Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2013

13BienKhaoVeNhaTaySon.html

13BienKhaoVeNhaTaySon.html

13 BIÊN KHẢO VỀ NHÀ TÂY SƠN

Nguồn: Thư Viện Tiếu Lùn

Thự hiện ebook: Goldfish

MỤC LỤC

1. Ngày Tây Sơn Trong Lòng Người Việt Nam

2. Ði Tìm Dấu Tích Lăng Vua Quang Trung

3. Bắc Hà Hay Chế Độ Cũ Dưới Mắt Tây Sơn

4. Tây Sơn Thuật Lược

5. Ðời Tây Sơn Qua Dân Ca Sấm Ký

6. Nhớ Trận Đống Đa Tìm Về Nguồn Võ Tây Sơn

7. Mưu Thuật Chính Trị Thời Quang Trung: Dĩ Dật Đãi Lao

8. Nếu Vua Quan Trung Không Mất Sớm

9. Vấn Vương Mấy Chuyện Bình Định Tây Sơn

10. Quang Trung Hoàng Đế: Nhà Cách Mạng Thời Đại, Thiên Tài Quân Sự Và Chính Trị, Một Đại Anh Hùng Dân Tộc

11. Vua Quang Trung Cầu Hôn Công Chúa Đại Thanh

12. Vua Quang Trung Và Chiếc Hoàng Bào Bí Ẩn

13. Nguễn Huệ Và Công Chúa Ngọc Hân

NGÀY TÂY SƠN  TRONG LÒNG NGƯỜI VIỆT NAM

Tác giả: Cai Văn Khiêm, Ph.D. 

Ðây là cảm nghĩ riêng của một người dân Bình định khi nhớ đến ngày Tây Sơn. Cảm nghĩ này chỉ là quan điểm của một cá nhân dựa trên những sự kiện lịch sử ghi lại. Nếu những chi tiết lịch sử có phần khiếm khuyết, đó là ngoài ý muốn của người viết, mong độc giả thông cảm.  

“Nay ta giao việc quân quốc mười một trấn ở Bắc Hà cho các khanh, cho phép các khanh được tiện nghi hành sự. Nhưng phải hội đồng thương nghị với nhau, đừng lấy lẽ mới cũ mà chống đối. Ấy là chỗ hậu vọng của ta.” (Vua Quang Trung, 1788) (1)

Ngày xuân năm Kỷ Dậu, hơn 200 năm trước đây, nhà Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung, đã đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh ra khỏi bờ cõi Việt nam.Cuộc chiến quyết định tại trận Ðống Ða đã đánh bại 200.000 quân Thanh, khiến Tôn Sĩ Nghị hoảng sợ, quên mặc áo giáp, không kịp thắng yên ngựa, quên luôn cả ấn tín cùng tàn quân chạy về Trung hoa. Cuộc chiến thắng này đã khiến vua Càn Long nhà Thanh phải kinh hãi từ bỏ mộng xâm chiếm Việt nam, và Việt nam chúng ta duy trì sự độc lập. Sau khi nhà Tây Sơn suy vong, triều đình nhà Nguyễn cố gắng che dấu những sự kiện về nhà Tây Sơn. Nhưng những chiến công của vua Quang Trung và nhà Tây Sơn vẫn được nhân gian truyền tụng, và là những trang sử rực rỡ trong lịch sử Việt nam.

Hơn hai trăm năm nay, người dân Việt nói chung, và dân Bình định nói riệng, vẫn ngưỡng mộ nhà Tây Sơn và chiến thắng mùa xuân Kỷ Dậu, nhất là đối với vua Quang Trung, người đã bao lần đánh nam dẹp bắc thống nhất quốc gia và giữ vững sơn hà. Ngoài ra công sức của vua Thái đế Nguyễn Nhạc, Ðông Ðịnh vương Nguyễn Lữ, và các chiến sĩ Tây Sơn luôn luôn được nhắc tới trong niềm kính ngưỡng. Người dân  Bình  định  bao  nhiêu  năm  qua  luôn  luôn  tưởng  nhớ  đến  công  trình  của  ba  anh  em  Nguyễn  Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ nói riêng và nhà Tây Sơn nói chung. Tuy nhiên, suốt 150 năm dưới thời nhà Nguyễn, lòng kính ngưỡng chỉ được truyền miệng, và việc thờ cúng nhà Tây Sơn chỉ được giữ trong tâm. Sau khi hành hạ các chiến sĩ nhà Tây Sơn, nhà Nguyễn vẫn luôn luôn đàn áp và cấm đoán sự tôn kính đối với  nhà  Tây  Sơn,  chỉ  mong  lòng  dân  quên  lãng  kẻ  cựu  thù  của  họ.  Việc  đàn  áp  của  nhà  Nguyễn  vẫn không làm người dân Bình định quên đi những vị anh hùng này, dân chúng quận Bình khê vẫn thờ cúng ba anh em nhà Tây Sơn trong vòng bí mật nơi một ngôi đình nhỏ ở làng Kiên mỹ. Người dân nơi đây m�! ��i khi đi qua đình kính cẩn gỡ nón cúi đầu tỏ lòng kính mến những vị anh hùng áo vải cờ đào (1). 

Sau khi nhà Nguyễn thoái vị, việc thờ cúng trở nên chính thức. Ngôi đình thờ này được xây lại, căn giữa thờ  vua  Quang  Trung,  hai  bên  thờ  vua  Thái  Ðức    Ðông  Ðịnh  vương.  Một  tượng  bán  thân  của  vua Quang Trung cũng đã được dựng lên nơi trước đền thờ.

Ngày kỵ của ba anh em Tây sơn theo thường lệ được tổ chức vào ngày rằm tháng 11 Âm lịch. Nhưng ngày  lễ  Ðống  Ða  thì  được  tổ  chức  long  trọng  vào  ngày  mồng  năm  Tết.  Người  dân  Việt  nam,  nhất  là những người từ các tỉnh miền Trung, nô nức về tụ tập nơi ngôi đền thờ Tây Sơn để tưởng nhớ vua Quang Trung, và xem ngày lễ kỷ niệm Ðống Ða. Như thế, ngày mồng năm Tết chẳng những là ngày kỷ niệm chiến thắng Ðống Ða, mà còn được xem như ngày kỷ niệm Tây Sơn nữa.

Chúng ta sẽ tự hỏi tại sao ngày mồng năm Tết được dân Bình định quan tâm đến như vậy. Ngày Tây Sơn có ý nghĩa gì mà người dân Việt nam không ngai đường xa, nô nức về thật đông đảo để viếng một căn đình nhỏ, và để xem tế lễ vua Quang Trung và các tướng sĩ. Có lẽ lý do thực tiễn nhất là ngày Tây Sơn được tổ chức vào ngày mồng năm Tết. Ði dự lễ Tây Sơn là một cơ hội tốt để mọi người rủ nhau đi chơi xuân và nhân tiện viếng thăm di tích lịch sử. Lý do thứ nhì: người dân chúng ta muốn về đây để tưởng nhớ đến chiến thắng oai hùng của vua Quang Trung. Nhất là những người thanh niên trẻ, họ đến đây với lòng tràn đầy nhiệt huyết. có thể họ đã mơ làm người Tây Sơn, tưởng nhớ đến cảnh vua Quang Trung, áo ngự bào nhuộm đen màu thuốc súng, đốc quân dẹp tan quân xâm lược nhà Thanh.

Nhà Tây Sơn khởi nghĩa trong ý thức quật cường, mơ có ngày trừ bạo quyền, đem bình an đến cho dân tộc. cuộc khởi nghĩa được chuẩn bị chu đáo, và được sự ủng hộ của nhiều nhân sĩ miền Trung. Ngoài ba anh em Tây Sơn, nội bộ phong trào Tây Sơn khi khởi nghĩa, còn có nhiều văn nhân và võ tướng. Bên võ có Thất Hổ tướng, gồm có Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Võ Ðình Tú, Nguyễn Văn Tuyết, Lý Văn Bưu, Lê Văn Hưng, Nguyễn Văn Lộc. Bên văn có Lục Kỳ sĩ , gồm có Võ Xuân Hoài, Nguyễn Thung, Trương Mỹ Ngọc, La Xuân Kiều, Triệu Ðình Thiệp và Cao Tắc Tửu. Ngoài Thất Hổ tướng và Lục Kỳ sĩ ra còn có những bậc nữ lưu. Các nữ tướng này được gọi là Ngũ Phụng Thư gồm có Bùi thị Xuân. Bùi thị Nhạn, Trần thị Lan, Nguyễn thị Dung và Huỳnh thị Cúc. Ngoài những vị khai quốc công thần kể trên, còn có các tướng sĩ khác, và lực lượng của người Thượng và người Việt gốc Hoa tham dự. Họ đã đóng góp không nhỏ cho sự thành công của nhà Tây Sơn.(1)

Nhà Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung đã lấy võ lược để dựng nghiệp, lấy nhân tâm mà trị nước. Hoàn cảnh đất nước khó khăn, vua Quang Trung đánh nam dẹp bắc, giữ vững sự độc lập của nước Việt, và khi lên ngôi Hoàng đế trị nước với tấm lòng nhân hậu và độ lượng. Từ ngày khởi nghĩa, nhà Tây Sơn đã đánh tan bạo quyền Trương Phúc Loan và chúa Nguyễn để củng cố miền Nam, diệt trừ chúa Trịnh để chỉnh đốn triều đình phương Bắc, thống nhất sơn hà sau một cuộc phân chia Nam Bắc gần 200 năm. Vì tàn quân nhà Nguyễn miền Nam vẫn còn chiếm Gia định, âm mưu chiếm lại miền Nam, vua Quang Trung đã bốn lần vào Gia định đánh tan quân chúa Nguyễn, đuổi Nguyễn Ánh và bình định miền Nam. Sau nhiều lần bị đánh đuổi, Nguyễn Phúc Ánh trong lúc nguy nan đã quyết định chọn giải pháp cõng rắn cắn gà nhà, cầu viện vua Xiêm để đưa quân sang đánh Việt nam.

Nhà Tây Sơn dưới sự lãnh đạo của vua Quang  Trung  lại một lần nữa phá tan hai vạn quân Xiêm và ba trăm chiến thuyền. Thất bại lớn, quân Xiêm chỉ còn mấy trăm lủi thủi chạy về.

Sau khi bình định miền Nam, nhà Tây Sơn lại ra Bắc Hà ba lần để giải quyết những việc nhiễu nhương triều chính. Lần đầu tiên vua Quang Trung đưa quân ra Bắc diệt họ Trịnh và trao trả quyền hành lại cho vua  Lê.  Khi  nhà    không  giữ  được  quyền  hành,  nhà  Tây  Sơn  lại  một  lần  nữa  đưa  quân  ra  Bắc  diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm, và một lần nữa chỉnh đốn triều đình giám quốc của nhà Lê. Không ngờ Lê Chiêu Thống, trong sự hoảng hốt, vô cớ đi cầu viện nhà Thanh. Một lần nữa, đất nước chúng ta lại lâm vào cảnh cõng rắn cắn gà nhà. Nhà Tây Sơn lại một lần nữa dưới sự lãnh đạo của vua Quang Trung đã ra Bắc Hà để đánh đuổi hai trăm nghìn quân xâm lược nhà Thanh. Trước khi khai chiến, vua đã ra lệnh cho quân sĩ ăn Tết trước để đợi đến đêm trừ tịch tấn công quân Thanh, hẹn ngày mồng 7 tháng giêng sẽ ăn Tết Khai hạ. Ngài bảo cùng quân sĩ rằng: “xuân sang một là ăn Tết, hai là chịu chết, tướng sĩ hãy hết lòng cùng ta”. (1) 

Kết quả: vua Quang Trung và quân Tây Sơn đã dánh tan quân xâm lược nhà Thanh trước kỳ hẹn hai ngày. Trong cơn hoảng hốt, nguyên soái nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị đã chạy về Tàu quên cả việc mang theo ấn tín.

Ðây là lần duy nhất nước ta bị cảnh vua và chúa đưa quân ngoại bang về dày xéo quê hương vì quyền lợi tư. Cả hai lần quân xâm lăng đều bị quân Tây Sơn dẹp tan. Những chiến công hiển hách của nhà Tây Sơn là những trang sử rực rỡ, làm cho Trung hoa và Xiêm la đều khiếp sợ. Sử gia Trần Trọng Kim khi nhắc đến cuộc chiến thắng nhà Thanh năm 1789, đã cho rằng “từ xưa tới nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy” (2). Lời phê bình này hoàn toàn chính đáng vì đây là một chiến thắng thần tốc, đánh bại một đại cường quốc trong một triều đại cực thịnh: triều đại Càn Long.

Trong hai mươi bốn năm từ ngày khởi nghĩa, vua Quang Trung và nhà Tây Sơn đánh nam dẹp bắc không ngừng, chỉ mong đem lại bình yên cho quốc gia. đem cái dũng để đánh ngoại bang, đem lòng nhân để trị thiên  hạ,  chỉ mong sao đất nước thái bình. Sử sách đều cho vua Quang Trung là bậc đại tài đại dũng. Nhưng  trời  không  chiều  lòng  người,  làm  vua  mới  được  bốn  năm,  khi  vận  nước  chưa  yên,  vua  Quang Trung lại mất đi khi chỉ mới 40 tuổi.

Từ khi vua Quang Trung băng hà, nội bộ nhà Tây Sơn lại càng chia rẽ.

Những mối chia rẽ trước đây của anh em Tây Sơn là điều đáng buồn, nay lại thêm triều chánh phân chia bè đảng. Sự chia rẽ là lý do chính gây ra sự suy vong của nhà Tây Sơn trong những năm sau cùng. Ðây là một bài học lớn cho chúng ta. Trong những năm đầu của triều đại Tây Sơn, mọi người đồng tâm hiệp sức dẹp tan bạo quyền và đánh đuổi quân xâm lược. Trong những năm cuối, triều đình chia rẽ, giết hại lẫn nhau và đánh mất những sự nghiệp hiển hách mà vua Quang Trung đã gầy dựng. Nhà Tây Sơn mất đi sau 24 năm chỉ vì sự phân chia bè đảng, giết hại lẫn nhau.

Lịch sử Hoa kỳ, (…), cũng bắt đầu vào khoảng hai trăm năm trước đây, cũng cùng lúc với nhà Tây Sơn dựng cờ khởi nghĩa. Mục đích của cuộc khởi nghĩa của người Mỹ cũng giống như mục đích của nhà Tây Sơn chúng ta: chống bạo quyền và đánh đuổi quân thực dân để giành quyền độc lập. Tổng thống Washington cũng đã trải qua bao nhiêu trận chiến đánh quân Anh, cũng giống như vua Quang Trung và nhà Tây Sơn đánh quân Xiêm đuổi quân Thanh. Nhờ lòng đoàn kết và sự hợp tác trong tinh thần dân chủ của mọi người, Mỹ quốc tìm được quyền độc lập và phát triển quốc gia này hơn hai trăm năm nay, để trở thành một đại cường quốc. Nhà Tây Sơn chỉ giữ được 24 năm chỉ vì thiếu lòng đoàn kết.

Khi nhớ đến nhà Tây Sơn, chúng ta lại tưởng nhớ đến những chiến công hiển hách, và chúng ta lại buồn cho những cảnh vua Lê và chúa Nguyễn cõng rắn cắn gà nhà vì quyền lợi riêng tư. Chúng ta lại ngậm ngùi nhớ đến các chiến sĩ Tây Sơn kẻ thì bị lột da, người thì thiêu sống, mộ người chết phải quật lên. Hận thù mà làm chi! Thù oán cá nhân mà làm gì! Chúng ta chỉ buồn cho lòng thiếu độ lượng của vua nhà Nguyễn. Chúng ta lại cảm xúc cái đức độ của vua Quang Trung, cảm xúc cái độ lượng của ngài đối với vua tôi nhà Lê, kính trọng lòng nhân hậu của ngài đối với nhân sĩ Bắc Hà (2). Nhớ đến ngày Tây Sơn, lòng dân Việt chúng ta phấn chấn, hình dung đến vị đại anh hùng của dân tộc bao nhiêu lần đánh tan quân xâm lược. Nhiều khi chúng ta có thể mơ làm người lính Tây Sơn xung phong giết giặc, mơ có một ngày phục vụ quê hương. Nhưng chúng ta cũng nên ghi nhớ rằng, những chiến công hiển hách ấy chỉ đạt được khi nhà Tây Sơn đoàn kết với nhau một lòng cứu nước. Và những giấc mơ của chúng ta chỉ có thể thành tựu khi chúng ta có thể ngồi với nhau trong tinh thần hợp tác.

Nhớ đến nhà Tây Sơn, chúng ta hãy ngồi lại bên nhau trong tinh thần đoàn kết, xem đại cuộc làm trọng, và quên đi tham vọng cá nhân. Ngày nào chúng ta cắt bỏ được sự tị hiềm, lòng đố kỵ, thì ngày ấy người Việt chúng ta sẽ thương mến nhau hơn. Ngày nào chúng ta có thể ngồi với nhau trong tinh thần hợp tác, trong niềm thông cảm, trong tình đồng bào ruột thịt, ngày ấy những giấc mơ của chúng ta sẽ thành sự thực. Ngày ấy chúng ta sẽ không thẹn làm hậu duệ của vua Quang Trung.  TÀI LIỆU THAM KHẢO:

(1) Nhà Tây Sơn của Quách Tấn và Quách Giao

(2) Việt nam Sử lược của Trần Trọng Kim

(3) Gió Lộng Cờ Ðào của Mộng Bình Sơn 

Ðặc san TÂY SƠN Xuân Quí Dậu 1993

ÐI TÌM DẤU TÍCH LĂNG VUA QUANG TRUNG

Tác giả: Tài liệu nguồn không ghi tác giả

Mùa hè ở Huế nóng bức, mưa giông hay chợt đến, hơi đất xông lên nồng nặc khó chịu. Ðứng núp mưa bên bờ nam sông Hương, bỗng nhiên hai câu Ai Tư Vãn hiện lên trong tâm trí tôi: 

“Từ nắng hạ mưa thu trái tiết

Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên”

Ðây là lời kể của công chúa Ngọc Hân về bệnh tình của vua Quang Trung trước khi nhà vua băng hà. Trong lòng tôi bồn chồn, giữa những ý nghĩ bất chợt như mưa giông vừa đến, một câu nói của ai đó nhắc: Tôi còn thiếu một bài viết để trả lời câu hỏi của nhiều nhà khảo cổ: “Lăng mộ vua Quang Trung ở đâu?” Ngày giỗ lần thứ 200 của vị anh hùng dân tộc vĩ đại Quang Trung 29-7 âm lịch có thể mất đi nhiều ý nghĩa nếy không đề cập đến địa điểm lăng mộ vua Quang Trung nơi nhà Nguyễn đã cho quân quật phá từ đầu thế kỷ 19 (1801).

Sử nhà Nguyễn có ghi: “…mộ của Huệ bị đào phá, thi hài bị giã nát rồi đổ bỏ, nhốt sọ đầu vào ngục thất.” Suốt gần 150 năm trị vì, nhà Nguyễn đã cấm thần dân không được nhắc đến sự kiện này, mọi dấu tích có liên quan đều bị xoá sạch. Trong Liệt truyện nhà Nguyễn chỉ ghi lại vỏn vẹn một câu: mộ Huệ được “táng ở phía nam sông Hương.” Hơn nửa thế kỷ qua, nhiều tác giả đã căn cứ vào kích thước to lớn của lăng Ba Vành ở làng Cự chánh cách trung tâm thành phố Huế chừng 7km để cho rằng đó là lăng Quang Trung. Một số tác giả đã bác bỏ giả thuyết đó và đưa ra nhiều tài liệu chứng tỏ rằng lăng Ba Vành là lăng mộ Lê Quang Ðại, Hộ bộ kiêm Binh bộ thời Võ vương (1738-1765). 

Ðúng vậy, làm sao “cái lăng Quang Trung” có kích thước to lớn như thế lại có thể tồn tại được ở Phú xuân bất chấp cả chính sách “tận pháp trừng trị” Tây Sơn của nhà Nguyễn. Trong hai bộ thơ văn của Ngô Thời Nhậm và Phan Huy Ích do Viện Hán Nôm xuất bản, các tác giả thời Tây Sơn này đã viết: “Cung điện Ðan Dương là Sơn lăng của vua Quang Trung. Lăng vua Quang Trung có tên là Ðan Dương lăng hay Ðan lăng (Lăng Ðỏ, lăng Mặt Trời đỏ).” Ðây là những tài liệu đầu tiên do chính những người đường thời vua Quang Trung ghi chép nên có thể tin cậy được. Vì thế, tôi trở lại khu vực lăng Ba Vành ở sau lưng nhà thờ Thiên An ngày nay. Tôi không tìm thấy được bất cứ một dấu tích nào chứng tỏ khu vực lăng Ba Vành đã từng là một vùng cung điện có cái tên là Cung Ðỏ (chữ của công chúa Ngọc Hân trong Ai Tư Vãn) cả.  

LĂNG ÐỎ VÀ CHÙA THIỀN LÂM

Trải qua nhiều năm tháng và bằng nhiều con đường, tôi đã tìm được một di tích so với kinh thành Huế cùng nằm một hướng “phía nam sông Hương” với lăng Ðan Dương. Di tích đó là chùa Thiền Lâm. Theo sử nhà Nguyễn và Phan Huy Ích, chùa Thiền lâm đã từng là dinh thất của Thái sư Bùi Ðắc Tuyên. Dưới triều Quang Toản, chùa Thiền lâm là nơi tập trung mọi quyền lực của quốc gia. Phan Huy Ích đã nhiều lần đến ở lại trong một ngôi chùa dùng làm trạm kinh đô ở gần đó để bàn việc với Bùi. Bùi có thói quen làm việc ban đêm, ban ngày ngủ. Nha thuộc cũng phải theo thói quen ấy. Từ ngoài Bắc vào, Phan chưa quen với nếp sinh hoạt của Bùi. Mặc dù ban đêm phải làm việc, ban ngày Phan vẫn thức. Thức trong lúc mọi người ngủ, Phan rất buồn và phải uống rượu để tiêu sầu. Trong phần ghi chú về một bài thơ, Phan Huy Ích cho biết: “Lúc bấy giờ bọn tiểu giám giữ lăng thường đến hầu rượu.”

Việc này xảy ra từ năm 1792 (năm vua Quang Trung qua đời) đến năm 1795 (năm Bùi Ðức Tuyên bị dìm nước chết). Lúc ấy chỉ có lăng Quang Trung mới có tiểu giám giữ, và lăng có gần chùa Thiền lâm thì bọn tiểu giám mới có thể “thường đến hầu rượu” Phan Huy Ích. Nói cách khác, Dương lăng ở gần chùa Thiền lâm.

CHÙA THIỀN LÂM Ở ÐÂU?

Sách Ðại Nam Nhất Thống Chí đời Duy Tân viết “chùa Thiền lâm ở xã An cựu”. Tôi đã mất nhiều năm lặn lội trên đất An cựu nhưng không tìm được di tích Thiền lâm. Cũng sách Ðại Nam Nhất Thống Chí đời Tự Ðức (đã viết về chùa Thiền lâm giống với nội dung viết thời Duy Tân) lại ghi ở ấp Bình an. Ấp ấy chưa bao giờ thuộc xã An cựu cả. Vậy hóa ra có hai chùa Thiền lâm nội dung giống nhau sao? Sự thực thì không, ông Phan Khắc Thuận ở viện Hán Nôm đã lục trong lai cảo của Phan Huy Ích tìm thấy bài thơ Kinh Thiền Lâm Phé Tự cảm tác, mở đầu có một lời nguyên dẫn ghi rõ “Chùa Thiền lâm ở núi xã Dương xuân”. Thời Gia Long núi xã Dương xuân này đã cắt cho xã Phú xuân lập ba ấp Bình an, Trường cửu và Trường giang. Phải chăng các sử thần thời Thành Thái – Duy Tân muốn giấu giếm ngụy trang một sự kiện gì đây ở chùa Thiền lâm?

DI TÍCH PHỦ DƯƠNG XUÂN

Có nhiều sách sử viết phủ Dương Xuân, nhưng chỉ có Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí của Phan Huy Chú là đầy đủ hơn cả. “Ở bờ nam ngạn thượng lưu sông Hương có phủ Dương xuân, điện Trường Lạc, hiên Duyệt Võ. Ấy là những toà nhà nguy nga, mái đao rực rỡ, có hành lang bao quanh… Các toà nhà đều được lát nền bằng gạch, đá rất bằng phẳng… Trong vườn sau có núi non bộ xây cất với những hòn đá lạ mắt, lại có ao vuông, hồ bán nguyệt với những cây cầu vồng và nhà hóng mát cất ở giữa hồ.” Trước  cả  các  nhà  sử  học  Việt  nam,  nhà  buôn  Pierre  Poivre  năm  1749  đã  được    vương  tiếp    phủ Dương Xuân và ông đã có một ghi chép về cảnh quan ngôi phủ này. Pierre Poivre cho đây là một cái phủ quan trọng vào bậc thứ hai so với đô thành Phú xuân thời bấy giờ.

Nắm chắc những thông tin về phủ Dương xuân do sử sách cung cấp, tôi đi ngược từ đàn Nam Giao hướng ra phiá Bắc. Tôi may mắn đã tìm ra được một địa điểm ở bờ bắc suối Tiên có nhiều biểu hiện hấp dẫn. Người hướng dẫn là ông Nguyễn Hữu Oánh, trên 50 tuổi, xuất thân trong một gia đình khai khẩn của khu vực này. Ông đưa tôi đến từng vùng đất ứng với những mã số ghi trong bản đồ của ấp Bình an. Ông nói:

- Trước cuối thế kỷ 19, đây là một vùng cấm địa hoang vu, cây cối sầm uất. Phần đất ở bờ bắc suối Tiên này là một cái hồ sen, nay đã bị bồi lấp thành ruộng trồng rau răm!

- Vì sao gọi là suối Tiên? Tôi hỏi.

- Vì cuối dòng suối này soi bóng chùa Kim Tiên – một ngôi chùa nổi tiếng thời các chúa Nguyễn! Từ bờ suối Tiên hướng về bắc đất cao dần lên. Có một con đường nhỏ đi lên đỉnh đồi. Nhà anh Oánh mang số 62/13/12 Ðiện Biên Phủ, ở phía đông con đường, phía tây là một cái cồn tròn còn nhiều gốc sứ cổ thụ nên có tên là Cồn Bông Sứ. Ông Oánh cho biết nhân dân trong vùng này trong nhiều thập niên qua khi làm vườn đã phát hiện được nhiều hầm gạch đá, vôi vữa nằm sâu dưới lòng đất.

Tôi hỏi:

- Theo anh những thứ đó từ đâu ra? – Có lẽ đó là một di tích của Chàm bị triệt hạ! – Vì sao anh không nghĩ đó là những kiến trúc của Việt nam mà là của Chàm?

-      đây  gia  đình  tôi    nhặt  được  một  số  tượng Chàm. Nhưng rất tiếc sau ngày Việt minh nổi dậy (1947) đem chôn ở đâu bây giờ không nhớ nữa!

Theo hướng dẫn của anh, sau khi đi khảo sát, tôi đã ghi nhận được nhiều hiện tượng, hiện vật chứng tỏ đây từng là một vùng cung điện bị triệt hạ. Cung điện đó xây dựng trên một di cũ của người Chàm. Tôi xin kể một số hiện vật quan trọng: trong sân vườn nhà anh Oánh đã có hàng trăm viên đá lát 30x4cm, (hiện nay dùng lót đường vào nhà trai chùa Vạn Phước) một cái móng thành vôi cũ, nhiều viên đá táng cột lớn… Trên cồn Bông Sứ có ngôi lăng bà thân mẫu Thượng thư Phạm Liệu xây dựng toàn bằng đá. Dân ấp cho biết đá đó đã tận dụng ngay trong khu vực này. Nhiều viên đá qui tập về không dùng hết còn bỏ phía sau lăng, nhiều đống gạch vụn phía sau chùa Vạn Phước làm cho tôi choáng ngợp. Anh Oánh và dân ấp nói:

- Những thứ còn lại đây là những thứ không dùng được. Chúng tôi đã bán cho thợ làm bia hàng trăm viên đá táng, đá ốp, đã sử dụng hàng ngàn viên gạch vồ để xây sân, xây nhà bây giờ không tìm lại được nữa! Những hiện vật vừa tìm thấy đều nằm ngoài hàng rào phía tây chùa Thiền lâm. Từ ngày chùa cho đào bới sân vườn nhà chùa để lấy gạch vồ lát sân xây dựng nhà trai, hàng chục viên đá táng cột hình tròn được dùng làm ghế ngồi ở chái tây. Trụ trì chùa Thiền Lâm nói: những đá ấy đều nhặt trong vườn và nhiều vô số. Hiện nay nhà chùa cũng đang tiếp tục “khai thác” để làm nhà tăng!

Nhìn ra vườn chùa thấy một đống gạch vồ mới khai thác còn nham nhở bùn đất, tôi hỏi:

- Thầy có nhận xét gì về nguồn gốc những vật liệu cổ này?

- Có lẽ ngày trước đã có những kiến trúc đã bị chôn vùi xuống mảnh đất này! Ðến khi người Pháp làm đường Nam Giao, người ta dời chùa Thiền Lâm dựng chồng lên trên!

Từ những hiện vật, hiện tượng nêu trên có thể kết luận rằng ngày xưa phủ Dương Xuân đã nằm gần chùa Thiền Lâm. Chùa Thiền Lâm và phủ Dương Xuân là hai ngón của một bàn tay.

TIỀN THÂN CỦA CUNG ÐIỆN ÐAN DƯƠNG

Dấu tích phủ Dương Xuân còn để lại quyện vào khu vực chung quanh chùa Thiền Lâm. Theo Phan Huy Ích,  cung  điện  Ðan  Dương  cũng    gần  chùa  Thiền  Lâm.  Vậy  hai    sở  này    liên  quan    với  nhau không? Phủ Dương Xuân liên quan đến vua Quang Trung như thế nào mà bị nhà Nguyễn chôn vùi xuống đất? Ngoài khu vực phủ Dương Xuân và chùa Thiền Lâm còn có nơi nào ở gần đó tốt hơn để vua Quang Trung cho xây dựng cung điện Ðan Dương không? Hơn nữa vua Quang Trung không có ý định đóng đô ở Huế, ông xây dựng cung điện Ðan Dương làm gì trong khi ở đó đã có sẵn phủ Dương Xuân rất to lớn của các chúa Nguyễn để lại? Các chùa chung quanh Thiền Lâm đều bị trưng dụng, thế thì phủ Dương Xuân được sử dụng làm việc gì?

Căn cứ trên tài liệu, địa lý khớp với lý luận, tôi cho rằng vua Quang Trung đã sửa chữa phủ Dương Xuân làm cung điện Ðan Dương trong lúc ông đang chờ đợi Phượng Hoàng Trung đô xây dựng xong (ở Nghệ an) để dời ra ngoài đó. Cung điện Ðan Dương chỉ có thể là hậu thân của phủ Dương Xuân mà thôi.Ngô Thời Nhậm đã từng mách bảo: “Cung điện Ðan Dương là sơn lăng phụng chứa bảo y tiên hoàng ta” Vậy Ðan lăng tọa lạc nơi nào gần chùa Thiền lâm? Dấu tích phủ Dương xuân, tiền thân của cung điện Ðan Dương, bày ra trên một diện tích rất rộng: phía nam là bờ suối Tiên leo lên phía bắc là đỉnh gò (còn lại chân bức tường dài), phía đông là đường Ðiện Biên phủ chạy qua phía tây là chùa Vạn phước và nền chùa Tuệ lâm (với những đống gạch vụn lớn). Trên diện tích rộng ấy có dấu hiệu gì của một lăng vua? Cồn Bông Sứ? Bông sứ ngày xưa chỉ được trồng ở những nơi thờ tự (như các lăng vua Nguyễn ngày nay) nhưng chưa đủ. Lúc sinh thời cụ thân sinh ông Oánh có kể:

- Lúc mới được về đây lập vườn, tôi có đào được bốn tấm đá granit lớn. Tôi cho người bà con ở Bến Ngự một tấm, bán cho dân Phủ Cam một tấm, còn hai tấm tặng chùa Vạn phước!

Theo lời người xưa, chúng tôi đã lên chùa Vạn phước. Thực tế cho thấy chùa Vạn phước còn giữ một tấm (tấm kia đã bể) dùng làm mặt bàn trong nhà bếp. Tấm đá dài 2.7m, rộng 0.67m và dày 0.035m. Mặt trên được mài nhẵn, mặt dưới xô xảm còn trơ vết gọt đẽo bằng những dụng cụ thô sơ. Khảo sát tấm đá lớn, nhiều người nghiên cứu đã nhận định “Tấm đá này có thể là một trong những tấm đá bọc chung quanh quan tài của vua Quang Trung.”

Bà Nguyễn thị Liên, người sống lâu năm ở khu vực này, xác nhận:

- Trước tháng Tám 1945, người Nhật chiếm chùa Thiền lâm. Dân chúng ở chung quanh sợ máy bay Ðồng Minh đến thả bom nên nhà ai cũng đào hầm trú ẩn. Nhà tôi cũng đào thì gặp một cái đường hầm đúc bằng vôi vữa. Thế là cha con thay nhau vét hết đất trong hầm rồi đưa nhau xuống trú ẩn.

Ðường hầm ấy là gì? Phải chăng nó là cái huyền cung phụng chứa quan tài của vua Quang Trung? Năm 1801 quan tài đã bị lấy lên còn trơ lại cái huyền cung dưới đất?Chúng tôi đã xin phép gia đình chị Liên được khai quật thử để “thăm dò”. Trước sự chứng kiến của nhiều người, chúng tôi (Phan Thuận An, Võ Xuân Trang, Lê Ðình Liễn, Nguyễn Hữu Oánh v.v…) đã đào thấy một bức tường thành dài hơn ba mét dưới độ sâu trên một mét. Bức thành chạy dọc theo hiên nhà bà Nguyễn thị Liên.

Bà nói:

- Tôi bảo đảm với các anh cái đường hầm này đã nằm dưới nền nhà tôi, bức thành này chỉ là phần mặt ngoài. Các anh không được đào nữa, sập nhà tôi!

Chúng tôi không dám lợi dụng lòng tốt của gia đình bà Liên hơn nữa cho nên việc khai quật, thăm dò phải ngừng ngang đó.

MỘT GIẢ THUYẾT ÐÁNG TIN CẬY

Ðó là một chuồi những sự kiện lịch sử bi hùng đã diễn ra trên mảnh đất “trời hành cơn lụt mỗi năm” này. Chính vì đặc điểm Huế hay bị lụt ấy mà các chúa Nguyễn khi đóng dinh ở Kim Long và Phú xuân đã phải dựng một cái phủ trên gò Dương xuân để ở vào những tháng mưa lụt. Các chúa là những người mến mộ đạo Phật nên đã dựng phủ Dương xuân một thảo am mang tên Thiền lâm. Cuối thế kỷ 17, chúa Nguyễn Phúc Chu cho người mời hoà thượng Thạch Liêm (Thích Ðại Sán) từ Trung quốc qua hoằng dương đạo Phật ở Thuận hoá. Vì đoàn quốc khách quá đông, chúa phải cấp tốc cho nâng cấp thảo am Thiền lâm thành một toà phương trượng có đủ sức chứa hàng trăm người. Năm 1786 Nguyễn Huệ đánh chiếm Phú xuân trong tay quân Trịnh (Nguyễn?) rồi làm cuộc thần tốc ra Thăng long hoàn thành công việc phò Lê diệt Trịnh. Ðến khi trở lại Phú xuân, Nguyễn Huệ mang theo nhiều của cải châu báu, ông cần có một nơi an toàn để cất giữ. Nơi đó là phủ Dương xuân. Ông cho xây chung quanh dinh ông một bức tường thành cao và được các nhà truyền giáo phương Tây thường nhắc đến.

Năm 1788, Nguyễn Huệ lên ngôi, ông sửa sang phủ Dương xuân thành cung điện Ðan Dương. Giữa mùa hè 1792, ông mất đột ngột. Ðể giữ bí mật với nhà Thanh ở phía Bắc, nhà Nguyễn ở Gia định và người anh ông là Nguyễn Nhạc ở Qui nhơn, triều Quang Toản đã táng thi hài ông ngay trong khuôn viên cung điện Ðan Dương. Việc giữ bí mật này lúc đầu rất thành công, nhưng sau vì nội bộ nhà Tây Sơn chia rẽ, một số trọng thần vào Nam theo Nguyễn vương (như Ngô văn Sở, Lê Chất…) những thông tin về cái chết của vua Quang Trung không còn giữ bí mật được nữa. Vì thế năm 1801 khi trở lại Phú xuân, vua Gia Long đã không nhầm khi “quật mồ” của vua Quang Trung.  

Ðặc san TÂY SƠN – QUANG TRUNG Xuân Giáp Tuất 1994 

BẮC HÀ HAY CHẾ ÐỘ CŨ  DƯỚI MẮT TÂY SƠN

Tác giả: Tạ Chí Đại Trường

 

“Sáng nay khi biết Tây Sơn kéo quân về Nam đêm trước, Lê Chiêu Thống đòi các quan vào triều và hỏi:

- Anh em hắn cướp hết nước ta mà đi, để lại “nước không” lại đây cho ta, nếu như có việc nguy cấp thì lấy gì mà khống chế? 

Các   quan   ngơ   ngác   nhìn   nhau,   không   biết   nên   nói   thế   nào.   Tả   hữu   chợt      người   tâu:

- Hôm qua vâng có chỉ truyền sớm nay đặt triều, bây giờ ngự giá đã tới, dám xin nhắc lại. 

Hoàng thượng lại hỏi các quan:

- Triều hãy thôi chăng? 

Các quan đều nói:

- Hoàng thượng đã ra triều để giáng chỉ đổi niên hiệu, đó là việc lớn, sao lại thôi?” 

Một đoạn thuật chuyện trong sách Hoàng Lê vắn tất cho thấy sự tan rã của cái thế thống-nhất-về-Lê. Cái “nước không” mà Lê Chiêu Thống đã nói đây không phải chỉ là bảo vật, không kho tàng. Nỗi kinh hoàng của Chiêu Thống chính là do ở cái không khí trống trơn quyền bính mà Tây Sơn để lại Bắc hà.  Ðoan nam vương chết, Tây Sơn đi, người ta cứ tưởng quyền bính từ đây tập trung về tay Lê, nhưng tình thế trái ngược lại vì thói quen lâu đời đã không dễ gì một sớm một chiều xóa nhoà được.  Trước hết là về phía nhà vua. Vị thiên tử 21 tuổi đó có mối thù Trịnh giết cha, có kinh nghiệm tù ngục, nhưng chỉ để nuôi dưỡng oán hờn chứ không được chuẩn bị cầm quyền nối ngôi ông nội. Ông chỉ mới muốn tự chủ trong việc chôn cất tiên đế thì đã bị ông dượng rể giành lấy làm đến phải tạ tội mới được yên thân. 

Triều thần nhà vua thì qua 200 năm ở nể cũng không biết việc gì làm hết. Hãy nhìn bộ mặt ngơ ngác của họ khi Chiêu Thống hỏi mưu lược giữ nước. Có kẻ lanh trí nghĩ ra thì chỉ được có mỗi một việc là đặc triều đã nói hôm qua. Thế rồi các quan mừng rỡ nhờ tìm được lối thoát, đốc xúi vua ra triều để được tung hô mừng thời mới. Ừ việc lớn quá sao lại thôi? 

Trong khi đó thì phải thấy rằng thói quen làm việc quanh Trịnh phủ dưới quyền họ Trịnh đã tập thành, để một khi xảy ra biến cố “đám cố gia di thần nhà Chúa” vẫn còn luyến nhớ họ. Hãy nghe Ðỗ Thế Long biện hộ cho nhà Chúa mà đàn hặc Nguyễn Hữu Chỉnh: 

“Khi ông mới xuất thân, nào cầm quân, nào phong hầu, cái gì không phải là ơn nhà Chúa. Nay ông lấy tiếng phù Lê diệt Trịnh để kéo quân ra, thật là quá tệ. Nếu bảo nhà Chúa hiếp chế nhà vua là việc có lỗi thì sao không nghĩ cái công tôn phù hai trăm năm trời? Theo người mới mà phản người cũ tức là bất nghĩa, bới cái lỗi để lấp cái công tức là bất nhân…” 

Cho nên khi văn thần của Lê bất lực thì võ tướng làm việc ở các trấn một khi kéo quân về chỉ là để phù Trịnh. Khuôn mặt Trịnh nổi bật nhất là một người đã từng âm mưu giành ngôi anh, tính dựa vào Kiêu binh đoạt ngôi báu: đó là Trịnh Lệ, em ruột Trịnh Sâm. Ðược thì trung hầu tìm đón về Thăng Long, Lệ nhận cho Dương Trọng Tế phản Chiêu Thống thần phục mình để lập nên triều Chúa mới. Một khuôn mặt khác của Trịnh nhu hòa hơn, nhưng nhờ kích thích của thời thế cũng chứa nhiều tham vọng: đó là Trịnh Bồng,  “Ông  quận  Quế”.  Tấn  tuồng  xoay  chiều,  đổi  chủ  lại  diễn  ra  chớp  nhoáng.  Nguyễn  Mậu  Nễ,  bộ tướng của Dương Trọng Tế, noi gương chủ đi đón Trịnh Bồng về đuổi Trịnh Lệ chạy khỏi phủ Chúa (4-11-1786). 

Trong họ Trịnh không còn ai giành quyền nữa để Chiêu Thống làm áp lực có hiệu quả với Trịnh Bồng nên đành chịu Ðinh Tích Nhưỡng mang quân về ép ông phong chức cho Chúa. Ông cũng còn hy vọng ở Hoàng Phùng Cơ nhưng viên tướng này cũng liệu gió phất cờ mà sắp hàng bên phủ Liêu. 

Nhưng tình trạng đó không có nghĩa là quyền bính đã được tập trung quanh chiếc ngai “đố an” – Án đô vương.  Những  người  lăng  xăng  chạy  từ  cung  vua  tới  phủ  Chúa  tranh  các  danh  vị  Tham  tụng,  Bình chương… “khư khư những thú cũ rích” không phải là một lực lượng đáng kể. Bên văn hãy xem một Ninh Tốn, tướng bại trận Ðồng Hới ngày trước , đem cái khôn quyệt “nhanh trí” của mình ra để dò ý Hoàng Phùng    xem  thế    đổi  chiều  phò  tá.  Ðám  người  “sợ  hãi  xám  mặt”  trước  Bắc  Bình  Vương,  đã  bị Nguyễn Hữu Chỉnh mỉa mai tài thuyết khách từng đem một tên trấn nước để khỏi làm “mê hoặc thiên hạ”, đám người ấy quả không đủ sức nghĩ xa hơn cách hiến thân bằng mồm mép. Còn võ tướng Ðinh Tích Nhưỡng chẳng hạn, một ông trấn thủ biến thành cướp, không dằn mặt nổi ông nghè Nguyễn Hãn, còn nói gì đến việc đánh ai? Tình trạng phân ly từ trên đem đến một sự kết tập binh lính, dân chúng lỏng lẻo, nay là của phe này, mai bị vào phe khác không có gì đáng hơn bọn trước.  Nguyễn Hữu Chỉnh thừa hưởng được lề lối kết tập của Tây Sơn có thắng được! Trịnh Bồng vào cuối tháng giêng 1787 cũng là lẽ tự nhiên.Từ khi bị Nguyễn Huệ bỏ rơi ở Nghệ An, Chỉnh phải lo kiến tạo lực lượng riêng  để  bảo  vệ  bản  thân    chờ    hội  phát  triển.  Không    Tây  Sơn  thì  ông  làm  Tây  Sơn  vậy.  Ông truyền hịch chiêu binh. Ai ngần ngừ, ngỏ ý chống báng, ông đem tay chân giết ngay. Tất nhiên không phải  chỉ    sự  đe  dọa  làm  nên  tinh  thàn  binh  sĩ.  Khả  năng  tổ  chức  quân  binh  của  ông  từ  những  kinh nghiệm qua được đem ra thử thách lần nữa. Quân có thiếu chính nghĩa thì phải tạo nó ra. Một chuyến liên lạc ngầm với Chiêu Thống được tuyên bố khoa trương khiến dân chúng Nghệ An bỏ phe chống đối mà theo ông. 

Về phần Chiêu Thống từ khi thất vọng với Hoàng Phùng Cơ, quả vua thấy không còn ai có thể để kêu gọi về giúp ngoài Nguyễn Hữu Chỉnh. Quân Nghệ An rầm rộ tiến ra. Một trận nhỏ phá tan quân Trịnh Bồng gởi vào hỏi tội, bắt sống Phan Huy Ích, giết Lê Trung Nghĩa khiến uy thanh Chỉnh nổi dậy. Một lần nữa quân tướng quanh phủ Chúa lại lảng xa. Trịnh Bồng có mếu máo chạy trốn cũng chỉ là thèm chút kinh nghiệm đắng cay cho con người thời loạn. Chỉ có họ Trịnh là không hy vọng trổi dậy nữa: Chiêu Thống tức giận sai đốt tan phủ Chúa để tuyệt diệt dấu vết của một uy quyền đã áp bức dòng họ mình trên hai trăm năm dài. 

Phát huy chiến thắng, Nguyễn Hữu Chỉnh cho quân đánh bắt Dương Trọng Tế ở Gia Lâm, bắt Hoàng Phùng Cơ ở Sơn tây đem về giết, đuổi tan quân Ðinh Tích Nhưỡng ở Hải Dương. Uy quyền của Chỉnh lớn dần ngang với thực lực. Chỗ ở của Chỉnh tấp nập quan chức ra vào. 

Tuy nhiên muốn lập riêng một triều Chúa mà hành động của Chỉnh vẫn có dấu vết của viên hữu quân Tây Sơn. Thực vậy, muốn có lực lượng bình Bắc hà, muốn tìm cách tập trung một quyền hành từ lâu vẫn phân tán nên bị khinh khi, Chỉnh đã áp dụng những phương pháp như của Tây Sơn đã làm. Sách Hoàng Lê với những nhận xét chủ quan, thiển cận vẫn cho ta thấy rõ điều đó: 

“Bây giờ tiền bạc trong nước phần nhiều bị nhà giàu dấu cất, nhân dân đói khát vì nạn khan tiền, vật giá đắt lên vùn vụt. Chỉnh bàn xin với triều đình ra lệnh thu hết tượng đồng các Chùa đem về Kinh sư mở lò đúc tiền. Rồi Chỉnh thả cho các thủ hạ đi khắp tứ phía cướp bóc chuông tượng của các làng xóm. Người nào mà dám dấu diếm, tức thì bị chúng bắt đem về khảo đả nghiêm tra. Duy có pho tượng đồng đen ở quán Trấn vũ phía bắc kinh thành chúng không dám lấy mà thôi. Thấy Chỉnh làm việc như vậy dân chúng ai cũng ta thán. Một hôm có người dán ở cửa Ðại Hưng hai câu (…) dịch ra quốc văn là:

Thiên hạ mất chuông chùa, chuông mất, vạc ở đâu được?

Hoàng thượng đốt phủ Chúa, phủ đốt, điện cũng trơ thôi!”

Tất nhiên phương pháp đưa ra không ngăn được kẻ thừa hành nhũng nhiễu. Chỉnh lại không có đủ tay chân có tài để khống chế người và kiềm chế mình. Chỉnh “mới” quá đối với bọn Trịnh Lê thần. Cho nên, đến như việc đánh dẹp Trịnh Bồng, Quận Thạc, Quận Liễn, những kẻ mà bọn thần tử cựu trào có hồi cũng mỉa mai, thế mà vẫn bị Ngô Thì Chí gọi là “mượn hoàng thượng để sai cả nước (…), dùng quân trừ bỏ kẻ hại mình”; Ðinh Nhạ Hành cũng tố cáo Chỉnh “lúc cầm quyền ra tay tàn sát, những quân thần, túc tướng, lệnh tộc và thế gia bị giết hại rất nhiều”.  Sự tồn tại của vua Lê cũng là một chứng cớ thất bại của Nguyễn Hữu Chỉnh. Lê đế vẫn còn đó là nền nếp cũ vẫn còn, dù dở đến đâu cũng còn có cớ tồn tại. Chỉnh sẽ bị lụy vào cái không khí ươn hèn đó để đổi mình đi, như lời nhận xét của Ngô Nho nói với Trần Công Xán: 

“Ông Bằng từ khi đắc thế đến giờ, vàng ngọc chật đai, không giống hồi nhai rễ rau làm việc được như ngày xưa. Tôi e ông ấy run rẩy ra chốn trận mạc ắt bị Văn Nhậm bắt được.” 

Ðó không phải là lời tiên tri. Việc ra Bắc đã được Bắc Bình Vương định từ trước, nhưng phải đình lại vì chiến trận Qui Nhơn. Nguyễn Hữu Chỉnh ở yên lại tưởng nhân Nhạc Huệ xung đột mà có thể thu được mối lợi ngư ông. Ông xúi Nguyễn Văn Duệ chống Huệ không thành. Ông sai Trần Công Xán vào Phú Xuân đòi đất Nghệ an để giải tỏa áp lực bọn Lê thần. Nhưng không phải chỉ số phận sứ bộ mà cả số phận của Nguyễn Hữu Chỉnh cũng đã được định rồi, ở Phú xuân. Nơi dinh trấn Nghệ, Vũ Văn Nhậm nói thẳng vào mặt Trần Công Xán: 

“Tôi nay đã lãnh binh phù, sớm tối sẽ kéo thẳng ra Thăng Long, trước hãy chém đầu thằng giặc Chỉnh, rồi sau mới hỏ vua Lê tại sao bội ơn dong đứa làm phản?… Vua Lê đã không giữ được nước thì các trấn từ Thanh Hoá trở ra, tôi không lấy người khác cũng lấy…” 

“Vua Lê đã không giữ được nước”. Ý kiến này không phải chỉ của Nhậm. Ðó là nhận xét gây nên ước vọng của Nguyễn Huệ, đó là đầu mối gây nên chiến tranh nồi da xáo thịt. 

Việc chuẩn bị đánh Thăng Long được Vũ Văn Nhậm sửa soạn ở Nghệ An vào hạ tuần tháng 10-1787. Quân đội của Nhậm vét ở Bố chính, Thanh Nghệ được hơn 30.000 người, bắt đầu tiến ra Bắc khoảng trung tuần tháng chạp. Ðụng độ với Lê Duật, trấn thủ Thanh hoá của Nguyễn Hữu Chỉnh, từ 26-12, Nhậm đánh trận tập kích thắng lớn, giết Duật rồi tiến ra Sơn Nam. Hoàng Viết Tuyển ở đấy lại xung đột với Chỉnh và có ý hàng Tây Sơn nên quân Nhậm tránh được một mũi nhọn. Quân Nguyễn Như Thái bị thua trên đường đi chiếm Tam Ðiệp. Quân tan, Thái bị bắt, Nguyễn Hữu Chỉnh phải tự cầm quân. Con Chỉnh, Hữu Du, cũng không may mắn hơn các tướng khác. Ðêm rạng ngày 7 tháng 1 (1788), Chỉnh lẻn về kinh thành khóc với Chiêu Thống “Bloi oi la bloi, nhà Lê đã mất rồi!” rồi cùng vượt sông trốn sang Kinh Bắc. Vũ Văn Nhậm vào thành Thăng Long (9-1-1788), cho quân đuổi theo Chỉnh, giết Hữu Du, bắt Chỉnh (12-1) đem về xử tử (15-1), bêu đầu cho công chúng xem. 

Việc thanh toán quyền bính Bắc hà , cũng như trước kia đối với Nam hà, rõ ràng là không khó với thực lực của Tây Sơn. Nhưng theo với sự mở rộng quyền hành, họ còn phải tìm cách biện chính hành động, thuyết phục đám Lê thần, Nguyễn thần công nhận sự đổi thay rồi thu dụng bọn này làm tay chân. Nguyễn Nhạc lúc ra Bắc đã định “xin” mấy ông nghè đem về nước. Nguyễn Huệ bắt Nguyễn Ðăng Trường, thả đi rồi bắt lại ở Gia Ðịnh rồi mới giết đi. Lúc đánh Phú Xuân, ông thu nhận Trần Công Kỷ rồi nhờ người này làm trung gian mời Ngô thì Nhậm, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, hỏi dò Nguyễn Nghiễm (cha Nguyễn Du) để tìm đến ông già ở ẩn Nguyễn Thiếp trấn Nghệ An. Tất cả những việc đó chứng tỏ Tây Sơn phải mất thì giờ và hao công tốn phu để khuôn nắn trong vòng ý thức hệ thời đại. Ta không lấy làm lạ Nguyễn Huệ vẫn phải giải quyết vấn đề theo những dữ kiện có sẵn. Chính ông vẫn coi việc thu dụng nho thần như một tiến bộ cho chính quyền ông. Tây Sơn thiếu nho thần, không có một chính sách ở Gia Ðịnh, chỉ mang quân tới chiến rồi đi, không thay đổi nổi lòng người. Ở Phú xuân Nguyễn Huệ phải đi cầu Nguyễn Thiếp chính là để quân bình lại cái không khí sùng chuộng võ uy trong triều ông do ở nơi “những kẻ giúp việc trong nhất thời đều là những kẻ mạnh bạo”.  Nhưng hiện tại sức mạnh Tây Sơn vẫn là ở quân lực của họ, cụ thể ở Bắc Bình vương Nguyễn Huệ. Tình thế chưa đến để họ gạt triều Lê ra ngoài triều chính để thuyết phục ông già Nguyễn Thiếp, tuy rằng trong chuyến trôi dạt theo Nguyễn Hữu Chỉnh, L�! � Chiêu Thống đã qua Kinh Bắc rồi lang thang ở Hải Dương với thổ hào Trần Quang Châu, ở Sơn Nam với tướng Hoàng viết Tuyển, ở Thanh Hoá, về lại Kinh Bắc, trải qua đủ mùi lưu lạc của ông vua một triều đại tàn kiếp. Ấy thế mà Lê còn làm cho Tây Sơn mất một dũng tướng nữa. 

Nguyên cớ sâu xa như đã nói là mối bất hòa nội bộ tận xứ Qui Nhơn. Nhưng nguyên nhân gần cận là thái độ khác nhau của những kẻ chiến thắng đối với cái “nước không” của Chiêu Thống bỏ lại. Vũ Văn Nhậm cầm đầu quân tướng Bắc phạt nên hơn ai hết, ông thấy rõ tình hình nghiêm trọng do các tướng và thổ hào của Lê được dịp mượn tiếng cần vương để thoả mãn khát vọng quyền uy trong một xã hội tan rã. Về phía đồng bọn, nói theo các giáo sĩ đương thời, “ông còn lo sợ sự phẫn nộ của Bắc vương vì ông khăng khăng từ chối nhiều lần không chịu tuân theo lệnh gọi ông về Phú xuân sau khi đã giết được Cống Chỉnh. Ông lại còn bị tình nghi là đã có tham vọng chiếm ngai vàng Bắc kỳ đáng lẽ là của chủ ông nhân lúc người này đang đánh nhau với Tiếm Vương Nhạc…” Cho nên theo thói quen làm việc có sẵn cọng thêm với ý tưởng đề phòng trước biến loạn, thụ hưởng chiến thắng, ông đã tận lực khai thác đất Bắc. “Người ta chỉ nghe đến mộ lính, quyên gạo, quyên tiền”. Quân Nhậm bắt các chức sắc trong làng kê khai đinh điền để tính thuế, bắt xâu, bắt cung nữ. Họ triệt hạ các mô đất trong làng sợ có thể trở thành chiến lũy chống họ. Loạn khắp nơi nên Nhậm phải sai đắp lại thành Ðại La. Ngô Thì Chí kể: “Dân phu đói khát mệt nhọc, có kẻ đương đội thúng đất mà ngã sấp xuống. Bởi vậy ai cũng ta oán”. 

Tình hình nghiêm trọng như vậy nên Nhậm mới nghe lời một Lê thần mà đem Sùng nhượng công Lê Duy Cẩn lên làm Giám quốc để giải tỏa bớt áp lực tôn Lê. Ngô Văn Sở người được Bắc Bình Vương sai kềm cặp dò xét Nhậm, lại thấy trong hành động đó thêm một ý nghĩa muốn làm Nguyễn Hữu Chỉnh của viên tiết chế, nên mật báo về Phú Xuân. 

Cuối tháng 3-1788, vừa dẹp xong Nguyễn Văn Duệ, Bắc Bình Vương nghĩ tới chuyện ra Bắc. Quân ở đàng xa mà uy danh vương đã khiến Hoàng Viết Tuyển phải bỏ dinh sở trốn đi. Ðại binh với một đoàn hộ giá với gồm 150 con voi, 100 người nằm võng, nhiều kiệu thếp vàng, Ngọc Hân, Bắc Bình Vương tiến vào Thăng Long với uy thế khiến Vũ Văn Nhậm không dám chống cự. Ông bị bắt tức khắc. Hôm sau (5-5-1788), ông bị trói phơi nắng ngoài pháp trường một ngày cho công chúng xem rồi bị xử trảm.  Tuy Ngô Văn Sở nghĩ rất đúng rằng: 

“Từ khi có nhước Nam tới giờ triều đại thay đổi không biết mấy lần, thiên hạ không phải của riêng ai, liệu có thể lấy thì lấy đi, rồi thì đặt quan chia chức để dững phên tường cho sự trông nghe của mọi người đều đổi mới một lượt”.  

Nhưng tình thế chưa tới đó, Nguyễn Huệ cũng không thể làm hơn Vũ Văn Nhậm được. Ðể hạ bệ Chiêu Thống, Bắc Bình Vương ra một bá cáo công kích ông này vô ơn, bạc nghĩa, mất tư cách và vô tài bất tướng. Ðồng thời với bá cáo này có một bản văn khác khôn khéo nhắc công phù Lê diệt Trịnh của “Ðức Lệnh”,  biện  hộ  cho  việc  xử  trảm    Văn  Nhậm  để  đưa  ra  một  cuộc  trưng  cầu  dân  ý  cho  dân  chúng “không phân biệt giai cấp, phẩm tước và địa vị” bày tỏ ý kiến theo Lê hay theo Tây Sơn (15-5-1788). Chắc là dân chúng muốn theo Lê cũng không bày tỏ ở Thăng Long được. Chiến thắng của Nguyễn Phúc Ánh ở phương Nam và áp lực vọng Lê ở đây khiến ngôi vị Giám quốc “lại mục” của Sùng nhượng công chưa  đổ;  quyền  xứ  Bắc  về  tay  Ðại      Ngô  Văn  Sở,  phụ      các  tướng:  Nội  hầu  Phan  Văn  Lân, Chưởng  phủ  Nguyễn  Văn  Dụng,  Ðô  đốc Nguyễn Văn Tuyết và các hàng thần Lê: Ngô Thì Nhậm với chức mới Tả thị lang, tước Tinh phái hầu, Hình bộ Tả thị lang Phan Huy Ích, t! ước Thụy nham hầu, cùng Ninh Tốn, Nguyễn Bá Lân. Các trấn do tướng Tây sơn chia nhau nắm giữ. 

Nhưng việc chống đối chứng tỏ tiềm lực đất Bắc còn nhiều. Bắc Bình Vương một khi không đếm xỉa gì đến nhà Lê nữa tất phải biết khai thác tiềm lực ấy, không thể để cho các lực lượng phản động lợi dụng được. Các văn võ thần đều bị kêu ra trình diện và bị giữ lại ở kinh thành. Có lệnh bắt nộp ngay lập tức và cùng một lúc các thứ thuế trước kia vốn trả trong hai kỳ tháng ba và tháng mười (hai vụ mùa), luôn cả việc truy thu các thứ thuế trước kia chưa được thanh toán. Một đạo quân 240.000 người, nghĩa là đông gấp đôi số quân thường nhật của nhà Lê trước kia, được tuyển mộ với hạn định 5 ngày cho xong. Không đóng đô ở Thăng Long, Bắc Bình Vương cho phá tất cả cung điện của nhà Trịnh để chuyên chở vật liệu cùng lúa gạo về thành Rum xây Phượng Hoàng Trung đô. Mỗi phường ít nhất phải cung cấp 15 người thợ chuyên môn cho công cuộc kiến tạo. 

Vội vã sắp xếp xong công việc, ngày 24-6-1788, Bắc Bình Vương rời Thăng Long, ngóng tin Phạm văn Hưng    miền  Nam,  trong  lúc    Quýnh,  Nguyễn  Huy  Túc,  Nguyễn  Quốc  Ðống  phò  gia  quyến  Chiêu Thống  vào  đất  Thanh  (12-6-1788),  rồi  được  dẫn  tới  Long  Châu,  Nam  Ninh để  vận  động  với  tổng  đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị ra quân. Tháng 9 âm lịch (29-9 đến 28-10-1788), sứ bộ “nón rách, áo tơi tàn” Lê Duy Ðản, Trần Danh Án, được Lê Quýnh về đưa đường, mang chiến thư cầu viện qua cửa ải, chính thức hoá việc tiến quân của Tôn đã chuẩn bị từ tháng 6 Mậu Thân (4-7-1788 _ 1-8-1788).  

Ðặc san QUANG TRUNG TÂY SƠN Xuân Bính Tý 1996 

TÂY SƠN THUẬT LƯỢC

Vi ảnh số 5/VAH4 của Viện Khảo cổ Saigon 

Nguyên bản của Société asiatique Paris số HM 2178 Legs H. Maspéro  

Bản dịch của TẠ QUANG PHÁT

Chuyên viên Hán học, Viện Khảo cổ Saigon  

LTS: Bài TÂY SƠN THUẬT LƯỢC này bằng chữ Hán, tác giả không biết là ai, có đăng cả trong Nam Phong số 148, phần chữ Hán, trang 27-39. Tuy về sử liệu có nhiều điểm sai, nhưng lại có mấy truyện nho, có thể gọi là giai thoại về thời Tây Sơn, về Nguyễn Huệ rất ngộ nghĩnh, chưa thấy sử sách nào nói đến. Vì vậy chúng tôi xin đăng đây bản dịch của ông Tạ Quang Phát. Về những điểm sai với sử, chúng tôi xin chú giải ở dưới. Một điều quan trọng hơn nữa là tài liệu này chắc chắn được viết dưới triều Nguyễn nên cách lập luận và dùng chữ bênh vực, tuyên dương vua Gia Long rất rõ.

Tây Sơn Nguyễn Văn Nhạc, tổ tiên là người huyện Nghi xuân, tỉnh Nghệ an. Niên hiệu Dương Ðức triều Lê chiếm giữ được bảy huyện (của Chiêm Thành?) bèn dời dân vào đấy. Từ đó mới sinh ra Nhạc. Nhạc xưa vốn làm Biện lại ở tuần Vân Ðồn, vì thiếu tiền của quan mới trốn làm trộm cướp, thủ hạ có trên trăm người, cướp phá châu ấp, tướng quân trấn thủ không đàn áp được. Nhạc tự xưng là Thiên Vương, tiếm xưng niên hiệu là Thái Ðức, lén chiếm giữ thành Qui Nhơn.

Năm Ðinh Dậu (Cảnh Hưng thứ 38), Nguyễn Văn Nhạc với em là Huệ cử binh đánh kinh đô Phú Xuân (1). Vua Hiếu Ðịnh đi biển vào thành Gia Ðịnh tuần thú (2). Hoàng đế triều ta (Nguyễn) cùng ở chung với Nhạc. Tháng 9 năm ấy Nguyễn Văn Nhạc xúc phạm đến vua, và vua Hiếu Ðịnh băng (3). Hoàng đế Nguyễn Ánh triều ta bèn sang Xiêm La mà ở (4). Nhạc có những vùng từ Ải Vân trở về Nam.Năm Nhâm Dần, Nhạc thu nạp bầy tôi của chúa Trịnh đã bỏ trốn là Nguyễn Hữu Chỉnh, lúc ấy Nhạc vốn có chí thôn tính đất Thuận hóa (5), nhưng không có ai mưu tính công việc ấy, đến lúc ấy được Chỉnh chạy vào, Nhạc mừng lắm bèn thu dụng.

Năm Bính Ngọ (Cảnh Hưng thứ 47) tháng 3, Nguyễn Hữu Chỉnh trình bày với Nhạc cơ hội thích nghi để lấy Thuận hoá, xin phát binh đánh lấy Phú xuân, Nhạc nghe theo.

Tháng 4, Nhạc sai em là Huệ, tiết chế các quân thủy và bộ, rể là Vũ Văn Nhậm làm Tả quân Ðô đốc, Chỉnh là Hữu quân, nhắm kinh Phú xuân tiến phát.

Tháng 5, quân của Nhạc đánh và lấy được Phú xuân.

Chỉnh nhân thế khuyên Huệ thừa thắng lấy kinh đô Thăng Long.

Tháng 6, Huệ tiến phạm kinh đô, chúa Trịnh Ðoan Nam vương là Tùng đánh thua mà chết.

Tháng 7, Huệ giả vờ tôn hoàng đế nhà Lê ở điện Kính Thiên và làm lễ triều yết. Trong tháng ấy vua Hiến tông Vĩnh Hoàng đế băng.

Tháng 8, Nguyễn Văn Nhạc và Huệ trở về Nam, Chỉnh chạy theo Nhạc đến biển đông, Nhạc không cho Chỉnh trở về Nam, mới cho lưu lại ở Nghệ an. Nhạc và Huệ từ Thăng Long đến, thì Huệ ở lại thành Phú xuân, tiếm xưng là Bắc Bình vương. Cháu đầu của vua Lê là Duy Kỳ lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Chiêu Thống.

Năm Ðinh Vị (năm đầu Chiêu Thống), Nguyễn Hữu Chỉnh lấy binh Nghệ an đánh đuổi Án Ðô vương Trịnh Bồng.

Vua Lê thì dùng Nguyễn Hữu Chỉnh coi giúp việc nước, phong tước cho Chỉnh làm Bằng Quận công. Mùa đông năm ấy vua Lê sai Ngô Nho (người ở Tri Chỉ), Trần Công Xán (người ở Yên Vĩ, cũng gọi là Lượng) đem lễ vật địa phương cùng quốc thư cho Huệ, nói rằng Nam và Bắc mỗi bên đều giữ lấy cương thổ của mình, không đặng vượt khỏi bổn phận (6). Huệ giân lắm, truyền mật lệnh ném bọn Nho và Công Xán xuống biển, lại khiến Tiết chế Nhậm đốc suất bộ quân, Thái úy Ðiều đốc suất thủy quân, Ðô đốc Ðặng Giản làm tiên phong, nhắm kinh Thăng Long tiến phát. Lúc ấy quân Ngụy qua Nghệ an, triều đình được thông báo, đầu tiên ở khúc sông quanh khe Vân sàng bày súng và chiến thuyền để chuẩn bị. Ðặng Giản giả vờ không dám tiến lên chỉ theo ven bờ biển ngày đêm giương cờ đánh trống. Quan triều đình thấy thế khinh dể. Ðặng Giản mới ra lịnh cho chặt cây ở rừng ven sông, ném xuống sông cho ngăn giòng nước mà xuống, lại sai những người lặn lội giỏi, thừa ban đêm theo những bè gỗ ấy qua sông, rình cho quân triều đình ngủ say, mới kéo hết thuyền về phía Bắc, trong đồn ngụy lại phát hiệu lịnh độ quân qua sông mà đánh giết, thuyền giặc lại nổ súng bắn vào quân triều đình. Quân triều đình tan vỡ mà chạy trốn.

Năm Mậu Thân (Chiêu Thống năm thứ hai – Thái Ðức năm thứ 10), tháng giêng, quân Tây Sơn tiến phạm kinh thành Thăng Long. Vua Lê chạy đi Hải dương, quân Tây Sơn rượt theo, cha con Hữu Chỉnh đều bị bắt. Huệ cho Vũ Văm Nhậm trấn Thăng Long, đặng Giản trấn Thanh hóa (Giản là người ở Lương xá, dòng dõi của Ðặng Nghĩa Huấn).

Vua Lê sai Lê Quýnh, Trần Danh Án phò Hoàng thái hậu sang nhà Thanh bên Tàu để xin binh tiếp viện. Mùa hạ, Huệ giết kẻ bầy tôi là Vũ Văn Nhậm, lúc ấy Nhậm tại trấn, có kẻ tố giác rằng Nhậm lộng quyền. Huệ mượn cớ là đi tuần đất Bắc, Nhậm ra lạy chào Huệ bèn bắt mà giết đi.

Huệ cho quan Ðại tư không Ngô Văn Sở, quan Nội hầu Lân trấn Thăng Long, Huệ từ Thăng Long trở về. Mùa thu, tiến sĩ nhà Lê là Ngô Thì Nhậm (người ở Tả Thanh oai hiệu là Hy Doãn), Nguyễn Gia Phiền (người ở An Lũng), Phan Huy Ích (người ở Thu Hoạch), hương cống Ngô vi Quý (người ở Tả Thanh oai), Ðoàn Nguyên Tuấn (người ở Hải an) cùng đến Phú xuân yết kiến Huệ.

Huệ khiến Nhậm giữ tư lịnh (từ nay những thư trát gửi sang Thanh đều do Ngô Thì Nhậm viết ra) khiến Phiền và Ích làm Ðiện trung thị Ngự sử, khiến Quý và Tuấn sung Hàn lâm viện.

Ðoàn Nguyên Tuấn là con của Thúc, ở trong làng, gác nhà lên cao mà ở trong vườn hoa, gọi là Phong Nguyệt sào (ổ gió trăng) để ngâm vịnh ở đấy, tự gọi là Sào Ông, dường như cho mình là Sào Phủ vậy. Nay lại quên tình vườn cũ, lại cong gối mà qùy lạy ở triều đình của giặc, không gợi hứng với cỏ hoa, lại dựa thân vào Hàn lâm viện, không còn nhàn rảnh nữa để ngâm vịnh với gió trăng, mà lại nhập vào bộ sứ thần. Tưởng lại tấm thân của Tuấn chưa từng được một ngày nào yên nghỉ ở cái ổ gió trăng của ông ta vậy, thì làm sao mà chẳng phụ lời hẹn ước trước kia. Ông Thụy Nham tặng thơ có câu rằng:

Hoa ổ phi cư phụ cố sào

Nghĩa là: “Vườn hoa chẳng ở thì phụ ổ gió trăng”

Mùa đông tháng 11, Huệ tự xưng Hoàng đế, cải nguyên là Quang Trung. Tháng ấy vua Lê dùng quân Mãn Thanh lấy lại kinh thành Thăng Long. Năm Kỷ Dậu (Nguyễn Huệ niên hiệu Quang Trung thứ hai) tháng giêng, Huệ cả phá quân của Tôn Sĩ Nghị nhà Thanh ở Thăng Long. Vua Lê đi lên phương Bắc.

Huệ dùng mưu kế của Ngô Thì Nhậm, khiến Nhậm sang nhà Thanh hối lộ với các vương thân quan ở nội các của triều Thanh để ngăn việc tiếp viện và vội ra lịnh cho cả thiên hạ thần dân phải suy tôn Huệ làm vua. lấy lời suy tôn ấy, kèm vào tờ biểu để tâu lên vua nhà Thanh. Lúc ấy viên Tham tụng xưa là Bùi Huy Bích mượn cớ có bịnh mù mà không chịu ký tên vào, Huệ khiến ép bức buộc phải lăn dấu tay. Huệ đặt ở các huyện quan tả hữu quản lý, lại dùng người giàu có và thế lực ở địa phương làm huyện trưởng khiền đốc xuất việc lương thực cho quân đội. Quan Tả quân thì coi về việc thưa kiện, quan Hữu quân thì coi về cơ đội binh lính. Vì thế mà cơ binh trong hạt được đóng đồn ngay trong hạt, mỗi tổng đều có sai một vệ binh đi tuần thám ban đêm, vì thế mà đạo tặc đều yên, cửa làng khỏi phải đóng. (7) Nạn đói to, có người vợ dân phải bán mình để lấy tiền nuôi gia đình. Ðời kể lại rằng ở Hải dương có người vợ khá có nhan sắc, quen gần với đồn Tây Sơn, viên đồn trưởng thấy nàng mà đẹp lòng. Người vợ ấy bèn nói với chồng rằng: Nay vì nạn đói kém, trên thì có cha mẹ, dưới thì có đàn con, không có gì đủ để nuôi  dưỡng,  thiếp  xin  chàng  nhận  làm  anh  thiếp  để  đem  thiếp  bán  cho  viên  đồn  trưởng.  Người  chồng bằng lòng, bán vợ được một trăm quan mà mang về, còn vợ thì tự thắt cổ ở trong phòng. Viên �! �ồn trưởng kinh hãi hỏi người chồng, người chồng mới thật tình thưa, viên đồn trưởng bảo đi chôn cất và cho luôn số tiền ấy không đòi lại.

Lời phê bình

- Năm đói kém đã khiến người ta đến thế ru! Tuy nhiên, người vợ thà chịu cho thân mình chết chớ không nhẫn cho gia đình mình chết. Ôi! Cũng gọi là người vợ hiền vậy. Sánh với kẻ có trách nhiệm lo việc trường tồn của quốc gia thì khác xa nhau một trời một vực. Mùa hạ Ngô Thì Nhậm từ nhà Thanh bên Tàu trở về.

Huệ phát thẻ tín bài là theo kế sách của Ngô Thì Nhậm. Tín bài ấy làm bằng gỗ ngoài có viền bông hoa, trong biên tên họ của người dân lãnh thẻ cùng với tuổi và quê quán, có ký tên đóng dấu, khiến dân lãnh tín bài ấy ở quan nha. Những kẻ ra đi buôn bán phải đeo cái thẻ tín bài ấy ở dưới cổ làm bằng, nếu không có tín bài thì là bọn tà đảng không đặng thông thành. Việc thi hành phép ấy thật do Ngô Thì Nhậm.

Lúc ấy nhân dân sợ oai dữ của Huệ, cùng đưa nhau ra lãnh tín bài, số dân đinh có hư tăng để nhà nước khống ngự, nhưng ở Tả Thanh oai lại khiến dân càng khốn khổ.

Mùa thu, sứ nhà Thanh là bọn Vương Phủ Ðường sang sách phong cho Huệ làm An Nam quốc vương. Huệ sai bọn Phan Huy Ích đi tiếp sứ nhà Thanh, Nguyễn Nhạc người con lên nối ngôi, ấy là Tiểu triều.

Mùa đông, Huệ sai Ngô Vi Quý sung vào sứ bộ sang tạ ơn nhà Thanh. Năm Canh Tuất (Nguyễn Huệ niên hiệu Quang Trung thứ ba), mùa xuân Huệ thăng Ngô Thời Dụng làm Bộ binh Thượng thư với tước là Tinh phái hầu.

Mùa hạ, Huệ sai Ðiện trung Thị Ngự sử Phan Huy Ích, công bộ đãi chiếu Thượng thư Vũ Duy Tấn (đỗ hương cống triều Lê, người ở Mộ Trạch) và Hàn lâm học sĩ Ðoàn Nguyễn Tuấn cùng với Ðô đốc Nguyễn Hữu Chẩn sang nhà Thanh, lúc ấy vua Càn Long đã 80 tuổi. Lúc trước vua nhà Thanh có bảo Huệ phải thân hành sang chúc phúc, Huệ cố từ. Bọn Phan Huy Ích tâu với Huệ xin quyền biến, Huệ mới giả mạo sai Chẩn đi thay cho mình, và khiến bọn Phan Huy Ích đi theo để yết kiến.

Huệ sai Ngô Thì Nhậm quản lãnh việc đi sứ, rồi lại gia thêm bực Dực vận công thần, chuyển sang làm Thị trung Ðại Học sĩ giám tư kinh đô Thăng Long.

Mùa hạ, Ngô Vi Quý từ Yên kinh trở về. Lúc ấy những tiến sĩ của nhà Lê cũ thường thường lấy văn học mà vang tiếng trong đời. Ngô Thì Nhậm muốn khiến các vị ấy đều ô nhục như hắn, mới thưa với Huệ nhử các vị ấy bằng quan tước, vị nào không đến thì đem binh mà bắt. Bùi Huy Bích ở Thịch Liệt thác bịnh mà từ khước, Ngô Thì Nhậm lại lấy thơ gọi Trần Danh Án ở Bảo Triện. Trần Danh Án thơ dùng tiếng chó heo mà từ khước với Nhậm. Nhậm thẹn không dám gửi thơ đến nữa. Lê Huy Trâm ở Bối Khê (làm Cần chính Ðại học sĩ của quốc triều lãnh chức Ðốc học các vùng Bắc ninh, Cao bằng và Lạng sơn), Phạm Qúy Thích ở Hoa Ðường (làm Thị trung Ðại học sĩ của quốc triều), Nguyễn Ðường ở Trung Cần (làm Ðốc học Sơn tây), Ngô Viện ở La Khê, Nguyễn Du ở Văn Xá, Nguyễn Diên Dương ở Bảo từ (làm Hiệp trấn ở Hưng hóa của quốc triều), Trần Bá Lãm ở Vân Canh (làm Ðốc học Bắc thành), Nguyễn Gia Cát ở Xuân cầu (Cát về sau ứng nghĩa quân yết kiến đức Cao hoàng Gia Long ở Gia định, làm Lễ bộ Tả Tham tri, phụng sứ thăng chức Thượng thư, về sau có xảy ra việc mà phạm tội), Bùi Dương Lịch ở An Toàn (làm Ðốc học ở Nghệ an), Lê Trọng Dĩnh ở Ða Sĩ đều thấy trước mà trốn đi. Quý Thích phú thi có câu:

Tái thiên giao thê lệ

Tỵ địa các trầm phù

Nghĩa là:

“Ðầy trời đều nước mắt nước mũi giao hòa

Ở đất thì đều trốn tránh kẻ chìm người nổi”

Huy Trâm thường tự thề rằng: “Nếu không chết thì lẩn trốn trong núi rừng, quyết không chịu làm bầy tôi cho Tây Sơn”. Viện và Trọng Dĩnh về sau đều bị bắt. Viện phải đem con ra làm tin mới được thả. Còn Dĩnh thì bất đắc dĩ phải ra làm Ðốc học ở Vị Hoàng vài tháng rồi lại thác bịnh mà từ khước. Những người còn lại như Hoàng Bình Chính ở Thỏ Hoàng, Nguyễn Nha ở Hữu Thanh Oai, Nguyễn Quí Ban ở Nhơn mục, đều nhận mạng lịnh của Tây Sơn làm quan vinh hiển. Chỉ có Nguyễn Ðăng Sở ở Hương Triện thì xin  làm  tri  huyện.  Sở  vốn  khi  trước    cưới  một người thiếp của vua Lê, việc gì cũng do nàng ấy sai khiến. Một ngày nọ, vợ của Sở đi ra hỏi ông thầy tướng: “Như tôi phải phối với bậc quan nào?” Ông thầy tướng nói rằng: “Bà phải làm vợ của quan tri huyện, nếu không thế thì bà sẽ chết yểu”. Vợ của Sở về nói lại với Sở, cho nên Sở cố làm cho được chức tri huyện ấy.

Huệ từ Thăng Long trở về.

Huệ cho quan Ðại tư mã Ngô Văn Sở, quan Nội hầu Lân cùng với người con thứ là Thùy trấn giữ Thăng Long, cho Tuyên trấn giữ Thanh hóa, cho Ðặng Giản làm Ðại Ðô đốc, coi giữ Ðại thiên hùng binh, sai làm thuốc súng. Tháng 7, bọn Chẩn đến Yên kinh, lúc ấy vua nhà Thanh đi tuần phương Bắc để tránh nóng, cấp báo cho Chẩn và các quan theo hầu phải đến hành cung ở Nhiệt hà yết kiến. Vua nhà Thanh ban cho thơ có câu rằng:

Y cổ vị văn lai tượng khuyết

Thăng triều vãng sự bỉ kim nhân

Nghĩa là:

Từ xưa chưa nghe nói vua nuớc phương Nam đến cửa tượng khuyết lạy chầu. Ðối với việc đã qua của triều Minh đã mất thì đáng khinh việc đòi cống người bằng vàng.

Huy Ích có phụng họa, vua nhà Thanh có phê thơ cũng cho là ổn thỏa, có ban thưởng rất hậu, đến khi về Tây Uyển ở Yên kinh, thì được vào yết kiến luôn mấy mươi ngày, đến ngày trở về nước, thì vua Thanh có tuyên triệu Huy Ích và Duy Tấn vào Quang Minh Chính đại điện, khiến đứng ở một bên mà xem ở thềm ngọc, rồi rót rượu cho uống, tin rằng đó là sứ bộ vinh hạnh bực nhất (do ở bài Tinh sà Kỷ hành).

Tháng chạp, bọn Chẩn từ Yên kinh trở về, đến cầu doanh Huy Ích nhân té mà bị thương ở chân, bèn dâng biểu cho Huệ xin miễn triều yết, tạm ở lại để điều dưỡng.  Năm Tân Hợi (Nguyễn Huệ niên hiệu Quang Trung thứ 4), quan Nội hầu Lân bắt được Tụ là em của vua Lê ở Bảo Lạc, và giết luôn cả nhà Diễn quận công. Khi trước Tụ dựa vào Diễn châu để lo bề khôi phục. Có kẻ đi tố cáo với Tư mã Sở. Tư mã Sở khiến Nội hầu dạy Diễn quận công bắt Tu mà giết đi. Nội hầu Lân bèn thác việc mở tiệc rượu. Cha con Diễn quận công cả thảy năm người đều được ban cho áo cẩm hoa bào và khăn là lụa hồng, đều ngồi mà yến ẩm, khi rượu đã say, Nội hầu Lân làm rớt cái mâm đồng làm hiệu, quân Tây Sơn bèn bắt cha con Diễn quận công mà chém. Nhân thế mới đặt trấn Hà Dương ngay ở đất ấy, để Ðô đốc Viên với 500 binh sĩ trấn giữ rồi trở về.

Ðồn Hà Dương đều bị giết sạch vì Tề. Trước thời tai nạn của Diễn quận công xảy ra, em của Diễn quận công là Tề ở ngoài cho nên được thoát, đến lúc ấy Tề họp các binh lính địa phương vây chặt đồn của Tây Sơn bắt hết binh lính mà giết sạch, chỉ có Ðô đốc một mình được chạy về, đến khi quân Tây Sơn đến bắt Tề thì Tề đã chạy đi đâu không biết.

Huệ đặt quan bí thư, mỗi tháng 6 lần chầu để giảng giải kinh sử. Huệ không có học cho nên không biết thư sách. Một ngày nọ Huệ hỏi quan bí thư rằng: “Trong sách có chép quá nhiều việc thế?” Quan bí thư thưa rằng: “Sách sử chép sự tích thiện ác của đế vương và lý do hưng phế để đời sau biết mà soi xét răn dè.” Huệ nói rằng: “Như thế thì từ xưa có ai nói đánh Tàu không?” Thưa rằng: “Nước ta có Trần Hưng Ðạo đánh quân Tàu ở sông Bạch Ðằng, Lê Thái tổ đánh quân Tàu ở thành Ðông quan, nhưng mà đều là đánh chúng tiến sang, chớ chưa có tiến sang Tàu mà đánh chúng.” Huệ nói rằng: “Ta nay sẽ đánh Tàu để ngươi xem”, (quan bí thư là người ở Ngọc Ðông, tỉnh Thanh hóa, tên họ chưa khảo ra). Huệ xuống sắc lệnh cho Công viện vá lại chiến y, rồi lại gửi cho gia thiếp của các đại thần cất giữ, hẹn đủ hai mươi vạn chiếc áo để ban cấp cho quân sĩ thì ngày ấy sẽ đánh Quảng Tây mà cướp phá. Lúc ấy Huệ vừa vào trong viện để xem xét, thì có người thiếp của Thái úy Ðiều, họ Hoàng, giả vờ không biết có Huệ ở đấy, nói với đồng bọn rằng: “Nay quen thắng mà đánh Tàu, nhưng Tàu thì to mà ta thì bé, nếu rủi không thắng thì mới làm sao? Chẳng bằng cứ trị dân mà hưởng nước, việc gì phải đi tìm ở xa.” Huệ nghe được hét lên nói rằng: “Người kia là ai mà dám cản trở việc quân của ta?” Liền sai đem người thiếp họ Hoàng ấy ném xuống biển. Thế rồi ngài lại hối hận mà nói rằng: “Người kia nói cũng hợp lý.” Huệ liền ra lịnh tha cho. Việc cướp phá nước Tàu bè! n dừng lại. (Người thiếp họ Hoàng là dòng dõi của viên đại tướng nhà Lê, Hoàng Nghĩa Giao).

Lời phê bình

- Nói một lời mà bãi được việc binh, cũng là người nhơn đức thay!

Năm Nhâm Tý (Nguyễn Huệ niên hiệu Quang Trung thứ 5) lúc ấy vợ chính của Nguyễn Huệ đã chết. Huệ sai Ngô Thì Nhậm đưa thơ sang Tổng đốc Quảng Tây để khiến cầu hôn với vua nhà Thanh.

Năm ấy Nguyễn Huệ mất. Tóc của Huệ thì quăn, mặt thì đầy nụt, có một con mắt nhỏ, nhưng cái tròng rất lạ, ban đêm ngồi không có đèn, thì ánh sáng từ con mắt soi sáng cả chiếu, lúc lâm trận thì chế thắng, uy anh hùng lẫm liệt, cho nên mới bình định phương Bắc và dẹp yên phương Nam, hướng tới đâu thì không ai hơn được, tiếm vị làm vua được 5 năm, không lập pháp lịnh điều ước, việc thưa kiện đều do miệng ngài phân xử, tội tù thì phần nhiều dùng đòn mà đánh để trừng trị (đòn tục gọi là đùi). Bầy tôi ở trong hay ở ngoài đều sợ oai của ngài, không dám can tội hối lộ. Thường ngày Huệ hay sợ đức Cao hoàng Gia Long ta, lúc đau nguy cấp, Huệ nói với kẻ bầy tôi rằng: “Hắn sẽ phục quốc được”. Hoặc có kẻ thưa rằng: “Nếu hắn ra thì bọn hạ thần xin đánh”. Huệ nói rằng: “Ngươi chớ cho lời ta là nói láo, nếu hôm nay ta chết, thì ngày mai hắn ắt ra, nếu mai ta chết thì ngày sau hắn ắt ra. Ngươi còn sống, ngươi xem”. Nói thế Huệ liền mất. Con là Trát nối ngôi, đại xá tội phạm và cải nguyên (Trát môi trớt, răng to).

Luận rằng:

Với tư chất nhỏ bé yếu đuối và đương tình thế nguy hại ấy, trong thì có Khang công và Tuyên công, nhu nhược một hai người lẻ loi non nớt, ngoài thì có Tư đồ (tên Dũng) và Thiếu phó (tên Diệu) dũng mãnh năm sáu vị vũ phu, Trát lại tranh thắng với Cao hoàng Gia Long ta, thì chắc hắn sẽ bị trói ngay trước mặt mà làm tù thì đáng lắm.

Năm Quý Sửu (Trát, niên hiệu Cảnh Thịnh năm đầu). Trát đến Thăng Long để nhận cho nhà Thanh sách phong, lúc ấy sứ giả nhà Thanh xin đến Phú xuân, Trát giả mạo xây cung mộ ở xã Hạ Hồi rồi nói dối là đường đi từ sơn Tây mà đi thì phải một tháng. Ði được nửa đường, sứ nhà Thanh nói rằng: “Ðây là đi về phía Tây, sao lại dối ta”. Bèn trở về Thăng Long làm lễ phong điếu.

Trát trở về Nam, tấn công thành Quy Nhơn bắt Tiểu triều và giết ngay trong ngày hôm ấy.

Năm Giáp Dần (Trát niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 2), Cao hoàng Gia Long đem quân Hà Lang trở về đánh phủ Diên khánh và thắng được. Tướng giữ thành của Trát là Quyền quận công đem đội thủy quân đầu bên ta, rồi phóng lửa đốt thủy đồn Tây Sơn. Cao hoàng thừa thắng lấy thành Quy Nhơn và thành Hoàng đế.

Có kẻ hỏi rằng: Vua Lê dùng quân nhà Thanh, còn Cao Hoàng đế ta thì dùng quân người Âu, đều là dựa vào sự giúp đỡ của nước ngoài, mà Lê thì mất mà ta thì hưng, thì chẳng phải là lời sấm rằng: Tiên đồng đã trở về Bắc, đất nghiệm đã an bài, bảy đời thì trở về kinh đô, sách trời đã định trước, mạng trời đã khiến như thế hay sao? Rằng phế hay hưng vốn ở Trời, nhưng hơn hết là ở người. Vua Lê kia khen heo và hỏi nồi, thì chẳng phải là khí tượng đế vương thì làm sao mà đem so sánh với Cao hoàng Gia Long ta được thay! Thế là lý do thành bại của hai bên khác nhau vậy. Quân doanh của Tôn Sĩ Nghị, tướng nhà Thanh, ở Bồ Ðề, vua Chiêu Thống đến đấy yết kiến Tôn Sĩ Nghị. Tôn Sĩ Nghị sai người đưa vua về cung, vua đi ngay qua chợ thấy một con heo to và một cái nồi đồng lớn, mới hỏi rồi đi. Khi người được sai đi đưa trở về thì Nghị hỏi rằng: “Ngươi thấy quốc vương cử động ra sao?” Người ấy kể lại đủ mọi việc đã thấy như thế. Tôn Sĩ Nghị mới than rằng: “Khen heo, hỏi nồi, chẳng phải là khí tượng của đế vương, thì bọn ta sẽ nguy mất.”

Tây Sơn từ năm Canh Tuất trở lại, thì mùa lúa so sánh có trúng hơn, trong nước bình yên (thóc một quan tiền được 100 đấu, dân chúng đều có chứa trữ, tiếng sáo lời ca có được nghe đó đây). Nhưng ở Bắc kỳ thì dân trí thức đều chán ghét triều Tây Sơn, mong được vì chân chúa. Từ sau khi Gia định đã dẹp yên rồi, mỗi lần gió nồm thổi, thì người ngoài đều nói rằng đó là gió của ông Chủng (Gia Long) vậy. Lời bình luận:

Lòng người quay về ai thì mạng trời ở đấy. Xem lòng người như thế thì Tây Sơn muốn không mất đi, và ta muốn không hưng lên thì có được chăng?

Trát đặt ở các xã huấn khoa để giữ việc thưa kiện trong xã. Trát giết Lê Thái sư. Con của Lê Thái sư là Ðô đốc Lê Tôn Chất làm phản và đầu hàng bên ta. Trát sai người đem mật chiếu đến Thăng long để giết quan Ðại đổng lý. Năm Kỷ Tỵ (Trát niên hiệu Cảnh Hưng thứ 7), vua Càn Long nhà Thanh băng, Trát sai người sang lễ hương, tờ biểu có viết rằng:

“Viên Tản sơn thanh Lô thủy bích, vọng cùng thần quốc chi yên lam, đẩu xu tinh chuyển Nữ tu hàn, cảm động thiên gia chi vân vật (Ngô Thì Nhậm chi từ dã)”. Nghĩa là:

“Núi Tản viên xanh, sông Lô biếc, trông ra xa cùng khỏi màn sương khói của nưoớc chúng tôi, thì thấy sao Bắc đẩu đã dời, sao Nữ đã mờ lạnh, mà cảm động cho cảnh vật của nước thiên triều phải ảm đạm vì có quốc tang (lời của Ngô Thì Nhậm)”.

Ðài Chân Vũ ở Thăng long có cây dung ngã chết mà lộc dựng lên, lúc ấy nuớc Ðại Man có sai sứ đến xem có nói rằng: “Thứ này nước phương Tây chúng tôi không có”.Lời bình luận: Cây dung là vật nhỏ nhen, thì làm sao ghi được một việc gì. Quốc gia sắp hưng thịnh thì ắt có điềm lành báo trước. Khi vua Hiếu Tuyên trung hưng, thì có cây liễu đã chết ở Thượng lâm bỗng mọc đứng lên mà sống. Thế thì cây dung ấy mọc đứng lên mà sống là điềm lành ứng vào quốc triều hưng thịnh lại chăng, cho nên kính cẩn ghi chép. Năm Canh Thân (Trát niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 8) mùa xuân, Phan Huy Ích vào yết kiến Trát, được Trát cho làm Lễ bộ Thượng thư, tước là Ðoan nham hầu.

Kho thuốc súng của Trát ở Thăng Long cháy.

Trát sai tướng Tư đồ và Thiếu phó đến vây thành Hoàng đế.

Năm Tân Dậu (Trát niên hiệu Cảnh Thịnh thứ 9) tháng 5, đại quân của ta lấy lại Phú xuân. Trát chạy ra ở Thăng long. Lúc ấy Trát đã mất sào huyệt, nhưng vẫn hay khoe khoang để trấn áp lòng người.

Tháng 6, Trát tế ở đàn Tây hồ, lại cải niên hiệu là Bảo Hưng nguyên niên.

Quan Hộ bộ Tả thị lang Nguyễn Lượng có dâng lên bài Tây Hồ cảnh tụng, dùng quốc âm, lời rất thanh nhã, Trát mừng vui lắm (Lượng là người ở Phú thị, đỗ Hương cống triều Lê xưa).

Mùa đông Trát thi khóa sinh.

Tháng 11, Trát tế ở đàn Xạ đôi phố.

Năm  Nhâm  Tuất  (Trát,  Bảo  Hưng  năm  thứ  2)  tháng  giêng,  Trát  dẫn  Tuyên  công,  Khang  công    các tướng đánh Hoàng sơn quan. Trát để Tư mã Ngoại và Ðại đô đốc Phong giữ Thăng long. Ngày mùng năm tháng hai, Tùng Lĩnh tướng quân là Nguyễn Chí (người ở Tây Ðảm) và Mai lĩnh hầu (người ở …tú, không rõ tên) cùng đánh Thăng long, mà không thắng. Tùng lĩnh tướng quân chết. Lúc trước hai ông là bầy tôi của nhà Lê. Nhà Lê mất, thầm có chí phục thù, Tùng lĩnh có tài hơn người, nhà giàu có, thường bị người ta khống chế, bị giam một năm ở quan Tư mã của Tây Sơn mới được thả ra. Mai lĩnh hầu thông hiểu tinh tường toán số và binh lược, việc thường biết trước, được người ta gọi là tiểu Khổng Minh, mở quán ở Thanh Oai, cùng qua lại với Tùng lĩnh tướng quân, âm thầm kết giao với khách hào kiệt được 10 năm. Mai lĩnh hầu thường dùng cỏ thi mà bói để biết Tây Sơn hưng hay vong. Ðến khi quốc triều ra mật dụ cho các hào kiệt ở Bắc kỳ phải khởi nghĩa để tiêu diệt Tây Sơn, thì Tùng lĩnh tướng quân nói với Mai lĩnh hầu rằng phải khởi sự. Mai lĩnh hầu nói rằng: “Tây Sơn sẽ mất vào năm Nhâm Tuất, trong khoảng mùa hạ mùa thu, khi phương Nam khí vượng lên thì tôi sẽ đánh lấy trước rồi sẽ quay về chầu Cao hoàng Gia Long cũng chẳng muộn. Nếu chẳng như thế thì quân đội phương Nam ra đoạt đầu công của ta”. Lúc ấy nhân Trát đi về Nam, bèn sang mật kế với Ðô đốc Tú để làm nội ứng, viết thơ hiệu triệu các hào kiệt trong bốn phương, hẹm đêm mồng 2 tháng hai giờ Tý đều dẫn binh đánh giết vào thành Thăng long. Lúc ấy các đạo đã đến trước nhưng không thấy phát hiệu, đều tản ra đi mất, thì quân ở Tây Ðảm mới đến, Ðô đốc Tú nghe hiệu binh, bèn mở cửa thành ngoài. Tú cưỡi ngựa đi trước hai vị Tùng lĩnh, Mai lĩnh theo sau. Tú hô gấp lên rằng: “Giặc đến dưới thành, xin mở cửa ra đánh”. Tướng giữ thành đáp rằng: “Giặc đến thì chém đầu ngươi, cửa thành ban đêm không được mở”. Tùng lĩnh không thể làm sao được nữa, bèn đem lửa đốt phố xá trong thành rối loạn. Tướng Tây Sơn muốn bỏ thành mà chạy, lúc ấy sắc trời đã sáng. Trên thành trông xuống chỉ thấy mươi người đi theo Tùng lĩnh, bèn phát binh ra đánh. Tùng công đã thoát thân đi trong đường phố. Có một viên giữ ngục nhận biết, cho nên Tùng lĩnh bị hại. Còn Mai lĩnh thì từ đấy ẩn dật dấu tông tích ở chốn chòi tranh, quên chí hồ thỉ tang bồng. Trong niên hiệu Gia Long, Mai lĩnh chết ở gia đình. Còn Tùng lĩnh về sau được quốc triều khen tặng. Có thơ khen rằng:

Âm:

Tối ái Mai Tùng

Lẫm liệt hàn đông

Nhất thời cộng sự

Thiên cổ văn phong

Công nan bất tựu

Nhân xưng kỳ trung

Mạc tương thành bại

Lệ luận anh hùng

Dịch:

Thương cây mai cây tùng

Chịu đựng mùa đông lạnh

Chỉ cộng sự một lần

Ngàn xưa lưu danh tánh

Tuy công khó chưa xong

Người người khen trung tín

Chớ thành bại xét công

Ðem anh hùng luận sách.

Tháng tư năm ấy, quân của Trát lén vào đồn Ðộng hải mà không thắng trận, thua to chạy trốn, quân ta thừa thắng đuổi dài. Quan Tư mã và quan Thiếu phó từ đường Quy nhơn chạy về đến Nghệ an đều bị bắt. Tháng 6, xa giá của Cao hoàng Gia Long đến Thăng long. Khang công tự treo cổ, Trát và Tuyên công chạy về phương Bắc đến sông Xương giang đều bị quân ta bắt được (tháng ấy sương bay đầy trời), nhà Tây Sơn mất. 

PHỤ CHÚ:

(1) Ðiểm này sai. Kinh đô Phú xuân đã bị Hoàng Ngũ Phúc chiếm từ năm Giáp Ngọ, Lê Cảnh Hưng thứ 35 (1774). Năm Ðinh Dậu, Cảnh Hưng thứ 38 (1777), Nguyễn Văn Nhạc xin Hoàng Ngũ Phúc được trấn Quảng nam, Nguyễn Văn Huệ đánh Gia định, giết Tân Chính vương và chúa Duệ Tông, chớ Tây Sơn chưa đánh kinh đô Phú xuân.

(2) Ðiểm này sai. Vua Hiếu Ðịnh, tức Duệ Tông đi đường biển vào Gia định năm Ất Vị (1775) chứ không phải năm Ðinh Dậu.

(3) Ðiểm này sai. Hoàng đế triều Nguyễn không có lần nào ở chung với Nhạc, và không có lần nào bị Nhạc xúc phạm.

(4) Ðiểm này sai. Mãi đến năm Giáp Thìn (1784) Nguyễn vương Ánh mới đi Xiêm, chứ không phải đi năm Ðinh Dậu (1777).

(5)  Nói    Huệ    chí  thôn  tính  Thuận  hóa  thì  đúng  hơn,  chứ  Nhạc  không  dám  đánh  Thuận  hóa. Trịnh Khải chứ không phải Trịnh Tùng, Tùng đã chết năm Quí Hợi (1623).

(6) Phái bộ Trần Công Xán, do Nguyễn Hữu Chỉnh đề nghị phái vào Phú xuân để xin Nguyễn Huệ trả lại đất Nghệ an cho nhà Lê, vì thế Nguyễn Huệ mới giận.

(7) Theo sử liệu hiện có, chúng ta chỉ biết “Ở mỗi huyện, vua Quang Trung đặt một Văn phân trị, một Võ phân suất, một Tả quản lý, một Hữu quản lý. Công việc của quan văn là trưng đốc binh lương, xét xử từ tụng; công việc của quan võ là cai quản và thao diễn quân lính”, còn Tả, Hữu quản lý thì ta không biết làm  việc  gì.  Nếu  đoạn  này  đúng  với  sự  thật  “Dùng  người  giàu      thế  lực    địa  phương  làm  huyện trưởng, khiến đốc suất lương thực cho quân đội…, cơ binh trong hạt được đóng đồn trong hạt…, mỗi tổng có sai một vệ binh đi tuần thám ban đêm”, thì ấy cũng là sáng kiến hay của vua Quang Trung để trị an trong thời loạn lạc.

Ðặc san TÂY SƠN – Xuân Bính Tý 1996

ÐỜI TÂY SƠN QUA DÂN CA SẤM KÝ

Tác giả: Thái Văn Kiểm 

Danh từ Tây Sơn phát xuất từ những ngọn núi cao phía tây tỉnh Bình định, giáp với tỉnh Pleiku (Gia lai) gồm phần lớn bộ lạc Jarai, phần ít người Chàm mà ngôn ngữ có liên hệ với ngôn ngữ Mường-Việt. Sở dĩ có danh từ Tây sơn là vì trước kia, cũng vào thời đại nhiễu nhương ấy, tức là thời kỳ Lê mạt Nguyễn sơ, đã xuất hiện danh từ Ðông sơn (ngọn núi miền đông), vốn là một đảng hiệp sĩ do Ðỗ Thành Nhân (?-1781) sáng lập ở vùng Ba giồng (Ðịnh tường), phò chúa Ðịnh vương Nguyễn Phúc Thuần, rồi phò chúa Nguyễn Ánh, thắng trận Bến nghé 1778, hùng cứ Thập bát Phù viên, tức là 18 Têm Blàu: folium illud concinnare adedendo. Ngày xưa còn truyền lại một lời than van của cô gái nhà quê:

Mệ ơi! Ông Chánh đòi hầu

Ông Phó đòi vợ, nhận cao trầu nơi mô

Trầu vốn là món hàng đầu tay của anh em Nguyễn Nhạc xuất thân buôn trầu nguồn, lên xứ mọi mua trầu về  bán  lại  cho  dân  miền  xuôi.  Sau  đó  Nhạc  được  cân  nhắc  lên  làm  biện  lại,  một  chức  tuần  cai    phủ huyện, chuyên coi về việc tuần phòng và thu thuế. Vì đã làm tuần biện, nên người đương thời gọi là biện Nhạc. Theo Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm viết trong Quốc văn Ðời Tây Sơn thì lúc khởi nghĩa năm Tân Mão 1771 ở thượng đạo ấp Tây sơn, Nguyễn Nhạc có một tên phó tướng tên là Tứ Linh, quân lính của tướng này được gọi là quân Tứ Linh. Nhưng theo tôi thì là cờ của vườn trầu Hốc môn, Bà Ðiểm bây giờ. Những vườn trầu này danh tiếng đệ nhất miền Nam, lá trầu có thứ xanh, có thứ vàng, thuở xưa tổ tiên ta gọi là Blầu, Blù, về sau biến đổi thanh âm thành Tlầu, Tlù, rồi lần lần đổi ra thành Trầu, Trù. Nhưng người Trung hoa chính thống, vốn không dùng trầu cau như người Nam Á – Australio-Asiatiques – đã phiên âm na ná hai chữ Blầu, Blù thành Phù Lưu, mà họ đọc là Pù Lu, rồi sau cùng rút lại còn chữ Phù là trầu, phù viên là vườn trầu.

Về danh từ Blàu, trong quyển tự vị Việt-Bồ – La Dictionnarium Annamiticum Lusitanum et Latinum của Alexandre de Rhodes, Roma 1651, nơi trang 41, cột B, có ghi như sau: Blàu: bétel:  quoÇam  folium  indicumin  modum  haederae  quod  continuo  in  fignum  benevolen. 

Tây  Sơn  thêu hoặc viết hai chữ Tứ Linh bằng chữ Nho.

Ðến năm Mậu Tuất 1778 thì Nguyễn Nhạc lên ngôi, xưng Ðế, mở kỷ nguyên Thái Ðức. Suốt 8 năm ấy, Nhạc  cử  binh đánh cựu Nguyễn, chống binh Trịnh, phải động viên rất nhiều trong dân gian. Thành ra trong dân gian mới phát xuất những ca dao nỉ non than khóc:

Tiếng ai than khóc nỉ non

Là vợ chú lính trèo hòn Cù Mông

Ðến tháng 7 năm bính Ngọ (1786) thì công chúa Ngọc Hân, con gái thứ 21 của vua Lê Hiến tông (1740-1786) bấy giờ mới được 16 tuổi, vâng lệnh vua cha kết duyên với Nguyễn Huệ (Ðức Lệnh hay là Ðức ông). Cuộc cưới gả này vì không có chuẩn bị trước, lại thêm Nam Bắc đôi đàng, xa xôi nghìn dặm cho nên nhân sĩ Nguyễn Thời Thấu mới cảm đề thời sự mà làm một bài thơ, trong đó có mấy câu như sau:

Ngựa thồ thay mối xích thằng

Ông Tơ, Bà Nguyệt, dẫu dằng chẳng ra

Một ngày một vắng quê nhà

Sáng từng từng nhớ, tối tà tà trông…

Trước đó 4 năm, vào tháng 10 năm Nhâm Dần, 1782, Nguyễn Hữu Chỉnh đang làm Hữu Tham quận ở Nghệ An thì ở kinh đô Thăng Long có việc quân Tam Phủ nổi loạn. Chỉnh sợ vạ lây, phải đem cả gia đình vào Qui nhơn, đầu quân anh em nhà Tây Sơn.

Năm Bính Ngọ, 1786, Ðức Lệnh Nguyễn Huệ cùng Chỉnh đem quân ra Bắc Hà, diệt Trịnh phò Lê, rồi bỏ Chỉnh ở lại Bắc vì e ngại kinh luân, thao lược và mưu mô của Chỉnh. Sau đó, Chỉnh về lưu trấn ở Nghệ an, được vua Lê Chiêu Thống (1787-1789) vời về kinh hộ vệ và phong tước Bằng Quận công, tung hoành như con chim bằng, cho nên người đời lúc bấy giờ cũng gọi Chỉnh là con sáo. Chỉnh tự đặt mình vào chức vụ của Trịnh, lập trại quân Vũ thanh, lập thế tử cho con là Nguyễn Hữu Dụ, rồi sai sứ bộ Trần công Sán vượt sông Gianh vào đòi đất Nghệ an, vốn là quê hương của dòng dõi Tây Sơn, họ Hồ (cha là Hồ Phi Phúc, mẹ Nguyễn thị Ðồng lúc vào ẩn tránh ở Qui nhơn mới đổi ra họ mẹ).

Trước cảnh thay lòng đổi dạ của Nguyễn Hữu Chỉnh đối với Bắc bình vương Nguyễn Huệ, người Bắc Hà đương thời đặt câu ca để chế giễu:

Ai đem con sáo sang sông

Nên chi con sáo xổ lồng sáo bay

Nay tính lại thì triều đại Tây sơn, kể từ khi dấy nghiệp (1789) cho tới khi diệt vong (1802), được chia ra hai đời vua: Nhạc-Huệ-Lữ và Quang Toản (Cảnh Thịnh), cộng được 14 năm, sau khi phải đương đầu với nhiều địch thủ hùng mạnh như cựu Nguyễn, vua Lê, chúa Trịnh và quân Mãn Thanh, cho nên trong dân gian lúc ấy có truyền tụng hai câu:

Ðầu cha lấy làm chân con

Mười bốn năm tròn hết số thời thôi

Cha nhỏ đầu con nhỏ chân

Ðến năm Nhâm Tuất thì chân chẳng còn

Nếu chúng ta chiết tự những chữ chính yếu trong hai câu này thì chúng ta sẽ thấy: chữ Quang trong hiệu của cha là Quang Trung cho chữ tiểu là nhỏ ở trên đầu; còn chữ Cảnh trong hiệu của con là Cảnh Thịnh cũng có chữ tiểu là nhỏ ở dưới chân. Tính từ năm Kỷ Dậu 1789 là năm Lê mất, vua Quang Trung mới thật sự trị vì, đến năm Nhâm Tuất 1802 là năm nhà Tây Sơn bị diệt thì vừa đúng 14 năm.

Những ca dao trên đọc lên như là sấm ký, sấm ngữ, thường thường xuất hiện trước khi xảy ra sự việc, như là lời tiên tri của thần linh, để cho dân gian kiểm điểm mỗi khi ứng nghiệm. Và bây giờ chúng ta đương nhiên bước vào lãnh vực sấm ký có liên hệ đến nhà Tây Sơn.

Trong sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1494-1595), câu sấm đầu tiên có nói tới nhà Tây Sơn là:

Hà thời biện lại vi vương

Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn

Thời nào mà có biện lại, tuần biện, thừa biện làm nên bậc đế vương trong lịch sử nước ta? Chỉ có thời Tây Sơn mà thôi: Nguyễn Nhạc từng làm thừa biện ở huyện Vân đồn, tỉnh Qui nhơn, sau xưng là Tây Sơn vương, mở đầu niên hiệu Thái Ðức, lúc bấy giờ chẳng những phía Bắc Lê Trịnh phải dứt mà phía Nam cựu Nguyễn cũng phải tìm đường mà chạy. 

Lại thêm tám câu này trong sấm trạng:

Chim Bằng cất cánh về đâu

Chết tại trên đầu hai chữ Quận công

Bao giờ trúc mọc sang sông

Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây

Ðoài cung một sớm đổi thay

Chân cung sau cũng sa ngay chẳng còn

Ðầu cha lộn xuống chân con

Mười bốn năm tròn hết số thì thôi

Những câu này được giải thích và hiểu như sau:

Nguyễn Hữu Chỉnh thường tự ví mình với chim Bằng sau khi được vua Lê chiêu Thống phong chức Ðại Tư Ðồ, Bằng Trung Quận công, Chỉnh thừa thế lộng hành. Vua Quang Trung ở Huế bèn cử tướng Vũ văn Nhậm ra Bắc hạch tội bắt giết chết Nguyễn Hữu Chỉnh. Vua Lê Chiêu Thống cầu cứu nước Tàu. Vua Tàu bèn cử Tôn Sĩ Nghị đem quân sang nước Nam. Muốn vào thành Thăng long Nghị phải bắc một cái cầu nổi bằng tre. Lúc bấy giờ Nguyễn Huệ mới xưng Quang Trung Hoàng đế (1788), tức tốc dẫn quân ra Bắc để đánh đuổi quân Tàu và thống nhất sơn hà lần đầu tiên, cùng một năm với cách mạng Pháp (1789). Vua nhà Thanh là Càn Long phong Nguyễn Huệ làm An Nam Quốc vương, nhờ tài ngoại giao của Ngô Thời Nhậm.

Ðoài cung là phương tây, trong kinh dịch nói là phần dưới, tức là ám chỉ Nguyễn Huệ thình lình bị chứng huyết vận, áp huyết đứt mạch máu trên đầu (hémorragie célébrale) mà chết vào năm 1792. Còn hai câu cuối cùng thì cũng như hai câu đã giải thích trong phần trước nói về đầu cha và chân con.

Nguyên xưa kia, vào giữa thế kỷ XVII, ông tổ bốn đời của các nhà lãnh tụ Tây sơn ở Nghệ an, đã bị chúa Nguyễn đày vào khai phá vùng An khê, tỉnh Bình định, cư trú nơi ấp Tây sơn nhất. Nơi đây là ngả ba giao tiếp giữa người Kinh và người Thượng (gồm có thiểu số Jarai và Chàm), và cũng là cái chợ trao đổi thực phẩm như gạo, bắp, muối, gạc nai, dầu, tô hạp, mật ong và trầu nguồn. Vì lẽ đó mà nhà nước có đặt sở tuần ty, trông coi việc thâu thuế, trách nhiệm luôn về an ninh trật tự. Và Nguyễn Nhạc đã được nhà cầm quyền đương thời cử làm tuần ty, biện lại, có nhân viên thuộc hạ khá đông, vừa làm việc cho nhà nước vừa buôn bán làm ăn riêng cho mình. Rồi Nhạc đã dấy binh chống lại triều đình, sau khi đã chiêu tập binh mã khá đầy đủ 

Nhận thấy núi non hiểm trở, Nhạc nảy ra ý chí hùng cứ một phương, phất cờ khởi nghĩa, và trên ngọn cờ có viết hai chữ Tứ Linh, bao gồm Long, Ly, Quy, Phượng. Từ vùng núi về đồng bằng có Tây sơn hạ đạo, còn từ vùng núi đi ra Bắc, theo đường Trường sơn, thì có Tây sơn thượng đạo. Nguyễn Nhạc có lấy một người vợ lẻ gốc Bà nà, bà này đã góp công tiếp tế cho nghĩa  quân.  Ngày  nay  còn    miếu  thờ    Hầu    nà,  rất  linh  hiển. 

Còn  Nguyễn  Nhạc  được  người Thượng gọi là Pô Nhạc, Nguyễn Huệ được gọi là Pô Huệ. Chữ Pô này thường đưọc viết là Poh (đọc kéo dài ra như Pua) và cùng một nguồn gốc ngôn ngữ với chữ Bua là Vua của chúng ta, trong hệ thống ngôn ngữ Nam Á đã nói ở trên.

Ở phía trên đèo An khê ngày nay còn có hòn đá lớn và bằng phẳng, mà người Thượng gọi là Tơ Mo Poh Nhạc, có nghĩa là Hòn đá Vua Nhạc. Tương truyền ngày xưa Nguyễn Nhạc thường khi qua lại nơi này hay ngồi lại nghỉ chân trên tảng đá to lớn ấy. Ngày nay dân làng còn nhắc lại sự tích ấy với lòng cung kính một tảng đá mà họ cho là linh thiêng.

Từ căn cứ núi rừng ấy, Tây sơn đã hạ san năm 1771, mở cuộc trường chinh 14 năm trời (1771-1789), chiếm từng vùng, rồi thâu gồm cả nước lên ngôi cửu ngũ được 14 năm (1789-1802) thì mãn số đế nghiệp. (…)

Ðặc san QUANG TRUNG TÂY SƠN Xuân Bính Tý 1996 

NHỚ TRẬN ÐỐNG ÐA TÌM VỀ NGUỒN VÕ TÂY SƠN

Tác giả: Thiện Y Cư Sĩ 

Năm 1789, vua Quang Trung đại phá quân thanh. Tới nay, 1995, đúng 207 năm sau. Nhắc lại chiến công lừng lẫy cũ, thiết tưởng không gì bằng tìm hiểu về một yếu tố đã góp phần tạo nên chiến công này. Ðó là môn võ đã giúp các binh sĩ Tây Sơn sắc bén hơn khi lâm trận. 

Năm Kiến Trung thứ hai (Bính Tuất, 1226), Trần Thủ Ðộ đưa Trần Cảnh lên ngôi, phế Thượng hoàng nhà Lý ra ở chùa Chân giáo, gọi là Huệ Quang Ðại sư, các tử tôn họ Lý lấy làm bất mãn. Nhưng dòng họ Lý truyền từ đời Lý Phật Tử , đã thấm nhuần đạo lý nhà Phật, hiểu ra lẽ vô thường, chấp nhận luật phế hưng mà tản mác ẩn thân. 

Mồng 10 tháng 8 năm đó, Thủ Ðộ hại Lý Huệ Tông ở chùa Chân giáo, bắt diệt luôn một số con cháu họ Lý trong dịp này. Nhưng cuộc thảm sát trên chỉ hại được một số nhân vật tầm thường của dòng họ Lý mà thôi. 

Theo truyền thuyết, những nhân vật thượng thặng của họ Lý đã rời bỏ kinh đô triều chính ngay từ khi Trần Thủ Ðộ được phong làm Thái sư Thông quốc Hành quân Chính Tha sở. Một số theo đường biển lên phương  Bắc,  đạt  tới  nước  Cao  ly,  lập  nên  dòng  họ      đây.  Tổng  thống  Ðại  hàn    Thừa  Vãn  phải chăng là hậu duệ của dòng này? Môn võ Thái Cực Ðạo cũng do võ công họ Lý tô điểm nên một phần.  Một số khác thì bỏ vào Nam lập nghiệp. Phải là những người có khí phách và võ công nội ngoại thâm sâu mới dám đến vùng rừng núi hoang vu, lấn rừng chiếm núi khai hoang. 

Tới thế kỷ thứ 17, vùng đất Tây sơn đã khá sầm uất, do những khách giang hồ tứ xứ tới dung thân.  Họ Lý lập nghiệp ở xứ này đã lâu, cho đến thời Trịnh Nguyễn phân tranh, một số lớn dân từ Nghệ an theo chúa Nguyễn vào Nam khai khẩn đất hoang, hoà nhập vào các giống dân khác như thổ dân Chiêm thành cũ, các thương nhân Trung hoa mà đa số là nghĩa sĩ của các hội Phản Thanh Phục Minh như Thiên Ðịa hội, Trung Hoà đoàn, Nghĩa Hoà đoàn, các bộ tộc miền núi giỏi trận mạc như Sê Ðăng, Ba Na, Gia Rai…  Nổi bật nhât vẫn là những tôn tộc họ Lý: 

- Danh sư Lý Hiến tức Giáo Hiến vốn là môn khách của Nội hữu quan Trương Văn Hạnh, bị quyền thần Trương Phúc Loan gia hại, bất bình bỏ vào Tây sơn mở trường dạy văn học và võ nghệ. Ba anh em Nhạc, Lữ, Huệ đều là học trò của Giáo Hiến. 

- Võ sư Ðinh Văn Nhưng, thuộc dòng dõi bên ngoại họ Lý, có ngoại hiệu là ông Chẳng vì tính khí ngang tàng, chẳng chịu khuất thân với ai (Ðinh Văn Nhưng là dòng dõi của quan Lang Hồ Ðinh đất Hoa Lư, một vị quan lang có thanh thế trong cuối đời nhà Lý, được Trần Thủ Ðộ gả con gái nhà họ Lý cho). Thời đó dân Tây sơn đã có câu ví: Ngang quá ông Chẳng. Chính thầy Giáo Hiến có họ ngoại với Ðinh Văn Nhưng nên đã nhờ ông Chẳng Nhưng truyền thêm võ nghệ cho ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ.  

CỘI NGUỒN VÕ TÂY SƠN 

Người Việt nam có dáng người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn và rất thông minh. Trải qua bao cuộc chiến chống ngoại xâm, từ hai Bà Trưng, Bà Triệu, đến các đời vua Ðinh, Lê, Lý, Trần… đều đã trải qua nhiều trận chinh chiến và đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. 

Các quân đội dũng mãnh phương Bắc như Mông cổ, Mãn Thanh… tuy đánh thắng và đô hộ rất nhiều dân tộc khác nhưng đều đã bị thất bại nhục nhã khi đụng độ với một dân tộc ít người và nhỏ con là Việt nam. Như vậy phải chăng dân tộc Việt nam đã có những căn bản võ công phi thường?  Người Trung hoa và người Pháp tìm đủ mọi cách tiêu diệt các phái võ cổ truyền của dân tộc Việt nam, lại truyền bá võ Tàu, quyền Anh, thâm ý cũng chỉ để tiêu diệt ý thức đề kháng của dân tộc ta, và đó cũng là một phương cách diệt tận gốc các mầm mống chống đối, bạo động. Câu ca dao: 

Văn thời Cửu phẩm đã sang

Võ thời Tứ phẩm còn mang gươm hầu

thể hiện quan niệm trọng văn khinh võ, khiến bao phen đất nước bị ngoại xâm cai trị. 

Nghiên cứu sử sách, ta thấy rất ít các trường võ công lập được mở ra tại kinh đô hoặc các đô thị lớn ở nước ta. Trong khi đó, các trường Quốc tử giám, các trường văn học đều được thành lập tại các tỉnh, phủ do các quan Huấn đạo coi sóc. Trường võ không được chuộng nên đã tản mác dần về các vùng thôn dã hẻo lánh để tự tồn tại. 

Nền võ học chính tông cổ truyền của dân tộc Việt thường bị các phái Thiếu Lâm, Võ Ðang… từ Trung hoa sang lấn áp hoặc làm khó dễ trong các thời kỳ Bắc thuộc, các phái võ Việt chính tông thường phải lén lút truyền dạy. Dòng họ Lý, trải qua bao sự thăng trầm, vẫn còn giữ được môn võ gia truyền.  Tới vùng Tây sơn nghiên cứu, ta sẽ thấy võ thuật ở đây khác hẳn võ thuật Trung hoa, Thái lan. Võ nghệ ở đây không có những thế, những chiêu thức tách rời ra như những môn võ khác. Một bài võ truyền dạy gồm hai phần: 

- Phần Thiện: Lời hướng dẫn

- Phần Thảo: Bài múa  Phần Thiện viết theo văn vần, câu dài ngắn khác nhau tùy theo sự di chuyển của thế võ. Lối dạy cũng khác hẳn các môn phái kia. Khi võ sư đọc Thiện thì cả trăm người đọc theo đó mà múa Thảo. Múa tới đâu đọc tới đó nên rất dễ nhớ, dễ thuộc, tạo sự nhịp nhàng phấn khởi cho người tập, giúp Tâm, Ý, Lực tam hợp dễ dàng. Võ Nhật, Ðại hàn, Trung hoa không có phương thức truyền dạy đặc biệt này. Phải chăng vừa múa Thảo vừa đọc Thiện mà các danh tướng Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Ðạo, Nguyễn Huệ… đã đào tạo được một số rất lớn võ sinh cho quân đội? 

Trong các bài Thiện – Thảo còn được lưu truyền ở Tây sơn, sự chuyển thế của bài võ rất liền lạc, đánh đỡ liên  chi  hồ  điệp,  không  dừng  lại  lấy  tấn  hay  thủ  thế  như    Tàu.  Nghiên  cứu  kỹ  một  bài    Tây  sơn, chúng ta sẽ thấy các thế võ thoạt trông rất đơn giản nhưng uy lực lớn và nguy hiểm – không có lối múa huê dạng nặng phần trình diễn. Các chiêu thức võ Tây sơn ít động tác, nên tốn ít hơi sức. Mỗi thế đều được nghiên cứu kỹ để khi nhập trận là có ngay kết quả. Mạch võ đi miên man, khiến nhiều khi chỉ có cái chết mới làm cho người đánh võ ngưng lại! Tỷ như bài Thiện – Thảo bộ Ngọc Trảo cho thấy những câu thiện chỉ từ 3 đến 6 chữ, đã diễn tả các thế vừa nhanh, vừa dứt khoát, biến ứng khôn lường.  

BÀI THIỆN – THẢO BỘ NGỌC TRẢO 

Ngọc trảo ngân đài

Tả hữu tấn khai

Hồi thập tự

Liên diệp liên ba

Ðả sát túc

Tạ hầu mãn phục

Tấn đả tam chiến

Thối thủ nhị linh

Hoành tả tạ

Bạch xà lang bộ

Hữu hoành sát

Thanh long biên giang

Phụ tử tương tùy

Hồi phục địa hổ

Song phi triển dực

Hạ bàn đảng đả

Hối tiễn tạ khai cung

Hoành long quyến địa

Tấn đả song quyền

Hoành tả phục hạc

Khai linh trực tiến quyến địa

Diện tý ngọ hầu

Hầu đả thập tự

Hầu tẩu mã đương tiên

Tam bộ lập như tiến 

Vua Quang Trung phát triển uy thế võ Việt họ Lý. Võ Việt đã giúp dân tộc Việt trải qua mấy ngàn năm chinh chiến với kẻ thù lớn mạnh hơn gấp bội mà vẫn giữ được nước. Lý Thường Kiệt từng dùng võ Việt đánh thốc qua biên giới. Thời Quang Trung Nguyễn Huệ cũng đã dùng võ Việt tạo nên những chiến công hiển hách chẳng kém gì. 

Ðọc sử, chúng ta thấy trong 4 năm đầu Tây Sơn khởi nghiệp (1771-1775), Nguyễn Huệ vắng bóng. Ðúng 23 tuổi, Nguyễn Huệ xuất hiện trong trận đánh thành Phú yên, giết tướng Nguyễn Văn Hiền, bắt sống tướng Nguyễn Khoa Kiên – đại tướng Tống Phước Hiệp bỏ trận địa lẩn trốn mới thoát thân – Tướng Tống Văn Khôi đem binh tiếp viện bị Nguyễn Huệ phá tan và giết Khôi tại trận. Hai chục ngàn quân của Tống Phước Hiệp chỉ trong một trận mà tan tành. 

Chỉ khi Nguyễn Huệ xuất hiện ta mới thấy các tướng giỏi lộ diện ra phò như Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, các Ðô đốc Tuyết, Long, Bảo, Lộc… rồi các danh tướng Bắc Hà cũng theo về như Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân… nhìn như vậy, ta thấy Nguyễn Huệ phải là người có tài điều binh khiển tướng, nên đã biết tạo cơ hội cho các tướng tài có dịp thi thố tài năng, lập nên nhiều chiến công hiển hách.  Nói về tài điều binh thì Quang Trung là một vị vua không bao giờ dùng quân ngự lâm hoặc ưu binh ở bên mình. Lính mới tuyển bao giờ cũng được đi trung quân với nhà vua để được huấn luyện. Trận Ðống Ða, chiến bào của nhà vua đen kịt khói thuốc súng, như vậy chứng tỏ vua tôi Tây Sơn cùng xông pha tên đạn với nhau, tạo nên một tinh thần chiến đấu dũng cảm phi thường làm bạt vía quân địch. 

Chính vào thời vua Quang Trung, võ Việt đã có dịp thử sức với các môn võ của các nước lân cận. Năm 1785, trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút, võ Việt đã có dịp thi thố với võ Thái lan, phá tan hai vạn quân Xiêm  trong  một  trận  duy  nhất.  Năm  1789  trong  trận  Ðống  Ða,    Việt  đã    dịp  thi  thố  với    Mãn Thanh, phá tan 300,000 quân Thanh tan tành. Nếu đọc truyện võ hiệp Trung hoa, chúng ta sẽ thấy các truyện về võ thuật đời nhà Thanh rất oai phong lẫm liệt với vị vua chuộng võ là Càn Long. Vậy mà tất cả đã thua võ Việt dưới thời Tây Sơn một cách thảm bại. 

Do đâu mà Tây Sơn đã tạo được đạo quân bách chiến bách thắng như vậy? Nghiên cứu võ học Tây Sơn, chúng tôi mạo muội nêu ra một vài nhận định như sau: 

- Nhờ lối võ Việt của họ Lý, từ đời Lý Thường Kiệt truyền lại, mà quân đội Tây Sơn đã có được phương pháp chiến đấu thần kỳ. Phương pháp này đã được nhà văn Kim Dung để trong truyện Tiếu Ngạo Giang Hồ là Vô chiêu thắng Hữu chiêu. Chính Dương Thanh Phong khi dạy võ cho Lệnh Hồ Xung cũng đã chỉ trích    thuật  Trung  hoa  rằng:  “Khi  ngươi  đã  tinh  thông  về  cửu  kiếm  thì  muốn  thi  triển  thế  nào  cũng được, dù ngươi có quên sạch mọi chiêu số biến hóa cũng không sao, lúc lâm địch, ngươi không còn nhớ một chút gì nữa thì càng không bị ràng buộc bởi những kiếm pháp đã học”. Vậy phải chăng võ Việt là thứ cửu kiếm kể trên lấy nhanh và đơn giản làm chuẩn nên đã bao phen cả thắng? Ðiều này cũng có thể tin được hơn khi vua Quang Trung cũng chủ trương hành quân tốc chiến tốc thắng như vũ bão. 

- Lối xung trận của vua Quang Trung rất qui củ. Khi bắt đầu tấn công ở từ xa thì dùng đại bác do voi chuyên chở. Tới gần hơn thì dùng súng hỏa mai và cung nỏ. Khi sát trận thì dùng những tấm ván dài lớn có bện rơm như những cái khiên lớn. Mỗi tấm ván là hai chục binh sĩ xung kích đi theo. Tới chân thành lũy, ván che thân sẽ biến thành cái cầu để vượt hào sâu, băng mình lên lũy cao tấn công. Như thế Quang Trung đã biến các tấm ván bện rơm tầm thường thành một thứ chiến xa lợi hại. 

- Vua Quang Trung còn lợi dụng luôn cả âm thanh vào cuộc tấn công. Mỗi bộ trống võ Tây Sơn là cả chục cái trống nhỏ khác nhau. Khi hãm thành vào ban đêm, cả trăm dàn trống vang rền những âm thanh khác biệt như xa như gần… tạo nên những âm hưởng như thiên binh vạn mã đang vào tới. Chính các trận Hà Hồi, Ngọc Hồi… trống trận Tây Sơn đã khiến quân nhà Thanh hoảng vía mà tan tác vì mất tinh thần. 

-Về vũ khí, theo sự mô tả của giáo sĩ Jean de Jésus, quân Tây Sơn đã dùng loại vũ khí Hoả Hầu là một cái lao gồm hai phần: Một cây sào dài nơi đầu gắn thêm một cây gậy gỗ có gài sắt tua tủa và tẩm nhựa. Khi xung trận đầu lao tẩm nhựa có gài đuốc đốt cháy rồi đâm hoặc phóng vào quân địch, khiến địch quân bị gai móc vào áo quần, thành lũy bị đốt cháy. Phép phóng lao Hoả hầu do đội Hỏa hầu cảm tử xung trận đã khiến dàn voi trận của Xiêm la hoảng hồn bỏ chạy, đâm chết biết bao quân Xiêm. 

Nhắc  lại   học  Tây  Sơn  để  nhớ  lại  một  chiến  công  hiển  hách  đánh  đuổi  xâm  lăng  của  dân  tộc  Việt, chúng tôi muốn nhân dịp này khơi lại những hay đẹp đã đóng góp, tạo nên bốn ngàn năm văn hiến Việt nam.  

Ðặc san QUANG TRUNG – TÂY SƠN Xuân Bính Tý 1996

MƯU THUẬT CHÍNH TRỊ THỜI QUANG TRUNG – DĨ DẬT ÐÃI LAO

Tác giả: Võ Thành Văn

 

Nghĩa đen của kế này là lấy nhàn hạ chọi với nhọc mệt, tức là dùng mưu kế để không mệt sức mình mà xử trí với quân địch bị nhọc mệt, hay bị mình làm cho mệt. Nói đến kế Dĩ Dật Ðãi Lao, người Việt chúng ta thường nhớ đến Nguyễn Trãi và cuộc kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi. Trong cuộc kháng chiến này, Nguyễn Trãi đã vận dụng tối đa kế dĩ dật đãi lao để nuôi sức nghĩa quân và để làm tiêu hao sức giặc, rồi kết thúc chiến tranh bằng một cuộc tổng phản công có tính chất vận dụng cao độ. Bình Ngô Ðại Cáo hay bài Phú Núi Chí Linh do Nguyễn Trãi viết sau ngày tổng nổi dậy toàn thắng có ghi lại một vài hình ảnh về kế này như sau: 

Lấy yếu chống mạnh

Hoặc đánh bất ngờ

Lấy ít địch nhiều

Hoặc dùng quân mai phục

(Bình Ngô Ðại Cáo)

Giữ hiểm lập công

Dùng mưu lừa địch

Ðêm đốt lửa, ngày kéo cờ

Tiếng quân ta ngày càng vang dậy

Giặc mỏi mệt ngày càng thua chạy

(Phú núi Chí linh)

Ðây là một kế có thể mang tính chất chiến lược, nghĩa là nặng nề về chính trị và có gí trị chỉ đạo cho những chiến thuật quân sự. Chẳng hạn như chiến lược Dĩ Dật Ðãi Lao có thể là chỉ đạo cho toàn bộ kế hoạch xây dựng lực lượng sơ khởi là đánh du kích làm hao mòn sức địch, khiến địch phải phân tán lực lượng, thường xuyên trải mỏng binh đội đối phó ở mọi nơi mà không biết khi nào bị đánh và ở nơi nào. Then chốt của kế này là phải nắm lấy thế chủ động để có thể nhàn hạ dưỡng quân và chỉ đánh khi ta muốn. Trong khi địch thì luôn luôn bị động, bị mệt vì nhìn đâu cũng thấy kẻ thù, làm gì cũng phải thủ trước giữ sau chỉ lo bị đánh. Cái tĩnh của ta chế ngự cái động của địch, đó là quy luật của kế này. 

Binh pháp Tôn Ngô, Thiên Hư Thực có viết: “Phàm giữ chiến địa trước để đợi địch thì nhàn, đến sau mà muốn thắng thì nhọc. Kẻ thiện chiến là làm cho người ta phải vượt hiểm mà đến, chứ không bị người ta khiến mình phải đến… Ðịch nhàn thì có thể làm cho nhọc, địch no thì có thể làm cho đói, địch yên thì có thể làm cho động. Ðây chính là kế dùng cái nhàn của ta mà trị cái nhọc của địch. 

Binh thư yếu lược của Trần Hưng Ðạo Vương, trong thiên về lừa địch cũng nói đến chước thuật. Ðây chính là một minh diễn của kế dĩ dật đãi lao trong binh pháp:  Ðại phàm có chống lại thì càng làm cho địch thêm bền, chi bằng cứ thuận chiều để đưa đến chỗ hỏng. Khi địch muốn tiến thì ta mềm yếu, tỏ ra suy nhược cho nó tiến. Khi địch muốn lui, ta tản ra mở đường sống cho chúng lui. Ðịch cậy mạnh thì ta đóng quân ra xa để bền giữ mà xem vẻ kiêu căng của chúng. Ðịch nấp uy thì ta giả vờ cung kính chờ xem sự tình, nhân đó mà đánh úp, kế mà bắt lấy, nó liêu thì ta thừa, nhân đó mà thu lấy thắng lợi. 

Ði vào cụ thể, địch nhàn mà muốn làm cho chúng nhọc, Vương chỉ hai lối quấy rối công khai và quấy rối ngầm: Công khai thì hoặc đêm đánh trống như sắp ra quân, đến sáng lại nghỉ, khi chúng mệt và trễ nãi rồi thì ta chợt ra; hoặc như chuẩn bị ban tối mà đánh ban ngày, chuẩn bị ban ngày để đánh tối, cứ thay đổi mà xung đột khiến địch không được nghỉ ngơi. Quấy rối ngầm hoặc mộ quân giả mặc áo địch, nhân nó trễ mà cướp  dinh,  thừa  gió    nổ  súng,  chợt  nối    chém  giết,  chợt  ngừng    yên  lặng,  tối  đi  sớm  về,  ra phương đông vào phương tây, như thần như quỷ, không tiếng tăm vết tích. 

Tựu chung, cũng vẫn là thuật dùng nghi binh khiến địch mất thế chủ động và bị tiêu hao sức lực, trong khi ta nhàn hạ tấn công vào nơi địch yếu nhất, vào lúc bất ngờ nhất. 

Trong thời Tây sơn, kế dĩ dật đãi lao đã được Nguyễn Ánh vận dụng một cách thật quy mô để đánh gục lực lượng của Thái Ðức Nguyễn Nhạc tại Qui nhơn, tạo điều kiện tiêu diệt triều đình Quang Toản, tóm thâu quyền lực, khởi sự cai trị của đời Nguyễn Gia Long. 

Nhắc lại, sau năm 1786, khi Nguyễn Huệ ra Bắc diệt chúa Trịnh và lập vua Lê Chiêu Thống, Nguyễn Nhạc giật mình sợ hãi thanh thế của em nên lật đật ra Bắc kéo Nguyễn Huệ về Phú xuân. Hai anh em về Phú xuân, để Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại Thăng long, Chỉnh bị cô thế phải chạy theo, tới Nghê an thì được Nguyễn Huệ cho ở lại trấn giữ. Nhưng kể từ đó, hiềm khích bùng nổ giữa hai anh em Tây Sơn. Trong lúc Chỉnh được Chiêu Thống lén mời ra diệt Trịnh Bồng, đầu năm 1787, thì Nguyễn Huệ kéo quân vào vây Qui nhơn của Nhạc. Sau khi hai anh em giảng hoà, Nguyễn Huệ mới rảnh tay quay ra đối phó với tình hình miền Bắc, diệt Vũ Văn Nhậm, lui về Phú xuân dưỡng binh, và ra Bắc lần thứ ba để đại phá quân Mãn Thanh. 

Trong suốt lúc đó, Nguyễn Nhạc cứ cố thủ ở Qui nhơn, để Ðông Ðịnh vương Nguyễn Lữ bị cô lập tại Gia định. Lữ bị Nguyễn Ánh đánh thua chạy về chết ở Qui nhơn, tướng Tây Sơn là Phạm Văn Sâm cố gắng cầm cự rất anh hùng được một năm, nhưng không có viện binh từ Qui nhơn hay Phú xuân nên cũng bị kiệt lực và thua trận đầu hàng. Chính vì Nguyễn Nhạc án ngữ tại Qui nhơn mà Nguyễn Huệ không kéo quân vào trực diện đối phó với sự bành trướng của Nguyễn Ánh ở Gia định.  Trong thời kỳ từ 1789 (sau chiến thắng Ðống Ða) đến 1792 (khi Quang Trung băng hà), Nguyễn Ánh có điều kiện phát triển lực lượng ở Ðàng Trong và trở thành một mối nguy cho Qui nhơn của Nhạc. Lúc đầu Nguyễn Ánh còn chần chừ, chưa dám đánh thẳng vào Qui nhơn, vì vẫn không quên những lần bại trận thảm khốc năm xưa. Nhưng, Bá Ða Lộc nóng ruột muốn thúc Ánh đánh mạnh để ông sớm ra Bắc Hà làm phép cho các linh mục ở đấy. Sau cùng, Nguyễn Ánh phải cất binh và trông cậy rất nhiều ở sự hỗ trợ kỹ thuật và phương tiện của các tàu Tây phương do Bá Ða Lộc vận động được. 

Ðây là thời kỳ mà Nguyễn Ánh khai thác tối đa sự hiềm khích giữa hai anh em Tây Sơn để tấn công vào lực lượng của Nguyễn Nhạc tại Qui nhơn theo kế dĩ dật đãi lao. Hàng năm, đợi gió nồm nam thổi lên, Ánh kéo thủy binh ra đánh phá Bình thuận, Phú yên và khi gió ngược lại rút binh về cho cày ruộng, đợi mùa sau ra đánh nữa. Ðối diện, binh Tây Sơn phải mệt sức cứu ứng lẫn nhau, không được rảnh lúc nào. Cao điểm của kế hoạch này là trận Thị nại, năm 1792, thủy binh của Ánh được người Tây dương đi tàu sắt hỗ trợ đã chiếm được Thị nại. Vì vậy, đầu năm 1792, Quang Trung phải nhịn Nguyễn Nhạc, tung hịch nói rõ “theo lệnh vua anh” chiêu dụ quân dân hai phủ Quảng ngãi và Qui nhơn đánh vào Gia định. Ông chuẩn bị tập trung binh lực đi bằng hai đường thủy bộ vào đánh tan quân Nguyễn Ánh “như mảnh gỗ mục”. Nhưng ông mất ngay lúc đang chuẩn bị nên Nguyễn Ánh như được trời cho thêm vây cánh. Ngay năm sau, Ánh tung quân ra đánh nữa và chiếm đóng từ Bình thuận đến Phú yên, để từ đó tiến lên Qui nhơn. 

Qui nhơn bị bao vây ròng rã hơn ba tháng, sau được quân Tây Sơn do Phạm Văn Hưng đem từ Phú xuân vào  giải  cứu,  Nguyễn  Nhạc  đến  lúc  đó  mới  chịu  thua,  nhường  Qui  nhơn  cho  các  tướng  Phú  xuân  về dưỡng già, được vài tháng thì mất vào ngày 13 tháng 12 năm 1793. Từ đó, Nguyễn Ánh trực tiếp đối diện với các tướng Tây Sơn của Nguyễn Huệ, nay phò tá Quang Toản còn nhỏ tuổi và kém cả tài trí.  Nguyễn Ánh có một sở trường hơn người là có sức chịu đựng bền bỉ, việc Ánh dùng kế dĩ dật đãi lao để đánh Thái Ðức Nguyễn Nhạc là tiêu biểu cho lối đánh dằng dai của ông ta. Nhưng, sở dĩ Ánh thành công vì Gia định giàu tài nguyên hơn Qui nhơn, Ánh được sự yểm trợ kỹ thuật và phương tiện của người Tây phương, và nhất là Nhạc chỉ giữ thế thủ, mệt sức chờ đợi binh Gia định ra đánh, chứ không còn ý chí tấn công  Ðàng  Trong  để  truy  lùng  quân  tướng  của  Nguyễn  Ánh  như  Nguyễn  Huệ  đã  làm  thời  trước.  Nếu không nhờ Nguyễn Nhạc án ngữ, có lẽ Ánh đã gặp Quang Trung Nguyễn Huệ và không có được điều kiện dưỡng binh nuôi dân để phát triển lực lượng ở Gia định sau này.  Thời Tây Sơn, ta cũng thấy kế d�! � dật đãi lao được Nguyễn Huệ áp dụng để giải phóng Phú xuân trước khi ra Thăng long dẹp nhà Trịnh. 

Năm 1775, nhân khi Ðàng Trong bị rối loạn vì quyền thần Trương Phúc Loan, chúa Trịnh ở Ðàng Ngoài cho quân vào chiếm Thuận hoá, đóng đại bản doanh tại Phú xuân. Từ 1775 đến 1786, Tây Sơn dốc toàn lực tiêu diệt nhà Nguyễn tại Gia định. Năm 1785, sau khi đánh tan viện binh Xiêm la của Nguyễn Ánh trong trận Rạch Gầm – Xoài Mút và đuổi Nguyễn Ánh chạy qua Xiêm, Nguyễn Huệ quay ra Bắc mưu việc đánh chiếm Thuận hóa và giải phóng Phú xuân khỏi ách cai trị của quan binh nhà Trịnh. Khoảng cuối tháng 5 năm 1786, binh Tây Sơn kéo ra Phú xuân. 

Chỉ huy lực lượng nhà Trịnh thời đó là Tạo Quận công Phạm Ngô Cầu, một ông tướng già chậm lụt lại mê tín dị đoan. Bên dưới có Thể Quận công Hoàng Ðình Thể và hai con cùng Kiêm kim hầu Vũ Tá Kiên là những người trung dũng. Trước đó một viên Ðốc thị của nhà Trịnh là Nguyễn Lệnh Tân từ Thăng long vào kinh lý Phú xuân có thấy sự nhút nhát ươn hèn của Phạm Ngô Cầu, nên dâng sớ về triều đình xin Trịnh Sâm thay viên đại tướng này bằng phó tướng Hoàng Ðình Thể, nhưng Sâm không nghe, cho người vào bãi chức Lệnh tân, vì nghĩ Cầu là người ôn hoà, cẩn trọng, hợp với tình hình cần thiết của Thuận hoá. Khảo về sấm ký, Bảng nhãn Lê Quý Ðôn cũng xác nhận Tây Sơn có đất thiên tử, không quan tâm đối phó thì sẽ không ai địch nổi. Lê Qúy Ðôn cũng tâu là đại tướng Phạm Ngô Cầu ở Thuận hoá không phải là địch thủ của Nguyễn Huệ, nên thay người khác thì hơn. Trịnh Sâm cũng không chú ý đúng mức đối với lời khuyên này. 

Nói chung, cả triều đình Bắc Hà đã ruỗng nát tàn tạ và không chịu nổi trận cuồng phong Tây Sơn đang kéo đến. 

Trước khi ra Phú xuân, Nguyễn Huệ đã đặc biệt theo dõi tình hình Bắc Hà và khai thác mọi nguồn tin để nắm vững sự thể Thuận hoá. Biết Phạm Ngô Cầu là người không đoan quyết, lại hay tin bói toán, Nguyễn Huệ dùng kế đánh ngay vào nhược điểm của Phú xuân, trong bộ phận đầu não của quân Trịnh. 

Việc chuẩn bị Phú xuân được giữ kín. Vùng biên cảnh giữa hai cõi Trong – Ngoài, giữa quân Trịnh và quân Tây sơn vẫn vô sự. Tháng 4 năm Bính Ngọ (1786), một tàu buôn cặp bến Phú xuân, trên tàu có một người khách là thuật sĩ giỏi nghề tướng số. Ðược đưa vào yết kiến Quận Tạo, khách đem nghề riêng khen Quận Tạo còn hậu vận rất tốt, phúc lộc đều dồi dào. Chỉ hiềm tiểu hạn gặp xung, nên phòng chuyện đau ốm. Trong mùa hè, nên lập đàn chay cúng kiến thì sẽ tai qua nạn khỏi. Quận Tạo nắm hết quyền bính trong tay nên không nghe lời can của phó tướng là Quận Thể, lập đàn chay rất lớn, cúng sao liên tiếp bảy ngày.  Binh  lính  phải  thức  khuya  dậy  sớm,  phục  dịch  rất  mệt  suốt  trong  7  ngày.  Thình  lình  nghe  quân thông báo là quân Tây Sơn đột ngột kéo ra, đã đánh mất đồn Hải vân, chủ tướng giữ đồn là Quyền Trung hầu bị chết tại trận, các đồn khác đều đổ theo. Thủy quân Tây Sơn đang theo đường bể kéo vào, nay mai sẽ tới Phú xuân. 

Ngoảnh tìm tay thuật sĩ đã khuyên mình làm lễ cầu sao, Quận Tạo mới biết là khách đã bỏ trốn mất tăm.  Các quan vốn nhược sức vì đàn chay cúng quẩy bảy ngày liền, nên nghe tin địch đến, hồn vía lên mây cả, chẳng tìm ra một phương sách chống đỡ cho đúng đắn, quay ra tranh cãi vu vơ. 

Trong thành, họ chia ra hai phe. Một bên là Quận Tạo và các quan, chủ trương kéo cờ trắng xin hàng, bên kia là Quận Thể cùng các tướng chủ trương kéo cờ đỏ quyết chiến. Quận Tạo phân vân bất định thì trúng kế Di Thi Giá Họa, đâm nghi ngờ quận Thể, nội tình Phú xuân nát bét. 

Rốt cuộc, quân Trịnh suy nhược không giữ nổi thành, Quận Tạo hèn nhát để Quận Thể cùng các con và Vũ Tá Kiên chết dưới chân thành mà không tiếp đạn, sau mở cửa lăn áo quan ra khỏi thành xin hàng, rồi bị điệu về Qui nhơn chết chém. 

Trong việc tiến đánh Phú xuân, quân Tây Sơn đi từ xa đến ắt phải mệt hơn quân Trịnh đang thủ trong thành. Kế dĩ dật đãi lao đã khiến quân Trịnh tự nhiên bị phiền hà mệt mỏi vì tuần chay của Phạm Ngô Cầu. Kết hợp với kế ly gián bằng phép Di thi giá họa, kế này đã khiến quân tướng nhà Trịnh bị tiêu diệt thảm  khốc  tại  Phú  xuân.  Thái  công  Binh  pháp,  sách  Quân  Thế có nói: phải cấm hạng đồng tử (kẻ lên đồng) và thầy bói không được bói toán cho các lại sĩ (các quan) đến hỏi việc lành dữ của việc quân. Quận Tạo chắc là không nhớ điều sơ đẳng này nên mới thua nhục và làm binh lính bị chết thảm. 

Thua chạy khỏi Phú xuân, họ đi tới đâu cũng bị dân chúng nổi dậy đuổi đánh bắt giết tới đó. Quân Trịnh tại Thuận hóa lực lượng cũng tương đương với quân Tây Sơn, khoảng 30 ngàn. Nhưng họ bị giết chết quá nửa ở trong Phú xuân, thoát ra ngoài thì bị dân chúng oán ghét nổi lên bắt giết chết hoặc giao nộp cho Tây Sơn, cho nên chỉ có vài trăm bơi qua sông về Bắc mà thôi. Ðây là một trong những trận đánh có tỷ lệ tổn thất nhân mạng cao nhất trong suốt mấy chục năm nội chiến ở nước ta.   

Ðặc san QUANG TRUNG TÂY SƠN Xuân Bính Tý 1996 

NẾU VUA QUANG TRUNG KHÔNG MẤT SỚM

Tác giả: Huệ Vũ 

Sau chiến thắng mùa xuân Kỷ Dậu, vua Quang Trung nỗ lực xây dựng đất nước. Dù chỉ tại vị có 4 năm ngắn ngủi, nhưng vua đã chứng tỏ ngài không phải chỉ là một nhà quân sự lỗi lạc nhất trong lịch sử mà còn là một nhà chính trị xuất sắc nhất, với hùng tâm mở một kỷ nguyên mới cho dân tộc Việt.

Về chính trị, ngài chia đổi Thăng Long thành Bắc thành, chia miền Trung châu Bắc hà thành 7 trấn là: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương, Phụng Thiên, Thanh Hóa ngoại. Miền sơn  cuớc chia thành 7 trấn: Lạng Sơn, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Yên Quảng, Lạng Sơn, Cao Bằng và Tuyên Quang. Ngài tính dời đô từ Phú xuân ra Nghệ an và nhờ La Sơn phu tử xây kinh đô ở đây gọi là Phượng Hoàng Trung Ðô. Ngài chấn chỉnh lại thuế khóa, khuyến khích việc gia tăng sản xuất. Ðến năm Quang Trung thứ tư, đời sống của người dân mười phần khổ cực trước đây đã bớt đến năm sáu. Ngài đã tích cực kêu gọi nhân tài Bắc hà ra giúp nước. Ðối với La Sơn phu tử, ngài không đích thân đến cầu, nhưng mấy bận viết thư với những lời lẽ chí thành, và cuối cùng nhà Nho tên tuổi đứng đầu đất Bắc này đã nhận lời đứng xây Phượng Hoàng Trung Ðô cho ngài.

Về văn hóa, ngài cho mở trường học khắp các thôn xã. Những nơi nào không thể mở trường học thì mượn đình chùa làm nơi dạy dỗ. Vua Quang Trung là ông vua Việt nam đầu tiên đã có sáng kiến áp dụng một nền giáo dục phổ thông cho dân chúng. Và ngài cũng là vị vua đầu tiên đã thực hiện một cuộc cách mạng dân tộc là dùng chữ Nôm trong tất cả các chiếu biểu, văn thư hành chánh. Giám mục Bá Ða Lộc đã ra sức giúp Nguyễn Phúc Ánh để mong được tự do truyền đạo sau này, thì những nhà truyền giáo và giáo dân dưới thời nhà Nguyễn sau này bị nạn “Sát Tả” bức hại đến khủng khiếp, nhưng dưới thời Quang Trung, thì nhà vua đã thực hiện một nền bình đẳng và tự do tôn giáo. Những nhà truyền giáo ở đất Bắc trong thời Quang Trung như giáo sĩ Le Roy trong thư gửi cho Bladin ngày 18-7-1793, đã không hết lời khen ngợi sự tiến bộ trong công việc truyền đạo dưới chế độ Tây Sơn.

Về quân sự, quân lực Tây Sơn gồm 5 quân căn bản là: Tiền, Hậu, Trung, Tả, Hữu và những đội quân đặc biệt dùng như lực lượng trừ bị là: Tả bật, Hữu bật, Ngũ chế, Kiến thành, Thiên cán, Thiên trường, Thiên sánh, Hổ bôn, Hổ hầu, Thị Lân, Thị Loan. Ở các phủ huyện, có quân đội địa phương gồm có Ðạo, Cơ, Ðội. Quân chủ lực của Tây Sơn bấy giờ cứ 5 người mới có một cây súng trường, nhưng thiện dụng hỏa hổ, và gan dạ phi thường. Vì chuẩn bị đánh nhau với nhà Thanh sau này, ngài thu đố đồng trong nước để đúc đồ binh khí.

Về ngoại giao, thời đại Quang Trung là thời đại ngoại giao vàng son nhất lịch sử chúng ta. Từ xưa chưa có một vị vua nào tỏ vẻ lấn áp Trung hoa như vua Quang Trung. Trước hết, ngài đã không chịu thân hành đi đón sắc phong của vua Càm Long, hủy bỏ tục cống người vàng hằng năm cho Tàu để đền mạng Liễu Thăng đã có kể từ thời vua Lê Thái tổ. Và cuối cùng cử sứ bộ sang Tàu đòi hai hai tỉnh Quảng Ðông và Quảng Tây, cũng như xin cưới công chúa nhà Thanh. Ðòi hỏi của vua Quang Trung đúng là sự khiêu khích đối với Càn Long, là một ông vua cao ngạo và anh minh vào bậc nhất đời nhà Thanh. Tuy nhiên, khiếp uy Quang Trung, Càn Long đã phải chấp nhận để tỉnh Quảng Tây cho vua đóng đô và chọn ngày đưa công chúa Thanh qua Việt nam.

Ðau đớn thay, trong khi nhà Thanh chuẩn bị đáp ứng những đòi hỏi của Việt nam thì vua Quang Trung lại sớm ra đi. Vũ Văn Dũng cầm đầu phái bộ ở Bắc kinh lúc bấy giờ khi nghe tin vua mất đã ngã ra chết giấc, và sau đó có làm bài thơ khóc vua như sau:

Bố y phấn tích ngũ niên trung

Kim cổ thi vi sự bất đồng

Thiên vị ngô hoàng tăng nhất kỷ

Bất ư Ðường, Tống thuyết anh hùng

Anh Hợp dịch:

Năm năm dấy nghiệp tự thôn nông

Thời trước, thời sau khó sánh cùng

Trời để vua ta thêm chục tuổi

Anh hào Ðường, Tống hết khoe hùng.

Lịch sử không thể nói hết những nét phi thường của vua Quang Trung. Ngài là một vị tướng bách thắng. từ lúc cầm quân đánh Phú yên cho đến lúc mất chưa bao giờ biết nếm mùi thất bại. Ngài là một nhà chính trị tài ba chứng tỏ sau bốn năm xây dựng Bắc hà qua các chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục. Nhưng tình hình Nam kỳ, cũng như chính sách của nhà Tây Sơn đối với Mãn Thanh lúc bấy giờ, đã có hai quan điểm khác nhau đối với tương lai của Việt nam nếu ngài còn sống thêm một kỷ nữa. Quan điểm thứ nhất cho rằng, với tài năng phi thường của vua Quang Trung, ngài còn sống thêm lãnh thổ Việt nam đã thay đổi, tình hình chính trị ở Á châu cũng hoàn toàn thay đổi bộ mặt và vua Quang Trung có thêm cơ hội để chứng tỏ thêm sự phi thường tột bực của ngài. Quan điểm thứ hai đặt ra nhiều nghi ngờ là có thể nhà Tây Sơn lưỡng đầu thọ địch và tình trạng cũng khó biết đi về đâu.

Trong lúc Quang Trung cả phá quân Thanh, thì lúc bấy giờ ở miền Nam, Nguyễn Phúc Ánh tấn công thành Gia định, và trong khi ở Thăng long vua Quang Trung bắt tay bình định đất Bắc, thì cũng trong mùa xuân Kỷ Dậu (1789), Phúc Ánh đánh bại Phạm Văn Tham, và chiếm trọn đất Nam kỳ. Từ năm 1789 đến năm 1792, trong khi ở Bắc vua Quang Trung củng cố lực lượng để chuẩn bị đánh Tàu thì ở trong Nam, Nguyễn Phúc Ánh cũng tích cực xây dựng lực lượng để tiến ra Trung. Trong khi Quang Trung chuẩn bị mười năm để đánh Tàu, thì ở trong Nam, Nguyễn Phúc Ánh cũng dự định một thời gian 13 năm để Bắc phạt.

Ðầu năm 1789, Nguyễn Phúc Ánh chiếm Gia định thì trong năm đó, Hoàng tử Cảnh và Giám mục Bá Ða Lộc trở về, mang theo khoảng 300 tay phiêu lưu người Pháp, tàu chiến và dụng cụ quân sự. Những người Pháp góp công rất lớn cho Nguyễn Ánh có nhiều người được phong tước hầu như Jean Marie Dayot chỉ huy tàu Nhị Chích là Trí Lược hầu, Julien Girard được phong là Long Hưng hầu, Guillaume Gouilloux được phong là Oai Dũng hầu, De Forcant lấy tên Việt là Nguyễn Văn Lăng được phong là Lăng Ðức hầu, Jean Baptist Chaigneau lấy tên Việt là Nguyễn Văn Thắng được phong là Toàn Thắng hầu. Với sự giúp đỡ  của  những  người  Pháp  do  Giám  mục    Ða  Lộc  mang  tới,  Nguyễn Phúc Ánh xây dựng lực lượng quân  sự,  huấn  luyện  binh    theo  kỹ  thuật  Âu  châu,  đóng  thêm  tàu  chiến,  xây  dựng  thành  trì.  Olivier Puymanuel là người đã xây dựng thành Gia định, và nhất là sau này đã xây thành Diên khánh kiên cố, nhờ đó mà Hoàng tử Cảnh có thể chịu nổi sức tấn công của Trần Quang Diệu. Trong số người Pháp giúp chúa Nguyễn, Théodore Lebrun và Olivier đã trở thành hai nhà ngoại giao. Họ đã đi sang Macao, Manila, Nam dương, Tân gia ba mua thêm súng ống đạn dược cho Gia định. Chỉ trong năm 1791, Nguyễn Phúc Ánh đã mua của một thương gia Bồ Ðào Nha một vạn súng điểu thương, 2000 cỗ súng gang, mỗi cỗ nặng 100 cân Anh, 2000 viên đạn nổ lớn, mỗi viên đường kính 10 tấc. Ðại bác của Nguyễn Phúc Ánh lúc bấy giờ  tân  tiến  hơn  đại  bác  của  Tây  Sơn  rất  nhiều,  súng  được  đặt  lên  xe  đẩy,  bắn  xa    chính  xác  hơn. Nguyễn Phúc Ánh cũng đã tích cực phát triển hải quân, lập xưởng thủy sư từ bờ sông Tân bình đến bờ sông Bình Trị dài trên 3 dặm lo việc đóng tàu.

Chỉ trong 2 năm xây dựng sức mạnh ở Nam kỳ, năm 1790, Nguyễn Phúc Ánh đã bắt đầu thử lửa với Tây Sơn.  Tháng  4  năm  này,  Nguyễn Phúc Ánh sai Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thành, Võ Tánh đem quân đánh Phan rí, Bình thuận. Dù chiếm được hai nơi này, nhưng khi Tây sơn đem binh vào tái chiếm, Lê Văn  Quân  không  giữ  được,  sau  xấu  hổ  tự  tử.  Cuộc  ra  quân  năm  1790  của  Nguyễn  Ánh,    thua  trận nhưng cũng chứng tỏ miền Nam không còn chỉ là nơi mong lo thế tự phòng.

Vào năm Nhâm Tý, Nguyễn Phúc Ánh và chư tướng đã bàn kế hoạch tấn công Tây Sơn, là hàng năm cứ vào mùa gió nồm, mang quân ra quấy phá. Tháng 6 năm 1792, một tháng trước khi vua Quang Trung mất, Nguyễn Phúc Ánh đã mang một lực lượng hải quân hùng hậu ra tấn công Thị nại. Cuộc tấn công của quân Nam vào cửa Thị nại gồm đủ mặt các tướng cừ khôi của hải quân Nam kỳ: Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành, Dayot, Vannier, De Redon, D’Auray, Olivier de Carpentras.

Cuộc tấn công Thị Nại của quân Nam đã thành công rất dễ dàng. Chỉ trong giây lát, thuyền Nam quân đã xông  hết  vào  quân  cảng,  đốt  sạch  doanh  trại,  thuyền    Tây  Sơn,  chỉ  để  lại  5  chiến  hạm    20  chiếc thuyền có tay chèo, thu làm chiến lợi phẩm. Trận thủy chiến Thị nại năm 1792, nhiều tướng lãnh nhà Nguyễn cũng như các sĩ quan Pháp về sau cho rằng, nếu Nguyễn vương không có tâm trạng còn quá e sợ quân Tây Sơn, lúc bấy giờ đổ bộ lên Qui nhơn, thì trong lúc bất ngờ đó có thể chiếm được thành này và bắt được vua Thái Ðức.

Sự thành công của chiến trận Thị nại trong tháng 6-1792 của quân Nam đã chứng tỏ họ đã gây được sự lo âu cho Quang Trung. Khi sắp mất, ngài đã phải căn dặn Trần Quang Diệu: “Ta mở mang bờ cõi khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm tất không dậy được. Thái tử tư chất hơi cao, nhưng tuổi còn nhỏ. Ngoài có quân Gia định Nguyễn Ánh là quốc thù, mà Thái Ðức thì tuổi già ham dật lạc, cầu yên tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi trong một tháng phải lo chôn cất, việc tang làm lạo thạo mà thôi. Lũ ngươi nên hợp sức giúp thái tử sớm thiên về Vĩnh đô để khống chế thiên hạ. Bằng chẳng, quân Gia định kéo đến thì các ngươi không có chỗ chôn đâu.” (Quang Trung Nguyễn Huệ, Bùi Tiên Khôi) Lời dặn của vua Quang Trung đã không được tướng tá Tây Sơn tuân theo, lại đưa đến những cuộc tranh giành quyền lực khuynh loát lẫn nhau.

Việc Võ Văn Dũng giết Ngô Văn Sở, Bùi Ðắc Tuyên đã làm cho Trần quang Diệu phải rút quân đang vây Diên khánh và Lê Trung trong lúc đuổi quân Nam của Nguyễn Hoàng Ðức đến tận Bà rịa cũng phải rút lui đã bỏ mất cái thế của Tây Sơn trong năm 1795. Kế đó Cảnh Thịnh đã để cây cột chống trời của Tây sơn là Trần Quang Diệu ngồi chơi xơi nước một thời gian dài. Rồi đến năm 1798, vua Cảnh Thịnh nghe lời dèm siểm giết mất Lê Trung, làm rể Lê Trung là Lê Chất phải hàng Gia định, và sau đó là Nguyễn văn Huấn lại bị lời dèm siểm của Hồ Công Diệu để bị tử hình, Cảnh Thịnh đã tự chặt mất tay chân của mình, làm nhân tâm ly tán đem thêm cơ hội thành công cho chúa Nguyễn. Không ai không đồng ý là sau khi vua Quang Trung mất, ông có một thái tử lớn tuổi, không chỉ mới lên 10 như Nguyễn Quang Toản, nội bộ Tây Sơn ổn định, thì chúa Nguyễn cũng không dễ thống nhất đất nước vào năm 1801 mà so với sức mạnh của hai bên thời bấy giờ, có thể tình trạng Nam – Bắc sẽ kéo dài rất lâu.

Lịch sử cũng đồng ý với tài điều binh khiển tướng thần sầu khấp qủy của vua Quang Trung, nếu ngài không mất sớm Nguyễn Phúc Ánh dù có mua được bao nhiêu chiến cụ tối tân của Âu châu cũng không thể ngóc đầu lên nổi.

Chiến lược của Nguyễn Phúc Ánh đối với Tây Sơn không phải chỉ mong ở sự trang bị cho quân đội bằng vũ khí Tây phương mà vận dụng những quốc gia lân bang tiếp tay cho mình. Suốt quá trình “phục quốc” của Nguyễn Phúc Ánh là cầu viện ngoại bang. Liên minh Nguyễn Phúc Ánh và Xiêm La là một liên minh rất chặt chẽ. Một thứ thế ỷ dốc để dựa vào nhau. Năm Quý Sửu 1793, trong lúc Nguyễn vương đánh Qui nhơn, vua Xiêm và đại tướng Chất Tri đã đem 5 vạn quân xuống Nam vang, 500 chiến thuyền đến Hà tiên, sai sứ giả mang thư đến Nguyễn Phúc Ánh cho biết sẵn sàng theo quân Gia định bắc chinh. vì chúa Nguyễn lúc bấy giờ đã rút quân về nên quân Xiêm La mới rút về nước. Trong năm 1794, Xiêm La đã hẹn ngày cùng chúa Nguyễn cất quân đánh Phú xuân, quân Xiêm sẽ đi đường bộ đánh mặt sau của Phú xuân, còn  quân  Nguyễn  thì  đánh  mặt  trước.  Tháng  12-1794,  Phúc  Ánh  đã  sai  sứ  sang  Xiêm  dục  động  binh, nhưng vì bấy giờ xiêm bị Miến xâm lăng nên lại phải nhờ chúa Nguyễn giúp đỡ. Chúa sai Nguyễn Huỳnh Ðức, Nguyễn Văn Trương đem quân giúp cho Xiêm. Liên minh để tấn công Tây Sơn không phải chỉ có Xiêm La, mà cả Chân Lạp và Lào. Trong năm 1791, vì Ai Lao không chịu tiến cống, vua Quang Trung đã sai Trần Quang Diệu đem quân sang Vạn tượng, thu hết tài vật của Vạn tượng đem về, nên Vạn tượng đã thù Tây Sơn và sau này Vạn tượng đã đem binh đánh Nghệ an, giúp Nguyễn Phúc Ánh.

Nguyễn Phúc Ánh trong nỗ lực đánh bại Tây Sơn đã không phải chỉ nhò sự giúp đỡ của người Pháp, liên kết với Xiêm La, chân Lạp, Ai Lao, mà đối với nhà Mãn Thanh cũng đã coi như một nơi có thể nhờ cậy. Trong thời gian quân Thanh xuống Bắc hà, Gia Ðịnh phái Phan Văn Trọng và Lâm Ðề mang 50 vạn cân gạo ra Bắc để tiếp quân lương cho Mãn Thanh, và dâng thơ cho Tôn Sĩ Nghị, nhưng thuyền đi đường bị gió bão đánh đắm.

Hy vọng đối với Mãn Thanh của chúa Nguyễn tiêu tan khi 20 vạn quân Thanh bị đánh tan trong 7 ngày, và sau đó vua Càn Long lại sắc phong cho vua Quang Trung. Tuy nhiên, Gia Ðịnh vẫn đặt hy vọng này. Sớ của Nguyễn Văn Thành và Ðặng Trần Thường dâng lên chúa Nguyễn đã nói lên điều này: “Hiện ta với Tây Sơn đối địch, không thể không dùng ngoại giao để cầu viện. Nhà Thanh từ khi bị Tây Sơn đánh bại, chắc cũng căm hờn để chờ cơ hội. Nay vua Gia Khánh nối ngôi, buổi đầu đang hăng hái, không phải cái khí tượng đời Càn Long nữa. Nhà Thanh vốn lo giặc biển chưa có cách khống chế, đã bảo Tây Sơn tìm bắt, nhưng nó lơ đi. Vậy nhà Thanh không chỉ giận giặc biển mà giận đến Tây Sơn nữa. Vả lại, nam bắc xa xôi, nhà Thanh tưởng đâu Tây Sơn đã chiếm cả bờ cõi Nam Việt, không ai đối đãi nổi, nên vẫn chưa định ngày xuất quân, hoặc giả đó là một cớ. Từ khi quân ta thắng trận ở Ðà nẵng, bắt được nhiều tàu giặc ô biển. Bọn thần đề nghị soạn một bài biểu, lấy mấy thuyền tàu ô đem dâng, ắt vua Thanh phải khen, nhận. Nếu nhân đó đến được chầu tận nơi, thì ta sẽ biện bạch phải trái. Một là nói rõ Tây Sơn xưng thần ở Trung quốc mà xưng đế ở ngoài, đập vào chỗ kỵ của họ mà gây hiềm khích…”

Trong năm 1798, quân Nguyễn so với Tây Sơn cũng không còn sút kém, thế nhưng họ vẫn muốn được liên kết với nhà Thanh để hai mặt đánh Tây Sơn. Ðiều này làm nhiều người cho rằng, nếu vua Quang Trung còn, cuộc chiến giữa Tây Sơn và Mãn Thanh xảy ra, quân chúa Nguyễn sẽ đánh đàng trong, quân Thanh đánh mặt Bắc, hải quân nhà Thanh và chúa Nguyễn tấn công mặt đông, liên quân Xiêm La – Chân Lạp – Vạn tượng đánh phía tây sẽ dồn Tây Sơn vào thế bốn bề thọ địch, thì chưa có thể dám kết luận vua Quang Trung sẽ có thể phá vỡ thế tấn công đó.

Sự việc hẳn không thể như vậy. Theo một tài liệu của giáo sĩ Cadière thì giáo sĩ Le Labousse đã có viết: “Vào tháng 2 năm 1792, trước ngày chúng tôi rời bỏ các con chiên và cũng để tránh kẻ địch, họ kéo tới vài chục ngàn quân do đường Lào và đàng hoàng tiến vào Cao Mên. Người Mên cũng tính theo họ, mà về phần Nguyễn Huệ sẽ cùng hải quân ập vào các cửa bể miền Nam để chặn đường rút lui của chúa Nguyễn. Nếu dự định này được thi hành, thì nhà vua cùng chúng tôi chỉ chờ chết. Nhưng nhờ ơn trên, việc này không thấy thi hành nên chúng tôi thoát được cơn giông tố nguy hiểm ấy, hoặc do Tây Sơn e ngại các chiến hạm của người Âu châu đang đóng đầy các cửa sông Sài Côn do việc buôn bán, hoặc vì hai đạo quân của vua Xiêm La cho qua đã ngăn chúng lại ở Cao Mên”. Lá thư của Le Labousse và lời trối trăn của vua với Trần Quang Diệu trước phút lâm chung, cho thấy vua Quang Trung không thể là một người không chuẩn bị để khi có can qua với Thanh đình, thì quân Tây Sơn phải đương cự cùng lúc bốn mặt giáp công hay lưỡng bề thọ địch.

Sau khi thắng Mãn Thanh, Ngô Thì Nhậm đã thảo một bức thư nhờ Thang Hùng Nghiệp, tổng đốc Quảng Tây dâng lên vua Càn Long lời lẽ vô cùng nhún nhường: “…Tôi    Nguyễn  Quang  Bình    khuất  nẻo  bên  An  nam,  bấy lâu vẫn được tắm gội trong thánh giáo… Tôi ở hẻo lánh tận tít chân trời, đường sá xa xôi, núi sông cách trở, chẳng hay việc đó có hẳn do ý hoàng đế sai làm hay do Tôn Sĩ Nghị vì một người đàn bà xui khiến, rồi mang kiêu hãnh lập công ở biên thùy để hòng kiếm lợi lớn? Hay tin có binh mã thượng quốc ra khỏi cửa ải, tôi nghĩ: tấc lòng sợ mạng trời, phục nước lớn của mình bấy lâu nay đã bị kẻ khổn thần ngăn trở mà cái cớ Duy Kỳ trốn bỏ nước kia lại bị che lấp không thông đạt   lên   được,   sau   này   mối   binh   tranh   hùng   xảy   ra   thì   tai   hại   xảy   ra   không   phải      ít! …châu chấu đá xe, tôi thật lòng không dám, song cửa vua xa cách muôn dặm, hễ tôi nhúc nhích điều gì thì  bị  kẻ  khổn  thần  hiếp  đáp  không  sao  chịu  nổi,  nhưng  hình  tích  mới  dường  như  chống  cự… … Nép nghĩ Hoàng đế là bậc theo ý trời ban nghị hoà, làm cho cành khô được xanh tươi, cây kiệt lại nẩy nở. Xin ngài lựa theo tự nhiên, thứ cho cái tội đón đánh Sĩ Nghị, và xét cho tấc thành mấy phen đã đi gõ cửa ải…”

(Hoa Bằng, Quang Trung Nguyễn Huệ)

Lá thư của vua Quang Trung gởi vua Càn Long nói trên cho thấy vua Quang Trung rất biết người biết mình, biết chưa đủ sức chống lại đợt trả thù định huy động đến năm chục vạn binh 9 tỉnh miền Nam của Mãn Thanh, phải nhún nhường qua ải.

Sau khi Càn Long hủy bỏ quyết định huy động quân dân 9 tỉnh miền Nam Trung quốc Nam chinh, thì vua Quang Trung mới bắt đầu chứng tỏ sự độc lập của mình. Những gì nhà vua làm sau đó, đều có tính toán vì thăm dò được phản ứng của triều đình nhà Mãn. Vì thế, những đòi hỏi của vua Quang Trung như đòi Lưỡng Quảng, thì cũng gần như được thoả mãn một nửa. Vua Quang Trung có thể nuôi hùng tâm sẽ tấn công nước Tàu, vì Nữ Chân cũng là một nước nhỏ mà có thể vào làm vua Trung quốc. Và hơn nữa, bấy giờ những nghĩa sĩ Trung quốc, nhất là miền Nam Trung hoa đã có những phong trào kháng Thanh nổi lên rất mạnh.

Theo dự trù phải 10 năm, vua Quang Trung mới có thể thực hiện giấc mộng vĩ đại của mình. Tình trạng bang giao giữa hai nước cho đến năm 1792, coi như vẫn hoàn toàn thuận lợi cho Tây Sơn. Nếu ông còn sống, thu nạp công chúa con vua Càn Long, thì áp lực mặt Bắc lại có thể vì đó mà không còn phải lo lắng nữa, nếu như Quang Trung không khiêu khích thêm, và buộc Mãn Thanh phải phản ứng. Hẳn vua Quang Trung sẽ không khiêu khích Bắc Kinh khi sứ bộ Võ Văn Dũng đã đạt những đòi hỏi. Và năm 1792, sau khi Thị nại bị tấn công là lúc Quang Trung chuẩn bị diệt mối lo nằm sau lưng. Lá thư của Le Labousse, sự lo âu của Nguyễn Phúc Ánh bày tỏ với sứ thần Xiêm La: “Rất có thể Huệ đem quân vượt qua đường Lào và Cao Mên để đánh miền Nam, thủy quân của Huệ cũng sẽ lần theo hải đạo đến Côn Lôn và hoạt động tại Xiêm La, Hà tiên, tới chiếm đóng Long xuyên, Kiên giang rồi hợp với bộ binh ở Sài Côn…” và cũng như mối lo của ngài bày tỏ với Trần Quang Diệu lúc lâm chung, cho thấy Quang Trung không khinh thường lực lượng Gia Ðịnh. Như vậy, nếu có thực hiện cuộc Bắc phạt đánh nhà Thanh, ngài phải diệt gọn lực lượng của Nguyễn Phúc Ánh trước đã. Diệt xong Nguyễn Phúc Ánh, những nước như Xiêm La, Cao Mên, Vạn tượng không còn là mối lo đối với Tây Sơn, mà biết đâu họ lại là những nước lại xoay sang liên kết với Việt nam để ngó lên miền Bắc.

Ngài đã mất sớm. Khổng Minh mất, Tư Mã Ý được thời đắc chí là tình trạng bấy giờ. Ngài mất đất nước ta đã mất một cơ hội.

Nước Tàu sau khi Càn Long mất đã đi vào con đường suy thoái. Một nước Việt dù nhỏ, nhưng có một nhà vua hùng tài đại lược như vua Quang Trung, vận nước đã xoay chuyển những bước xoay khó mà tưởng tượng.

Quang Trung mất trong năm 1792 là cơ may, là thời trời cho Nguyễn Phúc Ánh, và có lẽ cũng là vận mệnh bắt dân Việt nam phải chịu 80 năm đô hộ, rồi Cộng sản dày xéo đến ngày nay. Dân tộc phải chịu đựng đau buồn, không thể sánh vai cùng các nước Á châu, mà trước đây so với Việt nam họ còn lạc hậu hơn nhiều. 

Ðặc san QUANG TRUNG – TÂY SƠN Xuân Ðinh Sửu 1997 

 

VẤN VƯƠNG MẤY CHUYỆN  BÌNH  ÐỊNH TÂY SƠN

Tác giả: Nguyễn Tiến Hối 

Tôi đến định cư tại Hoa kỳ rất muộn màng, giữa lúc tuổi đời chồng chất nặng vai. Dù vậy, với lòng tin vào thiên mệnh, tôi cũng đã có được những niềm vui bất chợt trong những ngày tháng ở đây. 

Một trong những niềm vui phải nói đến trước nhất là tôi đã được tham dự Ngày Tây Sơn xuân Ðinh Sửu 1997 do hội Ái Hữu Tây Sơn Bình định tại Nam California tổ chức. Tôi được chứng kiến một cuộc lễ kỷ niệm Anh hùng Dân tộc tại hải ngoại tổ chức theo nghi lễ cổ truyền với đầy đủ những nghi thức, nghi biểu và diễn tiến theo qui trình cử hành ở quê nhà thuở xa xưa… 

Tôi sung sướng được gặp lại đồng hương bạn bè sau nhiều năm xa cách, nói bao nhiêu cũng chưa hết chuyện… Tôi cố đọc các đặc san Xuân do hội Tây Sơn Bình định phát hành hàng năm. Nhận thấy các vị đóng góp bài vở cho Ðặc san đã có cái “tâm”, cái “tình”, và sự hiểu biết sâu sắc về quê hương Tây Sơn Bình định. 

Với tư thế một “lão đồng hương” và một người đã góp tay trong công cuộc trùng tu Ðiện Tây Sơn ở quê nhà, tôi có mấy ý kiến về vài tiểu tiết trong một hai bài viết trên đặc san TSBÐ mà tôi đã được đọc. Mục đích cũng chỉ là mong sao có thể đạt sự chính xác trong các sự kiện được nhắc đến để người đọc khỏi phân vân khi tham khảo, tìm hiểu. 

Ðền thờ Tây Sơn được khởi công xây cất từ năm 1959 và hoàn thành vào năm Canh Tý 1960, theo ý kiến của sĩ phu và nhân dân địa phương với sự chủ xướng, yểm trợ của ông Hoàng Ðình Giang, đương thời quận trưởng Bình khê. Những người trong cuộc nhất trí không dùng chữ “xây dựng” mà dùng chữ “trùng tu” với ngụ ý việc làm này là sửa sang lại, làm mới, làm đẹp thêm một công trình đã có từ trước, vừa vật chất vừa tinh thần (nhất là tinh thần), là kế thừa một truyền thống đẹp đẽ cao qúy, chứ không phải là việc làm mới khởi phát v.v… Rồi các sĩ phu, các thân hào nhân sĩ địa phương lại dùng chữ ÐIỆN TÂY SƠN (thay vì gọi là Ðền Thờ Tây sơn) để tôn xưng một chốn thờ phượng bậc Ðế vương, không phải là một đền thờ bình thường. Danh xưng của những người phụ trách công trình này là: Ban Trùng Tu Ðiện Tây Sơn (sau này kiêm nhiệm việc thờ cúng lăng mộ anh hùng Mai Xuân Thưởng thì gọi là: “Ban Quản Trị Ðiện Tây Sơn và Lăng mộ Anh hùng Mai Xuân Thưởng”, khuôn dấu cũng khắc như vậy). 

Như chúng ta đã thấy, khi điện Tây Sơn được hoàn thành, ở phía trên cửa chính đi vào điện có đắp ba chữ nổi, sơn màu đỏ: TÂY SƠN ÐIỆN (chữ Hán). Hai bên cửa có đắp hai câu đối cũ (chữ Hán): 

Tây Khê thảo thụ lưu kỳ tích

Nam quốc sơn hà ký võ công

Tác giả câu đối này là Linh mục Nguyễn Diên thuộc nhà thờ Chánh toà Qui nhơn, người có thiện tâm, thiện chí trong việc trùng tu Ðiện Tây Sơn mà người Bình khê vẫn còn ghi nhớ… 

Ðiện Tây Sơn được xây dựng trên cơ sở cũ tọa lạc tại thôn Kiên mỹ, xã Bình thành, quận Bình khê. Ðịa cuộc trước đó là khuôn viên đình làng Kiên mỹ mà xưa kia là vườn nhà họ Nguyễn Tây Sơn. Ông nội của ba vua Tây Sơn đến thôn Phú lạc, đất Tây sơn, buôn bán trầu lá, lấy vợ và lập nghiệp tại đây. Sau sinh ra ông Nguyễn Phi Phúc. Ông Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và lập bến Trường Trầu tại Kiên mỹ, trên sông Côn (nay là bến sông trước miễu Cây Gòn), sinh ra ba anh em Tây Sơn là Nhạc, Huệ, Lữ. Gia đình họ Nguyễn Tây Sơn ở ngôi nhà trong khu vườn nói trên, về sau gọi là Vườn Dinh. Khi ba anh em Tây Sơn dựng nghiệp đế vương thì nơi vườn cũ này lập một ngôi từ đường, do làng sở tại coi sóc. Ðến khi nhà Tây Sơn bị diệt, nhà Nguyễn Gia mưu phục hưng thì từ đường bị hạ và thay thế bằng một ngôi đình làng. Thay vì thờ thần ở đình làng thì nhân dân địa phương đã âm thầm thờ phụng ba vua Tây Sơn…  

Thời Việt Minh năm 1946, đình bị phá hoại. Trong khuôn viên Ðiện Tây Sơn còn có một cây me cổ thụ, một  giếng  nước  ngọt  xây  bằng  đá  ong,  nước  ròng  quanh  năm, là những vật đã có từ thời Tây Sơn. Có người đã viết: “Ở Phú lạc còn một cái đình nhỏ do dân Bình khê dựng lên để thờ ba anh em Tây Sơn và trong công viên vẫn còn cây me cổ thụ và giếng nước lâu đời…” Có lẽ người viết muốn nói đến địa điểm lập Ðiện Tây Sơn ở thôn Kiên mỹ hiện nay. Tác giả còn viết: “Ngôi nhà lá nhỏ ở thôn Kiên mỹ, Bình khê, bên cạnh bờ sông Côn, nơi ba anh em Tây Sơn đã chào đời vào năm 1753″. 

Ngôi nhà ấy là nhà của họ Nguyễn Tây Sơn nằm ở chỗ Vườn Dinh vừa nói, cách xa bờ sông Côn gần một cây số ngàn, xưa là Từ đường, sau là Ðình làng và nay là Ðiện Tây Sơn. Còn việc ba anh em Tây Sơn đã chào đời vào năm 1753 thì không được rõ ý của người viết. Năm 1753 là năm sinh của Nguyễn Huệ, còn năm sinh của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ không được biết. Nếu muốn nói “chào đời” là “khởi nghĩa” thì năm khởi nghĩa là năm Tân Mão 1771, lúc Nguyễn Huệ 18 tuổi. Hay là ba ông cùng sinh một năm?  Khoảng cuối thập niên 1980, trong khuôn viên Ðiện Tây Sơn có lập một cơ sở nhỏ mang tên là Nhà Bảo Tàng Quang Trung tàng trữ các di vật, di tích về nhà Tây Sơn. Hình thức là vậy chứ thực chất chẳng có gì.  Trong bài viết “Tìm Về Quê Hương Ðại Ðế” Xuân 1997 có đoạn: “Ngày nay Viện Bảo tàng Quang Trung cũng được xây dựng lại trên khoảng đất sát chân núi cách đèo An khê chừng 3, 4 km về phía đông, khang trang với nét đẹp cổ kính, bên trong có nhiều di tích, có nhiều tài liệu được sưu tầm từ khắp nơi gom về”. Không biết cái Viện Bảo Tàng vừa nói tọa lạc ở đâu, chứ khoảnh đất sát chân núi cách đèo An khê chừng 3, 4 km về phía đông… làm gì có cái Viện Bảo Tàng Quang Trung… khang trang với nét đẹp cổ kính (!).

Nói là được xây dựng lại thì cũng không phải vì trước nay chưa có…  Tôi cũng có cái vui khi đọc bài viết về mối tình vương giả của vua Quang Trung và công chúa Ngọc Hân. Vua lấy công chúa là tình… vương giả chắc rồi, còn gì phải nói nữa. Khen phò mã tốt áo mà người đời còn bảo là dư thừa, huống chi thời xưa, tình yêu không đến trước hôn nhân. 

Dường như lâu lắm đã có người nói, vua Quang Trung có một điều làm cho chúng ta thán phục là ngài đã lập lên hai Hoàng hậu là Chánh cung Hoàng hậu Phạm Thị Liên và Bắc cung Hoàng hậu Lê Ngọc Hân. Tôi cứ nghĩ mãi, vì sao mà mình thán phục cái việc đó? Tưởng rằng, không chê mà cũng không khen mà chỉ quan tâm đến những gì vua Quang Trung đã làm được cho dân cho nước. Chẳng hạn, việc người lên ngôi vua với niên hiệu Quang Trung không là việc làm hoàn toàn hợp lý, hợp tình, tuy nhiên lịch sử và lòng dân chấp nhận khi người chiến thắng vẻ vang quân xâm lược Mãn Thanh. 

Tôi được đọc bài “Tây Sơn Bình định và Quan Tổng Ðốc Thoi Tây”. Người Bình định ở lớp tuổi của tôi biết khá rõ về quan Tổng đốc Hoàng Yến. Trước khi là Tổng đốc Bình định, cụ là Tri huyện Bình khê, quê  quán  của  chúng  tôi.  Cụ    một  vị  đường  quan  giỏi  Pháp  văn,  thông  Hán  học,  thích  hát  bội  Bình định…, đã lưu lại nhiều tiếng tốt ở địa phương này. Còn việc cụ hay “thoi Tây” thì trong chúng tôi chưa có ai biết cả. 

Ở Bình định có câu ca dao: “Ai về Bình định mà coi – Con gái Bình định múa roi, đi quyền”, và mỗi khi nói về Bình định người ta thường dẫn câu này đến độ nhàm chán, làm như dân Bình định toàn là dân giỏi võ, ai cũng thạo nghề đánh đá. Còn cái câu: “Ai về Bình định mà coi – Ông quan Tổng đốc… thoi Tây dài dài” thì trước giờ không nghe nói đến. Thực ra, đây là một câu… “tân chế”, sai vần, và chữ “dài dài” là chữ của người miền Nam đời sau này, người Bình định không hay dùng. Nếu đổi vị trí hai chữ “Thoi Tây” thì câu lục bát trên được cái hợp vần, nhưng khổ nỗi ý nghĩa lại trái ngược hoàn toàn. Khó lòng thay! 

Về cụ Hoàng Yến, trong phần mở đầu của cuốn sách “Nhà Tây Sơn” nhà thơ Trường Xuyên (Quách Tấn) có viết:  

“Gia đình tôi ở ấp Tây sơn hạ (Bình khê hiện thời) đã chín đời. Trong nhà trước đây có hai bộ sử chép tay về nhà Tây Sơn (Tây Sơn dã sử), một của người Bình định viết, một ở Bắc đưa vào. Thời Pháp thuộc, cụ Hoàng Yến làm Tri huyện Bình khê mượn xem rồi tịch thu mất (tịch thu vì là… đồ quốc cấm), cho nên những gì tôi viết ra đây là viết thuộc lòng, nghe sao viết vậy mà thôi”. (Có thể xem Ðặc san Tây Sơn Xuân 1996, trang 33, bài  “Di Tích và Truyền Thuyết về Nhà Tây Sơn”)  Tôi có nói chuyện với một vài đồng hương về ý định viết ra những ý kiến trên đây thì một ông bạn già nửa đùa nửa thực vỗ nhẹ vào lưng tôi mà rằng: 

- Nghỉ đi, viết chi cho mỏi tay, mỏi lưng. Viết về lịch sử đã là khó, mà viết về nhà Tây Sơn lại còn khó hơn nữa đó. Bộ không nghe người ta nói, muốn viết về Tây Sơn Bình định phải sinh ra và lớn lên ở Bình định, phải có bước chân đến trường học chữ và học sử Việt nam và…, lão có đủ tiêu chuẩn không mà tính “múa rìu qua mắt thợ”? 

Tôi cười vui với ông bạn. Tôi chậm rãi nói cho ông bạn già rõ là tôi đâu có muốn múa rìu, bởi biết rõ sức mình đâu có vác nổi rìu mà múa với men! Chuyện hiện thời, chuyện trước mắt nhiều khi mình nói lại cũng sai đầu, sai đuôi, nhãn quan có khác gì “thầy bói xem voi” thì làm sao mà viết chuyện xưa, chuyện lịch sử cho chính xác. Vẽ vời, đặt chuyện… mang tội chết! Thành ra, mình biết điều gì, có ý kiến gì, suy nghĩ ra sao thì viết ra để chia sẻ với đồng hương, đâu có viết văn, viết sử gì mà lo ngại. Ðó cũng là “tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri” vậy mà. 

Mình không nô lệ lịch sử, sách vở, không nô lệ cổ nhân. Tưởng niệm Anh hùng Dân tộc là để nhớ công ơn tiền nhân, để học bài học bổ ích cho việc đối nhân, xử thế (người có tài thì để… làm lịch sử), và sau hết là nói lên niềm mong ước một đấng anh hùng kiệt hiệt ra đời, cứu dân cứu nước trong cơn dầu sôi lửa bỏng này…  Ông bạn già thông cảm, cười hể hả: 

- Ờ, vậy thì viết đi, nhớ viết mỗi bữa một chút thôi, kẻo mỏi lưng, mỏi mắt. 

Và những dòng viết này hôm nay đến với quí vị, mong được coi như “một chút tình xuân” gởi đến đồng hương khi năm mới đang thấp thoáng về trên Ðất Khách!  San Diego, tháng cuối năm Ðinh Sửu 1997

Giai phẩm Xuân TÂY SƠN Mậu Dần 1998 

 

QUANG TRUNG HOÀNG ÐẾ NHÀ CÁCH MẠNG THỜI ÐẠI THIÊN TÀI QUÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ MỘT ÐẠI ANH HÙNG DÂN TỘC

Tác giả: Thiện Ý 

Hàng năm vào dịp năm hết Tết đến, người Việt hải ngoại ngoài việc chuẩn bị đón Xuân vui Tết cổ truyền dân tộc nơi quê người, thường vẫn giữ truyền thống tổ chức lễ kỷ niệm các trận đánh thắng lịch sử của vua Quang Trung chống quân xâm lược Phương Bắc. Là vì các trận đánh thắng này đã diễn ra vào mùa xuân năm Kỷ Dậu 1789, cũng vào những ngày Tết. Và vì thắng lợi lịch sử này do tài điều binh khiển tướng,  mưu  lược  của  một    vua  xuất  thân  từ  hàng  dân  giả  đất  Bình  định  -  Qui  nhơn:  Nguyễn  Huệ  - Quang Trung.

Lịch sử Việt nam đã ghi nhận chiến thắng lịch sử ấy bằng bảy chữ đậm nét: “Vua Quang Trung Ðại Phá Quân Thanh”, với các trận đánh Hà Hồi, Ngọc Hồi… làm quân xâm lược kinh hồn bạt vía, tướng sĩ đa phần bỏ thây nơi chiến địa, Thống soái Tôn Sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín chạy thoát thân về Tàu! Sử gia Trần Trọng Kim viết: “Vua Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn tết Nguyên đán trước, để đến hôm trừ tịch thì cất quân đi, định ngày mồng 7 tháng giêng thì vào thành Thăng long mở tiệc ăn mừng. Ðoạn rồi, truyền lệnh cho ba quân đến nghe lệnh điều khiển…”, và kết cuộc “… Tôn sĩ Nghị nửa đêm được tin báo, hoảng hốt không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáp, đem mấy tên lính kỵ chạy qua sông sang Bắc. Quân các trại nghe tin như thế, xôn xao tan rã chạy trốn, tranh nhau sang cầu, một lát cầu đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông Nhị hà đầy những thây người chết…”(1)

Ðọc lại những trang sử của sử gia Trần Trọng Kim viết về “Nhà Tây Sơn” (1788-1802), có lẽ nhiều người sẽ có chung nhận định với chúng tôi về Nguyễn Huệ – Quang Trung: Nhà cách mạng thời đại, một thiên tài quân sự và chính trị, một đại anh hùng dân tộc. Ðây có lẽ không phải là nhận định mới mẻ gì, vì trước chúng tôi, đã có nhiều người viết về Nguyễn Huệ – Quang Trung như thế. Nhưng dẫu sao, với thành tâm tưởng nhớ công lao tiền nhân với lòng tự hào về những công trạng mà vua Quang Trung đã làm trong lịch sử dân tộc, chúng tôi vẫn viết lại những suy nghĩ của mình, có thể chỉ là sự lặp lại ý tưởng của người khác. 

I.-HOÀNG ÐẾ QUANG TRUNG: NHÀ CÁCH MẠNG THỜI ÐẠI PHONG KIẾN VIỆT NAM 

Là nhà cách mạng thời đại phong kiến Việt nam, vì người thanh niên Nguyễn Huệ đất Bình định – Qui nhơn, với ba mươi sáu tuổi đời, với lòng yêu nước thương dân, đã dám có hành động vượt ra khỏi các luật tắc ý thức hệ phong kiến, chấp nhận hệ quả “Ðược làm vua, thua làm giặc”. Hệ quả là hành động cách mạng của Nguyễn Huệ vì có chính nghĩa nên đã “Ðược làm vua” trăm họ và trở thành Hoàng đế Quang Trung.

Thực vậy, trong bối cảnh một chế độ quân chủ chuyên chế, luật tắc ý thức hệ phong kiến là Tam cương (Quân-thần, phu-phụ và phụ-tử) trong đó đạo vua-tôi là trọng hơn cả. Ðạo này xây dựng trên quan niệm thần quyền, coi vua là con Trời (Thiên tử) thay Trời trị dân. Quyền cai trị này cha truyền con nối (Con vua thì được làm vua, con sãi ở chùa vẫn quét lá đa). Thần dân có bổn phận phục tùng và trung thành với vua, coi vua là biểu tượng quốc gia, trung thành với vua là yêu nước (Trung quân ái quốc), chống lại vua là phản nghịch. Do đó, một trung thần khi phải chết theo vua, vua bảo chết là phải chết, nếu không là bất trung (Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung)…

Những luật tắc phong kiến vừa kể đã ăn sâu vào não trạng người dân và chi phối toàn xã hội. Vậy mà một thanh niên gốc nông dân như Nguyễn Huệ, dù không xuất thân từ “Cửa Khổng sân Trình”, cũng biết rõ hậu quả ghê gớm của hành vi chống lại vương quyền, song đã làm một việc ít ai dám làm. Nguyễn Huệ quả là một nhà cách mạng của thời đại phong kiến. Cuộc cách mạng của Nguyễn Huệ đã thành công vì có chính nghĩa (chống ngoại xâm), tụ nghĩa được nhiều nhân tài và nhân dân ủng hộ. Chính nhờ chính nghĩa mà việc lên ngôi Hoàng đế (Quang Trung) của Nguyễn Huệ trở thành chính danh, mở ra một triều đại mới trong lịch sử Việt nam, Triều đại Nhà Tây Sơn. Về điểm này, sử gia Trần Trọng Kim, sau khi ghi lại việc vua Lê Chiêu Thống và Hoàng Thái hậu cầu cứu quân Thanh và mật dụ của nhà Thanh nhân cơ hội này cướp nước ta, ông viết: “… Vậy nước đã mất, thì phải lấy lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng Ðế, truyền hịch đi khắp nơi, đường đường chính chính, đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp sợ, tướng sĩ nhà Thanh thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy…” và ông kết luận “Vả đánh đuổi người Tàu đi lấy nước lại mà làm vua thì có điều gì mà trái đạo?” (2) 

II.-HOÀNG ÐẾ QUANG TRUNG: THIÊN TÀI QUÂN SỰ VÀ CHÍNH TRỊ 

1.- THIÊN TÀI QUÂN SỰ:

Là vì khi khởi nghiệp, Nguyễn Huệ chỉ là một người dân mặc áo vải, chưa hề được đào tạo từ một trường quân sự hay có kinh nghiệm chiến trường. Thế nhưng qua các trận đánh khởi đầu vào đất Gia định đã bốn lần đại thắng quân Tiêm la (Thái lan), đến trận đại phá 20 vạn quân Thanh, đã chứng tỏ Nguyễn Huệ – Quang Trung quả là Thiên tài quân sự.

Thật vậy đọc lịch sử đã cho thấy mưu trí Trời cho Nguyễn Huệ để phá tan cường địch nhà Thanh. Không trường lớp nào dạy ông, nhưng trước khi ra quân Nguyễn Huệ đã biết cách nắm vững tinh thần tướng sĩ, củng cố được niềm tin tất thắng. Về điểm này, lịch sử có ghi lại, sau nhiều tháng ngày hành quân thần tốc Bắc tiến, ngày 20 tháng chạp năm 1788 thì đến núi Tam điệp. Hai tướng Tây sơn là Ngô văn Sở và Ngô thời Nhiệm đều ra tạ tội với vua Quang Trung. Họ tâu rằng vì quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi, cho nên phải lui binh về giữ chỗ hiểm yếu. Nghe vậy, vua Quang Trung không những không một lời khiển trách, mà cười và nói rằng: “Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu chẳng qua 10 ngày là xong việc…” (3) Và còn định với quân sĩ rằng vào ngày 7 tháng giêng thì vào thành Thăng long mở tiệc ăn mừng chiến thắng. Trong trận đánh Ngọc hồi vào tờ mờ sáng ngày mồng năm tháng giêng năm 1789, quân Tàu bắn súng ra như mưa “Vua Quang Trung đã sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm một, lấy rơm cỏ giấp nước quấn ở ngoài, rồi sai quân kiêu dũng cứ 20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt một con dao nhọn, lại có 20 người cầm khí giới theo sau. Vua Quang Trung cỡi voi đi sau đốc chiến, quân An nam vào gần tới cửa đồn, bỏ ván xuống đất, rút dao ra, xông vào chém, quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn xao tán loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Nam thừa thế đánh tràn đi, lấy được các đồn…” (4)

2.- THIÊN TÀI CHÍNH TRỊ:

Là vì xuất thân là người thanh niên áo vải đất Bình định, không được học cao hiểu rộng, song Nguyễn Huệ từ khi khởi nghiệp đến lúc lên làm vua cai trị muôn dân, Quang Trung Hoàng đế đã chứng tỏ là một người có mưu lược chính trị Trời cho. Thật vậy, để tạo chính nghĩa thu phục nhân tâm và tạo thế chính đáng cho việc xưng vương, nắm quyền trị vì muôn dân, những sự kiện sau đây đã chứng tỏ vua Quang Trung có thiên tài về chính trị:

- Một là sau khi đem quân ra Bắc Hà diệt họ Trịnh chuyên quyền, Nguyễn Huệ vẫn tôn vua Lê. Sử gia Trần trọng Kim nhận định “Ấy là đã có sức mạnh mà đã biết làm việc nghĩa vậy”.

- Hai là khi đem quân ra Bắc hà diệt Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền , vẫn không dứt nhà Lê, đặt Giám đốc để giữ gìn tông miếu tiên triều. Theo sử gia Trần trọng Kim “Như thế thì cách ở với nhà Lê không lấy gì làm bạc”.

- Ba là trước khi đại phá quân Thanh ,vua Quang Trung đã có ý định hoà hoãn với cường quốc phương Bắc và sau đó đã thực hiện việc triều cống và xin phong vương, do biết lượng sức và tính đến sự lợi hạị cho quốc gia và thần dân. Trước khi tiến vào Thăng long, Vua Quang Trung đã nói rõ ý định với tướng sĩ rằng: “..Chúng là nước lớn gấp 10 lần nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta hại nhiều, ta làm sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này ta phải nhờ Thì Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Ðợi mười năm nữa nước ta dưỡng được sức phù cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa.” (5) Sau khị đại thắng quân Thanh, Vua Quang Trung đã thực hiện ý định vừa kể bằng một kế sách ngoại giao khôn khéo mua chuộc được các cận thần nhà Thanh (Phúc Khang An , Hoà Thân …) để vua Thanh chấp nhận cầu phong của vua nước Nam, vừa giữ được thể diện trước văn võ bá quan (cho người đóng vai Quang Trung giả qua triều yết vua Thanh…)

-  Bốn    mặc  dầu đã được sắc phong của nhà Thanh, nhưng vua Quang Trung vẫn hành xử theo cách Hoàng Ðế, lập công chúa Ngọc Hân con vua Hiến Tông nhà Lê làm Bắc cung Hoàng hậu ,tin dùng các cựu nhân tài cận thần nhà Lê. Tóm  lại  như  lời  nhận  định  của  sử  gia  Trần  Trọng  Kim  về  vua  Quang  Trung:  “Vua  Quang  Trung  nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng ,lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra lấy Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng .. .” (6) 

III.- HOÀNG ÐẾ QUANG TRUNG: MỘT ÐẠI ANH HÙNG DÂN TỘC 

Ðọc lịch sử ai cũng biết là mặc dầu vua Gia Long có công thống nhất đất nước, và đối với Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn bị coi là kẻ thù đến độ sau khi diệt được nhà Tây Sơn, Gia Long đã có những hành vi trả thù tàn tệ và bất nhẫn. Thế nhưng, vua Quang Trung vẫn được lịch sử và nhân dân Việt Nam mãi mãi coi là vị Ðại Anh Hùng Dân Tộc, còn Gia Long thì không… Ðiều này cho thấy tính khách quan của lịch sử và sự đánh giá công tội của các vì vua và triều đại rất công minh. Là đại anh hùng dân tộc, vì những phẩm chất và công trạng phi thường của vua Qung Trung như đã được lịch sử ghi nhận và đánh giá, đã là niềm kiêu hãnh và tự hào chung cho dân tộc Việt Nam qua nhiều thế hệ. Vì tất cả công trạng và phẩm chất ấy của vua Quang Trung đã tận hiến cho dân, cho nước, cho dân tộc và cho Tổ quốc Việt nam. Tiếc thay nhân tài bạc mệnh, vua Quang Trung mới trị vì được bốn năm thì băng hà, ở vào tuổi đời 40 (1752-1792). Vua Quang Trung mất sớm là một mất mát lớn lao cho dân, cho nước, và cho lịch sử Việt nam. Bởi vì, những cải cách sáng tạo về nội trị có tính cách mạng đầy triển vọng mới bắt đầu, và ý định đánh Tàu đòi đất (Lưỡng Quảng) chưa kịp thực hiện, thì vua Quang Trung đã mất. Vì vậy, đã có giả định rằng, nếu vua Quang Trung sống lâu hơn, chắc chắn lịch sử Việt nam đã ghi được nhiều điểm son rất đáng tự hào trong triều đại Nhà Tây sơn… Giả định này có cơ sở, vì Nguyễn Huệ – Quang Trung đã chứng tỏ những tư chất hiếm hoi: nhà cách mạng thời đại, thiên tài quân sự và chính trị, và là một đại anh hùng dân tộc.

Hàng năm mỗi độ xuân về, nếu những người đồng hương Bình định vốn có niềm tự hào tự nhiên về quê hương mình đã sản sinh ra một đấng Anh hùng, thì toàn dân Việt cũng có niềm kiêu hãnh về đất nước mình đã có một đại anh hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung. Tự hào và kiêu hãnh chưa đủ, mà cần tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn đối với vua Quang Trung nói riêng và các anh hùng trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, qua các buổi lễ kỷ niệm long trọng hàng năm, mang màu sắc và tính chất cổ truyền dân tộc. Ðiều này rất quan trọng, để con cháu chúng ta ở hải ngoại không quên nguồn gốc rất đáng kiêu hãnh và tự hào về quê hương đất nước Việt nam của mình, đã sản sinh ra nhiều anh hùng dân tộc và các nhân tài trên mọi lãnh vực, qua mọi thời đại, từ quá khứ đến hiện tại và tương lai. 

Houston, Xuân Kỷ Mão 1999

 

Ghi chú đánh số từ 1-6 trong bài là những trích dẫn trong Việt Nam Sử Lược của Sử Gia Trần Trọng Kim, phần viết về Nhà Nguyễn Tây Sơn, Quyển II, Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu xuất bản lần thứ nhất 1971. Nhà Xuất Bản Ðại Nam in lại tại hải ngoại.

Ý Ðặc san QUANG TRUNG TÂY SƠN Xuân Kỷ Mão 1999

VUA QUANG TRUNG CẦU HÔN CÔNG CHÚA ÐẠI THANH

Tác giả: Hồ Văn Quang 

Rất nhiều tài liệu sử học ghi lại về triều đại Tây Sơn, trong đó có xác nhận việc Vua Quang Trung xin cầu hôn Công chúa nhà Thanh. Ðây là nàng công chúa đẹp nhất và cũng là người con gái được cưng chiều nhiều nhất của Càn Long. Nhưng, đối với chuyện này, đã có một số ít sử gia phủ nhận, cho rằng việc cầu hôn chỉ là việc đang còn trong dự tính. Dầu sao tất cả mọi vấn đề đều mang ý nghĩa của màu sắc chính trị! Bài dươi đây, người viết chỉ xin ghi lại những gì sưu tầm được, đúng hay sai, tất nhiên vẫn tùy vào cách phán xét theo suy nghĩ của từng độc giả.

Tập  2,  trang  208,  của  bộ  “Tây  Sơn  Liệt  Truyện”,  xuất  bản  1986  tại  Bình  định  ghi  rằng:  “Vua  Quang Trung sau khi quyết định đánh Trung Quốc, đã sai bề tôi là Chiêu Viễn Vũ Văn Dũng đi sứ sang nhà Thanh, dâng biểu xin cầu hôn và đòi lại đất 2 tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây. Ðiều đó không phải là do bản tâm của vua Quang Trung, chẳng qua chỉ muốn xem thử ý của nhà Thanh ra sao mà thôi, nhưng vừa lúc ấy Quang Trung bị bệnh rồi mất”.

Quyển 30, tờ 41b, “Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện” ghi: “Năm Nhâm Tỵ (1792), vua Quang Trung sai làm biểu văn sang nhà Thanh cầu hôn, để dò ý vua Thanh và cũng để mượn cớ gây mối binh đao, nhưng vua bị bệnh không đi được”.

Cả hai tài liệu, cho chúng ta thấy:Việc vua Quang Trung cầu hôn Công chúa nhà Thanh mới chỉ là việc dự định, và trong đó cũng còn mang thêm ý đồ bành trướng lãnh thổ Ðại Nam về phương Bắc, bằng mọi cách đòi lại cho được 2 tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây. Ðây là hai tỉnh thuộc nước Nam Việt thời Triệu Ðà (năm 207 trước Tây lịch) mà nhà Hán đã thôn tính.

Năm 1913, báo “Trung Bắc Chủ Nhật”, số Tết Quí Mùi, trang 20, 21, 28 dưới tựa bài: “Phải chăng vua Càn Long nhà Thanh đã bằng lòng trả lại cho vua Quang Trung tỉnh Quảng Tây để làm nơi đóng đô, và gả Công chúa”. Tác giả bài báo dựa vào gia phả dòng họ Vũ, do ông Vũ Vĩnh Thứ, cháu ba đời của Vũ Văn Dũng soạn năm Bính Ngọ, niên hiệu Tự Ðức 22 (1869), trong đó có kèm tờ sắc mệnh của vua Quang Trung gửi Vũ Văn Dũng (tháng Tư Âm lịch – 1791), do một người thân cận của nhà vua cử đi (từ Phụng Hoàng Trung đô – Nghệ An). Chính người này trực tiếp mang đến trao tận tay cho Vũ Văn Dũng trong khi ông nầy đang nghỉ tại tư dinh. Bản sắc mệnh với nội dung như sau:

“Sắc,

Hải Dương Chiêu Viễn Ðại Ðô đốc Ðại Tướng quân Dực vận công thần Vũ Quốc Công tiến gia lĩnh Bắc sứ kiêm toản ứng tấu thỉnh Ðông, Tây Lưỡng Quảng dĩ khuy kỳ tâm, công chúa nhất vị dĩ kích kỳ nộ.

Thận chi! Thận chi!

Kỳ dụng binh hình thế tận tại thử hành.

Tha nhất tiền phong.

Khanh kỳ nhân dã.

Khâm tại sắc mệnh.

 Quang Trung tứ niên, tứ nguyệt, thập ngũ nhật.”

(Sắc,

Hải Dương Chiêu Viễn Ðại Ðô đốc Ðại Tướng quân Dực vận công thần Vũ Quốc Công được tiên phong làm Chánh Sứ đi Trung Quốc, kiêm lãnh toàn quyền trong việc tâu thưa để xin lại đất hai tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây để dò ý và cầu hôn với một công chúa để khiêu khích tự ái.

Cẩn thận đấy! Cẩn thận đấy!

Hình thế dụng binh là ở chuyến nầy cả.

Ngày kia làm tiên phong chính là khanh đấy.

Sắc mệnh nhà vua.

Quang Trung năm thứ tư, tháng tư ngày mười lăm.)

Vũ Văn Dũng nhận sắc, dẫn đầu đoàn sứ thần Ðại Nam sang Trung Hoa, khi đến nơi, được vua Càn Long cho bệ kiến. Hình thức của việc cầu hôn cũng như xin đất đóng đô đều nằm trong âm mưu đòi lại đất xưa của Triệu Ðà, nếu giả thử vua Trung Quốc không chấp thuận, tất nhiên vua Quang Trung có cớ xuống chỉ giao  cho    Văn  Dũng  giữ  việc  dụng  binh  đánh  Ðại  Thanh  lấy  lại hai tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây. Theo như tài liệu trong gia phả của họ Vũ, thì vua Thanh là Càn Long đã phê ngay vào tờ biểu, rồi trao ngay cho triều thần đình nghị. Ngay ngày hôm sau, Vũ Văn Dũng được vua Thanh gọi vào bệ kiến tại Ỷ Lương Các. Vũ Văn Dũng được vào gặp vua Thanh, tiếp tục tấu xin Càn Long chuẩn cho hai yêu cầu nêu ra ngày hôm trước.

Ngoài mặt vua Càn Long coi như chuẩn cho cả hai điều kiện, nhưng trong thâm tâm chỉ muốn trả lại một tỉnh Quảng Tây, gọi là làm đất đóng đô mà thôi, và cũng còn được gọi là “của hồi môn” cho con gái cưng của mình. Ðể chuẩn bị chu đáo cho mọi diễn biến cuộc hôn nhân, vua Càn Long giao cho bộ Lễ, sửa soạn nghi thức cưới gả, chọn ngày tốt cho Công chúa sang nước Nam vầy duyên cùng vua Quang Trung. Mọi việc tiến hành đúng theo như dự tính… Nhưng, ở đời mọi việc như đều do trời sắp xếp, vì “mưu sự tại nhân, mà thành sự tại thiên”, cho nên chỉ mấy ngày sau, Vũ Văn Dũng nhận được mật tin từ Phú Xuân: “vua Quang trung băng hà!”

Cả đoàn sứ thần nước Nam âm thầm, buồn bã, cấp tốc trở lại Phú Xuân. Mọi người phải xem như không có chuyện gì xảy ra, giấu nhẹm hung tin, và chỉ trình lên vua Thanh: “Cả sứ đoàn phải về nước gấp, để phụng mạng mới”.

Tất cả những tài liệu còn lại mà chúng ta hiện có, việc cầu hôn công chúa Thanh cho vua Quang Trung chỉ có như vậy! Nhưng, ông Nguyễn Thượng Khánh muốn tô vẽ thêm, ông cho rằng vấn đề hôn lễ trọng đại giữa hai nước này, đã được vua Quang Trung cũng như vua Càn Long thỏa thuận chuẩn bị một cách chu đáo tại cửa ải phân chia hai nước, ngay cả lễ động phòng hoa chúc cũng phải được diễn ra luôn tại nơi đây. Sự bịa chuyện này, ông Khánh, rõ ràng có chủ đích, vì “nó” là việc chứng minh thêm cho luận cứ của mình: rất có lý và hấp dẫn hơn khi gán tội bà Hoàng Hậu Ngọc Hân “vì trong cơn ghen tức mà phải giết chồng bằng chén thuốc độc…” (xem thêm Nghi Án Liều Ðộc Dược- Trí Thức Việt Nam Cuối Thế Kỷ 18, tác giả Hồ Văn Quang).

Bộ “Bang giao lục” thời Tây Sơn có ghi lại 3 bức thư và một bài biểu (Thỉnh hôn biểu), sau đây xin trích lại lời dịch bài biểu cầu hôn của vua Quang Trung như sau: “Thần là kẻ áo vải, được nhờ ơn cả, lạm giữ cõi Nam. Từ khi vào triều cận nơi cung khuyết (Phạm Công Trị giả vua Quang Trung vào chầu Càn Long năm 1790) đã được đặc cách làm lễ bảo kiến vấn an. Lại được ban thưởng trọng hậu, ân sủng dồi dào. Phàm là việc mà cõi phương Nam từ xưa nay chưa ai từng được ưu hậu như thần cả.

Ðến khi thần về nước, lại được đặc ân mọi bề, cấp ban thánh chỉ, ơn cao lồng lộng của nhà vua thật không sao kể ra cho xiết! Thần là kẻ nhỏ nhoi ở nơi hẻo lánh xa xôi chẳng ngờ lại được hưởng ân lộc đến thế! Tấm lòng canh cánh ngày đêm mong sao sớm được đền đáp. Song thần chưa có dịp để thực hiện. 

Chỉ  mong  được  thường    cửa  trời,  gần  nhìn  bóng  nhật,  nhưng    phương  xa,  núi  sông  cách  trở.  Sức muốn làm nhưng không được như ý. Hễ qua khỏi cửa ải Nam Quan thì thân cũng hóa thành sơ.

Thần những mơ tưởng khúc nhạc quân thiều, ngóng trông vân hán, hằng e mình rồi cũng đến như hạng tầm thường, bị liệt ra ở ngoài vòng thanh giáo làm phụ lòng công ơn trời bể của Thánh từ!

Trộm nghĩ, thánh nhân tỏ lòng giúp đỡ phiên thần để nối lại chỗ sơ thành ra thân thiết, phần việc đều cư xử như đạo xưa.

Nước thần ban đầu, vua Kinh Dương Vương chịu mệnh nơi Viêm Ðế, bà Âu Cơ kết duyên cùng vua Lạc Long. Tổ nước Văn Lang mở cõi Giao Chỉ, trăm trai nối dõi, từng làm phên dậu phía Nam, may nhờ phúc ở Trung Hoa, được nổi danh là văn hiến thế đại, dẫu đã xa nhưng sử sách còn đủ để khảo xét. (Xem thêm Các vua Hùng, cùng tác giả đăng trong tạp chí Hạc Trắng, số ra tháng 8/97 của Hội Cao Niên Á Mỹ).

Từ khi nhà Tống dấy lên, ràng buộc nước thần, nên mới ra ngoài vòng đức hóa, không liệt vào hạng minh đường, chỉ để như hạng hành bộc khác mà thôi.

Nhà Thanh ta được trời quyết cố, rộng đến muôn phương, chỗ nào có bóng mặt trời soi đến đều coi muôn dân như chung một bọc, như con một nhà.

Kính nghĩ, Ðại Hoàng đế Bệ Hạ đức ngang với trời đất, đạo cao hơn vua Hiên vua Nghiêu, vỗ về cho chư hầu mến phục, dịu dàng cho người xa hướng về không phải là kiểu tầm thường như các triều đại gần đây. Thần lạm được thánh thượng coi như con ruột, liệt vào hạng thân vương. Phận này, dù tận nơi xa khuất, nhưng tình ấy vẫn kể như vô cùng.

Thiết nghĩ, muôn vật đều không giấu mình được với trời đất. Con cái không thể giấu được tính với mẹ cha, thì chuyện riêng của gia đình cũng không dám che dấu được với bậc chí tôn. Mới đây, nhà thần gặp việc không may (Mẹ vua Nguyễn Thị Ðồng mất năm 1790, Chánh cung họ Phạm mất năm 1791), thiếu người giữ việc chăm lo hương khói. Trên nền xây dựng phong hóa cũng thiếu người đỡ đần. Vậy muốn núp dưới bóng cây ngọc để bám vững vào gốc dân.

Ngưỡng trông thánh triều phát tích từ nơi Trường Bạch, mang đến phúc lành cho con cháu hàng ngàn hàng ức, nối đời phồn thịnh. Lâu nay cứ việc là vua thì chọn những nơi quí hiếm để gả Công chúa chứ không có lệ lập hôn đến các phiên thần ở cõi phương xa. Phép luật đã nghiêm nhặt như thế, thì làm sao có thể vươn tới cành ngọc cho được, chỉ vì một nỗi niềm riêng tư trông ngóng, việc cứ trăn trở mãi không thôi.

Ngẫm mong cành ngọc nhà trời lan rộng đến mọi chốn mọi nơi, ngõ hầu thần được hưởng phúc lành theo dấu gót lân, đem phong hóa quan thư ban ra cho mọi lẽ, những việc tề gia thuận thảo ở chốn gia đình sẽ là mẫu mực để dân trong nước học theo. Tập làm quen với nề nếp chốn Trung Hạ, gạt bỏ thói cũ, khiến thần dân trong nước thỏa niềm ước mong của vòng đức, hóa, cao sang. Mong sao dòng dõi của thần, đời đời được giữ mãi làm phiên phong, hưởng mọi sự tốt lành! Ðó là điều mong lớn nhất của thần!

Do ở phương xa lại có việc xảy ra bất trắc nên thần đã bàn với bầy tôi, ai cũng không dám, nhưng vì thần mà họ đề nghị phải làm. Cửa vua muôn dặm, trông ngắm đăm đăm. Nay đành đánh bạo mà làm, tự nghĩ cũng cần nên cân nhắc, nhưng vì tỏ lòng thành kính, sai kẻ bồi thần sang xin triều kiến thay mặt thần, họ sẽ nói lên nỗi lòng thần muốn bày tỏ.

Mong sao cho được đấng anh minh rủ thương, xét cho thần vì tấm lòng chân thành, trìu mến, tha thứ cho thần những lời mạo muội, táo bạo trong việc xin cầu hôn.

Thần ở biển Nam, ngóng trông sao Bắc xin kính chúc thánh thiên tử sống lâu muôn tuổi, mãi mãi là cha mẹ của dân vạn nước.

Thần xiết bao lo lắng, ngóng mong!”

Người xưa gan dạ hơn người nay nhiều! Vì nước vì nhà, vì giang sơn xã tắc, vì sanh linh, chấp nhận tất cả, không ngần ngại ăn gan rồng, uống mật gấu, để thực hiện cho bằng được chuyện ích quốc lợi dân…

Ước gì vua Quang trung chỉ cần sống thêm chừng vài tháng nữa, chờ đến khi Vũ Văn Dũng đem tin vui về, lúc đó đất nước Việt Nam sẽ rộng lớn hơn nhiều lần như ngày nay, danh xưng Nam Việt thời Triệu Ðà vẫn được dùng lại, kinh đô Phú Xuân nay đang nằm chễm chệ trên đất Quảng Tây! Và dĩ nhiên vị anh hùng Nguyễn Huệ của chúng ta sẽ lập thêm một hoàng hậu nữa… để sánh bước cùng Ngọc Hân Công Chúa, nâng con số lên đến 3! Suy cho cùng, tuy lập hơi nhiều Hoàng Hậu thật, nhưng nếu so với vua Ðinh Tiên Hoàng, hoặc vua Lê Ðại Hành thì vua Quang Trung vẫn còn ít hơn!!! 

Ðặc san QUANG TRUNG – TÂY SƠN Xuân Kỷ Mão 1999 

VUA QUANG TRUNG VÀ CHIẾC HOÀNG BÀO BÍ ẨN

Tác giả: Hồ Văn Quang 

Hơn hai thế kỷ qua, nhiều sử gia, nhiều học giả đã từng tốn nhiều công sức trong việc nghiên cứu của mình,  nhằm  tìm  hiểu  đâu  chính    sự  thật  về  lần  vĩnh  biệt  của  vị  anh  hùng  dân  tộc  Nguyễn  Huệ  vua Quang Trung, vị Ðại Ðế đã làm rạng rỡ cho cơ đồ Việt Nam! Chuyện tức tưởi bước vào cõi vĩnh hằng không phải chỉ dành riêng với cá nhân ông ta mà còn là sự uất ức chung cho cả dân tộc Việt Nam ta. Do đó, vấn đề bàn cãi đâu là nguyên do chính đáng nhất của nó vẫn còn bao trùm bởi chiếc màn dày đặc của sự bí mật. Nếu ai đó đưa ra cân trả lời để kết luận “Nhà vua chết vì bệnh.” thì chúng ta khỏi nói thêm nữa… Hiện tại, người viết bài này chỉ biết kiểm nghiệm lại những gì có trong tài liệu sưu tầm được, để gọi là phần nào đó, ghi góp thêm cho cách giải đáp “thắc mắc” thôi. 

Chuyện “Chiếc áo ấm” mà Càn Long (vua Thanh) cẩn tặng vua Quang Trung để mặc lúc ngự hàn, là một nghi vấn nằm trong những nghi vấn khác mang tính: “khó tin nhưng có thật”, vì chỉ có nó mới có thể nói lên cả một kế hoạch lâu dài của các nhà “lý số” Tàu dưới triều Càn Long quyết hại chết vua ta, để trừ mọi hậu hoạn nơi bờ cõi phương Nam của họ. 

Sách “Ngụy Tây Liệt Truyện” của bộ sử ký “Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện”, quyển 30 trang 42, các sử quan triều Nguyễn ghi như sau: 

“…Một hôm về chiều, Quang Trung đang ngồi, bỗng xây xẩm tối tăm, thấy một ông già đầu bạc từ trên trời xuống, mặc áo trắng, cầm gậy sắt mắng rằng: Ông cha ngươi sống ở đất của Chúa, đời đời làm dân của Chúa, Ngươi sao dám phạm đến lăng tẩm?  Rồi lấy gậy đánh vào trán, Quang Trung mê man ngã xuống, bất tỉnh nhân sự, lâu lắm. Lúc tỉnh dậy nhà vua đem việc ấy nói với quan trung thư Trần Văn Kỷ. Từ đó bịnh chuyển nặng mới triệu quan trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về bàn bạc để dời đô ra đó. Thương nghị chưa xong thì Thế Tổ ta đã lấy lại được Gia Ðịnh, chiếm Bình Thuận, Bình Khang, Diên Khánh, thanh thế chấn động.  Quang Trung nghe được lo buồn, bịnh ngày càng kịch liệt…”   

Ðọc những trang sử này, chúng ta có thể hiểu được ý chính của các sử quan triều Nguyễn, họ muốn dựng lên một huyền thoại, nhằm thóa mạ vua Quang Trung. Dụng ý chính ở đây là để ghép tội, và chứng minh rằng vua Tây Sơn là người: 

Vô đạo và tàn bạo  

Tiếm đoạt thành Phú Xuân, xâm phạm lăng tẩm các Chúa Nguyễn nên bị tổ tiên các Chúa Nguyễn trừng phạt 

Vì đang bệnh mà vua Quang Trung còn phải lo lắng thêm việc con cháu Chúa Nguyễn phục thù, đang chiến thắng tại nhiều nơi, lấn chiếm dần các phần đất phía Nam… và lãnh thổ Tây Sơn ngày một thu hẹp lại. Do đó, nhất định bệnh tình nhà vua ngày một nặng thêm, và rồi nhất định phải chết. 

Dầu có nói gì chăng nữa, họ cũng không thể che giấu hành vi trả thù, một sự trả thù dã man, tàn bạo đối với một triều đại từng làm cho họ xích bích xang bang, sống trong tan tác, cơ hồ như bị hủy diệt luôn. Cho nên khi chiến thắng rồi, họ quên bẵng thời điểm lịch sử 1792 (năm vua Quang Trung mất), tình thế chiến trường đem ra so sánh, binh đội phe Nguyễn Ánh chỉ là một nhóm người nhỏ lẻ tẻ, ô hợp, chưa đủ khả năng chống chọi với đại binh Tây Sơn. 

Sách “Ðại Nam Thực Lục Chính Biên”, là bộ sách sử tuy được cả triều Nguyễn ca tụng, nhưng phần “Ðệ Nhất Kỷ” cũng phải ghi: 

“Tháng 3 năm Nhâm Tý (1792) nhân khi gió Nồm thổi, Nguyễn vương sai tướng là Nguyễn Văn Trương cùng Nguyễn Văn Thành đem chiến thuyền từ cửa Cần Giờ ra đốt phá thủy trại Tây Sơn ở của Thị Nại (Quy Nhơn) rồi rút lui về. Khi lui về Nam, Nguyễn Ánh có ý định chiếm Phan Rang, Phan Rí… nhưng cuối cùng Nguyễn Ánh thấy chống không nổi, phải cho rút quân về lại Gia Ðịnh”. 

Như vậy, giai đoạn từ mùa hè 1792 trở về trước, Nguyễn Ánh đã không thể có mặt trên đất miền Trung, mà phải lo cố thủ Gia Ðịnh, có nghĩa là triều đại Tây Sơn vẫn còn cai quản phần đất từ Gia Ðịnh trở ra Bắc và chính lúc bình yên trên phần đất cai quản của mình như thế này, vua Quang Trung bị bệnh, rồi sau đó băng hà. Không giống như nội dung đoạn sử trên mô tả: 

Về tính huyền thoại huyễn hoặc: bị ông tiên nào đó đánh cho một gậy để phải lâm bệnh  

Về mặt thực tế cụ thể: như lo âu mất đất và bị thua trên chiến trường… 

Chính hai lý do này đã khiến vua Quang Trung buồn phiền, rồi bệnh nặng mà băng hà? 

Thực ra, từ năm 1787 trở đi, vua Quang Trung bận rộn rất nhiều về chuyện nội trị, phần khác cần đối phó loạn lạc tại Bắc Hà! Riêng phía Nam, cũng có chuyện cần cấp giải quyết, vì sự cai quản non kém của Ðông Ðịnh Vương Nguyễn Lữ, tạo điều kiện thuận lợi để Nguyễn Ánh chiếm lại Gia Ðịnh. Và cũng nhờ vào sự bận rộn này mà bắt đầu từ năm 1787 cho đến năm 1792, Nguyễn Ánh mới có cơ hội chiếm lại rồi củng cố thành Gia Ðịnh. Mãi tới tháng 5 năm 1790, Nguyễn Ánh cho Lê Văn Câu (có sách ghi là Lê Văn Quân, một đại công thần, có thứ bậc trên cả Võ Tánh, Nguyễn Văn Thành) đem quân ra đánh chiếm Bình Thuận. Chưa đầy một tháng sau đó, Tây Sơn phản công, quân lính Câu tan tác, phải cấp báo về Gia Ðịnh xin Nguyễn Ánh cho viện binh. Ánh không chấp thuận trong tình thế nguy cấp này, Nguyễn Văn Câu đành rút chạy về Phan Rí, quân binh Tây Sơn tiếp tục truy kích, Câu phải chạy thẳng về Gia Ðịnh…  

Trước một bại tướng từng sống chết với mình, Nguyễn Ánh không những không tìm cách che chở, bảo bọc, mà còn tỏ ra không thương tiếc, nhất định nghị tội, bãi chức… Quá uất ức, Câu đành uống thuốc độc, kết liễu đời mình. Thương thay cho một vị đại tướng tìm lầm chúa thờ! 

Trở lại cái chết của vua Quang Trung, chúng ta không nhìn nội dung trên ở khía cạnh mạ lỵ cá nhân, mà trên sự kiện nguyên do cái chết. Từ đó chúng ta cũng có thể kết luận họ đã xác nhận vua Quang Trung chết vì bệnh. 

Ðọc sử Việt Nam, có rất nhiều cách giải thích khác về cái chết của vị anh hùng dân tộc của chúng ta, nhưng không mấy hấp dẫn. Do đó, người viết phải tìm thấy thêm trong “Ðại Thanh Thực Lục” và “Ðông Hoa Toàn Lục” (Sử Trung Quốc) ghi rằng:”Năm Càn Long thứ 58 (vào tháng 1 năm 1793), Quách Thế Huân khấu báo lên Càn Long là An Nam quốc vương Quang Trung đã chết vì bệnh”.Càn Long, hơi giật mình rồi như đang suy nghiệm một điều gì có thể đúng với dự tính trước đó của ông ta… Phải chăng, vua Thanh đã biết trước được một chuyện gì chăng về cái phải xảy ra với vua Quang Trung? Theo hắn ta phải sớm hơn… (vì khoảng sáu tháng sau ngày vua Quang Trung băng hà, Càn Long mới biết tin). Tại Bắc kinh, trước lúc đó, Vũ Văn Dũng được tin mật, vị trưởng đoàn sứ thần này xỉu đi… Khi tỉnh lại, liền gấp rút từ tạ vua Thanh mà trở về Phú Xuân ngay. Chính sự đau đớn này, Vũ Văn Dũng đã làm bài thơ (Tập san sử địa số 9, Sai Gòn 1968, trang 154):  “Bố y phấn tích ngũ niên phong

Mai cổ thi vi tự bất đồng

Thiên vị Ngô Hoàng tăng nhất kỷ

Bất ư Ðường, Tống thuyết anh hùng”.

Tạm dịch: 

Năm năm dựng nghiệp tự thân nông

Thời trước thời sau có mấy ông?

Có thương, trời cho mươi năm nữa,

Anh hùng Ðường, Tống khó so công!

Vua  Quang  Trung  mất  vào  mùa  Thu  1792,  nửa  năm  sau  Mãn  Thanh  mới  biết,    cho  người  sang  báo tang. Sự chậm trễ này không phải do Quách Thế Trung, mà chính do sự sắp đặt của hoàng triều Phú Xuân muốn làm vậy. Trong “Ðông Hoa Toàn Lục”, quyển 117, trang 5s, đã ghi lại ý trách móc của Càn Long:  “Quốc Vương Nguyễn Quang Bình đã mất ở Nghệ An vào tháng 9 năm ngoái. Vua Càn Long liền quở trách người đưa tin như thế là quá chậm, chắc bây giờ đã tống táng rồi”. 

Sự việc rõ ràng bên trong có dụng ý riêng, vì không phải báo về cái chết của Nguyễn Quang Bình chậm, mà còn sai chỗ nữa (Phú Xuân chứ không phải Nghệ An). Mặt khác, Phú Xuân còn cho làm mộ giả của vua bên Hồ Tây để đón sứ thần Mãn Thanh sang phúng điếu. Sứ Thanh đến, muốn vào thăm Phú Xuân, triều thần Tây Sơn nhất định không cho, còn tìm mọi cách đánh lạc hướng như dẫn họ lên tận Sơn Tây, khi sứ Thanh phát hiện, triều thần Tây Sơn mới chịu dẫn họ trở lại, nhưng chỉ dừng ở Thăng Long mà thôi.  

Những việc nhà Thanh làm rất mâu thuẫn và bí mật, nhất là việc đòi phải vào đến tận Phú Xuân xem xét… Năm 1789, chính Thành Lâm không chịu vào Phú Xuân để phong vương cho vua Quang Trung (lần đầu sau khi Phạm Công Trị đóng vua Quang Trung giả), mà chỉ tại Thăng Long, viện lý do không được trái lệ thường (Các triều đại trước mỗi khi Trung Hoa cho sứ sang nước ta làm lễ phong vương, đều thực hiện tại Thăng Long theo qui lệ của các vua Trung Hoa), nhưng lần này lại đòi vào tận Phú Xuân để điếu tang. Tại sao triều thần Tây Sơn không cho Thành lâm vào Phú Xuân? Cũng như vua Quang Trung luôn cho người giả mình để tiếp xúc với nhà Thanh? Tất cả mọi nghi vấn như thế này chỉ có vua Quang Trung và các cận thần của ông ta mới biết! Ngày nay, chúng ta sao có thể suy đoán rằng: triều thần Tây sơn sợ các thầy địa lý Tàu ếm bùa ếm ngãi nơi mộ vua Quang Trung!(?). Giai đoạn xã hội lúc đó, chuyện xảy ra như thế này không phải là không có. Triều thần Tây Sơn làm sao lường trước chuyện rửa nhục “thất trận Xuân Kỷ Dậu”? (Vào cuối năm 1788, Tôn Sĩ Nghị ngày nào cũng cấp báo tin thắng trận, vua Càn Long vô cùng mừng rỡ, tiệc mừng được liên tiếp tổ chức, ba quân luôn được cất nhắc thăng thưởng (tăng thêm một tháng lương cho đội quân viễn chinh dùng để ăn tết trên xứ Nam). Chính Càn Long đã chọn ngày mồng 5 Tết làm ngày “Hội mừng công, bình định đương An Nam”, các Ðại thần, các Ðại học sĩ, các Văn nhân, quan chức phải tề tựu về kinh đô (Bắc Kinh) cùng nhau xướng họa, bình phẩm, gọi là chúc mừng thọ nhân buổi đầu năm lên vua. Thực ra, đây là vi�! ��c mừng chiến thắng bình định phương Nam. Nhưng, ngày mồng 5 đã làm họ ê chề đau đớn, vì họ không có thắng lợi, mà ngược lại đã bị vua Quang Trung xóa sổ  29  vạn  quân  xâm  lược  tinh  nhuệ  ngay  trên  đất  Thăng  Long!  Tàn  quân  Thanh  khi  chạy  về  lại  nước mình, chỉ còn vỏn vẹn 5.500 người mà đa số đều bị sứt tay gãy gọng! Thật đột ngột, thật bất ngờ, và cũng thật đau đớn nữa… Trước tin này, Càn Long vẫn bình tĩnh, ra lệnh chiêu an Tôn Sĩ Nghị, ghép tội cho Lê Chiêu Thống… Sự thật thế nào cũng phải phơi bày, nên về sau, Càn Long biết được lỗi lầm do Tôn Sĩ Nghị gây nên, mới xuống chiếu nghiêm trị, bãi chức họ Tôn, cho Phúc Khang An thay thế làm lưỡng Quảng Tổng Ðốc, cầm giữ 50 vạn quân để bảo vệ biên giới tiếp giáp với An Nam. Trước tình hình như thế này, vua Quang Trung nhất định không thể khinh xuất, đã phải cùng triều thần nghị bàn quyết định dùng ngoại giao để giải quyết cuộc chiến đầy thầm lặng này.   Ðại Nam Chính Biên Liệt Truyện, quyển 30, trang 36s, ghi lại bức thư của Thang Hùng Nghiệp (quan đạo Tả Giang) viết cho vua Quang Trung như sau: 

“Lê Duy Kỳ đã trốn ra khỏi nước, thiên triều không ủng hộ cho y làm vua nước Nam nữa. Vậy trong khi chưa có người đến gõ cửa quan xin thụ phong, thì “Người” nên đến sớm để được đặc ân…”. 

Cơ hội hòa hoãn với Thanh triều coi như đã nắm chắc trong tay, vua Quang Trung liền cho đòi Ngô Thời Nhiệm vào chầu, giao cho nhiệm vụ thảo thư trả lời vua Thanh.  Cũng trong sách này, quyển 30, trang 136b, 37a, có viết lại lời Phúc An Khang nói về tình hình sau vụ Xuân Kỷ Dậu: 

“…đã chính thấy mắt Nghị trơ trọi một mình chạy về. Sau đó, tai hại được nghe thanh thế của vua Quang Trung nên trong bụng không khỏi rụt rè, lo sợ… bèn nói nhỏ với viên thuộc quan rằng: Nam – Bắc thôi việc binh đao đó là phúc của sinh dân, mà là điều may mắn cho quân ở ngoài bờ cõi. Ta nghe nói viên quan coi việc giấy tờ của nước Nam tên là Ngô Thì Nhậm, bao nhiêu thư từ, từ trước đến nay đều do tay y mà ra. Vậy ngươi nên viết thư trả lời, bảo y chuyên tâm chủ trương việc giảng hòa, gấp rút viết tờ biểu tạ tội đưa sang, ta sẽ ở trong giúp đỡ cho, việc ấy thế nào cũng xong…” 

Vua Quang Trung xuống chỉ bảo Hồ Hổ hầu làm chính sứ sang Trung Hoa, trực tiếp gặp Thang Hùng Nghiệp. Nội dung tờ biểu đã nói lên được tính nhún nhường, kèm theo sự giải thích rõ ràng lý do phế bỏ Lê Chiêu Thống. Riêng việc va chạm với binh đội thiên triều, thì đây chẳng qua là cách đối xử quá vụng về của Tôn Sĩ Nghị mà thôi. Trong đoạn chót, nội dung thư, tỏ ra cứng rắn, không chịu lép vế, có đoạn rất đanh thép, mỉa mai, hăm dọa (Sách vừa dẫn cùng trang): 

“…Tôn Sĩ Nghị lấy địa vị đại thần ở biên cương, lại vì tiền hay vì gái mà đem tờ biểu chương của thần xé ném xuống đất, làm nhục sứ giả, ý muốn động binh dấy quân, không biết việc đó quả do Ðại Hoàng Ðế sai khiến hay do Tôn Sĩ Nghị? Thử hỏi vì một người đàn bà sai khiến mong lập công ở biên cương mà cầu lợi lớn có đáng mặt quân tử không?…” 

Trong phần cuối thư Ngô Thời Nhiệm còn nhấn mạnh: 

“…nay đường đường là triều đình thiên tử, lại đi so hơn thua với một nước rợ nhỏ, ắt là muốn cùng khốn binh sĩ, lạm dụng vũ lực hầu sướng khoái cái lòng tham lam tàn bạo, thì chắc lòng dạ của Thánh Thượng cũng không nhẫn. Còn nếu như cứ chiến tranh kéo dài, tính thế đến nỗi nào thì thật không phải do thần muốn, mà thần cũng không dám nói trước rồi tình thế sẽ đi đến đâu…”

Ðọc xong thơ, Thang Hùng Nghiệp run sợ, nhưng vẫn cố giữ thái độ thật ôn hòa, bình tĩnh nói với Hồ Hổ hầu rằng: 

“…nay không phải là lúc hai nước đánh nhau, sao lại hành sự toàn một giọng giận dữ? Nói như thế là để cần phong vương hay muốn gây rối can qua chăng?…” 

Ðối với chuyện này, Thang Hùng Nghiệp thật dở khóc dở cười, không biết phải làm thế nào, thủ tiêu ngay lá thơ thì không dám mà trình lên Càn Long thì lại càng không dám hơn. Sự việc mà đổ bể, Thang Hùng Nghiệp sẽ mất hết lòng tin của Càn Long đối với Y. Do vậy, từ đó về sau, mọi giao thiệp với Ðại Nam đều về một tay Phúc Khang An bưng bít lo liệu. 

Chuyện ngoai giao giữa hai nước kể từ đó mỗi ngày một mật thiết hơn. Tháng 11 năm 1789, khi đọc tờ biểu  của  Tôn  Vĩnh  Thanh,  nói  về  kết  quả  công  việc  Thành  Lâm  sang  Thăng  Long  phong  vương  cho Nguyễn Quang Bình, Càn Long chỉ thị ngay cho Tôn Vĩnh Thanh (Ðại Thanh Thực Lục, quyển 1342, trang 17a): 

“Trẫm xét Thành Lâm sang Thăng Long tuyên phong, tất chắc mục kích được quốc vương và phong thổ nước ấy, Trẫm muốn đích thân xét hỏi viên quan ấy sẽ được rõ ràng hơn là lời tâu của Tôn Vĩnh Thanh, phải cho ngay Thành Lâm tiến kinh, để Trẫm hỏi…” 

Sứ  Thanh  -  Thành  Lâm,  trong  chuyến  sang  nước  Nam  phong  vương,  vua  Càn  Long    gởi  tặng  vua Quang Trung một chiếc áo choàng màu, trên đó thêu 7 chữ: 

“Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử” 

Và kèm theo một bài thơ trong đó có câu: 

“Phát Dị Nam Bang Y Dữ Quan” (Mũ áo không khác gì người nước Nam). 

Lúc đó không ai có thể hiểu được nội dung “7 đại tự” thêu trong chiếc áo, mang ý gì… Năm 1792, sau khi vua Quang Trung băng hà, Càn Long lại làm thêm một bài thơ khác nhắc lại, ở câu thứ 7 với 7 chữ: 

“Thất Tự Bất Năng Bãi Ai Thuật”  (ý nói: 7 chữ không dứt được niềm xót xa của Trẫm). Và câu:

“Trung Thu Thượng Ức Y Quan Túc”  (Trong mùa Thu trước Trẫm nhớ Quốc vương đã có áo mão đoan trang), và thêm câu: 

“Hoài Nghi Kham Tiếu Ðại Kim Nhân”  (Hoài nghi và đáng cười việc triều trước bắt phải làm việc cống người vàng để thay thế). 

Cái ái ngại và lo lắng nhất khi vua Quang Trung còn tại vị, là Càn Long vẫn cứ đòi gặp cho bằng được con người bằng xương bằng thịt của Nguyễn Quang Bình? Chuyện bí mật vẫn chưa ai có thể khám phá ra vua Thanh có hàm ý gì trong “chiếc áo tặng”? Nội dung lời thơ? Tại sao “7 chữ” đó lại không nói hết được nỗi xót xa?… Tặng “chiếc áo” chắc có lý do “đặc biệt” bên trong, nên Càn Long mới nhắc đi nhắc lại mãi?… Phải chăng triều Minh đòi vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) cống “người vàng”, thì triều Thanh đòi vua Quang Trung cống “người thật”? Vua Càn Long cho vẽ truyền thần Quang Trung (Phạm Công Trị 1790) có mưu mô gì? Có thể Càn Long đã biết người được vẽ hình không phải là Quang Trung thật? Ngược lại, Quang Trung giả xin một bức chân dung của Càn Long thì lại không được?… (bài biểu của sứ đoàn nước Nam nộp cho Phúc Khang An để trình lên Càn Long: “Nay hạ thần muốn xin một bức chân dung của Hoàng Ðế để mang về nước, kính cẩn cung phụng ở điện Kính Thiên”). 

Trên thực tế, Mãn Thanh, không hề đặt điều kiện tiền bạc cho sự bang giao giữa 2 nước. Không những bãi bỏ lệ cống người vàng mà còn chịu chi phí rộng rãi, nồng hậu mọi khoản tiếp đón cho cả đoàn sứ thần nước Nam cả chuyến đi lẫn chuyến về. Nhất định không thể sai lầm khi có nhận định rằng ở đằng sau bộ mặt dễ thương đầy vẻ hiếu hòa kia, sẽ có một âm mưu gì thật đáng sợ? Trả thù? Càn Long đang ráo riết thi hành một kế hoạch, và chưa có cơ hội bộc lộ ra bên ngoài?… 

Mùa Thu 1792, vua Quang Trung băng hà, triều thần Tây Sơn mới có thể khám phá ra được ý nghĩa của “7 đại tự” kim tuyến thêu trong “chiếc áo” tai ác kia!Theo cách chiết tự và diễn nghĩa từ 7 chữ “Xa Tâm Chiết Trục Ða Ðiền Thử” đã có ý nói rõ: Nguyễn Huệ chết vào năm Tý. Vì chữ “Xa” và chữ “Tâm” đem ghép lại là chữ “Huệ”; “Chiết Trục” là gẫy trục; “Thử” là chuột mà chuột là “Tý”, hay năm Tý… Như thế, phải chăng từ năm 1790 trở về trước, Càn Long đã đoán được số mạng của vua Quang Trung sẽ mất vào năm Tý? Chúng ta có thể đưa ra hai cách suy nghĩ để lý giải lập luận này: 

1).- Càn Long là một vị vua giỏi nhất, thông minh nhất của Thanh Triều, như thế về thuật số, bấm độn, tính quẻ, ông ta không thể không tinh thông. 

2).- Chính Càn Long là người có âm mưu và dự mưu giết cá nhân vua Quang Trung từ lâu, và đã dùng thuật số ếm vào chiếc áo bào, hay gài độc vào 7 đại tự kim tuyến để vua Quang Trung khi mặc vào sẽ bị chất độc khuếch tán từ từ. 

Cho đến hôm nay, đối với việc ra đi của vua Quang Trung vẫn còn là chuyện bí mật, chưa một ai có thể giải đáp được những câu hỏi: “Tại sao nhà vua lại chết vào lúc tuổi đời đang sung mãn (đang đi vào độ tuổi 40), công danh, thắng lợi cứ dồn dập ập đến? Nhà vua đã chết vì bệnh? Hay chết vì bị đầu độc, bị ếm bùa ngãi của Càn Long? Và cũng có thể chết vì bức chân dung của Phạm Công Trị vẽ bằng một loại mực có pha hóa chất cực độc cộng thêm việc dùng bùa chú ếm vào chân dung đó? Hay chết vì những hoạt động tình báo của đối phương? (kẻ thù gài điệp viên vào cạnh bệ rồng? Cũng có thể là sự trả thù của con cháu nhà Lê? Của Nguyễn Ánh? Và cũng có thể là do đoàn sứ bộ của Thành Lâm (Thành Lâm là một người rất giỏi thuật số hồi ấy)? Sau cùng cũng có thể là sự ám hại từ phía Nguyễn Nhạc?…” Tất cả những câu hỏi trên đều phát xuất từ các giả thuyết của một vấn đề: “Cái chết của vua Quang Trung”.

Rốt cuộc, những nhà nghiên cứu chỉ có thể kết luận: 

“Ông ta chết vì bệnh”! 

Thật đơn giản, bị bệnh mà không chữa trị đúng cách, dĩ nhiên chỉ có chết! Không thể có một ai bài bác nổi lập luận này! 

Tình hình chính trị xã hội ở giai đoạn cuối thế kỷ 18 của nước ta thật quá nhiều biến động. Sự xôn xao không những xảy ra ngay trong cung đình mà ngay cả trong dân gian… Bởi vậy theo sau một vấn đề chính thường  được  gài  thêm  những  chuyện  phụ,  nhằm    vẽ  cho  sự  phát  triển  giáo  phái  “Thần  quyền”  của những kẻ lãnh đạo phong kiến… 

Làm sao ngày nay chúng ta không thể không hoài nghi về các tài liệu để lại? Cũng cùng trong một thời gian lịch sử, lại mang nội dung trái ngược nhau? 

Chúng ta có thể tin tưởng ngày chết của một người phải đúng vào ngày giỗ hàng năm do con cháu dựng ra để tưởng niệm. Nhưng, cũng có thể vì một lý do an nguy nào đó, mà con cháu nhất định chọn ngày khác, trùng với ngày qui tiên của người trưởng tộc của họ? Ðây cũng là cách giải quyết mang tính tục lệ của người Việt Nam chúng ta. Ngày vĩnh biệt của vua Quang Trung có thể rơi vào tình trạng này lắm… 

Trong phạm vi bài báo, chúng tôi không thể viết hết mọi chi tiết về chiếc “Hoàng Bào” của vua Quang Trung (do vua Càn Long tặng) được, xin độc giả tìm đọc thêm trong sách “Trí Thức Việt Nam Cuối Thế Kỷ 18″ do tôi tự xuất bản.   

Ðặc san QUANG TRUNG Xuân Canh Thìn 2000 

NGUYỄN HUỆ VÀ NGỌC HÂN CÔNG CHÚA

Tác giả: Doãn Quốc Sĩ   

Thuở xưa đã có lần tôi tới huyện Bình Khê viếng thăm ngôi nhà cũ của Bình Ðịnh Vương Nguyễn Huệ và ngước nhìn lên đèo An Khê mà người dân quanh vùng gọi là đèo Chàng Háng – Ý muốn nói leo đèo này cứ phải chàng háng mà leo từng bước vất vả lắm! 

Qua đèo An Khê vẫn theo quốc lộ 19, sẽ tới miền Gia Trung thuộc Pleiku. Sở dĩ mệnh danh miền này là Gia  Trung      con  suối  Ya  Yung  chảy  qua  đây.  Người  thiểu  số  địa  phương  gọi  con  suối  này    Ya Yung, khi chuyển sang tiếng Việt Nam thành Gia Trung. (…)

Truyện cặp danh nhân Nguyễn Huệ và Ngọc Hân Công chúa.  

1. NGỌC HÂN CÔNG CHÚA (1770-1803) 

Về Ngọc Hân Công Chúa, sách Việt Nam Danh Nhân Từ Ðiển của soạn giả Nguyễn Huyền, do cơ sở Zieleks xuất bản năm 1981, chỉ ghi ngắn gọn như sau:  Ngọc Hân Công Chúa tục gọi là Chúa Tiên là con gái út vua Lê Hiển Tông (1770-1803), thông kinh sử, thạo âm luật và sành văn quốc âm. 

Năm Bính Ngọ (1786) nàng được gả cho Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ khi ông đem quân ra Bắc tỏ ý phò Lê. 

Năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Ðế, bà được phong làm Bắc Cung Hoàng Hậu. 

Vua Quang Trung mất vào năn Nhâm Tí (1792), tính ra bà ăn ở với nhà vua được 6 năm, sinh hạ được một trai và một gái. 

Có truyền thuyết cho rằng sau khi nhà Tây Sơn đổ, bà đem hai con về sống lẩn lút trong tỉnh Quảng Nam, sau vì có người chỉ điểm, bà và các con đều bị nhà Nguyễn bắt giết. 

Tương truyền bà đã làm rất nhiều thơ văn, nhất là thơ Quốc âm, nhưng nay phần nhiều đều bị thất truyền, chỉ còn lưu lại hai áng văn với lời lẽ lâm ly thống thiết phơi bày nỗi lòng đau đớn, thương nhớ của bà đối với chồng. Ðó là bài “Văn Tế Vua Quang Trung” và bài “Khóc Vua Quang Trung” tức Ai Tư Vãn theo thể song thất lục bát. 

Nhưng nếu tìm đọc Việt Nam Thi Văn Giảng Luận của giáo sư Hà Như Chi xuất bản vào đầu năm 1951, chúng ta còn được biết thêm những chi tiết quí giá khác về tiểu sử Ngọc Hân Công Chúa như sau: 

Bà là vị Công Chúa thứ 21 của vua Lê Hiển Tông, mẹ là Nguyễn Thị Huyền, người làng Phú Ninh, tục gọi là làng Nành, tổng Hà Dương, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Từ nhỏ ở trong cung bà đã tập rèn kinh sử và giỏi nghề thi văn. Năm Bính Ngọ (1786) khi Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc tỏ ý phù Lê diệt Trịnh, vua phong cho ông chức Nguyên Soái, tước Uy Quốc Công và gả Ngọc Hân Công Chúa cho. Bà Ngọc Hân đã theo chồng về Thuận Hoá. 

Năm Mậu Thân (1788) Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Ðế đặt niên hiệu là Quang Trung rất quí mến bà và đối đãi tử tế với con cháu nhà Lê. 

Năm Nâm Tí (1792) Vua Quang Trung mất bà mới ngoài 20 tuổi và có hai con: một trai, một gái. 

Có người nói rằng sau khi nhà Tây Sơn mất, vua Gia Long lấy bà Ngọc Hân không kể lời can gián của triều thần. Có thuyết khác cho rằng bà mất sau khi nhà Tây Sơn mất, chính ông Phan Huy Ích có làm 5 bài văn tế để đọc trong những tuần tế tại điện bà Ngọc Hân. Triều đình Tây Sơn có làm lễ truy tôn miếu hiệu cho bà là Như Ý Trang Thuận Trinh Nhất Vũ Hoàng Hậu. 

Bài “Khóc Vua Quang Trung” gồm 164 câu, ôn lại cuộc lương duyên của bà với vua Quang Trung, nhớ lại cảnh sum vầy ngày trước và mong ước được đến tận cõi tiên để dâng lên nhà vua những vật kỷ niệm… 

Cảnh khổ ở đời là vậy, đành phải chịu và bà chỉ biết giãi bày tâm sự để trời đất chứng giám. 

Ðọc đoạn thơ ngắn trích dẫn sau đây, chúng ta ai mà không thấy rưng rưng thông cảm với nỗi lòng tan nát tơi bời của bà: 

Nửa cung gẫy phím cầm lành,

Nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ !

Nghĩ nông nỗi ngẩn ngơ đòi lúc,

Tiếng tử quy thêm giục lòng thương.

Não người thay, cảnh tiên hương,

Dạ thường quanh quất, mắt thường ngóng trông.

Trông mái đông: lá buồm xuôi ngược,

Thấy mênh mông những nước cùng mây,

Ðông rồi thì lại trông tây:

Thấy non cao ngất, thấy cây rườm rà.

Trông Nam thấy nhạn sa lác đác,

Trông bắc thời ngàn bạc màu sương.

Nọ trông trời đất bốn phương,

Cõi tiên khơi thẳm, biết đường nào đi.

Kế tiếp đây ta sẽ Sử Xanh Lần Giở tới những trang nói về Nguyễn Huệ.  

2. NGUYỄN HUỆ (1752-1792) 

Vị anh hùng cứu quốc này đã tung hoành suốt 21 năm trường, thoạt khởi binh vào năm Tân Mão (1771) ở Tây Sơn và mất năm Nhâm Tí (1792). 

Trong khoảng 21 năm tung hoành này, lẫy lừng nhất phải kể hai lần chống ngoại xâm. Lần thứ nhất đánh bại quân Xiêm tại Soài Mút vào năm Giáp Thìn (1784); lần thứ hai là trận đánh đuổi giặc Mãn Thanh ra khỏi Bắc Hà vào năm Kỷ Dậu (1789) để thống nhất nước nhà. 

Tục danh Nguyễn Huệ là Thơm, sau đổi tên là Quang Bình. Miếu hiệu: Thái Tổ Võ Hoàng Ðế.  Nhị vị thân sinh ra Nguyễn Huệ là Nguyễn Phi Phúc và Nguyễn Thị Ðồng. Có thuyết cho rằng tổ tiên vốn họ Hồ, gốc ở huyện Hưng Nguyên, trấn Nghệ An; thuở mới vào Qui Nhơn thì ngụ tại ấp Tây Sơn Nhất, thuộc huyện Quy Ninh, nay là phủ Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh, Trung phần Việt Nam. 

Gặp lúc quốc phó Trương Phúc Loan chuyên quyền làm bậy, Nguyễn Huệ cùng với hai anh là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Lữ nổi dậy chống lại chúa Nguyễn.  Năm Bính Thân (1776) khi Nguyễn Nhạc tự xưng là Tây Sơn Vương, Nguyễn Huệ được phong làm Phụ chính. Ðến năm Mậu Tuất (1778), Nguyễn Nhạc lên ngôi vua, lấy niên hiệu là Thái Ðức, Nguyễn Huệ được lãnh chức vị Long Nhưỡng Tướng Quân. 

Vốn có biệt tài về quân sự, kể từ đó Nguyễn Huệ đã giúp vua Thái Ðức hết sức đắc lực trong việc chống lại với chúa Nguyễn: Bốn lần đánh vào Gia Ðịnh, lần nào cũng đại thắng. Chúa Nguyễn đã từng mấy phen chạy trốn ra đảo Phú Quốc và sang Xiêm. 

Lần vào Gia Ðịnh năm Giáp Thìn (1784) gặp đoàn quân Xiêm sang cứu viện cho chúa Nguyễn, Nguyễn Huệ đã dùng kế phục binh thắng được một trận vẻ vang tại Soài Mút thuộc địa phận Mỹ Tho. Hai chục ngàn quân và ba trăm chiến thuyền cứu viện của Xiêm, sau trận ấy chỉ còn vài ngàn tàn binh. 

Tháng Năm, năm Bính Ngọ (1786) theo lời bàn của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ đem hai đạo thủy bộ đánh chiếm thành Thuận Hoá. Danh tướng của họ Trịnh là Hoàng Ðình Thể tử trận. Thừa thế Nguyễn Huệ cho quân đánh hãm luôn hai đồn Cát Doanh (thuộc Quảng Trị) và Ðông Hải (thuộc Quảng Bình), rồi vẫn theo kế hoạch của Nguyễn Hữu Chỉnh tự mình cầm quân kéo thẳng ra Bắc với danh nghĩa phò Lê diệt Trịnh. 

Qua Nghệ An, Thanh Hoá một cách dễ dàng, Nguyễn Huệ đã thắng thủy binh của Ðinh Tích Nhưỡng ở Lỗ giang, đánh rốc vào đại binh của Trịnh Tự Quyền đang đóng giữ tại Kim Ðộng. Ngày 24 tháng Sáu năm Bính Ngọ (1786) trấn Sơn Nam thất thủ, Nguyễn Huệ thừa thắng tiến thẳng tới Thăng Long. Ngày 25 tháng Sáu đánh úp được thủy binh Trịnh dưới quyền Quận Thạc Hoàng Phùng Cơ tại cửa sông Thúy Ái, thắng Trịnh Khải ở Tây Luông. Thế là quân Tây Sơn tiến thẳng vào Thăng Long. 

Ðể tỏ ý phò Lê, ngày 27 tháng Sáu, Nguyễn Huệ dẫn đám tùy tướng vào làm lễ triều yết và đệ trình lên vua Lê Hiển Tông sổ quân dân của Tây Sơn, và vua Lê phong cho Nguyễn Huệ làm Ðại Nguyên Súy Phù Chính Dực Vận Uy Quốc Công. Sau đó nhờ sự mai mối của Nguyễn Hữu Chỉnh vua Lê thuận gả con gái là Ngọc Hân Công chúa cho Nguyễn Huệ. 

Vua Hiển Tông mất. Chịu tang xong, Nguyễn Huệ phải theo Nguyễn Nhạc rút quân về Nam và được vua anh phong cho là Bắc Bình Vương. Trước đấy, sở dĩ Nguyễn Nhạc cũng kéo quân ra Bắc chỉ vì nghi em đó thôi. 

Năm  Ðinh  Mùi  (1787)  hay  tin  Nguyễn  Hữu  Chỉnh  chuyên  quyền ngoài Bắc, Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm tổ chức lại chính trị, để Ngô Văn Sở ở lại trông coi, rồi rút quân về Phú Xuân. 

Xảy tới việc Lê Chiêu Thống vì không phục Tây Sơn, lên nương náu tại đất Lạng Giang và cử người sang cầu cứu nhà Thanh. 

Tôn Sĩ Nghị đem 200.000 quân thuộc bốn tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây, Qúy Châu và Vân Nam từ ba mặt Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn tràn xuống Thăng Long. Một lần nữa Nguyễn Huệ lại đem quân ra Bắc dẹp giặc.  Ngày  25  tháng  Mười một năm Mậu Thân (1788) Nguyễn Huệ làm lễ tế cáo Trời Ðất tại núi Bân Sơn (Thuận Hoá) lên ngôi Hoàng Ðế, đặt hiệu là Quang Trung rồi thống lĩnh thủy bộ đại binh Bắc tiến đáng giặc Thanh. 

Ngày 29 tháng Mười một đến Nghệ An, nghỉ lại 10 ngày để tuyển thêm binh. Binh lực ta bấy giờ chừng 100.000 quân và hơn 300 thớt voi.  Ngày 20 tháng Chạp đến núi Tam Ðiệp, ngày 30 Tết Nguyễn Huệ phân binh thành 5 đạo, tự mình điều khiển trung quân trực chỉ Thăng Long. 

Ngày Mùng Ba Tết Kỷ Dậu (1789) vua Quang Trung dùng kế hư binh, không đánh mà hạ được đồn Hà Hồi.Giờ Thân (khoảng 5 giờ chiều) ngày Mùng Năm Tết, đại quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long. Vua Quang Trung uy nghi ngồi trên voi trận giữa muôn tiếng reo hò của quân dân đại thắng, áo bào sạm đen màu thuốc súng. 

Ngày mùng Bảy Tết, đúng như lời đã hứa, vua Quang Trung truyền mở đại tiệc khao quân ăn Tết Khai Hạ ở Thăng Long.  Trước đó mấy ngày, tại Ðống Ða, tướng Thanh là Sầm Nghi Ðống phải thắt cổ tự tử. Hàng vạn quân giặc chạy bạt vào phía Ðầm Mực, bị voi dày mà chết.  Tôn Sĩ Nghị hoảng sợ chạy về mạn Bắc, đến địa phận huyện Phượng Nhãn phải vứt bỏ ấn tín để thoát lấy thân. Quan quân nhà Thanh tranh nhau qua cầu phao. Cầu sập, chết hại vô số. 

Vua Lê Chiêu Thống cũng theo gót Tôn Sĩ Nghị chạy sang Tàu. 

Như vậy là chỉ trong vòng 5 ngày, vua Quang Trung đã tiêu diệt và quét sạch 400.000 quân xâm lược và phu phen nhà Thanh ra khỏi bờ cõi. Thật là một chiến công vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử nhân loại, so với phương tiện chiến tranh thời bấy giờ. 

Tưởng cần phải ghi thêm: Âu cũng là một trường hợp hy hữu của lịch sử nhân loại là cũng đúng năm này – 1789 – vào ngày 14 tháng Bảy, dân Pháp hạ ngục Bastille tại Paris. Và kể từ năm 1920, ngày này, 14-7, được Pháp quốc tôn vinh thành quốc lễ.  Nếu Nguyễn Huệ của chúng ta đã sánh duyên với Công chúa Ngọc Hân thành một cặp trai anh hùng gái thuyền quyên thì Napoléon của Pháp quốc cũng có một mối tình lãng mạn tha thiết với nàng Joséphine (1763-1814). 

Người  ta  từng  trông  thấy  Napoléon  âu  yếm  qùy  trước  chân  nàng  Joséphine.  (On  a  vu Napoléon s’agenouiller au pied de Jpséphine). 

Trở lại với sử Việt, sau khi đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi nước nhà, vua Quang Trung một mặt chịu nhún mình vận động với Thanh Triều để nối lại bang giao giữa nước ta và Trung Hoa, mặt khác lo cải tổ lại nội chính cho vững vàng. 

Nhờ tài ngoại giao của Ngô Thời Nhiệm, tháng Bảy năm Kỷ Dậu (1789) Nguyễn Huệ được vua Thanh Càn Long phong làm An Nam Quốc Vương. 

Về  nội  chính,  vua  Quang  Trung  xây  dựng  đế  chế,  lập  Phượng Hoàng  Trung đô ở Nghệ An, phong bà Ngọc Hân làm Bắc Cung Hoàng Hậu, lập Nguyễn Quang Toản làm Thái tử, chỉnh đốn các cơ quan hành chánh trung ương và địa phương; định lại quan chế; đối phó gắt gao với đám cựu thần nhà Lê khởi binh chống lại Tây Sơn; tổ chức nền học chánh, trọng dụng chữ Nôm và dự định đặt nền quốc học thuần túy Việt Nam; lập nhà Sùng Chính Viện, cử La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp làm Viện trưởng giữ việc giáo dục quốc dân; khuyến khích canh nông và chăm lo đời sống của nhân dân, bớt thuế cho dân nghèo, gặp năm đại hạn hay hồng thủy thì ra ân đại xá; tổ chức quân đội và huấn luyện binh sĩ ; lập sổ đinh để tuyển binh; chia dân thành bốn hạng, mỗi người đeo một thẻ tín bài khắc bốn chữ Thiên Hạ Ðại Tín để tiện kiểm soát, chấn chỉnh lại Phật giáo. 

Ðến năm Nhâm Tí (1792) khi nhận thấy lực lượng của mình đã khá hùng hậu có thể đương đầu với nhà Thanh, vua Quang Trung sai Võ Văn Dũng cầm đầu một sứ bộ sang Tàu yêu sách hai điều: Ðòi lại đất Lưỡng Quảng và yêu cầu được kết duyên với con gái vua Thanh. 

Nhưng mộng lớn chưa thực hiện được thì vào một buổi chiều, nhà vua đang ngồi bỗng huyễn vận (nghĩa là hoa mắt, sa sầm choáng váng cả người) gục mặt xuống, hồi lâu mới tỉnh. Ngài nói chuyện này ngay với Trung thư Trần Văn Kỷ. 

Thấy bệnh ngày một nặng, ngài bèn vời Trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về bàn chuyện thiên đô ra Nghệ An. Việc thương nghị chưa ngả ngũ thì vua Thế Tổ (Gia Long) đã khắc phục Gia Ðịnh, chiếm được Bình Thuận, thanh thế lừng lẫy vang động. Vua Quang Trung hay tin đó đâm lo buồn, bệnh tình ngày một nguy kịch, bèn vời Trần Quang Diệu mà trối rằng: 

Ta  mở  mang  bờ  cõi,  khai  thác  đất  đai,    cả  cõi  Nam  này.  Nay  đau  ốm  tất  không  dậy  được. Thái  tử (Nguyễn  Quang  Toản)    chất  khá  cao  nhưng  tuổi  còn  nhỏ  (mới  10  tuổi). Ngoài    quân  Gia  Ðịnh Nguyễn Ánh là quốc thù, mà Thái Ðức (Nguyễn Nhạc) tuổi già ham dật lạc, cầu an tạm bợ, không toan tính cái lo về sau. Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm đơn giản thôi. Lũ ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên về Vĩnh Ðô (tức Vinh ngày nay) để khống chế thiên hạ. Bằng    chẳng,    quân    Gia    Ðịnh    kéo    tới    thì    các    người    không        chỗ    chôn    đâu.

(Theo Hoa Bằng – Quang Trung Nguyễn Huệ) 

Vua Quang Trung mất vào ngày 29, tháng Bảy năm Nhâm Tí (1792), thọ 40 tuổi. Nhưng chết mà chưa hết chuyện đâu! Còn những nghi vấn về di mộ nữa.  

3. NHỮNG NGHI VẤN VỀ DI MỘ CỦA VUA QUANG TRUNG 

Làng Văn, số 194 năm 1999 trong mục Tin Việt Nam có ghi về những nghi vấn này. Xin được tóm tắt như sau: 

Viện Khoa Học Kỹ Thuật Việt Nam vừa đưa ra giả thuyết về Phượng Hoàng Trung Ðô có thể là lăng mộ của vua Quang Trung. 

Theo chính sử, anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ có bộ óc thông minh và quyết đoán tuyệt vời. Vua Quang Trung rất bén nhạy tiên đoán được những gì sắp xảy ra trong đời mình. Chính ông giáo Hiến (người thầy mà  hồi  nhỏ  Nguyễn  Huệ  theo  học)  đã  nói: 

“Người  này    công  lớn    Thăng  Long  nhưng  chết    đất Phượng Hoàng”.  Vua Quang Trung cũng có thể đã tiên liệu về đời mình như vậy nên đã đốc thúc La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp và Thái Phó Trần Quang Diệu lo xây dựng Phượng Hoàng Trung đô và đồng thời lo việc xây mộ.  Sự chơi chữ và đánh tráo thật hư của vua Quang Trung đương thời khó ai đoán biết được. Theo một số người, sở dĩ điều này có thể là một ẩn ý vì: 

Nguyễn Thiếp là người Nghệ An giỏi về khoa phong thủy, lại là bậc đại nho. Người kế tiếp là Thái phó Trần Quang Diệu cũng gốc ở Nghệ An, lúc đó đang trấn giữ Nghệ An.  Bản  thân  vua  Quang  Trung,  tổ  phụ  ba  đời  về  trước  cũng  gốc  họ  Hồ    đất  Nghệ. 

Theo  tục  lệ  các  nhà vương giả xưa, khi chết vẫn luôn muốn được trở về quê cũ (như triều đại nhà Trần xưa với quê hương ở vùng Tức Mạc, tỉnh Nam Ðịnh, đã cho chúng ta thấy rõ điều này). 

Nhân dịp kỷ niệm 210 năm ngày xây dựng Phượng Hoàng Trung Ðô, một số nhà nghiên cứu có về lại nơi này  thì  thấy  không      đặc  biệt  khả    khiến  nhà  Tây  Sơn  phải  nặng  lòng  chú  ý. 

Vùng  núi  Phượng Hoàng không rộng lắm, chu vi chỉ độ 40 hécta trở lại, và tuy có tạo nên hình thể như một chiếc ngai, nhưng mặt trước bị án ngữ bởi một cù lao con rùa nhỏ ở gần cầu cảng Vinh; phía Ðông nam có một dòng sông nhỏ vòng qua, và Bắc, Ðông bắc là thành phố Vinh hiện nay. Người dân Nghệ An gọi vùng này là Rú Quyết. Giả thiết như Phượng Hoàng Trung đô lấy toàn bộ thành phố Vinh mà xây dựng thành quách lâu đài thì có lý, còn nếu xét riêng Phượng Hoàng thì chỉ có giá trị như một pháo đài. Vậy việc xây dựng kinh đô đã như thế nào?  Mặc dù Nguyễn Thiếp cùng với Thái phó Trần Quang Diệu đã bắt tay xây dựng công trình này trước khi vua Quang Trung mất gần hai năm, nhưng ngày nay một số chuyên gia tới kiểm chứng, chẳng hề thầy dấu tích thành xây dang dở ở đâu cả. Phải chăng trong khoảng thời gian đó, Thái phó Trần Quang Diệu và Nguyễn  Thiếp  chỉ  mới  bắt  đầu  cho    mật  đục  đá,  xây  lăng? 

Như  vậy    vẻ  phù  hợp  với  sự  kiện vua Quang Trung đã băng hà mà mãi tới ba tháng sau mới báo tang. 

Việc Gia Long đào mả vua Quang Trung lấy đầu lâu đem về giam trong ngục thất mà sao đương thời không ai thấy và biết ở chỗ nào? Kể cả các giáo sĩ Gia Tô lúc đó luôn luôn bám sát sự hành quyết các tướng  lãnh  Tây  Sơn  tại  Phú  Xuân  cũng không ghi nhận gì về điều này. Bí mật, cho đến nay, vẫn còn nguyên về lăng mộ vua Quang Trung. 

Sắp kỷ niệm 1000 năm cố đô Thăng Long, làm sao chúng ta có thể không nhắc tới công lao kỳ vĩ của vua Quang Trung năm Kỷ Dậu (1789) đã tiêu diệt hơn 20 vạn quân Thanh xâm lược để giải phóng Thăng Long! Do đó sự tìm kiếm di mộ vua Quang Trung quả thực mang một ý nghĩa cực kỳ trọng đại vậy!  

Ðặc san QUANG TRUNG & TÂY SƠN Xuân Canh Thìn 2000


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét