VIỆC LÀM NHÂN ĐẠO GIẢI THÍCH CHO CÁC CON TÔI
(CỦA JACKY MAMOU)
Thân tặng Roxane và Hadrien, các con của tôi, và Colette, mẹ của chúng.
L'Humanité expliqué à mes enfants
Tác giả: Jacky Mamou
Nhà xuất bản: Seuil
Người dịch: An Nguyễn
haian14_5@convert*prc
Lời nói đầu
Sau khi đi công tác nhân đạo về, các con hay bắt tôi kể chuyện và giải thích… Làm sao tôi nói một cách đơn giản về các thảm kịch, về những tình huống đôi khí rất phức tạp để các con hiểu? Công việc này sẽ không thoải mái cho những ai muốn nói trung thực. Những trang giấy ngắn ngủi sau đây thử để làm công việc này. Và đây cũng là kết quả của những buổi gặp gỡ trao đổi với các nhóm trẻ em hay với cả lớp.
Chắc chắn công việc thiện nguyện và vấn đề sinh thái học là đề tài được các em nhất trí. Hình ảnh các người làm công tác nhân đạo giúp đỡ dân chúng đang gặp khó khăn mà các em nhìn trên đài truyền hình đã đóng góp rất nhiều trong cuộc bàn thảo này. Các em khao khát biết số phận của những em bé khác sống ở xa các em. Điều quan tâm này là bằng chứng tình tương trợ có sẵn trong lòng các em. Tính hiếu kỳ muốn biết lối sống, thói quen, phong tục của những người có lối sống khác biệt với lối sống của các em cho thấy tinh thần cởi mở của các em đối với thế giới bên ngoài.
Các em cũng xúc động khi thấy cảnh nghèo khó mà các em gặp ở góc đường và đôi khi các em đặt câu hỏi nguyên do gây cảnh cùng khốn với nhận xét sắc bén về công chính.
Nhưng, cuối cùng lúc nào các em cũng quay trở về với một câu hỏi duy nhất, đơn giản nhưng thiết yếu: bạn đã làm gì để giúp đỡ những người đang đau khổ?
Từ câu trả lời này chúng ta sẽ làm cho các em gắn bó và các em sẽ tiếp tục là chứng nhân cho hành vi nhân đạo. Và các em có lý.
Thế nào là hành vi nhân đạo?
- Ba, con thấy trên vô tuyến hình ảnh các người tị nạn chạy trốn, lòng con thắt lại.
- Khi nào có vấn đề người tị nạn là lúc đó có một cái gì bất công và thảm họa trên thế giới.
Ba nhớ mãi hình ảnh biên giới Albanais vào năm 1999. Một đoàn người Kosovars vô tận đi trên những chiếc xe kéo, những chiếc xe không bảng số, có người đi chân trần. Trẻ con la khóc vì chúng chẳng biết gì đang xảy ra. Phụ nữ thì cố trấn an con cái và âm thầm khóc trong lòng. Trong số này ít có đàn ông. Họ đang trốn trên núi, những người khác thì bị quân đội Serbe bắt.
Trong cuộc xuất hành của người Kurdes năm 1991, lúc Saddam Hussein ném bom trên lãnh thổ của họ, các gia đình chạy trốn, từng đoàn trẻ con chạy theo họ. Rất nhiều em bé bị đau.
Nhưng thảm cảnh lớn nhất vẫn là thảm cảnh xảy ra ở Rwanda năm 1994, khi dân của sắc tộc hutu đến tị nạn ở Goma, Zaire, họ bị dịch tả. Có cả chục ngàn người chết.
- Nhưng ba có thể làm gì để thực sự giúp đỡ được họ?
- Được chứ. Phải nói cho rõ là mỗi hoàn cảnh mỗi khác nhau. Đối với người Kosovars, những ngày đầu rất khó khăn bởi, các tổ chức nhân đạo tràn ngập công việc vì họ quá đông không ngờ được. Nhưng sau đó thì chúng tôi có thể tổ chức công việc một cách hiệu quả hơn.
Khi di chuyển một số lượng lớn người di dân thì lúc nào cũng có một ban đón tiếp trực sẵn suốt đường đi của họ.
Chẳng hạn ở Albanie, trong các lều vải dùng làm trạm xá có các bác sĩ và y tá săn sóc ngay cho họ. Sau một thời gian đi bộ lâu dài, chân các người tị nạn Kosovar đều bị bong nặng.
Tất cả các em bé đem đến trạm xá đều bị ho và sốt. Đôi khi chúng tôi còn săn sóc các người bị thương vì quân đội Serbe đánh đập hành hạ họ. Trường hợp nào nặng nhất thì sẽ được chở đến bệnh viện thành phố nào gần nhất đó. Ở đó, có các bác sĩ người Albanais hay các bác sĩ trong các tổ chức nhân đạo săn sóc nhờ thuốc men, dụng cụ y tế gởi đến do lòng tương trợ quốc tế.
Các người Kurdes rất hoảng hốt và sốt ruột, họ không để cho chúng tôi có thì giờ để săn sóc các em bị thổ tả. Chúng tôi phải nói chuyện rất nhiều với họ để thuyết phục họ kiên nhẫn chờ.
Còn người Rwandais, vấn đề chính của họ là nước uống, họ phải đi lấy nước rất xa. Trên miếng đất gần ngọn núi lửa này có cả triệu người sống và khó tìm được nước uống ở đây.
- Và các tổ chức nhân đạo còn làm được những gì khác?
- Nhiều tổ chức nhân đạo khác nhau cung cấp thực phẩm, thức uống, chăn mền hoặc đếm số lượng người vượt qua biên giới.
Nhờ các thông dịch viên, chúng tôi phỏng vấn người tị nạn một cách có hệ thống. Lúc đó, mới biết họ đến từ đâu, họ ra đi vì lý do nào, ở đâu đã xảy ra chuyện gì và họ thấy gì trên đường đi. Như thế qua những lời khai này, mình mới phối hợp và hiểu được câu chuyện của người tị nạn.
- Vậy thì tất cả những chuyện đó là hành vi nhân đạo?
- Chắc rồi! Trước tiên hết, hành vi nhân đạo là cứu giúp, đến với người khác, giúp đỡ họ nhưng cũng để hiểu từng hoàn cảnh đặc biệt. Bởi vì nổi đau khổ của các nạn nhân được diễn tả qua nhiều cách khác nhau. Các bác sĩ săn sóc những vết thương thấy được và cả những vết thương không thấy được.
Có nghĩa là phải cho ăn, cho uống, chữa các vết thương, may các vết thương, băng bột các chỗ gãy.
Nhưng săn sóc các vết thương tâm hồn cũng rất quan trọng như bị mất ngủ, bị suy thoái tinh thần, các tâm lý gia cố gắng đem lại lòng tự tin bằng cách xin lắng nghe các câu chuyện khủng khiếp của họ. Bây giờ người ta biết rằng nếu công việc này được làm nhanh chóng thì cơ may chữa lành sẽ tốt hơn.
- Con thấy nhiều lần trên truyền hình cảnh một nữ bác sĩ nhi khoa của chương trình Bác Sĩ Thế Giới đang săn sóc một em bé trong lều vải. Bà vừa khóc vừa kể câu chuyện của một bé trai chứng kiến cảnh cha mẹ mình bị giết và không thể cứu sống được đứa em gái bị chết thiêu trong căn nhà đang cháy…
- Nói những gì mình thấy ở những xứ khác, đó cũng là một hành vi nhân đạo, là việc làm của một chứng nhân. Thông tin cho dân chúng hiểu những chuyện khủng khiếp xảy ra cho người khác và giúp dân chúng quan tâm đến họ.
Đôi khi các chính quyền cũng đứng về phía nạn nhân để giúp đỡ. Để làm các việc này, các người làm việc nhân đạo dùng báo chí, truyền thanh, truyền hình để làm việc.
- Ba có thể cho con một ví dụ?
- Ba kể cho con nghe câu chuyện người tị nạn Việt Nam trốn chế độ cộng sản ở xứ họ.
Có những gia đình đi trên những chiếc thuyền nhỏ xíu. Rất nhiều chiếc thuyền bị đắm, nhiều chiếc bị hải tặc các nước ven biển tấn công.
Năm 1980, bác sĩ Bernard Kouchner mà con nghe báo chí nói đến rất nhiều đã cùng với một vài đồng nghiệp thuê một chiếc tàu rất lớn để cứu được nhiều người chừng nào hay chừng đó. Cái khó khăn sau đó là phải tìm một nước cho họ định cư.
Rồi báo chí và truyền hình nói nhiều đến những người bất hạnh này – họ gọi đó là người vượt biển bằng thuyền – và thế là các quốc gia cấp giấy nhập cảnh để những người này được đi định cư. Từ đó, chúng ta có được một bài học mà người ta gọi đó là luật khuấy động tối đa.
- Và tất cả người Việt Nam muốn đi đều trốn được?
- Không, không phải tất cả, bởi vì chính quyền không chấp nhận cho dân chúng ra đi ồ ạt. Hơn nữa không có nước nào cho một số lượng lớn người nhập cảnh vào nước họ.
Con thấy đó, hành vi nhân đạo rất khiêm tốn, không chừng sẽ làm con thất vọng. Hành vi nhân đạo không có tham vọng giải quyết hết các vấn đề biên giới hay các vấn đề chính trị phức tạp nhưng điều chắc chắn là có những người được cứu vớt. Và cuối cùng, thì đó cũng là mục đích chính của hành vi nhân đạo.
Hành vi nhân đạo lúc nào cũng có mặt?
Ai là các Bác Sĩ Pháp?
- Các tổ chức nhân đạo đã có từ lâu?
- Ý tưởng cứu giúp người nghèo, người bệnh, các em mồ côi có từ rất xa xưa và phổ thông trong đa số các tôn giáo. Và cũng từ xa xưa lúc nào cũng có luật lệ chiến tranh để săn sóc những người bị thương, để cứu những thường dân vô tội.
Nhưng với ông Heni Dunant, mọi sự đã thật sự thay đổi. Người công dân thụy sĩ này đau lòng trước cảnh hàng ngàn người bị thương bị bỏ mặc trên chiến trường Solferino năm 1859, từ đó ông quyết định thành lập Hội Chữ Thập Đỏ Quốc Tế. Như thế Henri Dunant là nhà sáng lập "hành vi nhân đạo" tân thời. Đây là lần đầu tiên, các người cứu thương có mặt ở cả hai trận tuyến, họ trung lập và người ta dễ dàng nhận diện họ vì họ mang trên người dấu hiệu chữ thập đỏ trên nền trắng như con thấy đó.
Hội Chữ Thập Đỏ, một tổ chức tư nhân thụy sĩ sẽ đóng một vai trò thiết yếu trong luật nhân quyền quốc tế mà người ta gọi là quyền trong chiến tranh. Hội Chữ Thập Đỏ thật sự là một tổ chức ngoại lệ. Hội rất mạnh, được các Quốc Gia tài trợ và chỉ hành động với sự cho phép của các chính quyền. Hội khai sinh ra các cơ sở quốc gia như Hội Chữ Thập Đỏ Pháp làm việc tại nước Pháp và can thiệp ở nước ngoài khi có các tai ương thiên nhiên.
Ngoài ra còn có những tổ chức nhân đạo rất xưa và rất có kinh nghiệm. Một vài tổ chức có tính cách tôn giáo như tổ chức Caritas của Giáo Hội công giáo; những tổ chức không tôn giáo khác như Quỹ Lương Nông Quốc Tế của Anh hay Giúp đỡ-Care của Mỹ.
Sau này còn có một thế hệ tổ chức nhân đạo khác nữa là nhóm Bác Sĩ Pháp – French doctors.
- Nhóm Bác Sĩ Pháp có nghĩa là các bác sĩ người Pháp?
- Đúng như vậy. Các ký giả nước ngoài gọi các tổ chức y tế Pháp như vậy: Bác Sĩ Không Biên Giới, Bác Sĩ Thế Giới, Giúp Đỡ Y Tế Quốc Tế.
- Làm sao ý tưởng đó lại đến từ các Bác Sĩ Pháp, giống như ba nói, là tạo những cơ quan nhân đạo?
- Năm 1968, một nhóm bác sĩ trẻ Pháp trong đó có bác sĩ Bernard Kouchner cùng với Hội Chữ Thập Đỏ đi Biafra để săn sóc người Ibos, những người này chống Nigeria để bảo vệ nền độc lập của họ. Nước này nhận sự hỗ trợ của nước Nga và nước Anh. Cuộc chiến hai bên bất cân nên hàng trăm ngàn người Ibos bị giết, nạn nhân các cuộc thảm sát và nạn đói.
Về lại Pháp, các bác sĩ này muốn kể lại những gì họ đã thấy, họ vi phạm luật của Hội Chữ Thập Đỏ cấm họ nói.
- Và người ta nghe họ nói?
- Đúng, vì đây là lần đầu tiên truyền hình chiếu những hình ảnh cho thấy các em bé chết đói: tứ chi gầy gò, bụng ỏng, đôi mắt lạc hồn.
Cú choáng khủng khiếp. Cả thế giới gần như trực tiếp xem cảnh người dân bị tống khứ. Và các bác sĩ này kêu lên rằng không có nạn nhân nào tốt nạn nhân nào xấu, không có người chết phe tả phe hữu mà chỉ có thường dân vô tội bị hai phe đưa vào cái chết. Lời nói của họ có tiếng vang ngay lập tức. Chung quanh hạt nhân các bác sĩ trở về từ Biafra là một tổ chức nhân đạo phi chính phủ ra đời năm 1971: Bác Sĩ Không Biên Giới.
- Thế nào là một tổ chức phi chính phủ?
- Giống như tên gọi của nó, đó là một tổ chức không tùy thuộc vào chính quyền hay Quốc Gia. Một nhóm người tình nguyện hội họp lại với nhau để hành động, tạo nên Tổ Chức Phi Chính Phủ gọi tắt là ONG (organisation non gouvernemantale). Đây là một tổ chức tư nhân, có tính cách bất vụ lợi, nói một cách khác là mục đích của họ không phải là làm lợi.
Có nhiều loại Tổ Chức Phi Chính Phủ. Một vài tổ chức lo sinh thái, vài tổ chức khác lo bảo vệ quyền lợi cho những người thiểu số hay lo về nhân quyền.
Những tổ chức mà chúng ta nói đến hôm nay là những Tổ Chức Phi Chính Phủ nhân đạo. Và đương nhiên ở Pháp là nơi nảy sinh ra trước hết với nhóm Bác Sĩ Pháp.
- Tại sao lại ở Pháp?
- Rất nhiều hoàn cảnh thuận lợi cho việc sáng lập các Tổ Chức Phi Chính Phủ ở Pháp vào giai đoạn này.
Đúng vậy, thế giới hồi đó sống trong cảnh "chiến tranh lạnh", có nghĩa là sống trong tình trạng căng thẳng, không chiến tranh cũng không hòa bình.
Quả đất chia làm hai phe: phe cộng sản đoàn kết chung quanh liên bang Xô-Viết, phe kia là các xứ phương Tây do Mỹ thống trị.
Đại tướng de Gaulle muốn đem nước Pháp ra khỏi hai khối này và nâng đỡ những nước nghèo nhất.
Cuộc phản kháng của sinh viên Pháp năm 1968 xảy ra trong giai đoạn này. Họ đặt ưu tiên đầu là quyền tự do của cá nhân chống lại quyền lực Quốc Gia và làm lan truyền tư tưởng quảng đại đoàn kết quốc tế.
Một vài năm sau hội Ân Xá Quốc Tế ra đời (Amnesty International), hội bảo vệ quyền lợi của các nạn nhân bị tước đoạt nhân quyền ở cả hai phe của cuộc chiến tranh lạnh.
Đối với những bác sĩ trẻ có lòng nhân ái, một trong những quyền đầu tiên của con người là quyền được sống. Và vì những quyền này không được tôn trọng, ý kiến dân chúng phải là phương tiện để bảo vệ nạn nhân. Các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền hình – giờ đây có mặt gần như trong tất cả mọi gia đình – là phương tiện truyền thông đại chúng đã cho dân chúng thấy rõ hoạt động của họ.
- Như thế truyền hình và việc làm nhân đạo cùng đi chung với nhau?
- Đúng, tuyệt đối như vậy.
Con biết đó, vào thời ông Henri Dunant khi hội Chữ Thập Đỏ ra đời vào cuối thế kỷ 19, người ta đã nói đến điện tín như phương tiện thông tin thiết yếu để báo cho dân chúng biết về tình trạng đau thương của những người bị thương do chiến tranh.
Sau này, cha Pierre ở Pháp lên tiếng trên đài phát thanh để báo cho dân chúng biết có những người không gia cư chết vì lạnh mùa đông năm 1954. Từ sau chiến tranh Biafra, truyền hình là một dụng cụ mới mà các tổ chức nhân đạo dùng để làm chứng cho các đau khổ của dân chúng.
- Các Bác Sĩ Pháp đã làm gì để người ta nói nhiều đến họ như vậy?
- Vào những năm 1970-1980 họ được mọi người biết đến với khẩu hiệu: "Đến bất cứ đâu người khác không đến." Thường thường họ đem các ký giả đi theo họ.
Sinh hoạt hàng ngày của họ là săn sóc người Albanais bị thương dù người đó là người kitô hay người đạo hồi, xây dựng những bệnh viện dưới đất ở Afghanistan trong thời gian nước này bị Liên Xô dội bom, đi vớt người tị nạn Việt Nam ở biển Đông, giải phẫu cho những người bị thương ở Kurdistan…
Đó là một biến cố thay đổi quan trọng, một phương thức mới để giúp khẩn cấp cho dân chúng đang bị nguy hiểm mà không bị ngăn chận vì vấn đề biên giới hay luật lệ của các quốc gia.
Từ đó rất nhiều Tổ Chức Phi Chính Phủ khác xuất hiện, với cùng những nguyên tắc: Hành động để chống đói, chuyên biệt trong ngành lương thực; Khuyết Tật quốc tế để giúp thương phế binh; Khẩn Cấp Đầu Tiên, Tương Trợ hay Atlas giúp trong công trình xây dựng và còn rất nhiều loại khác nữa. Các Bác Sĩ Pháp đã có sáng kiến đầu tiên về bổn phận phải can dự.
- Can dự có nghĩa là gì?
- Can dự là tác động, là can thiệp vào việc của người khác mà không được họ cho phép.
Các Bác Sĩ Pháp cho rằng không thể chấp nhận được thái độ ngồi yên không làm gì hết trước một dân tộc đang đau khổ lấy lý do là việc này xảy ra ở một nước khác. Các thành viên của tổ chức này nghĩ rằng cơn đau khổ của nhân loại là cơn đau khổ của họ. Họ lấy câu của văn hào Nga Dostoievski làm châm ngôn: "tất cả mọi người đều có trách nhiệm và tôi, tôi có trách nhiệm nhiều hơn người khác." Ông là một văn sĩ lớn của nước Nga, sau này con sẽ học trong chương trình văn học. Như vậy bổn phận can dự được khẳng định và nó mang một tầm quan trọng lớn.
- Nhưng họ có xen lấn vào công việc của người khác không?
- Đương nhiên là có! Đó là những gì mà các chính quyền đối xử không tốt với dân chúng thường hay trách cứ. Lúc nào họ cũng có luận điệu: "Đây là vấn đề nội bộ, quý ông không có gì phải nhìn vào!" Cái không thể chấp nhận được là ở đó! Phải biết điều đó.
- Và có thay đổi được gì không?
- Liên Hiệp Quốc, chữ tắt là ONU, ngày càng quan tâm đến việc làm nhân đạo và bổn phận can dự.
- Ba, ba chờ con một chút, ba nhắc lại cho con biết về Liên Hiệp Quốc.
- Liên Hiệp Quốc là cơ quan hội họp tất cả các Quốc Gia trên thế giới. Có tất cả 189 quốc gia, họ họp nhau lại để thảo luận và đôi khi đưa ra những quyết định cho những công việc trên thế giới. Cơ quan to lớn này được sáng lập năm 1945, có hiến chương có nghĩa là lề luật nội bộ mà mỗi thành viên đều phải tôn trọng.
Chẳng hạn, chiến tranh là điều không chấp nhận được trừ lý do chính đáng phải bảo vệ. Cơ quan Liên Hiệp Quốc cũng điều khiển những tổ chức nhân đạo lớn.
- Cơ quan Liên Hiệp Quốc cũng làm các công việc nhân đạo?
- Có chứ. Mỗi chi nhánh nhân đạo có một sứ mệnh riêng biệt. Con đã từng nghe đến tổ chức Nhi Đồng Quốc Tế, Quỹ Giúp Các Trẻ Em. Cũng có một văn phòng chuyên chống nạn đói đó là Chương Trình Lương Thực Thế Giới.
Cao Ủy Tị Nạn gọi tắt là HCR là văn phòng lo cho các "người tị nạn" trốn ra khỏi xứ sở của họ. Phải phân biệt những người "di chuyển" là những người bắt buộc phải ra khỏi nhà nhưng không vượt qua biên giới lãnh thổ của họ. Sứ vụ của Cao Ủy Tị Nạn là giúp đỡ, bảo vệ người tị nạn bằng cách áp dụng các quyền của người tị nạn.
Tất cả văn phòng nhân đạo này tùy thuộc vào tiền của các Quốc Gia khác nhau cho. Để có thể làm việc trong một xứ sở cần phải được chính quyền địa phương cho phép. Đôi khi điều này lại không làm cho công việc có hiệu quả. Chẳng hạn Cao Ủy Tị Nạn không bao giờ được phép đến giúp đỡ các người bị "di chuyển."
- Ngoài việc làm nhân đạo, Liên Hiệp Quốc còn làm việc gì khác?
- Con nghe những gì ba sắp kể đây. Sự can dự của Tổ Chức Phi Chính Phủ đã có những hiệu quả vô song.
Bắt đầu những năm 1990, vào thời kết thúc chiến tranh lạnh do sự sụp đổ của chế độ cộng sản tại liên bang Xô-Viết. Lúc đó thế giới có một niềm hy vọng lớn lao. Đó là hy vọng Liên Hiệp Quốc đóng vai trò trọng tài quốc tế trong những mâu thuẫn và bảo vệ các nước còn yếu.
Như thế, dưới ảnh hưởng đáng kể của bộ trưởng Bernard Kouchner, Liên Hiệp Quốc quyết định can thiệp bằng võ lực trong một vài xứ để áp đặt sự bảo vệ nhân đạo cho dân chúng. Như thế người ta nói đến một quyền mới, quyền can dự. Có một chút sai lầm bởi vì quyền can thiệp đã thật sự không thay đổi. Dù vậy Hiến Chương Liên Hiệp Quốc cũng cho phép gởi những đoàn quân đến để "tái lập hòa bình và an ninh quốc tế", nhưng, cho đến lúc đó, người ta cũng chưa làm. Trong tinh thần mới này, sự can thiệp quốc tế đầu tiên đã xảy ra ở Irak, rồi ở Somalie năm 1992 nơi có nạn đói và chiến tranh.
- A con nhớ rồi, khi con còn học tiểu học, mỗi học sinh phải mang một túi gạo đến trường để gởi cho Somalie.
- Đúng rồi! Con hay hỏi xem gạo có đến với các em bé ở Somalie hay chưa. Gạo đến được Somalie vì binh sĩ của Liên Hiệp Quốc đảm nhiệm việc phân phối. Các binh sĩ này đội mũ màu xanh, màu của Liên Hiệp Quốc, họ đến giúp nhiều xứ khác nhau.
- Và thế là tất cả các nước của tổ chức Liên Hiệp Quốc đều đồng ý làm việc như vậy?
- Không. Các Quốc Gia ít giàu, thường là các xứ ở Nam bán cầu không đồng ý với cách nhìn sự việc mới mẻ này. Họ sợ bị can dự. Theo họ, việc làm này có thể dẫn đến một loạt "hành quân của đội binh mũ xanh" trên đất nước họ với lý do nhân đạo. Cuối cùng, các nước này nghĩ rằng họ không còn làm chủ được đất nước họ.
Và rồi họ lên án Liên Hiệp Quốc dùng việc làm nhân đạo với mục đích chính trị. Không làm gì hết khi Trung Hoa đối xử không đúng với người Tibet hay không nói gì hết về thái độ chính trị của Liên Xô đối với người Tchétchénie.
Ngược lại khi Saddam Hussein người đứng đầu Irak xâm lấn nước Koweit là nước có rất nhiều dầu hỏa thĩ tổ chức Liên Hiệp Quốc quyết định can thiệp bằng quân sự. Phải nói là nước Mỹ đã có ảnh hưởng rất nhiều về quyết định này. Để làm suy yếu Saddam Hussein, người Mỹ kêu gọi dân Kurdes ở Irak nổi lên chống Saddam Hussein, người Kurdes bị chính quyền Irak dội bom nặng nề, họ phải trốn qua các xứ lân cận là Thổ Nhĩ Ký và Iran. Đó là một tai họa cho công tác nhân đạo dù việc này có thể lường trước được.
Sau khi đuổi người Irak ra khỏi Koweit, cuối cùng tổ chức Liên Hiệp Quốc dùng võ lực để đưa người Kurdes về lại Irak nhưng vẫn để lại kẻ thù xưa cũ của họ là Saddam Hussein tại chức. Như vậy chẳng có cái gì giải quyết được.
Ở Somalie, sự can thiệp của Liên Hiệp Quốc vẫn không được chuẩn bị. Các nhân viên "mũ xanh" đến đây mà không biết tình trạng xứ sở này và tổ chức băng đảng chiến tranh của họ. Tại đó, mọi việc không được xảy ra tốt đẹp. Khi phái đoàn khác ra đi, tình trạng thực phẩm được khá hơn nhưng không có được một nền hòa bình vững chải ở đây.
Bây giờ việc can dự vẫn còn là một đề tài thảo luận sôi nổi giữa các phe ủng hộ và phe chống đối.
Các tổ chức nhân đạo
đã làm được những gì?
- Trong các cuộc chiến tranh, các tổ chức nhân đạo có ở phe này phe kia không?
- Không. Các tổ chức nhân đạo không có vai trò bênh người này chống người kia. Một vài người nói đến tính trung lập để nêu rõ đặc tính hành động cứu giúp của tổ chức nhân đạo. Chữ trung lập này rất nhiều tổ chức nhân đạo bây giờ không đồng ý bởi vì nó áp dụng cho cả nạn nhân lẫn các đồ tể! Họ thích dùng chữ "không ở phe nào." Không thiên về phía nào. Chúng ta hãy lấy ví dụ của nội chiến.
- Nội chiến là gì?
- Nội chiến là mâu thuẫn có vũ trang xảy ra trong nội tình của một nước. Và thường thì nó rất thảm khốc. Dân vô tội – là những người không vũ trang như đàn bà trẻ con, người lớn tuổi – là những người bị thiệt hại nhiều nhất. Các em bé này đáng lý phải được bảo vệ bởi Quy Ước Quốc Tế Quyền Nhi Đồng.
Do đó các tổ chức nhân đạo cố gắng làm việc với cả hai bên như đã làm ở Angola và Congo.
Nhưng thỉnh thoảng có những đối xử tàn ác cố ý cho cả dân chúng nên các tổ chức này buộc phải tố cáo những người phạm tội.
Đó là cuộc chiến ở nước Yougoslavie vào những năm 1990. Rất nhiều tổ chức nhân đạo lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ cái gọi là "thanh lọc chủng tộc" nhưng họ vẫn giúp cho các phe tham chiến bất kể đó là người serbe, bosnia hay croate.
- "Thanh lọc chủng tộc" có nghĩa là gì?
- Thành ngữ khủng khiếp này có nghĩa trong vùng đất có nhiều sắc dân khác nhau, người ta khủng bố để tống khứ sắc dân này vì lợi ích của sắc dân kia. Quân đội và nhiều nhóm dân serbe dưới quyền tổng thống Milosevic là những người vô địch trong loại chiến tranh này. Dù cho không phải chỉ có một mình họ mới làm như vậy.
- Mình không thể nào cho phép họ đối xử như vậy. Nhưng tại sao người ta để cho họ làm những chuyện khủng khiếp như vậy?
- Các cuộc tấn công vào thường dân vô sự thường bị cấm đoán. Dội bom các thành phố, buộc dân chúng phải di tản, tra tấn, hành quyết không cần tòa xét xử, tất cả đều là những điều không được phép làm.
Có nhiều văn bản như Công Ước Genève được nhiều quốc gia ký ở Thụy Sĩ, các quốc gia này cam kết tôn trọng Công Ước và làm cho mọi người tôn trọng Công Ước. Những tài liệu này bao gồm phần bảo vệ thường dân trong thời kỳ chiến tranh.
Các Công Ước Genève là một phần của "quyền quốc tế về tổ chức nhân đạo". Đó là một tiến bộ quan trọng. Khổ thay và cũng thường thường, quyền này không được tôn trọng. Công việc của các tổ chức nhân đạo và đặc biệt là của Hội Đồng Quốc Tế Chữ Thập Đỏ là để nhắc lại cho hai phe tham chiến không được đụng đến thường dân.
- Con nghĩ các cuộc chiến giết nhiều binh sĩ nhất!
- Điều đó đúng vào thế kỷ vừa qua. Trong Thế Chiến Thứ I năm 1914-1918 thì 90% nạn nhân ở trong quân đội. Trong các cuộc mâu thuẫn bây giờ thì ngược lại: nạn nhân chính là thường dân.
- Nhưng tại sao?
- Bởi vì mục đích và phương tiện của cuộc chiến đã thay đổi. Trước, quân đội của hai hay nhiều nước tham chiến. Bây giờ, thường thường chỉ có nội chiến mà mục đích của những người tham chiến là loại bỏ hoàn toàn một phần dân chúng.
Chẳng hạn năm 1994 ở Rwanda, các người cực đoan hutu phạm tội diệt chủng đối với người Tutsis và những người Hutus nào không cùng chung ý kiến với họ.
Chắc chắn con có học ở trường về nạn diệt chủng, đó là ý muốn loại bỏ hẳn một dân tộc. Giống như người nazis muốn loại người do thái và người tziganes trong Thế Chiến Thứ Nhì. Hồi nãy ba đã nói với con về nạn thanh lọc chủng tộc. Và đó là những cuộc chiến của thời đại này.
- Tất cả các cuộc chiến đều như vậy sao?
- Không. Có những nước chẳng có một tổ chức nào, không có cả quân đội, cảnh sát và tòa án. Nên những ai thống trị dân chúng là những lãnh chúa chiến tranh như thời Trung Cổ. Để làm giàu họ dùng một phần dân chúng làm con tin bằng cách bỏ đói để lôi cuốn sự giúp đỡ nhân đạo (thực phẩm, thuốc men và cả vật chất mà vì lòng tương trợ đã được gởi tới một cách ngây thơ). Rồi họ dùng những của cái này để trục lợi. Đó là những gì đã xảy ra ở Somalie, Soudan và Liberia.
- Nhưng Liên Hiệp Quốc không thể nào ngăn những chiến tranh này sao?
- Khổ thay là không. Trước hết rất khó để 189 nước của Liên Hiệp Quốc đều đồng ý với nhau. Sau đó, tất cả các nước không có cùng một ảnh hưởng, ở Liên Hiệp Quốc, các quyết định quan trọng có thể bị năm Cường Quốc biểu quyết ngăn chận. Đó là luật phủ quyết-veto, tiếng la-tinh có nghĩa là "tôi chống đối."
Mỹ, Nga, Trung Hoa, Pháp, Anh là những nước có quyền phủ quyết. Các Quốc Gia này không bắt buộc phải lấy quyết định có lợi cho nước đang bị đau khổ nhưng nhất là để bảo vệ cho quyền lợi của họ. Rốt cuộc, không làm được gì vì không ai đồng ý với nhau. Lúc đó tình trạng nghiêm trọng vẫn cứ để mặc kệ, không có được giải pháp hiệu quả.
Để trở lại vấn đề Rwanda, con có biết trong thời gian nước này bị diệt chủng, có bao nhiêu "mũ xanh" tại chỗ không?
- Và họ không làm gì sao?
- Họ không có số đông cho đủ. Liên Hiệp Quốc đã giảm bớt số lượng. Hơn nữa lệnh ban ra không được rõ ràng. Có một vài nhân viên "mũ xanh" bị giết một cách man rợ. Không lường trước được, không thể hiểu được những gì đã thật sự xảy ra ở đó! Trong toàn vùng Phi châu này, gọi là vùng Phi Châu với Những Hồ Lớn, lúc nào cũng có chiến tranh. Đất đai trồng trọt được thì quá hạn chế lại có nhiều sắc dân sống ở đó. Ngược với Koweit, Rwanda không có dầu hỏa và là một xứ rất nghèo. Gởi đội quân "mũ xanh" đến thì rất tốn kém. Kết quả: người ta giết từ 500 000 đến 1 000 000 người trong sự dửng dưng hoàn toàn của nhân loại.
- Những người phạm tội có bị phạt không?
- Đa số là không. Các tác giả của nạn diệt chủng đã chạy trốn trước khi quân lính của Mặt Trận Ái Quốc Rwanda đến, mặt trận này chống lại những người chủ trương diệt chủng. Những người này tị nạn qua các xứ lân cận, họ lại dùng một số dân hutu làm con tin.
Kết quả là rất nhiều người Hutus, có cả đàn bà và trẻ con đã chết trong những điều kiện đau đớn, bị hủy diệt hàng loạt vì đói khát, bệnh tật và các cuộc đụng độ trong rừng phía đông của Zaire.
Các tổ chức nhân đạo đã cố gắng cứu được chừng nào hay chừng đó và đã báo động cho tổ chức Liên Hiệp Quốc nhưng rồi cũng không làm được gì. Vậy mà các người tổ chức cuộc diệt chủng này, các người ra lệnh giết người lại tránh ra được nước ngoài.
Để cố gắng bắt họ và xét xử họ, Liên Hiệp Quốc đã quyết định làm một việc ngoại lệ: tạo một tòa án quốc tế xét xử các tội ác phạm ở Rwanda. Như thế có thể một ngày nào đó họ sẽ bị phạt.
- Tại sao lại ngoại lệ?
- Bởi vì sau Thế Chiến Thứ Nhì, có một toàn án quốc tế xét xử những người nazis ở Nuremberg, từ đó chưa bao giờ xảy ra lại. Một toàn án quốc tế khác cũng được mở ra để xét xử các tội ác phạm ở nước Yosgoslavie.
Từ đó một Toàn Án Hình Sự Quốc Tế được thành lập. Các tổ chức nhân đạo can dự rất nhiều để nó được tồn tại. Đó là một bước tiến rất quan trọng cho công chính.
Điều đó có nghĩa tất cả mọi người bị cáo làm tội ác chống nhân đạo, tội phạm chiến tranh đều bị tòa này xử nếu họ không bị xử trong nước của họ.
- Con không hiểu cái khác biệt giữa các tội ác…
- Các tội ác chiến tranh là những hành vi nghiêm trọng làm trong cuộc chiến: giết người, tra tấn, hãm hiếp, trục xuất dân chúng.
Các tội ác chống nhân đạo không bắt buộc phải làm trong thời kỳ có chiến tranh. Đó là những tấn công có hệ thống và ồ ạt vào thường dân, trong ý hướng muốn làm hại họ vì lý do chính trị, tôn giáo hay dân thiểu số. Tội diệt chủng là tội nặng nhất trong loại này.
Tất cả những tội phạm này là những vi phạm quyền quốc tế nhân đạo. Tội không thể nào hủy bỏ được có nghĩa là thời gian không làm xóa mờ tội và công chính sẽ đuổi theo họ mãi mãi để đưa họ ra tòa.
- Vậy thì tất cả những việc làm cho quyền này đều có hiệu quả?
- Đúng, nhưng thường thường thì kéo dài lâu và làm cho mình chán nản thất vọng. Nhất là tùy thuộc vào sức mạnh của các Quốc Gia vi phạm Công Ước Genève.
Chẳng hạn, nếu các quốc gia lớn có liên hệ vào vấn đề như trường hợp nước Nga can thiệp vào Tchéchénie hay Trung Hoa với Tibet thì rất khó để phạt họ. Các tổ chức nhân đạo, các người bảo vệ nhân quyền lên tiếng tố cáo sự đối xử xấu của chính quyền này đối với thường dân và đương nhiên điều này sẽ không làm họ hài lòng.
Nếu đó là một Quốc Gia ít mạnh hơn, thì sẽ có những biện pháp để làm áp lực trên họ vì họ cần giao thương buôn bán với các nước khác. Vũ khí và chính trị, đó là những hình phạt có thể dùng được.
- Đó là luật của kẻ mạnh?
- May thay không phải lúc nào cũng vậy. Nhưng phải nói cho đúng là chúng tôi cũng nản chí, bởi vì, dù với tất cả mọi chứng cứ của chúng tôi, họ cũng chẳng thay đổi cũng chẳng bị phạt và các thường dân lúc nào cũng bị đối xử không tốt. Dù sao, các tổ chức nhân đạo phải làm những gì phải làm và nói những gì phải nói. Phần còn lại là tùy thuộc vào họ.
Dần dần cũng có những chuyện xảy ra làm cho mình ngạc nhiên. Con biết đó, ba cũng đã nói với con, từ lâu ba làm việc ở Chili với Bác Sĩ Thế Giới. Ở Chili gần như không ai được đụng đến đại tướng độc tài Pinochet nhưng bây giờ ông bị đe dọa trầm trọng. Ông phải trả lời về những tội ác ông đã làm từ năm 1973 đến 1990. Vào thời đó, không một ai tin rằng một hình phạt như vậy có thể xảy ra cho cuối đời của ông.
- Tốt, vậy để làm việc nhân đạo thì phải biết luật như luật sư và ông tòa.
- Không. Nhưng biết về luật lệ rất hữu ích cho việc làm nhân đạo. Thường thường các tổ chức nhân đạo là người tố cáo các tội ác chiến tranh gây ra cho dân chúng nơi họ đến giúp đỡ.
Tổ chức Bác Sĩ Không Biên Giới đã tố cáo cuộc thảm sát người Hutus rwandai ở Zaire năm 1977 và Bác Sĩ Thế Giới đã tố cáo cuộc chiến của người Nga với dân Tchéchène năm 2000.
Còn về phần các tổ chức Ân Xá Quốc Tế hay Hiệp Hội Quốc Tế Bảo Vệ Nhân Quyền, họ gởi các điều tra viên đến những nơi mà họ nghĩ là có vấn đề nghiêm trọng đang xảy ra. Các cơ quan của Tổ Chức Phi Chính Phủ làm biên bản các nơi vi phạm nhân quyền.
- Nhưng họ cùng làm một chuyện?
- Không, công việc thường xuyên của các tổ chức nhân đạo vừa cứu giúp dân chúng vừa ở gần họ chứ không phải chỉ có tố cáo các vụ bạo lực mà dân chúng là nạn nhân. Nhưng, những người làm việc nhân đạo và những người bảo vệ nhân quyền mỗi người làm việc theo mỗi cách, cùng bảo vệ nhân quyền và bảo vệ nhân phẩm con người…
- Ba nói nhân phẩm, vì sao?
- Bởi vì đó là một yếu tố thiết yếu của việc làm nhân đạo.
Đối xử từng cá nhân như một nhân vị vẫn là bổn phận ưu tiên một của chúng ta. Người ta không vứt thức ăn, người ta phân phối. Và phải tôn trọng phong tục tập quán của họ. Nếu họ trần truồng, phải đề nghị họ mặc áo quần. Điều cần thiết là phải giải thích cho họ lý do vì sao mình có mặt, mình định làm gì để giúp đỡ họ và phải được họ đồng ý.
Nếu một em bé suy dinh dưỡng, gầy gò một cách nguy hại thì phải nói chuyện với bà mẹ để bà mẹ tham dự vào việc chữa chạy. Phương cách tốt nhất là đưa bà và con cái của bà đến trung tâm săn sóc dinh dưỡng đặc biệt, tránh cho bà phải chọn lựa ở lại với em bé bị đau và xa các đứa con khác.
Một ngày nọ ba hỏi một cụ già rất nghèo vì sao ông vẫn đến xin săn sóc tại trạm xá nhân đạo ở Paris trong lúc ông đã có giấy tờ để được khám miễn phí ở bệnh viện. Ông trả lời cho ba: "Vì ở đây tôi được tôn trọng, khi người ta nói chuyện với tôi, người ta gọi tôi bằng: Thưa ông."
- Và khi có những cuộc động đất hay thiên tai bão lụt, các tổ chức cứu giúp cũng được gởi tới nhiều nước.
- May thay đúng vậy! Trong những lúc như vậy, nhờ hình ảnh trên truyền hình làm người ta xúc động và tỏ lòng tương trợ. Các người cứu giúp được gởi tới để cứu những người bị chôn vùi dưới đống gạch vụn, săn sóc họ, nuôi ăn nuôi ở vì họ không còn nhà để ở.
- Phải nghĩ đến tất cả những chuyện đó cùng một lúc sao?
- Đúng, chính vì thế mà công việc rất khó khăn. Công việc này gọi là phối hợp, là đồng ý với nhau ai làm việc gì để tránh phí phạm và nhất là mang đến hiệu quả nhanh chừng nào tốt chừng đó. Rất nhiều người, nhiều ngành nghề của nhiều quốc gia khác nhau đến làm việc cùng một lúc.
Thỉnh thoảng cũng có những tranh chấp, điều này tùy thuộc rất nhiều ở nơi chốn có thiên tai. Nếu thiên tai xảy ra ở những nước đã có tổ chức thì công việc dễ dàng, nhanh chóng mỗi người biết mình làm gì ở đâu theo chuyên môn của mình.
- Ít nhất ở đó mọi người đều đồng ý, chỉ có bắt tay vào việc!
- Con đừng lầm! Qua những giây phút cuống cuồng đầu tiên, rất nhiều vấn đề nảy sinh. Việc làm nhân đạo cũng có thể phân phối không đồng đều. Ở Mozambique nơi có những trận lụt khủng khiếp, các tổ chức nhân đạo kháng cự mãnh liệt để tất cả các vùng bị lụt đều được hưởng phẩm vật cứu trợ bằng nhau chứ không phải chỉ có làng của tổng thống sinh ra mới được hưởng.
Thường thường các nạn nhân là những người nghèo nhất. Ở Venezuela, dân chúng ở các khu phố bình dân, nhà cửa của họ xây trên các vùng đất không thăng bằng thường hay bị trụt trong những cơn mưa như thác đổ.
Ở Thổ Nhĩ Kỳ, các chung cư rẻ tiền xây cẩu thả không đứng vững được với những chao động đầu tiên của các vụ động đất…
- Ba muốn nói phòng bệnh hơn chữa bệnh?
- Đúng vậy. Với thiên tai, không phải mọi chuyện có thể lường trước được nhưng rất nhiều thảm cảnh có thể tránh được nếu nhà cầm quyền cấm không cho xây chung cư trên nền đất nguy hiểm hoặc phải xây loại nhà chống động đất. Chắc chắn là sẽ mắt hơn nhưng chuyện này tùy thuộc vào chọn lựa chính trị của các nhà cầm quyền.
- Và chiến tranh, người ta có thể phòng ngừa nó không?
- Ít nhất cũng có thể phòng ngừa được trong một vài trường hợp bởi vì mâu thuẫn có vũ trang có thể biết trước được, đó là các dấu hiệu sớm sủa của làn sóng bạo động dấy lên.
Xứ nào tài nguyên chia không đồng đều và tự do bị vi phạm thì xứ đó đáng lo. Khi ngân sách quốc phòng không cùng tỷ lệ với các ngân sách khác, khi dân thiểu số trong xứ bị đe dọa. Lúc đó các cường quốc sẽ bất bình và họ sẽ tỏ thái độ cứng rắn để tránh thảm họa xảy ra.
- Vậy khi các tổ chức nhân đạo can thiệp thì đã quá trễ.
- Con có lý. Công việc của các tổ chức nhân đạo không phải là cố gắng để ngăn chận chiến tranh. Dù thường thường các Tổ Chức Phi Chính Phủ báo động cho dân chúng biết về các tình trạng nguy hiểm có thể xảy ra. Họ ráng giới hạn các thiệt hại đổ trên đầu dân chúng. Nhưng may thay, việc báo động này có ảnh hưởng tốt trên nhiều khía cạnh.
- Những khía cạnh nào?
- Nhiều bệnh chết người có thể tránh được nhờ chương trình chích ngừa. Đó là trường hợp bệnh ban đỏ hàng năm đã giết hại hàng trăm ngàn trẻ con ở các xứ Nam bán cầu.
Cũng có thể ngừa được bệnh dịch tả với nước uống và luật vệ sinh. Cũng có thể chữa lành với phương thuốc rất đơn giản như cho họ uống nước có thêm chút đường chút muối. Như thế rất nhiều người được cứu, kể cả những em còn bé.
Loại chương trình này gọi là "giáo dục y tế cộng đồng."
Trong gia đình, chính bà mẹ là người săn sóc sức khỏe. Vì vậy quan trọng là phải giáo dục họ uống nước đun sôi để nguội, rửa thức ăn, biết các dấu hiệu đầu tiên của các bệnh phổ thông. Chắc chắn, ở nhiều nước, trên phương diện quốc gia, chính bộ trưởng Y Tế phải lo việc này.
Trong các xứ nghèo, các Tổ Chức Phi Chính Phủ và các văn phòng của Liên Hiệp Quốc giúp họ thực hiện các việc này.
- Như thế các tổ chức nhân đạo không chỉ phản ứng lúc có trường hợp cấp kỳ!
- Không. Bên cạnh những trường hợp cấp kỳ, các Tổ Chức Phi Chính Phủ cũng có rất nhiều chương trình hữu ích nhưng ít người biết đến. Chẳng hạn giúp đào giếng, thành lập cán bộ cộng đồng hay mở các dược xá ở làng. Các chương trình săn sóc, bảo vệ, hướng nghiệp các trẻ em đường phố ở Abidjan, Guatemala-Ciudad hay ở Saint-Pétesbourg…
Các tổ chức nhân đạo thường ở bên cạnh các dân tộc thiểu số bị đe dọa như thổ dân Yanomanis ở vùng Amazonie, đất đai của những người này bị các người đi tìm vàng dòm ngó. Hoặc dân thiểu số Touareg, những người đàn ông dũng cảm ở sa mạc Phi châu dần dần bỏ cuộc sống du mục. Con biết đó, thực hiện những công việc này thường thường là phải làm trong nhiều năm.
Nhưng đe dọa lớn lao cho nhiều nước trên đà phát triển là nạn dịch Sida.
- Ba giải thích cho con bệnh này…
- SIDA là chữ tắt của chữ: Syndrome d'immuno-déficience acquise. Bệnh liệt kháng do nhiễm siêu vi trùng là một bệnh nhiễm trùng rất nặng, thường gây chết người. Siêu vì trùng bị nhiễm qua máu khi có giao hợp với những người đã bị nhiễm. Ngày nay bệnh Sida là lý do chính của tử suất trong các nước nghèo.
Ở Phi châu, bệnh này giết dân chúng gấp mười lần chiến tranh. Lâu nay các nhà cầm quyền của các xứ này phủ nhận hay cố ý làm giảm tầm quan trọng của nạn dịch này. Các nhà lãnh đạo cũng không giúp đỡ họ. Giáo Hội lên án việc dùng các phương pháp phòng ngừa. Đối với họ, các phương tiện duy nhất để bảo vệ không mắc bệnh Sida là phải giữ lòng chung thủy, phải tiết dục có nghĩa là không nên có các giao hợp.
- Vậy có đem lại hiệu quả không?
- Không có một chút nào. Kết quả rất thảm hại. Vì các người trẻ bị nhiễm bệnh nên nhiều cánh đồng trồng trọt bị bỏ hoang, các nhà máy, các hầm mỏ sản xuất chậm lại vì nhân công mắc bệnh. Mỗi ngày có hàng ngàn trẻ em chết vì hậu quả của bệnh, thường thường do người mẹ truyền qua. Ngày nay có cả triệu em bé mồ côi vì Sida.
Các nước giàu có phần trách nhiệm trong việc này. Giáo sư Jonathan Mann là bác sĩ đầu tiên chứng minh cho thấy các người nghèo là những người rất yếu đuối khi đối diện với bệnh Sida. Được cử làm người có trách nhiệm về bệnh này ở Liên Hiệp Quốc, ông đã làm ầm ĩ khi từ chức để chống lại tính ích kỷ của những nước giàu và tinh thần thiếu can đảm của các người cầm quyền các quốc gia nghèo.
Cũng có thuốc men để ít nhất xoa dịu và chữa một số biến chứng của bệnh nhưng các thuốc này quá đắt cho bệnh nhân nghèo ở Phi và Á châu. Ngày nay các thuốc mới rất công hiệu có thể kéo dài đời sống của bệnh nhân nhưng ngay cả với các nước giàu, các thuốc này vẫn còn rất đắt, nên chắc chắn nó không ở tầm tay của tất cả mọi người.
- Vậy thì làm sao có thể săn sóc người bệnh?
- Liên Hiệp Quốc vừa tuyên bố chiến tranh với Sida! Thật đúng lúc! Các tổ chức y tế nhân đạo, các hiệp hội bảo vệ bệnh nhân như hiệp hội Act-Up hay TAC (Treatment Action Campaign) một Tổ Chức Phi Chính Phủ ở Nam-Phi đang đấu tranh mạnh mẽ với các hãng thuốc để họ hạ giá thuốc.
Con hiểu các chữa trị này là vấn đề tài chánh rất lớn. Các nước bị nhiễm nhiều nhất là Nam Phi và Brésil bây giờ có khả năng chế tạo được các loại thuốc này với giá rẻ. Họ đụng tới quyền lợi của các hãng thuốc lớn, cuối cùng các hãng này đã hứa sẽ hạ thấp giá thuốc.
Các chương trình chữa trị cho các bà mẹ bị nhiễm để tránh truyền bệnh qua cho con đã bắt đầu thành hình ở các xứ phía Nam và thường thường là các tổ chức nhân đạo hay các Tổ Chức Phi Chính Phủ địa phương hướng dẫn.
Đôi khi có những chính phủ như chính phủ Thái Lan và Ouganda quyết định đưa việc chống bệnh Sida lên hàng ưu tiên của họ. Với cố gắng giáo dục lớp trẻ và cho họ các phương tiện phòng ngừa sẽ chận đứng được nạn dịch.
Nhưng chắc chắn các tiến bộ có tính cách quyết định vẫn là phải tìm cho ra loại thuốc chủng ngừa có thể ngừa được bệnh. Và phải cần thời gian.
Các tổ chức nhân đạo
có phải lúc nào cũng là một lý do tốt?
- Các binh sĩ có làm công việc nhân đạo không?
- Tuyệt đối không! Nhưng bây giờ tất cả mọi người đều muốn làm: Quốc Gia, quân đội và ngay cả những xí nghiệp tư nhân. Những người mới đến này tạo một số hoang mang bởi vì tiến trình của họ không phải là không vụ lợi. Nhưng đối với việc làm nhân đạo, thì đó cũng ít nhiều cái giá của thành công.
Các quốc gia giàu gởi bác sĩ, kỷ sư, giáo sư đến các xứ thân hữu đang có nhu cầu cần giúp đỡ nhưng cũng để tăng ảnh hưởng của họ.
Các quân đội của các xứ này khẳng định họ cũng hành động nhân đạo nhờ vào các phương tiện chuyên chở khổng lồ của họ và họ có thể huy động một cách nhanh chóng.
Các Tổ Chức Phi Chính Phủ công nhận hiệu quả và lòng tận tâm của quân đội nhưng không công nhận khía cạnh độc lập của họ vì họ phải tuân lệnh chính quyền của họ. Chẳng hạn, trong chiến tranh Kosovo, các binh sĩ đồng minh không thể ở cả hai mặt trận để cứu giúp thường dân, ngược với các tổ chức nhân đạo. Như thế có những cuộc tranh luận rất sôi nổi về vai trò của các tổ chức nhân đạo và của binh sĩ.
- Còn ba, ba suy nghĩ gì về chuyện này?
- Càng ngày các Quốc Gia càng dùng các việc nhân đạo vào lợi ích cho chính sách đối ngoại, cho cách ngoại giao của họ. Chính quyền dùng các việc nhân đạo để cho cảm tưởng họ hành động và không dửng dưng trước thảm kịch mà mọi người đều biết. Điều này tránh cho họ – trong một vài tình trạng tế nhị – đề nghị những giải pháp chính trị rất khó tìm thấy. Đó là cái mà chúng tôi gọi là "cái cớ nhân đạo."
Ví dụ nổi bật nhất là thái độ của những người Âu châu, một cách tổng quát la của Liên Hiệp Quốc ở Bosnie trong thời gian chiến tranh giữa những người Serbe, Croate và người đạo Hồi ở Bosnie. Thay vì bảo vệ thực sự các thường dân, những người "mũ xanh" của Liên Hiệp Quốc làm các công việc như hộ tống thực phẩm, chuyên chở cũi đốt. Rất nhiều người chết dưới lằn đạn của những người bắn sẻ của cả hai phe hoặc họ bị trúng mìn. Các hình ảnh của truyền hình cho thấy sinh hoạt "điệu bộ nhân đạo" này. Điều này không làm cho hàng ngàn người hồi giáo Bosnie ở Srebrenica thoát chết dù cho có sự hiện diện của đội quân "mũ xanh."
Ngay từ đầu cuộc chiến Bosnie, các tổ chức nhân đạo giúp đỡ dân chúng đã rất nhiều lần yêu cầu các người có trách nhiệm chính trị can thiệp trước khi quá trễ. Như con thấy, việc làm nhân đạo không có mục đích thay thế hành vi chính trị.
- Làm việc nhân đạo đôi khi cũng rất khó!
- Con có lý. Có những trạng huống mà các tổ chức nhân đạo đối diện với những chọn lựa nguy hiểm.
Ví dụ, khi giúp dân chúng trong các cuộc nội chiến, một vài người than phiền các tổ chức nhân đạo kéo dài mâu thuẫn để những người chiến đấu củng cố lại lực lượng. Có người thì nhấn mạnh đến chuyện các người được trợ giúp có thể trở nên bị lệ thuộc.
Tất cả những chuyện đó đều có thật. Về mặt đạo đức, mình sẽ không chịu đựng được nếu không làm gì hết. Hơn nữa, không bao giờ chứng minh được nếu không có cứu giúp thì sẽ lợi cho dân chúng hơn.
Đôi khi, các việc làm nhân đạo có thể bị một vài chính quyền lợi dụng để làm dễ dàng cho thái độ chính trị đáng lên án của họ. Ví dụ khi họ gom dân chúng lại hay di tản dân chúng bằng vũ lực rồi sau đó yêu cần các tổ chức nhân đạo đến cứu giúp. Đó là một cái bẫy đáng sợ!
Chấp nhận là tham dự vào một hành vi đáng lên án; từ chối là bỏ rơi dân chúng cho họ chết. Như thế con hiểu vì sao có người nói đứng trước các lựa chọn khó khăn, các người làm việc nhân đạo mất đi tính ngây thơ.
- Đôi khi cũng cần có những lời chỉ trích chính đáng?
- Trước hết con nên biết là rất nhiều lời chỉ trích các việc làm nhân đạo xuất phát từ chính những người làm việc nhân đạo. Đương nhiên cũng có lúc chúng tôi bị lầm.
Sự kiện mang đến một số lượng lớn thực phẩm để chống nạn đói và phân phát miễn phí có khi cũng làm cho các nông dân vùng lân cận không bán được vụ mùa.
Cũng có những lúc chúng tôi không dùng cho đủ thời gian để tìm hiểu phong tục của người mình muốn giúp đỡ. Mình áp đặt lên họ lối suy nghĩ và hành động theo kiểu Tây phương và như thế là không thành công. Vì thế điều quan trọng là phải làm việc chặt chẽ với chuyên gia của các xứ này.
Cũng có khi các Tổ Chức Phi Chính Phủ bị báo động quá đáng bằng cách nói sai trên báo chí hay truyền hình tác hại của nạn đói, nạn dịch mà trên thực tế vấn đề không đến nỗi trầm trọng như thế.
- Nhưng nếu thế thì làm các việc nhân đạo mình cũng làm ký giả một chút!
- Không nhất thiết như vậy. Con phải hiểu là những người làm việc nhân đạo bây giờ đã bị chấn thương nặng với những gì xảy ra trong các trại tập trung thời Đệ Nhị Thế Chiến. Trong những trại tập trung này, người nazis đã nhốt những người chống đối họ trong những điều kiện vô nhân đạo và rất nhiều người đã chết ở đó. Có nhiều trại giết người do thái và người tzigane bằng hơi ngạt.
Vào thời đó, Hội Chữ Thập Đỏ đã đến gần một vài nơi khủng khiếp đó nhưng họ không thấy gì – hoặc không muốn thấy – và vẫn tiếp tục gởi các gói thực phẩm đến cho tù nhân, nghĩ rằng đó là nhiệm vụ chính của họ. Thái độ này là một đại họa bởi vì những người làm việc nhân đạo đã không bẻ gãy được cái im lặng bao trùm trên việc hủy diệt hàng triệu sinh linh.
Vì thế mà bây giờ họ rất quan tâm và là chứng nhân cho những gì họ nhìn thấy.
- Vậy theo như ba nói, lúc nào mình cũng phải làm chứng…
- Trên thực tế không phải lúc nào cũng vậy. Đôi khi tốt hơn hết là im lặng và tiếp tục giúp đỡ dân chúng để còn có thể cứu được mạng sống của họ.
Ví dụ ở Bắc Hàn nơi có chế độ độc tài, một phần quan trọng thực phẩm thuốc men các tổ chức nhân đạo đem đến được để riêng và dành cho quân đội. Tuy nhiên một phần nhỏ cũng đến được tay dân chúng đang bị đói khát và bệnh tật, nên cũng giúp được họ. Vì thế mới đầu khi chính quyền Bắc Hàn để dành riêng thực phẩm thuốc men cho quân đội, các tổ chức nhân đạo không tố cáo, sợ họ đuổi đi ngay lập tức.
Trong những trường hợp khác, các nạn nhân xin được người ta nói về họ. Trong cuộc chiến tranh giữa người Liên Xô và Tchéchénie vừa qua, thường dân xin các tổ chức nhân đạo – nhưng rất hiếm – "nói to lên cho thế giới biết" nỗi khốn cùng của họ.
- Vậy thì truyền hình nói đến các việc làm nhân đạo là điều rất tốt!
- Đúng, nên nói hơn là giữ im lặng! Nhưng những hình ảnh dữ dội của dân chúng bị nạn hoặc hình ảnh người tị nạn tuyệt vọng chỉ gợi lên lòng thương xót hơn là làm cho người dân suy nghĩ.
Điều đó cũng có thể củng cố cho ý nghĩ của một vài chính quyền cho rằng dân chúng không để ý đến các thảm cảnh xa xôi, rằng, "dù sao đi nữa ở đó họ bị bọn man rợ hành hạ, chẳng có gì to lớn cần phải làm". Ngoại trừ gởi vài người làm việc nhân đạo đến để trấn an lương tâm.
Thế mà các mâu thuẫn thường có những lý do sâu xa và đôi khi còn có các cường quốc tham dự vào: lợi ích chính trị và kinh tế quan trọng là ở đó. Con hiểu đó chúng ta cần thì giờ để giải thích các chuyện này nhưng bây giờ mình đang ở thời đại của bấm nút chuyển đài-zapping thì với chút ít thì giờ chẳng thuận lợi gì để có những phân tích dài dòng.
Người ta đi từ chuyện khẩn cấp này qua chuyện cấp kỳ khác, cơn khủng hoảng mới lấy ngay chỗ cơn khủng hoảng cũ, người ta quên ngay lập tức. Thường thường, các trạng huống mâu thuẫn được trình bày tóm gọn qua vài hình ảnh của những tổ chức nhân đạo hay hình ảnh binh sĩ đang giúp dân chúng đói khổ.
- Con đồng ý với ba, nhưng những hình ảnh truyền hình đưa ra là những hình ảnh thật!
- Con nên hình dung là không! Chuyện dối trá nổi tiếng nhất là chuyện xảy ra ở Timisora, một thành phố nhỏ ở Roumanie. Năm 1989, truyền hình Roumanie chiếu hình ảnh mà họ trình bày như một hố chôn người tập thể, những mảnh vụn của một cuộc thảm sát to lớn mà họ gán cho cảnh sát của chế độ độc tài cộng sản Ceausescu làm. Trên thực tế đó là ghép hình cốt để gây phẫn nộ chống nhà cầm quyền Roumanie. Rất nhiều kênh truyền hình truyền đi những hình ảnh này mà không bỏ thì giờ để kiểm nguồn gốc. Tất cả mọi người đều có thể bị lợi dụng.
Từ đó, các ký giả càng chú ý hơn về những hình ảnh họ đưa ra cho dân chúng xem. Và đó là chuyện bình thường vì họ biết họ có một trách nhiệm lớn lao đối với ý kiến quần chúng.
Dù vậy, đối với những việc làm nhân đạo, truyền hình vẫn là dụng cụ không thể thay thế được để chiếu lên những hình ảnh của những cuộc tranh chấp bị bỏ quên, những nạn nhân không ai nói đến.
Các tổ chức nhân đạo
làm việc như thế nào?
- Làm sao các tổ chức nhân đạo chọn lựa nên làm việc trong xứ sở này, không làm việc trong xứ sở kia?
- Tổ chức nhân đạo thường khởi phát do phản ứng trước một tình trạng nghiêm trọng. Đôi khi dân chúng bị khốn cùng gởi lời kêu cứu S.O.S.
Có những hoàn cảnh, một Tổ Chức Phi Chính Phủ ở miền Nam gởi cho đồng nghiệp ở miền Bắc để xin giúp đỡ khi họ đối diện trước một hoàn cảnh khó khăn.
Dĩ nhiên không ai có thể hiện diện ở mọi nơi cùng một lúc. Như thế mỗi Tổ Chức Phi Chính Phủ tùy theo sự khéo léo của họ, họ quyết định nên làm việc nào ưu tiên trước. Đối với tổ chức y tế nhân đạo, nếu tình trạng y tế nước nào suy kém chỉ vì nước đó đang có chiến tranh và họ không thể nào giúp dân chúng thoát nguy hiểm thì đó là công việc ưu tiên.
- Và sau đó, công việc tiếp diễn như thế nào?
- Một phái đoàn quan sát được gởi đến tại chỗ, thường thường là hai hoặc ba người có kinh nghiệm đến để ước lượng các nhu cầu.
Hai nguyên tắc tuyệt đối thiết yếu:
Trước hết phải được tự do tiếp xúc với dân chúng cần được giúp đỡ, có nghĩa là được trực tiếp nói chuyện với họ mà không có sự hiện diện của quân đội.
Kế đó là việc đánh giá một cách độc lập các nhu cầu, có nghĩa là mình phải tự đánh giá các nhu cầu thiết yếu và tình trạng dân chúng cần được giúp đỡ như thế nào.
Đó là những điều kiện rất khó thực hiện ở Bắc Hàn vào năm 1998. Chính quyền muốn che giấu tình trạng y tế và điều kiện dinh dưỡng thê thảm của xứ họ và họ còn cắt xén một phần trợ cấp nhân đạo.
- Nhưng nếu rất khẩn cấp?
- Nếu có những lý do mà họ nghĩ rằng rất nghiêm trọng thì nhóm đầu tiên lên đường với dụng cụ và thuốc men.
Trong trường hợp này thì thời gian đánh giá rất ngắn ngủi, chỉ cần vài ngày, đôi khi họ phải hành động ngay lập tức: chẳng hạn trong trường hợp có một làn sóng tị nạn ùa đến và tình trạng sức khỏe của họ không tốt.
Ngược lại, nếu không khẩn cấp thì cần thì giờ để nghiên cứu cho đầy đủ.
Cần phải ghi chú lối sống, phong tục, nhà ở, thói quen ăn uống, máy nước của họ. Nhưng cũng phải biết các loại bệnh chính mà họ hay mắc phải, tổ chức y tế để đối diện, đường xá và phương tiện liên lạc.
Tất cả đều hữu ích, vì sẽ dùng những dữ liệu này để lên chương trình hành động, sau đó đem chương trình này ra bàn thảo với đại diện của dân địa phương.
Kế đó phải tìm nguồn tiền bạc cần thiết để làm việc.
- Như vậy tiền bạc cho những tổ chức nhân đạo lấy từ đâu?
- Bằng một hành động đặc biệt, các Tổ Chức Phi Chính Phủ kêu gọi sự trợ giúp của những tổ chức tư nhân.
Cũng có những người hỗ trợ thường xuyên như dì Yvette của con, như cha mẹ của Véra và Willy, bạn con. Hình thức giúp đỡ này rất quan trọng bởi vì với những tiền tặng này các Tổ Chức Phi Chính Phủ có thể chọn lực các việc làm của mình một cách tự do.
Các tổ chức quốc tế như Liên Hiệp Âu Châu cũng cho tiền cho một vài tổ chức nhân đạo.
Cũng có những vụ tai tiếng ăn xén tiền – nhưng rất hiếm – của những người không có tư cách. Như thế con biết vì sao các tổ chức nhân đạo đã có những cố gắng để trình bày cho dân chúng biết cách họ quản trị số tiền quyên được. Họ làm qua hình thức báo chí bằng cách lập một hội đồng các ân nhân kiểm sổ sách xem chi tiêu có như loan báo không.
- Trong những xứ nghèo, có ai làm việc nhân đạo không?
- Có chứ. Và đó là một chuyện rất tốt. Càng ngày càng có những Tổ Chức Phi Chính Phủ được thành lập ở các xứ miền Nam bán cầu. Một vài tổ chức làm dưới ảnh hưởng của Giáo Hội, một vài tổ chức khác đơn giản là các chuyên gia trong ngành y tế, nông nghiệp, giáo dục.
Vấn đề chính của họ là tìm tiền bạc để bảo trợ cho các chương trình của mình. Thường thường các việc làm chung được phát triển giữa các Tổ Chức Phi Chính Phủ ở miền Bắc và các đồng nghiệp của họ ở miền Nam. Người ta gọi đó là cùng cộng sự.
Đó là một tiến bộ quan trọng bởi vì thường thường nó đảm bảo cho sự liên tục khi sứ vụ miền Bắc chấm dứt. Để các chương trình này được thành công, nhân viên làm việc nhân đạo không những phải giỏi mà còn phải có lòng chú tâm và khiêm tốn.
- Vậy ai là những người được các Tổ Chức Phi Chính Phủ gởi ra nước ngoài?
- Đó là những người mà nghề nghiệp, tài khéo léo của họ có thể hữu ích cho việc làm nhân đạo: các bác sĩ, y tá, dinh dưỡng gia, các nhà quản trị, các nhà tin học lo các vật liệu cần thiết.
Ngay từ đầu các Bác Sĩ Pháp đã bỏ bệnh viện hay phòng mạch vài tuần để lên đường làm công tác nhân đạo, họ ra đi chỉ với hộ chiếu trên tay và một thùng thuốc men.
Bây giờ càng ngày càng có những người làm ăn lương, họ đến tại chỗ trong một thời gian dài; họ được huấn luyện và thường họ cùng làm việc với những người thiện nguyện chỉ đi làm việc vài tuần hay vài tháng.
Như thế các Tổ Chức Phi Chính Phủ ngày càng trở nên nghề nghiệp. Người ta nói đó là "nghề nghiệp hóa việc làm nhân đạo." Chất lượng của những chương trình thực hiện ở địa phương được cái tiến không ngừng. Và đó là điều đáng mừng vì dân chúng được hưởng nhờ.
- Như vậy cái mà ba gọi là "nghề nghiệp hóa nhân đạo" là tốt phải không?
- Không phải lúc nào cũng vậy. Bây giờ các tổ chức nhân đạo quản trị một số lượng lớn tiền bạc, thâu dụng nhiều nhân viên và làm việc gần như những công ty.
Như thế buông bỏ một chương trình quan trọng đang thực hiện với một ngân khoản lớn, có nhiều nhân viên không phải là một việc mà người ta quyết định một cách dễ dàng được.
Tuy nhiên trong một vài trường hợp, không thể nào nhắm mắt khi người ta dùng các việc làm nhân đạo để làm dễ dàng cho việc cưỡng bức dân chúng di tản. Ở Éthiopie, các Bác Sĩ Không Biên Giới đã can đảm tố cáo việc này và họ đã bị tống xuất.
Cũng có khi các chuyên gia nhân đạo hoặc do làm việc theo thói quen hoặc do không đủ cảnh giác trước một tình trạng chưa từng xảy ra. Chẳng hạn năm 1990 ở Roumanie, có hàng ngàn trẻ em suy dinh dưỡng trong các viện mồ côi ở Roumanie. Các chuyên gia thường quen với các tình trạng đói kém nghĩ rằng các em là nạn nhân của việc đối xử không tốt.
Nhưng khi các Bác Sĩ Thế Giới khám các em bé Roumanie, họ chẩn ra ngay bệnh Sida. Các bác sĩ này đã săn sóc bệnh Sida trong các bệnh viện ở Pháp nên họ nhanh chóng nhìn thấy.
Con thấy đó chuyên ngành quá trong các hoạt động nhân đạo nhiều lúc cũng có cái hại. Vì thế một vài Tổ Chức Phi Chính Phủ nhấn mạnh đến việc thâu nhận các thiện nguyện viên để phòng ngừa tình trạng này.
Ở Pháp, các tổ chức nhân đạo
làm được những việc gì?
- Nhưng ở trong xứ của mình cũng có những người cần được giúp đỡ!
- Con có lý. Từ rất lâu đời, nước Pháp có truyền thống giúp đỡ những người khốn khó nhất là các tổ chức bác ái. Chữ bác ái – caricatif có nguồn gốc từ chữ la-tinh là caritas, có nghĩa là bác ái. Và thường các cơ quan này do các tôn giáo đỡ đầu, Cứu Tế Công Giáo, Tương Trợ Tin Lành nhưng cũng có những tổ chức không tôn giáo như ATD Quart Monde hay Cứu Tế Phổ Thông.
Sau ba mươi năm sống thoải mái sau chiến tranh, nước Pháp, cũng như các nước kỹ nghệ khác lâm vào tình trạng thất nghiệp trầm trọng vào những năm 1980. Có những gia đình gặp khó khăn trong vấn đề ăn, ở, y tế. Ngoài đường phố bắt đầu xuất hiện những người vô gia cư, những người không nhà không cửa không việc làm. Mùa đông họ chịu lạnh cắt da.
- Tại sao mỗi năm có nhiều người chết lạnh ngoài đường?
- Bởi vì đến mùa đông, vấn đề nhà ở cho những người vô gia cư vẫn là một vấn đề nan giải.
Suốt năm lúc nào cũng có vấn đề về nhà ở cho họ, hoặc số giường không đủ, hoặc đón tiếp không được tốt nên họ thích ở ngoài đường. Hơn nửa có những quy luật nội bộ bắt buộc họ phải rời chỗ ngủ sớm vào sáng hôm sau làm cho họ thấy khó khăn. Có một chỗ ấm để ngủ một đêm không có nghĩa là sẽ có chỗ ngủ đó cho những đêm tiếp theo.
Mùa đông đến, lương tâm con người trở nên nhức nhối chịu không được khi họ nghe có người chết lạnh ngoài đường. Nhưng một khi mùa xuân đến, ho nhanh chóng quên những gì đã làm họ phẫn nộ mấy tháng trước.
- Vậy các tổ chức nhân đạo làm được những gì?
- Đối với các tổ chức nhân đạo, nhất là các Bác Sĩ Pháp, họ đặt ra một vấn đề đạo đức: Có hợp pháp không nếu đi săn sóc mọi người ở bốn phương mà không quan tâm đến những người đau khổ ở gần mình?
Và thế là họ mở các phòng khám miễn phí để đáp ứng nhu cầu sức khỏe cho những người mà từ nay họ gọi là những người "nghèo mới" hay "những người ở ngoài lề sống trong tình trạng bấp bênh."
- Ngoài lề và bấp bênh có nghĩa là gì?
- Những người ở trong tình trạng ngoài lề là những người dần dần mất đi quan hệ với xã hội. Chung chung khởi đầu do mất việc làm: tình trạng thất nghiệp làm họ bị đuổi nhà. Rồi sau đó là các khó khăn gia đình, chia tay, ly dị. Rồi đến đi ở đậu ở các nhà cho ở đậu tạm thời, kế đó là ra ngoài đường sống.
Thường thường những người này sống trong tình trạng tuyệt vọng về tâm lý. Họ mất mối dây liên lạc với xã hội; quan hệ gia đình, bạn hữu, đồng nghiệp, hàng xóm mà hồi xưa họ quen biết. Nếu ngay từ đầu không giúp được họ thì sau đó rất khó để kéo họ ra khỏi tình trạng sống bên lề.
Những người sống trong tình trạng bấp bênh thì đông hơn, họ sống trong những điều kiện bất ổn có thể dẫn đến cuộc sống bên lề. Họ không có việc làm cố định, nhà ở của họ có thể bị lấy lại và họ có vấn đề sức khỏe. Hiểm nguy là họ dễ rơi vào tình trạng khốn cùng nếu họ gặp bất cứ một vấn đề nhỏ nào do tình trạng mong manh của họ.
- Và đa số họ có vấn đề sức khỏe?
- Đúng. Hồi mới đầu, chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy họ mang nhiều bệnh khác nhau.
Trong số họ có những người thất nghiệp lâu dài, họ hết quyền hưởng An Sinh Xã Hội: các chi tiêu về y tế cho bản thân và cho gia đình không được hoàn trả.
Cũng có những người nước ngoài, không có giấy tờ hoặc giấy tờ không hợp lệ, cũng có nhiều bà mẹ không đủ tiền mua thuốc, những trẻ em "bụi đời"…
Ngắn gọn, phòng chờ của các cơ quan nhân đạo không lúc nào vắng người. Và thế là các Bác Sĩ Thế Giới sáng tạo ra một hệ thống săn sóc sau này thành công vượt bực: trong cùng một chỗ, không cần lấy hẹn, họ được săn sóc sức khỏe và hướng dẫn các quyền lợi xã hội. Có nghĩa là vừa săn sóc sức khỏe vừa tìm phương tiện giúp họ được trợ cấp tài chánh hoặc tạo điều kiện dễ dàng cho họ được hưởng những quyền lợi mà họ không biết.
Dần dần hệ thống này được lồng trong các bệnh viện, nơi từ trước đến nay đón tiếp những người cùng khốn không được tốt cho mấy. Những người làm việc nhân đạo bắt đầu can thiệp với chính quyền nếu họ thấy chính quyền làm việc chậm chạp hay không chịu nới rộng thêm các quyền lợi xã hội cho những người bên lề.
- Mọi chuyện có trở nên tốt hơn không?
- Có nhưng rất chậm. Các cơ quan bác ái, các tổ chức nhân đạo không ngừng bênh vực cho những người cùng khốn, họ nói trên báo chí, trên truyền hình. Với sự ủng hộ của đại đa số dân chúng, họ thúc đẩy các chính quyền kế tiếp nhau nỗ lực để chống lại tình trạng sống ngoài lề và bấp bênh của những người này.
Những thay đổi quan trọng đã xảy ra:
Trước hết, mở chương trình Bổ Túc Lợi Tức Tối Thiểu – RMI – Revenu minimum d'insertion – cho những người trên 25 tuổi đang thiếu thốn và họ được săn sóc y tế miễn phí.
Rồi tổ chức Giúp Đỡ Y Tế rộng rãi giúp đỡ người bệnh không có đủ lợi tức. Chương trình SAMU ở Paris và các tỉnh giúp đỡ những người sống ngoài đường phố. Gần đây chương trình CMU giúp cho hàng triệu người được săn sóc y tế miễn phí.
Các chương trình về nhà ở, về biên lai tiền sưởi, tiền điện cũng được quan tâm đến.
Trong các năm 1990, nước Pháp và hệ thống quản trị các bệnh viện, các dịch vụ xã hội chưa sẵn sàng để đáp ứng trước vấn đề to lớn như thế này.
Chỉ đến vào cuối thế kỷ vừa qua, các cải thiện mới bắt đầu thấy rõ cùng một lúc nạn thất nghiệp được giảm xuống. Tuy nhiên hàng triệu người vẫn còn cần đến bữa ăn của những Tiệm Ăn Quả Tim – Restos du Coeur của Coluche, cần đến áo quần của Cứu Tế Công Giáo phân phát, cần đến chỗ trọ qua đêm của Đội Quân Cứu Tế – Armée du Salut, cần đến săn sóc y tế của Bác Sĩ Pháp, hay săn sóc hàng ngày những người nghèo nhất của ATD Quart Monde.
- Còn trẻ em thì sao?
- May mắn thay ở Pháp có chương trình Bảo Vệ Mẫu Nhi – PMI, từ khi sinh đến 6 tuổi, theo dõi trẻ em về mặt sức khỏe và giúp đỡ các gia đình gặp khó khăn.
Nhưng thỉnh thoảng chương trình này cũng không đủ. Như trường hợp bệnh ngộ độc chì xảy ra cho các em bé sơ sinh. Người ta tìm thấy bệnh này nơi những căn nhà cũ kỹ sơn bằng loại sơn có chất chì. Khi sơn tróc, mảng rớt xuống đất, các em bé ăn vì sơn có vị ngọt. Hậu quả rất đáng sợ vì chì dính chặt vào cơ thể, đặc biệt là trên óc làm trí tuệ trì trệ, học hành khó khăn. Phải theo dõi nồng độ chì trong máu và phải định cư lại hàng ngàn trẻ em bị ngộ độc, hoặc đưa đi nơi khác, hoặc sửa lại các chung cư cũ. Tình trạng này được biết từ lâu nhưng những biện pháp cái thiện thì chậm chạp một cách tuyệt vọng.
Vì thế các tổ chức nhân đạo sau một thời gian điều tra đã quyết định cho công chúng biết kết quả là có rất nhiều trẻ em đang gặp nguy hiểm, đã làm cho dân chúng rất xúc động. Vừa qua có bộ luật ban ra nhằm kiểm soát tình trạng một cách tốt hơn. Nhưng cần theo dõi để biết bộ luật có được tôn trọng thật sự hay không.
- Còn những em bé nước ngoài?
- Các tổ chức nhân đạo vẫn rất quan tâm đến các em Rom người tzigane. Trong ngôn ngữ truyền thống của họ, Rom có nghĩa là một "con người". Họ là một dân tộc có khoảng từ 8 đến 10 triệu người. Đa số sống ở Đông Âu và là nạn nhân của kỳ thị, lợi dụng, ngoài lề. Vì vậy rất nhiều người trong số họ đến Pháp ở. Người ta gọi họ là "dân đi đây đi đó" vì đời sống du mục của họ, họ di chuyển trên những chiếc nhà lưu động giống như những người tzigane khác ở Pháp. Lối sống khác biệt này không được dân chúng chấp nhận và đôi khi các thị trưởng thành phố từ chối không cho con cái họ ghi tên học.
Các cơ sở y tế PMI không được chuẩn bị để đón tiếp những gia đình này làm cho họ có cảm tượng bị khước từ.
Các tổ chức nhân đạo cố gắng giúp đỡ họ, tháp tùng họ trong các sinh hoạt hàng ngày để con cái họ được đến trường, được chích ngừa, được săn sóc lúc bệnh hoạn.
- Ở trường, người ta hay nói đến những người nghiện ngập. Các tổ chức nhân đạo có làm gì để giúp những người trẻ này không?
- Những người trẻ nghiện ngập này đôi khi họ mang bệnh viêm gan hay Sida khi chích thuốc phiện vào mạch máu với những ống kim trao đổi qua về với nhau. Họ ở trong những điều kiện xã hội và tâm lý cực kỳ khó khăn. Người ta nói đó là những người bên lề của những người bên lề bởi vì các cơ sở y tế khó lòng chấp nhận họ.
- Nhưng người ta có thể làm gì cho họ?
- Lâu nay chính quyền cấm dùng thuốc phiện và đuổi những người nghiện ngập đi chỗ khác. Từ sự kiện này, họ cảm thấy mình bất hợp pháp, không dám đi khám bệnh. Thái độ này dẫn đến thảm họa trong nhiều xứ và làm cho bệnh Sida lan truyền dễ dàng. Đó là trường hợp nước Pháp.
Các cơ qua mới như AIDES và Bác Sĩ Thế Giới quyết định can dự nhân đạo và không bỏ rơi những người này. Những người nghiện ngập là những người nghèo nhất xã hội, họ là những người tuyệt vọng và chán nản.
Trước hết các cơ quan này mở những trung tâm dò tìm bệnh tật vô danh và miễn phí để tránh các bệnh nhân bị nhận diện.
Sau đó, họ tổ chức những chiếc xe buýt lưu động để trao đổi các ống chích vô trùng, phân pháp bao cao su để bao đảm vệ sinh trong giao hợp. Thông tin về hiểm họa của bệnh cũng được giải thích trên xe buýt này.
Sau này, có những trung tâm y tế phân phối các sản phẩm "thay thế" để thay các loại thuốc phiện dưới dạng chích.
Có những cuộc đời được cứu sống nhờ những tổ chức này, rất nhiều người nghiện ngập được các cơ quan này săn sóc và bây giờ họ là những người đi săn sóc lại cho người khác.
Con thấy, đó là can dự nhân đạo. Nhưng từ vài năm gần đây, các hình thức nghiện ngập đã biến đổi.
- Biến đổi như thế nào?
- Bây giờ người trẻ dùng rất nhiều loại rave parties. Động từ to rave trong tiếng anh có nghĩa là "nói sảng". Đó là những buổi nghe nhạc techno quy tụ hàng ngàn hoặc hàng chục ngàn người trẻ. Thường được tổ chức ở ngoài đồng quê, ở đó người trẻ nhảy có khi cả mấy ngày liền. Rất nhiều người trẻ hút thuốc phiện hay họ nghĩ đó là thuốc phiện. Có những tai nạn trầm trọng xảy ra. Cảnh sát cấm các cuộc tụ họp này, đa số không có đơn vị y tế săn sóc tại chỗ và cũng không có nước. Và thế là các tổ chức nhân đạo đến các rave parties để săn sóc y tế nhưng nhất là để nói cho họ biết những nguy hiểm khi hút các chất độc hại này.
- Vậy mình không chiến đấu chống thuốc phiện, chất độc làm hại bao nhiêu người?
- Chiến đấu chống những người buôn thuốc phiện thì vẫn tiếp tục. Đó là nhiệm vụ của cảnh sát. Tất cả mọi người sẽ vui mừng sống trong một xã hội không có nghiện ngập. Nhưng phải thực tế, xã hội này chưa có được trong nay mai.
Trong lúc chờ đợi thì phải giới hạn các nguy cơ bệnh tật trầm trọng nơi người nghiện ngập, những người chung quanh họ và một cách nào đó là tất cả mọi người. Và đó là lý do vì sao người ta gọi đó là thái độ làm giảm thiểu các nguy cơ.
Cũng như các hoạt động của họ ở nước ngoài, các tổ chức nhân đạo hành động trong nước bằng cách báo động cho dân chúng biết một số tình trạng nghiêm trọng và bất công. Họ không tự cho mình có thể giải quyết vấn đề nêu ra nhưng giống như ba nói với con, rất nhiều người được giúp đỡ và chắc chắn các tổ chức này đã đóng góp vào việc thay đổi luật lệ và sửa chữa lại một số việc làm không đúng.
- Trong những chuyện ba kể cho con nghe, có những chuyện buồn nhưng cũng có những chuyện đầy hy vọng.
- Chắc chắn rồi, có những chuyện buồn, đó là thực tế rất nhiều người trên thế giới này đã sống và ngay cả ở nước chúng ta. phải nói lên để người ta đừng quên họ.
Các người làm việc nhân đạo đã cống hiến công sức vô cùng để giúp người khác, đôi khi họ còn đổi mạng sống của mình. Bù lại, họ nhận được rất nhiều: việc làm nhân đạo mang đến cho họ niềm vui vô tận, những niềm vui họ không bao giờ quên. Buổi lễ người dân Phi Châu mừng vì giếng nước được đào. Nụ cười rạng rỡ của bà mẹ Kurde vì con được chữa lành. Các món quà nhỏ của những nông dân mễ Tây Cơ hay người Touaregs ở Mali cho… Tất cả những chuyện đó cũng là nhân đạo.
Bởi vì trong danh từ đẹp đẽ "nhân đạo" có chữ "nhân". Nhưng chữ này thì con hiểu rồi đâu cần ba phải giải thích.
Lời cám ơn
Rất nhiều em bé đã kiên nhẫn và bền bỉ tham dự vào các buổi đọc bản văn này. Các em nhận từ đây, trong cái nháy mắt của tôi, lòng biết ơn chân thành: Lou Grangeon, Marine và Louise Hamon, Camille Loiseau, Benjamin Fels, Jérémie Janiquot, Florian Lasternat, Blandine Loyer, Roxane và Hadrien Mamou.
Isabelle Finkelstein, Roland Guénoun và Stéphane Sisso đã cho tôi những lời khuyên quý giá. Các buổi thảo luận với Jean-Claude Guillebaud đã làm sáng rõ nhiều chuyện. Và nếu không có sự khuyến khích và lòng tin tưởng của Colette Mamou thì bản văn này chẳng bao giờ được viết lên.
Đương nhiên tác giả vẫn là người chịu trách nhiệm về nội dung và hình thức cuối cùng của quyển sách.
Mục lục
Lời nói đầu. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 7
Thế nào là hành vi nhân đạo? . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . 9
Hành vi nhân đạo lúc nào cũng có mặt? . . . . . . . . . . . . . . . . 13
Các tổ chức nhân đạo đã làm được những gì? . . . . . . . . . . . . 22
Các tổ chức nhân đạo có phải lúc nào cũng là một lý do tốt? 35
Các tổ chức nhân đạo làm việc như thế nào? . . . . . . . . . . . . . 41
Ở Pháp, các tổ chức nhân đạo làm được những việc gì? . . . . 46
"Khi đi công tác nhân đạo trở về, các con thường hay nói tôi kể cho chúng nghe tôi đi đâu và tại sao tôi đi. Các câu hỏi thì đơn giản nhưng câu trả lời thì không đơn giản. Nếu chúng xúc động mạnh ngay lập tức khi xem truyền hình là vì chúng muốn tìm hiểu. Tại sao tất cả những chuyện đó lại có thể xảy ra? Tại sao người ta không phản ứng? Các xứ giàu và dân chủ đã làm gì? Về phần tôi, lúc nào các câu hỏi cũng ngừng lại ở những điểm thiết yếu. Những gì tôi làm có hiệu quả không? Có thể làm một cách khác tốt hơn và bằng cách nào?
Dựa trên kinh nghiệm riêng của tôi, tôi muốn kể lại cho các con lịch sử của việc làm nhân đạo, nhấn mạnh trên những thành công nhưng cũng không giấu các giới hạn và những điều chưa rõ ràng."
Jacky Mamou
Jacky Mamou là bác sĩ nhi khoa. Ông là giám đốc tổ chức Bác Sĩ Thế Giới từ năm 1996 đến năm 2000.
—oOo—
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét