TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA
Soạn dịch: Thích Thiền Tâm
Phương Liên Tịnh Xứ
Phật lịch: 2518
TÂY PHƯƠNG NHỰT KHÓA
Chương I: PHI LỘ VÀ PHỤNG KHUYẾN
Hiện nay, người tu Tịnh độ càng ngày càng đông. Sở dĩ như thế, bởi môn Niệm Phật có những yếu tố:
1 Thích ứng cả ba căn
2 Gồm tự lực, tha lực
3 Giải thoát trong hiện kiếp
4 Hợp thời tiết cơ duyên
A NIỆM PHẬT THÍCH ỨNG CẢ BA CĂN.
Các pháp môn khác, nếu thấp thì bậc thượng căn chẳng thích tu. Và cao, tất bậc trung, hạ căn không tham tu. Chẳng hạn như về Thiền-tông, Đạo lý thật mầu nhiệm cao siêu, một niệm đi thẳng vào chân tâm sáng suốt, ứng dụng tự tại, vượt khỏi đầu sào trăm trượng, như nhạn bay giữa thái hư dấu vết chẳng còn lưu. Nhưng khúc điệu càng cao, người họa càng thưa ít. Nếu chẳng phải bậc tuệ căn gieo sẵn, chỉ e cho vẽ cọp không thành. Nêu cổ đức đã bảo: "chẳng phải căn thượng thượng. Dè dặt chớ khinh truyền" (phi thượng thượng căn, thận vật khinh hứa). Bởi nếu không phải bậc thượng căn triệt ngộ thiền cơ, thì chẳng thể nhập được ngay vào chân không, mà phần nhiều lại lạc vào lối chấp thiên không. Rồi từ đó bác phá nhân quả sự tướng, tăng lòng ngã mạn cống cao. Về điều này, trong Chứng Đạo Ca, Vĩnh Gia Huyền-Giác thiền sư có nói: "Nếu chấp cái không trống rỗng, rồi bác phá nhân quả, thì ương họa lan tràn!" (Hoát đạt không, Bác nhân quả, Mãng mãng đảng đảng chiêu ương họa! Chứng Đạo Ca). Thật ra, Thiền tông cần phải duy trì và phục hưng, cho chúng sanh được độ thoát an vui, vườn hoa Phật giáo thêm thắm tươi đầy đủ màu sắc. Nếu có, bậc tu thiền chân chánh làm lợi ích cho mình và người, cũng đáng nên cúi đầu đảnh lễ. Rất tiếc nhiều người mới vào cửa mầu thiền học, liền chuộng những huyền lý cao siêu, vội xem thường sự thờ cúng, tu phước, giữ giới, bác phá lễ Phật, sám hối, tụng kinh, cho ! là hành môn thấp nhỏ, chấp trước sự tướng. Cảnh trạng một kẻ mê đường dẫn nhiều người lạc lối, khiến cho ngay những bậc tôn đức bên Thiền trông thấy cũng thê lương cho Phật pháp, xót dạ đau lòng! Nếu huyễn sắc tức là chân không thì tham thiền, niệm Phật, tụng Kinh hay hành trì thì tất cả sự tướng trong đạo pháp, cũng đều là chân không. Bậc liểu đạt tùy niệm ứng dụng tự tại không dính mắc, như trái hồ lô lăn tròn trên mặt nước, can chi mà phòng ngại! Cho nên chư cổ đức bên Thiền đã cảnh giác: "Thiền tông nếu đi đúng tất mau chứng quả bồ đề, còn lạc lầm thì vào địa ngục như tên bắn!". Các pháp môn cao, với các bậc thượng căn mới được sự lợi ích thiết thật là như thế ấy.
Còn môn Tịnh độ thì thích ứng cả ba căn cơ: thượng, trung, hạ. Bậc thượng thượng căn như các ngài: Văn Thù, Phổ Hiền, Long Thọ, Trí Giả và các bậc cao đức xưa nay, phần nhiều đều tu về môn này. Như trong Kinh Hoa Ngiêm, Thiện Tài đồng tử khi tham phỏng bậc tri thức đầu tiên là Đức Vân Bồ tát, ngài Đức Vân đã đem môn Niệm Phật tam muội mà truyền dạy. Đến lúc cuối cùng, Phổ Hiền đại sĩ cũng nói Mười đại nguyện vương, khuyên Thiện Tài và chư vị Bồ Tát trong Hoa Tạng hải hội niệm Phật hồi hướng về Cực Lạc. Do đấy, nếu bảo niệm Phật là pháp môn thấp kém, chỉ để cho hạng tầm thường ngu dốt tu, là quan niệm rất sai lầm!
Đến các bậc hạ căn, thì trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục đã ghi chép các sự tích. Kẻ ngu muội dốt nát, phá giới phạm trai, nghèo khổ tật nguyền, cho đến loài chim theo lời người dạy xưng Danh hiệu Phật, biết hồi tâm sám hối, tri niệm chuyên thành, đều được nguyện lực của Phật nhiếp thọ, tiếp dẫn sanh về Cực Lạc. Cho nên một bậc danh đức xưa đã khen môn Tịnh độ là: Bảo phiệt ra khỏi Ta Bà. Huyền môn để thành Phật đạo. (Xuất Ta Bà chi bảo phiệt. Thành Phật đạo chi huyền môn). Cũng trong ý đó, Ấn Quang đại sư có câu đối: "Bỏ đường tắt Tây phương, chín giới chúng sanh, trên khó thể viên thành quả giác. Lìa cửa mầu Tịnh độ, mười phương chư Phật, dưới không toàn độ thoát loài mê". Nói theo kinh, pháp môn Niệm Phật quả thật như chiếc lưới báu cực to, có thể vớt tất cả loài cá lớn nhỏ trong tam giới, đưa lên bờ Niết Bàn vậy.
B NIỆM PHẬT GỒM TỰ LỰC, THA LỰC
Trừ Tịnh độ và Mật tông, các pháp môn khác đều nương vào tự lực, tức là sức tu của chính mình, để cầu giải thoát. Luận riêng về Tịnh độ, thì môn này gồm cả tự lực và tha lực. Tự lực là sức trì niệm của mình; tha lực là sức nhiếp thọ hộ niệm trong hiện tại và sự tiếp dẫn vãng sanh của Phật khi lâm chung. Có kẻ bảo người tu môn Niệm Phật là hèn yếu, chỉ ỷ vào tha lực, cũng là quan niệm cạn cợt sai lầm. Hành giả Tịnh độ, thân kính lễ Phật, miệng xưng danh Phật, ý chuyên tưởng Phật, nhiếp tâm từ loạn vào định, cho đến cả khi đi đứng nằm ngồi. Vận dụng cả ba nghiệp để hành trì, cố gắng hết sức mình, đó là chứng minh thực tế và hiển nhiên về tự lực. Như thế tại sao lại bảo niệm Phật là hèn yếu, chỉ ỷ lại vào tha lực? Cho nên niệm Phật chính là đem hết tự lực của mình để cảm thông với tha lực của Phật, cứu cánh dung hòa với tự và tha, tâm và Phật, đi sâu vào Chánh ức niệm tam muội. Bước đầu tiên khi đã có sự cảm thông, thì hành giả sẽ được Phật phóng quang minh thường trụ nơi đảnh nhiếp thọ, hiện tiền tiêu trừ tội chướng tai bịnh, phước huệ lần tăng, khi mãn phần lại được tiếp dẫn sanh về Cực Lạc.
Sỡ dĩ người xưa nay khi đề cập đến môn Tịnh độ, phần nhiều nhấn mạnh về tha lực, đó là hàm ý chú trọng sự tiếp độ đến chỗ giải thoát! Vì nếu không được sức Phật nhiếp thọ tiếp dẫn, thì đạo lực tầm thường của hành giả không thể sanh về cõi Cực Lạc cách đây mười môn ức Phật độ. Bởi dù cho đạo lực của bậc lục thông La Hán, cũng chỉ ở phạm vi thấy biết dạo đi trong cõi tam thiên đại thiên, thuộc thế giới Ta Bà này mà thôi. Và khi còn hoặc nghiệp mà không được tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc bước lên cảnh giới Bất thối chuyển nương nơi thắng duyên của cõi ấy mà tiến tu, tất phải tùy nghiệp chịu luân hồi, không biết khi nào mới được giải thoát! Vì sự vãng sanh có điểm rất quan hệ như vậy, nên tha lực của Tịnh độ được chú trọng nhiều, khiến cho kẻ nông cạn vội nhận lầm là môn này chỉ ỷ lại vào tha lực, không cần tự lực.
Đến đây, thấy nên giải thích thêm vài điểm nghi vấn. Có kẻ hỏi: "Bậc Bồ Tát chứng vô số sanh nhẫn đã dứt hoặc nghiệp thoát khỏi luân hồi, cần chi phải cầu về Cực Lạc? Và các vị ấy có thần thông đi đến vô lượng thế giới, lại cần chi niệm Phật để cầu sự tiếp dẫn?". Xin đáp: "Theo Kinh nói: Sự cất chân lên để bước xuống của Phật, bậc Đẳng giác Bồ Tát còn không thấu hiểu huống chi hàng thập địa Bồ Tát! Các vị ấy tuy dứt kiến tư và trần sa hoặc, song vô minh hoặc hãy còn, nên cần phải gần gũi Phật để học pháp thành Phật. Thật ra, chư đại Bồ Tát có hai việc: trên cầu về mười phương tịnh độ để học vô lượng pháp môn của Như Lai, dưới hiện thân khắp mười phương uế độ để giáo hóa các loài hàm thức. Pháp thân của chư vị thường trú, tuy ở cõi tịnh mà không lìa cõi uế, và dù ở uế độ vẫn không rời Tịnh độ. Còn việc Bồ Tát niệm Phật để cầu tiếp dẫn, ví như một học giả đến viếng bậc thầy của mình, tuy có thể tự tại đi vào nhà, nhưng theo lễ phải xin phép. Và vị thầy đúng theo tâm niệm dìu dắt hàng hậu lai, cũng vui vẻ tiếp đón. Việc chư Bồ Tát muốn về Cực Lạc niệm hồng danh Phật để cần cầu, và Đức Phật tùy bản nguyện để tiếp dẫn cũng lại như thế. Nhưng sự tiếp dẫn của Phật tùy niệm ứng hiện trong một sát na có thể đồng thời đến vô biên thế giới ở mười phương, tiếp dẫn số chúng sanh như vi trần, như gương trăng sáng hiện bóng khắp các điểm nước, sông, hồ, đâu c�! � tưởng đến đi và đâu có chi nhọc mệt mà phòng ngại!".
C NIỆM PHẬT GIẢI THOÁT TRONG HIỆN KIẾP
Với các pháp môn khác, hành giả phải dứt trừ hết hoặc nghiệp mới vượt sự sống chết luân hồi. Riêng môn Tịnh độ dù cho hoặc chướng hãy còn, vẫn có thể hiện đời nương nơi nguyện lực của Phật, đới nghiệp vãng sanh, tiến thẳng lên bờ giải thoát. Về điểm này, trong bức thơ phúc đáp cho Tịnh Tu pháp sư, ngài Ấn Quang đã nói như sau:
"Có hai đường tiến đến chỗ giải thoát là: Thánh đạo và Vãng sanh:
Về Thánh đạo, tức đường tu chứng lên quả thánh không chỉ thẳng tắt mau lẹ hơn môn Trực chỉ thiền. Nhưng tu thiền giữa thời này, trong hiện đời chưa dễ gì ngộ đạo, huống chi là chứng đạo? Nếu không chứng quả, trong mười người đã lạc lối hết tám chín, bởi khi luân hồi sẽ bị nhiều duyên làm cho thối chuyển, dễ mê muội túc căn. Tu thiền, nếu chứng được sơ quả Tu đà hoàn, tuy còn bảy lần sanh lên cõi trời, bảy phen trở lại nhơn gian, nhưng sẽ không còn lo thối chuyển. Khi chứng đến quả A la hán, mới dứt hẳn luân hồi. Ngoài ra thì không nhất định. Có kẻ hiện đời tu hành rất tốt, kiếp sau được hưởng phước, say đắm theo dục lạc, tạo nghiệp ác rồi bị đọa vào địa ngục. Dù cho năm ba đời giữ được thiện căn, không tạo nghiệp ác, song ai có thể đảm bảo những kiếp về sau lại chẳng gây nghiệp rồi bị đọa tam đồ! Chẳng nói đâu xa ngay trong đời hiện tại, rất nhiều hành giả trước siêng năng sau biếng trễ, đạo tâm dần dà thối chuyển, đến nỗi có kẻ phải hoàn tục. Những đời về sau, theo đà mạt kiếp, Phật pháp lần suy kém, bậc tri thức rất khó tìm, sự giải thoát lại còn xa hơn nữa.
Riêng có đường lỗi Vãng sanh, là niệm Phật cầu về Tịnh độ, thì dù cho hoặc chướng hãy còn, vẫn có thể nương theo nguyện lực tiếp dẫn của đức A Di Đà, vượt ngang ba cõi, đới nghiệp thẳng sang Cực Lạc. Thật ra, cũng như bên Thiền, giữa thời mạt pháp này, người tu Tịnh độ đến cảnh giới Sự nhứt tâm bất loạn rất là ít có, huống chi cảnh Lý nhứt tâm, là đi sâu vào niệm Phật tam muội! Nhưng nếu thuở bình nhật mỗi ngày chuyên cần trì niệm, khi lâm chung chủng tử của câu hồng danh đã huấn tập từ lâu phát hiện, liền khiến cho tạm thời được nhứt tâm. Lúc ấy chỉ cần gia thêm ý niệm tha thiết, rũ sạch trần duyên hướng về liên quốc, quyết định sẽ được cảm thông tiếp dẫn. Khi đã về cõi ấy rồi, trên có Phật, Bồ Tát, dưới là các hàng thượng, thiện nhơn, nước chảy chim kêu nói ra pháp diệu, không còn bị các duyên ăn mặc ở và việc sanh kế (y, thực, trụ, hành) làm vướng bận, sống lâu vô lượng kiếp, lo chi đạo quả không thành! Pháp sư đã hỏi, tôi chỉ y theo chỗ thấy hiểu của cổ đức và căn cứ nơi Phật lý mà giải đáp, xin gẫm kỹ rồi tùy tâm lựa chọn ".
Lời trên đây của đại sư, đã vạch rõ chỗ ổn đáng và khó bảo đảm trên đường giải thoát của thời nay, giữa Tịnh cùng Thiền.
D NIỆM PHẬT HỢP THỜI TIẾT CƠ DUYÊN
Trong thời Chính pháp và Tượng pháp, con người phần nhiều nghiệp nhẹ tâm thuần, hoàn cảnh sinh hoạt giữa xã hội lại đơn giản, có thể tu các Pháp môn về Thánh đạo. Thời ấy, Thiền tông đặc biệt hưng thịnh, hành giả căn cơ sáng lẹ, thấy non xanh hoa nở, nghe gió thổi suối reo đều có thể ngộ đạo. Nhưng từ thời Mạt pháp về sau, nhân tâm khác xưa, sự sinh hoạt tổ chức giữa xã hội dần dần phức tạp, căn cơ người tu phần nhiều là bậc trung hạ. Cho nên muốn đảm bảo sự giải thoát, cần phải hướng về pháp hợp thời tiết cơ duyên là môn Niệm Phật. Về điều này, xin hướng dẫn những chứng liệu sau:
- Trong kinh Đại Tập, Đức Thích Tôn đã huyền ký: "Thời Mạt pháp ức chế kẻ tu hành, song ít có người đắc đạo, chỉ nương theo Pháp môn Niệm Phật mà thoát khỏi luân hồi". (Mạt pháp ức nhơn tu hành, hản nhứt đắc đạo. Duy y Niệm Phật đắc độ sanh tử – Đại Tập Nguyệt Tạng Kinh). Nơi Kinh Vô Lượng Thọ, Phật cũng bảo: "Trong đời tương lai, khi kinh đạo diệt hết, ta dùng sức từ bi thương xót, riêng lưu trụ kinh này một trăm năm. Chúng sanh nào gặp kinh này, tùy theo sở nguyện, đều có thể đắc độ". (Đương lai chi thế, kinh đạo diệt tận, ngã dì từ bi ai mẫn, đặc lưu thử kinh chỉ trụ bá tuế. Kỳ hữu chúng sanh trị tư kinh giả; tùy ý sở sở nguyện, giai khả đắc độ – Vô Lượng Thọ Kinh). Đức Như Lai là bậc trí tuệ rộng sâu, vì sao chẳng lưu các pháp kia, mà chỉ lưu môn Tịnh độ? Đó là thâm ý Phật đã chỉ rõ: Thời Mạt pháp về sau, đường tu hợp với cơ duyên chúng sanh, chỉ là môn Tịnh độ.
- Nơi đoạn Minh Giáo của An Lạc Tập, Đạo Xước thiền sư lại có lời bình luận: "Nếu giáo pháp hợp thời cơ, thì dễ tu dễ ngộ. Như giáo pháp trái thời cơ, tất khó tu khó nhập. Nên Kinh Chánh Pháp Niệm nói: – Hành giả khi nhứt tâp cầu đạo, phải quan sát về phương tiện thời cơ, nếu trái với phương tiện đó, tất bị thất lợi. Tại sao thế? Như cọ gỗ ướt để tìm lửa thì không thể được, vì trái thời. Và như bẻ cây khô để tìm nước, cũng chẳng thể có, vì không trí tuệ – Đức Như Lai đã phân định năm thời kiên cố sau khi Ngài nhập diệt, mỗi thời là năm trăm năm, trong các thời Chánh pháp và Thiên định kiên cố, hành giả nên chọn Thánh Đạo, tu định huệ làm phần chánh, cầu Tịnh độ làm phụ. Từ cuối thời Đa văn bước sang thời Tháp tự và Đấu tranh kiên cố về sau, nên lấy Tịnh độ làm phần chánh, tu Thánh đạo làm phụ".
Ngoài những chứng liệu trên, còn lời huyền ký của bậc chân tu đắc đạo là Thiên Như thiền sư, cùng những điểm nhận định và biện chứng của các bậc danh đức xưa nay. Trong phạm vi khái ước này không thể nêu ra hết được. Bên Trung Hoa từ cuối đời nhà Tống về sau, các bậc tôn đức quan sát rõ thời cơ, đều chuyển lần từ Thiền trở sang xiển dương Tịnh độ. Tuy nhiên vì Thiền tông lưu hành hưng thạnh từ lâu đã thành phong thái, nên thường có sự tranh đua giữa Tịnh và Thiền. Song le, đó chỉ là kiến chấp của một số người chưa quán triệt Phật lý cùng thời cơ, còn các bậc cao tăng đã liểu đạt, thì chỉ tùy duyên mà duy hộ Chánh pháp, tuyệt không tâm niệm phân biệt kia đây. Cứ trung thật mà luận, chúng hữu tình có nhiều tâm bịnh cùng sở nguyện, riêng một môn Tịnh độ vẫn không thể phổ cập và thích ứng để hoằng dương chánh pháp lợi lạc quần sanh, nên rất cần sự có mặt của các Pháp môn. Theo thiển ý, trong thời Mạt pháp, hành giả các tông khác tuy hoằng truyền bản môn, nhưng cũng nên nghiên cứu Tịnh tông và quy hướng về lối vãng sanh để bảo đảm cho sự giải thoát như chư tôn đức bên tông Tào Động ngoài hoằng Thiền trong kiêm tu Tịnh khi xưa. Và người tu Tịnh độ cũng cần học hỏi các tông khác để thêm tiến ích cho đường hành đạo của mình, bởi mỗi tông như những đóa hoa đều sáng tươi riêng phần đặc sắc. Lời dẫn luận trên chỉ y theo quan điểm từ mẫn lợi sanh của Phật và chư cổ đức, nêu ra một đường lối tu tập thích ứng với thời tiết cơ! duyên mà thôi.
Ở Trung Hoa và thời cận đại, có phong trào chấn hưng Phật giáo do một số danh tăng và Phật tử trung kiên cổ xúy. Quan sát hành vi lúc sanh thời và khi lâm chung của ít người trong nhóm ấy những biểu tượng mà thường nhơn không thể có được nhiều nhà Phật học quả quyết đó là bậc Bồ Tát tái lai để duy hộ Chánh pháp. Trong hạng người phi thường ấy: – Đế Nhàn pháp sư giảng Kinh khắp nơi, chấn hưng về Thiên Thai Tông Hư Vân thượng nhơn tu chính các danh lam, chấn hưng về Thiền Tông – Ấn Quang đại sư dùng thư tín kinh tượng độ vô số người, chấn hưng về Tịnh độ tông Hoằng Nhứt luật sư nghiêm giữ giới hạnh, soạn thành Nam Sơn Luật Uyển Tòng Thư, chấn hưng về Luật tông Thái Hư đại sư vận động cuộc cách tân Phật giáo, chấn hưng về Duy Thức Tông Kim Cang thượng sư Hô Đồ Khắc Đồ từ Tây Khang đến truyền dương về Mật tông. Đến như cư sĩ Dương Nhân Sơn trọn đời thành lập bang hội sưu tầm và ảnh ấn các tượng Phật, Bồ Tát và tam tạng Kinh điển để cho chánh pháp khỏi bị sớm hủy diệt về sau.
Riêng ngài Ấn Quang đã đem sự vãng sanh lúc lâm chung, chứng minh cho lời nói và hành động buổi bình thời, thì không cần bàn luận. Còn Đế Nhàn pháp sư tuy hoằng dương Kinh Pháp Hoa, truyền dạy môn tam quán, nhưng lúc lâm chung vẫn theo gót đấng Khai tổ bản tông là Thiên Thai trí giả, niệm Phật sanh về Cực Lạc. Hư Vân thượng nhân tuy thị hiện ngộ đạo, làm mô phạm hướng dẫn hành giả tu thiền, song khi gặp hoàn cảnh cơ duyên, cũng khuyên người niệm Phật. Hoằng Nhứt luật sư lưu lại bút tích Bi Hân Giao Tập lúc lâm chung, khi thấy Tây phương tam Thánh đến rước. Thái Hư đại sư tuy hoằng dương Duy Thức, song hằng khen ngợi mười phương Tịnh độ, nhưng vì không muốn trái với ứng tích của đấng khai tổ là Di Lặc Bồ tát, nên hồi hướng cầu sanh Đâu Suất tịnh độ. Thượng sư Hô Đồ Khắc Đồ tuy truyền pháp Thánh Cứu Độ Phật Mẫu gồm 21 Độ Mẫu, hóa thân của đức Quán Thế Âm để cứu nạn tai thời mạt kiếp, song cũng khuyên hàng đệ tử đem công đức trì niệm hồi hướng về Cực Lạc. Dương Nhân Sơn cư sĩ lúc mãn phần, ngồi chắp tay nói với các hang đạo hữu: "bản nguyện tôi cùng bản nguyện đức A Di Đà dung hợp nhau", rồi niệm Phật mà hóa. Có phải chăng các bậc danh đức trên đây, tuy mỗi người làm một Phật sự, song đã dùng bản thân hoặc lời nói, mà ngầm khuyên các hành giả chú trọng về sự giải thoát vãng sanh.
E LUẬN VÀ NGƯỜI VÀ CẢNH THỜI NAY
Nói chung trên phương diện hoằng dương đạo pháp, mỗi tông đều phát huy những đặc điểm của mình, để người học Phật tùy sở thích mà thu nhập, nhưng bình tâm thử nghiệm xét, lúc này là thời buổi nào?
- Thời nay, luận về người thì chúng sanh phần nhiều đều nặng nghiệp. Bên Trung Hoa, khoảng cuối đời Thanh bước sang Dân Quốc, cư sĩ Hạt Niên khi hỏi đạo nơi các danh lam, gặp một vị cao tăng ẩn tu bảo: "Thời nay, trong một trăm kẻ ác, mới có một người thiện. Trong một trăm kẻ thiện, mới có một người hướng về đạo. Trong một trăm kẻ hướng về đạo, mới có một người giữ vững tâm nguyện, không thối chuyển trên bước tu hành. Thuở xưa, trong lúc phú pháp cho Huệ Khả đại sư, Tổ Đạt ma có dạy: "Khoảng hai trăm năm về sau, người học lý thì nhiều, song ngộ lý rất ít". Nên ý thức, chỉ riêng bước đầu là phần học Phật lý, nhiều kẻ nếu chẳng vướng về chấp có, giữ chặt lấy sự tướng; cũng lạc vào chấp không, bài bác nhân quả. Mấy ai là bậc hiểu sâu Phật thừa, liểu, ngộ diệu hữu tức chân không, chân không điều diệu hữu? Cư sĩ tuy mộ đạo, song dè dặt đừng sa vào kiến chấp đó!". Cao Hạt Niên có hỏi đến chỗ tiến chứng của nhiều bậc trưởng lão. Tất cả điều khiêm nhường và thành thật trình bày, đại khái như: nghiệp chướng nặng còn nhiều tán loạn hôn trầm, giới hạnh oai nghi kém khuyết bước tu chưa đạp đến thật địa Khi cư sĩ đề cập đến những kẻ xưng mình đã chứng ngộ, thì các vị ấy cảnh giác: "Theo Kinh Lăng Nghiêm, đức Phật đã huyền ký: – Gần thì thập thế (mỗi thế 100 năm), xa thì bách sanh (mỗi sanh 30 năm), có rất nhiều ma ngoại ám nhập người tu, hoặc ẩn bóng chánh pháp Thời buổi này, nếu có ai tự xưng đã chứ! ng ngộ, hoặc bảo mình là Phật, Tổ hiện thân, đó đích thị là hàng ma ngoại". Những điều trình thuật trên đây, cho chúng ta thấy con người thời nay hoặc nghiệp và ma chướng quá nhiều!
- Luận về cảnh, thì những tai nạn: Động đất, núi lở, bão lụt, trộm cướp, chiến tranh, lửa cháy, hạn hán, mưa nắng trái trời, sâu trùng phá hoại, dịch chướng tràn lan, đã diễn ra ở nhiều nơi. Nhìn đến tương lai, trận thế chiến thứ ba chắc đâu đã khởi! Các phái Tiên đều bảo buổi này là thời mạt kiếp, có sự thanh lọc rộng lớn. Đạo Chúa nói sẽ có tận thế trước năm hai ngàn. Còn riêng đạo Phật, khi Hư Vân thiền sư xuất thân lên cung trời Đâu Suất, được nghe Di Lặc Bồ Tát nói pháp môn Duy tâm thức định. Nơi đoạn kết thúc, Bồ Tát đọc bài kệ dài trong ấy có mấy câu: "Kiếp nghiệp đương đầu. Cảnh tích phổ giác. Khổ ải từ hàng. Vô linh thối khước". Đại ý, đức Di Lặc bảo: – Ở trần giới, tam tai tiểu khiếp đã bắt nguồn, gồm các nạn: đói khát, tật dịch và chiến tranh. Bồ Tát khuyên Thiền sư và những hành giả đạo Phật, nên làm chiếc thuyền từ trong biển khổ, nhắc nhở chúng sanh thức tỉnh trước các tai nạn ấy, mà gắng lo tu hành, đừng để thối chuyển Nói khái quát, đi sâu vào thời mạt pháp, chúng sanh nghiệp nặng, thế giới nạn tai, cảnh nước lửa lầm than đã hiện ra trước mắt. Thời buổi này, thật ra còn không nên có sự phân biệt giữa các tôn giáo, huống chi trong môn phái Đạo Phật! Hiện nay các đạo đều thi nhau dong con thuyền tế độ giữa cảnh sóng gió trầm luân. Thần đạo thì thuộc phái trở về cảnh giới thần. Tiên đạo độ những người c! ó căn tiên. Thiên đạo độ những vị thiện tâm về các cõi trời. Còn Phật đạo, tất phải khuyên kẻ hữu duyên về nơi Phật cảnh.
G VÀI ĐIỀU THIẾT YẾU
Đoạn trên, tệ nhơn đã trình bày môn Tịnh độ qua bốn yếu điểm, luận nhơn và cảnh thời nay, khái lược các điều quan yếu, để phụng khuyến đồng bạn trong biển mê tối trầm luân, cùng hướng bước về nẻo sáng suốt an lành của Tịnh độ. Đó là phần lý thuyết, còn thực hành sẽ có nghi thức ở chương sau.
Trong khi trình luận, có mấy điểm đề cập đến giới hạn giữa Tịnh và Thiền, cũng bởi vài lý do bất đắc dĩ và cần thiết: 1 Vì một ít vị học Thiền bài bác tụng kinh niệm Phật qua nhiều điểm, khiến đa số Phật tử bối rối hoang mang hỏi đến nên bất đắc dĩ phải biện minh. 2 Vì nương theo gót từ bi của Phật và chư tôn đức, đã nói về pháp hợp thời cơ để làm lợi ích cho người học đạo, nên cần thiết phải giải thích. Bởi nếu nói pháp chẳng hợp cơ, tất chúng sanh chìm trong bể khổ. (Thuyết pháp bất đậu cơ, chúng sanh nột khổ ải).
Thật ra, tệ nhơn rất mến thích Thiền tông và có thể bảo là có căn về môn ấy. Nói mến thích vì Thiền tông có những đặc điểm của nó. Chẳng hạn như, khi đọc giả đến hỏi một thiền sư: "Thế nào là đạo?". Sư đáp: "Một áng khói mây phong cửa động. Muôn chim về tổ chợt mê đường!". Chỉ dùng hai câu vừa văn nhã, vừa giản dị bao quát để phá những khái niệm phân biệt về đạo, đưa vào chân tâm, Thiền tông đã tỏa ra một hương vị thanh thoát. Lại như câu chuyện: – Khi ngài Pháp Nhãn hỏi Như Tắc thiền sư: "Sao chưa từng thấy Giám viện đến phỏng đạo?". Như Tắc đáp: "Tôi đã có chỗ sở nhập do sư Thanh Lâm khai thị. Vì khi tôi hỏi: "Thế nào là Phật? Thanh Lâm đáp: "Bính đinh đồng tử đi tìm lửa!". Pháp Nhãn bảo: "Khá hay! Nhưng e ông chưa hiểu, vậy thử tỏ bày chỗ kiến giải xem sao?" Như Tắc thưa: "Bính đinh thuộc hành hỏa, tức là lửa, đem lửa tìm lửa, cũng như chính là Phật mà lại đi tìm Phật!" Pháp Nhãn nói: "Quả nhiên Giám viện hiểu sai rồi!". Như Tắc không tỏ ra sắc giận, quay mình bỏ đi. Pháp Nhãn bảo thị giả: "Người này trở nếu trở lại thì cứu được, bẳng không chắc chẳng thể cứu độ". Tắc thiền sư đi nữa đường, bổng suy nghĩ: "Ông ta là bậc thiện tri thức của đại chúng gồm năm trăm vị, chẳng lẽ lại trêu mình?" Liền trở lại, sám hối cầu khai thị, Pháp Nhãn bảo đề khởi lại câu hỏi trước. Sư liền đãnh lễ thưa: "Bạch tôn đức! Thế nào là Phật?"! Pháp Nhãn đáp: "Bính đinh đồng tử đi tìm lửa!" Nghe xong, Như Tắc chợt tỏ ngộ. Lối giải đáp của ngài Pháp Nhãn là động ngay ý thức tìm cầu về Phật đã sẵn có của Như Tắc thiền sư, hốt nhiên đưa sư vào cảnh giới siêu thức. Cảnh giới tỏ ngộ ấy sâu hay cạn thế nào, đều không phải lời nói, tâm tư có thể đến được, chỉ do đương nhơn tự biết lấy, như chính mình thể nhận khi uống nước nóng hoặc lạnh mà thôi. Và đây cũng lại là một hương sắc thơm đẹp của bên Thiền.
Còn nói có căn về Thiền, vì tệ nhơn lúc trẻ tuổi đang trên đường học đạo, một hôm đứng tựa gốc cây, bổng nhiên muôn niệm điều tiêu tan, tâm cảnh thoát vào cõi rất mực an tĩnh nhẹ nhàng sáng suốt. Cảnh thoát trần không thể diễn tả ấy, chỉ kéo dài không đầy năm phút. Khi hoàn lại trạng thái cũ, tệ nhơn suy nghĩ biết đó là lúc tu tập về tu thiền trong một tiền kiếp của mình. Từ ấy hằng ưa thích thiền tư tĩnh tọa. Trên bước tu, tuổi càng lớn, sự lịch duyệt càng sâu, tự xét mình thiện căn tuy có song hoặc nghiệp còn nhiều, lối luận thuyết cao siêu, sự hiểu biết chút ít về đạo, không thể đưa đến chỗ giải thoát được. Do đó lần lần hướng về Tịnh độ, sám hối niệm Phật, cầu nguyện lực của Như Lai hộ trì tiếp dẫn.
Đến nay, thành thật mà nói: gương tánh hãy còn mờ, gót tu chưa ổn, căn thân chẳng tịnh, hạnh kiểm còn sơ. Soi gương Bá Ngọc, hơn năm mươi vẫn thấy lỗi lầm. Hướng gót Triệu Châu, tuổi tám chục còn mong học hỏi. Với danh phận xuất gia, tự thấy còn chưa xứng đáng, chẳng qua trên cương trường hoằng hóa, phải cố gắng đóng cho trọn vai tuồng của mình đó thôi. Nhìn đến tương lai, xét về bổn phận, xin mượn hai câu sau để tự diễn tả:
Quý Tử áo thô nhiều vẻ thẹn
Lưu lang suối cũ luống bàng hoàng!
Chương II NGHI THỨC MẬT TỊNH
(Từ đây trở về sau, những đoạn nào có khép vòng đơn, là các điều căn dặn hoặc dẫn giải, in bằng chữ nghiêng. Chữ lớn là phần xướng tụng hành trì. Trải nhiều năm kinh nghiệm, tệ nhơn xét thấy các hành giả thời nay có những ma chướng, mà đạo lực kém yếu của phần đông người mạt pháp khó nỗi vượt qua. Đó là những ma chướng nội tâm, ma chướng ngoại cảnh, và ma chướng thuộc giới vô hình. Vì thế, sau khi nghiêm cứu trong đại tạng, tệ nhơn đã dựa vào kinh nghiệm của chính mình và nhiều hành giả khác thuật lại, dung hợp môn tu Tịnh độ thuộc Mật giáo cùng Hiển giáo, soạn ra nghi thức này. Trong đây chú trọng về sự khái quát đơn giản, lời gọn mà ý tứ đầy đủ. Pháp nghi nơi sa chia làm ba phần: Lễ bái sám hối, Trì chú niệm Phật và Phát nguyện hồi hướng. Xin lưu ý, pháp nghi chỉ là hình thức, là khuôn mẫu, để cho hành giả nương nơi sự tướng tiến tu mà hướng về chân cảnh. Còn tiến trình sâu hay cạn, thấp hay cao, công đức ít hoặc nhiều, còn tùy tâm chí thành, sức trì niệm của hành giả.)
A PHẦN LỄ BÁI SÁM HỐI
(Trước tiên rửa tay rửa mặt, lễ phục nghiêm chỉnh. Khi đến nơi lễ tụng, hành giả dùng ấn Kiết tường, tay trái ngón cái nắm co đầu ngón tay vô danh, vẽ và tưởng chữ Rain sắc trắng trong lòng tay mặt ba lần. Rồi tay mặt cũng kiết ấn vẽ vào lòng tay trái y như vậy. Kế tiếp đốt hương rồi bước lui đứng chắp tay trước bàn Phật, đọc bài kệ tán:)
Sắc thân Phật mầu đẹp
Trong đời không ai bằng
Khó sánh ví, nghĩ bàn
Nên nay con đảnh lễ
Sắc thân Phật vô tận
Trí tuệ cũng như thế
Tất cả pháp thường trú
Nên nay con quy y
Bi, trí, nguyện lực lớn
Độ khắp cả hàm linh
Khiến bỏ thân nhiệt não
Sanh về cõi thanh lương
Nay con tịnh ba nghiệp
Quy y và lễ tán
Nguyện cùng các hữu tình
Đồng sanh về Cực Lạc
(Hành giả có thể đọc bài kệ tán khác mà mình thích)
Phổ lễ chân ngôn
1. Aum! Vàjra vãt
(Đọc: Um! Va ji ra vắt (7 lần). Trong khi tụng chú, kiết ấn kim cang hiệp chưởng để trên đầu, chắp hai tay lại ngón so le, hữu áp tả. Theo Mật giáo, nên tưởng mình hiện thân khắp Pháp hội mười phương lễ chư Phật, xong xả ấn ngay nơi đảnh).
1 Chí tâm đảnh lễ: Hoằng dương môn Tịnh độ, Thích Ca Mâu Ni Phật, trăm ngàn ức hóa thân, khắp pháp giới chư Phật. (1 lạy)
2 Chí tâm đảnh lễ: Thường tịch quang Tịnh độ, A Di Đà Như Lai, pháp thân màu thanh tịnh, khắp pháp giới chư Phật. (1 lạy)
3 Chí tâm đảnh lễ: Thật bào trang nghiêm độ, A Di Đà Như Lai, thân tướng vi hải trần, khắp pháp giới chư Phật. (1 lạy)
4 Chí tâm đảnh lễ: Phương tiện thánh cư độ, A Di Đà Như Lai, thân trang nghiêm giải thoát, khắp pháp giới chư Phật. (1 lạy)
5 Chí tâm đảnh lễ: Cõi Cực Lạc phương tây, A Di Đà Như Lai, thân căn giới đại thừa, khắp pháp giới chư Phật. (1 lạy)
6 Chí tâm đảnh lễ: Cõi Cực Lạc phương tây, A Di Đà Như Lai, thân hóa đến mười Phương, khắp pháp giới chư Phật. (1 lạy)
7 Chí tâm đảnh lễ: Cõi Cực Lạc phương tây, giáo hạnh lý ba kinh, y chánh đều tuyên dương, khắp pháp giới Tôn Pháp. (1 lạy)
8 Chí tâm đảnh lễ: Cõi Cực Lạc phương tây, Quán Thế Âm Bồ Tát, thân tử kim muôn ức, khắp pháp giới Bồ Tát. (1 lạy)
9 Chí tâm đảnh lễ: Cõi Cực Lạc phương tây, Đại Thế Chí Bồ Tát, thân trí sáng vô biên, khắp pháp giới Bồ Tát. (1 lạy)
10 Chí tâm đảnh lễ: Cõi Cực Lạc phương tây, Mạn Thù (Mànjuri) Đại Bồ Tát, thân thị hiện trí màu, khắp pháp giới Bồ Tát. (1 lạy)
11 Chí tâm đảnh lễ: Cõi Cực Lạc phương tây, Phổ Hiền Đại Bồ Tát, thân hạnh nguyện sát trần, khắp pháp giới Bồ Tát. (1 lạy)
12 Chí tâm đảnh lễ: Cõi Cực Lạc phương tây, Thanh Tịnh đải hải chúng, thân phước trí trang nghiêm, khắp pháp giới thanh chúng. (1 lạy)
(Kế tiếp quỳ trước bàn Phật, chắp tay chí thành, đọc kệ sám hối):
Quy mạng mười phương Phật
Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng
Tam thanh cõi Cực Lạc
Xin thương xót chứng minh
Vô thỉ kiếp đến nay
Con mê lạc luân hồi
Do bởi tham, sân, si
Từ nơi thân, khẩu, ý
Tạo Tứ trọng, Ngũ nghịch
Thập ác, vô biên tội
Nay đem tâm chí thành
Tỏ bày cầu sám hối
Nguyện nhờ sức gia trì
Chúng sanh đều thanh tịnh
Xin phát đại bồ đề
Độ mình, người giải thoát.
(Đứng lên chắp tay xướng:)
Đệ tử sám hối phát nguyện rồi, chí tâm đảnh lễ Tam bảo. (1 lạy)
B PHẦN TRÌ CHÚ NIỆM PHẬT
(Ngồi kiết già hoặc bán già trước bàn Phật. Tịnh tâm trong giây phút, rồi tưởng chữ sắc trắng trên đầu, phóng ánh sáng đỏ. Kế dùng ấn Kiết tường, viết và tưởng chữ Rain cùng chữ Hùm đều sắc trắng gia trì hai lòng bàn tay và chuỗi, mỗi nơi ba lần. Lại tiếp dùng ấn Kiết tường gia trì chân ngôn sau đây nơi tràng chuỗi, xong búng ba cái, xả ấn trên đảnh):
Gia trì sổ câu chân ngôn:
2. Aum! Vairocana mara svàhà. (7 lần)
(Đọc: Um! Vai rô ca na ma ra xóa ha. Xả ấn xong vẫn ngồi chắp tay tụng bài Hương tán):
Nguyện mây hương mầu này
Hiện khắp mười phương cõi
Tất cả các Phật độ
Vô lượng hương trang nghiêm
Đầy đủ Bồ Tát đạo
Thành tựu Như Lai hương
(Vẫn chắp tay tụng tiếp bài tán Vô Lượng Thọ)
Quang, thọ khó suy lường
Sáng lặng khắp mười phương
Thế Tôn Vô Lượng Quang
Cha lành cõi Liên ban
Thần lực chẳng tư nghi
Sống lâu A tăng kỳ
A Di Đà Như Lai
Tiếp dẫn lên liên đài
Cực Lạc cõi thuần tịnh
Công đức lạ trang nghiêm
Nơi tất cả quần sanh
Vượt lên ngôi Bất thối
Mười phương hằng sa Phật
Đều ngợi khen Vô Lượng
Cho nên hôm nay con
Nguyện sanh về An Dưỡng
(Tiếp tụng):
Phổ thanh tịnh chân ngôn:
3. Aum! Svabhàva suddha, sarva dharma svabhàva suddha hàm. Aum! Rain rain rain. (7 lần)
(Đọc: Um ! Soa phạ va suýt đa, sat va đạt ma, soa phạ va suýt đa hàm. Um ! Răn răn răn)
(Khi tụng chú này, kiết Chuẩn Đề biệt ấn. Cả hai tay, ngón cái nắm có ba ngón: trỏ, vô danh và út. Kế hiệp hai tay lại, hai ngón giữa dùm đầu nhau dựng đứng. Tụng xong xả ấn nơi đảnh. Đây là phối hợp chú Tịnh tam nghiệp và Tịnh pháp giới. Chân ngôn này có công năng khiến cho bên trong: thân, khẩu, ý, y phục, bên ngoài từ chỗ ở của mình đến hoàn cảnh rộng xa đều thanh tịnh. Do chú này tội chướng đều được tiêu trừ và có thể thành tựu các việc thù thắng).
Hộ thân chân ngôn:
4. Aum! Vajra angi pra nàmbidháya svàhà. Aum! Srain srain srain. (7 lần)
(Đọc: Um ! Va ji ra, a nghĩ ni, bá ra năm bì đá da sóa ha. Úm Xỉ răn xỉ răn xỉ răn khi tụng chú này, kiết ấn Bị giáp hộ thân, Hành giả xoa hai tay vào trong, hữu áp tả, hai ngón giữa dựng đầu dính vào nhau, hai ngón cái áp vào ngón vô danh. Hai ngón trỏ cong lại như lưỡi câu, những không đụng vào lưng hai ngón giữa. Đây là phối hợp chú hộ thân trong nghi Thập bái đạo và Mạn Thù Nhất Tự chân ngôn, khi kiết tụng ấn chú này, thân của đương nhơn liền được mặc giáp trụ. Tất cả loài ma làm chướng ngại, bỗng thấy hành giả oai đức tự tại, ánh sáng bao phủ chói ngời liền tan rã bỏ chạy. Sức chân ngôn này có thể bảo về được bản thân và tất cả mọi người chung quanh, các ách nạn như: nước, lửa, cọp, sói, sư tử, dao gậy, gông xiền thảy điều tiêu diệt. Khi tụng chú này xong 7 biến liền xả ấn nơi đảnh. Kế hai tay điều kiết ấn Kim cang quyền, ngón cái bấm vào gốc ngón vô danh, nắm chặt lại. Rồi đem ấn in vào các nơi: trán, yết hầu, hai vai, ngực, rún, hai bắp đùi, sau thận môn, xương gu sau cổ và đảnh rồi xả ấn. Trong khi ấy miệng tụng chữ Hùm liên tiếp, cho đến khi xả ấn rồi mới thôi. Đây là pháp thức trấn tà ma không cho xâm nhập vào thân.)
Vô Lượng Thọ Như Lai chân ngôn:
5. Namo ratnatrayaya. Namo arya. Amitábàya. Tattha-gatáya. Arahati. Samyaksambuddhàya. Tadyatha! Aum! Amirti. Amirto nabàvé. Amirtá sambàvé. Amirtá gabé. Amirtá suddhé. Amirtá sité. Amirtá vicalanté. Amirtá vicalantá gà-mini. Amirtá gàgana kiti
(Đọc: Na mô rát na tra dạ da. Na mô a rị da. A mi tá bà da. Tát tha ga tá da. A ra ha ti. Sam dắt sam buýt đà da. Tát da tha. Um ! A mi rị ti. A mi rị tô na bà vê. A mi rị tá sam bà vê. A ri mị tá ga bê. A mi rị tá suýt đê. A mi rị tá si tê. A mi rị tá vi ca lăn tê. A mi rị tá vi ca lăn tá ga mi nị. A mi rị tá gà ga na ky ti ca li. A mi rị tá lô dô vi sa phạ li. Sạt va rị thá sa đà ni. Sạt va ma ca li. Sa khất sá du ca li. Sóa ha! Um! Bút rum hùm! Khi tụng chân ngôn này, kiết ấn Vô Lượng liên hoa. Hai tay xoa bên ngoài hữu áp tả. Dựng hai ngón giữa đầu dụm cong lại như cánh sen. Có thể kiết ấn này tụng chân ngôn ba lần, xả ấn lên đảnh, rồi lần chuỗi ký số. Đà ra ni này, tụng một biến, diệt các tội Tứ trọng, Ngũ nghịch, Thập ác trong thân, tất cả tội chướng thảy đều tiêu diệt. Nếu hàng xuất gia tăng ni, hoặc tại gia thiện tín, phạm giới căn bản, tụng xong bảy biến trở lại được giới phẩm thanh tịnh. Khi kiết ấn tụng chân ngôn này, liền cảnh giác đức Vô Lượng Thọ Như Lai phóng quang trụ nơi đảnh của hành giả, và được sự nhiếp thọ. Tụng đến một vạn biến, tâm bồ đề hiển hiện trong thân không quên mất. Người trì niệm lần lần thể nhập vào tịnh tâm tròn sáng mát mẻ trong sạch như trăng thu, tiêu tan tất cả phiền não. Khi lâm chung, hành giả thấy Phật A Di Đà ! cùng vô lượng trăm ức chúng Bồ Tát vây quanh đến an ủi tiếp dẫn. Đương nhơn liền sanh về phẩm Thượng thượng ở Cực Lạc. Câu: Aum! Bhrum hùm là chân ngôn Nhất Tự chuyển luân, như bánh xe nâng đỡ, khi phối hợp vào, có công năng làm cho các chân ngôn khác mau kiến hiệu và thành tựu.
Trên đây là pháp thức Tịnh độ của Mật giáo, các vị tu Mật tông muốn sanh về Cực Lạc, chỉ chuyên tụng chú này. Tệ nhơn vì xét thấy nhiều liên hữu khi tu bị phiền não và ma nạn quấy rối, nên phối hợp dụng chân ngôn này đi tiên phong dẹp các chướng ngại, khiến cho thân tâm dễ được thanh tịnh trước khi niệm Phật. Tuy nhiên chúng sanh lúc tập và sở báo đều khác. Vị nào thích tụng chú Đại Bi hoặc Chuẩn Đề, thì chỉ cần đổi bài kệ tán Đại Bi, Chuẩn Đề và sau khi tụng chú hộ thân, Lục tự đại minh, tiếp tục môn đà ra ni của mình. Và hành giả nào thích tụng kinh Kinh Cang hoặc Pháp Hoa, chỉ đổi đoạn trì chú thành tụng kinh, rồi tiếp tục niệm Phật. Chân ngôn Vô Lượng Thọ thuộc về Bất tư nghì thần lực, câu niệm Phật thuộc về Bất tư nghì công đức. Cả hai bên Mật bên Hiển, cùng một nguồn gốc, đều có năng lực đưa hành giả về Tịnh độ. Nếu như phối hợp lại, tất công năng vãn sanh càng thêm kiến hiệu. Tụng chân ngôn này xong, tiếp chấp tay đọc bài kệ khen tướng hảo đức A Di Đà và tiếp qua niệm Phật.
Thân Phật Di Đà vàng rực rỡ
Tuyệt vời tươi đẹp tướng trang nghiêm
Nam Tu Di uyển chuyển ngọc hào
Bốn đại hải biếc xanh liên mục
Vô biên hóa Phật cùng Bồ Tát
Hiện đầy trong ánh diệu quang minh
Nguyện lành bốn tám độ hàm linh
Chín phẩm sen vàng sanh Cực Lạc
(Kế tiếp niệm: Nam Mô A Di Đà Phật. Chuyên tụng Vô Lượng Thọ Như Lai Đà Ra Ni cũng được vãng sanh, nhưng vì câu chân ngôn dài khó nhiếp tâm hơn sáu chữ hồng danh nên sau khi trì chú lại tiếp niệm Phật).
Về cách trì niệm, tệ nhơn lại phối hợp với môn Thiền của Ngài Trí Giả, khiến cho Thiền, Tịnh được dung hòa. Pháp thức này chia thành bốn giai đoạn đi từ cạn đến sâu:
1 Ký số niệm: Hành giả lấy mười câu làm một đơn vị, niệm xong 10 câu lần một hột chuỗi. Người hơi dài có thể niệm suốt. Như hơi ngắn thì chia thành hai đoạn, mỗi đoạn năm câu. Cần phải niệm rành rẽ rõ ràng, nhiếp tâm lắng nghe, ghi nhớ từ một đến mười câu. Vì còn sự ghi nhớ ấy, nên gọi là ký số.
2 Chứng số niệm: Khi niệm đã thuần, thì không cần ghi nhớ từ một đến mười. Niệm đủ mười câu, liền tự biết một cách hồn nhiên đó gọi là chứng số. Lúc này tâm hành giả được tự tại hơn, ý niệm càng chuyên nhứt.
3 Chỉ quán niệm: Lúc mới niệm, dứt tất cả tư tưởng phiền tạp, duy yên tĩnh lắng nghe, gọi là Chỉ. Khi yên tĩnh đã lâu, tâm muốn hôn trầm; liền khởi ý niệm Phật tha thiết, như con sa vào vòng tội khổ gọi cha mẹ cứu vớt. Sự khởi ý tưởng đến Phật đó, gọi là Quán, hai cách này cứ thay đổi lẫn nhau, tán loạn dùng phép Chỉ, hôn trầm dùng phép Quán.
4 Tịch tỉnh niệm: Khi Chỉ Quán đã thuần, hôn trầm tán loạn tiêu tan, hành giả liền một niệm buông bỏ tất cả. Lúc ấy trong quên thân tâm, ngoài quên thế giới, đạo lý diệu huyền cũng xả, cho đến cái không cũng trừ. Bấy giờ tâm niệm vắng lặng sáng suốt, chỉ còn hồn nhiên một câu niệm Phật mà thôi. Đến giai đoạn này Tịnh tức là Thiền, có niệm đồng với không niệm, tạm mệnh danh là Tịch tỉnh niệm.
Pháp thức niệm trên đây, sau nhiều năm bị chướng ngại trong lúc hành trì, tệ nhơn đã suy tư nghiên cứu vạch ra một đường lối để áp dụng riêng cho mình. Nay cũng mong nó đem lợi ích cho hàng liên hữu.
C PHẦN PHÁT NGUYỆN HỒI HƯỚNG
(Sau khi trì danh đủ số, đến quỳ trước bàn Phật, chắp tay niệm):
Nham mô Thanh tịnh đại hải chúng Bồ tát (10 lần)
(Vẫn quỳ, chí tâm đọc bài kệ phát nguyện hồi hướng)
Nay con trì chú xưng niệm Phật
Thệ phát lòng bồ đề rộng lớn
Cúi xin xót thương nhiếp thọ con
Chứng minh sám hối và sở nguyện
Về trước đến nay con tạo ác
Đều do vô sỉ tham, sân, si
Từ thân, miệng, ý phát sanh ra
Tất cả chí tâm xin sám hối
Chúng sanh vô biên thề nguyện độ
Phiền não vô tận thề nguyền dứt
Pháp môn vô lượng thề nguyền học
Phật đạo vô thượng thề nguyền thành
Con nguyện lâm chung dự biết thời
Dứt trừ tất cả điều chướng ngại
Diện kiến Tây phương Tam Thánh tôn
Liền được sanh về cõi Cực Lạc
Xin đem công đức trì niệm này
Hồi hướng bốn ân và ba cõi
Nguyện khắp pháp giới các chúng sanh
Đều sanh Cực Lạc thành Phật đạo
(Năm bài kệ trên tuy đơn giản, song đầy đủ tất cả ý nghĩa. Hành giả có thể đọc nguyên văn khác mà mình ưa thích, nhưng phải đúng với ý nghĩa phát nguyện hồi hướng. Xong đứng lên xướng):
Chí tâm đảnh lễ: Ta Bà giáo chủ, Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Tây phương Cực Lạc thế giới, Tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật, Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại lực Đại Thế Chí Bồ Tát, Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ Tát, thập phương tam thế biến pháp giới Tam Bảo.
(Lễ ba lạy lui ra)
CHUNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét