TRUNG ÐÔNG Tiền-Hồi GIáo: JAHILIYYA
Thế giới Hồi giáo Trung Ðông ngày nay, đông bắc có Hắc Hải, tây bắc có Ðịa Trung Hải và đảo
Emir quốc Ả Rập (UAE) gồm 7 sheikh quốc, Abu Dhabi, Ajman, Dubai, Fujairah, Umm al-Qaywayn, Shrjah, Ras al-Khaimah, thành lập ngày 2.12.1971 sau khi Iraq cắt đứt liên lạc ngoại giao với Iran.
Iran (1,684,000 km2) với thủ đô Tehran, phía tây giáp ranh với Thổ và Iraq, phía bắc giáp ranh với Armenia và Azerbaijan rồi đến biển Caspian và Turkmenistan, phía đông giáp ranh với Afghanistan và Pakistan, phía nam là Vịnh Ba Tư vào thập niên 1950 đổi thành Biển Ả Rập.
Về phía tây bán đảo Ả Rập, bên kia bờ Hồng Hải là các nước Phi Châu trong lịch sử có nhiều liên hệ với Trung Ðông Hồi giáo; theo chiều bắc nam là bán đảo Sinai và Ai Cập (1,000,000 km2) với thủ đô Cairo, rồi đến Sudan (2,205,000 km2) với thủ đô Khartoum, Ethiopia (1,221,000 km2) với thủ đô Addis Ababa, Somalia (638,000 km2) với thủ đô Mogadishu; phía tây của Ai Cập là Libya (1,760,000 km2) với thủ đô Tripoli, rồi đến Algeria (2,400,000 km2) với thủ đô Algiers.
TT Nasser của Ai Cập định nghĩa người Ả Rập là tất cả những người nói tiếng Ả Rập; như thế người Ả Rập là những người cư ngụ dọc mép phía bắc Phi Châu từ Morocco đến Ai Cập và Trung Ðông. Chúng ta không phân biệt người Ả Rập như mô tả trên đây với dân cư của bán đảo Ả Rập, bây giờ nói rõ hơn là Ả Rập Saudi. Tiếng Anh dùng chữ Arab để chỉ những người của thế giới Ả Rập nói chung và Arabian để chỉ những người của Ả Rập Saudi. 10% người Ả Rập không theo Hồi giáo và hàng triệu người không phải là Ả Rập khắp nơi trên thế giới lại theo Hồi giáo.
Bán đảo Arab và Hồi giáo
“As salaam alaykum”, Bình an cho tôn ông, “wa alaykim as salaam”, và cho cả tôn ông nữa, bình an. Người Ả Rập chào hỏi nhau như thế. Trong thế giới Hồi giáo, chiến tranh triền miên, nên bình an là khát vọng hàng đầu của các người sống trong thế giới ấy, cũng như đói là nỗi ám ảnh kinh hoàng của người Tàu nên gặp nhau là họ hỏi đã ăn cơm chưa?
Nghiên cứu Trung Ðông thì chỉ đề cập đến Ả Rập ở giai đoạn chót vì khi các đế quốc lớn trong vùng đã thành hình từ lâu thì chưa có một lãnh thổ nào có tên là Ả Rập trên bản đồ thế giới. Nhưng nghiên cứu Hồi giáo thì nên nghiên cứu Ả Rập đầu tiên vì tôn giáo này xuất phát tại đây.
Những đặc điểm của thế giới Ả Rập là
1/ trong số 200 triệu người Ả Rập hiện nay không phải ai cũng theo Hồi giáo và nhiều người theo Hồi giáo không phải là người Ả Rập,
2/ người Ả Rập không tách thần quyền và thế quyền,
3/ người Ả Rập không có ý niệm quốc gia, đối với họ cả khối Ả Rập là một cộng đồng (ummah), bị chia ra thành nhiều địa phương để tiện việc cai trị nên họ trung thành với ummah hơn là với các nhà cầm quyền, nếu nghĩ đến quê hương thì họ nghĩ đến làng mạc của họ chứ không nghĩ đến nước của họ.
Lịch sử Ả Rập trước Hồi giáo ít được biết, trừ một ký ức mơ hồ về một vương quốc Kinda phồn thịnh vào cuối tk V và đầu tk VI. Nhưng trước đó, có lẽ vào khoảng năm ngàn năm trước đây, những dân du mục Ả Rập, Thổ, Mông Cổ từ bắc, tây và nam kéo đến vùng bán sa mạc miền bắc bán đảo, một số định cư ở ven biên tại những vương địa (principality), về sau chịu ảnh hưởng nặng nề của Ba Tư hoặc của Byzantine, như Palmyra nay là Tadmur ở đông nam Syria, và thủ đô Petra của dân Nabatean, nay ở Jordan, năm 104 bị đế quốc La Mã chiếm đóng và đổi tên là Provincia Arabia, quân trú phòng đóng ở Bosra. Trước đó người La Mã đã gọi vùng này là Arabia Felix tức là Ả Rập Hữu Phước chỉ vì họ mê hai sản phẩm ở vùng này là frankincense (nhựa một thứ cây có mùi thơm) và myrrh (nhựa cây mật nhĩ lạp cũng có mùi thơm). Tân Ước có nói đến ba vua (rois mages) dâng Chúa Hài Ðồng hai thứ nhựa này cùng với vàng.
Khác hẳn miền bắc, miền nam là một vùng trù phú, đồng ruộng phì nhiêu. Các tù trưởng Ả Rập được gọi là sheikh (tiếng Ả Rập là shaykh nghĩa là trưởng lão hay sayyid nghĩa là chủ, thầy), không cha truyền con nối nhưng được tuyển lựa trong gia tộc.
Phần lớn bán đảo Ả Rập được bao bọc bởi nước, Ðịa Trung Hải ở phía bắc, biển Ả Rập ở phía nam, Hồng Hải ở phía tây, và ở phía đông là sông Euphrates chảy ra Vịnh Ba Tư. Giữa Ả Rập và những ranh giới thiên nhiên này tùy lúc có những quốc gia khác chen vào. Cũng tùy lúc con đường thông thương Ðông Tây chạy qua vùng Ả Rập khiến vùng này phồn thịnh; nếu nó băng qua vùng khác thì Ả Rập điêu tàn. Con đường ngắn nhất từ Ðịa Trung Hải sang Ðông phương là qua các lãnh thổ Ba Tư hoặc do Ba Tư kiểm soát, nhưng có nhiều trắc trở vì phải lệ thuộc Ba Tư. Con đường khác hoặc là ở phía bắc từ Tàu qua Thổ đổ về Hắc Hải đến lãnh thổ Byzantine, hoặc là ở phía nam qua Ấn Ðộ Dương. Cả hai con đường này hoặc dẫn đến Vịnh Ba Tư, hoặc đến Hồng Hải rồi từ đấy qua Ai Cập và eo đất Suez, hoặc theo đường bộ qua miền tây Ả Rập từ Yemen đến biên giới Syria.
Năm 325 hoàng đế
Ở ven biên sa mạc về phía Byzantine có vương địa Ghassan, đại khái là lãnh thổ
Ðế quốc Ba Tư kéo được đảo Tiran-Yotabe ở dưới mỏm bán đảo Sinai, theo Do Thái giáo. Ðế quốc Byzantine dụ được một số dân tộc Ả Rập và
Ayatollah Mirza Hasan Alhaeri Alehghaghi Aloskooee tóm tắt biến chuyển chớp nhoáng và kỳ lạ này:
Người Ả Rập trước Hồi giáo thường thiếu công cụ cho sự vĩ đại và quyền tối thượng, và họ có những tính hung ác nhất. Người Ả Rập sống trong nghèo khổ và bần cùng, trong ngu dốt, trong bạo hành và không có đức tin, trong sự áp bức mà đám thuộc hạ thường phải chịu, trong độc ác, trong vu cáo và lăng mạ, không kém gì những man mọi của Phi Châu thời cổ. Họ không có khoa học, của cải; họ xa lạ với xã hội của nghệ thuật và mậu dịch, và họ không được thông tin về những chân lý cao cả và xã hội. Vì nhu cầu, họ luôn luôn đến với các triều đình của các vua
Rồi, cái gì xẩy ra khiến những truyện về việc xâm lăng và thống trị thế giới của họ được ngay cả người ngoại quốc thuật lại như là sự kỳ diệu phi thường độc nhất trong lịch sử nhân loại? Trong chưa đầy nửa thế kỷ, những người Ả Rập ấy, trong vinh quang và liệt oanh, đạt đến một tư thế đến nỗi họ không thèm ngồi vào ngai vàng của bất cứ ông vua nước ngoài nào hay đặt vương miện của hoàng đế La Mã lên đầu họ. Những bộ lạc ấy, tản mác trong những đồi cát Ả Rập, đan kết trong thời gian ngắn nhất một sợi dây dài và chắc vươn ra từ những đám bộ lạc rời rạc và tập hợp với những vị thầy của văn minh, từ Tàu đến những vùng hẻo lánh nhất ở Phi châu. Tâm hồn nào đó đã đem sự sống đến cho cái chết của tk VII? Và ai là người đã thổi linh hồn vào xác chết của họ? Và làm sao việc ấy xẩy ra nhanh đến thế và ảnh hưởng đến thế? (Letter from the Shiites, 23-4).
Ảnh hưởng ấy thể hiện bằng 1.3 tỉ tín đồ Hồi giáo trên thế giới, trong số đó 25 triệu sống thường xuyên ở Tây phương, còn lại sống tại hơn 70 quốc gia, đấy là chỉ kể những quốc gia mà dân Hồi giáo là dân bản xứ.
Người tạo nên sự nghiệp phi thường ấy là Muhammad (có nghĩa là Ðấng được tôn vinh, the Glorified), người đã khai phát thời kỳ Quang Minh (Islam), chấm dứt thời kỳ Ðần Ðộn (Jahiliyya), tự xưng là Ngôn sứ (Prophet, thường dịch là Tiên tri, trong Do Thái giáo có nghĩa là người được Thượng Ðế chọn để tiết lộ ý Ngài và khuyến khích dân chúng sám hối và tuân hành luật của Ngài, nên tôi thấy dịch là Ngôn sứ có lẽ đúng hơn).
Ðộng từ Ả Rập “Islam” có nghĩa là hàng phục và phân từ (participle) của nó là Muslim nghĩa là người chịu hàng phục, người tự hiến chỉ cho Allah (Thượng Ðế) mà thôi, chứ không cho thần linh nào khác; như thế nhấn mạnh tính nhất thần của Hồi giáo. Có học giả và tác giả Tây phương dùng chữ Muhammadanism để chỉ Hồi giáo. Ðó là một sự sai lầm làm mất lòng người Hồi giáo vì Muhammad không bao giờ nhận là sáng lập một tôn giáo. Ông chỉ nhắc lại những điều ông đã nghe thiên thần Gabriel mặc khải và những điều ấy được ghi trong kinh QuỖran (= Koran, có nghĩa là nhắc lại, cũng như ông A Nan nói như thị ngã văn). Thân thế và sự nghiệp của Muhammad gọi là Sirah và các lời ngài giảng dạy, bình luận, nhận định là Hadith. Sirah chung với Hadith là Sunnah tức là hành trình, gương mẫu hay truyền thống của Ngôn sứ, là căn bản cho các giáo điều, tín ngưỡng, đạo lý của Hồi giáo. Hadith được soạn thảo thành văn tự có lẽ 50 năm sau khi Ngôn sứ chết, thêm thắt rất nhiều để hình ảnh của ngài được trọn vẹn hơn và để chứng minh tính cách thiêng liêng của luật pháp về sau mới đặt ra ngõ hầu thỏa mãn nhu cầu cho một đế quốc bành trướng quá nhanh và quá rộng. Từ năm 870 đến 915 các học giả Hồi giáo đã phải phân các giai thoại trong Hadith thành các loại đúng, tốt và kém; kết quả là chỉ có 500 đúng nhất và trong số 600,000 giai thoại chọn ra được có 7,000 coi là trung thực, nhưng cũng đủ mô tả sinh hoạt của Muhammad.
Muhammad có một cái tên rất dài, Abu al-Qasim Muhammad ibn Abdullah ibn Abd al-Muttalib ibn Hashin. Abu nghĩa là cha (của); người Ả Rập giống người VN cổ, tránh gọi bằng tên cúng cơm, thường được gọi bằng tên con lớn, thí dụ ông Cò Ba nghĩa là ông bố của người con trai (cò) tên là Ba hay ông Hĩm Tám, nghĩa là ông bố của người con gái (hĩm) tên là Tám; umm nghĩa là mẹ (của), dùng như chữ abu. Al viết với chữ A hoa nghĩa là họ, gia tộc hay bộ lạc, còn viết với chữ a nhỏ là một định quán từ (definite article); ibn, có khi viết là bin, nghĩa là con trai (của). Vậy theo cái tên dài ngoằng trên đây, người ta biết được rằng Muhammad là cha của Qasim, là con của Abdullah, Abdullah là con của Abd al-Muttalib và Abd al-Muttalib là con của Hashin; nếu là con gái thì dùng chữ bint thay chữ ibn hay bin. Người Ả Rập có tục đặt tên con để tưởng nhớ đến những thành tích vẻ vang của tổ tiên, vì thế chỉ có khoảng 20 tên thông dụng cho con trai và 20 tên cho con gái. Nhà Al Saud hiện trị vì Ả Rập Saudi có hơn 4,000 hoàng tử và công chúa trực hệ, tên nhiều khi trùng với nhau và trùng với các người ở những thế hệ trước.
Cha của Muhammad mất trước khi ông sinh năm 570, mẹ ông tên là Aminah chết khi ông lên 6; gia đình thuộc bộ lạc nghèo Anu Hashim (Hashimite) ở Quraysh, một ốc đảo nhỏ thuộc tỉnh Mecca (có nghĩa là nơi tôn nghiêm) trong vùng Hijaz, tây bộ Ả Rập; ông ở với ông nội, là ông từ giữ đền Kabah, ngôi thạch tự hình lập phương cao 50 bộ, theo truyền thuyết, do Abraham hay Ibrahim và con cả của ông là Ismael tái thiết để thờ Thượng Ðế Duy Nhất, tiếng Ả Rập là Al-Lah tương đương với tiếng Hy Bá Lai Elohim; tại một bức tường trong đền Abraham chôn tảng đá đen từ trên trời rơi xuống, theo truyền thuyết là do Thượng Ðế ném xuống cho ông A Dong như để làm lành với nhân loại. Người Ả Rập tin họ là hậu duệ của Ismael và Muhammad truy ra được Ismael chính là tổ tiên của ngài.
Vào thời ấy, đồng bào của Muhammad không có pháp luật; ăn cướp, giết người, tra tấn là thường; tư thù lôi kéo cả thị tộc đánh nhau; đàn ông thả cửa lấy vợ: khi chết, con cả thừa hưởng vợ của cha, trừ có mẹ ruột; con gái sơ sinh thường bị giết chết. Sự đóng góp văn hóa của Ả Rập cho thế giới Hồi giáo hầu như không có gì.
Tuy nhiên người Ả Rập ngay thời đó đã có luật rừng hay luật giang hồ nhiều khi còn có nhân tính hơn luật pháp văn minh. Họ phân biệt harb là chiến tranh với ghazzu tạm dịch là trấn lột, nghĩa là cướp đường. Ăn cướp có luật ăn cướp: chỉ được cướp các đoàn khách thương nào không trả tiền mãi lộ; không được cướp từ nửa đêm đến rạng sáng; chỉ được cướp lạc đà, không được cướp hàng hóa, cừu, dê; không được giết người, hiếp dâm; dù có phá lều cũng phải chừa lại ít nhất một cái cho phụ nữ với đầy đủ thức ăn và nồi niêu để làm bếp, kể cả ấm pha cà phê; không tôn trọng phụ nữ là một haram, nghĩa là điều sỉ nhục xấu xa nhất. Như thế cái thứ văn hóa kẻ cướp này còn cao hơn nhiều thứ văn hóa khác. Và thực tế nữa vì hôm nay làm kẻ cướp, rất có thể ngày mai bị cướp.
Muhammad ở với ông nội được 2 năm thì ông nội chết, lúc đó lên 10, ông theo chú Abu Talib, mùa hè đi Syria và Ai Cập, mùa đông đi Yemen làm nghề bảo tiêu cho các đoàn lạc đà của khách thương. Năm 20 tuổi, ông tự lập, được tiếng là biết nói thầm để lạc đà nghe lời và là người thành tín nên được gọi là “al-Amin” (Khả Tín). Năm 25 tuổi ông được góa phụ giàu đẹp Khadijah lớn hơn ông 15 tuổi thuê đem hàng đi Syria; lửa gần rơm, hai người lấy nhau có 6 con; 2 trai là Qasim và Ibrahim, đều chết yểu và 4 gái tên là Zainab, Ruqayyah, Umm Kalthum và Fatima là người duy nhất có con. Sau ông lấy thêm 10 bà (có nơi nói là 12) và một nàng hầu nữa: bà Ba trẻ nhất là Aisha, con gái đồng chí Abu Bahr (về sau kế ngôi ông) kết hôn với ông năm mới có 10 tuổi, bà Tư là Hafsa hay chọc bà Mười Safiyya đến phát khóc vì bà này là người Do Thái bị bắt khi cha và chồng đánh nhau với Hồi giáo bị tử trận, Muhammad thương cho làm vợ, xui bà đối đáp: “Cha tôi là Ngôn sứ Aaron, chú tôi là Ngôn sứ Moses, và chồng tôi là Ngôn sứ Muhammad, ai hơn được tôi?” Có lẽ bị nhức đầu vì những chuyện ghen tuông của các bà nên ông quy định chỉ cho lấy một vợ, cùng bất đắc dĩ mới được lấy đến bốn bà. Ông không nói rõ là chỉ được cùng bất đắc dĩ một lần hay ba lần như chính ông.
Năm ông 35 tuổi, trong đền Ka”bah có đến 360 ngẫu tượng đang được thờ, mái đền đã sập, lại có con rắn lớn làm tổ bên trong, may có con diều hâu xà xuống quắp đi. Người Ả Rập sợ rắn vì tích ông A Dong. Nhà Quraysh tái thiết đền để thờ Allah; Muhammad muốn hòa giải các bộ tộc, trải cái áo choàng của ông xuống đất, cho đặt tảng Ðá Ðen lên trên rồi mời đại diện các bộ tộc mỗi người nắm một góc áo cùng nhau khiêng tảng đá đặt vào đúng chỗ ở bức tường đang xây.
Năm 610, một đêm ngủ một mình trên núi Hira, thiên thần Gabriel (Jibril) hiện xuống trao cho ông một thông điệp. Sáng hôm sau ông về nhà, hãy còn run vì sợ, thì được bà Khadijah lấy chăn quấn cho và vỗ về. Bà trở thành tín đồ đầu tiên của ông, rồi đến bạn Abu Bahr, nô lệ Zayd và điệt nam (có nơi nói là tùng đệ, về sau là con rể) Ali ibn Abi Talib mới 10 tuổi của ông và sau cùng là Uthman ibn Affan. Sau thiên thần lại hiện xuống dạy ông cầu nguyện Allahu Akbar (Thượng Ðế Tối Cao) và lời chào “As-salaam alaykum”. Mười năm sau, kể từ khi Muhammad được thiên khải, thì bà Cả Khadijah và chú Abu Talib chết.
Ông đem tin lành đến cho dân thành Mecca, được dân Bedouin du mục theo, nhưng vì ông chủ trương người nghèo có quyền chia của với người giàu khiến giới quý tộc sợ và chống đối; chính bộ lạc Quraysh của ông cũng phản đối vì ông kêu gọi bỏ tục thờ ngẫu tượng nên những người buôn bán ngẫu tượng mất quyền lợi và vì số người hành hương Mecca do đó giảm đi. Họ tuyên truyền chống lại và mưu sát ông, bạo hành những tín đồ theo ông đến nỗi một số phải trốn đi
Năm 622, ông và các tín đồ phải bỏ
Muhammad dạy các giáo điều được mặc khải cho một cộng đồng gọi là Ummah ở
Dinesh D”Souza nhận định:
Nội một thế kỷ sau khi Ngôn sứ Mohammad chết, những người cải giáo theo ông đã lật đổ triều đại Sassanid ở
Trước cuộc tấn công vũ bão của quân xâm lăng Ả Rập, dân bản địa di tản, để lại tài sản, nhà cửa, đất đai nhưng sau thấy chúng còn dễ chịu hơn các nhà cầm quyền Hi Lạp của Byzantine và Sassanid của Ba Tư trước kia, nên từ từ kéo nhau về làm lại cuộc đời nơi quê hương, cộng tác, rồi đồng hóa với kẻ xâm lược, học nói tiếng Ả Rập, kết hôn với người Ả Rập, theo Hồi giáo.
Chỉ 400 năm sau khi bắt đầu bành trướng, thế giới Ả Rập đã có biên cương minh bạch, với ngôn ngữ Ả Rập và đạo Hồi làm tinh túy của nền văn hóa.
Người Ả Rập đi đến đâu thường dùng những cơ sở có sẵn như ở Damascus, nhưng phần nhiều phải lập đồn binh và trung tâm hành chính như Kufa và Basra ở Iraq, Qomm ở Iran, Qayrawan ở Tunisia, Fustat ở Ai Cập. Những đô thị mới ấy tiếng Ả Rập gọi là misr, số nhiều là amsar.
Công cuộc Ả Rập hóa (Arabization) và Hồi hóa (Islamization) này khiến cho đế quốc Ả Rập Hồi giáo bành trướng rất nhanh, đồng thời tạo ra những đẳng cấp xã hội mới trong đế quốc:
1/ những thân nhân của Ngôn sứ và gia đình,
2/ những cận thần của Ngôn sứ và gia đình họ, 3/
những công dân Ả Rập theo Hồi giáo,
4/ những công dân Ả Rập không theo Hồi giáo,
5/ những công dân Ả Rập lai dân bản địa thường là nô lệ theo Hồi giáo,
6/ cuối cùng là những người không phải là Ả Rập theo Hồi giáo. Dĩ nhiên những người không phải là Ả Rập và không theo Hồi giáo được “mời” đi chỗ khác, kể cả bên kia thế giới.
Những tầng lớp trên vơ vét chiến lợi phẩm trở nên xa hoa phú quý không thể kể xiết, các lớp dưới nghèo khổ và bị ức hiếp. Hố sâu ngăn cách giàu nghèo ngày càng rộng. Bất mãn đưa đến tranh chấp nên chỉ một phần tư thế kỷ sau khi Ngôn sứ khuất bóng, tôn giáo của ngài đã bị phân hóa trầm trọng.
**
Ở đây chỉ có chỗ để trình bầy vài điểm chính trong giáo lý của Muhammad. Ngài tự nhận là một Ngôn sứ và là ngôn sứ cuối cùng và quan trọng hơn cả. Moses, David, và nhất là Jesus là các ngôn sứ trước ngài, còn cao siêu hơn ngài vì biết làm phép lạ, đều truyền những giáo điều đúng, nhưng về sau giới giáo sĩ đã làm tôn giáo của các ngài sa đọa, như ở những bộ lạc Bedouin chẳng hạn, cần sửa lại cho đúng, và ngài sẽ làm công việc ấy.
Hồi giáo là một tôn giáo thượng tôn luật pháp nhất hạng. Những học giả về giáo lý Hồi giáo cũng là những luật gia, điều hành các cộng đồng, có thẩm quyền về các vấn đề cả đời lẫn đạo. Tập đoàn này gọi là ulema, tương đương với giới giáo sĩ (clergy). Hồi giáo không có giáo đường, chỉ có các masjid (mosque), tạm dịch là đền, nghĩa đen là phủ phục hay quỳ, là chỗ để giáo dân tụ tập cầu nguyện do Imam hướng dẫn. Lúc đầu Imam chỉ có nghĩa là người hướng dẫn cầu nguyên nhưng về sau lại có một vị trí cực kỳ quan trọng trong giáo phái Shi”a, sẽ nói đến dưới đây.
Trên đường xâm lăng, gặp các giáo đường Ki tô giáo thì sửa sang lại lấy làm nơi tụ tập đọc kinh, bên trong thì dẹp bàn thờ, thay các tượng ảnh bằng những giai tự (calligraphie) ghi những câu trích từ kinh Qur”an (Koran) hay các văn bản Hồi giáo, bên ngoài bỏ cây thánh giá thay bằng hình mặt trăng lưỡi liềm và xây thêm tháp cao (minaret), trên đó các muadhadhin đứng (muezzin) gọi giáo dân đến đọc kinh.
Giáo luật sharia quy định chi tiết sinh hoạt công và tư của giáo dân, có năm “cột trụ”, nghĩa là những điều phải làm, có thể ví như năm khuyến chế (niyama) của Yoga là:
1/ shahada, tự nhận là tín đồ;
2/ salat cầu nguyện riêng từng người nhưng bắt buộc phải cầu nguyện chung ở đền ngày thứ sáu;
3/ hajj là nghĩa vụ phải hành hương đến
4/ zakat, thuế từ thiện đóng cho cộng đồng hay nhà nước; và
5/ sawm, người lớn, trừ trẻ con và người bệnh, phải nhịn ăn từ bình minh đến hoàng hôn trong tháng Ramadan tức là tháng chín theo lịch Hồi giáo. Ngoài ra, có rất nhiều điều cấm làm, có thể ví như cấm chế (yama) của Yoga, quan trọng nhất là cấm giết người và trộm cướp, cấm uống rượu, cấm gian dâm, và cấm ăn thịt heo giống như Do Thái giáo.
Hadith và Koran (đã nói đến trên đây) là căn bản luật pháp của Hồi giáo. Ngoài ra hệ thống pháp lý Hồi giáo còn dựa trên qiya tương tự như án lệ trong hệ thống pháp lý Tây phương và ijma nghĩa là sự đồng thuận của toàn thể ummah (cộng đồng Hồi giáo).
Muhammad mất ngày 8.6.632, Ummah chọn một Khalĩfa (từ đó Anh ngữ calif hay caliph) kế vị điều hành cộng đồng. Ban đầu chức caliph (nghĩa là “phó”) do Mahammad đặt ra là một chức vụ rất tầm thường, tương tự như chức lý trưởng của ta, cai quản ummah bé nhỏ như dân trong làng. Nhưng khi ummah bành trướng thành một đế quốc vĩ đại thì caliph trở thành một hoàng đế quyền uy chưa từng có.
Phương pháp tuyển lựa đã đưa đến mâu thuẫn nội bộ, kết quả là bốn caliph đầu tiên được chọn đều bị giết chết. Ðó là:
1/ Abũ Bakr (632-4) là người được chính Ngôn sứ chỉ định thừa kế, được tôn xưng là Khalĩfatu Rasũl Allãh (thừa kế của Ngôn sứ của Allah) và Khalĩfat Allãh (Phó Allah), bị ám sát năm 634; trước khi chết ông đã chỉ định Umar là người thừa kế.
2/ Umar ibn al-Khattab (634-44) được tôn xưng là Amir al-Mu”minĩn, nghĩa là chỉ huy trưởng của người trung thành, lập ra lịch Hồi giáo bắt đầu năm 1 là năm Muhammad chạy về Medina; ông đánh thắng Ba Tư (636), Ai Cập, và Syria khi ấy gồm cả Lebanon, Israel, Palestine và Jordan ngày nay; chiếm lại Jerusalem; ông bị một nô lệ Ba Tư tên là Abul Lulu Firuz ám sát.
3/ Uthman ibn Affan (644-56) thuộc danh gia vọng tộc Umayyad ở Mecca; san định kinh Qu”ran; bành trướng Hồi giáo đến đảo Cyprus, Libya, A Phú Hãn, Ấn Ðộ, Ba Tư; nhờ các cuộc viễn chinh này Caliph Uthman vơ vét tài sản các nơi đem về làm của riêng, lãnh đạo một chế độ tham nhũng và đàn áp của quý tộc mới; bị giết ngày 17.6.656 bởi quân lính bất mãn vì ông thiên vị gia đình ông là phe Umayyad và bất công với phe Hashimite thuộc gia đình Ngôn sứ trong việc bổ nhiệm các chức vụ chính trị; đám tang của ông còn bị những người đã giết ông ném đá.
Ba caliph đầu tiên trên đây theo phái Sunnah, chủ trương rằng những người thừa kế Ngôn sứ không nhất thiết phải có huyết thống với ngài, chỉ cần là Rashidun, nghĩa là “người được hướng dẫn đúng đường”. Ðây là cách chọn lựa theo “đồng thuận” (consensus) trong bộ lạc Quraysh của Ngôn sứ.
4/ Ali ibn Abi Talib (656-61) là điệt nam của Ngôn sứ và là chồng của Fatima, con gái ngài; không màng tranh chấp quyền hành, vẫn sống giản dị, hòa nhã, đem kiến thức uyên bác dạy bình đẳng chủ nghĩa và đạo lý Hồi giáo cho đám đệ tử ngày càng đông; là người đủ tư cách nhất để thừa kế Ngôn sứ thì đã ba lần bị bỏ quên; được đưa lên làm caliph; tháng 1.661 ông bị ám sát bởi một thừa sai của giáo phái cấp tiến gọi là Khawarij, trước theo ông nhưng sau ly khai.
Khawarij, đa số là người Bedouin, là giáo phái thứ ba, quá khích nhất; không chấp nhận bất cứ một chính quyền nào không được họ tự do chấp nhận và sự chấp nhận bất kỳ lúc nào cũng có thể bị thu hồi. Họ chủ trương độc tài đạo đức nhưng lại đòi bình đẳng tuyệt đối, bất cứ tín đồ nào, bất kể lai lịch, đều có thể là caliph nếu được đồng đạo chọn. Họ tự cho là bị gạt ra khỏi quyền lực bởi giới tân qúy tộc Quraysh cũng như bởi hoàng tộc mà đại diện duy nhất còn lại là Ali. Họ tuyên bố là các lầm lỗi của Uthman và Ali là do thiếu đức tin Hồi giáo chứ không phải là do những sở đoản thế nhân; hai vị này chính là những người phản bội và là những người thiếu đức tin. Giáo phái này mở đường cho nhiều giáo phái quá khích từ bấy cho đến nay.
Sau khi Ali chết, tộc Umayyad (ông tổ là Umayya) do Muawiya ibn Abi Sufyan, có bà con với Uthman, lãnh đạo, lúc đó là thống đốc Syria nên thiên đô đế quốc Ả Rập từ Medina sang Damascus ở Syria, xâm lăng Iraq là căn cứ địa của Ali và chiếm Jerusalem là đất của những người theo Ali. Những người Hồi giáo ở
Khi ấy dân Ả Rập có nghĩa là những người gốc gác từ bán đảo Ả Rập, đã là bá chủ thiên hạ, thường có thái độ khinh thị những người khác chủng tộc dù đã Ả Rập hóa và theo Hồi giáo, coi những người này như phó thường dân: người Iran, Iraq, Yemen… nhất là những tù binh chiến tranh bị đày ở tỉnh Kufa sát biên giới vùng Trăng Khuyết Phì Nhiêu. Ðương nhiên những người này có cảm tình với giáo huấn bình đẳng của Ali và sẽ trở thành những chiến sĩ cho cuộc cách mạng Shi”a. Họ thỉnh nguyện caliph Uthman can thiệp cho họ thì bị chính ông này đày họ đi
Tuy Ali thắng nhưng buồn về nhân tình thế thái và sự phân hóa trong hàng ngũ Hồi giáo ông không về
Nền tảng tâm linh của phái Shi”a là walaya tức là lòng thương yêu và tôn sùng Ali ấy cũng là tiêu chuẩn để trắc nghiệm đức tin chân chính. Khi người Ba Tư theo phái Shia, Walaya của họ mạnh đến độ họ không muốn tin một người thánh thiện như Ali lại có thể là người Ả Rập!
Phái Shi”a chủ trương phải là dòng dõi của Ngôn sứ mới làm caliph được vì thế họ coi trong 4 caliph đầu tiên, chỉ có Ali là caliph hữu quyền duy nhất. Phái này lại chia thành phe Ali và phe
Họ tin rằng khi Ngôn sứ Mohammad chết Ali đã được chọn làm Imam một cách thiêng liêng. Luận cứ chính và duy nhất của phe Fatima là các con, cháu và hậu duệ của Ali và
Phái Sunnah tin rằng cả 4 caliph đầu tiên đều hữu quyền. Các luật gia phái này diễn dịch giáo lý ijma là sự đồng thuận của các học giả chứ không phải của cộng đồng (ummah), chủ trương rằng lý trí và ý kiến của con người có thể bổ túc cho giáo luật đó là ijtihãd nghĩa là phán quyết độc lập – chấp nhận có thể có nhiều trường phái của luật shari”a. Các trường phái chính còn tồn tại đến ngày nay là Hanafi ở Thổ Nhĩ Kỳ phóng khoáng nhất, Shafi”i dọc theo duyên hải Vịnh Ba Tư và Ấn Ðộ Dương, Maliki ở Bắc Phi và Hanbali ở Ả Rập Saudi là chính thống nhất.
Từ khoảng năm 900 có sự đồng thuận trong phái Sunnah rằng mọi vấn đề quan trọng đã được giải quyết cho nên “cửa ijtihãd đã đóng”. Tuy nhiên luôn luôn có những vấn đề mới, thí dụ vấn đề cà phê, thuốc lá và súng ống nên có luật gia chủ trương phải mở lại ijtihãd. Phái Sunnah càng ngày càng dựa trên taqlid, nghĩa là chấp thuận không thắc mắc các giáo điều đã được thiết lập, một thứ Hồi giáo chính thống. Phái này chủ trương rằng các tín đồ trực diện Thượng Ðế không cần qua trung gian (ám chỉ Imam).
Ðây là dị biệt quan trọng giữa hai phái. Sunnah thường là giáo phái của nhà cầm quyền (caliph), coi như quốc giáo, có số tín đồ đông gấp 10 lần số tín đồ Shi”a. Phái Shi”a là giáo phái của những người bị trị, thất thế, bần cùng, thấp cổ bé miệng, bị đàn áp và bóc lột, hà hiếp và do đó luôn luôn có tinh thần quật khởi, đòi hỏi công lý, bình đẳng, không công nhận thẩm quyền của các caliph và chủ trương cách mạng. Họ phải tìm ra một bán thần á thánh (semideus) cao hơn caliph, hướng dẫn cộng đồng Hồi giáo ở thế gian và làm trung gian giữa người và Thượng Ðế; đó là Imam. Các người Shi”a tin rằng Ali và hai con ông, Hassan và Hussein là 3 imam đầu tiên, tiếp tục truyền xuống cho đến imam XII. Họ cho rằng sau caliph/iman Ali, ummah (cộng đồng Hồi giáo) dưới sự trị vì của các caliph và sultan (tước vị của caliph Thổ) và sự hướng dẫn của Sunnah đã đi lạc hướng và họ cố cải tổ. Họ không chấp thuận ý kiến là ijtihad đã có khi nào bị đóng.
Khi Imam thứ sáu của cánh
Chuyên viên về Hồi giáo Edward Mortimer phân tích dị biệt giữa Sunnah và Shi”a:
Hồi giáo Sunnah là giáo điều quyền lực và thành tựu. Shia là giáo điều phản kháng. Khởi điểm của Shia là bại trận: việc bại trận của Ali và gia tộc của ông… Sự hấp dẫn căn bản của nó do đó là đối với những người thất bại và bị đàn áp. Vì thế nó thường là tiếng kêu tập hợp những kẻ thất thế trong thế giới Hồi giáo… nhất là người nghèo và người bị chiếm hữu (Faith & Power).
G.H. Jansen nhận định:
Các dị biệt giáo điều giữa Hồi giáo Sunni và Shiah là: Shiah dĩ nhiên chấp nhận Muhammad và Koran, nhưng trong khi nguồn gốc của luật Sunni là Koran, Hadith của Ngôn sứ, sự đồng thuận của cộng đồng và “tương đương”, bốn căn bản của luật Shiah là Koran, Hadith của Ngôn sứ và các imam, sự đồng thuận của các imam và “lý trí”. Vậy Shiah có bộ luật Hadith của riêng họ và trường phái luật của họ là Jaafari. Người Shiah hành hương
Năm 1844 Mirza Ali Muhammad tự nhận là Mahdi đang được mong đợi, sáng lập đạo Bahai như là một nhánh của Hồi giáo Shi”a nhưng bị chính giáo phái này coi như phản đạo vì những chủ trương cải cách.
Năm 908 Ubaydallah theo cánh Ismail lên ngôi caliph ở Bắc Phi và năm 969 một người khác, al-Mu”izz chiếm Ai Cập và kiến thiết
Sau khi Ali bị ám sát năm 661, con cả ông là Hassan (về sau bị bỏ thuốc độc chết), không biết có bị áp lực hay không nhưng không nhận kế vị, lui về tư dinh ở Medina, đề cử Muawiya ibn Abi Sufyan, thống đốc Syria (lúc ấy kinh đô của Hồi giáo là Damascus) và là tùng đệ của caliph Uthman đã bị ám sát, thuộc danh gia Umayyad ở Mecca. Triều đại của nhà Umayyad (660-750) bắt đầu từ đây, tiếp nối với Yazùd là con của Muawiya và sẽ kéo dài gần một thế kỷ, vẫn đóng đô tại
Theo truyền thống thì tên cổ của
Năm 680 là một niên đại tối quan trọng trong lịch sử Hồi giáo. Năm ấy Hussein, con thứ của Ali và là cháu ngoại của Ngôn sứ – được hỗ trợ bởi hai giáo phái Shi”a và Khawarij lúc đó tạm quên cựu hiềm để chống kẻ thù chung – nổi lên ở Iraq, tố cáo nhà Umayyad không có tư cách gì để làm caliph, hơn nữa lại còn là một caliph bất công và độc ác. Ông bị Ubayd Allah ibn Yazid lãnh đạo nhà Umayyad đánh bại ở Karbala, ở phía nam Baghdad ngày nay, bị chặt đầu; toàn gia của ông cũng bị giết, trừ có đứa con nhỏ sống sót. Những người theo ông cũng bị giết hết, tất cả là 70 người. Ðối với phái Shi”a, đây là một ngày lịch sử đánh dấu
1/việc tuẫn tiết của gia đình Ngôn sứ cho lý tưởng công bình;
2/ ác tính của những kẻ đã giết họ; và
3/ tội lỗi của những ai không bảo vệ họ.
Biến cố này cũng thay đổi Shi”a từ một tổ chức lỏng lẻo thành một giáo phái. Tín đồ từ khắp nơi, Ấn Ðộ, Hồi Quốc, Iran, Iraq, Lebanon kéo về Karbala khóc cho Ali và Hussein, tự nguyện sẽ giống Ali, sẽ sống như Ali và sẽ chết như Ali.
Tính bất công của nhà Umayyad rõ rệt nhất ở cách kỳ thị chủng tộc, coi Hồi giáo là của Ả Rập và coi những người không phải là Ả Rập, dù có theo Hồi giáo cùng không được cư xử ngang hàng với người Ả Rập.
Dù có những sở đoản, nhà Umayyad đã có công đóng góp rất nhiều cho văn hóa Ả Rập, nhất là nghệ thuật và kiến trúc, ảnh hưởng sang cả Âu Châu Ki tô giáo. Năm 691-2 caliph Abd al-Malik (685-705) của nhà Umayyad xây, ngay tại Núi Ðền Jerusalem, đền “Vòm trên tảng đá” (the Dome on the Rock) là đền Hồi giáo lớn đầu tiên.
Năm 711, nhà Umayyad băng qua eo biển Gibraltar (do chữ Jebel ul-Tarik nghĩa là Núi của Tarik) tràn vào chiếm Y Pha Nho nhưng bị vua Charles Martel của Pháp đánh bại tại trận Poitiers năm 732, nếu không thì cả Âu Châu đã lọt vào tay Hồi giáo Ả Rập.
Từ năm 715, các caliph ngày càng trụy lạc trong những nhà tắm và hoàng cung lộng lẫy, quên rằng Ngôn sứ Muhammad của họ không bao giờ bỏ thói quen ngồi ở sân sau căn nhà tranh vách đất vá lấy quần áo rách. Sự xa hoa và kiêu ngạo của họ là mầm mống của sự suy tàn của triều đại Umayyad. Với caliph thứ 12, Marwan II (744-750), con một phụ nữ nô lệ người Kurd, nó cáo chung khi ông này bị người theo Abbas (Abbasid) đuổi đánh phải chạy sang Ai Cập, trốn trong một nhà thờ Ki tô giáo và bị chém đầu. Dân chúng ở
Trận Yarmouk
Năm 633, quân Arab bắt đầu bành trướng ra ngoài bán đảo Arab. Họ tiến lên chinh phục
Ngày 9.6.747, Abu Muslim phất cờ đen khởi nghĩa ở Khurasan, một tỉnh đông bắc Iran, chống lại nhà Umayyad và tôn hậu duệ của ak-Abbas, một thúc phụ của Ngôn sứ, lên làm minh chủ; công dân không phải là Ả Rập theo rất đông, tràn khắp Iran rồi kéo sang Iraq, đến năm 749 đã qua được sông Euphrates. Lãnh tụ Abul-Abbas được tôn lên làm caliph ở Kufa với tước hiệu al-Saffah chiếm nốt Iraq và Syria, dứt nhà Umayyad, lập ra triều đại Abbasid, trị vì khắp đế quốc Hồi giáo. Ðiều đáng chú ý là khi còn là Abul-Abbas thì theo Shi”a, đến khi đã thành al-Saffah thì theo Sunnah.
Al-Saffah tạm đóng đô gần sông Euphrates, em ông là al-Mansur (754-775) thiên đô từ Damascus sang bờ sông Tigris, gần vị trí cố đô Ctesiphon của triều đại Ba Tư Sassanid; thủ đô mới lấy tên là Madĩnat al-Salãm (nghĩa là “Ðô thị Hòa Bình”), nhưng dân vẫn quen gọi là Baghdad (nghĩa là “Trời cho”) và trở thành trung tâm dịch thuật các tác phẩm y khoa, toán học, hóa học, luyện kim, triết học viết bằng tiếng Hi Bá Lai, Ba Tư, Hi Lạp, Phạn. Tại đây hoàng cung được kiến thiết theo kiểu mẫu giống Ba Tư hơn là Ả Rập; y phục và nghi thức triều đình cũng vậy. Vì thế có người cho rằng đây là cuộc đảo chính của Ba Tư chống lại Ả Rập, nhưng cuộc cách mạng này cũng được nhiều người Ả Rập theo. Chính mẹ al-Saffãh cũng là Ả Rập, al-Mansũr có mẹ là nô lệ người Berber. Dù sao thì cuộc cách mạng này cũng đã thay đổi cục diện Hồi giáo một cách sâu đậm. Quý tộc
Các caliph nhà Abbasid trị vì đế quốc Hồi giáo trong 5 thế kỷ, nhưng từ khi al-Mansur trao quyền tể tướng cho Khalid al-Barmaki, gốc tu sĩ Phật giáo của đô thị Balkh ở Ba Tư, thì quyền hành ngày càng bị mất vào tay ông này để rồi cha truyền con nối làm wazir (giống nhà Chúa ở VN và tướng quân shogun ở Nhật) cho đến đời Harun al-Rashid (786-809). Dưới triều ông này, Tây Ban Nha và Bắc Phi đã gần như độc lập (756-800). Năm 868, một cận vệ người Thổ được Baghdad bổ nhiệm làm thống đốc Ai Cập tên là Ahmad ibn Tulun tuyên bố độc lập và sát nhập luôn Syria vào Ai Cập. Vùng biên thùy Syria-Iraq bỏ ngỏ, các bộ lạc Ả Rập Bedouin từ sa mạc tràn vào đòi lại nền độc lập bị mất. Có khi họ đánh phá các vùng đông dân ở
* Các vua Omayyad ăn chơi sa đoạ và tàn ác. Vua Suleiman đem 400 tù binh ra thử gươm. Vua Walid đổ đầy rượu trng một cái hồ bơi rồi bơi trong đó.
* Vị vua cuối cùng nhà Omayyad chạy đến Ai Cập, trốn vào một nhà thờ Ky Tô giáo, nhưng bị bắt và chém đầu.
* Abdullar, chú của Abul-Abbas làm tổng trấn
* Một hoàng tử nhà Umayyad bơi qua sông Euphrat, cải trang chạy thoát sang Y Pha Nho dựng nên một đế quốc Hồi giáo phương Tây ở đây.
HồI Giáo BA TƯ: ARYANAM
Có lẽ cách nay năm ngàn năm, các sắc dân du mục, gốc Ả Rập, Thổ và Mông Cổ, từ các vùng phụ cận, đã xâm nhập vùng cao nguyên ngày nay là trung tâm của Iran. Vào cuối thiên niên kỷ III TK, dân tộc Elam tản ra từ đồng bằng Lưỡng Hà, leo lên rặng núi Zagros, đem theo nền văn hóa của họ pha trộn phần nào với văn hóa Sumer, vào giữa tk XI TK đã đạt đến một trình độ mỹ thuật phi thường, nhưng họ bị những đoàn người thuộc một giống Ấn-Âu gọi là A Lỵ A (Aryan) di cư từ Trung á, đông ngạn Biển Caspian, tiến vào đánh phá. Ðầu tiên, người giống Media (tức là người Mede) đến vào khoảng tk IX TK, định cư tại rặng núi Zagros; rồi độ một thế kỷ sau đến lượt người Persia (Ba Tư) dừng chân tại Pars (hay Fars) ở trung tâm cao nguyên, lấy nơi đó để phát triển văn hóa của họ và đặt tên đất nước của họ là Iran, do chữ aryanam nghĩa là đất của người A lỵ a. Cho đến năm 1935, Tây phương gọi Iran là Persia hay Persis (Ba Tư), do tên Pars.
Ngày nay, giống người này chiếm 50% dân số Iran, hầu hết nói một ngôn ngữ là tiếng Farsi, theo một tôn giáo là giáo phái Shia Hồi giáo. 50% dân số còn lại chia cho độ 400 sắc dân, quan trọng hơn cả là 12 triệu người Azerbaijan, 6 triệu người Kurd, đến làm nhiều đợt, định cư ở các vùng ven biên, trừ một số theo ngôn ngữ và văn hóa Ba Tư, hầu hết vẫn giữ ngôn ngữ và văn hóa riêng của từng sắc tộc, thí dụ 1.2 triệu dân Turkoman nói một thổ ngữ Thổ và theo giáo phái Sunni.
Trừ dân Kurd, toàn dân, dù theo tôn giáo khác và thuộc chủng tộc khác, đều có tinh thần dân tộc Ba Tư cao độ và tự coi là những người bảo tồn văn hóa cổ truyền Ba Tư và bảo vệ giáo phái Shia Hồi giáo. Sắc thái đặc thù này khiến
*
Từ khi sống chung hòa bình trên cao nguyên Iran, các dân tộc ở đó đã biết thờ Ahura Mazda là thiên lực thiện và giữ một ngọn lửa cháy thường trực trong đền để làm biểu tượng cho lực ấy. Zarathushtra, mà người Hi Lạp gọi là Zoroaster, hoàn chỉnh ý niệm này, lập ra Bái Hỏa Giáo (Zoroastrianism), đề ra thuyết nhị nguyên, Sáng Tạo là Ahura Mazda và Hủy Diệt là Ahriman, tiêu biểu cho thiện và ác, sáng và tối, sống và chết… Hai yếu tố này thường xuyên tranh đấu trong mọi phương diện của cuộc sống, cá nhân và xã hội. Hết tranh đấu thì sự sống cũng hết. Tranh đấu càng mãnh liệt thì cường độ sống càng tăng. Mỗi cá nhân có quyền tự do quyết định đứng ở chiến tuyến nào, Mazda hay Ahriman; tùy quyết định này, khi chết sẽ lên thiên đường hay sa hỏa ngục.
Cả hai dân tộc Media (Mede) và
Bái Hỏa Giáo đã bén rễ ở
Nhân vật làm ra lịch sử
Con ông cũng tên là Cambyses nối ngôi, đem quân vây hãm Ai Cập ba năm. Trong nước có loạn, ông đem quân về, chết dọc đường. Năm 521 TK, Darius 28 tuổi lên ngôi, cưới vợ góa của Cambyses và một người con gái của Cyrus để được công nhận là có quyền thừa kế. Nhưng dân vẫn nổi loạn khắp nơi, bị Darius dẹp trong biển máu. Sau đó, Darius cải tổ quân đội và hành chánh hoàn hảo đến nỗi La Mã phải bắt chước. Năm 517 TK ông đem quân vào Punjab, Ấn Ðộ ngày nay và Sind, thu hết vàng chở trên xe cải tiến, rồi kéo quân lên Bắc Phi đến tận Libya. Năm 512 ông tiến quân đến hạ lưu sông Danube, trên đường về, thần phục được vua
Năm 332 TK, A Lịch Sơn đại đế của xứ
Sau khi A Lịch Sơn chết vào năm 323 TK, các tướng của ông tranh nhau chia đế quốc ông để lại: tướng Antigonus chiếm Hi Lạp, tướng Ptolemy lấy Ai Cập và Palestine, tướng chỉ huy kỵ binh Seleucis chiếm phần còn lại, Syria, Tiểu á Tế á kể cả Ba Tư.
Cũng vào thời A Lịch Sơn chết, một sắc dân A Lỵ A từ phía đông biển Caspian đến định cư ở Ba Tư và đồng hóa với dân Ba Tư. Trong đám họ, năm 247 TK Arshak nổi lên chiến thắng đế quốc của Seleucis, lập ra triều đại Parthia; năm 163 TK Ba Tư thu hồi độc lập. Năm 36 TK, tại Azerbaizan, họ giết 35,000 trong số 100,000 quân của tướng Mark Antony khiến ông này phải chạy về Ai Cập với vợ là người đẹp Cleopatra, và đế quốc La Mã phải rút về tây ngạn sông Tigris, từ bỏ tham vọng bành trướng sang phía đông. Sau 160 năm đô hộ, văn hóa Hi Lạp vẫn không ảnh hưởng được văn hóa Ba Tư. Triều đại Pathia phóng khoáng, cho dân tự do tín ngưỡng, có công bảo vệ Ba Tư trong gần bốn thế kỷ (163 TK-224 SK).
Ardavan, vua cuối cùng của triều đại Pathia bị Ardashir (226-240 TK) giết để lập ra triều đại Sassania (208-637 SK). Nhận ra được rằng ngôi vua của ông chỉ có thể vững nếu được tôn giáo hỗ trợ, ông cùng các đạo sĩ (magi) phục hưng Bái Hỏa Giáo thành một lực lượng kiểm soát sinh hoạt tâm linh và vật chất của Ba Tư và bắt dân theo. Các nguyên tắc căn bản của Ba Tư, công bằng và độ lượng, không còn nữa. Dưới triều con Ardashir là Shapur I (240-271), Mani (sanh năm 216) xuất hiện ở một làng gần Ctesiphon ở Lưỡng Hà, tự xưng là tông đồ cuối cùng sau Zoroaster, Phật và Jesus, tổng hợp giáo lý của ba vị thành Mani Giáo (Manichaeism). Có lúc Mani được Shapur cho vào triều nhưng các đạo sĩ Bái Hỏa Giáo thấy địa vị bị lung lay bèn cho ông chết một cách từ từ và đau đón vô cùng. Một ông đạo khác là Mazdak nối gót Mani, cũng bị các đạo sĩ ám sát. Shapur I gây chiến với La Mã và trong chiến thắng thứ ba bắt được hoàng đế La Mã Valerian làm tù binh. Ông này chết trong tù. Năm 384 Shapur III (383-388) giảng hòa với La Mã. Năm 560 Khosrow I lên ngôi, thiên đô sang
Năm 626 Byzantine phản công, năm 628 đòi Armenia và Mesopotamia, lấy cớ dân hai nơi này đa số theo Ki tô giáo. Ba Tư lại đòi Syria, Palestine và Ai Cập, viện cớ các lãnh thổ này đã được Cambyses, con của Cyrus chinh phục năm 525 TK, tuy ở đó không có người Ba Tư hay người theo Bái Hỏa Giáo.
Hai bên tranh chấp chỉ lợi cho Ả Rập Hồi Giáo.
Năm 636 tám vạn quân tinh nhuệ của nhà Sassania đồn trú ở Qadisiya, một tỉnh nhỏ trên tây ngạn sông Euphrates, phải đối diện một vạn quân Ả Rập ô hợp cháy nắng, quần áo rách mướp bẩn thỉu mang khiên da bò và gươm cong, cưỡi lạc đà của Caliph Umar ibn al-Khattab (634-44). Hai bên cầm cự nhau đến tháng 6,637 tướng Rustam của nhà Sassania khiêu chiến nhưng thất bại, tử trận. Năm 638 Ctesiphon thất thủ, Yazdagird III, vua của các vua (shahanshah), bỏ chạy, triều đại Sassania sụp đổ; quân Ả Rập tiến vào hoàng thành Ctesiphon tráng lệ, cướp phá; sách qúy trong thư viện bị vứt ngổn ngang đầy đường. Lời dạy của Muhammad quả không sai, của cải Ba Tư là cốt để chia cho người Ả Rập. Của cải hôi được không biết cơ man nào mà kể, kích thích lòng tham của người Ả Rập, và quân đội Ả Rập quen mui đến năm 642 lại kéo sang đánh hai trận nhưng bị kháng cự mãnh liệt cho đến năm 648-9, giết được bốn vạn dân Ba Tư, xông vào hôi của ở Persepolis, năm 651 gom tất cả các lãnh thổ Ba Tư thành một quốc gia Ả Rập theo Hồi Giáo.
Hồi Giáo đã thay Bái Hỏa Giáo; Allah đã thay Ahura Mazda; Muhammad đã thay Zoroaster, Ummah thay vua, nhưng Ả Rập không thay được Ba Tư. Nguyên nhân của sự thay thế này là các đạo sĩ Bái Hỏa Giáo cũng như vua đã quên chức năng thiêng liêng của mình, say đắm trong phồn vinh, bắt dân chịu sưu cao thuế nặng để cống hiến cho họ phương tiện hưởng lạc, phản bội lý tưởng Ba Tư. Quân Ả Rập gầy ốm, đói rách và Hồi Giáo giản dị là những tương phản đầy hấp dẫn đối với quần chúng phẫn uất triều đình Sassania. Ahura Mazda đã bị các đạo sĩ Bái Hỏa Giáo giết chết rồi, họ đành chấp nhận Allah. Tuy nhiên không phải là không có sự chống đối lúc ban đầu.
Ðợt chống đối ban đầu là của các thầy cúng Bái Hỏa Giáo bị mất quyền lợi; đợt thứ nhì là của những người từ trước vẫn chống lại đám thầy cúng này, những người mà chúng gọi là theo tà giáo (heresy). Ðó là những người theo Mithras Giáo, Mani Giáo, và nhất là Mazdak Giáo, một thứ cộng sản chủ nghĩa tôn giáo, chống lại Hồi Giáo vì ý thức hệ; đợt thứ ba quan trọng hơn cả là của toàn dân Ba Tư, sau khi chấp nhận và hiểu Hồi Giáo, đã thấy là những người Ả Rập xâm lăng đất nước họ cũng bệ rạc không kém nhà Sassania và những người này theo phái Sunnah nên họ chống lại cả Sunnah lẫn Ả Rập.
Dù sao người Ba Tư vẫn có cái tự hào dân tộc. Vì hoàn cảnh lịch sử đưa đẩy, họ chấp nhận Hồi giáo và thích ứng với ngay cả văn hóa Ả Rập, ngôn ngữ, văn chương, mỹ thuật, kiến trúc nhưng vẫn bảo tồn được tinh túy Ba Tư. Họ coi Hồi giáo chỉ là vô minh (jahiliyat) và là Bedouin giáo (badviyat) cho đến khi người Ả Rập tiếp xúc được với các cộng đồng Ba Tư ở vùng Lưỡng Hà mới thật sự thành cái thứ Hồi giáo mà người Iran chịu tiếp nhận, sau khi đã cải tổ nó theo giáo phái Shia với văn hóa và căn tính Ba Tư. Tuy nằm trong khối Hồi giáo, Iran có một vị trí riêng là vì thế. Ðiều trớ trêu là tượng trưng cho giáo phái Shia của
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét