỹ Linh sợ mắc bẫy vào ý đồ chính trị của Trung Cộng nên quay trở về Đài Loan. Tống Ái Linh cũng do dự không dám quyết định. Gia đình Tống Tử Văn vẫn mong đợi, cố kéo dài thêm nửa ngày nữa, hy vọng c�! �c chị ! em sẽ tới. Cuối cùng tang lễ của Tống Tử Văn phải cử hành mà không có sự tham dự của ba chị em nhà họ Tống. Tổng thống Nixon phải thốt lên: “Mối quan hệ của chị em nhà họ Tống tế nhị đến mức không sao hiểu nổi.” Các báo chí New York loan tin Tống Tử Văn chết đi chỉ để lại gia tài một triệu đô la, chia cho vợ và các con. Bản tin này làm nhiều người tại các thủ đô tài chánh trên thế giới phải mỉm cười.
Ngày 5- 4- 1975, Tưởng Giới Thạch từ trần, hưởng thọ 87 tuổi. Ba tuần lễ sau, Tưởng Kinh Quốc lúc đó đã là thủ tướng, trở thành chủ tịch Quốc dân đảng và tổng thống Đài Loan. Mỹ Linh bị loại ra ngoài chính trường và bà trở lại cuộc sống lưu vong tại Hoa Kỳ. Mỹ Linh sống âm thầm tại khu dinh thự của Khổng Lệnh Kiệt, và chỉ có vệ sĩ mới vào được khu vực bà cư ngụ. Mỹ Linh sống một cuộc đời âm thầm lặng lẽ tại Hoa Kỳ cho tới năm 1986 thì trở về Đài Loan. Trong những năm cuối của tuổi già, Mỹ Linh khi thì sống tại Đài Loan, khi thì tại Hoa Kỳ. Hiển nhiên bà là người thọ nhất trong ba chị em nhà họ Tống.
Chương 020
Người Ở Lại Trung Hoa
Gia đình nhà họ Tống vẫn còn một người ở lại Trung hoa. Đó là bà Tống Khánh Linh, góa phụ của Tôn Dật Tiên. Bà thù ghét phe Tưởng Giới Thạch đến nỗi không chịu theo gia đình ra ngoại quốc hoặc Đài Loan. Chị em bà hầu hết lánh nạn tại Hoa Kỳ; người con chồng của bà là Tôn Khoa thì sang Pháp. Tháng 5- 1949, quân cộng sản tiến vào Thượng Hải thì bà quyết định ở lại. Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai gửi thư riêng cho bà, mời bà lên Bắc Kinh tham dự lễ tuyên cáo thành lập tân chế độ. Thoạt đầu bà Khánh Linh từ chối, lấy lý do Bắc Kinh là nơi gợi cho bà những kỷ niệm buồn vì chồng bà chết tại đó. Cuối cùng chính quyền cộng sản phải cử bà Đặng Dĩnh Siêu, vợ của Chu Ân Lai, thân hành xuống tận Thưởng Hải mời bà. Lúc đó bà mới nhận lời. Bà dùng xe lửa đi Bắc Kinh. Khi xe lửa của bà tới Bắc Kinh, bà được đông đủ lãnh tụ cộng sản cao cấp nhất ra tận sân ga đón chào, gồm có cả Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức và nhiều người khác.
Ngày 1- 10- 1949, Bà đứng cạnh Mao Trạch Đông tại khán đài trên Thiên An Môn để nghe Mao Trạch Đông tuyên cáo thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa, và chứng kiến hàng triệu người diễn hành. Lúc đó bà đã 57 tuổi.
Phe cộng sản phải trọng vọng biệt đãi bà Tống Khánh Linh, và mời bà lên khán đài Thiên An Môn mặc dù bà không phải là một đảng viên cộng sản, vì bà có một uy tín rất lớn trước quảng đại quần chúng Trung hoa. Người Trung hoa vẫn tôn kính chồng bà là Tôn Dật Tiên. Kể từ lúc Tôn Dật Tiên chết, bà được coi là biểu tượng cho lý tưởng cách mạng của chồng bà và của Trung hoa. Quần chúng càng ngưỡng mộ bà hơn khi bà tỏ ra thù ghét chế độ Quốc dân đảng thối nát do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Bà không bao giờ hùa theo phe Tưởng để phe Tưởng có thể lạm dụng uy tín chính trị của bà. Không những thế, trong những năm cuối cùng của phe Tưởng tại Trùng Khánh, bà hầu như bị giam lỏng tại gia.
Khi cuộc nội chiến Quốc Cộng chấm dứt, Khánh Linh trở về sống tại căn nhà cũ tại Thượng Hải. Khi chính phủ Trung cộng thành lập, bà được mời làm phó chủ tịch chính phủ tại Bắc Kinh, một chức vụ tượng trưng, hữu danh vô thực, vì cộng sản đang cần đến uy tín của bà. Căn nhà bà từng sống chung với Tôn Dật Tiên trên đường Molière tại Thượng Hải được biến thành một thánh tích quốc gia. Bà dọn về căn nhà cũ của thân phụ. Trong chính quyền Trung cộng, bà chỉ quý mến thân thiện với Chu Ân Lai. Bà chỉ gặp Mao Trạch Đông một vài lần, nhưng thường cố ý tránh né. Năm 1960 bà bị bệnh ung thư bạch huyết và sống bệnh tật trong hai mươi năm cuối cuộc đời bà.
Năm 1950 cuộc chiến tại Triều Tiên bùng nổ. Trung Cộng cho rằng Mỹ muốn dùng Triều Tiên như mộ! t bàn đ! ạp để xâm chiếm Trung hoa cho phe Tưởng Giới Thạch, nên tung mấy triệu chí nguyện quân sang chiến đấu giúp Bắc Triều Tiên. Bà Khánh Linh kịch liệt tố cáo Hoa Kỳ can thiệp vào cuộc chiến tại Triều Tiên, và bà nỗ lực tranh đấu cho hòa bình thế giới. Năm 1951 bà được trao tặng giải Hòa Bình Stalin. Tháng 12- 1952, bà lãnh đạo một phái đoàn Trung cộng tham dự Hội Nghị Hòa Bình Các Dân Tộc tại thủ đô nước Áo, tại đó bà ngồi ghế chủ tọa cùng với những nhân vật nổi tiếng thế giới. Bà tố cáo Hoa Kỳ dùng chiến tranh vi trùng tại Triều Tiên. Vào giữa tháng 1- 1953, trên đường về nước, bà ghé qua Mạc tư khoa, và là người khách ngoại quốc cuối cùng gặp Stalin trước khi Stalin chết.
Kể từ năm 1950, bà Khánh Linh dấn thân vào các hoạt động bảo vệ thiếu nhị Bà bị xẩy thai đứa con duy nhất của bà năm 1922, bây giờ bà dành tất cả tình thương cho mọi trẻ con trong xã hội. Địa vị của Khánh Linh vượt quá cả cái giới hạn tượng trưng mà người cộng sản dành cho bà. Năm 1957, khi Mao Trạch Đông đi Mạc tư khoa tham dự Hội nghị Cộng đảng Quốc tế, Mao mời bà Khánh Linh làm một thành viên của phái đoàn Trung cộng. Mao Trạch Đông mời bà ngồi cạnh khi Mao ký bản tuyên ngôn vào lúc bế mạc hội nghị. Là một người vừa lôi cuốn, khôn khéo và tận tình dâng hiến cho phúc lợi của quần chúng, bà Khánh Linh đã biểu tượng cho những hình ảnh đẹp nhất cho Trung hoa. Bà đã tham dự nhiều chuyến du hành thiện chí trên thế giới và đã tạo được những ấn tượng rất thuận lợi. Tại thủ đô Ấn Độ năm 1955, thủ tướng Nehru đã nói về Khánh Linh: “Trong những năm vừa qua, dù Trung Hoa trải qua bất cứ cơn bão tố nào, niềm tin của bà Tống Khánh Linh không bao giờ lung laỵ Bao giờ bà cũng lên tiếng cho hòa bình.”
Người cộng sản cũng biết ơn sự ủng hộ của bà Khánh Linh, và đã cung cấp cho bà một cuộc sống sang trọng. Nhà riêng của bà tại Bắc Kinh là một dinh thự bên trong Cấm Thành, nơi trước kia vua Phổ Nghi của nhà Thanh chào đời. Bà cũng được cung cấp một số đông đảo gia nhân. Chính cái dinh thự sang trọng dành cho bà đã khiến bà bị chỉ trích đã sống một đời xa hoa trong khi quần chúng mỗi gia đình chỉ có một phòng ngủ. Thực ra bà không có một lương tâm phạm tội. Nếu bà chọn lựa con đường vật chất tiền tài thì bà có thể sống sang trọng gấp trăm lần như thế, như các chị em của bà. Nhưng bà từ chối mọi của cải vật chất, và chỉ sống một cuộc đời thanh đạm. Bà coi của cải và sự hoang phí của quá khứ là kết quả của sự khai thác bóc lột. Chính vì thế bà thích sống trong căn nhà cũ của thân phụ tại Thượng Hải hơn là cái dinh thự nguy nga đồ sộ dành cho bà tại Bắc Kinh.
Có một người quyền lực tại Bắc Kinh thù ghét bà Khánh Linh. Đó là Giang Thanh, vợ cuối cùng của Mao Trạch Đông. Giang Thanh rất căm giận khi Khánh Linh được coi là người phụ nữ số một của Trung hoa. Giang Thanh ! nghĩ r�! �ng địa vị ấy phải là của mình. Năm 1966, khi Giang Thanh phát động cuộc Cách mạng Văn hóa, thì một trong những nạn nhân đầu tiên của Giang Thanh là bà Khánh Linh. Năm đó bà Khánh Linh đã 73 tuổi. Thoạt đầu một người vệ sĩ của bà chết một cách bí mật. Hồng vệ binh của Giang Thanh trương biểu ngữ tố cáo Khánh Linh là tư sản phản động, vì bà rất yêu thích những nghệ phẩm đẹp, vẫn để tóc dài và không chịu gia nhập đảng cộng sản. Trước đó chính quyền cộng sản cho xây một ngôi đền thờ Tôn Dật Tiên tại nơi sinh quán của Tôn Dật Tiên. Bây giờ đền thờ này bị Hồng vệ binh đập phá san bằng. Hồng vệ binh tố cáo Tôn Dật Tiên làm một cuộc cách mạng tiểu tư sản. Cuối năm 1966, mộ của song thân bà bị khai quật lên, và Hồng vệ binh gán cho vợ chồng Tống Giáo Nhân là đầu sỏ của một gia đình độc ác, đã sinh sản ra những kẻ thù của nhân dân. Bà Khánh Linh rất đau lòng khi mộ của cha mẹ bị khai quật xúc phạm đến như thế.
Một ngày tháng 9- 1966, Hồng vệ binh Thượng Hải tràn vào nhà bà Khánh Linh để đập phá đồ đạc và cướp đồ. Chúng định cắt mớ tóc dài của bà. May mắn lúc đó bà không có nhà, nhưng bà không khỏi kinh hoàng và cảm thấy có thể bị làn sóng đỏ tràn ngập. Chu Ân Lai được tin bà bị tấn công, vội vàng đứng ra can thiệp, cảnh cáo Hồng vệ binh không được đụng chạm tới bà. Chu Ân Lai ra nghiêm lệnh: “Tuyệt đối không được đụng chạm tới đồng chí Tống Khánh Linh.” Ngôi mộ của song thân bà đư�! ��c trùng tu lại, và quân đội được phái tới canh gác tư thất của bà và ngôi mộ của song thân bà. Chu Ân Lai đã hết sức bảo vệ bà Khánh Linh. Trong buổi lễ kỷ niệm sinh nhật của Tôn Dật Tiên ngày 12- 11- 1966, Chu Ân Lai phải trích dẫn những bài diễn văn dài của Mao Trạch Đông ca ngợi Tôn Dật Tiên năm 1956, khi Mao xác nhận vai trò lịch sử quan trọng của Tôn Dật Tiên. Nhờ thế Giang Thanh mới chịu bỏ qua và để bà Khánh Linh được yên thân.
Tuy bà Khánh Linh không còn bị xúc phạm trực tiếp nữa, nhưng bà vẫn sống trong sự bất ổn và lo sợ. Bà sống trong một tình trạng căng thẳng, không dám đi ra khỏi nhà và cũng không dám tiếp khách. Mọi hoạt động của bà ngừng hẳn. Nhiều người bà con bên ngoại của bà bị Hồng vệ binh tấn công vì tội có thân nhân ở ngoại quốc. Bà Khánh Linh bất lực không thể cứu giúp gia đình họ hàng được. Nhưng bà cương quyết bênh vực lý tưởng cách mạng của Tôn Dật Tiên. Bà cũng vẫn tìm cách bênh vực giúp đỡ những đảng viên cộng sản bị Giang Thanh hành hạ. Khi bà Vương Quang Mỹ, vợ của Lưu Thiếu Kỳ, bị tống giam vào ngục tối, chính bà Khánh Linh đã tìm cách giúp các con của Vương Quang Mỹ được vào thăm mẹ. Nhưng cũng phải sáu năm sau, mãi đến năm 1972, các con của Vương Quang Mỹ mới được gặp lại mẹ. Vương Quang Mỹ là một tuyệt thế giai nhân, thế mà chỉ mấy năm nằm trong tù của Giang Thanh, Vương Quang Mỹ đã trở thành một người khác hẳn, yếu đến nỗi không thể đứng dậy được, tóc rụng gần hết và ho khạc ra máu.
Năm 1966, khi địa vị c�! ��a Mao T! rạch Đông được đưa lên ngang hàng với thần thánh, và tiền nhân bị chê bai, thì bà đọc một bài diễn văn rất dài trong buổi lễ kỷ niệm Tôn Dật Tiên. Bà trình bày rất chi tiết mọi hoạt động cách mạng của Tôn Dật Tiên. Bài diễn văn của bà năm đó không có những khẩu hiệu cuối diễn văn: “Vạn tuế đại lãnh tụ Mao chủ tịch!” như thường lệ. Cuộc đời bà sống với cộng sản thực ra cũng chỉ là một thứ đi đầy trong sự hào nhoáng bề ngoài. Bà không khỏi đau lòng khi thấy tên em gái là Tống Mỹ Linh bị coi là tội phạm chiến tranh số một tại Trung Cộng, và gia đình nhà họ Tống bị coi là một trong bốn gia đình tội ác nhất Trung hoa.
Khánh Linh đã có một đời góa phụ dài nhất, suốt 56 năm kể từ năm 1925 khi Tôn Dật Tiên từ trần và bà còn rất trẻ, mới chỉ có 32 tuổi, cái tuổi đẹp nhất của một người đàn bà. Bà có rất nhiều người ái mộ, cả người Trung hoa và người ngoại quốc. Thủ tướng Nehru của Ấn Độ gặp bà năm 1927 tại Mạc tư khoa đã vô cùng say mê bà. Về sau này trong phòng làm việc của Nehru lúc nào cũng có treo hai tấm hình đàn bà, một tấm là hình của người vợ đã chết và một tấm là hình của Khánh Linh.
Ngoài Nehru ra còn nhiều ký giả ngoại quốc cũng say mê bà sau khi gặp bà. Sau này người ta đồn rằng bà có một mối tình khác đối với người thư ký riêng của bà, nhưng chuyện đó có thể là sản phẩm tưởng tượng c�! ��a Giang! Thanh nhằm hạ uy tín của bà. Người Trung hoa thương xót bà phải sống cảnh góa bụa khi còn rất trẻ, nhưng họ cũng không muốn bà kết hôn một lần nữa. Họ muốn bà là một hình ảnh đẹp vĩnh hằng. Thực ra Khánh Linh lúc nào cũng thận trọng giữ gìn tiếng thơm của bà. Bà không phải chỉ là một góa phụ thủ tiết thờ chồng đã chết, và cũng không phải chỉ là một góa phụ đạo đức bảo vệ danh tiếng trong sạch của mình. Đúng ra bà đã kết hôn với lý tưởng của bà, và không muốn làm nguy hại đến những lý tưởng đó để kẻ thù có thể làm ô nhục bà.
Khánh Linh không có con. Bà bị xảy thai một lần trong lúc phải chạy trốn khi dinh tổng thống tại Quảng Châu bị quân phản loạn của Trần Quýnh Minh tấn công. Trong những năm cuối cùng của bà, Khánh Linh để hết tâm trí chăm sóc hai người con gái nuôi. Khi phong trào Hồng vệ binh tan rã, và Giang Thanh bị bắt, cuộc đời bà lại trở lại bình lặng. Lần xuất hiện cuối cùng của bà trước công chúng là ngày 8- 5- 1981, khi bà nhận bằng tiến sĩ luật khoa danh dự tại đại học Victoria, Gia Nã Đại.
Khánh Linh ủng hộ đường lối kinh tế thực nghiệm của Đặng Tiểu Bình. Khi nhóm Giang Thanh bị bắt, và Đặng Tiểu Bình trở lại chính quyền, bà đã hết sức vui mừng và viết trong bài ” Chí Nhân Dân Nhất Định Thắng”: “Hôm nay tôi đã ngoài 80 tuổi. Nhưng khi tôi được chứng kiến con tàu của nước Tân Trung Hoa đi đúng đường sau khi suýt bị lật chìm, và bây giờ đang thẳng ti! ến mộ! t cách huy hoàng, vượt qua được mọi sóng gió, thì không lời nào diễn tả hết được niềm vui và hạnh phúc của tôi. Bây giờ chúng ta lại có hy vọng cho Trung Hoa”
Ngày 16- 5- 1981, bà Khánh Linh được Trung Cộng phong chức Tổng thống Danh dự của Trung cộng. Và tuần lễ sau đó bà bị bắt buộc gia nhập đảng cộng sản Trung hoa. Nhưng thực ra lúc ấy Khánh Linh không biết gì về việc được bầu làm tổng thống và việc gia nhập đảng cộng sản, vì bà đã hôn mê vì bệnh ung thư rồi. Ngày 19- 5- 1981, bà từ trần tại Bắc Kinh, hưởng thọ 88 tuổi. Các lãnh tụ lớn của Trung cộng như Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Đặng Dĩnh Siêu… đã tới nghiêng mình trước giường chết của bà.
Bà Khánh Linh để lại chúc thư xin được chôn cất tại Thượng Hải, bên cạnh mộ phần của song thân, mặc dù khi còn sống, thân phụ bà là Tống Giáo Nhân đã từ bà khi bà nhất quyết kết hôn với Tôn Dật Tiên. Bà không muốn được chôn bên cạnh mộ chồng. Bà muốn chứng tỏ rằng bà cũng là một chiến sĩ độc lập tranh đấu cho đất nước Trung hoa, chứ không phải chỉ là một cái bóng mờ bên cạnh Tôn Dật Tiên.
Bà Khánh Linh tận tụy suốt cuộc đời cho lý tưởng yêu mến nước Trung hoa của bà. Bà đã đạt được mục đích ấy khi cả nước Trung hoa kính trọng biết ơn bà, và bà là người đã làm rạng danh nhà họ Tống. Bà Tống Khánh Linh quả thực là một người phụ nữ vĩ đại nhất của Trung hoa trong thế kỷ 20. Hai người chị và em củ! a bà là! Ái Linh và Mỹ Linh cũng thỏa mãn được chí nguyện của họ. Ái Linh đã thành công về tiền bạc và là người giầu nhất nước Trung hoa. Mỹ Linh cũng đã trở thành người đàn bà uy quyền nhất Trung hoa trong địa vị một tổng thống phu nhân, vợ của nhà độc tài quân phiệt Tưởng Giới Thạch. Người Trung hoa đã nhận xét rất đúng về ba chị em nhà họ Tống, khi họ nói: “Trong ba chị em nhà họ Tống thì một người yêu tiền, một người yêu quyền và một người yêu nước Trung Hoa”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét