Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013

Lac giau chon quen.html

Lac giau chon quen.html

LẠC GIỮA CHỐN QUEN

Đinh Lê Vũ

Tên sách: Lạc giữa chốn quen
Tác giả: Đinh Lê Vũ
Thể loại: Văn học trong nước

Nhà xuất bản: Văn Hoá Sài Gòn
Năm xuất bản: 4-2005
Khổ: 13×19 cm
———————
Đánh máy (TVE): Venus (một số bài sưu tầm trên mạng)

Sửa chính tả (TVE): rfidquyen
Chuyển sang ebook: tovanhung (TVE)
Ngày hoàn thành: 18/8/2006
http://www.thuvien-ebook.com

Mùa lụt

Chọn lựa

Đám cưới Hà Nội

Về Phố

E-mail

Chẳng nghe lời gió nói

Lạc giữa chốn quen

Người về

Theo gió bay đi

Trung Thu

Tiên Phước

Người cũ

Thuận tình

Họp mặt

Giấc mơ có hoa hồng dại

Thầy về

Chiếc đĩa sứt

Đổi việc

Xây nhà

Sông ngầm

Mùa lụt

Hai nhà cùng nằm trên một con phố, đối mặt nhau. Con phố bé tẹo chạy dọc song song với đường bờ sông của cái thị xã miền Trung cũng bé tẹo này, với những mảng tường vôi loang lổ, mái ngói âm dương cũ kỹ, mùa đông rêu lên xanh rì. Thị xã hiền hòa, những con phố ở đây cũng hiền hòa, âm thanh nhộn nhịp ồn ào chỉ vang lên vào những ngày nắng đẹp hoặc những đêm hội hè. Còn lại, bao trùm một bầu không khí bình yên, tĩnh lặng…

Buổi sáng, đến giờ đi học, bao giờ thằng bé cũng đứng bên này lề đường ơi ới gọi con bé. Rồi con bé, sẽ đường hoàng xuất hiện sau cánh cửa gỗ nặng ì đã lên nước đen bóng, tóc chải thẳng nếp, áo trắng, váy xanh, cặp sách sẵn sàng, chạy băng qua đường. Ngày nắng cũng như ngày mưa, hai cái bóng nhỏ xíu nắm tay nhau đến trường gần như một lệ thường ở con phố bé tẹo này. Trường ở gần nhà thôi, chỉ băng qua vài ngã ba, ngã tư là đến. Dõi theo hai cái bóng nhỏ xíu, ngộ nghĩnh là bốn con mắt ngập tràn thương yêu của hai bà mẹ. Họ cũng là bạn của nhau từ hồi còn cắp sách…

Mùa đông, những đánh mây đen nặng trĩu kéo về vần vũ trên bầu trời, loa phóng thanh cuối phố oang oang báo tin gió mùa đông bắc, con phố nhỏ bắt đầu chìm đắm trong mưa. Mưa rơi, có lúc ào ào như trút nước có lúc râm rỉ như chảy qua mặt rây, thường kéo dài đến mấy ngày liền không tạnh. Gió thổi ào ạt, lá vàng rụng đầy. Cứ mưa hai ba ngày như thế, nước sông từ từ dâng lên. Nước mưa trong phố chạy ra, cộng với nước mưa trên nguồn đổ xuống đục ngầu nhanh chóng làm thành trận lụt, bắt đầu từ con đường bờ sông, rồi kế đến là con phố có hai căn nhà đối mặt nhau. Mùa lụt bắt đầu vào tháng mười hằng năm. Nước cứ dâng lên, thoạt tiên mấp mé lề đường, rồi đến bậc thềm, từ từ lần vô nhà, tuôn vào mọi ngõ ngách. Có khi, chỉ nghe mưa rào rào suốt đêm, sáng ra thức dậy, con phố nhỏ đã thành dòng sông trước nhà. Dòng sông nước lụt đỏ nặng phủ sa, khi nước rút, để lại một lớp đất bùn đặc quánh...

Những ngày như vậy, trường hay thông báo cho nghỉ học. Mà cũng chẳng cần thông báo cho nghỉ học, hai đứa bé cũng không thể nào tự lội nước đến trường, trong lúc người lớn bận bao nhiêu là việc. Người lớn loay hoay dọn dẹp nhà cửa, trông chừng theo mực nước lên, bàn ghế, giường tủ, và cả xe Honda nữa, lần lượt được kê cao bằng một lớp gạch, hai lớp gạch rồi ba lớp… Nước lên đến đâu thì kê cao đến đấy. Còn lại, cả ngàn thứ vặt vãnh, giày dép, chai lọ cũ và muôn thứ hầm bà lằng khác lâu nay không đụng cũng được lôi ra, cái nào giữ lại thì cất đặt lên cao, cái nào không dùng nữa thì thả trôi theo dòng nước lụt. Rồi lại lấy ván ép mà chèn cửa, không cho rác rưởi vào nhà. Không ai rỗi hơi mà chú ý đến hai đứa bé. Kê một tấm phản thật cao, thật chắc chắn ở hiên nhà, thả kèm vài cái gối, mền và ít đồ chơi, trừng mắt dặn: “Ở đó chơi nghe chưa. Lội xuống vọc nước là ăn đòn đó!” là có thể yên tâm đi lo việc của mình. Hai đứa bé vốn là hai đứa bé ngoan…

Những ngày nước lụt đối với người lớn là một chuỗi cực nhọc, lo toan thì dưới mắt hai đứa bé lại là niềm vui thích tột cùng. Ngồi trên tấm phản, con bé ước ao biết bao được xắn ống quần lội tung tăng ngoài đường nước chảy, đón nhặt nhưng chiếc lá vàng trôi theo dòng nước, để nước mơn man ve vuốt bàn chân. Ngồi trên tấm phản, thằng bé ước ao biết bao được đặt chân xuống nước, lội sang bên kia đường đến chỗ tấm phản nơi con bé ngồi, cùng ngắm con phố quen thuộc bây giờ trở thành một dòng sông nhỏ với muôn ngàn hấp dẫn của một dòng sông thực thụ. Mà thật ra, thằng bé có cần gì hơn. Nó chỉ muốn được ngồi bên cạnh con bé, được nghe con bé cười khanh khách mỗi khi có vật nào đó trôi theo dòng nước bị vướng lại, được nhìn những chiếc răng sữa be bé trắng tinh và đều tăm tắp của con bé. Rồi hai đứa bày đồ chơi ra chơi. Thằng bé sẽ cầm chiếc xe hơi bằng nhựa “tin tin” lái xe chạy lăng xăng chốc chốc quay lại hỏi con bé đang chu môi thổi chiếc bếp lò và nồi cơm nhỏ xíu cũng bằng nhựa: “Có cơm ăn chưa?” Và con bé, sẽ làm như thể bận rộn lắm, đưa tay giả bộ lau những giọt mồ hôi tưởng tượng trên trán lúc đầu: “Chưa có, sao mầy mau đói quá vậy?” Rồi hai đứa sẽ nhìn nhau cười. Chỉ mới nghĩ đến chừng đó thôi, thằng bé đã thấy nôn nao. Ngồi bên này chơi một mình, nó buồn quá…

Thằng bé nhìn qua bên kia con phố, không, bây giờ là dòng sông nước lụt, hướng nơi con bé ngồi và gọi: “Nhiên! Nhiên!”. Con bé quay lại cười, vẫy tay rối rít: “Hoan! Hoan! Lội qua đây chơi đi!”. Lời rủ rê của con bé nghe mới hấp dẫn làm sao! Nó len lén thò chân xuống nước, bắt gặp ánh mắt nghiêm khắc của mẹ và tiếng nạt khẽ: “Rút chân lên nghe chưa, Hoan!”, vội vàng co chân lên, tiếc rẻ… Mặt thằng bé buồn xo. Con bé gọi mãi, thấy thằng bé không sang được, quay lại phụng phịu với mẹ: “Mẹ ơi, mẹ cho con qua bên thằng Hoan chơi nhe mẹ!”. Đề nghị của con bé không được mẹ chấp thuận, mắt nó rưng rưng. Con bé ngồi buồn xo… Dòng sông bé tẹo thôi, nhưng sao ngăn cách hai đứa quá chừng…

Trong lúc con bé đang chèo chẹo làm nũng với mẹ thì thằng bé đã nghĩ ra một trò mới, và nó khoái chí với mình lắm. Nó xé giấy vở xếp luôn một lúc mấy con thuyền giấy, í ới gọi con bé: “Nhiên ơi, để tao gởi mấy chiếc thuyền này qua cho mầy nghe!”. Mặt con bé tươi tỉnh hẳn lên. Nó khum khum hai bàn tay nhỏ xíu làm loa gọi sang: “Mầy gởi thư qua cho tao nữa nhe!”. Thằng bé cuống quýt: “Ừa, ừa, tao gởi liền đây!”. Con bé lại khum khum tay: “Ừ, mầy gởi liền nhe!”. Chỉ có chừng đó thôi mà hai đứa nói qua nói lại cả buổi. Cuối cùng, mấy chiếc thuyền giấy cũng được thả xuống nước. Không chiếc thuyền nào qua được đến bờ bên kia. Nước lụt cứ chảy xuôi, cuốn trôi những chiếc thuyền giấy đến cuối đường quẹo ngang về hướng sông. Con sông lớn, nước chảy ồ ạt, không như dòng sông nước lụt nhỏ bé chảy ngang trước nhà, đã cuốn trôi đi những chiếc thuyền giấy mỏng manh cùng với những xác lá vàng tơi tả…

Có một lần, thằng bé cũng len lén lội sang bờ bên kia với con bé. Lúc đó, mẹ nó đang mím môi kê lại chiếc bàn máy may trong nhà, việc trông chừng thằng bé có phần lơi lỏng. Thằng bé nhìn quanh, không thấy ai, thò một bàn chân, rồi hai bàn chân xuống nước. Nước lụt mơn man chân nó, mát rượi. Thằng bé thả hẳn người xuống khỏi phản, từ từ men xuống bậc thềm, lội băng qua đường. Bên kia, con bé khua khua hai tay mừng rỡ, miệng không ngớt gọi: “Hoan, nhanh lên, Hoan ơi!”. Nước chỉ dâng lên đến quá đầu gối thằng bé một chút, nhưng chảy xiết. Thằng bé đã tiến sang được quá nửa đường, gần đến bờ bên kia, trông mặt nó hớn hở làm sao. Thình lình, nó vấp phải một hòn đá khá lớn nằm ngang giữa đường khuất sâu dưới nước, không nhìn thấy được. Thằng bé loạng choạng, ngã xuống ướt mèm. Con bé ngồi trên chiếc phản khóc thét lên: “!Mẹ ơi, thằng Hoan bị té!”. Người lớn chạy ra, và thằng bé nhanh chóng được đỡ dậy, mang vào nhà thay áo quần, sưởi ấm, xoa dầu khắp người. Nước lụt không sâu, nhưng khi ngã xuống, thằng bé cũng kịp uống vài ngụm, òng ọc. Sau lần đó, thằng bé bị một trận đòn nên thân đã đành, con bé cũng bị đòn vì tội “rủ rê”… Cũng may là nước lụt chỉ dâng lên vài ngày rồi rút. Sau vài trận mưa “dội bùn”, thường có sau mỗi trận nước lụt, cuốn trôi đi hết mọi rác rưởi, bùn đọng nước lụt để lại, con phố lại sạch sẽ, sáng trưng. Dấu vết của nước lụt bấy giờ chỉ còn là những vệt sẫm màu nhờ nhờ trên tường nhà, chỗ mực nước lúc dâng lên cao nhất…

*

Dòng sông nước lụt hồi còn nhỏ chỉ tạm thời ngăn cách hai đứa vài ngày rồi thôi. Hai đứa bé ngày nào lớn lên, bây giờ là cả một đại dương ngăn cách. Năm mười bốn tuổi, con bé theo gia đình đi định cư ở Mỹ. Ngày chia tay, hai đứa không còn gọi nhau là “mầy, tao”, đã bắt đầu ngượng ngùng xưng tên, nhưng vẫn quấn quít nhau như hồi còn nhỏ. Con bé khóc hết nước mắt, cuối cùng cũng đi, tặng lại thằng bé hộp bút chì màu mà nó quý nhất, để làm kỷ niệm. Thằng bé không biết làm gì ngoài việc đứng im, lặng nhìn con bé bước lên xe, không khóc, con trai lớn rồi mà, nhưng buồn lặng. Vài năm sau đó thằng bé học xong phổ thông, cũng rời xa con phố nhỏ. Hồi ức về những mùa lụt ngày xưa, và cô bạn gái nhỏ nhắn, hiền lành, có lần khóc thét lên khi mình bị ngã trong nước lụt, thằng bé vẫn mang theo, canh cánh bên lòng…

Thằng bé lớn lên, bây giờ là tôi, một chiều về thăm con phố cũ, cũng đúng vào một ngày nước lụt. Bâng khuâng ngồi trên chiếc phản gỗ trước hiên nhà, tôi cố tìm lại cảm giác ngày xưa. Dòng nước lụt làm thành dòng sông trước hiên nhà vẫn thế, đục ngầu, tôi không sao có lại được một chút hứng thú khi thò chân xuống dòng nước lụt. Nước có vẻ bẩn, trong tôi chợt thoáng lên ý nghĩ nước lụt có thể làm chân mình tối nay râm ran ngứa… Lại phải giúp mẹ dọn nhà, kê cao đồ đạc, lặp lại những công việc nhàm chán, buồn tẻ trong những ngày lụt của người lớn ngày xưa. Nhà đối diện đổi chủ, cánh cửa gỗ lên nước đen bóng vẫn thế, nhưng đóng im lìm. Tôi ước ao vô cùng, dù chỉ một lần thôi, cánh cửa kia mở ra, Nhiên xuất hiện, nụ cười rực rỡ, hai hàm răng trắng tinh, sáng bừng lên, lấp lóa…

Lâu lắm rồi, tôi mới lại về đây, buồn vui lẫn lộn… Và cũng lâu lắm rồi, tôi không được biết tin tức gì của Nhiên. Chẳng biết Nhiên bây giờ lưu lạc nơi nào. Cầu mong em có một đời sống hạnh phúc…

Thị xã cũ vẫn còn đây, bé tẹo, bây giờ trở thành khu phố cổ, điểm thắng cảnh du lịch nổi tiếng. Khách Tây có, ta có, từng đoàn người vai mang ba lô đi lang thang, nhìn nhìn, ngó ngó, thi thoảng dừng lại chụp hình. Khó có thể tìm lại cái không khí hiền hoà, tĩnh lặng ngày xưa. Con phố nhỏ bây giờ ồn ã, đầy sắc màu với những bảng hiệu lòe loẹt, dường như đang khoác lên trên mình một chút điêu toa, ngày xưa không hề có…

Có kẻ đi xa lâu lắm trở về, tìm chút kỷ niệm xưa, và mùa lụt thuở ấu thơ, lơ ngơ giữa con phố cũ trong một ngày mùa đông, lòng ngậm ngùi biết mấy…

Chọn lựa

1. Ngày đầu tiên cô đến trường nhận nhiệm sở, bố đi cùng với cô. Nhà chỉ có hai bố con sống với nhau, khi biết cô nhận quyết định phân bổ về một ngôi trường heo hút cách nhà gần cả trăm cây số, bố cứ nằng nặc không chịu để cho cô tự đi, cô năn nỉ thế nào cũng không được. Từ nhỏ đến lớn, cô chưa đi xa nhà một mình lần nào, bố không yên tâm.

Cô bới tóc cao, quầng mắt và môi tô đậm hơn bình thường một chút, cố gắng làm ra vẻ nghiêm trang, đĩnh đạc nhưng vẫn không giấu được ánh mắt trẻ con, bồn chồn. Bác bảo vệ trường nhìn cô: “Anh đến xin học cho cháu?”. Bố phải đỡ lời: “Không, tôi đưa cháu đến nhận nhiệm sở…” Bác bảo vệ bật cười: “Tôi xin lỗi, cô giáo trẻ quá! Làm tôi cứ tưởng…” Cô cũng cười, vẻ không chấp: “Dạ, không có chi, bác!”

Mọi chuyện trôi qua khá suôn sẻ. Cô được phân ở một căn phòng nho nhỏ trong khu tập thể trường cùng với các anh chị em giáo viên cũ. Thầy hiệu trưởng người tầm thước, mang kiếng cận, nói vui với cô: “Cô về đây, vậy là thầy Huyên có bạn rồi. Thầy Huyên về trước cô hai tuần, cũng độc thân như cô. Có khi sau này, hai người cảm ơn tui không biết chừng…” Mọi người cười xòa. Mặt cô đỏ bừng như gấc chín, nhưng cảm giác đầu tiên về ngôi trường đầu tiên, những người đồng nghiệp đầu tiên thật dễ chịu. Bố cô trước khi ra về, còn nói với thầy hiệu trưởng: “Cháu còn dại lắm, nhờ mấy thầy cô nhắc nhở dùm”. Không dưng cô thấy giận bố, lúc nào cũng coi cô như con nít. Thầy hiệu trưởng cười hiền lành: “Xin bác cứ yên tâm!”

2. Rồi cô cũng được gặp Huyên, người về trường trước cô hai tuần, trong bữa cơm tập thể đầu tiên. Huyên dạy Toán, nhà ở cùng thành phố với cô, ra trường trước cô hai năm, lần lữa mãi, rồi cuối cùng, chấp nhận về đây. Huyên có vẻ vui tính, dường như thân thiện với tất cả mọi người, pha trò, nói cười luôn miệng. Mọi người chọc Huyên: “Huyên nên rửa đi, chứ không thì suốt ngày cứ đi ra đi vô nhìn mấy khuôn mặt già nua này, chán chết!”. Huyên nheo mắt nhìn cô: “Cô My thấy thế nào?”. Mọi người nhao nhao: “Ghê thật, chưa chi mà đã…” Bữa cơm đầy ắp tiếng cười. Cô biết, mọi người muốn cô vui, đỡ nhớ nhà. Cô thấy mình thật may mắn, bắt đầu thấy thích môi trường ở đây.

Buổi tối, cô ngồi một mình trong phòng, loay hoay đóng mấy cây đinh treo đồ trên tường và sắp xếp sơ lại đồ đạc thì có tiếng gõ cửa. Huyên ào vô như một cơn gió, nhìn cô đầy vẻ quan tâm: “Cô My đang làm gì đó, tôi cứ sợ cô khóc vì nhớ nhà!” Cô lắc đầu: “Đâu có, anh!”, vẫn không giấu được đôi mắt sắp sũng nước. Không để cho cô kịp nhờ, anh cằm lấy cái búa, gõ gõ, đóng đóng gọn hơ. Rồi anh rủ: “Cô ra sân ngồi uống trà, đàn hát với mấy anh chị cho vui. Hồi mới tới, tôi cũng… nhớ nhà y như cô!” Cô nhìn anh, nghi hoặc, anh mà cũng nhớ nhà ư, rồi chợt nghĩ ra, anh nói vậy là để cho cô đỡ ngượng. Cô líu ríu theo anh, lòng bồi hồi. Ít ra, ban đầu, anh cũng có vẻ hiểu cô…

Cô ngủ muộn một chút, dư vị của buổi tối họp mặt đầu hôm làm cô vui vui, nhưng vẫn không xóa được những giọt nước mắt rưng rưng trên mi lúc nửa đêm trở giấc, khi cô chợt nghĩ đến bố. Bố ở nhà một mình, thui thủi trong căn nhà rộng thênh, và cô thấy thương bố hơn bao giờ hết.

3. Ngôi trường nằm trên một bãi đất rộng, chỉ lèo tèo ba dãy nhà vừa làm văn phòng, vừa làm lớp học. Ngoài sân cỏ dại mọc đầy. Chung quanh sân trường không có hàng rào ngăn cách với bên ngoài, trông giống như một trụ sở ủy ban xã hơn là một ngôi trường, càng không giống ngôi trường trong trí tưởng tượng của cô. Có cả thảy chín lớp, cô được phân công phụ trách bộ môn Văn khối lớp mười thay cho một cô giáo vừa xin nghỉ dạy vài tháng trước. Ở ngôi trường heo hút này, người ta đến và đi như cơm bữa, người lâu nhất trụ lại đây cũng chỉ gần năm năm. Cô không biết rồi mình có sẽ ở lại đây lâu không, hay là như mấy người kia, nhưng mới đầu, sống ở đây cũng không có gì là cực khổ, thiếu thốn cho lắm. “Que sera sera? Whatever will be will be?”, cô lẩm nhẩm hát một khúc hát quen một cách vô thức, thấy mình cũng không đến nỗi vô tích sự…

Giờ đầu tiên lên lớp, cô bồn chồn đã đành, Huyên cũng chạy ra chạy vô, lúc thì hỏi han, lúc thì mang cho cô mấy tài liệu liên quan, làm như thể chính anh lên lớp không bằng. Cô cảm động trước sự lo lắng thái quá của anh, anh chỉ cười: “Lần đầu ai cũng vậy hết, tôi muốn cô chuẩn bị thật kỹ để lên lớp đỡ run…” Đám học trò đầu tiên của cô có vẻ dễ thương, thích thú ra mặt khi có cô giáo mới trẻ măng. Cô nhìn đám học trò, thấy thân thuộc như thể tụi nó là em cô, bắt đầu giảng. Sau tiết học, có một đứa, trông chững chạc nhất bọn, nói với cô: “Cô dạy hay ghê, cô ở lại dạy tụi em luôn nha cô!”. Cô vui lâng lâng vì thấy học trò thích mình.

Huyên mời cô đi uống nước, tặng cô một bó hoa dại với những cánh hoa li ti trắng muốt, nói là để mừng thành công của cô. Tối hôm đó cô không ngủ được, phần thì nhớ bố, bố không có ở đây để chia sẻ niềm vui này với cô, phần thì nhớ ánh mắt ấm áp của Huyên nhìn cô, lúc anh trao cho cô bó hoa. Trong căn phòng tối, những cánh hoa trắng cô cắm trong ly nước đặt ở bàn cứ sáng bừng lên lấp lóa…

4. Thấm thoắt cô ở lại ngôi trường mới đã được hơn một tháng. Lần đầu tiên về thăm bố, nhìn bố gầy hơn, da sạm đen, cô rưng rưng nước mắt, thấy mình như có lỗi với bố. Cô ríu rít hỏi bố đủ chuyện, từ chuyện ngoài phố đến chuyện mấy nhà hàng xóm, con mèo nhà mình đẻ được mấy con. Rồi cô kể cho bố nghe chuyện cô ở trường, mắt bố lấp lánh vui khi thấy cô vui. Cô không nhắc một lời nào đặc biệt về Huyên với bố, vả lại, anh đã nói gì với cô đâu. Cô nao nao nhớ anh…

Ba ngày cô ở nhà với bố trôi qua thật nhanh, nhanh đến mức cô thấy mình chưa kịp làm được gì cho bố, đã phải xuống lại trường. Bố tiễn cô ra bến xe, nắm tay cô dặn dò: “Con nhớ giữ gìn sức khỏe. Rảnh, xin phép về thăm bố!”. Cô muốn ôm chầm lấy bố mà khóc, không đi nữa, nhưng rồi chỉ nói: “Con đi nghe bố!”. Cô không đám nhìn lâu vào mắt bố. Lúc xe chạy di, cô nhủ lòng: rồi mình sẽ về thăm bố đều…

Ba ngày ở thành phố, cô không quên có quà cho anh. Cô loanh quanh hàng giờ trước mấy cửa hàng, cuối cùng, quyết định mua tặng anh tập nhạc Phú Quang mà cô rất thích. “Người yêu ơi, dù mai này cách xa. Mãi mãi diệu kỳ là tình yêu chúng ta” Cô hình dung mắt anh sẽ rướn lên ngạc nhiên lúc nhận quà cô tặng rồi tủm tỉm cười một mình.

5. Ngày hai mươi tháng mười một đầu tiên trong đời lẫn trong đống hoa và quà tặng của học trò chất đầy trên chiếc bàn nhỏ trong phòng cô là cánh hồng nhung tươi rói được buộc quanh bằng dải nơ đỏ, không một dòng nào kèm theo. Chỉ thoáng nhìn qua, cô đã biết ngay là của ai. Huyên là vậy, luôn luôn rất chu đáo với cô. Cô nao người cảm động khi chợt nghĩ đến ý tứ thầm kín anh gởi gắm đến cô trong cánh hồng nhung. Cô đỏ bừng mặt, một mình…

Buổi tối, Huyên đưa cô đi dạo trên con đường bạch đàn ngập đầy ánh trăng phía sau trường. Anh lúng búng kể cho cô nghe vài câu chuyện vui vui về học trò lớp anh dạy, cô cười, trong mắt cô có ánh trăng lấp lánh. Rồi anh dịu dàng hôn cô dưới tàn cây bạch đàn, nụ hôn ngọt mềm và ấm. Cô biết thế nào cũng có giây phút này, cô mong nó từ lâu lắm rồi. Trong lúc khép mi mơ màng đón nhận lời tỏ tình của anh, cô đã hình dung đến một căn nhà nhỏ ở đâu đó gần trường, sân nhà trồng toàn hoa hồng nhung và những hoa dại cánh li ti trắng muốt. Một căn nhà có chồng dạy Toán, vợ dạy Văn cùng trường, những đứa con kháu khỉnh, xinh xắn như thiên thần, ông ngoại sẽ xuống đây sống chung với cháu. Cô hạnh phúc tràn trề…

6. Niên học rồi cũng qua nhanh. Anh vẫn chu đáo với cô anh làm cho cô yêu mến nghề dạy học, yêu ngôi trường nghèo nàn ở miền quê xa hút này, với những đứa học trò học đến lớp mười rồi mà hãy còn nghịch ngợm ngây ngô như con nít. Và cũng chính vì có anh, cô nghĩ là suốt đời mình sẽ ở lại đây, sẽ đưa bố lên đây cùng sống, sẽ không bỏ trường mà đi như nhiều người khác. Kỳ nghỉ hè, anh đưa cô về thành phố, ghé thăm bố cô, sửa lại giúp bố cái chái bếp sau nhà bị sập, đóng giúp ông bộ bàn ghế bị long chân. Cô thấy căn nhà nhỏ ở gần trường, trước nhà trồng đầy hoa trong mộng ước của mình thật gần và mùi hoa hồng cứ thoang thoảng, nồng ấm đâu đây…

Hết hè. Khi những tán hoa phượng ven con đường gần nhà cô bắt đầu kết trái xanh rì, cô gặp anh để hẹn ngày cùng lên trường. Trông cô thật hăm hở, cô nhớ trường, nhớ học trò. Anh nhìn cô như nhìn một người lạ. “Anh đi đày một năm ở dưới đó đủ rồi. Em cũng vậy!”. Anh nói dứt khoát, ngưng lại một chút để thăm dò, rồi tiếp: “Anh đang xin việc cho hai đứa mình ở lại thành phố. Em ở lại với anh đi!”. Cô sững sờ, anh nói cái gì vậy cà. Còn căn nhà nhỏ, mảnh sân nhỏ trồng toàn là hoa của hai người?… Cô lắp bắp: “Vậy sao anh nói…”Anh cắt ngang lời cô: “Anh có nói gì đâu”. Rồi anh ngọt ngào: “Ở lại đây với anh nha Mỹ! Dưới đó không có gì hấp dẫn tụi mình hết. Anh không muốn chôn vùi đời mình dưới đó. Anh yêu em!” Ba tiếng cuối cùng anh nói dứt khoát, gọn hơ, nghe giống như lời kết luận cho một cuộc tranh cãi chứ không phải là lời yêu dành cho cô.

Cô vật vã mất ngủ hàng tuần lễ liền. Anh nói anh yêu cô. Tận đáy lòng, cô cũng yêu anh. Cô biết mình không thể sống thiếu anh, và anh, hình như cũng vậy. Bỗng dưng, cô nhận ra một điều trước đây mình chắc chắn bỗng trở nên mong manh quá. Anh yêu cô, có thật vậy không? Đầu óc cô quay cuồng với câu hỏi này. Cô cố làm ra vẻ tươi tỉnh với bố nhưng hình như bố biết hết…

7. Ngày cô ra bến xe xuống lại trường, Huyên không ra tiễn cô, dù cô đã báo tin cho anh. Bố đề nghị: “Để bố đi cùng với con xuống dưới đó chơi vài ngày, xem con ăn ở thế nào. Ở thành phố hoài, tù túng quá!” Cô nghĩ, bố đi vì thương cô, sợ cô buồn. Bố tuyệt nhiên không hỏi một lời nào về Huyên và cô biết ơn bố về điều này.

Ngôi trường vẫn vậy, cô vẫn ngày ngày hai buổi lên lớp, ngoài giờ dạy, vùi mình trong phòng. Mọi người trong trường nhìn cô ái ngại, càng làm cho cô thấy quyết tâm, mình không thể bỏ trường mà đi, vì chuyện của Huyên. Bố ở chơi độ một tuần rồi về thành phố thu xếp lên ở hẳn với cô. Bố nói: “Bố thấy thích vùng quê yên tĩnh này”. Học trò ngày nào cũng đến chơi với cô, hồn nhiên đến ngây ngô, làm cô thấy nỗi buồn trong cô sao bé nhỏ quá chừng. Chung quanh còn nhiều việc đang chờ cô, nhiều người đang cần cô. Cô tự nhủ: mình không thể nào bị cuốn đi bởi nỗi buồn bé nhỏ như thế…

Gần nửa học kỳ trôi qua. Huyên không một lần đến thăm cô, không hề viết cho cô một dòng, dù anh biết, cô vẫn ở đây, ngôi trường nơi hai người đã gặp nhau. Căn phòng dành cho anh vẫn để nguyên, mọi người hy vọng, ít ra, anh cũng sẽ một lần trở lại. Có mấy lần cô bước ngang qua phòng anh ở ngày xưa, tần ngần, rồi lại quay đi. Kỷ niệm, tiếng cười ấm áp của anh vẫn đầy ắp trong lòng cô. Cô biết, mình không dễ dàng quên được anh. Một buổi chiều, thầy hiệu trưởng nhờ cô vào dọn dẹp căn phòng của Huyên, trước khi nhường lại cho một giáo viên khác sắp về. Lẫn trong một ít sách vở cũ, vài xấp bài tập học trò chưa chấm anh để lại, bụi phủ đầy, cô tìm thấy tập nhạc Phú Quang cô tặng anh ngày xưa. Cô nhớ lại bài hát mình thích. “Người yêu ơi, dù mai này cách xa…” Anh và cô đã cách xa nhau thật rồi. Trong con đường anh chọn, không có chỗ cho cô bước cùng. Cô không ân hận về quyết đã không ở lại thành phố với anh. Cô biết ở đây, mình cần thiết như thế nào. Cô mím môi, dặn mình đừng buồn nữa, nhưng sao lòng cứ rưng rưng, muốn khóc…

Đám cưới Hà Nội

Lũy gởi cho tôi cái thiệp cưới đỏ chót ghi mời “An và bạn gái”, ngoài bì có hai chữ “L-T” lồng vào nhau bay bướm, kèm theo là mấy dòng thư: “Tài chính eo hẹp quá tao không tổ chức cưới ở Đà Nẵng được, mầy thu xếp ra Hà Nội dự đám cưới tao, rủ Hoa đi thì hay quá. Bạn bè tao chỉ còn có mình mầy, cố gắng thu xếp ra. Trang cũng mong mầy lắm”. Trang, vợ Lũy, là dân Hà Nội, tôi gặp trong vài lần Trang theo Lũy về Đà Nẵng thăm quê chồng. Tôi đọc thư Lũy, tự nhiên buồn buồn, tội nghiệp cho thằng bạn thân của tôi quá, rồi không lý giải được vì sao mà thấy tội nghiệp. Lẽ ra cưới vợ phải vui chớ! Tôi hỏi Hoa: “Em có cùng đi với anh?”. Hoa im lặng, đắn đo một chút rồi lắc đầu: “Công việc ở cơ quan em cuối quý bận lắm, chắc là không được đâu”. Hoa đã nói vậy, tôi không thêm một lời nào, chợt nghĩ: lại phải đi một mình, như lâu nay vẫn ở một mmh, ăn cơm bụi một mình, đi mua sắm một mình… Hoa luôn nói yêu tôi và tôi cũng tin như vậy, nhưng rồi thấy mình hình như không chắc chắn với mình lắm. Tự hỏi: Không biết có phải là tại mình đang già đi, đang trở nên khó tính và lẩm cẩm quá không?

Hoa tiễn tôi ra sân bay: “Anh ra đến nơi nhớ phone về để em yên tâm. Khi nào về báo trước để em đi đón”. Tôi gật đầu: “Ừ!”, thấy chùng lòng vì vẻ chăm sóc ngọt ngào của Hoa. Buổi sáng tháng ba, trời Đà Nẵng ấm và đầy gió. Hoa dặn: “Hà Nội chắc lạnh lắm đây, anh nhớ choàng khăn choàng cổ” rồi dúi vào tay tôi một thỏi chewing-gum, cái thứ kẹo dai nhách và nhạt phèo. Tôi vẫy tay Hoa bước vào phòng đợi, thấy người trống rỗng, không buồn không vui, chẳng hề giống như mọi lần khác tạm biệt nhau.

***

Hà Nội đang có gió mùa đông bắc, tôi xuống sân bay, choàng vội chiếc khăn choàng của Hoa xếp vào túi xách trước khi đi, vẫn cứ phải co ro người. Tuyền đón tôi ở cổng ga đến: “Anh Lũy bận quá, nhờ em đi đón anh”, rồi huyên thuyên giới thiệu: “Em là bạn thân của Trang. Anh Lũy chỉ đưa em xem ảnh của anh, vậy mà lúc anh vừa bước ra, em đã nhận ra anh ngay”. Tôi cười: “Công nhận Tuyền tài ghê, mình phục đấy! Phải nhờ vả Tuyền thế này, phiền quá! Mình nghĩ mình tự về cũng được mà”. Tuyền phụng phịu: “Anh mà nói thế, em giận đấy. Anh Lũy bảo với em, anh ra Hà Nội lần đầu”. Tôi chợt thấy chột dạ: hình như Lũy đã khai báo hết về tôi cho cô bé này nghe rồi, định bụng về gặp sẽ hỏi tội Lũy. Rồi lại thấy: Đúng là con gái Hà Nội, tự nhiên thật!

Tuyền chụp lên đầu tôi cái mũ chạy xe mô tô, đưa chìa khóa xe cho tôi, bảo: “Anh đèo em!”, rồi xăng xái: “Anh đưa túi xách cho em”, tự động ngồi lên xe, ôm choàng lấy hông tôi như đã quen thân từ lâu lắm. Suốt đường đi, Tuyền cứ ríu ran hỏi chuyện, chuyện gia đình, chuyện công việc, hóa ra Tuyền rành rẽ về tôi nhiều hơn tôi tưởng. Tôi cười: “Anh chả biết gì về em, trong khi em rõ ràng lý lịch của anh quá. Như vậy là không công bằng chút nào cả”. Tuyền cũng cười, đưa nắm đấm vào lưng tôi: “Anh sao vội quá, từ từ đã, lo gì”, rỗi bâng quơ hát nho nhỏ sau lưng tôi: “Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng…”, giọng hát đầy và ấm. Gió cứ thổi vun vút bên tai tôi, những hàng cây lá vàng lấp lóa lướt qua, và tôi băn khoăn tự hỏi không biết có phải là cây cơm nguội không mà lá vàng quá thể…

***

Lũy ôm lấy hai vai tôi, lắc lắc: “Trời ơi, tao mong mầy quá chừng”, quay sang Tuyền: “Em lên đón, có nhận ra nó ngay không?”, Tuyền nghiêng đầu nhí nhảnh: “Em chỉ nhìn qua là biết ngay”, rồi cười: “Em trao trả bạn anh còn nguyên, không sứt mẻ gì hết nghe! Xong nhiệm vụ rồi, em về đây!”, quày quả quay ra cổng. Tôi nói với theo: “Anh cảm ơn Tuyền nhiều nhe!”. Tuyền ngoái đầu lại nhìn tôi nheo mắt. Tôi hất hàm hỏi Lũy: “Bạn Trang đấy à?”, Lũy gật đầu: “Ừ, bạn thân đấy! Mầy thấy sao?”, không đợi tôi trả lời, lôi tôi vào nhà, than thở: “Bận ngập đầu luôn, tao cư ước giá có mầy ở đây giúp tao một tay”. Tôi cười trêu Lũy: “Cưới vợ, sướng muốn chết rồi, còn than thở nỗi gì hả?”

Ba mẹ Lũy đã ra đây từ mấy ngày trước để lo đám cưới cho cậu con trai út, có cả vợ chồng chị Liên, chị gái Lũy, cùng ra. Anh Hải, chồng chị Liên, cười chào tôi: “Lũy coi như xong rồi, bao giờ thì đến lượt An đây?”. Tôi làm ra vẻ hiền lành: “Ai mà thèm ưa em!”. Chị Liên sà vào góp chuyện: “Đàn ông con trai nói chuyện có một sách, chán thật. Như anh Hải ngày xưa, sắp cưới chị đến nơi rồi mà ai hỏi cũng cứ trả lời y như em. Chị là chị hiểu lắm?”. Anh Hải đưa tay dí trán chị Liên: “Em chỉ toàn nói xấu anh không à!”. Chị Liên “xí!’ một cái, nghe dài giọng: “Xin lỗi nha, lỡ nói tốt cho người xấu”, rồi làm bộ “í quên” làm cả nhà cười ồ…

Mẹ Lũy chào tôi vồn vã: “Mới ra hả con, mấy ngày nay thằng Lũy mong con quá trời”. Ba Lũy vỗ vai tôi, thân tình: “Ngày mai, con đi họ với gia đình bác nghe!”. Tôi suýt than trời: “Còn gì là đời trai của con nữa!”, chợt nghĩ: Đây là chuyện nghiêm chỉnh của người lớn, không đùa được, bèn gật đầu: “Dạ!”. Lũy cười với tôi: “Mầy không sợ lẻ bạn đâu, tao đã nhờ Tuyền đi với mầy rồi. Hay là tận dụng cơ hội này ở lại Hà Nội luôn với tao đi”. Rồi làm như chợt nhớ ra, Lũy hỏi: “Sao mày không rủ Hoa cùng ra?”. Tôi cười buồn: “Hoa nói là bận việc cơ quan!” Lũy ái ngại: “Có chuyện gì không ổn hả?”. Lũy vốn là đứa tinh ý, tôi biết mình sẽ không giấu được Lũy điều gì, nhưng cũng không biết mình sẽ kể Lũy nghe điều gì. Thật sự, Hoa cũng không có gì đáng trách, dường như nỗi buồn trong tôi là do tôi nghĩ ngợi mà ra, Hoa có can dự gì đâu.

***

Buổi tối, xong hết việc, Lũy lấy xe đưa tôi đi lòng vòng các phố. Hai thằng cứ chạy quanh, không mục đích, không ai nói với ai tiếng nào. Chúng tôi đi ngang qua hồ Gươm, nhìn những chiếc ghế đá ven hồ đầy các cặp tình nhân ôm nhau, ngang qua các phố Hàng Bài, Hàng Gai buôn bán sầm uất. Lũy đột ngột lên tiếng: “Ngày mai, tao gỡ mác độc thân rồi, hết còn được bay nhảy. Trang hiền lắm, thương tao lắm!” Tôi vẩn vơ nghĩ ngợi: Tại sao Lũy nói “Trang thương tao lắm” mà lại không nói “tao thương Trang lắm”?, chợt nhận ra rằng trong đời sống, dù niềm vui có lớn đến đâu thì dường như bên trong nó vẫn chứa đựng những điều không trọn vẹn khó nói. Tôi đột ngột vòng hai tay ôm lấy ngang hông Lũy, thật chặt, trước đây tôi chưa từng làm thế bao giờ, mơ hồ cảm nhận một cảm giác không rõ ràng như thể mình sắp có một mất mát lớn lắm. Rồi lại thấy mình vô cùng lẩm cẩm, mai mốt rồi cũng có ngày tôi lấy vợ thôi, như Lũy hôm nay. Tôi nhớ đến Loan, đến Cẩm, đến Phượng, những cô bạn gái không thành trước đây của Lũy, mơ màng nghĩ chắc các cô sẽ buồn lắm đây khi nhận được tin từ đây Lũy sẽ mãi mãi thuộc về một người, suốt đời…

Lũy lên tiếng: “Khuya rồi, mình về đi”, chở tôi đi ngược lại những con đường cũ về nhà Lũy. Lũy phóng xe ngang qua một con phố hai làn đường, ở giữa có bồn cây thật rộng, những vòm lá đan dày với nhau. Tôi xuýt xoa: “Đẹp ghê há?”. Lũy gật đầu: “Ừ, phố mới, phố Liễu Giai đấy! Có bồ, dẫn đi dạo ở phố này thì không gì bằng”. Tôi nghe Lũy nói, da diết ước ao giá có Hoa ở đây rồi tưởng tượng ngày mai, trong lễ cưới Lũy, họ nhà trai có tôi với Tuyền làm thành một cặp, vô cùng xứng đôi vừa lứa, buồn bã tự hỏi: sao lại không phải là với Hoa? Tôi biết sau này, dù Hoa có coi cuộn băng vidéo quay lại đám cưới Lũy, hay có xem ảnh đám cưới, Hoa cũng không thèm ghen đâu, tính Hoa không thích ghen vặt. Hoa vẫn từng nói anh muốn đến thì đến, muốn đi thì đi em không giữ anh đâu, bởi có giữ cũng không được, gượng ép lắm. Hình như Hoa chưa bao giờ sợ mất tôi

***

Suốt đám cưới, Lũy lôi tôi đi khắp nơi, giới thiệu với ba mẹ, họ hàng của Trang: “Đây là bạn thân của con, mới từ Đà Nẵng ra” và với bạn bè Trang: “Bạn của anh, anh vẫn thường kể đấy, từ Đà Nẵng ra đây với anh”. Ba mẹ Trang trầm trồ: “Ồ, quý hóa quá, anh không quản đường xa”. Mấy cô bạn của Trang thì thầm thì: “Anh Lũy có bạn thân ghê nhỉ!” làm tôi cứ luôn ở trong tâm trạng lâng lâng, nửa sung sướng, nửa ngượng ngùng. Tuyền nói cười luôn miệng, tôi bất giác nghĩ: Chắc Tuyền không biết buồn bao giờ. Tuyền lúc thì lôi tôi giới thiệu với đám bạn này, lúc thì đám bạn kia: “Bạn thân của anh Lũy đấy, từ miền Nam ra đấy!”. Anh Hải gọi tôi ra một góc nói nhỏ: “Tao thấy con bé bạn của Trang chịu mầy lắm rồi, tính tới luôn đi, lấy vợ Bắc kỳ với thằng Lũy nhà này cho vui” rồi nhìn cái vẻ mặt lừ khừ của tôi, văng tục: “Anh thấy mầy bờm bỏ mẹ, chả trách!”

Lúc nhà trai sắp lên xe, nhà gái bịn rịn tiễn cô dâu, Tuyền hỏi tôi: “Khi nào anh vào Đà Nẵng lại?” Tôi nghĩ trong đầu: Xong đám cưới rồi, còn ở lại làm gì nữa, Lũy nó không cần mình nữa rồi, buột miệng: “Ngày mai”. Tuyền chép miệng: “Sao anh vào sớm thế?”, vồn vã mời: “Nếu anh còn thời gian, anh nói anh Lũy với Trang đưa lên nhà em chơi”. Tôi hờ hững: “Ừ, nhưng anh không hứa chắc, em đừng chờ”, nhận ra mình hơi bất nhẫn: “Tuyền có số phone, cho anh xin, hôm nào anh sẽ gọi điện ra thăm”. Tuyền hăm hở ghi cho tôi số phone, luôn mồm dặn: “Anh nhớ nhá! Đừng quên nhá!”. Tôi cầm lấy số phone Tuyền đưa, nghi ngờ không biết khi nào mình mới gọi cho Tuyền được đây…

Lũy hỏi: “Sao mấy về sớm quá, không không ở lại lên Sa Pa chơi với vợ chồng tao, đi chợ tình cho biết”. Tôi đã ước ao từ lâu được có một chuyến đi Sa Pa, nhưng rồi tự nhủ: Chỉ tổ tủi thân thêm, lắc đầu: “Không được đâu, cơ quan tao dạo này bận lắm” với vẻ mặt vô cùng tiếc rẻ. Lũy xăng xái: “Ngày mai, tao sẽ book vé máy bay cho mầy, nhờ mầy đưa Tuyền đi chợ sắm ít quà về Đà Nẵng”. Tôi xua tay: “Thôi khỏi, đừng làm phiền Tuyền nhiều quá”, chợt nhớ khi book vé xong, phải gọi điện thoại về báo ngày giờ bay để Hoa đi đón, vả lại, nhờ một cô gái đưa đi mua quà để tặng một cô gái khác là điều khốn nạn không gì bằng. Rồi lại thấy, suy cho cùng, tôi cũng giống như Lũy thôi, chuyến đi Hà Nội ăn cưới Lũy như thế này là đã bay nhảy lắm rồi, tôi sắp phải trở về với cuộc sống thường nhật của tôi, mà sao chưa bao giờ Hoa có cái niềm tự hào vô tư đưa tôi đi giới thiệu với bà con, bạn bè như vậy để tôi có được cái tâm trạng như trong đám cưới Lũy, cứ thấy lâng lâng, nửa sung sướng, nửa ngượng ngùng…

Về Phố

Dễ thường, chị xa phố đã gần mười năm. Ngày chị đi, phố vẫn còn ngủ yên, không như bây giờ, là khu du lịch phố cổ nổi tiếng, khách tây, khách ta luân phiên ra vào nườm nượp. Lúc đó, Quỳnh hãy còn nhỏ lắm, ngày cưới của chị, vẫn bộ váy xanh áo trắng đồng phục đi học thường ngày, tay còn lấm đầy mực xanh, chạy lăng quăng quanh xóm khoe: “Đám cưới chị tao, anh rể tao từ Mỹ về nhe, mai mốt chị tao qua Mỹ ở luôn!” trước những cặp mắt thán phục của tụi bạn cùng xóm. Đâu biết lần đó chị đi là suốt những đêm tiếp sau, Quỳnh ôm gối khóc vùi vì thiếu hơi mồ hôi nồng nồng của chị, cái giường hai chị em vẫn ngủ chung bỗng rộng thênh thênh… Và suốt khoảng thời gian từ một con bé chuyển thành thiếu nữ, Quỳnh chẳng có chị để thủ thỉ chuyện này chuyện nọ mỗi lúc đi học về, thư của chị thì họa hoằn mới nhận được, chỉ toàn là chuyện chồng con và nỗi nhớ của người xa phố. Phố trong tiềm thức của chị, với những nếp nhà cũ kỹ, mái ngói âm dương đọng rêu xanh rì, chiều chiều có tiếng rao lục tàu xá khàn khàn đầu ngõ, kèm theo tiếng mõ khua lốc cốc… Không phải phố của bây giờ, hàng ăn, hiệu vải bảng hiệu kẻ chữ lòe loẹt, ồn ả, náo nhiệt…

Quỳnh tròn mười tám tuổi và nhận được tin chị về thăm. Tin một người từ Mỹ về đối với phố bây giờ không còn là tin sốt dẻo như cách đây mấy năm nữa, khi thông thương còn khó khăn và cuộc sống còn cực khổ. Cả nhà Quỳnh nôn nao và tự nhiên Quỳnh thấy thương chị hơn bao giờ hết, một thứ tình cảm dường như âm ỉ trong Quỳnh từ nhỏ mà Quỳnh chưa hề nhận ra. Quỳnh suốt ngày kể chuyện về chị đến nỗi Thông phát gắt lên: “Lúc nào cũng chị, Quỳnh làm như chỉ mình Quỳnh là có chị.”. Quỳnh không thấy giận Thông, Thông làm sao hiểu được Quỳnh chỉ có mỗi mình chị. Ba đi làm xa cả tháng mới về, mẹ buôn bán suốt ngày ngoài chợ, chị là cả một thời thơ ấu của Quỳnh…

Rồi chị cũng về đến phố, vào một ngày trời chớm mưa, những giọt mưa hòa lẫn với những giọt nước mắt tủi mừng hạnh ngộ trên má chị. Mẹ ôm lấy vai chị, nghẹn ngào: “Con tôi…” rồi nức nở. Ba vui lắm, mấy năm gần đây ba không được khỏe, lập cập huơ huơ chiếc gậy cầm tay trên nền gạch: “Hai đó hả con?”. Chị vùi mặt vào vai mẹ mà khóc. Chỉ có Quỳnh, một mình đứng đó, ngỡ ngàng không thốt được một lời. Chị đấy sao, một người phụ nữ trung niên trắng mập, sang trọng đến xa lạ? Đến khi chị quay lại nhìn Quỳnh, đôi mắt ánh lên vẻ yêu thương một cách buồn rầu, chị thầm thì gọi Quỳnh: “Cún Con!” thì Quỳnh nhận ra chị ngay, chị của Quỳnh thật đây rồi. Bỏ qua những năm tháng cách biệt, bỏ qua hàng rào lối sống ngăn cách, chị lại là chị của Quỳnh ngày xưa, của những ngày cả hai chị em từng lóc ngóc ngồi chờ một tiếng rao lục tàu xá khàn khàn quen thuộc, chén lục tàu xá ngòn ngọt thơm lừng, vét sạch chén vẫn chưa đã thèm…

Chị không về một mình, theo chị là thằng Cún Con gần ba tuổi, mắt tròn xoe, miệng ngọng nghịu mấy câu tiếng Anh chưa rõ lời. Chị ngượng ngùng phân trần: “Hai đứa lớn đi học, con dẫn thằng nhỏ về cho biết phố. Nó không biết nói tiếng Việt.” rồi giải thích: “Con gọi nó là Cún Con để đỡ nhớ dì Út.”. Quỳnh nghe mắt mình cay cay, trong Quỳnh đang lan tỏa một thứ tình cảm ruột rà ấm áp. Bất giác, Quỳnh đưa tay vẫy vẫy thằng bé: “Lại đây chơi với dì Út, Cún Con!” để được đáp lại bằng một ánh mắt dè chừng, sợ sệt. Tự nhiên Quỳnh thấy buồn, thằng bé là con của chị Quỳnh, là cháu ruột của Quỳnh, hoàn toàn không phải là người của một thế giới xa lạ nào khác, sao nó lại không giống Quỳnh và chị, lại chẳng nói chung một thứ tiếng nói của Quỳnh và chị, của bà con nội ngoại. Quỳnh không hình dung được trong ngần ấy năm chị đã xoay xở như thế nào để tồn tại, chợt thấy đau lòng kinh khủng, mà không thể diễn tả được rạch ròi những điều đang xảy ra trong đầu mình…

Chị đòi Quỳnh đưa chị đi khắp nơi, thăm bạn bè cũ, luôn mồm hỏi thăm chỗ này chỗ nọ, người này người kia, ai còn ai mất… để rồi Quỳnh thấy chị như buồn hơn, trầm tư hơn. Chị đến thăm ngôi trường ngày xưa chị học, bây giờ cũng là trường của Quỳnh, nhưng chẳng tìm được người quen. Thầy Bách dạy Hóa, cô Tươi giám thị qua đời cách đây vài năm, các thầy cô khác người thì đã nghỉ hưu, người đã lưu lạc phương nào. Chị mừng đến phát khóc khi bắt gặp chiếc ghế đá cũ dưới hàng dương trước mặt cột cờ giữa sân trường, ngày xưa, giờ ra chơi chị hay ngồi hóng mát, nghe tiếng lá dương rì rầm trong gió, tiếc bây giờ hàng dương không còn, thay vào là mấy cây bàng uy nghi, sừng sững… Chị đi chợ với Quỳnh, gặp một chị bạn cùng lớp cũ đang bán hàng, ôm chầm lấy nhau giữa chợ không kể bộ áo quần lấm lem luốc của chị bạn. Hai người ríu ra đủ thứ chuyện, thật vui, và Quỳnh ngồi đó nghe hai chị nói chuyện, tự hỏi mười lăm, hai chục năm sau, Quỳnh và một đứa bạn nào đó của Quỳnh gặp lại, có sẽ như thế này… Đứa bạn đó chắc chắn sẽ không thể nào là Thông, Thông vốn không thích những trò mà Thông cho là tình cảm nhăng nhít. Không dưng, Quỳnh thấy buồn, nỗi buồn không nguyên cớ mà có thật, cố nén một tiếng thở dài…

Phố vẫn thế, vẫn những nếp nhà cũ kỹ, mái ngói âm dương đọng rêu xanh rì, bây giờ hàng quán nhiều hơn, nhưng không còn là của ngày xưa. Chị dẫn Quỳnh đi quanh, cố tìm một gánh lục tàu xá nhưng không thấy. Ông lão bán lục tàu xá già yếu lắm rồi, đã nghỉ bán từ lâu. Cả bà lão hay gánh xí-mà ngang qua nhà, hồi nhỏ ít tiền, chị hay nhường cho Quỳnh, phần mình chờ Quỳnh ăn xong vét chén, mới hay là từ lâu bà lão đã không còn. Cuộc sống chung quanh bây giờ có nhiều điều xao động quá, đến chén xí-mà của tuổi thơ cũng bị Quỳnh lãng quên thì làm sao mà bà lão không bị người đời quên lãng. Chị chép miệng: “Hồi nhỏ thì không có tiền, bây giờ định bụng về ăn cho đã thì mới biết nhiều thứ đã không còn. Thế thì làm sao Cún Con của chị biết phố.”. Cún Con, sau một thời gian theo bà ngoại, đã biết vòi dì Quỳnh, bập bẹ mấy câu tiếng Việt ngọng líu, lơ lớ, đã dám ra ngõ chơi với tụi nhỏ hàng xóm, cũng đùa giỡn, la hét ì xèo. Quỳnh nhìn vào mắt chị, tưởng không còn niềm vui nào lớn hơn…

Chị hay rủ Quỳnh đi dạo quanh phố lúc gần nửa đêm, chính lúc nửa đêm chị mới tìm được phố của mình. Phố trong đêm, là những đường nét gân guốc, huyễn hoặc dưới bàng bạc ánh trăng, luôn gợi lên vẻ u hoài, trầm mặc. Không còn tiếng mõ khua lốc cốc của những hàng quà rong bán dạo trong đêm, phố dường như im ắng hơn. Chị mua bánh mì chả, hai chị em vừa đi dạo loanh quanh phố vừa nhấm nháp… Quỳnh nhớ hồi chị mới lớn, buổi tối đi đâu về, chị cũng đem về cho Quỳnh mấy miếng bánh mì chả thơm giòn, béo ngậy. Ngày đó, chị không xinh lắm nhưng có duyên, môi hồng, mắt sáng long lanh và tóc như mây. Quỳnh còn nhớ anh Phong bên cạnh nhà vẫn thường hối lộ bánh cho Quỳnh để được làm quen với chị… Suốt những cuộc chuyện trò của hai chị em, chị không hề nhắc đến một cái tên con trai nào nhưng có lần Thông đến rủ Quỳnh đi chơi bị Quỳnh từ chối làm Thông dằn dỗi bỏ về, chị đã buồn buồn với Quỳnh mà rằng: “Chỉ có những tình cảm thời học trò là chân thành, là đẹp nhất, em cố mà nâng niu, kẻo sau này chẳng bao giờ tìm lại được.”. Ôi, chị của Quỳnh, chị về thăm phố có hơn tháng, Quỳnh chỉ có ý muốn thời gian này dành hết cho chị…

Thấm thoát, chẳng mấy chốc đến ngày chị đi. Cún Con lúc này đã bám đòi bà ngoại nhiều hơn mẹ, chị bịn rịn dắt con lên máy bay mà mắt rơm rớm. Cả nhà Quỳnh cũng không ai kìm được nước mắt, xem ra cuộc chia tay lần này còn nặng nề hơn lần chị đi lấy chồng. Sau chuyến về thăm phố, chị phải quay trở về với cuộc sống thường nhật, bổn phận làm người của mình bên kia bờ đại dương, mà sao Quỳnh thấy cái cuộc sống tha hương của chị cô đơn, nghiệt ngã quá. Sẽ cứ êm đềm mà bức bối như thế, rồi có qua đi một kiếp người?

Thông cũng theo Quỳnh ra sân bay tiễn chị. Lúc máy bay cất cánh cũng là lúc Quỳnh, mặt nhòe nhoẹt nước mắt, từ từ khuỵu xuống trong cánh tay vững chải của Thông…

E-mail

1. Anh tình cờ bắt gặp những dòng làm quen trên internet: “Có ai là người Hội An không? Tôi là một người Hội An xa quê. E-mail cho Đông Nguyên theo địa chỉ: dongnguyen@hotmail.com“. Anh vốn không phải là người mặn mòi cho lắm với những trò làm quen trên báo, trên mạng máy tính nhưng không hiểu sao, có một cái gì như níu anh lại khi đọc những dòng làm quen này. Ừ, thì có thời anh cũng là người Hội An xa quê, ở xa mà gặp một người đồng hương là mừng muốn chảy nước mắt. Anh hình dung Đông Nguyên có nét thật giống anh ngày xưa. Ở một nơi xa, không bạn bè, không họ hàng, với những người không cùng tiếng nói, phong tục, và xa lạ, quả là một cực hình.
Anh gởi e-mail cho Đông Nguyên: “Có một thời, tôi cũng là người Hội An xa quê. Nhưng may mắn làm sao, bây giờ tôi đã trở về. Tôi ba mươi tuổi, xin được phép gọi Đông Nguyên là em vì chắc em nhỏ tuổi hơn tôi. Hân hạnh được làm quen với em.”. Anh còn nhớ lần đầu tiên anh gởi e-mail cho Đông Nguyên là một Chủ nhật đầy nắng, giữa lúc anh đang chèo queo ở nhà vì không tìm ra được bạn uống cà phê. Trong một buổi sáng Chủ nhật nhàn rỗi, con người ta dễ cảm thấy cô đơn biết bao, thèm được trò chuyện biết bao.


2. “Em mười chín tuổi, đang học ngành Y khoa tại Toronto. Ông có thể yên tâm gọi em bằng em mà không sợ bị hố. Em rời Hội An cách đây hai năm. Hội An nhỏ xíu à, ở đó ai cũng biết nhau, tại sao trước đây em không biết ông?”. Tại sao trước đây em không biết ông? Cô nhỏ Đông Nguyên này thật ngộ, câu hỏi của cô, cả cách xưng hô của cô cũng thật ngộ. Những dòng ngắn ngủn của Đông Nguyên làm anh thấy vui vui, chợt nhận ra đôi lúc niềm vui đến với mình thật đơn giản. Tại sao trước đây chúng ta không biết nhau? Đơn giản vì anh xa Hội An lúc cô còn rất nhỏ, lúc anh trở về thì cô đã ra đi. Bây giờ đang là cuối hè, ở Hội An, những cây phượng dọc đường Trần Hưng Đạo đã bắt đầu kết trái và ra lá xanh rì. Anh nhớ thời đi học của mình, trường của anh ở đầu đường Trần Hưng Đạo, ngày nào cũng hai bận qua lại trên con đường này, nghỉ hè chừng vài bữa lại thấy rưng rức nhớ những tán hoa phượng đỏ rực như lửa. Đông Nguyên rời Hội An cách đây hai năm, lúc đó chắc cô đang học lớp 11, như vậy hẳn cô cũng đã từng đi qua con đường thời đi học anh đã đi qua, ngồi học ở ngôi trường anh đã từng ngồi. Và thầy cô cũ của anh ngày xưa biết đâu cũng là thầy cô của cô. Nếu vậy thì người Hội An mình có nhiều điểm đồng cảm với nhau quá, phải không Đông Nguyên?


3. “Em nghe ông kể chuyện mùa hè mà thấy ham. Canada bây giờ cũng đang hè, nhưng mà trời se se lạnh. Em nhớ hoa phượng, cái màu đỏ của hoa phượng thật cháy lòng. Ông tinh ý quá, đúng là em học xong lớp 11 rồi mới đi. Ở Hội An, nhà ông ở đâu? Ông chỉ cần nói ở đâu là em có thể hình dung ra ngay, em nhớ Hội An từng góc phố, từng con đường. Nhà em ở trên Ngọc Thành, ông có biết Ngọc Thành?…”. Có, anh có biết Ngọc Thành, đã từng rất quen thuộc với anh nữa kia. Đó là một làng ven sông với những ngôi nhà nằm lọt thỏm giữa vườn cây xanh ngút mắt, con đường chính dẫn vào làng băng qua hai bên là đồng lúa. Và cái bến sông quen, hồi đi học anh có một thằng bạn thân ở trên đó, cứ hễ Chủ nhật hoặc ngày lễ là bọn anh rủ nhau lên Ngọc Thành, để áo quần ở nhà thằng bạn, ra bến câu cá, tắm sông… Sao cái thời đi học, bọn anh vô tư và vui vẻ đến vậy. Anh cũng có một mối tình nơi bến sông Ngọc Thành, cô bạn anh học cùng trường, chiều chiều hay ra bến sông gánh nước. Không hề nói với nhau được một câu cho ra hồn, chỉ có tụi bạn anh trêu ghẹo gán ghép và nụ cười răng khểnh của cô bạn. Có thể gọi đó là một mối tình? Sau này, thằng bạn anh đi làm ăn xa, anh ít có dịp ghé lên lại Ngọc Thành, nhưng anh nghĩ suốt đời mình cũng khó lòng quên được nụ cười răng khểnh đó…

4. “Em đã vào năm học mới, bên này mà đi học, đi làm là bận bù đầu. Em ít gởi e-mail cho ông, ông có buồn không? Thật lòng, em rất thích đọc mail của ông, nghe ông kể chuyện Hội An. Ông làm suốt đêm qua, em nằm mơ khóc ướt cả gối vì nhớ nhà. H! ồi còn nhỏ, em cũng hay theo chị em ra bến sông giặt đồ, sao em không gặp ông? Em buồn cười quá phải không? Bây giờ thì em phải đi học đây, chào ông!”. Cuộc sống là vậy, cứ phải tất bật, hối hả, ở đâu thì cũng làm việc cật lực để sống… Cả ngày hôm nay, anh phải tiếp một đoàn khách từ Nhật Bản sang tìm hiểu thị trường du lịch Việt Nam và những tiềm năng du lịch của Hội An. Anh đưa họ đi suốt từ sáng sớm đến tối mịt, đi quanh phố, ghé thăm Chùa Cầu, những ngôi nhà cổ, các hội quán, chùa chiền xưa. Họ quan tâm đến những điều tưởng chừng rất nhỏ nhặt, một mảng tường rêu, cái giếng cổ trong con hẻm nhỏ, viên gạch lót sàn có niên đại cũ, cách bày biện trong một quán cao lầu truyền thống… Họ khen phong thái và nụ cười của người Hội An, cởi mở, hiếu khách, em thấy Hội An mình oai không, Đông Nguyên? Ngày mai, anh lại phải một ngày đưa đoàn khách đi thăm mấy ngôi mộ Nhật Bản cổ, sau đó, ra sông xuôi dòng xuống bến Thuận Tình, về hướng Cửa Đại. Mệt, vì phải trả lời họ suốt ngày, nhưng vui!


5. Tết Trung Thu ở Hội An là một dịp đặc biệt. Từ năm giờ chiều, người ta đã cấm tất cả xe cộ vào khu phố cổ để cho một đêm hội thật sự náo nhiệt. Phố xá tắt hết đèn điện, nhường chỗ cho lồng đèn và bàng bạc ánh trăng, huyền ảo mà lộng lẫy… Hội múa lân, hội rước lồng đèn, xe hoa kéo dài thành cả một đoàn đi vòng quanh các phố. Dưới chân Chùa Cầu là một sân khấu nhỏ cho thiếu nhi hát đồng dao: “Úp lá khoai, mười hai con giáp, đứa mặc áo trắng, đứa mặc áo đen, đứa xách lồng đèn, đứa cầm ống thụt chạy vô chạy ra…”. Anh đi dạo lòng vòng cùng với mấy người bạn là thợ chụp ảnh amateur, quanh các phố, sau đó ra bờ sông coi thả hoa đăng và nghe hát hò khoan. Đúng lúc đó, anh chợt nghĩ tới Đông Nguyên. “Ông làm em nhớ lại mấy trò chơi hồi còn nhỏ. Hồi nhỏ, em có hai đứa bạn thân, ngày nào cũng chơi mấy trò Úp lá khoai, Rồng rắn lên mây… Ông biết không, bên này, em không có một đứa bạn thân nào cả. Trung Thu, tủ lạnh nhà em đầy bánh, chỉ thiếu bánh Trung Thu. Trời bên này lạnh kinh khủng, em không thể ra balcony ngắm trăng mà vọng cố hương được. Buồn quá, phải không ông?”. Có một cái gì đó len lỏi trong tim anh, thật dịu dàng. Anh thấy thương Đông Nguyên, như là một cô em gái côi cút đang ở một nơi xa xôi…

Giá mà có Đông Nguyên ở đây, anh sẽ mời cô bắc ghế ra trước sân nhà anh ngắm trăng, nhâm nhi bánh Trung Thu và uống trà. Đêm nay, anh cũng chỉ có một mình, thèm được chuyện trò ghê gớm, Đông Nguyên à!


6. “Giáng Sinh này, em đi nghỉ với gia đình ở Orange County bên Cali, thăm mấy người bà con. Ông biết không, ở đây có một khu được gọi là Tiểu Sài Gòn vì người Việt sinh sống nhiều. Em đi dạo, thấy nơi đây không giống Việt Nam, cũng không phải là Mỹ. Em đi ăn phở, chẳng hề giống phở bên mình, em nhớ phở Liến của Hội An mình kinh khủng, ông à. Nhắm mắt lại, em vẫn còn hình dung rõ ràng bát phở thơm lừng, nước phở trong vắt, sợi bánh phở ăn dai dai, sừn sựt, rau quế xanh ngắt, đu đủ ngâm dấm chua chua, giòn giòn… Phở Liến bây giờ ra sao rồi hở ông?”. Phở Liến thì vẫn nguyên chỗ cũ, hầu như sáng nào anh cũng ghé! Gian hàng phở chật chội và hơi ẩm ngày xưa, bây giờ được sửa sang lại thành một căn nhà hai gian, khang trang, sạch sẽ, tiếc là không còn giàn bông giấy phía trước. Mấy chục năm qua, hương vị phở vẫn vậy, ngọt ngào, không lẫn đi đâu được… Con trai ông phở Liến là bạn cùng lớp với anh hồi còn nhỏ, rất dễ nhận ra là con ông phở Liến bởi lông mày rậm, tóc quắn, người to tròn, bây giờ có mở một chi nhánh phở Liến dưới Cẩm Châu. Có mấy chi nhánh phở Liến như thế ở quanh Hội An, nhưng căn nhà hai gian trên đường Lê Lợi sáng nào cũng đông nghẹt người… Hội An mình còn có cơm gà bà Minh, bánh tráng đập dập Cẩm Nam, bánh mì chả chiên giòn ngay đầu cổng chợ…, Đông Nguyên còn nhớ? Ngày xa Hội An, anh chỉ ao ước có phép lạ nào đó giúp mình bay về, ăn một bữa cho đã, rồi chết cũng sướng. Anh nói dại quá phải không, Đông Nguyên?

“Noel xong, em bận thi cử liên miên, chắc là thi xong em mới gởi e-mail lại cho ông được. Ông đừng buồn, em vẫn nghĩ tới ông, như một dấu ấn kỷ niệm về quê nhà xa xôi. Em mong sau này, khi lớn lên, già đi, mình vẫn còn gởi e-mail liên lạc với nhau như thế này. Ông có mong như vậy không?”


7. Sao lại không hở Đông Nguyên, khi mình đã là bạn bè của nhau? Anh nhớ đã có lần nói điều này trong một cái e-mail nào đó gởi cô rồi. Noel qua đã lâu, anh vẫn không nhận được thêm dòng nào của Đông Nguyên. Cô bận học thi, như cô nói, hay vì một lý do nào khác. Cuộc sống ở xứ người, luôn luôn phải chống chọi và mệt mỏi, những người sống tình cảm như cô chắc phải chật vật lắm mới thích nghi nổi. Tự nhiên anh thấy lo lo, nỗi lo lắng thật mơ hồ, không biết có chuyện gì xảy ra với Đông Nguyên. Tự lúc nào, Đông Nguyên đã trở thành một phần đời sống của anh. Sáng Chủ nhật nào anh cũng mở máy ra check mails, dù không chắc sẽ nhận được những dòng e-mail quen thuộc của cô.

Hội An rục rịch đón Tết. Cây mai trước sân nhà anh, được lặt lá từ hai tháng trước, bây giờ kết những nụ hoa vàng, be bé, xinh xinh. Phố xá, chợ búa dường như đông hơn, người ta bắt đầu mua sắm, sửa soạn nhà cửa, quét vôi, sơn phết lại, chuẩn bị cho một năm mới tốt lành. Tháng Chạp, công việc của anh cũng bận rộn hơn, khách du lịch nhiều, lại phải tổng kết cuối quý, cuối năm. Có đôi sáng Chủ nhật rảnh rang bất chợt, anh bắt gặp mình nhớ Đông Nguyên, tự hỏi: Chẳng biết lúc này cô đang làm gì?

Công việc như cuốn lấy anh, không cho anh kịp thở. Anh bất ngờ nhận được e-mail của Đông Nguyên, tiếng bíp nhẹ của máy tính báo có mail, bình thường thôi, nhưng làm anh hồi hộp đến run người. “Em muốn dành cho ông một bất ngờ nho nhỏ. Sáng 28 Tết, ông đón em ở đầu cổng chợ. Dấu hiệu để nhận ra em: áo dài trắng, tóc dài rẽ ngôi giữa và một cành mai Việt Nam. Em về Hội An được hai ngày rồi…”. Đông Nguyên về Hội An đã hai ngày rồi, tại sao anh không gặp cô? Tờ lịch trên tường nhà anh chỉ mới là ngày Chủ nhật, 24 âm lịch. Anh hớt tóc, cạo râu, chỉnh tề xuống phố, ngẩn ngơ tìm một tà áo dài trắng với cành mai vàng, dù biết là còn bốn ngày nữa mới đến 28 Tết. Quá dài cho một nỗi mong chờ, phải không Đông Nguyên?

Chẳng nghe lời gió nói

1. An nhớ lần đầu tiên An biết Oanh là qua lời chị Huệ: ”Thôi, An lông bông tìm kiếm đâu cho xa, ở lớp ngoại ngữ ban đêm của chị có một con nhỏ tên Oanh, hiền lắm, lại chăm học. An để chị làm mai cho!”. Lúc đó, An vừa ở bộ đội xuất ngũ về, chưa tìm được việc làm, một mảnh tình vắt vai cũng chưa. Con gái hiền thì được chứ hiền lắm như lời chị Huệ nói thì An không ham. Nhưng cũng cười: “Ừ, thì hôm nào có dịp, chị làm mai con nhỏ đó cho em!”.

Chị Huệ chưa kịp tạo ra một dịp nào để làm mai thì một buổi sáng đi uống cà phê, An gặp Oanh đi với Thảo. Thảo là con nhỏ gần nhà An, hồi nhỏ chảnh chọe kinh khủng, lớn lên tự dưng thấy đằm thắm hẳn. Thảo gọi: ”Anh An ngồi cùng bàn với tụi này cho vui!”, chỉ cô gái đang ngồi bên cạnh, giới thiệu: ”Ðây là Oanh, bạn học bên trường Kinh tế với em”. Oanh nói giọng nhỏ nhẹ: ”Chào anh!”, rồi cười, nụ cười mỏng mảnh như sương. An nhìn Oanh, nhìn đôi mắt trong veo của Oanh, như có sợi gì đó đang vấn vít trong tim mình, thật nhẹ. Rồi Thảo chợt nhớ ra: “À, Thảo quên, Oanh học Anh văn ban đêm chung lớp với chị Huệ!”. À, thì ra là người quen. Oanh tủm tỉm cười: ”Chị Huệ hay kể về anh An em chị hiền lắm. Oanh không ngờ được hân hạnh gặp người hiền ở đây”. An kêu thầm: ”Oan gia, chị Huệ ơi là chị Huệ!”.


2. An không nhớ mình bắt đầu chơi thân với Oanh và Thảo từ lúc nào. Chắc là nhờ chị Huệ đánh tiếng nhờ vả: ”Thằng em tao về đây chưa có bạn bè gì, hai đứa bây đi đâu, rủ nó đi với!”. Thật ra thì cũng chẳng ai rủ ai, chỉ toàn là tình cờ thôi. Chị Huệ bảo An ở nhà rảnh rỗi làm gì cho phí, đi học Anh văn đi, sau này sẽ có lúc cần dùng. An cắp sách đi học Anh ban đêm, lớp bằng A, tức là sau Oanh và chị Huệ một lớp. Thảo cũng đi học ở trung tâm ngoại ngữ này. Buổi tối tan học, An hay gặp Oanh và Thảo, ba anh em rủ nhau đi uống sữa đậu nành, hoặc ăn chè. Vì An chưa có việc làm nên đi ăn chè hoặc uống sữa đậu nành, có lúc An trả tiền, có lúc Oanh giành trả. An tỏ ra băn khoăn thì Oanh cười: ”Anh An đừng lo, tụi em giàu lắm!”. Chơi với nhau một hồi, An mới nhận ra, Oanh không hiền lắm như lời chị Huệ quảng cáo, chỉ ít lời thôi. Oanh cũng nói là hồi mới gặp Oanh thấy An hiền lắm rồi bỏ lửng câu ở chỗ này. Vậy là sao? Buổi tối về nhà nằm mơ màng, An nhớ nhất là cặp mắt trong veo của Oanh. Trong veo đến mức, An không dám nói gì, làm gì để tiến đến gần Oanh hơn, vì sợ mình không khéo sẽ làm tổn thương đến cái tình bạn trong veo vừa mới chớm.

Rồi An cũng xin được việc làm, một chân lễ tân khách sạn do Oanh giới thiệu, vì chủ khách sạn là bạn thân với ba Oanh. Tháng lương đầu tiên, ba anh em rủ nhau đi lòng vòng suốt buổi chiều đến tối, đi ăn, rồi đi hát karaoke. Trong phòng karaoke, Thảo có vẻ vui lắm, nói cười nhiều lắm, nhưng đến lúc An tình cờ bấm bài Lời của gió, cười cười nói là để tặng Oanh thì không dưng, Thảo lặng lẽ hẳn, Oanh cũng im lặng làm An thấy áy náy vô cùng. Mình đã làm một điều gì không phải lúc?


3. Oanh hẹn An đi uống cà phê riêng. Lần đầu tiên được hẹn đi uống cà phê riêng, An choáng người vì hạnh phúc. Ngồi trong quán vắng, Oanh nhìn thẳng vào mắt An, giọng nghiêm trọng hơn thường ngày: ”Anh An thấy Thảo thế nào?”. Không dưng An cảm thấy có một điều gì đó, dè dặt: ”Thảo là một cô bạn tốt!”. Oanh cúi mặt, dùng ngón tay thấm nước vẽ mấy vòng tròn trên mặt bàn, ngọ ngoạy không yên, rồi ngập ngừng: ”Em cũng không biết nói sao nữa, Thảo mến anh lắm!”. Ðó không phải là điều An chờ đợi được nghe từ chính miệng Oanh. Bao nỗi hồi hộp, bối rối trong An tan biến đi hết, An thấy mình bình thản, như là đang nghe một câu chuyện không hề liên quan gì đến mình, buông một câu vô thưởng vô phạt: ”Anh cũng mến Thảo”. Oanh nhìn An thật lạ rồi lắc đầu: ”Nhưng cái cách anh nói không hề giống cái cách em vừa nói. Thôi, quên chuyện này đi, coi như em chưa hề nói gì với anh”. Im lặng một lúc lâu, rồi An rụt rè nhìn Oanh, nói một câu dò hỏi: ”Sao em cứ lo chuyện của Thảo mà không nghĩ gì đến mình?”. Oanh cười cười: ”Anh đừng lo cho em. Em có bạn trai rồi”. An bất ngờ đến chẳng nói được câu nào. Một trò đùa với An, có phải?

Không phải là chuyện đùa! Thảo cũng công nhận: ”Oanh có bạn trai rồi!” nhưng chị Huệ thì khăng khăng khẳng định: ”Con gái nói mà, tao học cùng lớp Oanh, tao biết, nó chưa có gì đâu! Bồ bịch gì mà tối thứ bảy nào cũng thui thủi đi về một mình”. Rồi chị Huệ khuyên An: ”Mày cứ tiến tới đi!”. An thấy buồn và hoang mang. Mình thân với Oanh là thế, Oanh tốt bụng là thế, sao tình yêu vẫn mãi là một điều khó nói.

4. Bẵng đi một thời gian dài, có đến cả tháng, không thấy mặt Oanh, Thảo thì đi học một mình. Hai anh em vẫn hay đi uống sữa, ăn kem sau giờ tan học. Một bữa, An làm như vô tình: ”Sao lâu nay không thấy Oanh hở Thảo?”. Thảo cười: ”Bây giờ thì Oanh quên anh em mình rồi. Bồ nó về!”. Giọng An nghe thật lạ: ”Ở đâu về?”. ”Ở Mỹ. Oanh với anh Phong quen nhau hồi còn đi học, anh Phong đi Mỹ bốn năm nay, bây giờ mới về”. Thảo còn làm như vô tình kể thêm vài chuyện vu vơ nữa về Oanh, về Phong, nhưng An không nghe được gì, hai tai An như ù đi. Không phải là lần đầu tiên An biết yêu nhưng cảm giác này thật khó mà chịu đựng nổi! Ngốc thật!

Có một buổi chiều chạy xe trên phố, An gặp Oanh. Áo đầm trắng, tóc xõa bay bay, mắt môi ngời ngời hạnh phúc, Oanh ngồi sau xe máy của một gã con trai mặt trắng bệch, ria mép tỉa tót cẩn thận. Giọng Oanh nghe vui lạ lùng: ”Chào anh An! Ðây là anh Phong, bạn em. Còn đây là anh An!”. Gã con trai cười chào An bằng một vẻ lịch sự dễ ghét. An khách sáo: ”Chà, lâu quá không gặp Oanh!”. Oanh cười rất tươi: ”Tụi em đang định hôm nào ghé mời anh đi uống cà phê với tụi em cho vui”. Rồi Oanh vội vã: ”Em đi đây, hôm nào gặp lại nghe anh An!.


5. Rồi chẳng có buổi cà phê nào để Oanh giới thiệu bạn trai như Oanh hứa hết. Khi An gặp lại Oanh, Phong đã trở về Mỹ. Oanh cười nói suốt ngày, giỡn cũng mạnh mồm hơn, thỉnh thoảng lại khoe về một đám cưới đã dự tính ngày. Cũng là Oanh, nói nửa như muốn tâm sự, nửa như muốn phân trần với An: ”Tụi em quen nhau từ hồi còn đi học, sau đó anh Phong mới đi H.O. Ảnh thương em lắm, tuần nào cũng điện thoại về cho em!”. Oanh kể về Phong nhiều lần đến nỗi An có linh cảm là Oanh làm thế một phần cũng để tự huyễn hoặc mình. Có phải hạnh phúc phải mang dáng vẻ mong manh như thế mới thật sự là hạnh phúc!

Một tuần trước khi đám cưới Oanh, ba anh em mới lại có dịp ngồi uống cà phê với nhau. Không khí lần này trầm lắng hẳn, không như mấy lần vẫn ngồi với nhau. Thảo khoác một dáng vẻ buồn rầu không thèm giấu. Oanh trông có vẻ mệt mỏi, dù vẫn cười nói nhiều. An thì không thể giữ được thái độ vô tư như nhau với hai cô bạn thân. Oanh mào đầu, giọng đùa cợt: ”Oanh cho anh An một cơ hội cuối đây. Anh An có thương một trong hai đứa em thì nói đi, chỉ còn một tuần nữa thôi. Anh không nói sau này hối hận không kịp, ráng chịu đó!”. An nhìn thẳng vào mắt Oanh, cái nhìn nói lên nhiều điều nhưng Oanh lảng mắt đi. Vậy là rõ! An buông một câu nói đùa mà nghe rất thật: ”Anh thương cả Oanh với Thảo!”. Thảo đột nhiên gắt gỏng: ”Thảo không cần đâu. Thảo nhường hết cho Oanh đó!”. Ðêm trôi thật khẽ và sâu. An có cảm giác như đây là lần cuối cùng ba anh em ngồi với nhau. Ngồi vẩn vơ một lúc, Thảo đứng dậy trước, nhìn đồng hồ: ”Thôi, khuya rồi, mình về đi!”.

Ðám cưới Oanh, An xung phong lên hát Lời của gió, mắt cố không nhìn cô dâu, chú rể tay trong tay, đi vòng quanh chào quan khách. Oanh đã chẳng hề nghe được lời gió nói, cũng như lời An muốn nói, chỉ cho mình Oanh nghe.


6. Oanh theo chồng đi Mỹ được gần hai năm, trong hai năm đó, An cũng có gặp gỡ một vài người nhưng rồi chẳng đi đến đâu. Mối tình tưởng chừng thoảng qua với Oanh không ngờ lại làm An nhớ lâu đến thế. Gặp một cách hành xử nào đó của các cô gái từng quen biết, An vẫn nghĩ giá đó là Oanh, thì Oanh sẽ xử sự thế này, Oanh làm thế kia và dĩ nhiên là Oanh hay hơn nhiều. Từ ngày Oanh đi, An cũng ít gặp Thảo, nếu có gặp thì cũng chỉ là nụ cười xã giao hờ hững của hai người quen biết cũ. Rồi thôi. An muốn biết tin tức về Oanh biết bao nhưng lại không dám gặp hỏi thăm Thảo.

Rồi Oanh đột ngột trở về. Ðẹp, sang trọng hơn ngày xưa nhưng có những nét từng trải hơn. Và buồn. Nỗi buồn không thèm giấu giếm. Gặp lại An, Oanh vẫn tỏ ra vô tư, như không hề thay đổi chút nào sau ngần ấy thời gian xa nhau. Oanh nói mình đã ly dị chồng, nói về đổ vỡ của chính mình một cách bình thản, nhẹ nhàng như chuyện của ai đó không hề liên quan đến Oanh, càng không liên quan đến An. Như là những buồn vui trong Oanh, An chưa bao giờ được phép dự phần. Như là những ngọn gió suốt mùa chỉ thổi lớt phớt bên ngoài, có hay không thì người ta cũng không biết sự hiện diện của nó. Oanh không biết, hay không muốn biết?

Những ngày Oanh ở Việt Nam rồi cũng qua mau. Rồi Oanh cũng sẽ ra đi, kỷ niệm về một tình yêu thầm lặng với Oanh trong An rồi cũng sẽ qua đi, sẽ phai mờ dần theo ngày tháng… An sẽ phải cố mà quên Oanh đi, như một giấc mơ không có thật. Tình yêu của An không có thật. Chỉ có nỗi buồn trong An là có thật, An không thể nào quên được, cứ ngày càng đầy…

Lạc giữa chốn quen

1. Tôi vào lại Sài Gòn trong một chuyến đi bất ngờ, không hề dự tính trước, hoàn toàn vì công việc, sau gần sáu năm xa cách. Anh Hạo, khi bàn giao công việc cho tôi trước chuyến đi, vỗ vai thân tình: “Nếu mọi chuyện tốt đẹp, Mẫn có thể ở lại trong đó chơi vài ngày, thăm bạn bè, người yêu cũ.” kèm theo một cái nheo mắt. Tôi cười: “Em đã book vé Thứ Hai đi, Thứ Tư về, sao anh không nói sớm hơn.”. Chi, trên đường đưa tôi ra sân bay, dặn: “Anh vô trong đó, coi có cái gì đó hay hay thì mua về cho em!” . Cái gì đó hay hay của Chi là một cái kẹp tóc, hay một bộ dụng cụ làm bếp đầy rẫy ở các siêu thị Sài Gòn. Chi nói mà không hề nhìn mặt tôi, không biết lời dặn dò này của Chi làm tôi buồn lòng, như thể Chi không dặn dò gì thì tôi sẽ không hề nhớ đến Chi. Con đường dẫn ra sân bay có một đoạn đang được tráng nhựa lại, nắng, gió, và bụi tung mù mịt. Tôi chầm chậm đưa khăn tay lên chậm mắt, cay xè, mà hình như không phải vì bụi.

Sài Gòn đón tôi bằng cái nóng ghê người, ba mươi mốt độ rưỡi. Tôi ngã người khoan khoái trên chiếc taxi về khách sạn, chiếc taxi sơn độc một màu vàng vọt, người tài xế kính cẩn mở cửa, đóng cửa xe khi tôi bước lên, bước xuống. Khách sạn ở ngay trung tâm, cách chỗ tôi làm việc chưa đầy nửa cây số, máy lạnh mát rượi, thảm lót sàn êm như nhung, cũng những nhân viên phục vụ mở cửa, đóng cửa, và giúp mang hành lý lên phòng. Tôi cố để không tỏ ra ngượng nghịu, những tiện nghi phục vụ chu đáo này ngày thường tôi có mơ cũng đâu thấy được, trong đầu đang có tiếng tậc lưỡi: tiền trong tiêu chuẩn công tác, cơ quan chịu hết, có mất mát gì của mình. Nhìn bộ vó của tôi bây giờ, cà vạt, giày da bóng lộn, Samsonite sang trọng, điện thoại di động giắt lưng, có ai nghĩ là lột bộ vó này ra, tôi về ở nhà thuê, một căn gác, ẩm thấp, mùa hè nóng như một cái lò bánh mì. Cũng đâu ai biết được tôi đang phải dành dụm từng đồng để tìm cho được một chỗ ở của riêng mình, cho một đám cưới mà Chi đang từng ngày chờ đợi. Mà ngày thì vẫn trôi đi với viễn cảnh sống chung mãi hoài chỉ là dự tính…


2. Buổi tối rảnh rỗi đầu tiên ở Sài Gòn, tôi nằm dài ở phòng khách sạn, mát lạnh, mắt đăm đăm nhìn vào kênh âm nhạc MTV trên ti vi khách sạn, đầu óc như không nghĩ ngợi, không còn nhớ gì, trống rỗng. Đúng tám giờ thì tôi vùng dậy, phone cho Đạt. Đạt là bạn cũ của tôi, thời đi học chơi với nhau khá thân, bây giờ đang làm ở một công ty quảng cáo của Mỹ. Đạt không phải là đứa tôi không nhớ đến khi có dịp vào lại Sài Gòn, nhưng gặp nhau để nghe nó hỏi thăm, để thấy cuộc sống của nó bây giờ với mình khác nhau nhiều quá là điều tôi không hề muốn. Xem ra, cục mặc cảm nghèo khó trong tôi lúc nào cũng to, nhưng tối nay, tôi thèm gặp Đạt quá, lâu lắm rồi không gặp nhau. Chưa đầy mười phút sau cú phone của tôi, hai vợ chồng Đạt, mỗi đứa mỗi xe phóng đến, vừa ló mặt đến quầy lễ tân khách sạn đã cười ha hả. Hà, vợ Đạt, hoa khôi của lớp tôi ngày xưa, hồ hởi: “Lâu quá mới lại được gặp Mẫn, tụi này mừng ghê.”. Đạt, trông chững chạc hơn nhiều, mập phệ, ra dáng thành đạt, mừng rỡ ôm vai tôi: “Mầy sao gầy quá?” rồi kéo tay tôi: “Đi, đi một vòng, kiếm chỗ nào đó nói chuyện chơi.”. Rồi Đạt chở Hà, giao một xe cho tôi, lòng vòng qua những con đường người xe vun vút, những con đường ngày xưa tôi quen thuộc lắm, bây giờ lại thấy mình như kẻ lạ.

Một chỗ nào đó ngồi nói chuyện chơi mà Đạt và Hà chọn là một tea-room sang trọng ở góc đường Hàm Nghi, nằm trên gác hai của một căn nhà cao tầng. Đạt nói với tôi: “Tao vẫn còn nhớ gu của mầy, chỗ này yên tĩnh, nghe nhạc thích lắm!”. Khi chúng tôi vào, trên sân khấu nhỏ đặt giữa khán phòng trang trí bằng vô số những hình ảnh vẽ cách điệu cảnh đồng quê Việt Nam, một cô ca sĩ trẻ mặc áo dài, tóc dài rẽ xuống hai bên vai, đang hát: ” Chiều một mình qua phố, âm thầm nhớ nhớ tên em…”. Đèn sân khấu chiếu vào mặt cô một thứ ánh sáng xanh bệch làm cô trông giống một pho tượng, có vẻ hư thực. Bài hát này ngày xưa có lần My bắt tôi tập để hát tặng My nhân sinh nhật mười chín tuổi. Tôi chợt nhớ đến My, cách đây mấy năm, My đã theo chồng về một xứ sở xa lạ nào đó, một đời sống êm đềm với những đứa con lai kháu khỉnh chờ đón, không biết bây giờ, My có còn nhớ bài hát một thời mộng mị. Chuyện tình ngày xưa với My, và những kỷ niệm cũ, với tôi, cũng giống như một cơn mộng mị, bởi nó đẹp và tan biến nhanh. Mà có ai có thể sống trong mộng mị được suốt dời…

Cô phục vụ mang lại một cái menu đồ uống, tôi chọn một món cocktail rẻ tiền nhất có cái tên là lạ “Bare Foot: 4,7 USD/ly”, Đạt gọi một ly Henessy và cho Hà một ly cocktail nhiều màu có cắm một chiếc dù nhỏ. Nhìn sơ qua giá trên menu, tôi biết Đạt sẽ trả một khoản bằng một phần ba lương tháng của tôi, không ít hơn. Thỉnh thoảng ở Đà Nẵng, tôi vẫn đi tiếp khách cơ quan ở chỗ này, chỗ nọ, tiền bạc cơ quan lo, lần nào nhìn vào hóa đơn, tôi vẫn thấy như có một cái nhói người. Trưa mai, trong một bữa cơm thân mật mời đối tác, cũng sẽ là những khung cảnh sang trọng đến choáng ngợp, cũng những khuôn mặt viên mãn, no đủ, và những hóa đơn với khoản tiền kếch xù tính bằng đô la. Tôi không biết là sau này, khi mình giàu có lên, những ý nghĩ tủn mủn vụn vặt như thế này có còn, nhưng lúc này, chỉ tổ làm day thêm trong tôi cục mặc cảm nghèo khó. Tôi ngồi đây, cảm thấy thật khó khăn để nói chuyện với vợ chồng Đạt một cách cởi mở. Đạt nói như phân trần để tôi yên lòng: “Lâu lâu có dịp, tụi tao mới vào đây, chứ ngày nào cũng thế này thì có nước bán nhà sớm.”.

Câu chuyện cứ trôi đi theo một chiều hướng nhạt nhẽo, chỉ nóng lên khi Đạt nhắc lại đám bạn cũ và những kỷ niệm thời sinh viên. Hà cười suốt buổi, thỉnh thoảng phụ họa theo chồng những chi tiết Đạt quên. Đạt vui vẻ: “Lâu quá, tao mới có dịp được sống thật lòng như thế này. Hằng ngày, lúc nào cũng phải giữ mình, dè chừng trong quan hệ làm ăn, tao chán lắm.”. Hà quan tâm tới chuyện khác: “Sao Mẫn không lấy vợ, My đi rồi, không lẽ ở hoài vậy sao?”. Tôi trả lời gượng gạo: “Chắc cũng sắp, cô ấy tên Chi.” rồi một điều tự nhiên như cây cỏ, tôi nhớ đến Chi. Chi dường như thuộc về một thế giới khác hẳn với Đạt và Hà, càng khác xa với My, nửa căn cơ, nửa phù phiếm một cách rất đàn bà và hiền lành. Tôi chọn Chi bởi bên Chi, tôi thấy bình yên. Chợt nhớ: Ngày mai, tôi sẽ tranh thủ mua quà cho Chi, một cái gì đó hay hay và rẻ tiền là đúng ý Chi, Chi sẽ vui. Tôi thấy mình thật có lỗi khi đem so sánh Chi với Đạt, với Hà, với My, với những gì không thuộc về Chi rồi thấy sao mà tội nghiệp tôi vô cùng…

Lúc đưa tôi về khách sạn, Hà hẹn: “Tối mai Mẫn còn ở đây, tụi mình đi uống cà phê ở tòa nhà ba mươi ba tầng?”. Đạt nói thêm: “Ngồi trên đó nhìn xuống thành phố dưới này, hay lắm!”. Tôi cười: “Thành thật cám ơn hai người. Tối mai Mẫn bận rồi!”. Hà chép miệng tiếc rẻ: “Vậy thì Đạt, Hà chia tay Mẫn ở đây. Mẫn về ngoài đó vui. Cưới vợ, báo tin sớm cho tụi này ra chơi!”. Tôi gật đầu: “Chắc chắn!” rồi nghĩ chắc là tôi sẽ không mời hai bạn đâu, cảm thấy là mình thật tệ, cả vô lý nữa nhưng lại thấy là không thể khác đi được…


3. Bằng một cách nào đó, Tiến biết tôi đang ở Sài Gòn. Tiến phone cho tôi theo số máy điện thoại di động, giọng trách móc: “Sao mày vào Sài Gòn mà không báo tin cho tao biết? Sao không về Biên Hòa chơi?”. Lúc Tiến phone là vào khoảng bốn giờ chiều, tôi đang loanh quanh trong một hiệu sách nơi đường Nguyễn Huệ: “Tao đi công tác, gấp lắm, chắc là không ghé thăm mầy được. Thôi, để dịp khác!”. Tiến văng tục: “Mầy nói như c., hai giờ nữa tụi tao sẽ xuống Sài Gòn, tao và Kiên. Mầy ở đâu?”. Tôi nói tên khách sạn và nơi hẹn gặp Tiến. Tiến, Kiên là bạn cùng ở ký túc xá với tôi thời sinh viên, không học cùng lớp nhưng ở cùng phòng, thân nhau như anh em ruột. Cả Tiến và Kiên đang sống ở Biên Hòa, cách Sài Gòn ba chục cây số, mất một giờ đi xe máy. Tôi thấy cảm động, Tiến là vậy, bổ bã nhưng chân thành. Ít ra, tôi sẽ không có một buổi tối nằm chèo queo ở khách sạn, một mình với kênh âm nhạc MTV ồn ào, giậm giựt.

Đúng sáu giờ, chuông điện thoại trong phòng tôi reo. Giọng Tiến. Tôi hỏi: “Mầy đang ở đâu?”. “Tao với Kiên đang đứng trước khách sạn mầy ở.” Tôi nôn nóng: “Sao không lên đây?”. Tiến nửa đùa nửa thật, vẫn giọng nói bổ bã thường ngày nhưng sao khó nghe quá: “Khách sạn của mầy sang trọng bỏ mẹ, hai thằng tao mà lên nó phí đi, không xứng.”. Tôi đấu dịu: “Thôi được, tao xuống bây giờ đây. “, biết là Tiến đùa nhưng vẫn thấy buồn. Suy cho cùng, ở một chỗ sang trọng thì đâu phải là một cái tội. Tôi thấy nhớ thằng Tiến của ngày xưa, bổ bã thật đấy nhưng ăn nói đâu có cay độc như bây giờ.

Ba thằng kéo nhau vào một quán nhậu ven đường, Tiến gọi một xị rượu đế và dĩa gân bò hầm. Tôi giao hẹn trước: “Tao không uống được nhiều đâu!”. Tiến nhìn tôi cười, mà sao trong mắt Tiến như có tia vằn: “Thằng Mẫn dạo này uống rượu Tây quen, đâu chơi được thứ này!”. Kiên đấu dịu: “Thôi, nâng ly đi, mừng sức khỏe và mừng gặp lại.”, cầm đũa gắp một miếng gân bò: “Ăn thứ này để nhớ ngày gian khổ. Mầy còn nhớ nồi cháo gân bò bà Ba Khía ở phía sau trường không Mẫn?”. Tôi gật đầu: “Hồi đó, hôm nào lĩnh học bổng, ra mần một tô cháo bò, cho thật nhiều gừng, đời không còn gì để mơ ước.”. Kiên trầm ngâm kể: “Sau này có lần đi qua trường, tao đĩnh đạc ghé vào gọi một tô cháo gân bò thật to, không còn thấy ngon, chỉ thấy hôi rình mùi bò. Tao không biết là do bà Ba nấu cháo dở đi, hay mình dở đi, có rủng rỉnh chút tiền là quên mất đi thời gian khổ.”. Kiên chỉ kể chuyện như mọi câu chuyện bình thường khác mà sao tôi nghe giọng Kiên có chút sũng nước.

Tiến nâng ly: “Thôi, uống đi. Lâu ngày gặp nhau, thằng Kiên cứ nhắc chuyện cũ, nghe chán bỏ mẹ. Nói chuyện gì vui vui đi.” quay sang vỗ vai tôi: “Hơn ba chục tuổi, già rồi chứ không còn nhỏ nhít gì đâu. Khi nào cưới vợ?”. Tôi nghĩ đến Chi, nhớ vẻ mặt hiền lành một cách tủn mủn của Chi: “Đang quen một em, con nhà lành, công nhân may.”. Tiến tỏ ra quan tâm: “Mầy có mang theo ảnh, cho tụi tao xem mặt!”. Tôi rút cái ví da từ sau túi quần ra đưa Tiến, cái ví da có lần Chi tặng tôi khi thấy cái ví cũ của tôi rách bem, khi mua về đã tẩn mẩn cắt cái ảnh đẹp nhất dán vào, dặn: “Để lúc nào cũng có em ở bên anh!”. Tiến ngắm nghía hình Chi, đưa cho Kiên, nhận xét: “Trông hiền lành, được đấy! Cưới cho rồi, đừng làm khổ con người ta nữa.”, rồi bô bô bày tỏ quan điểm: “Tao cũng chỉ ước mơ thế này thôi, cưới vợ là bà này bà nọ mà làm gì, chỉ tổ về làm tôi mọi cho nó.”. Kiên đưa trả cái ví da lại cho tôi: “Tháng sau là đám cưới tao, cuối năm nay là đến thằng Tiến. Mẹ tao ở nhà giục quá, ngày nào cũng giục. Liệu mầy có thu xếp vào dự được?”. Tôi tính nhẩm một con số, ngập ngừng, như thể mình là thằng có lỗi: “Chắc là tao không vào được, tụi mầy thông cảm cho tao!”. Tiến lại nâng ly: “Uống đi, băn khoăn mà làm quái gì. Ở hoàn cảnh mầy bây giờ, tụi tao cũng vậy thôi, tiền đâu mà bỏ cả triệu bạc từ Đà Nẵng vào Sài Gòn ăn cưới. Tụi tao hiểu mầy mà!”. Tiến lúc này mới thực sự là thằng Tiến chí tình, tự nhiên tôi thấy mắt mình cay cay. Tôi muốn nói một điều g�! � đó với Tiến, với Kiên nhưng rồi lại thấy có nói gì cũng quá thừa. Sự thiếu thốn tiền bạc, đôi khi làm cho con người ta sống ít tình cảm với nhau hơn, dù lòng đâu hề muốn thế.


4. Công việc rồi cũng hoàn tất mỹ mãn, đúng như mong đợi và tôi không còn việc gì ở thành phố này nữa. Ngày Thứ Tư, đúng dự định, tôi ra sân bay lúc mười hai giờ trưa, chuyến bay vào lúc bốn giờ chiều, phải ra sớm như vậy vì sau mười hai giờ trưa, khách sạn sẽ tính thêm tiền. Giờ này, Đạt, Hà bận đi làm, không tiễn tôi được, mà tôi cũng không thích tiễn đưa, chỉ biết chào tạm biệt nhau qua điện thoại. Tiến với Kiên về lại Biên Hòa ngay đêm qua. Lúc chia tay nhau, Kiên nói: “Tụi tao chỉ xuống gặp mầy một chút vậy thôi, phải về để ngày mai đi làm sớm. Có gì, tin cho tụi tao biết.”. Tiến kéo dài giọng khệ khạ như người say nhưng thật ra rất tỉnh: “Lần sau vào Sài Gòn mà mầy còn trốn thế này thì tao xuống cắt cổ.”. Tôi cười: “Tao biết tội của tao rồi.”, chợt thấy buồn vì biết nếu không có dịp đi công tác, tự tôi cũng khó lòng vào được Sài Gòn đơn thuần chỉ để đi chơi, thăm viếng bạn bè.

Chuyến bay dời lại hai tiếng đồng hồ, vì một trục trặc kỹ thuật gì đó, Hàng Không Việt Nam thì thoảng vẫn trễ máy bay với lời xin lỗi và giải thích bằng hai thứ tiếng Việt và Anh lúc nào cũng giống hệt nhau. Tôi có thêm hai tiếng đồng hồ loanh quanh ở sân bay, lội quanh các shop bán hàng lưu niệm, mua cho Chi một lọ nước hoa ngoại bé tí với giá bán ghi bằng đô la. Từ lúc quen nhau đến giờ, chưa lần nào Chi dùng nước hoa, Chi nói Chi không thích nước hoa nhưng tôi thừa hiểu là Chi không dám phung phí một khoản tiền lớn vào những khoản xa xỉ. Tôi gỡ mảnh stick ghi giá tiền trên lọ nước hoa, vất đi, biết là dù có hạ giá tiền xuống bao nhiêu lần để nói dối Chi, Chi cũng sẽ ca cẩm tôi hoang phí cho mà xem.

Lúc máy bay cất cánh, trời đã sẫm tối. Từ trên cao nhìn xuống, Sài Gòn với cơ man là đèn sáng nhấp nháy, giống như một tấm thảm đẹp tuyệt vời có đính những viên kim cương lấp lánh. Cô tiếp viên xinh xắn nhắc tôi thắt dây an toàn, tôi nhìn khung cảnh êm đềm trên máy bay, hít một hơi thở dài rồi nhắm mắt lại, mơ hồ ước ao được nằm duỗi dài trên tấm thảm kim cương lấp lánh dưới kia mà ngủ một giấc thật say, quên hết những lo toan, buồn đau và hệ lụy của cuộc đời. Được thế, quả không còn gì sướng hơn!

Người về

Sau gần mười năm không gặp nhau, Quảng vẫn vậy, có phần trắng trẻo và mập ra, duy chỉ có ánh mắt là già nua, mệt mỏi, tinh ý lắm mới thấy. Tôi luống cuống, lăng xăng, chả làm được việc gì cho ra việc gì, kể cả kéo ghế mời Quảng ngồi, khi Quảng cười cười ôm túi xách bất ngờ bước vào nhà tôi. Quảng cười hồn hậu: “Tao về đây thăm mầy, mầy không mừng sao?”. Tôi ngỡ ngàng một chút, rồi có một cái gì đó rất lạ, vỡ òa ra trong tôi, làm tôi muốn chảy nước mắt. Mười năm Quảng đi xa, không thư từ, không điện thoại, thảng hoặc chỉ nghe người này, người kia kể là gặp Quảng chỗ này, chỗ nọ bên Mỹ, tôi biết Quảng bình yên nhưng vẫn nghĩ mình sẽ không bao giờ được gặp Quảng nữa. Chúng tôi là bạn thân chí cốt, tôi thương Quảng nhất trong đám bạn của tôi vì từ nhỏ, Quảng đã có một đời sống không êm đềm. Mẹ mất từ lúc bốn tuổi, ba cưới vợ khác, rồi ba Quảng cũng mất vài năm sau đó, Quảng như người thừa, như cái gai trong nhà. Đang học nửa chừng lớp mười, Quảng trốn nhà đi vượt biên, trước khi đi có đến chào tôi: “Nếu không có tin tức gì, coi như ngày hôm nay là ngày giỗ tao.”. Lúc đó, tôi còn non nớt, thương bạn nhưng chẳng biết làm gì giúp bạn, vẫn cảm nhận được những lời như thế kia thốt ra từ miệng một thằng bé mười sáu tuổi là kinh khủng lắm. Tôi bần thần, mất ngủ mấy tháng liền khi Quảng đi, thấy cuộc dời này sao chẳng đẹp như mình nghĩ, lần đầu tiên nhận ra mình đang mất đi một điều quý giá lắm nhưng không biết cách nào giữ lại được.
Quảng nhìn cơ ngơi của tôi, tấm ảnh cưới c�! ��a hai vợ chồng tôi treo trang trọng giữa nhà: “Tao về, thấy mầy sống thế này, tao mừng!”. Quảng thân thiện chào vợ tôi: “Ngày xưa, tôi là bạn thân nhất của Trung đó chị!”, lôi ra mấy món quà cho vợ tôi và Cu Tý, nói như hối lỗi: “Tao không biết con mầy là con trai hay con gái, lại không biết lớn hay nhỏ nên chẳng biết mua gì cho con mầy!”. Vợ tôi cười: “Anh nói quá, anh về thăm vợ chồng em thế này là mừng rồi, bày vẽ gì cho tốn kém.”. Quảng xua tay, nói vui: “Chị đừng lo, tôi là Việt kiều mà chị!”, rồi cười với vợ tôi: “Chị cho tôi mượn Trung hai ngày! Tôi cũng chỉ về đây trưng dụng thằng này có hai ngày thôi!”.

Tôi xin nghỉ phép, lấy xe đưa Quảng đi thăm chơi loanh quanh. Về quê thắp hương mẹ Quảng. Vừa xong hai trận lụt lớn, đường về quê ngập bùn, lầy lội không thể tưởng, có nhiều đoạn, Quảng phải nhảy xuống xe, chân lội bùn ngập đến ống giày, lặc lờ đẩy xe máy cho tôi. Đã quá lâu không về quê, cảnh vật thay đổi nhiều quá, phải loay hoay hỏi thăm một hồi, chúng tôi mới tìm đường ra đến mộ mẹ Quảng. Trên mộ cỏ mọc đầy, tấm bia đá có chỗ bị nứt loang lổ nhưng vẫn còn đọc được chữ. Hình như đã lâu lắm rồi, không có ai đến thắp hương ở đây. Quảng ngồi bần thần bên mộ mẹ, tay run rẩy sờ từng dòng chữ khắc trên tấm bia. Rồi Quảng đi vòng quanh mộ nhổ những bụi cỏ dại. Và thắp hương. Tôi không dám nhìn vào mặt Quảng. Ở Quảng, có một nét gì đó như là quá sức chịu đựng. Quảng hỏi: “Ngày xưa, mầy có nhớ mặt mẹ tao? Tao thì chẳng nhớ gì cả.”. Tôi im lặng, không thốt được một lời. Hồi đó tôi cũng còn quá nhỏ. Quảng ngậm ngùi nói với tôi mà như không nói với ai cả: “Suốt cả những năm thơ ấu của tao, tao thèm được gọi mẹ ghê gớm, tao cũng muốn được có mẹ như những đứa khác. Gần mười năm xa nhà, tao cũng ý thức mình có một nguồn cội, một nơi chốn để về. Nhưng tao cố gắng lắm, vẫn không hình dung được mẹ mình như thế nào. Ba tao, tao cũng không nhớ gì nhiều. Hồi đó, ổng ngại dì tao, nên cha con cũng ít gần gũi!”. Rồi đột ngột Quảng đứng dậy, phủi phủi những bông cỏ may dính trên ống quần: “Mình về đi Trung!”, giọng tỉnh khô đến tôi cũng không chắc là có phải Quảng đang nói.

Chúng tôi đi lòng vòng quanh phố, ghé chỗ này một tí, chỗ kia một tí, hình như ở thành phố này Quảng chẳng còn ai thân thiết. Tôi hỏi: “Mầy có ghé ra ngoài X. thăm dì và mấy đứa em?”. Quảng gật đầu: “Dì tao bây giờ già lắm, hai đứa em tao cực kinh khủng. Lúc đầu, dì tao không nhận ra tao, khi nhận ra tao, bả khóc. Tao thấy tội nghiệp bả. Tao đưa tiền bả sửa nhà, sắm sửa, dẫn hai đứa em tao đi mua sắm áo quần, giày dép linh tinh. Ngày tao đi, hai đứa còn nhỏ quá, đến lúc về, tụi nó chẳng biết tao là ai. Ngày xưa, tao hận dì tao lắm, nhưng bây giờ lại thấy thương bả.”. Tôi lắng nghe và im lặng, có quá nhiều điều để hỏi Quảng đến không biết hỏi gì. Quảng dừng lại chụp hình trước ngôi trường ngày xưa chúng tôi từng học: “Qua bên đó tao có đi học tiếp. Tao ở ký túc xá trong trường, chung phòng với một thằng người Tàu sinh ở Mỹ. Mùa đông đầu tiên, tao lạnh đến chảy máu mũi, vậy mà về đến nhà là nó mở cửa sổ toanh hoanh. Tao đóng lại, nó lại mở ra. Tao tức quá: Tao trả một nửa tiền nhà, tao có quyền, tao muốn đóng cửa sổ lại. Cuối cùng, mầy biết sao không, một cánh của mở, một cánh đóng. Ở nước mình, người ta có ghét nhau đến mấy cũng không đối xử với nhau như vậy. Tao học được nhiều điều, và cũng chai sạn hơn. Đáng buồn, phải không?”. Rồi Quảng hỏi: “Mầy sống hạnh phúc?”. Tôi gật đầu. Quảng ôm choàng ngang hông tôi: “Vậy là tốt rồi. Bây giờ tao không thiếu gì cả, nhưng cô đơn lắm.”. Tôi ngập ngừng: “Sao mầy không cưới vợ đi?”. Quảng cười, có vẻ muốn lẩn tránh câu hỏi c! ủa tôi: “Mầy nói với vợ mầy, tối nay, ngủ với tao một đêm. Tao muốn nói chuyện nhiều với mầy, như ngày xưa. Mầy còn nhớ năm lớp chín hai thằng hay học chung, ngủ lại nhà mầy không?”.

Buổi tối, hai thằng nằm trên căn gác tôi vẫn dành cho khách, hai mẹ con Cu Tý ngủ dưới nhà. Chúng tôi nói chuyện vu vơ, nhắc lại những kỷ niệm vui vui thời đi học. Quảng nhẹ nhõm: “Tao về đây, được nằm nói chuyện với mầy như thế này, tao thấy bình yên.”. Tôi hỏi: “Bên đó, mầy có bạn chứ?”. Quảng cười mà mặt buồn rười rượi: “Mầy tưởng ở Mỹ dễ kiếm bạn lắm sao? Mình là dân da vàng, người ta kỳ thị lắm. Mà tránh sao khỏi, ngày xưa tụi mình thấy mấy đứa ở quê xuống, cũng bày trò chọc ghẹo đủ thứ, mình cũng kỳ thị lắm mà mình không biết đó là kỳ thị.”. Rồi Quảng thở dài. Tôi không chịu được tiếng thở dài của Quảng, nghe như có nỗi niềm gì thật tuyệt vọng. Quảng hỏi thăm về cuộc sống, công việc của tôi, trầm ngâm ao ước: “Ở Việt Nam, dù sao cũng hạnh phúc hơn nhiều so với bên đó.”. Từ lúc gặp Quảng đến bây giờ, tôi không hề nghe bạn tôi kể là cuộc sống bên đó giàu sang, sung sướng, có cảm giác Quảng đang mang một bi kịch nặng nề ở trong người. Suy cho cùng, trong đời bạn tôi, có phút giây nào thảnh thơi. Tôi nói với Quảng, giọng đượm màu sách vở: “Sao mầy không yêu, có tình yêu, người ta sẽ vượt qua được nhiều thứ.”. Quảng im lặng một lúc lâu: “Hồi mới qua, tao cũng có yêu một em người Việt. Em này qua Mỹ từ nhỏ nên hầu như không nhớ gì về Việt Nam, nói chuyện thì nửa tiếng Tây, nửa tiếng ta. Yêu nhau một thời gian, tao thất vọng quá, vì không chia xẻ được gì. Tao vẫn cảm thấy rất cô đơn. Ngay cả chuyện sex, mầy biết là ở Mỹ rất thoáng chuyện này, riết một ! hồi tao cũng không còn hứng thú gì. Như cái máy. Cuối cùng thì đường ai nấy đi.”. Tôi băn khoăn: “Bộ chẳng lẽ sau đó, mầy không gặp được ai? Tao nghĩ ở đâu thì cũng có người tốt.”. Quảng gật đầu: “Tao cũng nghĩ vậy. Nhưng tao không gặp được. Dường như không ai hiểu tao, hay là tao quá khó khăn để cho người khác hiểu.”. Giọng Quảng trầm xuống, tâm sự: “Nhiều lúc tao cô đơn quá. Đúng là sau này tao có gặp một người. Một người Mỹ gốc Ý, cũng là dân nhập cư như tao. Lúc đầu tụi tao cũng là bạn bè bình thường, nhưng rồi…” Quảng ngập ngừng một lát rồi nói tiếp, vẻ ray rứt: “Nói là tao yêu người này thì cũng không hẳn, tao không thật sự hiểu nổi mình, nhưng có lẽ… tao yêu thật. Cảm giác này lạ lắm, trước đây chưa hề có trong tao bao giờ. Tụi tao quan hệ với nhau được hai năm, rồi thôi. Vì tao biết sẽ không đi đến đâu.”. Tôi bực dọc: “Tại sao vậy? Mầy lừng khừng quá, sao lúc yêu, lúc lại không yêu. Đã gặp được người rồi, sao không lấy nhau? Tây ta gì thì cũng đâu có quan trọng.”. Quảng im lặng, rồi cất giọng run run như thú tội, một cách rất khó khăn: “Mầy tắt đèn đi. Mầy biết tại sao không, vì Mark là đàn ông. “. Có một khoảng im lặng trống rổng bao trùm lấy hai đứa. Tôi thấy choáng váng, đầu óc không bắt theo kịp những điều Quảng nói, không muốn tin những gì mình nghe: “Quảng ơi, mầy nói lại đi, mầy đang giỡn chơi với tao phải không?”. Quảng “suỵt” cho tôi im lặng: “Đừng để vợ mầy nghe thấy”, thầm thì: “Cách đây khoảng năm năm thôi, có ai bảo tao l�! � dân đ! ồng tính, thế nào cũng bị ăn một cú đấm vô mặt. Mọi chuyện khác đi từ khi tao gặp Mark. Mark rất hiểu tao, thương tao thật lòng và dịu dàng.”. Tôi nghĩ đến những gã đàn ông để tóc dài, độn ngực, mặc áo quần phụ nữ, hỏi Quảng, có hơi gay gắt thì phải: “Mark có giống phụ nữ?”. “Không hề. Tao biết như thế là sai trái, là tội lỗi, nhưng tao cô đơn quá. Tao có nói chuyện với Mark, tụi mình là đàn ông, Mark bảo, tao không quan tâm, tao sống cho tao, vì tao, và tao yêu mầy.” Rồi chừng như sợ tôi không hiểu, không thông cảm với mình, Quảng nói tiếp, giọng như van nài: “Mark là người đầu tiên hiểu tao, thật sự muốn chia xẻ với tao, Trung à!”. Tôi bàng hoàng, vừa thương, vừa giận. Làm sao để đến nông nổi này hở Quảng? Tôi thấy bất lực đến đau đớn, có cảm giác mình đang trôi đi, không còn muốn nghe gì, biết gì… “Bây giờ thì sao?”. “Tao không còn liên lạc với Mark. Tao đang cố gắng yêu một đứa con gái, mà sao khó quá. Cảm giác Mark mang lại cho tao thật tuyệt vời. Chưa lúc nào tao hạnh phúc như vậy.”. Tôi an ủi Quảng, dù biết lời mình nói có khi chẳng tác dụng gì: “Rồi mọi chuyện sẽ qua thôi. Quên hết đi, rồi mầy sẽ gặp một người con gái tốt.”. Quảng khổ sở: “Tao cũng muốn vậy, nhưng không quên được! Mầy có khinh tao không hở Trung?”. Tôi không trả lời, quàng tay sang ôm chặt ngang người Quảng. Tôi thấy thương cho bạn tôi, tôi không hề có cảm giác mình đang ôm một người đồng tính luyến ái như mình từng ghê sợ trước đây, chỉ thấy thương thằng bạn tội nghiệp của tôi. Tôi thấy thất vọng và t�! �i nghi�! �p cho cả mình nữa, hồi nhỏ và ngay cả bây giờ, mang tiếng là bạn thân nhưng tôi cũng chưa bao giờ thật sự hiểu Quảng, chia xẻ được gì với Quảng. Bây giờ thì chỉ biết vỗ về: “Thôi, mầy ngủ đi!”.

Buổi sáng thức dậy, mặt Quảng vẫn rất bình thường, như không hề có chuyện Quảng tâm sự với tôi đêm qua. Tôi ngập ngừng đề nghị: “Hay là mầy tìm một bác sĩ tâm lý, bên đó có nhiều bác sĩ giỏi…”. Tôi chưa nói hết câu, Quảng đã ngắt lời: “Không sao đâu, tao vẫn là đàn ông thật sự mà. Chuyện đó chẳng qua là tao phiêu lưu chút thôi, bởi vì tao cô đơn quá. Nhưng bây giờ thì hết rồi. Mầy yên tâm đi!”. Rồi Quảng cười, nụ cười hiền lành, vô tư, tôi nhìn Quảng cười mà thấy lòng thắt lại vì một nỗi lo lắng mơ hồ…

***
Vợ chồng tôi tiễn Quảng ra sân bay. Quảng ôm hôn Cu Tý: “Tý ráng học giỏi, vài năm nữa chú về, sẽ có quà cho Tý.”, cười với vợ tôi: “Mai mốt tôi về, chị chuẩn bị tinh thần đi, tôi sẽ dẫn theo ít nhất là hai người nữa, một người dắt, một người bồng.”. Vợ tôi dặn với theo: “Anh Quảng nói, phải giữ lời à nhe!”. Quảng bắt tay tôi thật chặt: “Mầy đừng lo cho tao!”. Quảng chào tạm biệt mọi người, xách va ly bước vô phòng cách ly, dáng lầm lũi. Tôi đứng nhìn theo đến khi bóng dáng cao to của Quảng khuất sau dãy cầu thang. Thằng bạn thân của tôi vẫn lầm lũi bước đi, không ngoái đầu nhìn lại, dù chỉ một lần.

Theo gió bay đi

Rồi một ngày chợt nhận ra công việc mình đang làm trở nên mệt mỏi quá, thành phố đang sống bỗng dưng ngột ngạt quá, tôi nghĩ mình nên đi xa một chuyến và nhớ tới Tuyên. Tự dưng thèm gặp Tuyên biết bao, để được nói với Tuyên mọi chuyện trên đời, được cười khóc với Tuyên những chuyện vui buồn mà với người khác, có thể là những chuyện ngớ ngẩn không đáng để tâm. Nếu trong cuộc sống có một người nào đó mà những bộn bề thường nhật có thể làm ta không nhớ đến nhưng lúc dường như thấy cô đơn nhất, đó luôn là người đầu tiên ta nghĩ về thì Tuyên là một người như vậy. Là bạn cùng lớp với tôi ngày xưa, bây giờ đang sống ở một nơi cách thành phố của tôi gần năm trăm cây số, Tuyên luôn biết cách làm dịu đi những nỗi đau buồn của tôi, ngày xưa cũng như bây giờ…

Vậy là tôi gọi điện cho Tuyên. Giọng Tuyên nghe trên phone thật hồ hởi: “Hôm nào mầy vào, để tao đi đón!”. làm tôi tự nhiên thấy mủi lòng. Cái thằng đàn ông trong tôi tưởng mạnh mẽ, gan góc là vậy mà có lúc cũng như thế này sao. Tôi ghé cơ quan xin nghỉ phép, anh Định cười: “Xin nghỉ để hỏi vợ hả? Gì chứ vụ đó là anh ủng hộ hai tay.”. Tôi cũng cười lắc đầu: “Làm gì có! Ai mà thèm ưa em.”, chợt thấy chạnh lòng. Mọi khi, tôi vẫn trả lời nửa đùa nửa thật như vậy mỗi lần bị anh Định trêu nhưng lần này thì… Tôi nghĩ đến Kim, từ lúc quyết định chia tay, đã không hề gặp lại nhau. Kim bướng bỉnh, kiêu hãnh, vốn không chịu thua ai cái gì bao giờ đến hồi còn quen nhau, có lúc tôi đã tự hỏi không biết Kim có thực sự yêu mình không nữa. Ngẫm nghĩ về những chuyện đã xảy ra, tôi đến chẳng hiểu nổi mình. Ngày xưa, không gặp nhau một ngày đã quay quắt nhớ, bây giờ thì thấy mình như vô cảm, không còn muốn thiết tha với cái gì nữa…

Chuyến xe khách đến Tuy Hòa trễ gần hai tiếng đồng hồ so với dự tính, sau khi chạy lòng vòng rước khách và ì ạch qua một chặng hành trình dài gần chín tiếng đồng hồ, dù gã lơ xe đảm bảo chắc một trăm phần trăm với tôi là sẽ đến sớm hơn. Đường xá có nhiều chỗ đang được thi công lại, nắng gắt, bụi mù. Tôi vừa bước xuống xe, mỏi rừ, đã thấy Tuyên chạy ra gọi tôi rối rít từ một quán cà phê bên đường: “Tao ra đây từ lúc cơm trưa xong, ngồi uống nước chờ mầy ở ba quán rồi, cứ sợ xe vô sớm, không thấy tao đón lại lớ ngớ.”. Rồi Tuyên ân cần: “Sao? Đi đường mệt không?”, đưa tay đỡ lấy túi xách của tôi, vừa cười vui vẻ vừa nói: “Tao không nghĩ là có ngày mầy sẽ vô đây thăm tao như thế này, vui ghê luôn!”. Tôi lúng búng giữ lại túi xách: “Để tao mang cũng được!”, muốn nói với Tuyên là mầy đừng có coi tao như con nít như vậy, lại thấy sung sướng một cách ngượng ngùng vì sự quan tâm thật lòng của Tuyên. Hồi còn nhỏ, tôi là đứa bé nhất lớp, Tuyên luôn là người che chở tôi mỗi khi bị tụi cùng trường chặn đường bắt nạt, bây giờ lớn lên, mỗi đứa một nơi, Tuyên vẫn không hết thói quen coi tôi là một thằng bé cần được che chở. Và cũng chỉ với Tuyên, tôi mới có được cái cảm giác của ngày còn thơ dại, bình yên, vô tư, không vướng bận…

Tuyên líu ríu kéo tôi vào quán nước, gọi ly chanh đá, Tuyên vẫn chưa quên ngày xưa tôi có thói quen uống chanh đá mỗi lần đi ngồi cà phê với Tuyên. Tuyên hỏi thăm tôi đủ thứ chuyện, chuyện nọ xọ chuyện kia, làm tôi trả lời không ngớt miệng rồi đột ngột dừng lại: “Mầy vào đây được, tao mừng quá.”. Bây giờ tôi mới có dịp nhìn kỹ Tuyên. Tuyên có gầy hơn, da ngăm đen hơn, nhưng lại trông có vẻ khỏe và rắn rỏi ra. Tuyên nhìn tôi cười: “Mầy vẫn không thay đổi gì mấy, có chững chạc lên được chút xíu.”, rồi ngập ngừng đề nghị: “Chỗ của tao ở cách thị xã gần ba chục cây số, tối nay mình ở lại đây, tao đưa mầy đi chơi cho biết Tuy Hòa.”. Tôi gạt đi: “Thôi, về thẳng chỗ mầy đi, tao cần nghỉ ngơi, tắm rửa một chút.”. Tôi còn muốn nói thêm với Tuyên là tôi vào Tuy Hòa là vì Tuyên, chứ cái thị xã bé tí này đâu có gì hấp dẫn tôi. Tôi đang cần một nơi thật yên tĩnh…

Tuyên ở trong một căn hộ tập thể cùng với hai người bạn nữa, cũng độc thân như Tuyên. Từ nhà đi qua chỗ làm chỉ khoảng vài trăm mét nhưng là vài trăm mét đường đất đỏ, mùa nắng, cứ mỗi lần xe chạy qua là nhuộm đỏ hết áo quần, đầu tóc. Trên đường về, ngồi sau lưng Tuyên, mỗi lần xe chạy xóc ngang qua ổ gà là Tuyên nói: “Ở chỗ tao buồn lắm, nhà quê lắm, sợ mầy không chịu nổi.”. Tôi cười, nhắc lại ngày xưa: “Mầy làm như tao chưa từng sống ở quê.”. Ngày còn nhỏ, đã có những trưa hè nắng chang chang, tôi theo Tuyên đi lội đồng bắt cá lia thia về nuôi, có lần tôi bị cua kẹp khóc thét, làm Tuyên cứ suýt xoa… Dọc đường, chúng tôi gặp mấy xe tải lớn chạy qua, bụi tung mù mịt, Tuyên quay lại cười với tôi: “Đó, mầy thấy ngán chưa?”. Tôi chợt nhận ra hình như cách nói chuyện của Tuyên bây giờ có chút gì đó như thiếu tự tin, không giống một Tuyên “thích là chiều” như ngày xưa…

Hai người bạn cùng phòng của Tuyên đón tôi với một vẻ nồng hậu chân tình hiếm có. Đạt, dáng người gầy cao dong dỏng, tóc để rủ dài trước trán, chào tôi thân thiện: “Tụi em nghe anh Tuyên nói anh vô chơi, ngày hôm nay có ý chờ mãi.”. Trực thấp, đẫy người hơn một chút, có nụ cười thật tươi: “Anh Nghĩa trông không khác trong hình là mấy.”. Tôi hơi bối rối vì sự đón tiếp quá thân mật này, nhìn Tuyên, vẻ mặt Tuyên cứ tỉnh bơ đi. Trực, có lẻ đoán được ý tôi, cười trấn an: “Anh Nghĩa đừng ngại, tụi em sống ở đây như anh em một nhà, thân nhau lắm, lâu lâu có anh vô chơi là mừng rồi.”.

Tuyên đưa tôi ra tắm ở cái giếng ở sau hè. Nước giếng mát rượi, trong veo, trong tôi có cảm giác thật nhẹ nhàng. Chỗ Tuyên ở là một vùng gò, đồng lúa bao xung quanh ngút mắt, xa xa là dãy núi nhấp nhô, xanh thẫm. Buổi chiều ở đây xuống nhanh, mới đó mà đã sụp tối. Tiếng ểnh ương kêu râm ran. Những căn hộ trong khu Tuyên ở đã lên đèn, những ngọn đèn bóng tròn vàng vọt giữa một không gian trống không làm cho khung cảnh ở đây càng trở nên hiu quạnh hơn. Trong những cái thư viết cho tôi, Tuyên không bao giờ kể cho tôi nghe những chuyện này. Cũng chưa từng có một lời than thở nào! Tôi nhớ đến căn phòng mình ở, có ti-vi, có giàn máy CD âm thanh Hi-fi, vậy mà từ ngày Kim nói chia tay, vẫn có những buổi tối tôi nằm vật vã vì trống trải, cô đơn. Về đây, tôi ước ao được sống cảnh sống bình yên mà Tuyên đang sống, rồi lại sợ mình có lúc cũng sẽ không chịu nổi cái nhịp điệu trầm tĩnh như thế này. Có lẽ trong tôi là một chuỗi những ham muốn mâu thuẫn cứ luôn giằng xé nhau, chẳng thể nào rạch ròi được. Ngày Kim nói chia tay, tôi đã muốn níu kéo Kim trở lại, không phải là tôi không còn yêu Kim nhưng rồi lại thấy quá mệt mỏi trong một cuộc tình luôn có giận dỗi, trách cứ nhau hiện diện nhiều hơn những tháng ngày hạnh phúc. Tôi nhớ đến Kim, Kim luôn coi công việc và những mối quan hệ làm ăn hơn hết, đôi lúc quên mất những quan tâm nhỏ nhoi, vặt vãnh dành cho nhau. “Mình còn có cả một đời sống sau này để cho nhau mà!”. Kim vẫn thường nói như vậy cho đến một ngày, Kim đột ngột gởi trả tôi những món quà tặng và mấy dòng chữ ngắn ngủi: “Em mu! ốn chúng mình chia tay nhau vì em có cảm giác là gần đây, em không còn được yêu nữa!” mà không hề tự vấn điều gì đã dẫn đến kết cuộc như vậy. Tôi không biết được cảm giác của mình lúc đó để rồi sau này, thấy ngày thì dài ra, và nỗi buôn trong mình cứ chất chồng lên, đầy ắp…

Buổi tối đầu tiên ở chỗ Tuyên trôi qua thật lặng lẽ. Cơm nước xong, Đạt rủ Trực đạp xe vô trong xóm chơi, cách chỗ ở gần hai cây số, chỉ có Tuyên với tôi nằm nhà nói chuyện trên trời dưới đất. Tuyên hỏi tôi: “Mầy định khi nào cưới vợ?” rồi không đợi tôi trả lời, kể chuyện tình cảm của mình với một cô bé cùng chỗ làm, rằng Lam hiền lắm, chịu khó lắm, bằng một dáng vẻ hạnh phúc không cần giấu làm tôi cứ thấy buồn buồn. Tuyên đột nhiên hỏi tôi: “Mầy có gì không ổn hả?”. Không dưng, bao dự định đến đây kể Tuyên nghe chuyện này chuyện nọ trong tôi tan biến: “Đâu có gì!”. Tuyên im lặng, không hỏi thêm nữa, cũng không kể thêm cho tôi nghe gì nữa, lái câu chuyện giữa hai đứa sang một hướng khác. Buổi tối ở đây thật sâu, có tiếng dế rả rích kêu đầu hè. Nói chuyện chán, chúng tôi nằm yên lặng ngắm sao qua cửa sổ. Những vì sao trong đêm lung linh, huyễn hoặc như một thứ hạnh phúc chỉ để ao ước, thèm muốn, khó nắm bắt…

Sáng hôm sau, Tuyên dậy thật sớm, dù gần như suốt đêm qua, Tuyên uống trà với tôi, tán chuyện gẫu. Đạt với Trực đêm qua về nhà tận nửa đêm, xôn xao kể chuyện đi hát karaoke trong xóm vui lắm, cũng dậy sớm, lục đục chuẩn bị đi làm. Tuyên chờ tôi sửa soạn xong, rủ vô xóm uống cà phê: “Mầy vô, tao xin nghỉ phép đưa mầy đi chơi.”. Hình như từ xưa đến giờ, chỉ có mình Tuyên là đối xử với tôi như vậy. Quán cà phê là một ngôi nhà lợp tranh trên mái, có song cửa bằng nứa kết lại, nằm ở giữa một khu vườn rộng, vòm lá xanh mướt. Buổi sáng, ngoài cà phê ra, người ta còn bán cháo lòng để điểm tâm và rượu. Mới sáng sớm đã có mấy ông trung niên ngồi khề khà bên đĩa lòng heo, mặt đỏ phừng phừng. Hình như ở đây mọi người đều quen biết nhau, tôi thấy Tuyên gật đầu chào hết thảy mọi người, có người còn kéo tay Tuyên vô “mần một ly”. Tôi và Tuyên chọn một cái bàn ở cuối khu vườn rộng, thật yên tĩnh. Tuyên kể cho tôi về cuộc sống ở đây, lúc đầu mới đến thấy buồn lắm, không ciné, không có chỗ vui chơi, sách báo thì thiếu thốn, tưởng đã bỏ cuộc mà đi, cuối cùng rồi cũng quen. “Lúc mới về, tao nhớ mầy, nhớ thành phố ghê lắm.”. Tôi chợt thấy thương Tuyên để chợt nhận ra mình sao vô tâm quá, sao đòi hỏi nhiều quá. Rồi lại thấy Tuyên như vậy mà ngon lành hơn mình, thành công hơn mình nhiều, lâu này mình cứ như đang loay hoay trong một cái bọc điều mà mình không biết…

Tuyên rủ: “Lam nghe mầy vào, nói tao chiều nay rủ mầy về nhà chơi cho biết.”. Tôi khẽ gật đầu, lại nhớ đến Kim. Tôi không sao thôi nghĩ về Kim được dù cố tự nhủ lòng: Đã là chuyện cũ. Nhiều lúc ngồi một mình, tôi vẫn cứ ray rứt hoài không biết mình có vô lý quá với Kim không. Mà sao Kim cũng tỏ ra bướng bỉnh quá chừng…

Mấy ngày ở chơi với Tuyên, tôi cứ loanh quanh sáng uống cà phê, chiều đánh banh, lúc rảnh rỗi thì nằm tán chuyện hão, rồi cũng qua. Chỉ được vài ngày là tôi bắt đầu thấy tẻ nhạt, lại nao nức nhớ cái không khí làm việc vùi đầu quen thuộc của mình. Đã quá đủ cho một chuyến rong chơi, rồi phải trở về với cuộc sống thường nhật thôi. Tuyên vẫn ngày ngày chịu khó ở nhà chơi với tôi, hình như Tuyên biết tôi có chuyện buồn lắm mới tìm đến Tuyên, nhưng Tuyên chưa hề hỏi gặng tôi về Kim. Tuyên luôn luôn là vậy, thâm trầm, tế nhị và bây giờ thì tôi thấy không cần thiết để làm nhọc lòng Tuyên vì những chuyện lẩm cẩm của mình. Nỗi buồn, dù lớn đến mấy thì rồi cũng quen, chẳng thể để nó quật ngã mình, càng không thể nhốt mình hoài trong một cái vỏ ốc, vì những chuyện đã qua…

Tuyên, Lam, Đạt, Trực và mấy người bạn nữa tổ chức một buổi liên hoan tiễn tôi về. Có gà xé, có thịt nai khô, và đặc sản là món rắn xào xả, con rắn mà Đạt với Trực đập chết hồi đêm khi bắt gặp nó chui vào cuộn tròn trong chái bếp. Những món ăn mà ở hầu như nhà hàng nào ở thành phố tôi sống cũng có, tôi đã từng nếm qua trong các buổi tiệc chiêu đãi khách ê hề, chưa bao giờ có được cái không khí, sắc thái như ở đây. Một chiếc chiếu cũ trải giữa sàn nhà lau sạch bóng, mấy cái chén dĩa bằng sành, đũa tre trông rất dã chiến, mùi thức ăn từ căn bếp sau nhà bốc thơm lừng… Lam có rủ thêm hai cô bạn gái tới chơi, Duyên và Thúy, Duyên có đôi mắt đen tròn, hàng mi dày và cái nhìn như mơ, giống Kim kinh khủng, chỉ khác là cái nhìn của Kim quyết đoán hơn… Đạt khệ nệ bưng vào một thùng bia, giải thích: “Lâu lâu anh Nghĩa mới vào, mình mát trời một bữa.”. Tôi quay sang Tuyên, trách nhẹ: “Mầy biết tính tao quá rồi, sao còn bày vẽ quá!”. Tuyên không nói gì, chỉ nhìn tôi, mắt long lanh sáng…

Lam nhiệt tình mời: “Hôm nào anh Nghĩa rảnh, mời anh lại vô chơi với tụi em. Em nghe anh Tuyên nhắc tới anh hoài à, mà lần này anh vô chơi em ít được tiếp xúc quá.”. Trực cười khùng khục, mặt đỏ bừng vì bia: “Vậy thì chị Lam phải làm sao giới thiệu cho anh Nghĩa một cô, để ảnh còn có cớ thường xuyên thăm viếng bọn mình.”. Lam đưa tay chỉ Duyên và Thúy: “Có hai cô này nè, anh Nghĩa thấy sao?”, rồi cười, hai cô dúi vào lưng nhau, đỏ bừng mặt. Đạt sốt sắng: “Em với anh Tuyên định hôm nào nghỉ phép sẽ ghé thành phố thăm anh nhưng rồi cứ lừng khừng hoài, chưa đi được.”. Tôi ngồi lúng búng, chả biết nói gì, hai tay cứ xoay xoay cái ly, lòng thấy ấm áp nhiều lắm. Thúy bạo dạn liếc tôi: “Ngó anh Nghĩa đỏ mặt kìa!” làm mọi người cười phá lên. Tuyên huých tay tôi: “Ăn đi chứ mầy, sao thấy ngồi làm thinh hoài vậy?”.

Ăn uống dọn dẹp xong, mọi người mang chiếu ra trải ngoài sân. Lam pha một bình trà nóng rồi ôm cây đàn guitar ra trao cho Tuyên. Mọi người ngồi chung quanh, Tuyên ôm đàn khảy khảy vài hợp âm rồi gọi Duyên: “Duyên thay mặt bọn mình hát bài gì đó tặng anh Nghĩa đi.”. Duyên “dạ” khẽ rồi hát, giọng hát ấm và trong trẻo lạ lùng: “Những buồn đau đã qua rồi, tựa thoáng mù sương giữa khung trời, để gió đưa vào lãng quên…”*. Trong tôi có một điều gì đó mới mẻ vỡ òa ra, lan tỏa, chơi vơi. Duyên say sưa hát, nét mặt của Duyên trở nên thanh thoát, dường như lúc này Duyên không cần chú ý những gì đang diễn ra chung quanh mình, chỉ còn tiếng hát. Đêm chùng xuống, thẳm sâu, những vì sao trên cao sáng lấp lánh, như có ai đó đang nhìn tôi, mắt nheo nheo chế giễu… Còn chờ gì nữa mà không mở rộng lòng ra, thả nỗi buồn theo gió bay đi…

Trung Thu

Cú điện thoại của Khải lúc gần bốn giờ chiều đã lôi tôi ra khỏi nhà trong đêm Trung Thu. “Mày có mục gì tối nay không?. “À, không… mà sao?”. Tôi ậm ờ. Giọng Khải có vẻ như vỡ oà ra, vui vẻ: “Trời, vậy thì hay quá. Đi Hội An chơi Trung Thu với tụi tao. Mày chở Nhi, Tao chở Miên. Năm giờ ghé nhà tao!”. “Nhưng…!”, tôi ngập ngừng, thật lòng tôi không muốn chơi bời hội hè gì kể từ ngày Thoa ra đi. Khải ngắt lời tôi: “Không nhưng nhị gì cả. Nhi mới ở Sài gòn về, tụi tao đang thiếu xe mới phải nhờ đến mầy”. Khải đã nói thế, tôi không biết làm thế nào hơn.

Nhi lớn và xinh ra nhiều, khác hẳn những gì tôi hình dung về cô em gái gầy gò, rụt rè của Khải ngày xưa. Nhi leo lên xe tôi, chào tự nhiên: “Lâu ngày ghê, anh Thuận há?”. Tôi “Ừ” rồi hỏi: “Em về khi nào?”. Giọng Nhi trong vắt: “Em nghỉ phép năm, mới về hôm qua, chủ yếu là về để đi chơi đêm Trung Thu Hội An cho biết. Em nghe anh Khải quảng cáo dữ quá! Lâu nay anh có về Hội An?”. Tôi nghe Nhi hỏi mà giật mình: Từ ngày quen Thoa, cho đến ngày Thoa ra đi, Chủ nhật nào dường như tôi cũng có việc gì đó để ở lại Đà Nẵng. Thoa đi rồi, nhưng những thói quen, những ảnh hưởng Thoa để lại trong tôi lớn hơn tôi tưởng. Ba mươi cây số từ Đà Nẵng về nhà trở nên quá xa và lười lĩnh.

Nhi ngồi sau xe, nói chuyện trên trời dưới biển, chẳng mấy chốc là về đến Hội An. Cả bọn ghé vô nhà tôi, gởi xe, Khải có dịp thăm mẹ tôi. Khải oang oang: “Tụi con nhắc hắn cưới vợ hoài mà cái thằng Thuận này lì quá!” Mẹ tôi cười hiền lành: “Nó đi làm ngoài đó, có gì anh em bảo ban dùm”. Khải nghiêm túc “Dạ” theo một cách rất nghịch ngợm làm cả bọn cười ồ, Miên thì cấu vào vai Khải. Tôi nhìn vẻ nhăn nhó dễ thương của Miên, chợt chạnh lòng, rồi lại thấy mình vô duyên quá.

Chúng tôi đi lòng vòng quanh phố, Khải khoác tay Miên đi trước và tôi với Nhi phía sau làm thành hai cặp. Nhi cười cười thăm dò, nửa đùa nửa thật: “Em đi với anh thế này, có khi nào sáng mai, anh bị nhéo bầm người không?”. Mới hơn sáu giờ, người ta đã cấm xe cộ, đường phố chưa có nhiều người đi chơi nên còn yên ắng lắm. Trời chập choạng tối, đèn đường và đèn bóng trong nhà ở các khu phố chính tắt tối om, nhường chỗ cho lồng đèn và trăng. Những chiếc lồng đèn đủ hình dáng, kích cỡ, treo trước các hiên nhà tỏa ra một thứ ánh sáng dìu dịu, huyễn hoặc và ánh trăng bàng bạc khắp nơi làm cho phố cổ mang một dáng vẻ hội hè xưa cũ, thật quyến rũ. Nhi thì thầm: “Đẹp ghê, ở Sài Gòn không bao giờ có cảnh thế này”. Tôi hỏi: “Vậy ở trong đó có chi hay?” “Chả có gì hay ho cả, chán phèo!”. Nhi nói Sài Còn chán phèo nhưng rồi có dám bỏ Sài gòn mà về Đà Nẵng sống đâu, cũng như Thoa ngày xưa từng nói: “Em muốn được ở bên anh, suốt đời”. Thoa đã làm tôi cảm động biết bao nhưng rồi Thoa vẫn phải nghe lời gia đình, đi Mỹ du học. Xem ra, tôi là một người cầu toàn, đến mức chán cả bản thân mình.

Còn sớm quá, chỉ lác đác vài tiếng trống múa lân và thảng hoặc, một chiếc xe hoa kết đèn nhấp nháy, có cả chị Hằng, chú Cuội bằng người thật ngồi trên xe, chạy ngang phố về nơi tập trung. Chúng tôi đi ngang qua một gia đình bày mâm ngũ quả và hương đèn trước nhà cúng rằm, thấy lòng bình yên lắm. Không dưng tôi nhớ Thoa, Trung Thu này đang ở một nơi không ai biết Trung Thu là gì, không bánh dẻo, không lồng đèn, không tiếng trống múa lân, Thoa đang làm gì, nghĩ gì. Thoa là người trẻ, chắc không như mấy ông già vọng cố hương trong kịch Dạ Cổ Hoài Lang mà hồi ở nhà, Thoa đã khóc sướt mướt khi xem.

Gần tám giờ, đoàn diễu hành gồm xe hoa và rước đèn bắt đầu đi vòng quanh các phố. Người đông như kiến cỏ, không một chỗ chen chân. Khải bảo: “Tụi mình nắm tay nhau mà đi cho khỏi lạc”. Miên phân công: “Anh Khải đi trước, đến em, đến Nhi, rồi anh Thuận đi sau cùng. Anh Thuận nhớ nắm tay Nhi nghe”. Chúng tôi len lỏi giữa đám người đông nghịt, bàn tay Nhi trong tay tôi rụt rè, mềm và ấm. Dù muốn hay không, sau đêm Trung Thu này, Khải với Miên vẫn thuộc về nhau, Nhi vào Sài Gòn lại như cuộc sống vốn dĩ của Nhi, và chúng tôi sẽ chia tay nhau, nỗi lo sợ lạc nhau trong một đêm hội hè thế này biết sẽ còn ai nhớ đến. Loanh quanh một hồi, rồi Khải rủ: “Mình ra thuê thuyền đi dọc bờ sông chơi đi!”. Chủ thuyền là một người đàn bà trung niên nói nhiều không thể tưởng, luôn miệng ca cẩm về một ông chồng bệnh tật và kèo nài thêm từng đồng một như thể cuộc đời này đang ưu đãi hết thảy cho chúng tôi nhưng quay lại bủa vây bà. Khải buông một tiếng: “Thôi được rồi!”, kết thúc cuộc mặc cả, hào phóng một cách miễn cưỡng. Người đàn bà đã thôi nói sau khi nghe Nhi nhắc khéo là vừa chèo đò vừa nói dì sẽ mau đuối sức lắm đó! Chỉ còn im lặng và một cảm giác thanh thoát khó tả… Những chiếc hoa đăng trôi trên sông lững lờ như những viên ngọc đính trên một nền nhung đen lấp lánh đẹp rực rỡ. Gió thổi mát rượi và bình yên. Ngồi trên thuyền ở giữa sông, thấy mình như đang thoát ra khỏi cảnh hội hè đông vui trên bờ, mình không thuộc đám người đi xem hội, mình thuộc về thế giới khác, ít trần tục hơn đang quan sát n! hững buồn vui của một thế giới trần tục. Miên ước ao: “Giá như lúc này có máy ảnh.”. Nhi phụ họa: “Hồi chiều em đã nhắc anh Khải mang theo máy ảnh rồi, ảnh bảo không cần.”, rồi tiếc cảnh đẹp như thế này, buổi đi chơi vui vẻ thế này. Cuộc đời này phù du lắm, Nhi ơi, cái gì vui nhiều thì chóng tàn, níu giữ cũng có được đâu… Nhi tự nhiên bật cười: “Ngó anh Thuận kìa, ngồi suy tư như ông già!”.

Chúng tôi vào bờ là đã hơn chín giờ tối. Miên rủ ở lại một chút coi mấy người dân chài hát hò khoan trên bến sông. Chúng tôi chen vào giữa đám đông bu quanh trên bờ, chỉ thấy dưới ánh trăng huyền ảo, nhưng chiếc ghe nhỏ đã tập trung rải rác ở phía bến sông, những giọng hò nam nữ đối đáp nhau lan tỏa, nghe mộc mạc, tình cảm nhưng u buồn. Toàn là những ước hẹn, trao duyên, nhắn gởi, có cả sự trách móc và tuyệt vọng. Anh nói với em như rìu chém xuống đá, như rựa chém xuống nhất, như mật rót vào tai. Bây chừ anh nỡ nghe ai, bỏ em giữa chốn non đoài hả anh”… Có một chút gì chợt chùng xuống giữa cái không khí náo nhiệt của một đêm hội. Nhi vẫn đứng bên cạnh tôi, tay lồng vào cánh tay tôi, thầm thì: “Hay ghê!” rồi hỏi như chia sẻ: “Anh có thích nghe hát hò khoan như thế này không?”. Tôi lắc đầu tỏ ý muốn im lặng. Nhi vẫn tiếp tục: “Em cũng không thích lắm, nhưng sao tối nay, thấy hay hay?”. Có một đám thanh niên áo quần rằn ri, tóc dài thậm thượt, ồn ào kéo đến, la ó, huýt sáo ỏm tỏi. Khải kéo tay tôi: “Tụi mình đi thôi, lộn xộn quá!”. Rồi cả bốn đứa rời đám đông, lặng lẽ, không ai nói với ai một tiếng nào. Trăng vẫn sáng và đêm hội vẫn còn, tôi thấy mình hèn hèn thế nào ấy, hình như chẳng bao giờ dám công khai tỏ ra yêu quý cái gì.

Lúc tiễn chúng tôi ra cổng về Đà Nẵng lại, mẹ tôi dặn: “Chở bạn gái đi đường khuya, chạy xe cẩn thận nghe con?”. Mẹ cứ tưởng Nhi là bạn gái của tôi, mẹ đang muốn tôi lập gia đình, đừng lông bông nữa. Nhi cười cười: “Sao anh Thuận không cưới vợ cho rồi, anh kén quá?” Ai gặp tôi cũng hỏi câu này để lúc nào cũng được nghe cùng một câu trả lời là tôi ế rồi, đâu có ai chịu ưa tôi. Sau khi Thoa ra đi, dưới mắt mọi người, tôi gần như là một kẻ gàn dở, tôi chẳng thực sự yêu Thoa, tại sao chẳng hề có ý muốn giữ Thoa lại, mà đâu biết rằng một cuộc tình đến và đi không nằm trong chủ đích của tôi, tôi đâu hề muốn thế. Nhi nói vui mà như răn đe: “Cứ khó tính như thế này, cả đời anh cũng không cưới được vợ”, rồi có vẻ hơi hoang mang khi nghe tôi buồn rầu than thở: “Sau này chắc anh lên núi đi tu!”.

Đùa với Nhi một tí thôi, đi tu làm sao được, khi trăng vẫn còn lừng lững trên cao và lòng đang còn vướng vất nhiều lắm…

Tiên Phước

Có một lần lâu lắm rồi, cô đọc cho anh nghe câu ca dao về dòng sông quê cô: “Sông Tiên nước chảy ngược dòng, ai về Tiên Phước để lòng ngẩn ngơ…”, khoe với anh là có khá nhiều dị bản nhưng cô thích dị bản để lòng ngẩn ngơ này nhất. Rồi cô kể với anh là trên sông Tiên có một cây cầu nhỏ, gọi là cầu Bình An, bình an như chính tên gọi của nó. Năm ngoái, nhằm đúng ngày nước lụt dâng cao, có cô gái nọ thất tình, đứng trên cầu Bình An nhảy xuống, may sao lại bị vướng ở đám bèo lục bình dày đặc dưới chân cầu mà thoát chết. Hình như xưa nay, chưa có ai bị chết đuối dưới chân cầu Bình An… Những chuyện ly kỳ cô kể về thị trấn trung du quê cô nghe giống như một lời rủ rê. Và anh, cũng làm như mình bị cuốn theo những lời rủ rê của cô, lặn lội một mình một ngựa vượt qua chặng đường gần 100 cây số với những dốc cùng đèo để đến thị trấn trung du thăm cô. (Thực ra thì anh đâu có mê gì con sông Tiên nước chảy ngược dòng, cũng như chiếc cầu chưa có ai chết đuối đó, anh chỉ lên đây là vì cô, nhưng anh đâu có dại gì mà thú nhận điều này với cô). Để bây giờ, ngồi với cô ở một quán cà phê dưới chân cầu Bình An, cũng tên là Bình An quán, nhìn cô cười, mái tóc cô bay bay vấn vít, anh thấy lòng ấm áp và bình an lắm. Quán vắng, hai chiếc loa thùng bự chảng trong quán đang thả một tình khúc ngọt ngào: “Phố núi cao, phố núi đầy sương… anh khách lạ đi lên đi xuống…”. Ừ, thì cũng là phố núi, anh cũng đang là khách lạ đây, chưa xa lắc nhưng sao anh thấy có nhiều điều để nhớ quá chừng.

Lần đầu tiên anh gặp cô là ở nhà một người bạn gái của cô. Cô bạn của cô lúc ấy là sinh viên một trường đại học ở Đà Nẵng, là thành viên trong câu lạc bộ văn thơ của thành phố mà anh là một trong những kẻ ngoại đạo đang tập tểnh dấn thân bằng những vần thơ con cóc dở ẹt. Anh biết mình không có tài, nhưng thừa đam mê. Những buổi sinh hoạt câu lạc bộ, những lần đọc thơ dã ngoại, gặp gỡ với các nhà thơ nổi tiếng luôn làm anh mê mẩn. Anh quen cô bạn của cô ở đó, rồi vô tình nghe nhắc đến tên cô, bấy giờ đã là một tên tuổi khá đình đám trong giới sinh viên viết lách ở Huế. Sau đó lại được gặp cô, lần gặp gỡ tình cờ không ngờ lại dẫn đến một mối quan hệ thân thiết nửa bạn bè, nửa không xác định được sau này. “Hồi đó, trông anh ngô ngố, chứ không lém lỉnh như bây giờ, mỗi lần rủ anh đi chơi, tụi em tha hồ bắt nạt anh mà anh đâu có dám nói gì!”. Ngày mới gặp nhau, cô nghịch lắm cơ, đi chơi với cô, cô giành nói hết, chẳng cho anh có ý kiến gì, làm hai tai anh cứ đỏ rừ lên mỗi khi ở bên cạnh cô. Còn anh thì thấy cô, bên ngoài những bài viết khá ấn tượng, vẫn đời thường và con nít lắm! Có lẽ, níu cho anh với cô thân nhau là những lá thư. Thư cô viết thường không đầu không đuôi, đôi khi là một đoạn ngăn ngắn, một bài thơ nhỏ mà cô tình cờ “nhặt” được trên đường. Anh biết mình làm thơ dở, chẳng dám đối lại với cô đâu, chỉ biết thỉnh thoảng dạo hiệu sách, gặp cuốn truyện nào hay hay, hay một cassette nhạc mới nào đó là “lượm” về hì hục gói lại, ra Bưu điện gởi tặng cô…! ; Ba năm trời với những lần gặp nhau đếm được trên đầu ngón tay. Ba năm trời, như một cái chớp mắt, cứ lơ lơ lửng lửng như thế, cho đến ngày cô ra trường, về dạy ngay ở chính ngôi trường cũ ở quê, anh mới chợt nhận ra sao anh nhiều bạn bè là thế mà bây giờ chỉ còn có một mình cô. Cũng như cô, đến một lúc nhận ra, riết một hồi, có chuyện buồn vui gì thì cô cũng chỉ biết trút với anh, duy nhất với anh, không dè chừng, không e ngại.
Để rồi, từ một người có tiếng là không mặn mòi lắm với những chuyến đi xa, anh lặn lội chạy xe một mình lên cái thị trấn trung du heo hút này. Những địa danh là lạ, địa danh nào anh cũng thấy ngộ nghĩnh. Nhà cô ở Tiên Cảnh. “Thế Bồng Lai ở đâu?”. Đây là Tiên Kỳ. “Đâu có thấy gì kỳ lạ.”. Đây là Tiên Thọ. “Chắc Tiên ở đó sống lâu!”. Vùng này là Tiên Mỹ. “Tiên ở Tiên Mỹ chắc xinh lắm, vì là Tiên ngoại quốc”. Nghe những câu “bình loạn” trước của anh, cô thùm thụp đấm vào lưng anh phản đối nhưng câu cuối cùng thì cô gật đầu. “Em có mấy đứa bạn ở Tiên Mỹ, xinh lắm, để em giới thiệu cho anh!”. Anh cắc cớ: “Không cần giới thiệu ai khác cho anh đâu, anh thấy Tiên Việt Nam cũng xinh đâu có kém gì!”. Thật không còn lời tán tỉnh nào trắng trợn hơn. Cô đỏ mặt, anh nghĩ là mình không nhìn lầm, cô đỏ mặt thật. Và khi cô đỏ mặt e thẹn, mắt long lanh, anh bất ngờ nhận ra cô xinh thật, chứ không phải là cái miệng liếng láu của anh đang chọc cô. Khỉ quá đi mất!

Anh chở cô chầm chậm trên đường về nhà cô. Nhà cô hơi khó tìm, nên khi anh lên, cô hẹn gặp anh ở quán cà phê dưới thị trấn. Con đường nhựa chính của thị trấn trung du nhỏ hẹp và đầy dốc. Cô kể ngày xưa em đi học, ngày nào cũng đạp xe băng băng hai bận qua gần 5 cây số đường dốc này. Có khi cao hứng, cô với mấy đứa bạn gái nghịch ngợm thả phanh xe lao xuống dốc, để nghe gió táp ào ào trên mặt… Anh nhăn mặt: “Con gái con đứa gì mà liều quá, gãy cổ có ngày!”. Cô búng mũi anh, cười hồn nhiên: “Lúc đó, tụi em đâu có nghĩ gì đến nguy hiểm, chỉ biết là thả dốc, thích lắm!”. Anh thử đùa với cô: “Bây giờ anh thả phanh xuống dốc, em có thích không?”. “Đừng, em không muốn hy sinh cùng với anh!”. Anh cắc cớ: “Không muốn hy sinh hay không muốn cùng với anh?”. “Cả hai!”. Cô đối đáp giỏi lắm, không hiểu sao lại làm anh chạnh lòng. Có một điều gì đó mới mẻ đang lan tỏa rất nhẹ trong tim anh và một dự cảm mất mát mơ hồ. Anh với cô chỉ là bạn? Hay anh đã mơ hồ nghĩ đến một điều gì khác mà chưa thể gọi tên được thành lời?

Nhà cô nằm hun hút trong xóm, ngoằn nghèo qua một con đường đất nhỏ hẹp, chung quanh toàn là đồng lúa xanh ngút. Cô dẫn anh vào giới thiệu với ba mẹ cô: “Đây là anh V., bạn con!”. Bố mẹ cô trông chân chất và rất hiền. Không khí gia đình đầm ấm, bữa cơm trưa dung dị có cá đồng nướng, canh bầu nấu với tôm và ớt hiểm dằm nước mắm nhỉ cay thin thít làm anh thấy lòng nhẹ nhàng, bình yên chi lạ. Như là ở nhà mình. Tự nhiên, anh nhớ cũng có lần, cô bạn gái ngày xưa của anh cũng dẫn anh về nhà ra mắt và dùng cơm trưa với gia đình. Bữa cơm trưa sang trọng trong phòng khách, máy lạnh chạy êm như ru, hai tay anh thừa thãi trong khung cảnh im lặng nhợt nhạt và ánh mắt bà mẹ cô bạn gái sắc như dao. Sau đó, vì một lý do gì đấy anh không muốn nhớ, tụi anh đã chia tay nhau, chuyện này anh cũng đã có lần kể cô nghe. Anh không biết nếu chuyện tình ngày đó có một kết thúc có hậu thì anh sẽ sống ra sao với bà mẹ vợ. Một ý nghĩ ngớ ngẩn, ngớ ngẩn quá đi mất. Anh không biết trên đời này, còn có ai như mình, cưới vợ mà cứ sợ sống với bà mẹ vợ. Bất chợt, anh quay sang nhìn cô, thấy thinh thích khi cô bắt gặp ánh mắt anh, e thẹn cúi mặt. Một kiểu e thẹn rất tự nhiên và đúng lúc. Cô có như anh, đang nghĩ về một điều mới mẻ mơ hồ chưa thể gọi tên được thành lời?

Buổi chiều, cô đưa anh đi thăm ngôi nhà cổ tương truyền đẹp nhất Quảng Nam. Ngôi nhà nằm trên đồi cao, anh thích nhất là lối đi lên dài hun hút với những bậc thang cấp xếp bằng đá núi, một bên vách cũng bằng đá núi có bám những cây dây leo ngồ ngộ. Rồi anh chở cô chạy xe vù vù qua những con dốc dài đến tham quan nhà lưu niệm cụ Huỳnh Thúc Kháng, một ngôi nhà mái ngói âm dương ba gian xưa cũ nằm sau một hàng giậu bằng cây chè tàu xanh mướt, với những di chỉ về cuộc đời hoạt động cách mạng của cụ Huỳnh. Cô nói nếu có thời gian, cô sẽ đưa anh đi thăm Lò Thung, một thắng cảnh của quê cô. Cô còn dẫn anh rẽ ngang qua một con đường hình vòng cung, chỉ cho anh ngôi trường ngày xưa cô đi học, cũng là nơi cô dạy bây giờ. “Còn một điều quan trọng mà em chưa đưa anh đi giới thiệu?”. Anh cười cười nhìn cô. Cô làm như không để ý, tránh ánh mắt của anh: “Điều gì?”. “Bạn trai của em đâu?”. Một câu hỏi có tính thăm dò. Cô cười lớn: “Anh chơi thân với em lâu nay mà không biết bạn trai của em ở đâu à?”. Một câu trả lời cũng mang tính đánh đố không kém. Trông cô lúc này đáng yêu quá, hai má đỏ hồng, mắt long lanh, những sợi tóc mai mỏng mảnh dính bết trên má. Và trong một lúc bất ngờ không chủ định, anh đột ngột cầm lấy tay cô, siết chặt, đưa lên môi. Bàn tay cô mềm và ấm. Anh nhìn thẳng vào mắt cô, giọng run run: “Anh có cần phải nói thêm điều gì nữa không?”. Cô lặng lẽ lắc đầu. Cô có thật sự hiểu anh? Không nghe cô nói gì, cũng không thấy cô rụt tay lại. Không dưng, anh thấy bàng hoàng, như thể mình đang! làm vỡ mất một điều gì mong manh lắm, mà không thể níu lại được. Có phải là đã quá trễ để níu lại một tình bạn? Và hãy còn quá sớm để gọi tên một điều chưa thể gọi thành lời?

Những ngày vui vẻ như thế này thường qua rất nhanh. Lúc chiều tối, trên đường tiễn anh về lại Đà Nẵng, cô đưa anh vào một quán ăn bên đường có món đặc sản “lòng thả” của quê cô. Đó là một món ăn được nấu bằng những sợi bún khô lỏng lẻo nước, trên có thả mấy lát lòng gà thái mỏng. Cay nồng, thơm lựng. Chính lúc này, được ngồi bên cạnh cô, được ngắm những sợi tóc mai mỏng mảnh của cô, anh biết là mình sẽ khó lòng quên được món “lòng thả” gợi nhớ, khó quên dòng sông Tiên nước chảy ngược dòng và chiếc cầu Bình An luôn bình an như tên gọi. Nhưng có một điều anh vẫn chưa biết là ở trên thị trấn trung du những dốc cùng đèo, có một nơi chốn bình an nào để anh thả lòng mình ở lại?

***
“Không phải em không hề nghĩ đến một điều chưa thể gọi tên bằng lời nhưng đây là chuyện rất hệ trọng, em cần có thời gian suy tính thật kỹ trước khi trả lời với anh”. Lần cuối cùng anh gặp cô là cách đây đã hơn 2 tháng rồi, cô vẫn còn đang suy tính. Bây giờ đã là tháng tám, nắng trước hiên nhà anh rất vàng và lá rất xanh…

Người ta đâu cần một thời gian dài đến thế mới gọi tên được một điều mà từ lâu, đã không còn một ý nghĩ mơ hồ…

Người cũ

1. Anh thấy hình như năm ngón tay của mình đang nắm chặt lấy ống nghe điện thoại: “Em đang ở trên ga chờ tàu đi Hà Nội, chừng nửa tiếng. Em có thể gặp anh?”. Gần tám năm trôi qua rồi, giọng Quy vẫn thế, ngọt ngào và nũng nịu một cách rất dễ mềm lòng. Có một điều gì đó ngủ yên trong anh tám năm qua nay bỗng bừng thức dậy. Như thể chẳng hề có khoảng cách thời gian tám năm và khoảng cách không gian gần 500 cây số, không xa nhưng với anh tưởng đã nghìn trùng. Giọng Quy trong máy vẫn đầy vẻ ngoan hiền: “Anh có lên ga bây giờ được không?”. Anh liếc sang chỗ sếp, lúc này đang ngồi lục lọi đống hồ sơ cũ, một kiểu liếc ngang rất thậm thụt, vội vã đồng ý: “Ừ, anh lên ngay, em chờ anh nghe!”. Sếp chẳng bao giờ căn dặn mỗi khi anh ra khỏi cơ quan, việc của anh chủ yếu là chạy ngoài, nhưng lúc dắt xe ra khỏi cổng, anh vẫn thấy có cái gì đó len lén, thậm thụt… Chợt giật mình: chuyện gặp gỡ như thế này có gì là không chính đáng đâu, Quy vốn là người cũ của anh mà. Không dưng anh nghĩ đến Giang, giờ này chắc Giang cũng đang túi bụi với đống giấy tờ sổ sách cuối quý ở cơ quan, anh vô tình mà nghĩ đến Giang thôi nhưng tự nhiên là một ý nghĩ ray rứt, anh không sao dứt ra khỏi đầu…

Quy ngồi chờ anh ở bậc thềm trước nhà ga cùng với người bạn, thấy anh đến, mấy người bạn tự dưng đứng dậy, cười cười chào anh rồi lảng đi mất. Tám năm không gặp nhau, không một dòng thư, không một lời thăm hỏi, bậy giờ nhìn lại, Quy vẫn thế, xinh xắn, chỉ hơi gầy và một vài đường chân chim nơi khóe mắt, tinh ý lắm mới thấy. Quy giải thích với anh ngắn gọn: “Em đi tham quan cùng với trường, chờ tàu đây. Gọi phone cho anh, cứ sợ không gặp”. Rồi Quy quay sang ngắm nghía anh, cười giòn giã: “Anh bây giờ nhìn bảnh ghê, mập và trắng ra, điện thoại di động giắt thắt lưng nữa, ái chà chà!”. Anh cười theo Quy, lần nào cũng vậy, gặp Quy, anh đều bị cuốn theo kiểu nói cười trẻ trung đến nao lòng của Quy. Quy hỏi anh, y như kiểu một cô em gái hỏi ông anh lâu ngày gặp lại: “Chị đâu rồi, dẫn lên giới thiệu với em đi chứ!”. Anh bối rối lắc đầu: “Anh chưa…” rồi hỏi lại Quy một cách khó khăn: “Em đi một mình?”, thở phào nhẹ nhõm khi nghe Quy cười: “Em ế rồi, chả ai thèm ưa!”. Quy với anh bây giờ chỉ là bè bạn, chỉ vài tháng nữa, anh và Giang sẽ cưới nhau, chuyện Quy đi cùng với ai thì cũng đâu có liên quan gì đến anh, sao tim anh lại đập rộn lên thế này… Chợt nhận ra, lâu nay anh vẫn tự hào nghĩ rằng mình vốn là người đàng hoàng, chung thủy trong chuyện tình cảm, bây giờ thì hình như không phải vậy. Rồi thấy sao mà chán bản thân mình đến thế, đến chẳng hiểu nổi mình…
Quy hẹn anh: “Tuần sau em ghé về Đà Nẵng chơi, anh có đưa em đi chơi được không?”. Anh không thể từ ch�! �i, tệ hơn nữa là còn cảm thấy vui vui khi Quy quyết định ghé Đà Nẵng chơi: “Em ghé chơi, anh đón!”. Quy reo lên như thể bắt được quà: “Anh hứa với em rồi nhe, không được sai lời đó!”. Anh bật cười, gần ba mươi tuổi rồi mà Quy vẫn cứ như hồi đi học, mọi chuyện cứ y như ngày xưa, anh luôn luôn phải là người phải chiều theo từng ý thích bất chợt, trẻ con của Quy. Anh tiễn Quy ra tận tàu, nhìn cái kiểu cười cười nheo mắt của mấy người bạn đồng nghiệp với Quy đang ngồi trên tàu, anh thấy hình như anh đang làm một việc liều lĩnh mà không lý giải được chuyện gì đang xảy đến với mình…

2. Giang ghé tạt ngang nhà anh trên đường tan sở: “Chiều nay má nhắn anh lên nhà, má đãi bún bò”. Anh giật mình, lúng túng: “À này, mà không, chiều nay anh bận chút công chuyện, chắc anh ghé trễ lắm. Xin lỗi má giúp anh”. Mắt Giang thoáng nét buồn: “Không sao, anh về sớm được thì ghé cho má vui. Má nói anh dạo này gầy đi, đừng có ham làm việc quá”. Giang là vậy, không bao giờ hỏi “Tại sao?”, cũng không bao giờ tỏ ý thắc mắc nghi ngờ khi anh bảo bận đi công chuyện này nọ. Anh nhìn lảng đi, tránh ánh mắt của Giang, nói như thể bâng quơ: “Có mấy người khách ở phía đối tác vào Đà Nẵng, nhờ anh buổi tối đưa đi chơi lòng vòng”. Chợt nghĩ sao mình không thể nói thật với Giang. Mấy người khách phía đối tác này là Quy, vừa vào Đà Nẵng sáng nay. Mà Quy thì cũng giống như bao người bạn bình thường khác, việc gì mà anh phải nói tránh đi như vậy. Anh nghĩ là anh chỉ nói tránh đi, không phải nói dối vì anh không bao giờ cho phép mình, dù là trong ý nghĩ, lừa dối Giang…

Năm giờ rưỡi chiều, anh đến chỗ hẹn với Quy, nhà Hằng, ngày xưa là bạn học cùng lớp với Quy. Quy đang loay hoay bày mấy bát đĩa ra sàn nhà, vừa thấy anh đến, trách nhẹ: “Sao anh đến trễ vậy, em chờ mãi”. Anh đang chưa biết trả lời Quy như thế nào thì Hằng đã bồng con ra: “Chào chú đi con!” rồi quở: “Tám năm rồi, anh Khôi chẳng khác trước là mấy” làm anh cũng chỉ biết cười cười cho qua. Có mấy người bạn nữa của Quy, có người ngày xưa anh biết, có người anh mới gặp lần đầu đang ngồi coi băng vidéo hoặc lúi húi làm gì đó sau nhà. Quy khoe: “Hôm nay mấy đứa bạn cũ của em làm liên hoan mừng gặp em. Anh thấy tụi nó thương em chưa!”. Vẫn cách nói của tám năm về trước, nũng nịu, ngọt ngào, bây giờ dường như có chút cố ý, làm anh ngạc nhiên. Không lẽ ngần ấy năm, Quy vẫn chỉ là cô bé con bướng bỉnh, thích được chiều chuộng như ngày xưa. Quy ngưng lau mấy bát dĩa ngồi nói chuyện với anh, thăm hỏi bâng quơ, kể chuyện về ngôi trường Quy dạy, về học trò, vẫn bằng một cách nói như thế, vẻ chăm sóc ngọt ngào dành cho anh như thế chẳng hề có tám năm anh và Quy không thư từ, không điện thoại, không còn là người yêu của nhau. Anh ngồi yên nghe Quy nói chuyện, cảm thấy trái tim mình hình như đã chai sạm lắm rồi, nỗi háo hức được gặp Quy bây giờ lắng xuống, cái mà anh cần khám phá là Quy như thế nào sau tám năm xa nhau không còn hấp dẫn anh nữa, chợt nghĩ đến Giang, cuối cùng rồi ý nghĩ của anh cũng lại về với Giang…

Bữa liên hoan của mấy người bạn Quy rồi cũng bắt đầu. Hằng hô hào: “Kiểm tra coi đủ chén đũa chưa Hạnh, Quy mời anh Khôi ngồi vào đi!”. Bấy giờ anh mới nhận ra ngoài Quy, Hằng, Hạnh, cô bé ít nói nhất của lớp Quy ngày xưa còn có thêm Yến, anh mới gặp lần đầu và ông xã của các cô, thêm anh với Quy làm thành bốn cặp. Mọi người đương nhiên cũng đối xử với anh và Quy như thể là một cặp thật sự. Cũng là những màn cụng ly chúc mừng, thăm hỏi, làm ra vẻ thân tình đấy nhưng thật ra rồi có thể sẽ chẳng nhớ gì nhau sau cuộc nhậu, anh còn lạ gì. Các cô tha hồ mà chọc nhau, nhắc lại thời đi học của các cô, và suốt buổi, Quy cứ luôn nép mình vào anh, vẻ hiền lành, tin cậy. Anh thấy thinh thích, thật lòng thấy thinh thích, trong anh tự ái dường như được vuốt ve, ngần ấy năm xa nhau, Quy vẫn còn yêu anh, bây giờ lại có vẻ như muốn phô diễn tình yêu ấy cho mọi người thấy. Cho đến lúc Quy cười nhìn anh: “Cả chiều hôm nay, lúc anh chưa qua, em buồn gì đâu. Tụi bạn em ai cũng có cặp hết, chỉ em là có một mình”. Và giọng Hằng hỏi anh: “Chừng nào thì anh Khôi với Quy cho tụi em ăn bánh hồng đây, hai người quen nhau lâu quá rồi!” thì anh không thấy thinh thích được nữa rồi. Anh không tránh được cái ý nghĩ ma quỷ tự nhiên trỗi dậy trong đầu rằng mình đang là cái để lấp đầy chỗ trống cho Quy, rằng bây giờ Quy sao khác xưa nhiều quá, chẳng còn là Quy ngày xưa. Rồi tự trách móc chính mình chứ chẳng ai khác đã đẩy mình tới tình huống khó nghĩ này, anh có lỗi với em rồi, Giang ơi!… Không dưng buổi tiệc đối với anh là một sự chịu! đựng, anh đang mong cho thời gian chóng qua, cái mà anh cần nhất bây giờ là căn gác quen thuộc để anh có thể nằm vùi mà suy gẫm một mình, mà sám hối…

Buổi tiệc rồi cũng kết thúc. Hạnh hỏi anh, vẻ đầy quan tâm: “Anh Khôi có vẻ buồn?”. Quy cười vẻ rành rỏi: “Tính ảnh lầm lì vậy, chứ không phải buồn đâu”. Trong khi anh đang lịch sự nhếch môi gượng gạo. Vợ chồng Yến lục tục chào mọi người về vì ngày mai phải đi làm sớm. Anh nghĩ đến Giang và mẹ Giang, giờ này chắc đang ngồi bên nồi bún bò nguội ngắt chờ anh, chớm đứng lên thì Quy ngồi bên níu tay: “Anh định về?”. Anh ngập ngừng: “Ừ, cũng định thế, tối nay anh còn có chút việc bận”. Mắt Quy nhìn anh buồn rầu: “Ngày mai em về rồi, anh không ở lại chơi với em một chút được sao?”. Anh thấy mềm lòng, Quy luôn làm anh thấy mềm lòng, như có một tiếng tậc lưỡi trong đầu anh: Ngày mai Quy về rồi. Hằng cũng cười cười nói vô: “Mới hơn chín giờ, anh Khôi ở lại chơi đã!”.

Quy vô phòng thay quần áo ra, chiếc áo đầm in hoa tím li ti trông Quy thật trẻ và xinh: “Anh chở em đi dạo lòng vòng. Lâu quá anh không được nói chuyện với anh!”. Anh dắt xe ra, đèo Quy đi, từ lúc dắt xe ra khỏi nhà cứ im lặng, không biết nói với Quy điều gì, cũng không biết bắt đầu câu chuyện với Quy bằng cách nào, câu chuyện của người yêu cũ sau tám năm gặp lại. Phố phường Đà Nẵng đông đúc, con đường Bạch Đằng chạy dọc bờ sông loang loáng người và xe, gió từ phía sông mơn man thổi. Anh bâng quơ phá tan không khí trống trải giữa hai người: “Gió thổi mát ghê!”. Giọng Quy sau lưng anh chậm rãi: “Em đã mong gặp lại anh biết là bao, không nghĩ là anh sẽ không còn chuyện để nói với em như thế này”. Anh cười bông lơn: “Em cứ nói thế, trong khi em cũng đâu biết nói với anh chuyện gì”. Giọng Quy không có vẻ gì là hưởng ứng theo trò đùa của anh: “Bây giờ anh miệng mồm ghê, ngày xưa anh ngờ nghệch hơn nhiều”. Anh nhún vai kiểu phớt đời: “Cũng phải khôn ra chứ, ngờ nghệch mãi sao sống được”. Trong bụng đang nghĩ một cách thích thú: rốt cuộc thì Quy cũng đã hết chê mình ngờ nghệch. Quy làm cho nụ cười nửa miệng của anh tắt ngúm: “Nhưng em yêu anh là yêu cái ngờ nghệch đó, anh có biết không?”. Anh lặng người, nhớ lại những con đường ở Huế của thời sinh viên lấp lóa ánh trăng, lần đầu tiên anh cầm tay Quy là cũng vào một đêm trăng. Đà Nẵng đèn điện sáng choang, bao nhiêu mùa trăng rồi, bộn bề làm anh quên mất còn có ánh trăng hiện hữu…

Đã khá khuya, đường phố bắt đầu vắng vẻ. Anh chạy xe chầm chậm, có cảm giác như đang trôi đi. Sau lưng anh, Quy vẫn thủ thỉ tâm sự, dường như vẫn chưa có ý muốn về: “Lần này em ra, chẳng còn được anh quan tâm như ngày xưa. Em thì chờ đợi một điều khác kia”. Không dưng anh có ý nghĩ chua chát: “Trễ quá rồi. Bao năm qua, anh vẫn sống mà không có em. Em cũng sống đâu cần có sự quan tâm của anh. Anh đã có những mối quan hệ khác, anh chắc em cũng vậy. Nên anh thấy sự quan tâm của anh chẳng còn cần thiết cho em nữa”. Quy gật đầu, trong giọng nói của Quy có chút sũng nước: “Anh nói chẳng có gì sai. Em cũng biết thế, nhưng khi gặp anh, em không cưỡng lại mình muốn được anh chăm sóc, như ngày xưa. Em đã gặp bao nhiêu câu chuyện buồn đau trong đời, mỗi lần tưởng sắp gục ngã, em lại mang cuốn nhật ký của anh ra đọc…”. Quy nhắc đến cuốn nhật ký mà nếu Quy không nhắc, anh đã quên, cuốn nhật ký ngày hai người chia tay, anh đã gởi Quy vì không biết làm gì để chứng tỏ tình yêu của anh dành cho Quy. Mọi chuyện đã qua hết rồi. Anh không nhìn Quy, nói nhanh: “Anh quên báo em biết, hai tháng nữa anh cưới vợ”. Giọng Quy ráo hoảnh: “Em biết, tối nay, anh tạm quên chuyện đó đi giùm em, được không? Em cũng chỉ dám phiền anh một buổi tối nay thôi”. Mà anh nghe sao giọng Quy buồn quá thể. Ngày xưa, anh yêu Quy, anh nghĩ nếu được trở lại thời sinh viên, có lẽ anh cũng sẽ chẳng làm khác. Nhưng bây giờ, Quy đã thuộc về một thế giới cũ, chẳng nên khơi lại làm gì. Anh đã có Giang, tối nay Giang đang chờ anh bên nồi bún bò lạnh ngắt, và anh ! cần Giang trong đời sống của mình biết bao…

Lúc anh đưa Quy về đến nhà Hằng, đã gần nửa đêm. Đường vô nhà Hằng phải đi qua một con hẻm nhỏ, đầy bóng cây. Chung quanh im lắng, anh phải tắt xe máy đi bộ cùng với Quy trong con hẻm bàng bạc ánh trăng. Ngày xưa, nhà Quy ở trọ ngoài Huế cũng nằm trong một con hẻm sâu đầy bóng cây như thế này, anh với Quy thường hôn nhau mỗi lần đi chơi về. Trong ánh trăng huyễn hoặc, những nụ hôn ngọt ngào, đam mê, dài bất tận… Đến ngõ nhà Hằng, anh bắt tay Quy: “Mai em về, mạnh giỏi. Bye!”. Quy níu tay anh lại, thảng thốt: “Đứng lại với em chút nữa đi anh!”. Dưới ánh trăng, khuôn mặt Quy đẹp như tượng, bờ mi khép nhẹ, môi run run hờ hững. Anh tự nhiên nóng bừng mặt: “Không, anh phải về”, rồi nhận ra mình đang thật vô lý với Quy, đổi giọng dịu dàng: “Thôi, khuya lắm rồi, em vô đi, giữ sức khỏe ngày mai còn đi đường sớm!”.

Anh biết, với tuổi anh và Quy bây giờ, một nụ hôn vội vàng lúc chia tay sẽ chẳng khơi dậy được cuộc tình đã chết, có khi chẳng còn mang một ý nghĩa nào cả. Có thể Quy sẽ lấy làm hụt hẫng, nhưng chắc gì Quy sẽ không thấy hụt hẫng hơn sau nụ hôn trao vội bên ngõ nhà Hằng… Ngày mai, anh tự nhủ ngày mai, sẽ dành nguyên một ngày để sám hối với Giang.

Thuận tình

Khang nói: “Mầy rảnh không, tụi tao muốn rủ mầy đi Thuận Tình chơi.”. Đang cuối tuần, nằm khèo ở nhà, rảnh rang lắm nhưng Hoan cũng hỏi lại: “Tụi mầy là những ai?”. Tiếng Khang cười hề hề trong điện thoại, nghe như đi thấu ruột gan của Hoan: “Mầy gây khó cho anh em quá. Tụi tao là tao, My và Chiêu, được không?”. Có một điều gì đó thật nhẹ nhàng, len vào tim Khang, khi nhắc tới tên Chiêu. Đã lâu lắm, Hoan không gặp Chiêu. Không còn cái không khí vô tư vui vẻ khi Hoan ghé nhà chơi, thỉnh thoảng được vinh dự đèo Chiêu đi lội hiệu sách… Chiêu vẫn thế, là em gái của Khang, gần gũi, thân tình đấy nhưng thật xa vời.

Đúng tám giờ sáng, Hoan nai nịt sẵn sàng, có mặt ở nhà Khang. Mọi người đã tụ họp đông đủ. Có cả anh Huy, chị Linh, anh chị của Khang. My thấy Hoan, cười giòn giã thay lời chào: “Anh Hoan hôm nay nhìn bảnh quá ta!”. Mọi người cười ồ lên vui vẻ. Hoan cũng cười, mắt liếc nhìn sang Chiêu, vẻ ngập ngừng. Hoan những muốn Chiêu nói một câu nào đó, hay làm một cử chỉ nào đó với mình nhưng không thấy gì cả. Chiêu chỉ nói với mọi người: “Anh Hoan đến rồi, mình đi thôi!”.

Sáu người, đi ba xe cả thảy, vậy là đương nhiên, Hoan chở Chiêu. Chiêu ngồi lên xe Hoan, nhẹ nhàng: “Lâu ngày quá, anh Hoan vẫn khỏe?”. Hoan “Ừ” gật đầu rồi im lặng, cảm thấy thật khó mở lời nói chuyện với Chiêu. Cách đây mấy tháng, lần đầu tiên Hoan rụt rè nắm tay Chiêu trong một buổi tối mưa bay lướt thướt ở một quán cà phê ven đường, Chiêu rút tay ra một cách mềm mỏng nhưng dứt khoát: “Em không thể. Anh có biết Khôi không?”, Hoan đã thấy như mọi cánh cửa đã khép lại trước mình. Khôi là bạn trai của Chiêu, đi Mỹ định cư cùng gia đình cách đây gần bốn năm. Hoan vốn sống khép kín, càng thấy yếm thế hơn khi một lần gan cùng mình tỏ tình với Chiêu. Sau chuyện đó, Chiêu vẫn nói chuyện bình thường, chỉ tránh không còn đi riêng với Hoan nhưng Hoan thì không thể nghĩ về Chiêu, gặp gỡ Chiêu một cách vô tư như trước được nữa rồi.
Đường xuống Thuận Tình băng qua hai bên là đồng lúa, đang mùa gặt, mùi lúa mới nghe thơm lừng. Gió thổi mát rượi. Chiêu hồn nhiên: “Chiều chiều mà chạy xe đi dạo lòng vòng ở đây, thật tuyệt.”. Hoan gật đầu đồng ý: “Ừ, tuyệt…” tự nhiên tắc tị, không biết nói gì thêm nữa vì chợt nghĩ: Chiêu nói điều này thì không hẳn là có ý muốn đi dạo trên con đường này, cùng Hoan. Không dưng, Hoan có cảm giác mình chở Chiêu đi trên con đường này, như thế này, sẽ là lần cuối cùng. Vì biết đâu, mai mốt, Khôi về, chắc chắn sẽ về, Hoan sẽ lại là ông bạn khả kính của anh trai Chiêu, thân tình nhưng xa cách. Hoan cứ chạy xe, nghĩ ngợi linh tinh, cho đến lúc thấy Khang vẫy tay ngang đ! ường: “Quẹo vào lối này, chẳng lẽ mầy không biết đường?”. Hoan kín đáo nhìn Chiêu, cười bạo dạn: “Biết đường chứ, nhưng tao muốn kéo dài thời gian đi riêng cùng với Chiêu.”. Mọi người cười vui vẻ, chỉ có Chiêu là không cười, môi mím lại. Hoan nghe trong tiếng cười của mình như có chút vị đắng ngắt.

Cả bọn kéo nhau xuống đò qua khu nghỉ mát Thuận Tình. Gọi là khu nghỉ mát cho oai, nguyên trước đây, Thuận Tình là khu vực nuôi tôm của xã Cẩm Thanh, một xã vùng ven của Hội An, nổi tiếng với rừng dừa nước Bảy Mẫu, căn cứ địa cũ của cách mạng. Dấu tích còn lại chỉ là rừng dừa nước bao bọc khu đầm nước rộng, bây giờ, người ta cải tạo thành khu nghỉ mát sinh thái. Ven bờ, người ta cho dựng những gian chòi lá nhỏ xinh xắn cho khách nghỉ ngơi. Việc đầu tiên là cả bọn lục tục tìm thuê một chiếc chòi để đồ đạc. Anh Huy, chị Linh duỗi dài người trong chòi, xua bọn trẻ: “Tụi bây muốn đi đâu thì đi. Tụi tao giữ đồ cho.”. Khang cười nói vui: “Vậy là ông bà muốn tụi mình đi cho khuất mắt rồi.”, kéo tay Hoan, My, Chiêu: “Mình đi thuê thuyền bơi vòng quanh hồ chơi.”.
Bốn đứa chất lên một chiếc thuyền gỗ nhấp nhô, Khang giữ một mái chèo ở mũi thuyền, Hoan ngồi phía lái, hai cô gái vung vẩy tay nghịch nước ở giữa. Sau một hồi chèo vòng quanh, cuối cùng, Khang với Hoan cũng biết cách điều khiển con thuyền đường hoàng. My chỉ tay vào rặng dừa nước: “Mình bơi thuyền về phía đó đi! Em muốn xem hoa dừa nước!”. Khang khoát tay: “Mùa này, làm gì có hoa dừa nước. Khi nào tụi mình đi riêng thì hãy vô trong đó, còn bây giờ thì…”, kèm theo một cái liếc mắt ý nhị về phía Hoan. Chiêu vô tư: “Mình bơi xuồng ra sông đi, anh Khang dạy em chèo thuyền nhe!”. Hoan nghe Chiêu nói, tự nhiên thấy buồn. Khang là anh trai của Chiêu, Chiêu nhờ Khang như vậy thì cũng là chuyện bình thường thôi, nhưng sao không phải là nhờ Hoan. ! Hoan nhận ra mình đang vô lý nhưng vẫn thấy buồn…

Lúc vừa bơi ra đoạn sông rộng, có một chiếc thuyền khác lướt đến, rồi có tiếng con gái gọi xôn xao: “A, anh Hoan, anh Hoan tụi bây ơi! Bắt quả tang anh Hoan à nhe!”. Hoan quay lại, nhận ra một đám con gái cùng trường, cười ngượng nghịu. Mấy cô trêu chọc ỏm tỏi: “Anh Hoan giới thiệu chị đi!”, làm Hoan thấy lúng túng. My cười: “Anh Hoan ghê quá ta, mấy cô quan tâm quá trời vậy mà cứ giấu!”. Hoan liếc sang phía Chiêu, vẫn thấy Chiêu không có một phản ứng nào. Tự nhiên, Hoan thấy mình sao mà xuống nước quá với Chiêu, suy cho cùng Chiêu cũng đâu là cái đinh gì, quay sang cười với các cô: “Tụi em đi chơi cuối tuần à?”. Một cô trong bọn đáo để: “Đâu có, tụi em đi tìm anh!” rồi dúi vào lưng nhau cười. Chiếc thuyền của các cô chao nghiêng như muốn lật úp. Tiếng la hét í ới vang động cả một khúc sông. Một cô than: “Chèo thuyền mỏi tay quá! Anh Hoan sang chèo giúp tụi em với!”. Hoan không biết thế nào thì Khang đã giục: “Mầy sang chèo giúp mấy em đi!”. Cả Chiêu cũng nói: “Anh sang chèo giúp đi!”.

Hai chiếc thuyền đi song song bên nhau, bên này nói một tiếng, bên kia đùa lại một tiếng, chủ yếu là Khang và Hoan đùa với các cô, thỉnh thoảng My cũng góp giọng. Chỉ có Chiêu là im lặng, bình thản, như thể mọi người nói gì, đùa gì thì cũng không liên quan gì đến Chiêu. Được một lúc thì chia tay, vì các cô phải về sớm. Khang có ý mời ghé lên chòi lá của cả bọn ngồi chơi nhưng các cô chỉ cười: “Tụi em lên, đâm thừa ra, tụi em tủi thân lắm!”. Chia tay, cũng bịn rịn, hẹn nhau í ới, Hoan biết rồi mai mốt xuống trường, thế nào các cô cũng đeo theo vặn vẹo, chọc phá nữa cho mà xem.

Buổi trưa, anh Huy, chị Linh gọi bia, đồ ăn từ trong nhà hàng mang ra. Anh Huy đưa ly lên cụng: “Chúc sức khỏe nghe! Chúc những ai tình chưa thuận, đi Thuận Tình về thì tình sẽ thuận.”. Mọi người cười ồ tán thưởng câu pha trò có lý của anh Huy.”. Chiêu đáp lại, nửa đùa nửa thật: “Ai mà tin là đi Thuận Tình về, tình sẽ thuận là sống trong ảo tưởng.”. Tưởng chừng một câu nói đùa vu vơ của Chiêu, không nhằm vào ai nhưng làm Hoan giật mình. Hoan thấy giận mình kinh khủng, Hoan đã làm gì quá đáng để bị răn đe như vậy. Trước đây, Hoan vẫn hy vọng là có lúc, Chiêu sẽ hiểu Hoan, rằng Hoan yêu Chiêu biết là bao. Bây giờ thì không cần nữa rồi, vì Hoan cảm thấy những gì Hoan dành cho Chiêu, với Chiêu, dường như là một nỗi phiền toái. Phải quên, phải cố mà quên Chiêu đi thôi. Buổi ăn trưa dường như nhợt nhạt hẳn. Hoan ngồi trầm ngâm nhìn xuống nước, bỗng dưng phát hiện mấy con cá nhỏ bơi lội tung tăng. Có cả tôm nữa, những chú tôm nhỏ đơn độc lách tách búng từ chỗ này sang chỗ khác. Hoan nhìn mấy chú tôm một hồi, cảm thấy mình cần phải học ở chú tôm kia những cú búng mình lách tách, rạch ròi, không vướng bận.

Chiêu và My ôm cần câu cả buổi, than vãn: “Sao chẳng có con cá con tôm nào đớp mồi của mình?”. Anh Huy cười: “Thì hai cô câu được hai con cá bự chảng, mỗi con sáu chục kí lô lận, còn muốn gì nữa.”. Hoan buột miệng: “Nhưng không phải là những con cá muốn câu.”. My cười, Chiêu thì như không nghe thấy gì, không bày tỏ một điều gì. Đến lúc này, Hoan mới thấm thía một điều, mình không khác gì một cái bóng mờ dưới mắt Chiêu, dù có nói gì, làm gì thì Chiêu cũng không cần biết.

Gần năm giờ chiều, cả bọn lục tục thu xếp đồ ra về. Chị Linh trầm trồ: “Không ngờ ở Hội An mình lại có một chỗ đi chơi như thế này, thích thật.”. Khang chọc lại chị Linh: “Chị Linh thì đúng là thích quá rồi. Mai mốt xuống đây, thế nào em với My cũng dành cho được một cái chòi, giống như hai anh chị hôm nay.”, làm chị Linh la bai bải: “Khang không được nói bậy à nhe!”. Hoan và Chiêu thì không có nhận xét gì. Lúc dắt xe ra khỏi bãi giữ xe, gặp một gia đình có dáng vẻ như là Việt kiều mới về, cậu con trai bằng cỡ tuổi Hoan, hình xăm, bông tai đầy người, My bấm tay Chiêu: “Nhìn kìa, ghê quá!”. Khang nháy mắt với Hoan, nói như răn đe: “Không chừng mai mốt Khôi về, cũng xăm mình và đeo bông tai như vậy đó Chiêu.”. Hoan nghe Khang nói, trong bụng thấy hả hê khi nghĩ đến viễn cảnh mai mốt của Chiêu, nhưng rồi nhìn Chiêu lặng yên, mặt cúi xuống, Hoan thấy mình sao mà nhỏ nhen, bất nhẫn.

Hóa ra, Chiêu không chọn Hoan cũng đúng thôi. Hoan cũng tầm thường, ích kỷ như ai và lần đầu tiên Hoan nhận ra, mình đâu có yêu Chiêu nhiều như mình tưởng.

Họp mặt

Không ai ngờ, kể từ lần chia tay cuối năm học phổ thông, là phải gần mười năm sau, cả bọn mới có dịp ngồi lại đầy đủ với nhau. Mà cái dịp gặp nhau này cũng kỳ lạ lắm, suốt mười năm, hết Tết rồi đến hè, năm nào cũng í ới hẹn ngày này ngày nọ họp mặt, vậy mà chẳng năm nào thực hiện được. Đùng một cái, không hẹn mà Huân từ Sài Gòn bay về dự đám cưới em gái cũng đúng vào lúc Thiện về Đà Nẵng dự một cuộc hội thảo về bệnh tim mạch tại chính bệnh viện nơi Thảo làm. Sáng Chủ Nhật, kéo về nhà Quyền – Thảo ngồi tán phét, đây là cặp duy nhất trong nhóm sau này thành vợ thành chồng, cả bọn mới chợt nhận ra sao mà đông đủ vậy, chỉ còn thiếu mỗi Nhạn. Quyền với Thiện cấp tốc phóng xe Honda vào Hội An kiếm Nhạn. Nghe nói cô giáo Nhạn bây giờ về dạy ở trường cũ, vẫn chưa lập gia đình, toàn đi chơi với học trò. Thoạt đầu thì Nhạn có hơi nhăn nhó: sao mà chẳng báo trước chi cả, tối nay tui có lớp dạy thêm, nhưng Thiện nói: dẹp, dẹp hết, Nhạn mà không đi thì đừng nhìn mặt tui nữa. Nhạn đắn đo một hồi, cuối cùng thì đi. Quyền rủ: ở lại nhà tao kiếm cái gì về nấu ăn đi, nhưng Thiện gạt đi, bảo cứ tới quán mà ngồi, ở nhà bắt Thảo với Nhạn lo nấu nướng suốt, vui gì nổi. Thảo thì khen: Đúng là Thiện giỏi thiệt, lâu nay, cứ hễ báo bất ngờ thế này thì đố ai lôi được Nhạn ra khỏi nhà…

Nơi cả bọn ngồi họp mặt là một cái quán nhậu mái tranh vách nứa sơ sài bên bờ sông, phải chạy xe qua một chặng đường đất ngoằn ngoèo, hai bên là đồng ruộng mới đến được. Ngồi trong quán nhìn ra sông, thấy mặt sông sóng sánh nước, gió thổi nhè nhẹ, mơn man. Thiện là người dẫn đường đến đây, bắt đầu quảng cáo: “Ngó dzậy mà không phải dzậy nghe, đồ nhậu ở đây ngon số dzách.” Khi Thảo thắc mắc sao Thiện ở Sài Gòn mà rành quán nhậu ở Đà Nẵng quá thì Quyền lườm Thảo là đàn bà nhiều chuyện. Vốn hiền lành, nên thấy chồng lườm mình, không biết vì sao mình bị lườm nhưng Thảo cũng ngồi im lặng. Chỉ có Huân và Nhạn là không có ý kiến gì. Khi gọi món nhậu cũng vậy, Thiện huyên thuyên giới thiệu hết món này đến món khác, trong sự phụ họa của vợ chồng Quyền – Thảo thì Nhạn với Huân vẫn làm thinh. Thảo giúi cái thực đơn vào tay Nhạn bảo: “Nhạn đi chợ đi”., Nhạn cũng chỉ liếc qua một cái rồi đùn qua Huân: “Huân đi chợ giùm Nhạn đi, Nhạn không rành!” Chỉ có Thảo là phát hiện sao hôm nay Huân và Nhạn có vẻ ít nói. Nhạn nhìn qua Huân, không biết Huân thế nào chứ Nhạn thì Nhạn thấy mình có vẻ như xa lạ với cái không khí này, mặc dù vẫn Thiện đó, vẫn Quyền, Thảo, và Thiện, những người bạn thân thiết của Nhạn ngày xưa.

Buổi họp mặt chỉ thực sự nóng lên khi chủ quán mang món nhậu đầu tiên ra, Quyền giục mọi người nâng ly: tụi mình cụng một cái mừng họp mặt, rồi nhắc lại hồi xưa, lúc liên hoan chia tay cuối năm mười hai, Thiện bị bọn con trai trong lớp phục rượu, chỉ mới mấy ly đế nhỏ nhỏ mà Thiện phải nằm li bì cả buổi tối. Thiện cười lớn: “Hồi đó thì vậy chứ bây giờ á, tao chấp cả Quyền, cả Huân, cả hai bà phụ nữ ngồi đây.”. Cả bọn râm ran nhắc lại chuyện thời đi học, cơ man là chuyện, rồi làm như vui miệng, Huân nhắc lại cả chuyện ngày xưa Huân để ý Nhạn. Nhạn ngơ ngác, sao mình chẳng biết gì, bất chợt giật mình vì thời đi học, Nhạn chỉ lo ngưỡng mộ Thiện, đâu có thèm biết đến thằng con trai nào khác. Mà công nhận hồi đó Thiện học giỏi thiệt, suốt ngày chỉ biết có học, không biết đến chuyện gì khác. Có như vậy, Thiện mới thành đạt như bây giờ, mới chừng gần ba mươi tuổi chớ mấy, mà đã chểm chệ là bác sĩ giỏi có tiếng ở một bệnh viện chuyên tim mạch lớn nhất nhì Sài Gòn. Càng lúc, Nhạn càng nhận ra Thiện thay đổi nhiều quá, Thiện “đời” hơn, nhưng lại như chẳng thay đổi gì, vẫn ham học và tiến thủ như xưa, như thể trong Thiện có hai con người, mà con người kia bây giờ Nhạn mới có dịp nhận ra.
Thảo đòi cụng ly chọc Huân: “Hồi đó, ông để ý Nhạn, sao không nói, mà bây giờ nói thì cũng đâu có muộn, ông chưa vợ, Nhạn chưa chồng, xáp lại với nhau cũng tốt.”. Huân lúng búng cười, chỉ tỏ ra lúng búng một lát thôi, rồi chống chế: “Để từ từ Huân vô lại Sài Gòn dứt khoát với bồ H! uân đã rồi tính sau vì tụi Huân lỡ đám hỏi rồi.”. Câu khai báo thiệt thà của Huân làm cả bọn cười ngất, Nhạn thì đỏ rừ hai má. Huân bây giờ bạo miệng quá, ngày xưa, Nhạn toàn ăn hiếp Huân, bây giờ thì đáng đời Nhạn chưa. Cả cặp Quyền – Thảo cũng không được tha. Huân kể lại hồi Quyền còn học kỹ thuật điện, có lần Quyền rủ Huân đến trường trung cấp y tế kiếm Thảo, lúc đó Thảo học ở đó, mới tám giờ tối mà cổng trường đã đóng chặt, Huân với Quyền ở ngoài song sắt, Thảo ở trong song sắt nói chuyện đến gần mười một giờ đêm, y như cảnh đi thăm tù, rồi kết luận: “Hồi đó thằng Quyền kỳ công thiệt!”. Quyền choàng vai Thảo, cười khoái trá: “Như vậy mới cưới được vợ chứ, đâu như tụi bây, giờ này vẫn cứ lông bông.”

Thảo hỏi thăm Thiện đôi điều trong lĩnh vực y tế của hai đứa, Thiện trả lời, cặn kẽ và thấu đáo, lúc này thì Thiện không còn cái vẻ bông đùa tầm ruồng như lúc đầu gặp nhau. Thiện là vậy, khi nói tới học tập, công việc, trở nên nghiêm túc hẳn. Rồi luôn tiện, Thiện kể chuyện khám chữa bệnh ở Sài Gòn, lao vào việc mới thấy bệnh nhân tim mạch nhiều người có hoàn cảnh thương tâm lắm. Bệnh nhân đồng hương vào Sài Gòn chữa bệnh, tìm đến Thiện cũng nhiều. Vợ Thiện làm ở ngân hàng, đã có một con gái, và Thiện đang tính vài năm nữa bỏ hết về Đà Nẵng mở một bệnh viện tư chuyên ngành tim, để bệnh nhân quê mình đỡ đi xa chầu chực, tốn kém. Quyền nghe Thiện nói, vỗ tay: “Mầy về đây tao có bạn nhậu rồi.”, bất chợt quay qua nhìn Thảo, giả lả cười khi thấy Thảo lườm Quyền sắc lẻm. Phần Thiện là vậy, còn khi hỏi đến Huân, Huân chỉ cười: “Huân làm thợ thôi, bây giờ có một cơ sở in lụa khoảng mười mấy công nhân trong Sài Gòn. Bạn gái của Huân là thợ may, dự định cuối năm nay sẽ cưới. Đời Huân chỉ thế thôi, hồi đi học thì mơ mộng đủ thứ, nhưng lại không làm được gì lớn lao, rồi cũng qua.”. Huân còn nói thêm là ở Sài Gòn, lúc nào buồn thì Huân đi tìm Thiện uống cà phê. Như là tìm lại chính mình, như để có một chỗ dựa tốt đẹp để mà sống tốt. Nói qua nói lại một hồi, cả bọn chĩa mũi dùi quan tâm về phía Nhạn. Nói về công việc, Nhạn bây giờ dạy ở trường cũ mà ngày xưa cả bọn vẫn học. Thầy cô cũ có người đã nghỉ hưu, có người vẫn còn dạy chung trường với Nhạn. Cô Hân, cô giáo chủ nhiệ! m ngày xưa, đã nghỉ hưu cách đây mấy năm. Thỉnh thoảng gặp Nhạn, cô vẫn hỏi thăm về Thiện, về Huân, không giấu giếm rằng ngày xưa trong lớp, cô thương hai người này hơn cả vì hai người đều học giỏi và ham học, chỉ tiếc là hoàn cảnh sau này có khác nhau. Nhạn kể bây giờ mời họp phụ huynh, thỉnh thoảng Nhạn có gặp bạn bè cũ đi họp cho em, cho cháu, vui lắm. Có một vấn đề ai cũng quan tâm là sao Nhạn chưa chịu lấy chồng thì Nhạn không chịu nói đến. Ừ, thì lấy chồng cũng quan trọng đấy, nhưng Nhạn không yêu thì làm sao Nhạn lấy chồng cho được. Nhạn kể là ba mẹ Nhạn cũng hối Nhạn lấy chồng, nhưng chẳng lẽ đẻ con gái ra, nuôi lớn lên chỉ để cho lấy chồng. Thiện nhìn Nhạn ca cẩm: không được, không được, Nhạn phải lấy chồng đi, Nhạn nhìn cái vẻ ca cẩm như ông già của Thiện, tức mình chọc lại: Tại Thiện cưới vợ rồi nên Nhạn không còn biết lấy ai. Hai tai Thiện đỏ lên, bối rối, trong lúc Thảo nheo mắt với Nhạn, ranh mãnh: “Hồi chiều đến giờ chỉ nghe Nhạn nói câu này là thật nhất.”
Càng về sau, không khí như chùng xuống, lặng lẽ hơn. Thiện trầm ngâm: “Lần này gặp nhau, được ngồi nói chuyện thế này, Thiện thấy ấm áp nhiều lắm, Thiện có thể nói linh tinh mà không phải dè chừng ai, Thiện thấy nhẹ lòng vì được chia xẻ, tâm sự thoải mái với bạn bè.”. Quyền và Thảo thì nói chưa có lúc nào được cười giỡn thoải mái như hôm nay. Nhạn vui vẻ: “Chiều nay, Nhạn có cho học trò nghỉ học một bữa để đi chơi, rồi mai mốt về dạy bù, Nhạn cũng thấy xứng đáng.”. Huân ngồi im lặng ngắm nghía Nhạn từ nãy đến chừ! , đột ! nhiên, buông một câu nhận xét: “Cả chục năm rồi mà hình như Nhạn chẳng thay đổi gì mấy, chẳng già đi chút nào, trong khi đứa nào bây giờ ra đường cũng bị tụi choai choai kêu là cô, là chú!”. Quyền tò mò: “Nhạn đi dạy có bị học trò chọc không, chứ tui mà làm học trò á, hà hà, cô giáo Nhạn chỉ có khóc với tui.”. Nhạn cười: “Tại vì Quyền là bạn của Nhạn nên nói vậy chứ là học trò Nhạn hả, Nhạn trừng mắt một cái thì chỉ có mà chết khiếp.”. Nhạn còn kể là học trò Nhạn vui lắm, lứa học trò đầu tiên của Nhạn bây giờ có đứa nào đám cưới, lại đến mời Nhạn, trên thiệp mời ghi là mời “thầy cô Nhạn”, rồi Nhạn chê là “thầy cô Nhạn”, tên gì mà dở òm. Huân chọc: “Nhạn cố kiếm một ông đi, báo với Huân, Huân sẽ in thiệp cưới miễn phí cho, chắc chắn là tên sẽ hay hơn là “thầy cô Nhạn”.”. Tự nhiên, cả bọn ngồi dự trù đám cưới Nhạn tụi nó sẽ làm gì. Thiện tình nguyện từ Sài Gòn về bưng quả và khám bệnh, chữa bệnh miễn phí cho hai vợ chồng Nhạn trước khi cưới, cười hà hà nói là phải kiểm tra si-đa, si-điếc đàng hoàng chứ thời buổi này không tin ai được. Quyền nhận lo phần văn nghệ, âm thanh ánh sáng, Thảo phụ trách nấu ăn, Huân lo khâu in thiệp và trang hoàng sân khấu… Tụi bạn bàn luận rôm rả quá, làm hai má Nhạn đỏ rừ, Nhạn phải làm bộ quát lên: “Quan trọng nhất là tìm cho tui một chú rể mà sao chẳng có ai xung phong tìm giùm hết vậy nè?”

Tìm cho Nhạn một chú rể? Chuyện này khó đây, nhưng đâu có phải là không làm được. Như cây cỏ vun trồng rồi sẽ có ngày ra hoa, hạnh phúc tất sẽ đến với những ai sống tốt trên đời.

Giấc mơ có hoa hồng dại

1. Giữa năm, bỗng dưng được nghỉ lễ bốn ngày liên tiếp, anh quyết định lên Đà Lạt thăm cô. Bên cạnh nguyên nhân chính là anh muốn trốn cái nóng chớm hè của thành phố mình đang sống, muốn thay đổi không khí một chút, còn có một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng nữa: anh muốn được nhìn thấy cô, được nghe cô nói chuyện, cũng khá lâu rồi anh và cô không gặp nhau. Cô chỉ là bạn, một người bạn rất thân của anh đã hơn mười năm rồi, mà nhiều người, cả anh nữa, có lúc đã hoài nghi làm sao có được tình bạn trong sáng như thế, tinh khiết như thế giữa một người nam và một người nữ trong khoảng thời gian dài đến vậy.

Đón anh và chở anh lên Đà Lạt là một đứa học trò cũ của cô, gọi là học trò cũ của cô nhưng bây giờ nhìn Việt cũng ngang ngửa cô rồi, đen sạm, râu ria xồm xoàm. Việt đang là tài xế xe du lịch tuyến Đà Nẵng – Đà Lạt. Anh lên xe, ngồi kế ngay sau ghế tài xế của Việt, lơ đãng ngắm phong cảnh hai bên đường đi, thỉnh thoảng nghe Việt hỏi chuyện và ừ hử trả lời. -”Anh là bạn của cô em hả?”. -”Ừ”. -”Hồi nào giờ, không thấy cô em có bạn trai.”. -”Vậy hả?”. -”Cô em dặn di dặn lại là phải đón anh. Cô em nói anh không biết nhà cô. Cô em chu đáo quá anh héng?”. Anh thấy buồn cười trước kiểu nói chuyện lém lỉnh của Việt, dù ra đời bươn chải lâu rồi nhưng Việt vẫn có một cách nói chuyện rất học trò khi nhắc tới cô. -”Hạ là vậy, luôn luôn chu đáo, và rất tốt.” -”Anh lên đợt này, chắc cô em mừng phải biết!”. Đến nước này thì anh không thể ừ hử với Việt được nữa rồi. Anh cố làm ra vẻ không hiểu ý Việt: “Thì bạn bè lâu ngày gặp nhau, phải mừng chứ!”. Việt nhăn mặt: “Anh đừng giả bộ, em biết hết cả! Anh với cô em bao giờ tính chuyện lớn đây?”. Rồi không đợi anh trả lời, Việt huyên thuyên kể về ông thầy dạy toán cùng trường nào đó ngày xưa tán cô, rồi có một ông giám đốc chưa vợ nào đó cô gặp ở lớp trung tâm ngoại ngữ ban đêm… Những chuyện này anh nghe không lạ, vì có lần cô kể anh nghe rồi, chỉ thấy lạ vì qua lời Việt kể, nó mang một màu sắc khác. Anh biết, Việt rất thân với cô và lần đầu tiên, qua lời Việt kể, cảm giác khi anh nghĩ v! ề cô bỗng dưng khác trước.
Xe chạy đến Đơn Dương thì bị pan, phải dừng lại sửa. Đã bảy giờ tối, nếu xe chạy thông suốt thì giờ này anh đã chễm chệ ở Đà Lạt rồi. Việt bỏ mặc hai thằng bé phụ xe loay hoay giữa đống máy móc ngổn ngang, chạy đi đâu một lát, rồi quay lại cười hể hả: “Em điện thoại về cho cô Hạ rồi, không thì ở nhà, cô em lo cuống lên!” với một cái nhìn đầy ý nghĩa. Anh cười, bắt đầu thấy thiện cảm với Việt, chợt nhận ra bên trong cái vẻ bụi bặm thô nhám kia là một con người hoàn toàn khác, tình cảm, nhiệt thành. Việt trở nên gần gũi với anh biết bao nhiêu, nhờ cô. Đêm đầu tiên anh ở Đà Lạt, sương giăng đầy và se sắt lạnh, cái lạnh se sắt làm người ta rất dễ chùng lòng. Mười một giờ đêm, anh rủ cô đi dạo lòng vòng con đường quanh hồ Xuân Hương, ngắm những ánh đèn lấp lóa trên mặt nước và ánh trăng thượng tuần mảnh dẻ, bàng bạc. Anh đi bên cạnh cô, cứ nghĩ là gặp nhau sẽ nói chuyện nhiều lắm, hóa ra chẳng nói được gì, cũng chẳng biết nói gì. Anh thấy lòng bình yên, tưởng chừng có thể đi được suốt đêm như thế, cho đến khi nghe giọng cô khẽ khàng: “Mình về ngủ đi, Văn đi xe cả ngày mệt rồi.”.

2. Những tia nắng buổi sáng của Đà Lạt dường như trong trẻo hơn, mềm mại và bừng sáng hơn nắng sớm ở thành phố của anh. Anh thức dậy sau một đêm rất sâu trên căn gác gỗ dành riêng cho khách ở nhà cô bằng tiếng chim lạ anh không biết tên, nghe mơ hồ nhưng lảnh lót, tiếng người đi nghe xôn xao trên con dốc bên nhà. Cô đang làm gì đó ở ngoài vườn bước vào lúc anh vừa mới xuống nhà, mắt long lanh sương sớm, nụ cười dịu dàng như sương: “Văn ngủ được không?”. Anh mỉm cười gật đầu, lòng chợt ân cần lắm. Anh bước ra, chào ba mẹ cô đang hái rau trong khu vườn nhỏ xanh mướt, vun thành luống trồng đủ các loại rau, hàng rào là những cụm hoa hồng dại. Những bông hồng dại mọc tràn lan, không ai tưới táp, chăm nom, vẫn sống, vẫn lớn lên, nở hoa, hiền lành và dung dị như bao điều dung dị nào đó không thể thiếu được trong cuộc đời này.
Nơi đầu tiên cô đưa anh đến là một quán cà phê nằm trên đồi mà trong thư viết gởi anh, đã có lần cô kể anh nghe. Quán trồng đầy hoa trước sân nhà, có một khung cửa sổ bằng gỗ nhìn ra sân hoa và một dòng suối trong hòn non bộ giả sơn nước chảy róc rách. Cô giới thiệu một món đồ uống mới với anh, artichaut sữa, tên nghe là lạ, thật ra là một món đồ uống ngọt lừ, được pha bằng sữa khuấy trong nước trà túi lọc artichaut nóng. Cô gọi chủ quán bỏ đĩa nhạc cô thích, chỉ cho anh xem mấy loài hoa lạ chỉ có ở Đà Lạt, kể là lúc nào buồn thì cô rủ một người bạn gái đến đây, trước đây, cô ao ước được có lần dẫn anh đến đây biết bao, như là một điều một điều cô muốn chia xẻ cùng anh, rồ! i hỏi anh thấy thế nào. Dĩ nhiên anh chẳng thể nào nói được với cô là anh thấy thế nào bởi vì có điều rất lạ đang xảy ra trong anh, và anh đang cảm thấy choáng ngợp với điều lạ ấy. Chính lúc này, anh chỉ muốn nhìn cô, nghe cô hồn nhiên kể chuyện trường, chuyện lớp, chuyện học trò. Thỉnh thoảng, có một vài người vô quán chào cô và cười, cô giải thích là học trò cũ, hoặc là học viên mấy lớp ngoại ngữ ban đêm. Chiếc loa thùng được bài trí rất khéo ở các góc quán đang thả ra một giọng nam trầm ấm: “Bao nhiêu năm rồi còn mãi ra đi…” Bao nhiêu năm đã qua đi, dăm ba cuộc tình không tên rồi cũng ra đi, để lại trong anh những dấu vết nhạt nhòe không rõ đường nét, chỉ còn cô vẫn ngồi đây hồn nhiên kể chuyện anh nghe, hồn nhiên lắng nghe anh nói, trong một lăng kính tình bạn trong veo. Anh bắt đầu thấy nghi ngờ chính mình, và tự hỏi cô là con gái, có lúc nào cô không thấy chắc chắn không, về tình bạn này.

Buổi chiều, cô dẫn anh đi ngang qua Nhà thờ lớn, vòng quanh hồ Xuân Hương, ngang qua đồi Cù, chọn cảnh đẹp chụp hình để “Mai mốt Văn về khoe với mấy cô bé ở Đà Nẵng.”. Cô bắt anh đứng, ngồi và cười đủ kiểu cho cô làm nghệ sĩ nhiếp ảnh, nhất định không chịu để anh đáp lễ chụp hình lại cho cô, lúc thì: “Hạ ở đây từ nhỏ đến lớn, lúc nào chụp mà không được”, lúc thì: “Hạ chụp hình xấu lắm, hỏng hết cảnh.”. Cô luôn miệng nói là cô xấu lắm, mà anh đâu có nhận ra cô xấu chỗ nào đâu. Chỉ có khuôn mặt, dạo này cô hơi gầy và mái tóc dài quá nên hơi xơ xác. Anh cố vấn sắc đẹp cho cô: “Có khi Hạ cắt một kiểu tóc gì đó tem tém vào, làm cho tóc Hạ có cảm giác mỏng hơn một chút là khuôn mặt đầy dặn hơn ngay.”. Đây là mớ kiến thức anh có được do hay đọc ké mấy tạp chí thời trang, làm đẹp của cô em gái ở nhà trong những buổi trưa không có gì đọc để ngủ. Tiếng cô cười giòn tan: “Coi bộ Văn nghiên cứu nghệ thuật làm đẹp kỹ quá!” làm hai tai anh ngượng nghịu đỏ rừ.

Cô đưa anh ghé nhà chị bạn cô chơi. Chị Ngân, lớn hơn anh với cô chừng vài tuổi vồn vã rót nước, pha trà mời anh: “Chị ở đây nghe Hạ nhắc tới Văn hoài!”, không để ý tới cái lườm mắt kín đáo của cô. Chị Ngân giành phần nói hết, liên tục tố cáo cô như thể anh là bạn trai của cô, chỉ có anh mới được vinh dự nghe những chuyện này, làm anh chẳng biết đính chính thế nào cả. Mà thật lòng, anh cũng đâu có muốn đính chính gì. Chị Ngân hào phóng khen anh đẹp trai và trẻ hơn nhiều so với tuổi, làm anh mặt đỏ bừng vì ngượng và cảm động, chợt chột dạ khi bắt gặp nét cười phụ họa gượng gạo của cô. Không dưng, câu chuyện có phần nhợt nhạt, điều anh lo nhất là đã vô tình làm cô buồn. Anh không biết là cô có thèm để ý những chuyện vụn vặt thế này rồi buồn không, nhưng quả thật, anh không muốn làm cô buồn. Chỉ biết sau đó, khi đi ăn tối cùng chị Ngân, rồi ghé một quán cà phê nhìn xuống hồ Xuân Hương xem thành phố lên đèn, anh không còn thấy sung sướng khi được chị Ngân hào phóng khen về một điều gì đó nữa. Đêm ở Đà Lạt sâu và yên tĩnh, mặt trăng hôm qua đã dần dần hiện ra rõ ràng và có đường nét hơn. Lâu lắm rồi, anh mới có được cảm giác thư thả ngồi ngắm trăng như thế này, lặng lẽ nghĩ về một điều mới mẻ đang từ từ rõ nét trong lòng. Một điều mơ hồ như là tình yêu, có phải?

3. Ngày thứ hai ở Đà Lạt, buổi sáng, anh với cô vừa dắt xe ra khỏi nhà thì một đám học trò ùa tới. Học trò nai nịt gọn ghẽ, chỉnh tề, giỏ xách lỉnh kỉnh, hình như là chuẩn bị đi chơi xa. Học trò cô vừa nhao nhao với cô vừa liếc anh: “Trời ơi, cô đi đâu vậy, ngày hôm qua, tụi em kiếm cô muốn chết!”. Cô cười: “Cô có bạn ở xa về nên dẫn cô dẫn bạn đi chơi loanh quanh.”. Mấy đứa con gái lém lỉnh: “Bạn của cô, vậy thì tụi em kêu bằng gì hở cô?”. Cô hơi bối rối, chỉ hơi bối rối rồi cô trấn tỉnh lại ngay, tủm tỉm cười nhìn anh: “Việt lớp mình kêu bằng anh đó, còn mấy đứa muốn gọi bằng gì cũng được.”, quay sang giải thích với anh: “Tụi nó là học trò cũ của Hạ, học cùng lớp với Việt!”. Học trò cô mời: “Tụi em đang chuẩn bị đi chơi thác, mời cô đi với tụi em.”. Nhìn mấy cô trò đùa với nhau, anh thấy vui vui, buột miệng: “Cho anh đi không?”. Một cô bé trông liến láu nhất đám đáp trả: “Tụi em làm việc với cô em xong rồi mới mời thầy. Cô cho thầy em đi không cô?” rồi dúi vào lưng nhau cười rũ rượi. Cô nói chống chế: “Ừ, mấy em kêu bạn cô là thầy cũng được. Ngày xưa bạn cô cũng học Sư Phạm.”.

Mười một chiếc xe chở cả thảy hai mươi hai người phóng như bay về hướng Cầu Đất. Anh chở cô đi trước, đám học trò theo sau. Cô ngồi sau lưng anh, giọng rù rì: “Ngày xưa, Hạ dạy dưới này. Có một cái thác đẹp lắm, thác Đất Làng, đường đi hơi khó một chút. Không như thác Cam Ly, thác Frenn, người ta đã làm sẵn lối đi. Văn có bao giờ đi chơi những chỗ như thế này chưa?. Anh thật thà: “Chưa.”. Cô lại tiếp: “Phải băng rừng qua mấy ngọn đồi, thông mọc xanh ngắt, đẹp lắm, lội bộ gần hai cây số, cực lắm, sợ Văn đi không nổi!”. Anh nhún vai: “Nhằm nhò gì, đi thế này mới vui!”. Anh còn muốn nói thêm là lúc này, cô có dẫn anh đến cùng trời cuối đất nào thì anh cũng theo, sá gì hai cây số đường đồi, nhưng lại sợ mình hơi buông tuồng. Anh có thể bông lơn buông tuồng với nhiều người, nhưng với cô thì chưa bao giờ, dù chỉ là những ý nghĩ thoáng qua trong đầu. Như thể anh sợ lắm một điều mong manh, dễ vỡ nào đó trong tình bạn giữa anh và cô tan biết đi mất.

Gần mười giờ thì cô trò và… anh đến Cầu Đất. Lục tục tìm chỗ gởi xe, lục tục lên đồi thông. Đồi thông vắng lặng, chỉ có gió ngan ngát và tiếng thông reo. Màu thông xanh mướt làm nắng buổi trưa như dịu đi. Dọc đường đi, Tâm, đứa học trò có vẻ như cầm đầu cả đám, mon men đi gần cô: “Tự nhiên hôm nay, em thấy cô trẻ ghê luôn!”. Cô gục gặc đầu: “À, thì ra lâu nay em chê tui già!”. Cô lúc nào cũng là cô, Tâm không biết nói gì, bẽn lẽn rồi lùi đâu mất. Đám học trò của cô lăng xăng chạy trước, la hét, đùa giỡn, tiếng cười nói lan xa cả một vùng đồi. Lúc cô kêu anh lại chỉ cho anh những đọt thông xanh mơn mởn, hát nho nhỏ cho anh nghe: “Hàng cây thắp nắng lên hai hàng…”, rồi hỏi anh là có thấy giống những ngọn nến đỏ không, chợt nghe một tiếng click nhẹ, quay lại thì thấy cả đám đang cười toe, Hưng lăm lăm máy ảnh trong tay. Cô ngượng ngập: “Đừng chụp bậy, để dành phim lát nữa xuống thác chụp.”. Hưng nheo mắt với cô: “Cái ảnh vừa rồi cũng đẹp lắm, em có chụp bậy đâu cô!”.

Cô và trò và anh đi loanh quanh theo một con đường mòn có sẵn, một bên là vách đồi, một bên là vực hơn một tiếng đồng hồ, vẫn không thấy thác đâu cả. Chỉ nghe tiếng nước chảy, giữa trưa nắng, tiếng nước chảy gợi nên cả một thế giới mát mẻ, thỏa thê và sạch sẽ. Mặt ai nấy cũng đầy mồ hôi và bụi. Quyên thả đôi guốc cao gót vẫn cầm trên tay, buông mình xuống thảm cỏ giữa rừng thông, thở phì phò: “Em mệt quá, không đi nổi nữa.”. Bọn con trai cũng thả xuống các túi đựng bánh mì, trái cây, nước uống, cả một thùng bia nữa, la chọc Quyên: “Tụi tui vác bao nhiêu đồ mà chưa mệt, Quyên đi tay không với đôi guốc mà mệt gì.”. Tâm hô hào: “Mình nghỉ lại đây đi, giải quyết giùm đống đồ ăn này cho đỡ nặng.”. Vậy là chưa thấy thác đâu, đã thấy ăn. Anh tha thẩn đi chụp những cảnh là lạ chung quanh thì Hảo chạy theo gọi anh về, thắc mắc: “Sao thầy không chụp cho cô em?”. Cô thì che mặt, vẫn câu nói cố hữu: “Cô chụp hình xấu lắm!”. Suốt cả buổi đi chơi thác, Hưng còn chụp lén anh với cô mấy pô ảnh nữa, chỉ lén với cô thôi chứ anh thì anh giả vờ bị chụp lén. Cô thì la: “Chụp bậy bạ không à!” trong khi anh không giấu nổi là lòng mình đang vui. Dẫu biết vui vì dược chụp hình chung với cô, điều này mà nói ra thì nghe có vẻ ngớ ngẩn lắm.

Đến bốn giờ chiều thì về đến Đà Lạt, đi chơi thác mà không đến được thác. Sau khi ăn uống xong, mấy cô trò và anh đi tìm một lúc lâu nữa, chỉ nghe tiếng thác reo và thấy thấy dòng nước bạc trắng xóa dưới vực xa kia nhưng không tài nào xuống thác được. Ngọn thác như là một ảo ảnh dưới nắng hè, lúc ẩn lúc hiện như trêu ngươi. Suốt chặng đường về cô cứ áy náy vì không đưa anh xuống thác được, anh thì luôn mồm trấn an cô là không sao đâu, lại không nói được câu anh thật lòng đang nghĩ trong đầu là anh đang rất vui, vui vì được ở bên cô, đến được thác hay không thì đâu có gì quan trọng với anh. Chợt giật mình khi nhớ ra là cái câu định nói này nghe quen lắm, nhang nhác giống mấy câu tán tỉnh rẻ tiền trong mấy tiểu thuyết ba xu mà thỉnh thoảng người ta vẫn đem ra giễu nhau.

4. Ngày cuối cùng của anh ở Đà Lạt trôi qua rất nhanh. Buổi chiều, cô đưa anh ra chợ mua quà, hỏi anh có cần sắm quà tặng cô bạn nào không để nghe anh ngượng nghịu lắc đầu, cuối cùng cũng bắt anh tha về một giỏ xách đầy toàn trái cây và đặc sản Đà Lạt. “Đằng nào thì Văn cũng chỉ xách thêm một giở sách nữa thôi.”.

Xe Đà Lạt – Đà Nẵng chạy sớm lắm, ba giờ sáng, cô đánh thức anh dậy đưa anh ra bến xe. Đêm, Đà Lạt vẫn nhấp nháy những ngọn đèn quanh hồ Xuân Hương và những quán ăn trong chợ Âm Phủ. Cô dúi vào tay anh một túi nylon đựng bánh mì, nước uống và chai dầu gió, một cử chỉ thân tình đến tự nhiên làm anh không dưng cảm động. Anh cứ đứng nhìn cô, không biết nói gì, nhìn cô đưa tay lên vuốt mái tóc ướt đẫm sương đêm, nao lòng khi nghe cô nói bâng quơ: “Sáng nay Hạ về sẽ đi cắt tóc.” Anh không dám nghĩ đến những điều xa xôi hơn, vì anh sắp xa cô rồi, khoảng cách giữa hai thành phố cách nhau hơn bảy trăm cây số với muôn ngàn trở ngại phát sinh, ít nhất là trong kỳ nghỉ lễ tới, nửa năm nữa, anh và cô mới có thể gặp lại nhau. Và vì không thể gần nhau, có một câu nói bập bùng nơi cửa miệng của anh cứ ngập ngừng, ngập ngừng, cho đến khi chiếc xe chở anh chạy vút đi, bỏ lại sau lưng một trời thông xanh mát lành, bình yên mà khi ra đi, anh biết mình sẽ khó lòng gặp lại.

Xe thả xuống đèo Ngoạn Mục, cũng là lúc anh ngã đầu vào thành ghế lơ mơ ngủ. Trong giấc mơ của anh, có một căn nhà có gác gỗ nằm giữa một khu vườn rau xanh mướt, hàng rào nở đầy hoa hồng dại, những buổi sáng thức dậy nghe một tiếng chim lạ không biết tên và tiếng người đi xôn xao bên dốc. Trong giấc mơ, còn có anh, có cả cô với mái tóc mới cắt tem tém áp sát khuôn mặt đầy đặn, không hề có những chuyến xe đi xa lúc ba giờ sáng…

Thầy về

Hải nhắn tin vào máy điện thoại cầm tay của Lữ: “Thứ bảy này thầy về!”. Lữ chuyển tiếp tin nhắn của Hải vào máy của Huyền. Huyền chuyển tin đến máy của Quý. Quý chuyển đến Mai. Đến lượt Mai thì Mai hỏi: “Thầy nào?”. Lúc đó, Mai đang ở Sài Gòn, theo học một lớp Đại học tại chức, cuối tuần mới về nhà. Quý nghe Mai hỏi, tức quá, bấm máy gọi luôn, làm cho Mai một trận: “Thầy Lễ dạy tiếng Anh, chủ nhiệm tụi mình hồi cấp ba đó, chứ còn ai vô đây nữa mà còn bày đặt hỏi. Bà đúng là đồ vô ơn bạc nghĩa!”. Mai tự nhiên bị Quý la, cũng tức lắm, nhưng cố dằn xuống vì Mai vừa nghe nhắc tới tên thầy: “Ê Quý, nói lại nghe coi! Thầy ở đâu về vậy? Ở Mỹ hả?”. Mai hỏi Quý, rồi cười hì hì, tự trả lời luôn, như cái tính vốn hay bộp chộp của Mai lâu nay: “Đã nhe!”. Để sau đó nghe Quý càm ràm: “Ở Mỹ Tho của bà đó! Không biết gì cả mà cũng nói! Thầy ở Đà Nẵng vô chơi”. Mai lại nói: “Ủa, sao Quý biết thầy về hay vậy?”. Lần này thì Quý không trả lời Mai nữa: “Ai mà biết! Tìm thằng Hải mà hỏi đi, mệt bà quá!”

Quả thật, thông tin thầy ở Đà Nẵng sắp vô chơi, về thăm trường cũ là từ Hải. Cách đây hai năm, tình cờ, Hải quen được một đứa bạn người Đà Nẵng. Hải kể cho đứa bạn nghe là hồi xưa, Hải có ông thầy chủ nhiệm người Đà Nẵng, bị mất liên lạc lâu rồi, rồi hỏi hú họa đứa bạn thử xem đứa bạn có biết thầy không, không ngờ đứa bạn biết. Đứa bạn kể hồi xưa, thầy là bạn thân của anh Hai nó, nhà thầy ở gần nhà nó. Hóa ra Đà Nẵng, nơi mà người ta vẫn hay nói là thành phố lớn nhất miền Trung, lại không lớn lắm như mọi người vẫn đồn đại. Nhờ đó, Hải bắt được liên lạc với thầy, hai thầy trò thỉnh thoảng e-mail qua lại với nhau, và bây giờ thì thầy sắp về chơi. Chắc thầy không biết là Hải, cả tụi bạn cùng lớp với Hải ngày xưa, mong gặp lại thầy lắm. Không biết để làm gì, có khi chỉ là tò mò, có khi chỉ để nói, để biểu lộ một tình cảm nào đó với thầy mà hồi còn học thầy, tụi Hải không dám nói. Thứ tình cảm mà sau này, khi học xong, lên Đại học, rồi đi làm, tụi Hải mới nhận ra. Thầy cũng đã đi xa lắm rồi…

Hải gọi điện thoại vào máy cầm tay của thầy và biết thầy đang ở Sài Gòn, Hải rủ thầy về Nhơn Trạch chơi, nhưng thầy nói thầy không có xe. Mai chỉ cần nghe Hải kể vậy qua điện thoại là xung phong liền: “Để tui chở thầy về cho, thứ bảy nào tui cũng về mà!”. Nhưng thầy đang ở nhà bạn thầy tuốt trên quận 12!” “Hải sợ xa quá tui không lên được à? Chuyện nhỏ?”. Hải nghe hai từ “chuyện nhỏ” gọn ghẽ của Mai, thấy đúng là chuyện nhỏ thật! Nhỏ Mai ngày xưa là chúa nhõng nhẽo, lúc nào cũng bắt người khác chịu mình, sao bây giờ xông xáo quá vậy ta? Có phải vì thầy về?

Thầy vẫn vậy có vẻ phong trần, da ngăm đen hơn hồi xưa một tí, gần mười năm rồi mà Mai chẳng thấy thầy già đi chút nào. Trong khi tụi Mai, có đứa đã tay bồng tay bế, Mai thì mắt đã thấp thoáng vết chân chim. Thầy thấy Mai đến, cười thật tươi: “Mai đó hả? Khỏe không em?” làm Mai cụt hứng dễ sợ. Mai cứ tưởng tượng là thầy sẽ nhíu mày, nhăn trán một hồi mới nhớ ra Mai, thậm trí còn nghĩ là chắc thầy không còn nhớ tên Mai để Mai còn có dịp đố thầy đoán ra… Không dè, thầy nhớ Mai, nhớ cả thói quen ngày xưa của Mai, đi học lúc nào cũng thắt hai bím tóc, đung đưa, đung đưa… Thầy nhớ từng đứa trong lớp, Mai tự hỏi làm sao mà sau ngần ấy năm, thầy vẫn còn nhớ rõ đến vậy. Mai thấy vui vì được thầy nhớ ngày xưa đi học, Mai học cũng thường, lại rụt rè, nhàn nhạt, đâu có gì đáng nhớ đâu.

Mai nghe nói thầy về sống ở Đà Nẵng quê thầy, đã chuyển sang làm một công việc khác, không còn đi dạy nữa, bây giờ mới biết là thầy làm kinh doanh, là nhân viên cho một hãng vận tải container. Công ty Mai làm cũng là một công ty xuất nhập khẩu, hay thuê vận tải hàng bằng container, vậy là có liên quan chút chút với thầy. Những thắc mắc lâu nay về vận tải ngoại thương, Mai không biết hỏi ai, bây giờ gặp thầy, mặc sức hỏi. Nghe thầy giải thích cặn kẽ từng chút một những điều khoản trong hợp đồng thuê tàu, các thuật ngữ viết tắt… Mai thấy, quả thật, thầy lúc nào cũng là thầy. Nói chuyện lan man một hồi,  Mai mới biết là thầy vẫn chưa lập gia đình. Hỏi thầy thì thầy giải thích là chắc tại chưa đến lúc lập gia đình nên trời chưa cho. Rồi thầy cười, nụ cười nhẹ tênh. Mai cũng có một mối tình đẹp hồi đi học, sau đó không đến được với nhau, nhưng mỗi lần có ai hỏi gì Mai đều thấy rất khó nói. Từ nay về sau, ai hỏi gì, chắc Mai sẽ nói là chưa tới lúc, giống thầy vậy! Hồi xưa, lúc thầy còn dạy, thầy khó tính, nghiêm khắc quá trời, Mai không nghĩ là sau này lại có ngày Mai đem chuyện riêng tư ra tâm sự với thầy một cách thân tình, chia sẻ đến vậy. Lại nghĩ, hồi đó nếu thầy không khó tính, làm gì sau này, Mai có được lập bập mấy chữ tiếng Anh cho công việc đang làm.

Thầy chở Mai bằng xe máy của Mai, về lại con đường cũ mà ngày xưa, tuần nào thầy cũng đạp xe cọc cạch từ Sài Gòn xuống trường, rồi từ trường về lại Sài Gòn. Con đường bây giờ khác trước nhiều lắm, đường được mở rộng ra thênh thang, tráng nhựa phẳng phiu, nhà cửa hai bên đường cũng khang trang hơn trước nhiều. Bến phà Cát Lái không thay đổi gì mấy, nhưng những chiếc phà nhỏ bằng gỗ rệu rã ngày xưa bây giờ được thay thế bằng mấy chiếc phà lớn bề thế, chở được cả xe hơi. Người đi lại cũng đông đúc, tấp nập hơn. Bến phà này, hồi thầy còn dạy, có một lần người ta khoanh lại, dựng cảnh, quay phim Người tình. Những người Pháp da trắng cao to hiếm hoi xuất hiện ở vùng đất nghèo nàn này thời đó hiển nhiên đã là một sự kiện gây tò mò đối với cư dân địa phương. Trên một chuyến phà đi cùng với mấy người Pháp trong đoàn làm phim, ông thầy dạy tiếng Anh hai mươi ba tuổi ngày ấy – là thầy bây giờ – có mon men bắt chuyện một anh bạn mũi lõ tóc vàng ngồi gần, mục đích tìm cơ hội thực tập cái vốn tiếng Anh nói đã bắt đầu rỉ sét của mình. Câu chuyện bắt đầu bằng tiếng Pháp, tiến triển như thế này. – “Xin lỗi, bạn biết nói tiếng Anh không?”. – “Không, tôi là người Pháp, chỉ nói tiếng Pháp”. – “Tiếc thật, tôi muốn nói chuyện với bạn, nhưng tôi không rành tiếng Pháp, chỉ nói được tiếng Anh.” Chỉ vậy thôi, rồi thầy với anh bạn da trắng đó chỉ biết cười khì với nhau. Bằng mấy câu tiếng Pháp đơn giản, ngọng nghịu thầy còn nhớ được sau mấy năm Đại học, cuộc nói chuyệ! n chỉ có vậy thôi, nhưng sau đó, những ánh mắt Việt Nam đi cùng chuyến phà nhìn thầy không dừng vì nể hẳn… Thầy kể cho Mai nghe kỷ niệm vui vui này. Mai ôm bụng cố nén cười, nói: “Trời ơi, bây giờ thầy kể lại em mới thấy, hỏi đó, chỉ cách đây mười năm thôi, mà sao dân Nhơn Trạch khổ quá. Không có điện, không có điện thoại, sống gần Sài Gòn mà lạc hậu như ở vùng sâu vùng xa. Bây giờ, Nhơn Trạch có khu công nghiệp to đùng, người biết nói tiếng Anh tiếng Pháp đâu có còn hiếm hoi nữa. Học ngu như em hồi đó mà còn làm được cho công ty Hàn Quốc đó thầy!”

Hai thầy trò về tới Nhơn Trạch là đã gần sáu giờ chiều, trời bắt đầu sâm sấp tối. Ghé nhà Hải, cả bọn Hải, Lữ, Huyền, Quý đang ngồi tự tập chờ thầy. Còn có thêm vài khuôn mặt học trò cũ nữa, thầy nhớ mặt nhưng chưa nhớ ra tên. Trên chiếc bàn lớn đặt giữa nhà là mâm thức ăn toàn các món cao lương mỹ vị và mấy chai đế. Lữ cười cười: “Tối hôm nay, thầy phải say với tôi em một bữa. Tụi em chờ cả chục năm mới được hầu rượu thầy đây! Lữ nói một cách rất chân thành, không hề có chút màu mè mà làm thầy cảm động vô cùng. Bắt đầu từ trò đoán tên, thầy có cảm giác đám học trò cũ đang chơi trò đánh đố với mình. Từng khuôn mặt lướt qua: “Em tên gì, thầy nhớ không thầy?”. Có khuôn mặt quen thuộc đến nỗi vừa nhìn thấy thầy đã nhận ra ngay, có khuôn mặt khi lớn lên, thay đổi khá nhiều, thầy ngắc ngứ một chút rồi mới nhớ ra được. Huyền trầm trồ: “Công nhận thầy hay ghê, thầy nhớ không sót tên đứa nào.” Mai vênh mặt: “Thầy mình mà?” với cái vẻ hãnh diện như thầy là thầy của riêng Mai vậy. Hỏi chuyện, thầy mới biết học trò cũ bây giờ thành đạt quá, thầy cũng không ngờ. Hải làm việc cho một công ty dầu khí của Nhật Bản ở Vũng Tàu, đi công tác nước ngoài như đi chợ. Lữ bây giờ là phó văn phòng ủy ban huyện, Quý làm trong ban quy hoạch đất đai của huyện, chỉ có Huyền là về dạy học ở ngay trường cũ, nối nghiệp thầy, sắp được đề bạt lên hiệu phó. Thầy cười buồn: “Thầy có còn đi dạy nữa đâu mà nói là Huyền nối nghiệp thầy”. Huyền gạt ngang: “Nhưng thầy lúc n! ào cũng là thầy của tụi em!”.

Quý gật gù, vẻ hãnh tiến: “Thầy mà còn ở lại đây là sướng rồi, đi đâu cũng gặp học trò làm to!”. Mai gạt ngang: “Thôi đi ông ơi, thầy về Đà Nẵng còn làm to gấp mấy lần ông, cỡ ông mà kể vô!”. Thầy về sống ở Đà Nẵng có làm gì đâu mà to hở Mai, từ lâu, đã không còn nhớ mình có một thời làm nghề dạy học. Không nhớ hay không muốn nhớ, nhiều lúc thầy thấy mình cũng không cần thiết phân định rạch ròi làm gì nữa. Thầy làm một công việc bình thường, chức danh cũng bình thường hết sức. Công ty nơi thầy làm, ít ai biết ngày xưa thầy từng đi dạy, thầy cũng không tâm sự cho ai nghe. Lâu lâu, vào những dịp ngày nhà giáo Việt Nam, nghe mấy quý phụ huynh đồng nghiệp cùng công ty bàn với nhau phải tặng quà thế này, bỏ phong bì thế kia cho mấy thầy cô giáo, trong thầy lại bừng bừng nỗi tức tối khó lý giải, như là máu tự ái nghề nghiệp nổi lên vậy. Thầy phân trần: “Đừng nghĩ vậy! Mấy thầy cô giáo không cần những thứ đó đâu!” liền bị mấy cái miệng lóe chóe như mấy cái loa thường 500w kia nhao nhao phản đối là mày có con đi học đâu mà biết, không làm vậy để con tao bị đì cho sói trán hay sao, mầy đúng là không thức thời, không biết gì cả. Thầy thấy buồn kinh khủng. Lại có gần đi ngang qua sân trường ngày khai giảng, thầy nhớ đến cồn cào không khí lớp học, bục giảng ngày xưa. Công việc hiện tại của thầy không có gì đáng phàn nàn, nhưng sao nhiều lúc, thầy vẫn thấy có điều ray rứt lắm. Giống như một người đã ra đi nhìn lại, mới thấy những gì mình bỏ lại sau lưng là quý giá vô ngần…

Học trò chở thầy đi chơi. Ngang qua trường cũ, bây giờ đã là một ngôi trường khang trang với ba dãy nhà bốn tầng đồ sộ. Thầy đứng tần ngần ở ngoài nhìn vào, nửa muốn bước vào, nửa muốn quay đi. Trường buổi tối thắp điện tưng bừng, người ra kẻ vô nhộn nhịp nhờ có trung tâm ngoại ngữ đang học ở đây. Thầy không gặp được đồng nghiệp cũ nào, cũng mong gặp được một người nào đó biết mình ngày xưa để hỏi thăm cho đỡ nhớ… Học trò lại đưa thầy đi thăm khu công nghiệp mới mở cách đây vài năm, cả một khu đất rộng thênh thang, đường sá tráng nhựa thẳng băng, đèn cao áp sáng choang với cơ man các nhà máy lớn nhỏ đang rộn ràng hoạt động. Ngày xưa, đây là khu đất hoang, chỉ toàn cỏ dại với rừng cao su thâm u, vắng vẻ… Hải hỏi thầy: “Thầy thấy Nhơn Trạch bây giờ ngon lành không hở thầy?”. Thầy gật đầu: “Hơn cả thầy mong đợi!”. Hải tiếp luôn: “Vậy thầy vô đây sống với tụi em đi, thầy lại dạy tiếng Anh ở trường, mai mốt cho tụi em gởi con. Tụi em chỉ ước vậy thôi thay!”. Nói rồi cả bọn cùng cười… Chao ơi là đám học trò cũ của thầy! Chuyện khó khăn như vậy mà nói cứ nhẹ như không, như không có cảm giác mười năm đã trôi qua, không hề có sự thay đổi nào, không hề có những quyết định lớn lao mà sau này chẳng biết mình đúng hay sai…

Làm sao mà quay lại được Hải ơi, vì đã khác lắm rồi! Thôi thì, thầy sẽ giữ điều Hải nói mang về Đà Nẵng cất giữ như một ước mơ, thật đẹp để soi mình…

Chiếc đĩa sứt

Thương tặng Lương, Hương và Duy Anh

1. Ba mươi tháng tư năm nay, được nghỉ lễ liên tiếp bốn ngày, mẹ Liên bàn với ba Quân: “Lễ năm nay, Tôm gần bốn tuổi rồi. Vợ chồng mình đưa Tôm về Hải Hậu thăm ông bà nội, cho Tôm nghỉ ngơi, tắm biển luôn!”. Ba Quân trầm ngâm một hồi, rồi bàn: “Bác Lữ hẹn ra chơi mấy ngày. Lâu lâu bác mới ra. Mình đợi bác ra rồi tính!”. Mẹ Liên gật đầu: “Vậy cũng được!”

Tối ngày hai mươi chín, bác Lữ, miệng cười tươi rói, xuất hiện trước cửa nhà Tôm. Bác ôm chầm lấy Tôm, hồ hởi: “Tôm đây hả, trời ơi, từ lúc sinh ra đến giờ, lớn ngần này, bác mới gặp mặt!”. Mẹ Liên cười chào: “Anh mới ra, đi đường có mệt lắm không anh?”. Bác Lữ hôn chầm chập vào má Tôm: “Đâu có mệt gì, anh đi máy bay mà!”. Ba Quân ôm vai bác, cười ha hả: “Từ hồi ra trường tới giờ, mới được gặp anh. Em mong anh quá trời!”.

Gọi là bác, nhưng thật ra, bác Lữ với ba Quân chỉ là bạn học hồi Đại học, cũng ở chung một phòng trong ký tức xá. Bác học hơn lớp, lớn tuổi hơn nên ba Quân gọi bác là anh. Ra trường, ba Quân ra Hà Nội làm việc, bác về lại Đà Nẵng, quê bác. Ba Quân kể: “Hồi đó, anh em thương nhau lắm, như anh em một nhà!”. Hồi đám cưới ba Quân với mẹ Liên, bác không ra dự được, hẹn sẽ ra thăm sau vào một dịp nào đó. Lời hẹn ra Hà Nội thăm ba Quân và mẹ Liên cứ lằn lữa mãi, gần sáu năm sau bác mới thực hiện được. Phần cũng do ba Quân và mẹ Liên cưới nhau rồi, sau đó đến lượt Tôm ra đời, cũng hẹn một dịp nào đó vào Đà Nẵng thăm bác mà chẳng đi được, phải chờ cho Tôm lớn lớn một chút mới dám đi xa.

Gọi là bác, nhưng năm nay, bác cũng chỉ chừng ngoài ba mươi chứ mấy. Người tầm thước, ăn nói bổ bã, hay bông đùa, cặp mắt lúc nào cũng như cười mà nụ cười thì dễ gần quá đỗi. Khi vừa nhìn thấy bác, mẹ Liên đã ngầm đánh giá: cái kiểu cười này chắc làm cho nhiều cô chết lắm đây, và cũng chỉ qua vài câu nói chuyện, mẹ Liên đã có cảm giác như đã quen thân với bác từ lâu lắm rồi. Nghe ba Quân nói bác vẫn chưa có vợ, mẹ Liên hơi ngạc nhiên một chút, nhưng rồi lại nghĩ: chắc là do kén quá chứ gì! Chỉ có ba Quân là hiểu là bác đã có một mối tình rất đẹp hồi học Đại học mà không thành, tất cả đều do cái tính cách ham chơi, bổ bã có phần hơi bao đồng của bác, khó có cô gái nào chịu nổi. Còn bác, lâu ngày gặp nhau, không lẽ lại mang tâm sự ra mà nói với ba Quân là bác với cô Thục An, người yêu của bác đang giận nhau, giận lắm lắm, đáng lẽ dịp lễ này bác đưa cô Thục An về nhà bác chơi nhưng ghét quá, bác quyết định ra Hà Nội thăm ba Quân, mẹ Liên và Tôm. Không hẳn là do cái vụ giận nhau này bác mới đi chơi, thật ra, lâu ngày quá, không gặp nhau, bác cũng thấy nhớ thằng bạn thân, nên muốn ra thăm nó chút vậy mà…

Ba Quân hỏi: “Anh ra đây, đã có kế hoạch đi chơi ở đâu chưa?”. Bác bảo: “Chỉ ra đây thăm hai vợ chồng Quân thôi, đi chơi cũng được, không đi cũng được.” Ba Quân lại nói: “Không lẽ anh đã cất công ra đây, lại không đi chơi?”. Bác ngần ngừ một lát, rồi buột miệng thết ra một cái địa danh vừa thoáng qua trong đầu: “Hay là mình đi làng gốm Bát Tràng?”. Ba Quân nhiệt tình: “Tưởng ở đâu xa xôi, Bát Tràng chỉ cách Hà Nội chừng mười hai cây số. Sáng mai, em đưa anh đi.” Mẹ Liên góp chuyện: “Vậy thì cho em và Tôm đi nữa. Sang bên đó, sẽ cho Tôm tô màu trên gốm”. Tôm nghe mẹ nói vậy, hớn hở vỗ tay: “Ba mẹ cho con đi tô mầu rồi, thích quá, thích quá!”. Tôm, giọng điệu nhỏ nhẻ, ăn nói lanh lẹ, thiệt là dễ thương, bác nghe Tôm nói mà thấy lòng mềm chi lạ. Như là trong bác, đang nhè nhẹ dâng lên một nỗi niềm yêu thương mơ hồ, một mong ước mơ hồ…

2. Buổi sáng hôm sau, bác Lữ có mặt ở nhà Tôm từ lúc sớm bưng, nai nịt sẵn sàng, chuẩn bị đi chơi Bát Tràng. Tôm sáng nay cũng tự động dậy sớm, vì được đi chơi, chứ mọi hôm đi nhà trẻ, bố mẹ gọi Tôm như gọi đò, lăn qua lăn lại mãi không chịu dậy, lại còn khóc nhè nữa. Thấy bác Lữ, Tôm vội vàng chạy đến chào bác, khoe: “Sáng nay Tôm được đi chơi làng gốm Bát Tràng đấy, bác có được đi chơi không?”. Mẹ Liên cười hỏi: “Thế Tôm muốn có bác cùng đi với nhà mình không?”. Tôm nhìn mẹ Liên, sà vào lòng bác Lữ, thỏ thẻ: “Bác đi chơi làng gốm cùng với Tôm nhé!”. Ba Quân dang hai tay ra với Tôm: “Thôi, sang ba bế, mình ăn sáng rồi cùng đi, kẻo muộn!”

Bốn người đi hai xe máy, ba Quân chở mẹ Liên và Tôm, bác Lữ chạy theo sau một mình. Mẹ Liên bảo ba Quân: “Hay để em điện thoại rủ cô Hằng ở cơ quan em cùng đi, giới thiệu cô với bác Lữ luôn!”. Bác cười từ chối: “Thôi anh đi một mình được mà, đi hoài vậy quen rồi! Có thêm người lạ, cũng ngại lắm!”. Miệng thì cười nói bình thản vậy nhưng bên trong, bác không khỏi cảm thấy chạnh lòng. Chỗ ngồi đằng sau xe này, lẽ ra là chỗ của cô Thục An, giá không có chuyện giận nhau vớ vẩn hôm nọ thì bây giờ, ba Quân với mẹ Liên, bác với cô Thục An làm thành hai cặp đi chơi, phải vui biết mấy! Rồi bác lại nghĩ, nếu không giận nhau, chưa chắc bác đã ra Hà Nội thăm ba Quân với mẹ Liên, làm gì gặp được Tôm, Tôm bé bỏng, là cục vàng của ba Quân và mẹ Liên, ngồi phía trước xe, miệng nói bi bô, dễ thương như một thiên thần. Mà quả thật, Tôm còn dễ thương gấp mấy lần thiên thần ấy chứ!

Đường đi Bát Tràng phải đi qua cầu Long Biên, ngang qua sông Hồng rộng mênh mông, ngút gió. Buổi sáng không có nắng, sắc trời dìu dịu, sắp hè mà cứ ngỡ như sang thu. Ngang qua sông Hồng rộng mênh mông, gió ngan ngát phả vào mặt, bác Lữ thấy lòng nình nhẹ nhõm lắm, như là những chuyện muộn phiền biến đâu hết cả. Tự nhiên, bác thấy nhớ cô Thục An, nhớ mái tóc dài của cô rối tưng mỗi khi gặp gió thổi, nhớ vô cùng mùi hương tóc thoang thoảng thật ngọt ngào của cô, cái mùi kỳ lạ bác không biết được rõ ràng đó là mùi gì nhưng luôn làm bác ngây ngất. Xuống chân cầu, lẽ ra phải rẽ phải để đi Bát Tràng thì bác lại chạy xe thẳng về hướng Bắc Ninh. Ba Quân phải gọi điện thoại đi động cho bác, nửa đùa nửa thật, trách nhẹ: “Anh nghĩ ngợi gì mà cứ cắm cúi đi, tụi em gọi mãi không nghe!”

Bác chạy theo sau xe ba Quân, trên một đoạn đường đê lấp xấp ổ gà, chốc chốc lại thấy Tôm ngoái đầu lại hỏi: “Bác Lữ đâu rồi?”. Mẹ Liên trấn an Tôm: “Bác đang chạy xe sau mình đó”, quay lại cười giải thích với bác Lữ: “Tôm sợ bác đi lạc lần nữa”. Tôm bi bô hỏi chuyện bác: “Bác ở đâu vậy, sao lâu nay không thấy đến chơi với Tôm?”. “Bác tận ở Đà Nẵng, xa lắm!”. Tôm lại hỏi: “Ở Đà Nẵng có làng gốm Bát Tràng không hở bác?”. “Không có! Chỉ ở Hà Nội mới có!”. Tôm chưa chịu thôi: “Sao ở Đà Nẵng lại không có làng gốm Bát Tràng hở bác?”. Lần này thì bác tắc tị, tìm cách chống chế: “Ở Đà Nẵng không có làng gốm Bát Tràng nhưng lại có những làng khác mà Hà Nội không có”. Tôm vẫn chưa hài lòng với câu trả lời của bác: “Vậy ở Đà Nẵng có làng gì hở bác?”. Đến đây, mẹ Liên phải lên tiếng can thiệp: “Tôm không được quấy bác nữa nhé, như vậy là không ngoan!”. Ba Quân cười: “Anh mà nói với nó, có nói cả ngày cũng không xong. Nhiều lúc em mệt quá, phải đẩy sang cho mẹ nó trả lời”. Bác làm ra vẻ rành rỏi: “Trẻ con như vậy mới thông minh chứ!”, nói xong mới thấy tự ngạc nhiên với mình, mình đã có con bao giờ đâu mà có vẻ cũng kinh nghiệm dữ!

Làng gốm Bát Tràng, không hề giống như bác hình dung, là một ngôi làng khá hiện đại, đường đổ bê tông khang trang, nhà cửa cao rộng, thênh thang, cửa kính, bảng hiệu bóng loáng. Không hề tìm thấy bóng dáng của một ngôi làng cổ Bắc Bộ với đường làng lót gạch quanh co, tường rêu cổ xưa, có cây đa, bến nước, sân đình… như lâu nay bác vẫn nhìn thấy trong các phim truyện truyền hình. Mẹ Liên chép miệng tiếc rẻ: “Cách đây mấy năm, em đi Bát Tràng, phong cảnh còn hoang sơ lắm, không ngờ bây giờ, thay đổi nhiều quá!”

Cả bốn người vào gởi xe, chuẩn bị đi quanh một vòng thì Tôm bắt đầu mè nheo: “Mẹ ơi, con khát nước!”. Bác vội vàng: “Mình vào quán kia uống nước, nghỉ một chút đi!”. Mẹ Liên bế Tôm lên, hôn nhẹ vào má Tôm: “Đã làm gì đâu mà nghỉ, bác chìu Tôm quá!”, nói rồi cũng bế Tôm vào. Ngồi yên vị trong quán, bác mới có dịp ngắm nghía lại dung nhan thằng bạn yêu quý của mình. Ba Quân dạo này hơi đẫy người ra, không còn nét trẻ thơ trên khuôn mặt như hồi đi học, khuôn mặt mà hồi đó bọn con gái trong khoa từng đặt biệt danh là Babyface. Tóc cũng đã bắt đầu bạc lấm chấm, chắc là do máu xấu nên đầu bạc sớm, nghĩ vậy nhưng bác Lữ vẫn không khỏi thoáng chút ngậm ngùi. Bác buột miệng: “Tóc Quân bạc hết rồi? Sao không nhuộm đi cho trẻ?”. Ba Quân cười hiền lành: “Trẻ trung gì nữa!”, quay lại ngắm nghía bác Lữ: “Trời ơi, càng nhìn anh, chẳng thấy anh khác hồi đi học chút nào cả! Vẫn cứ thanh niên trai tráng!” Bác nghe ba Quân khen, cũng thấy thinh thích, cho đến khi mẹ Liên lên tiếng: “Ba Quân bạc tóc vì phải lo làm nuôi mẹ Liên với Tôm đấy!”. Nhìn ánh mắt của mẹ Liên với ba Quân, cả vẻ ba Quân cúi xuống nựng nịu Tôm, bác chợt nhận ra, cái thay đổi lớn nhất ở ba Quân là vẻ chững chạc, từng trải rất đàn ông, rồi bác thấy mình sao lớn tuổi hơn mà không hề có được vẻ chững trạc như của ba Quân. Phải chăng, người con gái yêu ngày xưa không chọn bác vì bác thiếu vẻ chững chạc này, hay chính vì không lấy được người mình yêu nên bác chưa chững chạc được. Chỉ biết, lúc này, ng�! ��i nhìn ba Quân, mẹ Liên và Tôm quây quần bên nhau, bác thèm chỉ được một góc nhỏ của ba Quân cũng quá tốt rồi, sao chưa có người phụ nữ nhìn bác như mẹ Liên nhìn ba Quân?

Bốn người đi bộ quanh dãy cửa hàng giới thiệu sản phẩm trong khu làng gốm. Dọc theo con đường chính đổ bê tông, các cửa hiệu san sát nhau, bày biện sáng sủa, bắt mắt. Trong lúc ba Quân và mẹ Liên bàn nhau nên mua bộ ấm trà nào về nhà, hoa văn bộ chén bát nào hợp với màu tường nhà mình thì bác Lữ loay hoay tìm chọn mấy dây trang sức đeo cổ, mặt dây đeo là những mảnh hoa văn nho nhỏ bằng gốm ngộ nghĩnh, xinh xinh, làm quà cho cô Thục An. Cô Thục An vốn thích những đồ trang sức là lạ như thế này, bác tìm mua bảy dây để cô diện bảy ngày trong tuần. Mẹ Liên trêu: “Eo ôi, anh Lữ nhiều bạn gái thế?”. Bác trả đũa lại ngay: “Đâu bằng Quân, hồi đi học, mỗi dịp Valentine, Quân mua một lần cả chục tấm thiệp Tặng người yêu duy nhất của anh để tặng bạn gái đó!”. Mẹ Liên cười: “Sao lúc yêu em, chẳng thấy ba Quân tặng em tấm thiệp nào cả!”. Ba Quân khoác vai vợ “Anh tặng em cả cuộc đời của anh đây này, cần gì thiệp nữa”. Bác chưa hề nói với ai câu này, bình thường thấy rất sến, mà sao lúc này, nhìn vẻ chân thành không chút màu mè của ba Quân, nghe ba Quân nói, bác lại thấy cảm động. Cảm động như trước một vẻ đẹp mà mình chẳng hề có được…

Loanh quanh một hồi, Tôm than mỏi chân, bắt ba Quân cõng trên vai, rồi nằng nặc đòi tìm một xưởng gốm để cho Tôm vẽ: “Ba mẹ hứa cho Tôm tô màu rồi mà!”. Mẹ Liên luôn miệng dỗ Tôm: “Tôm ngoan nào, chờ một chút, ba mẹ đi tìm chỗ cho Tôm tô màu nhá!”, quay sang nhìn bác: “Anh thấy sợ chưa, đi nhà trẻ thì thôi chứ về nhà tụi em cứ cuống quít với nó cả ngày, chẳng yên ổn được một chút nào cả!”. Than vãn đấy nhưng mặt mẹ Liên cứ ngời ngời hạnh phúc, hãnh diện. Tìm ra được lò gốm thì đã gần trưa. Lò gốm nằm sâu phía sau dãy cửa hàng bán sản phẩm ở mặt đường chính, lối đi vào ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ lót gạch, không như hình dung của bác Lữ về một lò gốm cổ truyền. Nói là lò nhưng thật ra là căn nhà xưởng hai tầng rộng thênh, bên trong chỗ nào cũng thấy phủ bụi trắng xóa như vôi. Có đủ cả các loại máy, từ máy trộn đất, máy quay điện, có khuôn đúc, lò nung bằng ga trắng tinh, sạch sẽ, cả một mẻ gốm vừa mới ra lò đang rạn lách tách nghe ngồ ngộ như những tiếng đàn chén. Vài người thợ đang nhồi bột gốm, nặn tượng, dáng trông hiền lành, cần mẫn. Ở một góc trong khuất là ba cô gái ngồi ở chiếc bàn gỗ nhỏ, trên bàn đặt lỉnh kỉnh những chai lọ, đĩa mực và cọ, vẽ những hoa văn trên sản phẩm gốm chưa nung, tay đưa thoăn thoắt nét vẽ sắc sảo, đều tăm tắp như khuôn in. Ba Quân mua hai chiếc đĩa trắng chưa nung, đưa cho Tôm một chiếc, một chiếc đưa cho bác, nói bác vẽ cái gì đấy đi, lát nữa gởi vào lò nung, mai mốt mang về bày ở tủ kính phòng khách làm kỷ niệm. Nhưng bác lắc đầu. Không dưng bác th�! ��y, không có cô Thục An ở đây, bác vẽ cái gì cũng vô duyên, có gì vui đâu để mà kỷ niệm… Tôm ôm lấy chiếc đĩa hí hoáy cầm bút màu nguệch ngoạc vẽ xe hơi, vẽ máy bay, thì thầm một mình: “Xe hơi này là để chở ba mẹ, máy bay này là để Tôm đi…”. Ba Quân cầm chiếc đĩa còn lại, bặm môi viết một dòng, mẹ Liên tròn miệng viết một dòng. Bác nhìn liếc qua thì thấy dòng chữ: Ba thương con vì con giống mẹ, mẹ thương con vì con giống ba… Phía dưới còn có một hình vẽ vụng về hai người lớn và một đứa trẻ con, chắc là ba Quân, mẹ Liên và Tôm. Lúc hai người lớn đang săm se ngắm chiếc đĩa thành quả sáng tạo của mình thì Tôm quay sang níu xuống: “Cho con coi với!”, níu hơi mạnh tay làm cái đĩa bị vỡ, sứt mất một góc. Mẹ Liên xuýt xoa tiếc rẻ, ba Quân cũng biến sắc nhưng rồi trấn tĩnh ngay, cười thật hiền với vợ “Không sao mà, sứt một góc nhưng mà vẫn đẹp! Trên đởi này, cái gì cũng vậy, đâu cần phải lúc nào cũng tròn trịa. Có sứt mẻ một tí thì mới đẹp, mới lâu bền được.”

Bác Lữ lặng người. Chỉ giản đơn vậy thôi mà lâu nay bác không nhận ra, bác cứ mãi đi tìm một sự hoàn hảo. Nhất định sau chuyến đi này, việc đầu tiên bác làm khi về nhà là đi gặp cô Thục An, bàn chuyện cưới xin. Nếu cô vẫn còn giận dỗi, bác sẽ năn nỉ cô… Cưới xong, bác sẽ đưa cô đi thăm Bát Tràng… Để biết đâu, khi trở về, bác với cô cũng sẽ có một chiếc đứa sứt chưng ở ngay tủ kính trong phòng khách, như của gia đình Tôm…

Đổi việc

1. Làm ở công ty này hơn sáu năm rồi, chưa bao giờ trong Kha lại có ý nghĩ rằng mình sẽ đổi một công việc khác. Dù ngay trong chính công ty của Kha, bao nhiêu người đã đến rồi lại đi, bạn bè Kha cũng nhiều đứa nay chỗ này, mai chỗ nọ liên tục. Không phải là Kha yêu thích công việc ở đây. Cũng không phải là mọi điều đều suôn sẻ đối với Kha. Cái chính là do Kha, vì Kha đã quá quen thuộc với không khí ở công ty này rồi và Kha ngại thay đổi. Chắc gì công việc mới đã tốt hơn công việc mà Kha đang có, vả lại, cũng không có nhiều cơ hội thay đổi ở thành phố Kha đang sống. Dù có lúc, nhìn khuôn mặt chán ngắt của Tân, tên đồng nghiệp xu nịnh dễ ghét cùng bộ phận, hoặc đôi khi, vấp phải vẻ cau có khó ưa của các nhân viên công quyền khi Kha đi làm thủ tục cho hàng hóa, hay xin giấy phép này nọ, Kha đã muốn tung hê, bỏ hết… Nhưng chỉ sau một giấc ngủ dài qua đêm, khi bắt đầu một ngày mới thì Kha lại quên sạch bực dọc, lại chấp nhận mọi sự, lại tự an ủi mình đằng nào cũng là công việc để kiếm sống…

Sẽ mãi là như vậy nếu như không có cuộc điện thoại bất ngờ của cậu Ba. Cậu Ba là cậu ruột của Kha, cũng ở thành phố này nhưng thỉnh thoảng, chỉ trong những dịp giỗ Tết, tụ tập họ hàng, Kha mới gặp cậu. Cuộc điện thoại đến đúng lúc Kha vừa cự nhau với Tân, tên đồng nghiệp dễ ghét. Tân đã ton hót với sếp về một lỗi không hề do Kha trong lúc Kha vắng mặt ở văn phòng. Kha tức đến nghẹn họng, và thế là chiến sự nổ ra. Cuộc điện thoại của cậu Ba như một cái phao lượn qua đúng lúc có người – là Kha – đang quá mệt mỏi, muốn thoát ra càng sớm càng tốt khỏi cái vũng nước tù túng đến nhàm chán này. Cậu Ba nói về một công việc mới trong công ty nước ngoài, lương cao, làm ngay tại thành phố Kha đang sống mà cậu nghĩ Kha đủ thừa tiêu chuẩn để là ứng viên sáng giá của công việc đó. Công ty nước ngoài đây là nơi mà con trai của cậu, anh Bằng, đang là trưởng phòng nhân sự ở văn phòng chính ngoài Hà Nội. Thoạt đầu khi nghe nói, Kha có hơi ngại (lại ngại!) vì công việc này quá mới, trước đây Kha chưa làm bao giờ, thuộc một lĩnh vực hoàn toàn mới. Nhưng sau một hồi suy nghĩ, cân nhắc, những đứa bạn cũ của Kha bây giờ làm trong Sài Gòn, tụi nó có giỏi giang gì hơn Kha đâu, vậy mà cũng liên tục đổi hết chỗ làm này tới chỗ làm khác, Kha thấy mạnh dạn hẳn. Được thì được nhiều chứ mất thì Kha có mất gì đâu… Có thể sẽ phải làm lại từ đầu, Có thể sẽ phải trở về lại những buổi tối vùi mình học thêm và đọc tài liệu (chỉ mới nghĩ đến thôi mà Kha đã thấy rùng cả mình!) như ngày mới ra trường, mới đi làm, K! ha đã từ trải qua và đã vượt qua… Như vậy cũng có nghĩa là sẽ thưa thớt những chiều chiều Kha ghé nhà trọ của Vy chở Vy đi lang thang ăn tối, uống cà phê, hoặc đi loanh quanh hết rạp xi-nê này đến rạp xi-nê khác tìm phim coi cho qua những buổi tối dài đằng đẵng không biết làm gì cho hết thời gian. Nhưng bù lại, Kha sẽ được lương cao, sẽ có thể ngẩng mặt cao hơn một chút khi ra đường, và thời gian dành dụm để mua một căn nhà nho nhỏ cho dự tính sống chung với Vy trong thành phố này sẽ dần dần rút ngắn lại… 

2. Vy tỏ ra quá hồ hởi khi nghe Kha nói sơ qua về công việc mới. Lúc đó là tầm bảy giờ tối, cả hai đang ngồi ở một quán cà phê vườn nhìn ra sông. Quán vắng, nhạc nhẹ nhàng, khung cảnh lãng mạn. Vy hỏi: “Vậy anh đã gọi điện thoại cho anh Bằng chưa?”. Kha lắc đầu uể oải: “Đề anh nghĩ đã!”. Giọng Vy trở nên gắt gỏng, dù cô đang cố giảm âm thanh, dụng ý cho giọng điệu trở nên dịu dàng (như Vy lâu nay vẫn nghĩ mình là một cô gái luôn chừng mực và rất đỗi dịu dàng…) và mềm đi một chút: “Trời ơi, còn nghĩ ngợi gì nữa, anh gọi ngay cho ảnh đi! Đằng nào cũng là anh em con cô con cậu, chắc ảnh phải giúp anh chứ!”. Kha nhăn mặt, bực bội: “Anh biết việc gì nên làm, việc gì không nên làm, có gì thì cũng từ từ, mắc mớ gì mà em cứ ào ào lên vậy?”. Vy giận dỗi: “Em làm gì mà anh nói em ào ào, thôi em không thèm nói với anh nữa!”. Buổi đi chơi tự nhiên mất vui. Dù gió vẫn thổi mát rười rượi, sóng nước lăn tăn, và thoang thoảng, còn nghe lá hát rì rào. Dù chiếc loa thùng ở cuối khu vườn vẫn đang rỉ rả phát ra bài hát mà cả hai cùng rất thích: Hãy yêu như chưa yêu lần nào. Hãy cho nhau môi hôn ngọt ngào…

Không như những lần giận dỗi khác, chỉ được một lúc là Kha, sẽ đóng vai trò làm hòa, dịu dàng vỗ về Vy: “Lỗi tại anh, lẽ ra anh không nên nóng nảy như vậy…”. Và Vy, sẽ làm ra vẻ ngúng nguẩy như thể không dễ gì bị Kha dẫn dụ, nhẹ nhàng đưa ngón tay ra cong cớn xỉ xỉ vào trán Kha, răn đe rất mực nũng nịu: “Lần này em tha, chứ còn lần nữa là em quên anh luôn cho khỏe người!”. Để rồi sau đó, hai đứa sẽ quên mất là mình vừa giận nhau, lại thấy yêu nhau như cũ, lại sẽ hôn nhau theo một kiểu quá quen thuộc như lần nào gặp nhau cũng vậy… Riêng lần này thì Kha cảm thấy khó chịu thật sự. Cái khó chịu không rõ do căn nguyên từ đâu, Kha không chắc là mình hành xử như vậy có hoàn toàn hợp lẽ với Vy không nhưng cảm giác khó chịu là có thật, cứ bám chặt trong Kha. Kha không thể đưa tay làm một cử chỉ nào đó như vuốt tóc, hay chạm nhẹ lên má Vy như mọi lần. Chuyện thì có to tát gì đâu để đến nỗi ngồi bên nhau mà cứ thấy lòng nặng như đeo chì. Không biết đã bao lâu rồi, mỗi quyết định dù lớn hay nhỏ trong đời sống Kha đều có sự can dự của Vy, dù lộ liễu hay kín đáo để Kha thấy lòng lâng lâng hạnh phúc vì được Vy yêu, được quan tâm… Không biết tự bao giờ, mỗi vấn đề của Kha đều có Vy góp ý phải làm thế này, không được làm thế kia… Lần này giận nhau, cảm giác lớn nhất trong Kha là sự-bị-Vy-dẫn-dắt, trái ngược hẳn với từ xưa đến nay, Kha vẫn tưởng mình là người độc lập trong mọi quyết định. Lòng tự ái đàn ông trong Kha như vừa bị dội một gáo nước lạnh… Kha có còn yêu Vy không? Chắc chắn ! là Kha vẫn yêu Vy nhiều lắm! Ở bên cạnh Vy, Kha vẫn cảm thấy như là một thói quen dễ chịu. Kha không thể hình dung mình sẽ trải qua những buổi chiều, buổi tối như thế nào nếu không có Vy… Mà Vy cũng đâu có làm gì quá đáng! Chỉ là một lời nhắc nhở Kha gọi điện thoại nhờ anh Bằng giúp đỡ, dẫu gì cũng là anh em họ, người trong nhà chứ có phải ai xa lạ… Làm sao Vy biết được đã gần mười năm rồi, kề từ ngày anh Bằng ra Hà Nội lập nghiệp, Kha không hề gặp, không hề liên lạc với anh Bằng, dù chỉ là vài dòng thư thăm hỏi. Cho nên Kha thấy ngại, thấy khó bày tỏ cho Vy biết lý do thật sự vì sao mình e dè trong mối quan hệ với người anh họ của mình…

Vy ngồi im lặng, nhìn chăm chăm vào mặt sông, như thể chỉ biết có dòng sông, ngoài ra chẳng còn quan tâm gì khác. Vy đã làm gì sai? Chắc chắn, Vy chẳng làm gì sai, chẳng làm gì đáng để bị Kha gắt gỏng như vậy. Kha nhăn nhó y như thể Vy là con nhỏ xon xen nhiều chuyện, hay chõ miệng vào việc của người khác. Suy cho cùng, Vy nôn nóng thì có gì không phải. Đây thật sự là một cơ hội, mà tính Kha thì lúc nào cũng lù khù, Vy sợ kha chậm chân mất… Vy chỉ muốn Kha có một chỗ làm tốt hơn, lương cao hơn, cuộc sống của Kha từ đấy, biết đâu sẽ đỡ khổ hơn. Vy biết Kha luôn ao ước có một căn nhà nho nhỏ để chui ra chui vô, lần nào đi chơi với Kha, cũng nghe Kha nói về căn nhà mơ ước… Cả hai đứa đều là dân tỉnh lẻ học xong ở lại Đà Nẵng lập nghiệp, đều cùng ở nhà trọ, mà nhà trọ chỗ nào thì cũng một kiểu lợp tôn chật chội, thấp lè tè, mùa mưa nước dột rổn rổn, mùa hè thì nóng như một cái lò bánh mì, nên Vy hiểu vô cùng mơ ước của Kha. Kha làm nhiều tiền thì Kha sướng, chứ Vy có liên quan gì! Mà có thật là Vy với Kha không liên quan gì đến nhau không? Vy biết tính Kha vốn căn cơ, Kha đang cố dành dụm tiện tặn để mua nhà, chừng nào chưa mua được nhà, dẫu là một căn nhà ổ chuột bé tẹo bằng bàn tay, thì Kha chưa nói chuyện cưới hỏi với Vy. Dẫu gì thì Kha với Vy cũng đã quen nhau hồi còn đi học, gần mười năm rồi chứ đâu phải ngày một ngày hai… Có thật là Vy hoàn toàn không mong ước gì cho Vy không, khi Kha thay đổi chỗ làm? Tự nhiên, Vy thấy buồn rã rời, khi tình yêu của mình với Kha, tình yêu mà Vy vẫn luôn tự hào với mấy nhỏ bạn lấy ch! ồng giàu có là không hề có bóng dáng vật chất xen vào, bây giờ hình như không còn trong sáng, nguyên vẹn như ngày đầu… Trong ánh sáng mờ mờ của những ánh đèn hắt lên từ mặt sông đêm. Vy liếc nhìn Kha, thấy mặt Kha lạnh băng, đôi môi mím chặt, mắt Kha loang loáng có chút nước. Vy muốn ôm Kha một cái, hoặc làm một cử chỉ thân mật tự nhiên nào đó, mà sao không dưng có nỗi gì đó như xót xa, như nghẹn lại, Vy chẳng thể nào tự nhiên với Kha được…

3. Sau một đêm nằm trằn trọc, đầu óc ong ong, Kha lại thấy lòng nhẹ nhõm, như là những băn khoăn, ngại ngần tối hôm trước lúc ngồi bên cạnh Vy tan biến hết cả. Kha đến văn phòng công ty thật sớm, bắt đầu một ngày mới bằng phong thái khác và đôi mắt nhìn khác. Kha gọi điện thoại nói chuyện với anh Bằng, tự huyễn hoặc mình bằng tia hy vọng mong manh vào lời hứa hẹn rất lưng chừng của anh Bằng. Anh Bằng e dè mà rằng dù có là trưởng phòng nhân sự thì ý kiến của anh cũng chỉ là một trong những ý kiến vô cùng khác nhau của ban giám đốc công ty, các ông chủ của anh. Rằng anh cũng chỉ giới thiệu Kha với ban giám đốc, còn lại mọi công đoạn hồ sơ, thi tuyển, phỏng vấn vẫn sẽ tiến hành như mọi ứng viên khác muốn vào vị trí này, không có sự ưu tiên nào cả… Chừng đó thôi, nhưng đối với Kha, thông tin anh Bằng cung cấp có giá trị ngang bằng một cánh cửa đang mở. Những ngày tiếp theo, Kha bắt đầu đến với giấc mơ của mình bằng bản C.V cho công ty mới, liệt kê các bằng cấp, những kinh nghiệm công việc xưa nay của Kha. Ừ, thì Kha cũng có hai bằng Đại học như ai, nhưng trong thâm tâm, Kha biết cái bằng Đại học đầu tiên của mình mới là Đại học, còn cái bằng tại chức theo đúng chuyên ngành sau này chỉ là cái bằng, có được do có mặt ở lớp đầy đủ và đóng đầy đủ các khoản lệ phí, học phí. (Thật lòng, Kha thấy hơi xấu hổ khi nhắc tới cái bằng Đại học thứ hai của nình…) Còn kinh nghiệm, sau hơn sáu năm làm việc ở công ty này, Kha không biết nên kể về loại kinh nghiệm nào của mình. Không lẽ lại nhắc đến những kinh nghiệm đi năn n�! � cán bộ hải quan khi kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu hay các kinh nghiệm ăn nhậu để chiêu dụ khách hàng… Chẳng lẽ Kha không có những kinh nghiệm nào khác? Kha luôn thực hiện đúng đắn và khá mẫn cán những công việc chứng từ, giao dịch ở văn phòng, đâu có gì đáng nói! Kha được học, được đào tạo để làm loại công việc này, tất nhiên Kha phải làm được, đâu có gì đáng để khoe là kinh nghiệm… Anh Bằng gợi ý Kha nên mô tả kinh nghiệm làm việc của mình một cách dễ hình dung hơn để gây được chú ý của ban tuyển dụng… Kha chuẩn bị hồ sơ xin việc làm mới trong lúc song song phải chạy đua với áp lực công việc ở công ty đang làm, âm thầm thấy mệt mỏi. Trong Kha như thể đang có điều khuất tất không được thẳng thắn lắm vì Kha phải tìm cách giấu giếm, không để những người khác biết về việc ra đi của mình. Kha cố nghĩ đến Vy, đến tình yêu của Kha và Vy, như một động cơ và mục tiêu để Kha có được chút quyết tâm nào đó… Rồi Kha lại tưởng tượng đến vẻ ngạc nhiên của sếp lúc sếp biết tin Kha ra đi, chuyển đến một công ty khác ngon lành hơn, lương cao hơn. Sếp của Kha vốn tốt bụng và hiền lành, an phận như mọi giám đốc doanh nghiệp nhà nước khác, ngày ngày hai buổi đi về, chờ ngày hạ cánh an toàn… Kha quý sếp, cảm thấy hơi khó khăn khi phải nói với sếp chuyện ra đi, nhưng chỉ chừng đó thì không đủ để giữ chân Kha lại. Kha còn trẻ mà, có cả một tương lai xán lạn đang chờ trước mắt. Kha cảm thấy nhẹ nhàng, có phần hể hả khi hình dung đến vẻ mặt sửng sốt, cả ghen tị nữa, của Tân mai mốt khi Tân hay tin… Ừ, thì tao ra! đi, cho! mầy ở lại tha hồ mà bon chen, mà ton hót. Kha thấy vui như thể mình sắp ra đi thật, như thể chuyện ra đi chỉ còn là thời gian. Kha nghĩ đến khuôn mặt dễ mến của chị Lệ, chị Trân, của An, những người bạn tốt mà Kha có được ở công ty này. Ra đi, chắc Kha sẽ nhớ nhất là điệu cười thoải mái không bao giờ biết phanh lại của chị Trân, nhớ vẻ ân cần của chị Lệ và những câu chuyện tiếu lâm làm cả phòng cười đến đỏ mặt của An… Chắc rồi thỉnh thoảng, Kha cũng sẽ quay về, không, đúng hơn là sẽ ghé lại công ty cũ rủ chị Trân, chị Lệ đi ăn sáng hoặc cặp kè An ra quán làm mấy chai bia, để tận hưởng cảm giác râm ran sung sướng trước những ánh mắt ngưỡng mộ(?) lẫn ghen tị thấp thoáng ở công ty cũ… Kha thấy lòng bâng khuâng, nhẹ nhõm khi nghĩ đến tương lai tình yêu của Kha và Vy, sẽ không còn cảnh hai đứa giận dỗi nhau vì những lý do vớ vẩn không đâu, sẽ không còn những chuyện cảm thấy khó khăn không bày tỏ được, buổi tối, sẽ không còn dắt nhau đi loanh quanh trốn cái nóng oi bức mùa hè ở căn nhà thuê lợp tôn lúc nào cũng hầm hập… Và nụ cười của Vy, rạng ngời dưới vành voan trắng cô dâu hiển hiện rõ ràng trước mắt Kha, không còn xa xôi như trong dự tính…

4. Anh Bằng nhận hồ sơ, trình với ban giám đốc của anh, và Kha cũng đã nhận được câu trả lời chỉ chừng một tuần sau đó. Ngành học chính quy trước đây của Kha, cái bằng tại chức sau này, cả mớ kinh nghiệm mà Kha vắt óc nghĩ ra để liệt kê trong bản C.V. đều không phù hợp với vị trí người ta đang cần. Kèm theo hồ sơ trả lại là một lá thư viết bằng tiếng Anh được đánh vi tính cẩn thận, chữ ký giám đốc vô cùng lịch sự trên trang giấy trắng tinh, thơm lựng, nội dung cám ơn Kha đã quan tâm đến công ty và hẹn một cơ hội khác thích hợp…

Xây nhà

1. Ba chính thức thông báo với cả gia đình sau bữa ăn tối: “Mai mốt, nhà mình sẽ đập ra, xây lại.”. Dù nghe phong thanh ba mẹ bàn nhau chuyện này đã lâu nhưng Huy vẫn không khỏi ngỡ ngàng: “Khi nào hả ba?”. Ba gật gù vẻ mãn nguyện: “Tháng sau. Cũng vào lúc các con nghỉ hè. Ba mẹ đã chuẩn bị đâu vào đó cả rồi. Nhà mình sẽ mở rộng ra, không còn khu vườn phía sau”. Mẹ phụ họa thêm với ba: “Tường nhà mình nứt cả rồi. Mùa mưa lại bị thấm dột lung tung. Bé Na cũng đã lớn, cần có một không gian riêng…”. Bé Na nghe vậy, vội vàng chạy tới ôm cổ mẹ, thỏ thẻ: “Trời ơi, con thương ba mẹ quá à!” Mẹ đưa ngón tay xỉ xỉ vào trán bé Na, mắng yêu: “Tôi biết cô lắm rồi, cô thích nhà mới chứ yêu thương gì tui!”. Không khí trong nhà tự nhiên rộn ràng hẳn lên vì viễn cảnh của căn nhà mới. Chỉ riêng mình Huy ngồi bần thần nhìn bậc thềm rêu cũ kỹ, chiếc rèm cửa sổ quen thuộc ở cửa sổ phòng Huy nhìn thông ra vườn, nơi có mấy cây ổi, cây khế ngọt, cây mận cả một thời thơ ấu của Huy. Huy tự nhủ, mai mốt ở nhà mới sẽ sướng hơn, sẽ tiện nghi hơn, cũng chẳng còn mấy ngày mình được nhìn thấy những đồ vật quen thuộc này, rồi có cảm giác không buồn không vui, như mọi chuyện tất nhiên phải vậy, chẳng cần nghĩ ngợi gì nữa…

2. Nhận thầu xây cả căn nhà là chú Sĩ, một người đàn ông thấp đậm, hai hàng lông mày rậm rì và giọng cười rổn rảng. Chú Sĩ là bạn cũ hồi còn đi học Bách Khoa cơ khí với ba, cách đây mấy năm, chú bỏ làm nhà nước ra nhận thầu xây dựng, chỉ có mấy năm thôi mà đã phất lên nhanh như diều gặp gió, có một căn biệt thự mặt tiền to đùng ở cuối phố. Chú Sĩ cười hề hề: “Tưởng chuyện gì lớn chứ xây lại nhà mà qua tay tôi anh chị yên tâm. Chuyên môn của tôi, anh chị không cần phải băn khoăn gì cải”. Ba có ý định cho chú Sĩ thầu hết cả căn nhà, theo kiểu “chìa khóa trao tay” cho tiện vì nhà Huy vốn neo người. Mẹ tỏ ra lo ngại thì ba trấn an: “Chỗ bạn bè thân thiết mà, mẹ nó còn lo gì nữa! Vợ chồng nình bận đi làm cả ngày, khoán gọn là khỏe nhất. Vả lại anh đã tính toán kỹ rồi, mình mh có để chú ấy thiệt thòi đâu mà ngại”.

Rồi ngày ấn định làm nhà cũng đến. Chú Sĩ tìm thuê giúp cho gia đình Huy một căn nhà nhỏ để ở tạm, nằm lọt thỏm giữa một khu xóm lao động gần nơi căn nhà Huy đang xây. Trước khi dọn nhà, chú Sĩ đi cùng với ba chào hết một lượt các nhà hàng xóm tiếp giáp bốn bên, chào cả nhà chú Bốn, tức là nhà của Minh, bạn Huy. Nhà chú Bốn với nhà Huy chung vách, ba sợ nhất là khi xây nhà sẽ bị ảnh hưởng đến nhà chú Bốn nhưng chú Sĩ hứa sẽ làm cẩn thận, không có sao đâu. Cả chú Bốn cũng nói là đất bên nhà Huy thì gia đình Huy cứ xây, mình là hàng xóm láng giềng mà, không có sao đâu, rồi hai bên bắt tay cười hoan hỉ. Ngày dọn nhà, chú Sĩ cho lính tới dọn nhà giúp, lại giúp gia đình Huy xếp đặt chỗ ở mới nơi căn nhà thuê. Ba mẹ vẫn đi làm bình thường, bé Na là con gái, không đỡ đần gì được trong chuyện xây nhà chỉ có Huy, nhân dịp nghỉ hè, ngày ngày chạy qua chạy lại phụ ngó coi thợ làm nhà. Mọi chuyện coi như ổn cả, chỉ chừng bốn tháng sau là gia đình Huy sẽ có nhà mới để ở. Theo lời chú Sĩ, sẽ là một căn nhà mới hai tầng, không kể tầng trệt, có bốn phòng ngủ, có ban-công nhìn ra phía trước, hiên nhà sẽ có một khoảng sân nhỏ trồng cỏ Nhật Bản để trang trí. Một căn nhà đẹp như trong tạp chí Nhà Đẹp mà Huy vẫn hay coi ké của ba.

3. Căn nhà cũ được đập ra, công việc xây dựng tiến hành được chừng hai tuần thì anh Khoa, con dì Hai của Huy từ Sài Gòn về. Anh Khoa là kỹ sư xây dựng mới ra trường, dự định về quê xin việc làm, sẵn dịp gia đình Huy xây nhà, dì Hai bảo anh qua thực tập coi ngó thợ làm nhà với Huy. Anh Khoa gặp ba Huy hỏi thăm hợp đồng xây nhà và các giấy tờ liên quan, mới hay trong tay ba Huy, ngoài tờ giấy phép xây dựng, sơ đồ chung, sơ đồ các mặt cắt của căn nhà mới và một hợp đồng ghi nhớ rất sơ sài ba Huy ký với chú Sĩ, chẳng có gì khác cả. Mẹ Huy la toáng lên, trách ba Huy là sao tin người quá xá thì lúc đó, ba Huy mới giật mình. Khi đọc kỹ hợp đồng, anh Khoa chỉ ra cho ba Huy thấy những khoản kê khống chi phí, những chỗ con chữ đánh đố nhau, ba mẹ Huy mới bật ngửa ra, việc xây nhà không hề đơn giản như lâu nay anh vẫn nghĩ. Theo tư vấn của anh Khoa, ba Huy yêu cầu chú Sĩ giao thêm một số giấy tờ khác như dự toán thiết kế, bản vẽ kết cấu… thì thấy hết thảy đều được làm rất qua loa cho có. Lại phải bắt đầu làm lại tất cả nhưng ba mẹ Huy không còn nắm quân chủ động được như lẽ ra, ba mẹ phải rõ ràng ngay từ đầu. Mẹ Huy ngày nào cũng nhăn nhó ba, còn mặt ba thì xọm xuống vì lo lắng. Một phần ba phải nghĩ cách làm sao để mình khỏi thiệt hại nhiều quá, phần khác, phải cố làm sao đề không tổn thương đến tình bạn thân thiết của ba và chú Sĩ lâu nay. Khi giám sát thực tế, anh Khoa còn phát hiện bọc móng căn nhà làm ẩu, ghép bằng các mảnh tường vỡ từ căn nhà cũ đập ra, không hề đúng với quy cách kỹ thuật, rồi loại thép mà chú Sĩ đưa vào kết ! cấu nhà cũng không phải là loại thép chú đã cam kết với ba… Mẹ Huy cay đắng: “Vậy mới mau giàu chứ, người ta sẵn sàng bán đứng bạn bè để làm giàu mà!”. Chỉ nói khe khẽ sau lưng thôi chứ trước mặt thì ba mẹ vẫn phải ngọt nhạt với chú Sĩ, sợ chú nổi giận, không làm nhà nữa. Nhà đang làm mà ngưng trệ lại, thay đổi người xây nhà là xui lắm!

4. Vì bận chuyện làm nhà nên suốt cả mùa hè, Huy chẳng gặp gỡ được đứa bạn nào. Cả Minh, ở sát bên vách, mấy kỳ nghỉ hè trước, chiều nào cũng í ới rủ nhau ra biển chơi đá banh mà bây giờ cũng mất mặt. Minh là bạn thân của Huy từ nhỏ đến lớn, chuyện vui buồn gì cũng kể cho nhau nghe, đi đâu cũng rủ nhau đi. Huy nhìn tình bạn của ba và chú Sĩ lâu nay, tự hỏi không biết sau này, mình với Minh có giống vậy không, nếu mọi tình bạn đều có lúc như vậy thì buồn lắm. Huy nhớ chú Sĩ trước đây vẫn thường ghé nhà Huy chơi, dịp lễ lạc nào quan trọng cũng có mặt chú. Huy không thể hiểu được rốt cuộc chú là người như thế nào, chú có phải là bạn tốt của ba không, không biết nụ cười hề hề quen thuộc, giọng nói rổn rảng và đôi hàng lông mày rậm hay nhướng nhướng lên rất tếu của chú là có chân thành không. Không dưng, Huy thấy mới chỉ xây một căn nhà thôi mà mọi quan hệ có vẻ đã không giống như trước, mọi chuyện đã không còn tốt đẹp nữa, như trước đây…

Căn nhà nhỏ mà gia đình Huy đang thuê ở tạm có cửa bếp phía sau thông qua một con hẻm nhỏ. Nhà bếp thấp lè tè và nóng như một cái lò than, mỗi lần nấu ăn, mẹ Huy hay mở cửa sau ra cho thoáng. Một buổi trưa, khi cả nhà đang ăn cơm ở gian trước, hôm đó mẹ lại sơ ý quên đóng cửa sau, thì có chuyện xảy ra. Giữa bữa, Huy đứng dậy xuống nhà bếp lấy trái ớt cho ba. Một bóng người mặc áo ca rô màu xanh đang lục lọi sau bếp, nghe tiếng chân Huy, lao vụt ra con hẻm. Huy chỉ kịp la lên: “ăn trộm!”, lao vút theo cái bóng ca rô nọ. Cái bóng chạy như bay luồn qua con hẻm hẹp ngoằn ngoèo, đằng sau là Huy bám theo sát nút. Dẫu gì, Huy cũng là vận động viên điền kinh của trường mà, làm sao thằng ăn trộm đó thoát được với Huy. Đó là một thằng nhóc trạc tuổi Huy, mặc chiếc quần ka ki đã ngả màu và chiếc áo ca rô xanh cũ sờn, hai tay áo đứt nút bay phất phơ. Khi Huy đưa tay túm được áo nó thì toẹt một cái, chiếc áo ca rô cũ rách một đường dài. Nó quay người lại, thoi thẳng vào mặt Huy, Huy không kịp né nên lãnh trọn. Huy nóng máu, gạt chân nó ngã sầm, cứ thế, hai đứa vật đè lên nhau, thoi nhau túi bụi. Có tiếng người la hét ồ ào, rỗi một bác trạc tuổi ba Huy, vẻ như là tổ trưởng dân phố, và chú công an, chắc là tình cờ đi ngang qua, xông vào lôi hai đứa ra. Hai đứa bị đưa về đồn công an phường làm kiểm điểm, khi chú công an hỏi nguyên nhân đánh nhau, Huy liếc nhìn sang thằng ăn trộm, bắt gặp ánh mắt nó có chút khẩn cầu của một con thú cùng đường, Huy chỉ nói là hai đứa do đùa nghịch rồi thành đánh nhau chứ không kể cho chú công an nghe nó là thằng ăn ! trộm. Lúc hai đứa ra khỏi đồn công an thì đã quá hai giờ chiều, vừa bước ra khỏi đồn, nó len lén nhìn Huy, thấy Huy không nói gì, nó bẽn lẽn: “Tao cám ơn mầy, mầy chơi được lắm!”. Huy nghiêm nghị nhìn nó: “Sao mấy ăn trộm?”. Nó lắc đầu, mắt rân rấn: “Đây là lần đầu nên tao lỡ dại, mầy có tin tao không? Tao làm nghề đánh giày, mấy bữa nay ế, tao đói quá!”. Huy lục túi còn mười mấy ngàn ba mẹ cho ăn sáng mà Huy để dành lại để đi chát, rủ nó: “Đi ăn cái gì đi, tao đãi mầy! Mầy đừng có ăn trộm nữa!” Nó cảm động gật đầu, mắt chớp chớp long lanh làm Huy tự nhiên cũng thấy chùng lòng… Sau này, có vài dịp tình cờ gặp lại, Huy biết nó tên Tú, mồ côi ba mẹ, hồi nhỏ sống với gia đình ông cậu, bây giờ thì lang thang, do bà mợ khắc nghiệt quá. Huy không bao giờ nghĩ mình sẽ quen biết một đứa như nó, nó chưa hẳn là bạn bè, nhưng cũng là người quen biết…

5. Căn nhà mới của Huy gần hoàn thành thì một chuyện rắc rối khác xảy ra. Nhà chú Bốn hàng xóm, ba của Minh, trước lúc nhà Huy làm nhà, đã nới rộng căn gác dựa vào bức tường chung, lại nâng gác lên cao gần hai mét mà không hề gia cố nền móng phía dưới. Khi nhà Huy đổ xong mê tầng thứ hai thì bức tường giáp ranh bên nhà chú Bốn bắt đầu nghiêng, xé nứt vệt chân chim các bức tường nối ngang bên nhà chú. Cả gia đình chú Bốn la toáng lên, đòi phải bồi thường. Chú Sĩ, đại diện nhà thầu, sang thương lượng thì nhận được yêu cầu chóng mặt là phải làm lại toàn bộ ngôi nhà cho gia đình chú Bốn, một căn nhà có gác mới, có móng đàng hoàng, phải đền bù chi phí thiệt hại cho gia đình chú trong thời gian làm lại nhà. Chú Sĩ nói là mình không có sai phạm gì trong xây dựng nên không đồng ý với yêu cầu quá đáng của gia đình chú Bốn. Bất chợt một đêm nọ, đang giữa khuya, cả nhà Huy đang ngủ thì có tiếng đập cửa. Tú hớt hải chạy tới báo tin bên gia đình chú Bốn đang tập trung một nhóm người gậy búa sẵn sàng, hè nhau sang đập phá căn nhà đang xây của gia đình Huy. Tú tình cờ biết được khi chú Bốn nhờ một tay anh chị đường phố thu xếp việc này. Ba mẹ Huy, cả Huy với bé Na vội vã chạy qua chỗ công trường, giữa lúc bên kia đang hò hét om sòm. Trong khi cả gia đình Huy giận dữ, hoảng hốt, bất lực, lúi búi như gà mắc dây thì Tú bình tĩnh chạy đi tìm điện thoại công cộng, gọi cầu cứu công an 113. Chú Bốn, cả Minh nữa, bị công an 113 giữ đến sáng hôm sau mới được thả ra vì chỉ mới có một mảng tường nhỏ bị sập, hơn nữa, gia đình Huy cũng đã làm giấ! y cam kết bãi nại, không thưa kiện gì… Ba mẹ Huy như điên đầu, không ngờ một gia đình hàng xóm thân thiết lâu nay như gia đình chú Bốn lại hành động như vậy. Mẹ ca cẩm: “Biết trước thế này, tôi không xây nhà làm gì!”. Huy thì buồn suốt cả tuần, vì trong bữa tối lộn xộn đó, ánh mắt Minh nhìn Huy không một chút tình cảm, mà hằn học, căm ghét như nhìn một kẻ thù. Huy thấy đau đớn trước ánh mắt của Minh, mình đâu có làm gì sai, buồn rũ người vì từ đây, mình mất đi thằng bạn thân… Mà đâu phải do lỗi của mình…

6. Căn nhà mới khang trang, sáng sủa, có đủ các phòng, dù không bề thế như trong phác thảo của chú Sĩ ban đầu. Việc nghiệm thu và thanh toán cuối cùng rồi cũng kết thúc bằng trận cãi nhau kịch liệt giữa ba Huy và chú Sĩ khi anh Khoa, giám sát trong suốt quá trình xây dựng nhà, đã đưa ra các bằng chứng xác thực đòi chú Sĩ giảm giá thành. Ba mẹ Huy cũng đã thu xếp chèn chống bức tường nghiêng và sửa chữa các bức tường bị nứt bên nhà chú Bốn nhưng quan hệ của hai nhà thì không còn được như trước. Phòng riêng của Huy ở căn nhà mới rộng hơn, tiện nghi hơn, cửa sổ trông ra một khoảng trời xanh ngan ngát gió nhưng trống hoác. Nhà mới bây giờ, ít qua lại với hàng xóm hơn, trong nhà mỗi người mỗi phòng, ba mẹ, Huy và bé Na cũng ít khi gặp nhau, trừ những bữa ăn. Mỗi khi nhà có khách đến, phải bấm chuông cửa chờ một lúc mới có người ra mở cửa. Lắm lúc, Huy ngồi một mình trong căn phòng ngan ngát gió nhìn ra cửa sổ, ước ao những ngày như trước kia, ra vườn sau là có thể tót lên cây, hái ổi, hái mận nhâm nhi, buồn buồn thì chạy ngang qua bàn học bé Na bẹo má nó một cái, thèm những buổi chiều, chỉ cần thoáng nghe tiếng huýt sáo gọi của Minh là ôm trái banh da chạy ào ra ngoài biển… Huy thấy buồn, có quá nhiều thay đổi kể từ khi ba mẹ xây ngôi nhà mới, mà nhất định không phải là tại ngôi nhà, nhưng do điều gì thì Huy không lý giải nổi… Bây giờ, mỗi buổi chiều ra biển, Huy hay chơi đá banh với Tú. Thỉnh thoảng, bắt gặp ánh mắt lạnh lẽo của Minh và cái môi dưới của nó trề xuống mỗi lần thấy Huy, trong Huy như có điều gì đó quý giá vô cùng đã mất �! �i, mãi mãi không tìm lại được…

Sông ngầm

Chị Hoàng, chủ tịch công đoàn công ty cũ, gọi điện thoại vào máy cầm tay của Tuân: “Công ty của mình tổ chức đi chơi động Phong Nha, muốn mời em về cùng đi. Em thấy sao?”. Tuân gần như reo lên trong máy: “Trời ơi, có dịp đi chơi nào mà em từ chối đâu. Em sẽ xin nghỉ phép ở công ty mới”. Chị Hoàng hoan hỉ: “Vậy là đồng ý rồi nha! Đi thành hai đợt, đợt hai vào cuối tuần sau”. Chị đổi cách xưng hô: “Đăng ký đi đợt hai nha Tuân, có chị, chị Nga, chị Hiền nữa nè, vui lắm?”. Tuân biết mấy chị quý mình lắm nên cũng bông lơn một chút: “Trời, đi với mấy bà chị thì vui sao nổi. Có em nào trẻ trẻ cỡ tuổi em không?”. Chị Hoàng cười thành tiếng: “Thằng khỉ, có em Nhung, trẻ hơn mày mấy tuổi lận, vui rồi còn gì!”. Tuân làm bộ nhăn nhó: “Em Nhung mà cũng kể vô!”, rồi cũng gật đầu: “Chị đăng ký đợt hai cho em nhé!”.

Tuân rời công ty cũ chưa được bao lâu. Lý do xin chuyển công ty khác là do hoàn cảnh gia đình, nhưng thật ra là vì Tuân đã gặp được một cơ hội quá tốt nên công ty cũng không cách gì giữ Tuân lại. Cũng không có ý định giữ Tuân lại, khi Tuân quyết lòng muốn ra đi, ý của sếp là vậy. Dẫu gì, Tuân cũng đã gắn bó với công ty cũ gần tám năm trời, nên khi công đoàn tổ chức đi chơi, mọi người liền nhớ ngay tới Tuân. “Có công sức đóng góp của nó trong quỹ công đoàn mà!”. Nhung là đồng nghiệp của Tuân ở công ty cũ. Nữ đồng nghiệp này tướng bé loắt choắt, khô rang, không xấu, không đẹp, lanh lẹ một tí, xảnh xẹ một tí và đồng bóng kiểu đàn bà một tí, không phải là týp người Tuân thích. Dù có lúc, mấy chị cũng hay gán ghép và nữ đồng nghiệp cũng đã rất nhiều lần nhìn trộm Tuân. Không thích là không thích, dù chỉ để vui chơi, huống hồ gì Tuân là thằng rất biết rõ đâu là đồ cúng, đâu là đồ ăn. Dây dưa không đáng, Tuân không thèm!

Buổi sáng khởi hành, mọi người tập trung ở văn phòng công ty thật sớm. Khi Tuân đến thì hầu hết mọi người đã có mặt đầy đủ, kể cả sếp. Sếp thấy Tuân, đưa tay ra bắt, vẻ thân tình: “Chà, qua công ty mới, trông Tuân đẹp trai, trẻ ra!”. Chị Nga cười thật tươi: “Lâu ngày ghê há”, kèm theo một cái nháy mắt. Chị Hoàng, chị Hiền chừng mực hơn, chỉ cười hỏi Tuân: “Khỏe không em?”. Ngoài sếp và mấy chị ra, còn có mấy đấng anh hào làm ở bộ phận hiện trường, mấy người này Tuân không thân lắm, cả hai cô bé cháu chị Hiền đi cùng chị, năm nay chuẩn bị lên lớp mười hai, và Nhung. Nhung sáng nay thật lạ với áo thun sát nách, quần jeans lửng, giày sport, trông trẻ trung và khỏe khoắn hơn nhiều so với áo tay dài, cổ cao của đồng phục công sở hằng ngày. Tuân ngắm Nhung, lần đầu tiên ngắm kỹ Nhung sau mấy tháng không gặp, thấy Nhung đâu có khô như trước đây mình nghĩ. Ba vòng rõ ràng, những đường cong gợi cảm…

Hướng dẫn viên của công ty du lịch cũng là một cậu trẻ, chắc mới ra trường chừng vài năm, mặt nhìn non tơ nhưng miệng mồm thì láu lỉnh vô cùng. Sau vài câu e dè chào hỏi mào đầu, cậu bắt đầu nói về lịch trình chuyến đi và dặn dò mọi người những điều cần thiết. Xe chạy êm ru trên con đường Liên Chiểu – Thuận Phước dọc bờ biển, tiến về phía Bắc, chẳng mấy chốc đã lên đến đèo Hải Vân. Gió thổi vi vu, cây xanh hai bên lưng chừng đèo mượt xanh như tấm thảm lá lô nhô, điểm những vạt hoa trắng li ti mọc dày, loài hoa nào đó Tuân không biết tên, nhìn thật đẹp. Xe lên đến gần đỉnh đèo thì có sự cố xảy ra. Hai cô học trò cháu chị Hiền đi xe không quen, bắt đầu say xe. Các cô ói nhào lăn, như thể chẳng giữ gì lại trong bụng được. Vỹ, cậu hướng dẫn viên, luống cuống tìm bao ni lông, gom các thứ thải ra trên xe, tìm nước cho hai cô bé uống thuốc và hình như chính lúc ấy, cậu bắt đầu phát hiện ra đối tượng cậu cần phải quan tâm nhất trong chuyến đi này. Khi hai cô bé bắt đầu yên vị, không còn ói nữa, thì cậu ngồi thủ thỉ kể chuyện tiếu lâm cho hai cô nghe, nói là để hai cô thấy buồn cười mà quên chuyện say xe đi. Lúc đầu cậu kể nho nhỏ, rì rầm, sau to lên một chút vì có Nhung góp tai vào và cười. Tiếng cười rúc rích của tụi nhỏ làm cho mấy người lớn thấy nóng máy… Chị Nga hét lên: “Đề nghị mở volume to lên để mọi người cùng nghe!”. Vỹ quay lại cười bẽn lẽn: “Tụi cháu kể chuyện con nít mà!”. Chị Nga không chịu: “Chuyện con nít cũng nghe, hồi xưa các cô các chú đây trước khi là người lớn cũng ! là con nít!”. Mọi người xôn xao, cả sếp cũng bảo: “Kể chuyện tiếu lâm nghe cho vui đi!”.

Những câu chuyện tiếu lâm ban đầu kể cho nhau nghe còn hiền lành một tí, chay tịnh một tí, được một lúc thì chuyển sang tiếu lâm mặn, lúc đầu mặn ít, sau mặn quá xá cỡ. Chị Hiền rên rỉ: “Trời ơi, hai đứa cháu của tui, kiểu này khi về có ra sông Hàn rửa tai cả tháng cũng không hết được?”.

Xe dừng ăn trưa ở một quán ven đường. Trong lúc chờ dọn cơn, Vỹ lân la lại gần hỏi chuyện Tuân: “Anh Tuân có gia đình chưa?”. Tuân lắc đầu: “Chưa?”. Vỹ ranh mãnh thì thầm: “Em thấy chị Nhung chịu quậy lắm đó, anh không xáp lại văn nghệ một tí cho quên đường dài”. Tuân đỏ mặt, cái kiểu đỏ mặt của người bị bắt quả tang khi làm bậy, mặc dù trong thâm tâm, Tuân chưa có làm gì bậy bạ: “Nói gì đâu không à!”. Vỹ nháy mắt cười: “Ông anh hiền quá, ông anh thấy không, cô bé Nơ, cháu cô Hiền, tướng tá bốc ghê, thế nào em cũng phải xin địa chỉ cho được!”. Tuân nhìn theo hướng mắt của Vỹ về chỗ Nơ đứng, thấy Vỹ quả thật khá tinh mắt. Nơ da trắng, tóc dài, mắt đen láy, cao chừng một mét sáu mươi lăm, đã là thiếu nữ, thân hình nảy nở như người lớn…

Nói là làm, Vỹ tỏ ra quan tâm đến Nơ ra mặt. Liên tục gắp thức ăn bỏ vào chén Nơ, mua kẹo, mua ô mai cho Nơ ngậm, mang khăn lạnh cho Nơ lau với vẻ quan tâm không thèm giấu. Mọi người chọc: “Không chừng sau chuyến đi này, Hiền mang về thêm một cậu cháu rể kêu bằng dì”. Vỹ nói vọng sang chỗ chị Hiền ngồi: “Con kêu dì Hiền bằng dì nha, được không dì?”. Chị Hiền chỉ cười mà không biết nói chi. Tuân ngồi bên cạnh Nhung, cũng lăng xăng quan tâm, với một vẻ nửa đùa nửa thật, lại luôn miệng khen Nhung dễ thương, dù chuyển sang công ty khác, không gặp nhau, Tuân nhớ Nhung nhiều nữa. Nhung cười, vẻ hãnh diện: “Vậy à?”. Chị Hoàng chọc: “Chị thấy hai đứa mày xứng đôi đó, yêu nhau cho rồi, cuối năm nay cưới đi, tao đang thèm ăn cưới đây”. Nhung cười ré lên: “Trời ơi, em không lấy ông Tuân này đâu, em có người yêu rồi!”.

Cục tự ái của một người đàn ông đẹp trai, phong độ, đào hoa trong Tuân bắt đầu nổi lên: Anh sẽ cho em biết thế nào là lễ độ, hãy đợi đấy, em gái à! Vất bỏ cái vẻ mặt bông lơn thường ngày, tỏ ra nghiêm túc hơn, quan tâm một cách chân thành hơn, Tuân đã buộc Nhung cũng nói chuyện với mình bằng với vẻ e dè, nhỏ nhẹ và nữ tính hơn… Con mồi hình như bắt đầu dao động, lung lay, lung lay… Ở những điểm dừng lại tham quan, chụp hình dọc đường đi, rồi ghé chợ Đông Hà mua sắm đồ, lúc nào Tuân cũng ở bên cạnh Nhung, mang giùm túi xách, đưa tay đỡ Nhung lên xe xuống xe, kè kè máy ảnh chụp hình riêng cho Nhung… như một vệ sĩ tận tụy thứ thiệt. Chị Nga bắt đầu nhấp nháy với chị Hoàng: “Hình như tụi nó thích nhau thiệt!”. Chị Hoàng hỏi trống không: “Thiệt không vậy mày, để mấy chị còn tính!”, Tuân nghe, chỉ phớt lờ chứ không nói chi.

Đêm ngủ tại khách sạn ở Quảng Bình, Tuân rủ Nhung đi dạo, uống cà phê. Đi riêng hai đứa! Nhung mặc một chiếc áo thun sát nách và chiếc váy jean ngắn, trên váy gần bên hông có một đường vải rách lưa tưa tự tạo, tỏ vẻ rất sành điệu, khoe ra cặp đùi trắng toát và một đường hông loang loáng da thịt, nhìn rất đã… Chà chà, sao mà ăn mặc kiểu này, cô em? Tuân đưa Nhung đi dọc theo chiếc cầu duy nhất ở thị xã Đồng Hới, nơi có quốc lộ chạy qua, đến quán cà phê Trung Nguyên duy nhất có vẻ sang trọng nằm bên đường. Quán mở nhạc ồn ào, giậm giựt, trong quán toàn con trai, khi thấy một cô ăn mặc mát mẻ như vậy bước vào, hết thảy những ánh mắt trong quán đều ngoái lại nhìn. Tuân thấy mặt Nhung vênh lên, ra vẻ phớt đời, sành sỏi. Tuân khoác tay lên vai Nhung, vì đang làm ra vẻ sành điệu, không lẽ lại hất tay Tuân xuống nên Nhung để im. Nhưng mà Nhung ngồi ngọ nguậy dữ lắm. Nhạc ồn quá, hình như Nhung có nhắc Tuân bỏ tay xuống mấy lần nhưng Tuân giả đò không nghe! Bàn tay cứ từ từ, thật nhẹ nhàng, kéo bờ vai Nhung về sát bên Tuân. Được một lúc thì Nhung lách người ra: “Thôi, mình về đi, quán này ồn quá!”. Câu nói của Nhung, Tuân ngầm hiểu chắc Nhung thích chỗ nào đó vắng vẻ hơn. Vậy là về! Trên đường về, Nhung tung tăng vừa đi vừa nhảy chân sáo vẻ nhí nhảnh ngây thơ một cách cố tình. Tuân rủ Nhung lên lầu thượng khách sạn đứng hóng gió, Nhung thoái thác: “Nhung mệt rồi, Nhung đi ngủ đây để mai dậy đi sớm”. Tuân nhìn theo cái váy jean của Nhung khi đứng trong thang máy, cặp đùi trắng lóa, cái vệt rách loang loáng da thịt bên hông&! #8230;

Buổi sáng, khi ở trên xe để ra động Phong Nha, Vỹ ngồi bên cạnh Tuân, cười cười: “Sao? Đêm qua vui vẻ chứ ông anh?”. Tuân cũng cười, nhưng trong bụng thấy khó chịu: “Sao chuyện gì mày cũng biết vậy nhóc?”. Vỹ nói, như phân trần: “Tối hôm qua, em đứng chơi trên sân thượng, thấy anh chị đi chơi về”. Tuân giật mình: Lỡ đêm qua mà gặp nó trên đó, chẳng biết ăn nói làm sao… Rồi như có linh tính nào đó, Tuân nhìn sang Nơ, thấy Nơ tự nhiên cúi mặt. Tuân làm bộ hỏi bâng quơ: “Hôm qua Vỹ đứng chơi trên đó một mình à? Lãng mạn ghê hả?”. Vỹ thì thầm vào tai Tuân, giọng rất đểu: “Em đâu có điên mà lên đó đứng chơi một mình hả ông anh? Tiết lộ riêng cho ông anh thôi nha, môi em Nơ mềm lắm?”, nói rồi phát lên cười như vừa kể cho Tuân nghe một câu chuyện tiếu lâm. Ở hàng ghế sau, sếp nghe Vỹ cười vui vẻ, liền lên tiếng: “Kể chuyện tiếu lâm nữa đi!”. Vỹ “dạ” ngọt xớt.

Ngọn núi có kẻ dòng chữ khổng lồ Khu du lịch Phong Nha – Kẻ Bàng rồi cũng hiện ra trước mắt. Xe chạy vào khu vực bán vé tham quan, mọi người lục tục xuống xe, lục tục chuyển sang một chiếc thuyền sơn hình hai con mắt và vảy rồng xanh đỏ lòe loẹt để đi tham quan động Phong Nha. Dòng sông Son dẫn vào động Phong Nha đoạn ở ngoài nước trong vắt, hai bên bờ cây xanh mướt, đi được một lúc thì đến cửa động, trông như miệng một con cá mập lớn đang há. Thuyền bơi sâu vào bên trong động, tối om, chỉ có vài ánh đèn nhàn nhạt không đủ để soi đường. Nãy giờ đi ngoài sáng, bây giờ vào trong tối, không khí mát rượi làm mọi người thấy thoải mái, nhẹ lòng hẳn lại. Khung cảnh vắng lặng, chỉ nghe tiếng mái chèo khua nước róc rách và tiếng người xôn xao nói chuyện vọng lại từ phía xa kia. Thuyền lẳng lặng trôi, mọi người luôn miệng trầm trồ chỗ này chỗ nọ, thỉnh thoảng, lại nghe tiếng ré lên ơi ới vì bị nước từ trên cao nhỏ xuống làm ướt đầu tóc, áo quần. Cả một thế giới thiên nhiên kỳ bí hiện ra với những mảnh thạch nhũ nhiều hình thù kỳ dị từ trên cao buông xuống, tạo thành một vùng không gian như hư như thực. Cả đoàn ghé lên ngắm cảnh ở một động lớn bên ngoài, sau đó đi tuốt vào trong sâu để lên một cái động khác hẹp hơn nhưng nhiều thạch nhũ hơn. Cảnh vật ở các động na ná nhau, cũng lung linh, huyền ảo như thế. Lúc đi ra, Tuân kéo Nhung xuống ngồi ở hàng ghế sau chót trên thuyền: “Xuống đây ngồi với anh, anh nói Nhung nghe cái này!”. Nhung lật đật đi theo Tuân, thắc mắc: “Có chuyện gì vậy anh?”, Tuân không trả l�! ��i. Ngồi bên cạnh Tuân một lúc lâu, vẫn không nghe Tuân nói gì, Nhung lại hỏi: “Chuyện gì vậy anh?”. Tuân bất ngờ ôm lấy Nhung: “Chuyện này nè” rồi hôn lên môi Nhung. Cái hôn bất ngờ quá làm Nhung không kịp tránh đi đâu được, cái ghế trên thuyền chật quá, Nhung lại bị Tuân ép sát vào phía trong, cũng không cách nào tránh được, giãy giụa mạnh quá thì sợ mọi người phía trước nghe thấy. Nhung chỉ biết mím chặt môi lại, trân người, làm như không có cảm xúc. Được một lúc thì Tuân chán, buông Nhung ra: “Em không thích anh à!”. Nhung im lặng một chút, sửa lại tóc: “Anh không thích em? Anh làm chuyện này chỉ để vui vẻ thoáng chốc thôi, phải không? Sao lại chọn em?”. Tuân chống chế một cách vụng về: “Anh thích em thật mà!”. Nhung làm như không để ý lời chống chế của Tuân, vẫn tiếp tục: “Trước đây, em thích anh lắm, vì anh chân thành, trung thực, dù không bao giờ anh thèm ngó ngàng gì đến em! Còn bây giờ thì em có người yêu rồi”. Nhung chỉ nói vậy thôi, không có thêm một câu nào, không một câu trách móc, không hề xỉ vả anh là thằng thế này thế nọ. Vậy mà làm Tuân đau nhói, Tuân không nói được tiếng nào, hai tai Tuân đỏ rừ lên. Tuân ước gì mình có thể nhảy ngay xuống dòng sông ngầm này mà biến mất đi lập tức, thoát khỏi ánh mắt Nhung…


Theo lời người chèo thuyền đưa đoàn tham quan vào động, độ sâu của dòng sông chảy ngầm này, chỗ cạn nhất cũng phải gần mười mét. Biết làm sao được, khi Tuân không biết bơi, lại là người sợ chết vô cùng…

HẾT


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét