Từ Konjaku Monogatari (Truyện giờ đã xưa) *** Nguyễn |
Cảnh lũ quỉ mổ bướu cho người trong Konjaku Monogatari.
Trích Genshoku Shin Kokugo Binran (2002)
TIẾT I: TRUYỆN THUYẾT PHÁP HAY RĂN ĐỜI (THUYẾT THOẠI, SETSUWA) [1]
Kể từ giữa thời
Đến thời viện chính ( insei hay chính trị của viện sảnh) nghĩa là quãng thời gian 250 năm từ năm 1086 mà thực quyền chính trị ở Kyôto lại nằm trong tay các thái thượng hoàng đã xuất gia tức các Hô-Ô (Pháp Hoàng) dù đã về hưu vẫn còn giật giây đằng sau các quyết định chính trị qua các tổ chức không chính thức gọi là viện sảnh, khuynh hướng văn học nầy càng tiến triển thêm. Do đó, giữa tiền bán thế kỷ thứ 12, chúng ta mới có được tác phẩm tập đại thành của “văn chương thuyết thoại” (setsuwa bungaku) Nhật Bản là Konjaku Monogatari Shuu (Kim Tích Vật Ngữ Tập).
A) Konjaku Monogatari Shuu (Kim Tích Vật Ngữ Tập):
Sách được biên soạn vào tiền bán thế kỷ 12 (khoảng 1120?) nhưng không rõ ai là tác giả. Nó sưu tập trên 1000 câu truyện, gồm 31 cuốn, (thiếu mất các cuốn 8, 18 và 21), chia làm ba bộ nói về Ân Độ (Thiên Trúc, các cuốn 1 đến 5), Trung Quốc (Thần Đán, các cuốn 6 đến 10) và Nhật Bản (bản triều, các cuốn 11 đến 31). Đối với nhận thức của người đương thời, ba nước trên có nghĩa là toàn thế giới. Nội dung gồm 2 phần, một về những truyện răn dạy có tính cách Phật Giáo, một về những truyện răn dạy có tính cách thế tục (ví dụ như truyện khuyên người ta giữ đạo hiếu).
Phần “thuyết thoại Phật Giáo” (các cuốn 1 đến 9 và 11 đến 20) trình bày những truyện kể từ lúc Phật Giáo ra đời cho đến khi đạo nầy được truyền bá đến các nước nhưng không có chủ đích nói về sự linh nghiệm nhờ có lòng tin Phật Giáo. Qua những câu chuyện về đạo Phật, phần nầy chỉ trình bày cách sống, hành vi của con người trong xã hội của ba nước ấy mà thôi.
Phần “thuyết thoại thế tục” (cuốn 10 và các cuốn từ 21 đến 31) đặc biệt chú mục đến cuộc sống muôn màu muôn vẻ của con người. Các nhân vật được đưa lên sân khấu thuộc mọi thành phần trong xã hội, không những quí tộc mà còn là vũ sĩ, thứ dân và cả đạo tặc nữa. Qua nó ta thấy tất cả bức tranh xã hội về những con người đang sống trong một thời đại hổn độn, đảo điên được tô vẽ một cách khéo léo. Vì thế, giá trị văn học của loại thuyết thoại nầy được đánh giá cao.
Những thuyết thoại trong Truyện Giờ Đã Xưa ( Konjaku[7]) đều trình bày với lớp lang, thu thập từ nhiều nguồn khác nhau[8] nhưng lúc nào cũng bắt đầu bằng công thức: Xưa kia có…(Ima wa mukashi), nếu đem dịch từng chữ một thì nó là “So với bây giờ thì đã xưa rồi” [9] và kết luận bằng công thức Truyện đã được kể và truyền lại như thế đấy (to namukatari-tsutaetaru to ya). Tóm lại, cách trình bày có vẻ thống nhất và đồng loạt.
Có thể bảo những gì mà văn học cung đình (Truyện Genji, Ôkagami…) không nhắc tới thì người ta viết cả vào trong Konjaku. Hầu như nó gom góp truyện từ khắp nơi trong nước vì Nhật Bản có 60 tỉnh thì chỉ 3 tỉnh (Iki, Tsuhima, Iwami) là không được nói đến mà thôi.
Để viết một tác phẩm có tầm cỡ như thế nầy, đã đành nhờ có những cá nhân biên soạn thích quan sát và nghiên cứu tâm lý con người nhưng sự ra đời của Konjaku cũng phản ánh phong trào của thời chính trị viện sảnh. Nhân lúc đó các thiên hoàng ẩn dật muốn dành lại quyền bính từ mạc phủ (qua trung gian các viện sảnh) nên khuynh hướng người đương thời là quay nhìn, đánh giá và chỉnh lý văn hoá giai đoạn toàn thịnh của chính trị vương triều (thời Hei-an) vừa khép lại. Về mặt hình thức, Konjaku được viết bằng chữ Hán kèm theo chữ katakana viết lối nhỏ bên cạnh như đã thấy trong các chiếu chế (senmyôsho = tuyên mệnh thư) có tính chất văn thư hành chánh [10]. Cách diễn tả bằng thứ văn tự hỗn hợp và thống nhất như thế rất thích hợp cho nội dung cuốn sách vốn thô sơ, gọn gàng nhưng mạnh mẽ.
Về mặt nội dung, Konjaku nổi bật với bốn đặc điểm [11]:
1- Tuy nhằm ca tụng cái cao diệu của Phật Giáo nhưng phần lớn các truyện trong Konjaku, số truyện kể việc cải tử hồi sinh và trở nên giàu có được thấy rất nhiều và thường là kể lể dài dòng. Điều nầy chứng tỏ người biên soạn Konjaku rất hiểu tâm lý quần chúng Nhật cùng thời có khuynh hướng muốn thực hiện cảnh cực lạc ngay trong cuộc sống hiện tại chứ không đợi một cõi đời sau.
2- Konjaku pha trộn rất nhiều truyện có nguồn gốc dân gian (ví dụ truyện hai người đàn bà mạnh bạo đánh nhau trong quyển 23, truyện 17 hay truyện người bị phun nước bọt vào mặt thành ra biết tàng hình, quyển 16, truyện 32). Nhiều khi còn có tính cách “đạp đổ thần tượng” (iconoclast) như việc chế diễu phù thủy ( phù thủy biết bay nhưng sau khi lấy vợ quên mất pháp thuật, quyển 11, truyện 6) , thần thánh (nhà sư dũng mãnh ngăn được dân làng đem gái tế thần khỉ, quyển 26, truyện 8) hoặc những kẻ trá hình Phật để doạ nạt người (con trăn thành tinh giả dạng Phổ Hiền Bồ Tát, lừa được nhà sư nhưng bị gã thợ săn bắn chết, quyển 20, truyện 13). Điều này chứng tỏ cái lẽ thông thường (common sense) nhiều khi đáng tin cậy hơn cả tôn giáo.
3- Nếu trong văn chương cung đình như ở các monogatari thời Heian, tính dục chỉ được tả lướt qua hoặc gián tiếp thì trong Konjaku, nó bộc lộ rõ ràng (truyện người đàn bà đi chữa cái nhọt trong chổ kín từ chối sự thèm muốn của ông thầy thuốc, quyển 24, truyện 8). Có lúc đi đến chỗ khích dâm như truyện bà Some dono (tức Fujiwara Akiko, phi tần của thiên hoàng Montoku) làm tình với con tinh núi Kongô một cách thoải mái giữa cung cấm một cách “bẩn thỉu không bút nào tả xiết” trước mặt thiên hoàng và văn võ bá quan làm nhà vua chỉ biết bụm mặt khóc ròng (quyển 20, truyện 7).
4- Thế giới của Konjaku không có nhiều diễn biến tâm lý bên trong nhân vật. Nó là thế giới của hành động. Lấy ví dụ truyện 23 trong quyển 29 nói về một chàng quí phái cùng vợ vượt núi Ôeyama, đem cung đổi lấy kiếm của một tên cướp, sau bị nó trói và hiếp cả vợ, cho ta thấy ở đời nếu không suy xét tình hình và hành động kịp thời sẽ gánh lấy hậu quả không hay. Dĩ nhiên về sau, qua truyện Bốn bề bờ bụi (Yabu no naka) của Akutagawa hay phim Cổng La Sinh Môn (Rashômon) của đạo diễn Kurosawa, triết lý của câu chuyện nhằm ở chỗ phân tích đâu là sự thật và có mấy sự thật nhưng chưa chắc là bản ý của người sưu tập truyện ấy trong Konjaku.
Những cảnh tả về thế giới hành động được thấy qua các truyện liên quan đến cuộc sống của lớp samurai (hành quân, báo thù …) và đã để lại dấu ấn trong các ký sự chiến tranh về sau như Truyện Heike (Heike Monogatari).
Sau đây là vài truyện trong Konjaku thường được trích dẫn:
1) Truyện bà mẹ sinh 500 trứng:
Đức vua nước Hanshara ngạc nhiên thấy bà hoàng hậu có thai và sinh ra một lượt 500 cái trứng. Ngài rầu rĩ vô cùng. Hoàng hậu sợ quá mới tóm hết mớ trứng bỏ vào hộp và thả xuống sông Hằng cho trôi đi.
Lúc đó vua nước láng giềng đi săn, tình cờ bắt gặp cái hộp, mới cho đem về thành. Thế rồi, ít lâu sau, trong hộp lần lượt chui ra những chàng dũng sĩ. Vua vốn không con nên mừng quýnh, hết lòng dưỡng dục các cậu như con đẻ. Năm trăm cậu trở thành 500 chiến sĩ ưu tú, không ai sánh kịp. Nước nầy với Hanshara trước đây vẫn có hiềm khích, vua trông cậy có 500 dũng sĩ làm vây cánh tên mới tuyên chiến với Hanshara, đem binh viễn chinh, bao vây thành trì địch.
Hoàng hậu nước Hanshara khuyên đức vua chớ sợ. Bà nói:
-Năm trăm dũng sĩ của địch chính là 500 cái trứng thiếp đã sinh ra. Nếu thấy được mẹ thì chúng nó sẽ trở về đường thiện.
Thế rồi, hoàng hậu lên thành lâu, kêu gọi 500 chàng dũng sĩ:
-Các con là con ta đẻ ra.Khi ta bỏ trôi sông, vua láng giềng đã bắt đượcđem về nuôi.Thế thì tại sao các con lại tìm giết cha mẹ ruột để phạm tội tầy đình? Các con có tin lời mẹ không? Nếu tin thì hãy hướng về ta mà mở miệng ra!
Thế rồi, hoàng hậu tự tay mình bóp đầu vú. Tức thì một giòng sữa trắng bay vọt ra và đổ vào miệng của 500 chàng dũng sĩ/
-Mẹ ơi!
Năm trăm vương tử dũng sĩ reo lên như vậy và không còn ý muốn tấn công nữa. Về sau, hai nước lân bang trở thành hòa hiếu.
(Konjaku Monogatari, Quyển 5 nói về Thiên Trúc, truyện số 6) [12]
2) Truyện bát canh giun
Đời nhà Tùy trong niên hiệu Đại Nghiệp, ở đất Hà Nam có một người đàn ông bỏ vợ, dắt người ấy trả về nhà cha mẹ.Thế nhưng đến nơi, người nhà ra đón vừa thấy mặt cô ả đã thét lên bởi vì người mà anh đàn ông kia dắt về thân thể tuy như người thường nhưng cái đầu là đầu chó trắng.Người ta bèn vặn hỏi anh chồng:
-Chuyện nầy xảy ra như thế nào?
Anh ta cho biết cô vợ anh được giao phó chăm sóc bà mẹ chồng nhưng rất ghét bà ta. Có hôm, biết mẹ chồng mắt đã lòa, mới đi bắt giun cắt thịt nấu canh cho bà ăn.
-Thức ăn gì mà nùi vị kỳ lạ thế này?
Bà cụ lén giấu thứ thịt đó một bên và đợi con trai về đem cho xem. Anh con chán ngán quá, ly hôn lập tức. Thế rồi anh ta dắt vợ đi trả nhà vợ nhưng giữa đường chợt nghe tiếng sét đánh rồi không thấy bóng cô ta đâu nữa. Một lúc sau trên trời có vật gì rơi xuống. Nhìn lại thì rõ ràng là một người mặc quần áo của vợ nhưng cái đầu đã biến thành đầu chó. Người vợ ấy không nói năng được nữa, chỉ biết sủa như chó mà thôi. Tuy nhiên trước mặt chồng thì còn đối đáp được.
-Tôi là con dâu bất hiếu, bắt giun nấu canh cho mẹ ăn. Trời phạt tôi như thế nầy đó.
Anh con trai không biết cách nào khác, cứ như thế dắt vợ về trả. Sau đó, người vợ ra chợ ngồi ăn xin nhưng chỉ ít lâu sau, không còn ai biết tông tích.
(Quyển 9, phần nói về Thần Đán tức Trung Quốc, truyện số 42).
3) Truyện nữ đạo tặc kỳ dị: [13]
Một buổi chiều kia, một anh samurai khoảng ba mươi tuổi, thân thể vạm vỡ, râu đỏ, đang đi trên đường thì chợt nghe có tiếng ai suỵt suỵt gọi mình. Không phải là chuột kêu nhưng đó là một nàng con gái trong một nhà bên đường đang đưa tay vẫy. Nàng ta là một người đẹp tuổi độ đôi mươi, trên môi đang nở một nụ cười. Nàng mời samurai vào nhà.Chưa chi hai bên đã có vẻ tâm đầu ý hợp. Đêm đến bọn người nhà đem đồ ăn đồ uống đến. Hai người ăn uống xong lại ăn nằm với nhau. Họ cứ nằm nhà mà lúc nào cũng có người đến, khi thì cung phục cơm nước, khi thì sắp xếp dọn dẹp. Anh samurai không phải làm gì cả, cứ thế mà hưởng thụ. Về sau hể anh ta có dịp đi đâu thì người con gái lại sắm sửa y trang, ngựa tốt, kẻ tùy tùng cho.
Được hai mươi hôm thì nàng mới nói:
-Chúng mình coi bộ có duyên nợ với nhau. Nếu bây giờ em có nhờ anh chuyện nguy hiểm gì, liệu anh có giúp em không?
-Em cho anh sống thì anh sống, bắt anh chết thì anh chết!
-Anh dễ thương quá!
Nói rồi đến tối, nàng ta đưa anh ta vào một căn nhà có đủ mọi thứ hình cụ khảo tra, bắt anh tra cởi trần rồi mình ăn mặt như ngục tốt, thẳng tay đánh khoảng 80 roi.
-Anh thấy thế nào?
-Không ăn nhằm gì!
-Giỏi quá ta!
Thế rồi nàng tiếp tục đánh đập anh chàng suốt ba hôm nhưng anh ta vẫn chịu đựng. Nàng để vết thương vừa lành, lại đánh tiếp. Lần nầy không đánh vào lưng mà vào bụng.
-Lần nầy đau không?
-Vẫn chưa đáng kể !
-Thế thì cừ thật !
Rồi nàng đợi cho vết thương lành, vào một buổi tối, cho samurai mặc trang phục màu đen, vũ trang bằng cung.
-Kỳ anh anh ra trận dưới quyền chỉ huy của một người. Họ bảo anh canh giữ chỗ nào, phải làm đúng như thế ấy, không cho kẻ địch lọt qua. Có điều là khi chia phần, anh không có quyền đụng vào mảy may ! Hiểu chưa !
Nhận lệnh xong, anh ta đến chỗ hẹn . Bốn, năm mươi tên đạo tặc đã đợi sẳn. Trong đám, có một chàng trai trẻ nhỏ con, ra vẻ đầu lĩnh.
Bọn đạo tặc vào đánh một nhà giàu lớn ở kinh đô. Anh ta chiến đấu rất hăng, đánh tan kẻ địch nhưng đến khi chia phần, không chịu nhận gì cả. Thủ lĩnh coi có vẽ bằng lòng.
Samurai mê cô gái cho nên anh ta không ngần ngại trở thành đạo tặc và chẳng hề hối hận. Sau đó anh ta còn tham dự nhiều trận và được người con gái giao cho một tài sản kếch xù để cai quản.
Một hai năm sau, nàng con gái ra vẻ lo lắng, khóc lóc.Anh ta mới hỏi :
-Lạ nhỉ, em có bao giờ khóc như thế nầy đâu !
-Vì em thương anh nhưng bây giờ chúng mình phải bắt buộc buông nhau ra, nên em buồn.
-Em ăn nói lạ nhỉ !
-Cuộc đời đâu có chi bền, hở anh. Chuyện đúng như em từng bảo anh đó thôi !
Samurai vẫn không tin điều cô nói là thật. Nhưng một hôm ra ngoài chơi thì kẻ tùy tùng và ngựa bỗngbiến đi đâu mất tiêu, anh ta buộc phải hấp tấp trở về một mình. Đến nhà thì nhà cửa chẳng thấy đâ , của cải nàng giao cho anh ta giữ cũng không cánh mà bay, mới nhớ lại lời cô gái nói.
Anh ta không còn trở lại sống cuộc đời bình thường được nữa. Bèn xin nương náu nơi một người quen nhưng đã quen nghề cướp bóc, rốt cuộc có lần bị quan bắt.
Nàng con gái đó là ai thế ?Làm thế nào mà chợt biến mất không để lại tông tích.Không giải thích được nhưng bây giờ dù có biết thì chẳng ích lợi gì !
Duy anh ta chợt để ý một điều. Người thủ kĩnh của bọn đạo tặc mà anh ta gặp được mỗi một lần. Khuôn mặt người đó dưới ánh lửa đuốc trông giống như nét mặt người con gái…
(theo Quyển 29, trong phần nói về Nhật Bản, truyện số 3)
B) Các tập truyện thuyết pháp khác
Cùng với Konjaku, ta cần nhắc đến một số tác phẩm sưu tập các thuyết thoại thời Hei-an như Hokke Genki (Pháp Hoa Nghiệm Ký), ra đời khoảng 1044-1044, do tăng Chingen (Trấn Nguyên) soạn, thu thập những truyện linh ứng của kinh Pháp Hoa. Ngoài ra, còn có Nihon Ôjô Gokuraku-Ki (Nhật Bản Vãng Sinh Cực Lạc Ký) của Yoshishige-no-Yasutane (Khánh Từ, Bảo Dận) viết khoảng trước năm 985 kể lại truyện những người cả tăng lẫn tục mà tác giả cho rằng có đủ đức hạnh để được siêu thăng cực lạc. Có thể xếp nó vào loại thuyết thoại Phật Giáo như cuốn sách trước. Đến thời viện chính (chính trị viện sảnh) thì có Kohon Setsuwa-Shuu (Cổ Bản Thuyết Thoại Tập) ghi chép lại cả hai loại thuyết thoại liên quan đến thế giới của đạo cũng như đời. Nên kể thêm Gôdanshô (Giang Đàm Sao) ” Truyện do Ôe ghi chép ” của Ôe Masafusa (Đại Giang, Khuông Phòng, 1041-1111), về những gì xãy ra trong xã hội quí tộc từ liên hệ thân tộc, giai thoại về kiến văn quảng bác, truyền thống thi họa, các chuyện quái lạ và âm mưu…xung quanh họ.
Theo học giả người Pháp Bernard Frank (trong từ điển J.J. Origas), nhà nghiên cứu văn học quốc dân Haga Yaichi (Phương Hạ, Thỉ Nhất, 1867-1927) khi xuất bản tập nghiên cứu Konjaku Monogatari-shuu (1913) đồ sộ của ông đã định giá trị của Konjaku rất cao trong dòng văn học thế giới, xem nó như một kho tàng hiếm có trong loại sách “túi khôn của người bình dân” được ghi lại bằng văn viết, làm được cái gạch nối quan trọng của truyền thống truyện cổ dân gian có từ Pancatantra xửa xưa bên Ấn Độ đến Kinder-und-Hausn archen của anh em nhà Grimm gần đây.
TIẾT II: TRUYỆN THUYẾT GIÁO VÀ TRUYỆN RĂN ĐỜI CÓ TÍNH CÁCH THẾ TỤC
Mối quan tâm của người đương thời (
Có thể nói thời trung cổ là thời đại của thuyết thoại [14], bởi vì không những có nhiều tập truyện thuộc thể loại nầy được truyền bá mà thuyết thoại cũng đã trộn lẫn vào các hình thức văn học khác như ký sự chiến tranh, tiểu thuyết lịch sử [15], truyện giải buồn, ca từ của tuồng Nô.
A) Uji Shuui Monogatari (Vũ Trị Thập Di Vật Ngữ)
Tác phẩm nầy có lẽ đã ra đời vào khoảng năm 1221, nhưng chưa rõ tác giả là ai. Nó chứa đựng tất cả 197 biên thuyết thoại dài có, ngắn có với lối văn chữ Nhật (Hòa văn) sáng sủa và giản dị.Truyện sắp xếp không theo thứ tự nào cả. Nội dung có đủ thứ truyện của lớp người bình dân, từ truyện sư phá giới, truyện bọn trộm cướp, truyện đàn bà có sức mạnh dị thường, truyện kẻ béo người mập, truyện dân cờ bạc đi làm rể…được viết ra một cách trôi chảy, nhẹ nhàng, không câu thúc mà ý nghĩa lại đậm đà.Tác giả diễu cợt giới quí tộc không tiếc lời nhưng tỏ ra thông cảm với người bình dân nên được đám đông yêu chuộng. Imogayu “Cháo Khoai” và Jigokuhen “Bức bình phong địa ngục” [16] của Akutagawa Ryuunosuke đã lấy cảm hứng từ Uji Shuui.
Uji Shuui hay ” Truyện Uji Nhặt Sót” vừa kể chịu ảnh hưởng của Kojidan (Cổ Sự Đàm) và Uji Dainagon Monogatari (Vũ Trị Đại Nạp Ngôn Vật Ngữ). Kojidan do Minamoto no Akikane (Nguyên, Hiển Kiêm) soạn ra khoảng trước năm 1215, có đặc điểm là ghi chép lại những truyện bí mật bên trong cuộc sống của giới quí tộc. Còn Uji Dainagon Monogatari chính gốc, đã nói ở phần trên, tương truyền do quan tham nghị cấp cao (Dainagon) tên là Minamoto no Takakuni (Nguyên, Long Quốc, 1004-1077) viết vào hậu bán thời Heian nhưng nay đã thất truyền. Truyện Giờ Đã Xưa (Konjaku) và Truyện Uji Nhặt Sót (Uji Shuui) nầy là hai tác phẩm hàng đầu của văn chương “thuyết thoại” và đều tiếp nhận ảnh hưởng sâu đậm của Uji Dainagon Monogatari, truyện gốc..
Sau đây xin giới thiệu hai truyện ngắn trong tập Uji Shuui:
1) Mắc cỡ hai lần:
Một ông samurai già thề với Đức Phật là sẽ không bao giờ nói dối.
Có cậu chủ trẻ nọ thường cho mình là con đẻ của cụ cố chủ nhà nhưng kẻ chung quanh thường chê bai, tỏ ý không tin vì tuyệt đối không thấy anh ta giống bố chỗ nào cả.
Khi cha anh ta chết, ông samurai già, vốn làm việc lâu năm trong nhà,đã xin thôi để về quê sinh sống nhưng vợ chết, đành trở lại kinh đô.
Thế nhưng, sinh kế khó khăn, không nơi nương tựa, phải quay về nhà chủ cũ.Nghe nói người con hay tự xưng là con đẻ của chủ đang sống ở ngôi nhà cũ, bèn tìm đến. Xin vào gặp thì được cho phép ngay, ông ta mừng thầm, cho là “ngon lành ” rồi. Nhìn quanh, căn phòng khách mà ông ngồi đợi xem ra chẳng có gì khác xưa.
Lát sau, cánh cửa phòng bên mở.Anh chàng tự xưng là con đẻ bước vào. Vừa thấy anh ló dạng, ông già đã cất tiếng khóc bù lu bù loa. Anh con nhà chủ mới hỏi:
-Chuyện gì mà chú khóc như thế?
Thì nghe anh ta trả lời :
-Vì thấy cậu giống cụ ngày xưa qua đỗi, tôi cảm động cầm lòng không đậu !
Cậu chủ trẻ mới nghĩ mình giống ông thân sinh quá cố đến thế nầy mà thiên hạ cứ bảo mình không phải là con đẻ của cụ.Cậu ta bèn ủy lạo ông samurai già :
-Tôi lúc đó còn nhỏ lại được gữi nuôi ở quê mẹ nên không nhớ rõ cụ thân sinh tôi thế nào.Thôi từ nay tôi sẽ xem bác như ông cụ tôi và trông cậy tất cả vào bác đấy nhé.
Nói xong đem áo xống đẹp đẻ ban cho rồi mời đến gặp các bậc trưởng thượng trong thân tộc.
Cậu chủ nghĩ nếu là người mới đến giúp việc thì không nói gì chứ đây là kẻ từng hầu hạ cụ cố lâu năm mà còn bảo là ” giống quá đỗi ” thì lấy làm vững bụng.
Thế rồi cậu chủ mới mời tất cả những ai còn nghi ngờ về gốc rễ của mình đến để đưa người samurai nầy ra trưng bằng cớ. Cậu cho bày tiệc khoản đãi họ. Sau mấy vòng rượu, mọi người đều khoan khoái. Ông samurai già được cho gọi đến kể lại chuyện vào hầu cụ cố một bước không rời từ năm 13 cho đến 50 tuổi. Lúc đó chủ nhân bèn cắt ngang :
-Thế hôm trước tôi gọi bác tới, mới thấy tôi ở nhà trông bước ra, bác vừa nhìn tôi đã khóc bù lu bù loa. Thế là vì cớ gì ?
Ông samurai mới trả lời :
-Từ khi cụ nhà ta qua đời, tôi muốn trở lại thăm chốn cũ nhưng lúc được mời vào, vừa ngẫng mặt nhìn lên thì nhìn thấy cậu đội cái mũ đen từ trong bước ra. Xưa cụ lúc nào trong nhà bước ra cũng đội mũ đen cho nên khi thấy cái mũ đen của cậu, tôi lại nhớ cụ nên cầm lòng không được.
Người ngồi chung quanh nghe nói đều cười khoái chí. Cậu chủ biến sắc mặt,hấp tấp bảo :
-Thế thì tôi còn giống ông cụ chỗ nào khác không ?
Ông samurai già bảo :
-Thưa không. Ngoài cái mũ thì không giống chỗ nào cả.
Người trên chiếu rượu có vẽ thoả thuê vì lời phát biểu của ông già. Từng người một, họ dần dần lãng ra và xin kiếu về.Ông samurai vì muốn giữ lời nguyền ” không nói dối ” đã làm bể mất nồi cơm mà mình vừa mới kiếm được.
(Theo Uji Shuui, truyện số 77)
2) Cao tăng giảng kinh Pháp Hoa:
Ở Tôhokuin (Đông Bắc Viện) có cao tăng giảng về cái tâm Bồ Đề. Ngài nguyên là một kẻ gian ác đã từng vào tù cả thảy 7 lần. Lần thứ bảy, ngục lại ngồi bàn với nhau:
“Thằng nầy ác ôn quá mức. Ở tù một hai lần cũng là quá rồi huống chi đến bảy lần. Thật là đứa bất trị. Chúng mình chặt chân đi cho nó chừa!”.
Vừa lúc đó, có người giỏi tướng số đi qua, mới bảo họ:
-Xin các thầy tha cho người nầy. Đây là người có tướng sẽ siêu sinh về miền Cực Lạc đấy.
Bọn họ nói:
-Đừng tán nhảm!
Rồi sửa soạn hình phạt chặt chân.
Thấy thế, ông thầy tướng mới đặt bàn chân mình lên trên bàn chân người tù và la to:
-Nếu thế xin các thầy chặt chân tôi thay vì chặt chân bác nầy chứ tôi không nỡ nào đành lòng nhìn các thầy chặt chân một người có tướng vãng sinh về miền Cực Lạc được.
Nghe thế bọn ngục lại bèn thưa với quan hình án và viên nầy mới tường trình mọi sự lên thượng cấp. Viên nầy phán:
-Thôi được, thế thì tha hắn đi!
Và cho thả tội nhân. Người nầy cảm động, bèn xuất gia tu hành, trở thành một cao tăng chuyên giảng kinh Pháp Hoa cho ai muốn tìm về Bồ Đề Tâm. Đúng như lời người xem tướng, ngài này sau đó đã được siêu sinh hạnh phúc.
(Theo Uji Shuui, truyện số 58)
Dòng văn học truyện thuyết pháp hay răn đời (setsuwa)
Thế kỷ | Thời Heian | Thời Heian |
9 10 11 12 | Nihon Ryô-i ki Sambô-e Kotoba UjiDainagon Monogatari Hokke Genki |
|
| Thời Kamakura | Thời Kamakura |
13 | Dòng Phật Giáo | Dòng Thế Tục Kojidan |
B) Ngã rẽ giữa thuyết thoại Phật Giáo và thuyết thoại thế tục
1) Dòng Phật Giáo
Ngoài những tác phẩm đã nêu tên trong những trang trước, bản phân loại vừa trình bày còn nhắc đến tên một số tác phẩm thuyết thoại khác như sau :.
- Hobutsushuu (Bảo Vật Tập, 1195) của TairaYasuyori (Bình, Khang Lại), luận rằng Phật pháp chính là vật báu của con người. Phải theo Phật, bỏ mọi điều oán niệm để sống hạnh phúc.
- Hosshinshuu (Phát Tâm Tập, 1215) của Kamo no Chômei (Áp, Trường Minh) nói về cái đáng sợ của ái dục và khuyên người ta lui về ẩn dật, biết cách ly với chính thân thể mình lẫn ngoại giới (như đồ ăn đồ uống chẳng hạn) để có thể nhìn ngắm nó đang bị hủy hoại. Đó là loại thuyết thoại mang tên fujôkan setsuwa (bất tĩnh quan thuyết thoại) ” truyện chứng minh vật chất là đồ ô uế “.
- Kankyo no Tomo (Nhàn Cư Hữu) có lẽ của một tăng lữ tên hiệu Keisei Shônin (Khánh Chính Thượng Nhân), chủ trương thân thể đàn bà là vật ô uế và ghi chép truyện những người đàn bà phát tâm bồ đề đi tu.
- Senjuushô (Tuyển Tập Sao) thì không rõ năm viết (có lẽ vào giữa thời Kamakura) và cũng không rõ tác giả. Có thuyết cho là tăng Saigyô (Tây Hành) đã sáng tác trên đường du hành. Nội dung nói về những chuyện xuất gia hay lánh đời..
- Shaseki-shuu (Sa Thạch Tập):
Bìa cuốn Collection de sable et de pierres (Gallimard, Paris, 1979), bản dịch Shaseki-shuu
ra tiếng Pháp với chú thích của giáo sư Hartmut .O. Rotermund.
Trong dòng văn học thuyết thoại Phật Giáo, một tác phẩm quan trọng như Shaseki-shuu xứng đáng có một chỗ đứng riêng.
“Góp Nhặt Đá Cát” [17] hay (Shasekishuu, Sa Thạch Tập), còn có thể đọc là Saseki-shuu, cũng là một tác phẩm có tính cách giáo lý, răn dạy. Tác giả của nó là tăng Mujuu (Vô Trú, 1226-1312). Ông viết với văn thể rất bình dị, khéo léo, nhắm vào độc giả đại chúng. Trong lời tựa, Mujuu cho rằng sách của ông tuy gồm những truyện bông đùa nhưng là phương tiện giúp con người trên đường cầu đạo và bảo những ai “muốn tìm được vàng thì phải biết hốt cát (sa), nhặt đá (thạch) mà mài dũa”.
Khoảng giữa năm 1279-1783, tăng Mujuu đã soạn xong 10 tập sách ấy. Mujuu thụy hiệu Đại Viên Quốc Sư tuy là tăng phái thiền Lâm Tế (Rinzai) nhưng trong sách, ông đặt tất cả mọi giáo lý từ học thuyết Thiền Tông, Chân Ngôn, Tịnh Độ và cả lý thuyết honji suijaku (bản địa thùy tích thuyết = thuyết coi các thần shintô chỉ là hóa thân của chư Phật ở bản địa ) ngang hàng với nhau. Ông xem phần bên trong và bên ngoài đền Ise (thần đạo) cũng chẳng khác gì taizô (thai tàng) và kongô (kim cương giới) trong lý luận của Mật Tông. Honji (bản địa) hay cơ sở Phật Giáo và suijaku ( thùy tích) tức biểu hiện thần đạo chỉ khác nhau bên ngoài chứ bản chất là một. Ông cho rằng Phật pháp vốn thống nhất, chỉ có tôn phái do người đời phân chia ra nên mới thành tốt xấu mà thôi (Pháp thị nhất vị, tà chínhdo nhân) . Cứ đi đúng theo Phật pháp thì không lo gì không có sự bình an trong đời nầy và hạnh phúc vĩnh cữu trong đời sau.
Hai đại sư Dôgen (Đạo Nguyên) và Shinran (Thân Loan) đều từ khước thuyết honji suijaku và dạy rằng đúng hay sai không phải tùy thuộc ở con người mà ở giáo lý. Cả hai không hề hứa hẹn giáo đồ sự yên ổn trong cõi đời nầy. Con đường của Mujuu khác với hai vị tổ sư kia vì ông không chấp nhận tính độc tôn của họ, đặc biệt đối với những cách thức tu hành thừa thải họ đặt ra. Ông không dạy người ta vượt khỏi hiện thế (cuộc đời nay) để tìm về cõi cực lạc đời sau như Phật giáo Kamukura. Ông lại thấy lòng tin của Shinran (Thân Loan), lý luận của Dôgen (Đạo Nguyên), nhiệt huyết của Nichiren (Nhật Liên) đều không cần thiết. Lối học Phật của Mujuu rất giản dị vì lấy con người làm trung tâm (chân thị nhân tâm, kiến tính thành Phật). Trong thuyết thoại của Shaseki-shuu thấy xuất hiện đủ mọi thành phần người trong xã hội (samurai, nô bộc, vợ chồng nhà nông…) và ta còn thấy ông để ý cả đến tập quán và cách sinh sống của những nhân vật đó.
Không khí Shaseki-shuu có thể được thấy qua những mẫu chuyện như sau :
1) ” Bốn nhà sư tu theo kiểu ” giữ giới im lặng “, hứa không mở miệng nói chuyện trong vòng bảy ngày. Có một chú tiểu đồng lo mọi chuyện cho họ. Đến canh năm, thấy đèn sắp tắt, ông thứ nhất đã lên tiếng thúc tiểu đồng khêu bấc lên. Ông thứ hai bảo rằng đã giữ giới im lặng, sao lại nói. Ông thứ ba mới mắng hai ông kia nào ai cho phép mà đã mở miệng. Ông thứ tư, trưởng nhóm, lúc đó mới gật gù tự đắc : “Các ông ai cũng nói, trừ mỗi mình ta! “.
2) ” Một nhà sư kính Phật nhưng khờ khạo. Một hôm, chán đời, muốn chết để thác sanh về cõi tịnh độ. Ông ta mới vào trong phòng giảng kinh để treo cổ. Biết chuyện, các vị cao tăng mới đến nơi tụng kinh cho ông trong khi các tăng và tục khác xúm lại chiêm bái. Thế nhưng ông sư trước kia can đảm bao nhiêu thì lúc đó trở nên nhát nhúa bấy nhiêu. Ông ta bèn đổi ý, bỏ đi, làm những người đang tụ tập để ca tụng hành vi của ông đâm ra thất vọng. Ông sư buộc lòng phải tự tử chết thật để lòng mong đợi của mọi người được toại nguyện “
3) ” Một nhà sư khác muốn được siêu thăng tịnh độ cho sớm, tính trầm mình nhưng sợ mình không được Phật rước nếu lúc chết vẫn còn có ý tưởng tham sống. Ông ta bèn nghĩ ra cách vừa nhảy từ thuyền xuống nước, lại buộc người vào dây thuyền để nhỡ khi có ý tham sống thì có thể leo lên. Con thuyền xa bờ, sư nhảy xuống nước, miệng niệm Phật. Một chốc sau, đã thấy sư giật giây xin kéo lên bờ, người ướt như chuột lột. Chuyện diễn ra vài lần như thế, đến lúc sư ráng sức để không kéo dây nữa thì trên trời đàn sáo nổi lên và mây tím hiện ra trên dòng nước. Sư mới về được Tây Phương cực lạc “.
4) ” Trong ngôi đền ở vùng Shinano, một tăng nhân có ba đứa con do ba bà khác nhau sinh ra. Đứa con của bà thứ nhất, người mà nhà sư lén lút đi lại và để ý cẩn thận, nhưng ông vẫn nghi ngờ đứa trẻ không phải con mình nên đặt tên nó là thằng Không Ngờ. Con bà thứ hai, người hay bí mật tới thăm ông ở chùa, ông ít nghi hơn nên đặt tên cho nó là thằng Có Thể. Còn bà thứ ba thì sống thường xuyên với ông ta, ông ta không nghi ngờ gì về gốc gác của cậu con bà nầy nên mới đặt tên nó là thằng Chắc Chắn “.
5) ” Khi tăng Shôgaku giảng kinh khuyến giáo, có người đàn bà ngồi trên ngạch cửa nhịn không nổi, lỡ đánh rắm, tiếng động và mùi của nó làm rối loạn lòng khách thập phương. Tăng mới nói : ” Trong các loại nhạc khí như sáo, tiêu, đàn cầm, sênh, phách…không có loại nào có mùi. Trong các loại hương nhang, không có loại nào phát ra tiếng. May nhờ có cái rắm của bà, tôi mới vừa cùng một lúc nghe tiếng lẫn ngửi được cả mùi hương “. Được khen ngợi như thế, bà ta bèn cởi áo tiến cúng nhà chùa và xin ghi tên mình là Phu Nhân Hoa Quýt [18] “.
Tăng Mujuu quả thực đã cảm thông được với tâm hồn đại chúng qua những câu chuyện giảng dạy có tính hài hước của ông. Nếu bản thân ông không phải là nhà tu hành thì người ta có thể ngờ rằng ông muốn bài xích đạo Phật rồi cũng nên. Sau Shaseki-shuu, còn có Zoku-Shaseki-shuu (Tục Sa Thạch Tập) và Shinsen Shaseki-shuu (Tân Tuyển Sa Thạch Tập) nối gót nhau ra đời vào thế kỷ 19 chứng tỏ ảnh hưởng bền lâu của tác phẩm. Tây phương cũng chú ý tới tác phẩm này. Giáo Sư H.O. Rotermund, một nhà tôn giáo học thuộc Đại Học Paris đã dịch Shaseki-shuu ra Pháp văn [19].
2) Dòng thế tục
Về khuynh hướng thuyết thoại thế tục trước hết phải nói đến KokonChômonjuu (Cổ Kim Trứ Văn Tập, 1254) của Tachibana Narisue (Quất, Thành Quí), sưu tập một số lớn thuyết thoại từ đời Heian cho đến thời Kamakura, về lượng chỉ đứng sau mỗi Konjaku. Ngoài ra có Jikkunshô, với cách đọc khác là Jikkinshô, (Thập Huấn Sao, 1252) do một nhân vật không ai rõ hành tung tên Rokuhara Jirô Zaemon Nyudô (Lục Ba La Nhị Lãng ( ?) Tả Vệ Môn Nhập Đạo) biên soạn. Như tựa sách cho biết, nó có mục đích khuyến thiện trừng ác, dạy người trẻ tuổi phải giữ mười điều đức hạnh.
Trong khoảng thời Nam Bắc Triều bước qua thời Muromachi có các tác phẩm thuyết thoại khác như Shintôshuu (Thần Đạo Tập) và Sangoku Denki (Tam Quốc Truyện Ký), thu thập những chuyện cho liên quan gần gũi với loại truyện giải khuây(otogizôshi).
C) Truyện Giải Khuây (Otogizôshi)
Cuối thời trung cận đại, các truyện kể mô phỏng đề tài và cách viết của người xưa (giko monogatari) tàn đi dần. Loại truyện vừa ngắn gọn, vừa dễ hiểu nhắm một quần chúng độc giả rộng rãi đã thế vào chỗ đó. Chữ otogizôshi (ngự già thảo tử ) vốn chỉ loại sách mang tên bắt chước tên gọi của một tuyển tập lấy tên Otogi Bunko (Ngự Già Văn Khố) của một nhà xuất bản ở Osaka thời Edo thu thập 23 truyện ngắn và cho in ra. Từ đó những loại sách cùng hình thức và nội dung đều được gọi bằng tên nầy (Ngự Già), mà chữ Ngự Già để chỉ ” người đi theo bên cạnh mình làm bạn để nói chuyện ” hay ” tỳ thiếp chung phòng ” của bậc vua chúa [20].
Với mục đích giải khuây, mua vui như thế, loại sách nầy thường có những tranh vẽ đơn sơ có tô mầu nên gọi là emaki-mono (hội quyển vật), hình thức thông dụng nhất lúc đó gọi là Nara.ehon [21] (Nại Lương hội bản), nội dung kể lại các truyện cổ như TruyệnGenji, Truyện Sumiyoshi nói về cuộc sống cung đình, tô màu đẹp đẽ có thể chưng trên giá sách hay để các cô dâu mang về nhà chồng.
Thế nhưng trong loại đó lại có những truyện đậm đà màu sắc dân gian hơn, chẳng hạn truyện Issunbôshi (Nhất Thốn Pháp Sư) là cậu bé tí hon, cao chỉ bằng ngón tay nhưng có tài trừ yêu diệt quỉ, hay truyện Monokusa Tarô (Vật Xú Thái Lang), chàng trai không nghề ngỗng chỉ ngủ li bì suốt ngày nhưng sau lên kinh đô nhờ tài ca hát được vời vào cung và làm nên sự nghiệp.Truyện Bunshô Zôshi (Văn Chính thảo tử) nói về gã Bunshô chỉ làm ruộng muối mà sau nhờ bán muối có tiền giàu ức vạn. Truyện Hachikazuki kể đời một công nương mồ côi mẹ, bị mẹ ghẻ hành hạ và đuổi khỏi nhà, phải đội cái bình bát (hachi) của mẹ ruột để lại lúc lâm chung, sống đời trôi nổi, nhưng sau nhờ cái bình bát đó mà thoát hiểm và đạt được hạnh phúc. Truyện Iwaya no Zôshi (Nham Ốc thảo tử) nói về một công nương khác bị mẹ ghẻ quẳng xuống cái hố đá (iwaya), được vợ chồng người thợ lặn giúp đỡ, sau làm dâu nhà quan đại thần.Truyện Fukutomi Zôshi (Phước Phú thảo tử) kể truyện một ông già nhờ tài đánh rắm mà được giàu sang và một ông già khác bắt chước theo lại thất bại.
Như thế ta thấy loại chuyện giải buồn nầy mang đề tài vừa đứng đắn, vừa lạ lùng, vừa hài hước, có khi thô tục nữa. Đứng đắn như truyện người bình dân thành công trên đường đòi nhờ tài cán hay nhờ buôn bán, truyện mẹ ghẻ con chồng. Truyện lạ lùng như Phật, bồ tát biến thành thần xuống thế gian (loại gọi là honjimono hay bản sự vật) và thú vật cây cỏ đội lốt người xuất hiện trong truyện như thế nào (iruimono hay dị loại vật). Truyện tếu và tục như truyện hai ông già so tài đánh rắm kia. Nói chung, phạm vi của otogizôshi hết sức rộng rãi và đa dạng chứ khôing phải chỉ là truyện thần tiên với một kết luận có hậu không thôi.
Loại truyện giải khuây này trong một thời gian lâu đã bị các nhà nghiên cứu xem thường. Thật ra nó rất quan trọng vì không những đã đóng vai trò đại chúng hóa các tác phẩm cổ điển có trước thời Muromachi (1333-1568) cũng như ảnh hưởng đến các hình thức văn học có tính trào lộng về sau mà còn là kho tài liệu về dân tộc học vô cùng phong phú làm ta hiểu được một cách sống động sinh hoạt của người xưa (thế kỷ 14 đến 19).
TIẾT III: GIÁO LÝ CƠ ĐỐC VÀ PHÁP NGỮ PHẬT GIÁO
A) Văn học Cơ Đốc Giáo (Kirishitan Bungaku) xuất hiện
Từ cuối đời Muromachi (1333-1568), các nhà truyền giáo Tây Phương đã lần lượt đến Nhật. Để rao giảng và học tiếng Nhật, họ bắt đầu dịch thuật hay sáng tác bằng chữ La Mã. Trong số những công trình được biết tới lúc đó có Isoho Monogatari (Y Tăng Bảo Vật Ngữ), Dochirina Kirishitan, Nhật Bồ Từ Điển, Heike Monogatari bản Amakusa [22].
Isoho Monogatari tức là bản dịch sang Nhật ngữ tập truyện ngụ ngôn của Aesopos (ta hay đọc theo âm Pháp là Ê-Zốp). Nguyên tác có tên là Aesopos Fabulas, một tác phẩm cổ điển Hi-Lạp. Bản năm 1593 dịch sang âm Nhật với chữ La-Mã nhưng đến năm 1639 thì đã có bản viết theo chữ Hán và hiragana, bản năm 1659 có cả tranh.
Dochirina Kirishitan không gì khác hơn Doctrina Christã (Giáo Lý Đạo Cơ Đốc) được viết dưới dạng vấn đáp và dịch vào năm 1592 từ tiếng Bồ sang tiếng Nhật theo lối chữ La-Mã. Văn dịch theo ngôn ngữ vùng Kyôto với tất cả đặc điểm về âm vận, ngữ pháp, ngữ vựng… của vùng nầy nên ngày nay được xem như một văn kiện quan trọng để nghiên cứu lịch sử tiếng Nhật.
Tuy không thể giải thích lý do sự tiếp xúc của Nhật Bản với phương Tây bằng một sự kiện đơn thuần nhưng không ai có thể bỏ qua vai trò của tướng Oda Nobunaga (Chức Điền, Tín Trường, 1534-1582), người tạo nên cơ sở cho việc thống nhất Nhật Bản. Xuất thân chỉ là một chức võ quan nhỏ vùng Owari thuộc Trung Bộ Nhật Bản, Oda nhờ tài dụng binh và súng ống Tây Phương (do người Bồ đem vào Nhật lần đâu tiên năm 1543) đã lần lượt bình định các thổ hào chung quanh để trở thành nhân vật có thể khuynh đảo chính quyền mạc phủ Ashikaga.Theo lời giáo sĩ Dòng Tên (Jesuit) Luis Frois [23], Nobunaga ghét cả Thần Đạo lẫn Phật Giáo mà ông cho là mê tín và có tham vọng chính trị. Ông là người Nhật kiểu mẩu với tinh thần thực dụng nên không ngần ngại sử dụng đạo Ki-Tô như một tổ chức (không như một tôn giáo) nhất là nhờ súng mút (matchlock musket) và thuyền bọc thép của họ, ông đã bao vây và tiêu diệt căn cứ của phái Tịnh Độ Chân Tông ở thành Ishiyama gần Osaka năm 1580.
Từ năm 1569, Nobunaga đã cho phép các hội truyền giáo cư trú ở Kyôtô. Ngoài Dochirina Kirishitan (1591) đã nói ở trên, các thầy Dòng Tên còn cho in sách giáo lý khác như De Imitation Christi(Kontentsusu Munji, không có tên chữ Hán) của Thomas à Kempis (bản năm 1596 bằng chữ La Mã, bản năm 1610 bằng chữ Hán pha lẫn quốc âm Kana) và một quyển sách phóng tác từ Exercitia Spiritualia (Supiritsuaru Shugyô, Tâm Linh Tu Hành, 1607) của Ignatius Loyola.Từ ngữ tôn giáo thường được trực dịch và không kèm giải thích. Ví dụ Deus (Chúa Trời) thì dịch là Deusu, Fides (Chúa Con) là Hiidesu. Ngoài ra, có chỗ dịch thẳng ra tiếng Nhật như ” quỷ sứ ” thì dịch là tengu (thiên cẩu ) hay ” lòng từ ái của Chúa ” là gotaisetsu (ngự đại thiết = sự bảo trọng của Chúa) vv…Có lúc, họ biết thích ứng với văn hóa bản xứ như dịch ” Chúa ” ra Dainichi (Đại Nhật) ” Mặt Trời Lớn ” hay Tentei (Thiên Đế) , Tendô (Thiên Đạo), Tenshu (Thiên Chúa).
B) Pháp ngữ (Hôgô) hay sách giảng đạo Phật
Vào thời Kamakura, Phật Giáo mọc ra nhiều tông phái như Jôdosô (Tịnh Độ Tông), Jôdoshinsô (Tịnh Độ Chân Tông), Hokkesô (Pháp Hoa Tông), Jisô (Thì Tông), Rinzaisô (Lâm Tế Tông), Sôtôsô (Thảo Đường Tông)…Tất cả được gọi là Tân Phật Giáo.Các vị giáo tổ khai sáng thường sử dụng lối vấn đáp và thư tín để giản dị hóa hình thức truyền đạo, thường được viết bằng tiếng Nhật chứ không phải Hán văn như kinh điển Phật giáo. Qua các tài liệu còn để lại, ta thấy người đương thời đã bày tỏ những thắc mắc tôn giáo sâu sắc. Những trao đổi và biện luận như vậy đã đúc kết và hình thành những quan niệm nhân sinh, xã hội và tôn giáo mới mẻ.
Những tác phẩm gọi là pháp ngữ (hôgo) đáng chú ý là Senchaku Hongan Nenbutsu-shuu (Tuyển Trạch Bản Nguyện Niệm Phật Tập) của tăng Hônen [24] (Pháp Nhiên), Kyôgô Shinshô (Giáo Hành Tín Chứng) và Tannishô (Thán Dị Sao) trong đó tăng Yuien (Duy Viên, 1222-1289) ghi chép lời dạy của tăng Shinran [25] (Thân Loan), Risshô Ankoku-ron (Lập Chính An Quốc Luận) của tăng Nichiren [26] (Nhật Liên), Shôbô Genzô (Chính Pháp Nhãn Tàng) và Shôbô Genzô Zuimonki [27] (Chính Pháp Nhãn Tàng Tùy Văn Ký) của tăng Dôgen [28] (Đạo Nguyên), Ippen [29]Shônin Goroku (Nhất Biến Thượng Nhân Ngữ Lục) của tăng Ippen (Nhất Biến). Ngoài ra còn có tác phẩm ghi lại danh ngôn của những cư sĩ theo phái Tịnh Độ (gọi là các hijiri = thánh) tên là Ichigon Hôdan (Nhất Ngôn Pháp Đàm), có ảnh hưởng đến tăng Kenkô, tác giả cuốn tùy bút Tsurezuregusa.
Khuôn mẫu cách hành văn của pháp ngữ có thể thấy trong một tác phẩm như Tannisho (Thán Dị Ký) , đặc biệt lối viết nghịch thuyết (paradoxical) và bút chiến của Shinran đã được thể hiện. Nó thu hút đặc biệt giới trí thức:
Trong vòng chư tôn có rất nhiều người không quản ngại lặn lội từ vùng Kantô qua biên giới địa phận của trên mười tỉnh mà đến đây, có chí tìm tôi để hỏi một điều : làm thế nào để vãng sinh về miền cực lạc.Thế nhưng nếu quí vị nghi ngờ rằng có lẽ tôi còn nêu ra trong kinh luận một con đường khác ngoài việc niệm Phật để vãng sinh thì quả là một ý tưởng sai lầm. Nếu muốn thế thì trên ngọn Hieizan hay ở Nara còn thiếu chi các bậc đại sư, hãy tới đó mà lắng nghe cho kỹ những điều các vị ấy nói về yếu quyết vãng sinh.
Đối với Shinran này thì chỉ có việc niệm Phật xin Đức A Di Đà Như Lai cứu độ cho và tin lời ngài Hônen (Pháp Nhiên) dạy bảo là đã đủ. Nhưng niệm Phật là cái nhân để giúp ta được siêu sinh tịnh độ hay là cái mầm khiến ta rơi vào địa ngục thì tôi không thể biết.
Cho dầu quí vị có bị ngài Hônen đánh lừa, vì niệm Phật mà phải sa xuống địa ngục thì nhất quyết không có gì để hối hận. Còn như đã tu theo lối khác làm cho tấm thân đáng lý thành Phật, vì niệm Phật lại sa xuống địa ngục thì chắc là phải hối hận. Thế nhưng trường hợp tôi thì khác vì tôi là người tội lỗi dù tu bao nhiêu cũng phải sa xuống dưới đó.
Nếu bản nguyện (lời thề cứu độ chúng sinh) của Đức A Di Đà Như Lai là chân thực thì những kinh điển để lại từ một đời thuyết giáo của Đức Thích Ca không thể nào là lời lẽ dối trá. Nếu lời thuyết giáo của Đức Thích Ca là chân thực thì những lời giải thích của Thiện Đạo Đại Sư, bậc đại thành của tông Tịnh Độ bên Trung Quốc không thể nào bậy bạ, phải không nào ? Nếu kinh sách của Thiện Đạo Đại Sư được truyền bá như một chân lý thì lẽ nào lời ngài Hônen (Pháp Nhiên Thượng Nhân) lại là chuyện bịa đặt ! Và những gì Shinran thưa ở đây có thể nào bảo là sai lầm được không nào.
Kết cuộc, như trên là lòng tin đơn thuần vốn có nơi kẻ không hiểu biết. Còn ngoài ra, việc tuân thủ lời dạy phải nên niệm Phật và theo đó mà thực hành hay là bỏ mặc không làm, là điều chư tôn bắt buộc tự phán đoán để lựa chọn.
(Tannishô, điều thứ 5)
Pháp ngữ thường do các đệ tử chép lại nên có nhiều dị bản. Nó đầy dẫy thí dụ cụ thể để giúp tín đồ hiểu đạo. Những thí dụ ấy còn lưu lại trong Shasekishuu (Sa Thạch Tập) nói trên của tăng Mujuu (Vô Trú) chẳng hạn nhưng ngoài ra đã ảnh hưởng không nhỏ đến nghệ thuật trình diễn truyện hài hước trước công chúng của sân khấu rakugo về sau.
(Trích từ Phác thảo Lịch Sử Văn Học Nhật Bản, chưa xuất bản)
[1] – Anh Mỹ dịch setsuwa là “saying, talk hay report” (như Hepburn, 1872) , người Pháp thường dịch là “anecdote”, “histoire” (Lemaréchal, 1904) hay “historiette”. Ở Trung Quốc, tùy theo thời đại, những mẩu chuyện con con này, vốn có từ cuối đời Tiền Hán (thế kỷ thứ 1), được gọi là ?tiểu thuyết (xiao shuo) dưới đời Lục Triều, truyền kỳ (chuanqi) dưới đời Đường. Thuyết thoại (shuo hua) cũng là chữ được dùng ở Trung Quốc từ sau đời Đường. Hình thức setsuwa ở Nhậtcó thể đã thấy ở dạng sơ khai từ thế kỷ thứ 8 trong các tập Fudoki (Phong Thổ Ký) tức địa dư chí của các địa phương.
[2] – Truyền vào Nhật khoảng năm 552, Phật Giáo rất hợp với phong thổ và nếp sống người Nhật nên đã bắt rễ trên đất nước nầy. Giữa thời Hei-an (985) đã có tác phẩm Phật Giáo quan trọng Ôjô Yôshuu (Vãng Sinh Yếu Tập) của pháp chủ Genshin (Nguyên Tín), người còn được gọi là Eishin Sôzu (Huệ Tâm Tăng Đô), nói lên sự quan trọng của việc niệm Phật trong kiếp nầy để đời sau được siêu sinh vào cõi cực lạc. Bước qua thời Kamakura, tác phẩm nầy ảnh hưởng lớn đến văn học, nghệ thuật, trở thành cơ sở cho Tịnh Độ Tông (Jôdoshuu) và giúp phái nầy bành trướng mạnh mẽ.
[3] – Nguyên là Nihonkoku Gennbô Zen-aku Ryôi-ki (Nhật Bản Quốc Hiện Báo Thiện Ác Linh Dị Ký), tập truyện 3 quyển viết bằng lối Hán văn kinh viện do Kyôkai, tăng lữ Nara, về những điều nghe thấy trong triều ngoài nội. Nó nặng tính “ứng báo” để răn đời nhưng hơi ngây thơ và thiếu tính nghệ thuật trong lối kể chuyện. Phần lớn lối diễn tả trong đó mô phỏng theo mẫu mực Trung Quốc nhưng có ưu điểm là đã làm sống lại được cảnh tượng xã hội Nhật lúc Phật Giáo mới được du nhập vào.
[4] – Sanbô-e (Tam Bảo Hội, 984), tác giả là Minamoto-no- Tamenori (Nguyên, Vi Hiến). Gồm 3 quyển Phật, Pháp, Tăng. Có thể xem nó là sách nhập môn Phật học, nói về truyện công đức những kiếp trước của Đức Phật (bản sinh đàm hay Jâtaka) và sự tích của các tăng lẫn tục cũng như nguồn gốc của các nghi thức Phật sự.Thường có kèm theo tranh nhưng lâu ngày đã thất lạc, chỉ còn có lời giảng chép lại (từ thư hay kotobagaki) nên cũng có tên là Sanbô-Ekotoba (Tam Bảo Hội Từ).
[5] – Uchigiki-shuu (Đả Văn Tập) Đả Văn có nghĩa là thoáng nghe, biết chút ít. Sách ra đời trước năm 1134, không biết tác giả là ai. Gồm 27 truyện kể về liên hệ giữa Phật Giáo Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ. Hình thức giống như bài giảng. nên được xem như một tài liệu quí trọng về văn nói.
[6] – Tập truyện này có liên hệ ít nhiều đến Konjaku Monogatari nhưng mối liên hệ ấy không được rõ ràng. Truyện có vẻ hiện thực hơn Konjaku vì ít bi thương và “dấn thân”, trái lại, mục đích tiêu khiển rõ nét hơn.
[7] – Các nhà văn hiện đại, Akutagawa và Tanizaki hay mượn sự tích của Konjaku làm đề tài, nhất là Akutagawa đã dùng lý trí của con người bây giờ tìm hiểu động cơ tâm lý của hành vi những nhân vật thời xưa. Xin tham khảo Hana (Cái Mũi), Imogayu (Cháo Khoai), Rashômon (La Sinh Môn) của Akutagawa,Shigemoto shôshô no haha (Người mẹ của tướng Shigemoto) do Tanizaki và Karano (Đồng hoang ) do Hori Tatsuo viết.
[8] – Theo học giả Katô Shuuichi, nguồn Hán đến từ Pháp Uyển Châu Lâm,Minh Báo Ký, Đại Đường Tây Vức Ký. Nguồn Nhật là Nihon Ryôi ki ( Nhật Bản Linh Dị Ký) , Jizô Bosatsu Reigen-ki (Địa Tạng Bồ Tát Linh Nghiệm Ký) vv?
[9] – Thật ra dịch là Truyện Đời Xưa hay Truyện Xưa Tích Cũ thì thuận tai hơn. Thế nhưng, nhân vì trong tiếng Nhật có chữ konjaku no kan (lòng cảm khái vì thấy chuyện xãy ra khi xưa khác với ngày nay nhiều quá) nên người viết mạn phép nhấn mạnh chữ “kim” (nay, giờ đây).
[10] – Hiện nay, các sách về luật pháp cũng viết chen chữ Hán (kanji) với katakana, thay vì chữ Hán với hiragana như sách vở thông thường. Tanizaki viết bằng katakana khi muốn trình bày những biến chuyển nội tâm những nhân vật trong tiểu thuyết của ông. Văn tự trộn lẫn chữ Hán với kana gọi là Hòa Hán hỗn giao văn thể. (wakan konkô buntai ) nhưng cách viết kèm chữ Hán với katakana thì kém uyển chuyển so với cách viết bằng hiragana, lối viết phổ thông nhất bây giờ.
[11] – Katô, Shuuichi.
[12] – Được Akutagawa sử dụng trong Sutego “Đứa con rơi”. Xem bản dịch của Nguyễn Ngọc Duyên.
[13] – Truyện này là nguồn cảm hứng cho tác phẩm Chuutô (Bọn Đạo Tặc) của văn hào Akutagawa Ryuunosuke.Xem bản dịch của Cung Điền.
[14] – Phạm vi của thuyết thoại từ đó đã được khai triển rộng rãi. René Sieffert còn dịch là ” Contes et Légendes “. Từ tính cách thần thoại và truyền kỳ buổi đầu, nó đã đa dạng hóa và bình dân hóa, bao trùm mọi thể loại dù có tính thuyết giảng, răn đời hay không.
[15] – Akutagawa Ryuunosuke (1892-1927) hầu như đã xây dựng toàn bộ sự nghiệp văn học của ông từ những đoản thiên lấy cảm hứng từ thuyết thoại.
[16] – Xem ” Cháo Khoai ” và ” Địa Ngục Trước Mắt “, bản dịch của Nguyễn Nam Trân.
[17] – Chữ Tập trong Sa Thạch Tập có thể hiểu hai nghĩa (tập sách hay thu thập, góp nhặt, như ý trong bài tựa sách do chính tăng Mujuu viết).
[[18] – Phu Nhân Hoa Quýt (Tachibana) tức San no Kimi là một nhân vật của chương 11:Hana chiru sato (Làng Hoa Rụng), một nơi toàn hoa cỏ, rất thơm tho, trong Truyện Genji.
[19] – Mujuu, Ichien, Collections de sable et de pierre, Hartmut O. Rotermund dịch, Gallimard, 1979, Paris.
[20] – Âu Mỹ dịch ôtgibanashi là fairy tale nhưng e rằng hiểu như thế có hơi hạn hẹp vì chỉ hạn chế nó trong lãnh vực truyện thần tiên.
[21] – Narae (Nại Lương hội) là tranh (hội) của các họa sĩ chuyên vẽ tranh Phật để bán ở thành phố Nara. Sau lan đến Kyôto và tranh ở đây gọi là Kyôe (Kinh hội)
[22] – Bản Amakusa nghĩa là bản in theo kỹ thuật phương tây, bản Cơ Đốc (Kirishitan-ban). Cuối thế kỷ 16, người tây phương đã cho in bằng máy móc Âu Châu đặt ở Amakusa, căn cứ của họ trên quần đảo cùng tên ở ngoài khơi tỉnh Kumamoto, miền cực nam nước Nhật.
[23] – Luis Frois đã viết quyển Historia de Japam (Lịch sử Nhật Bản) về giai đoạn 1549-93, cho biết nhiều chi tiết về thời đó.
[24] – Hônen (Pháp Nhiên, 1133-1212) người khai sáng phái Tịnh Độ, thuyết rằng chỉ chuyên tâm niệm Phật là đủ vãng sinh về cõi tịnh độ.
[25] – Shinran (Thân Loan, 1173-1262), ông tổ Tịnh Độ Chân Tông, môn đệ của Hônen, chỉ nhấn mạnh một vài quan điểm của học thuyết phái Tịnh Độ.
[26] – Nichiren (Nhật Liên, 1222-1282), tổ khai sáng Pháp Hoa Tông, còn gọi là Nhật Liên Tông, lấy kinh Pháp Hoa làm căn bản.
[27] – Ghi chép lời giảng của Dôgen, do đệ tử là Eijô (Hoài Trang) thu lục, ra đời khoảng trước năm 1238.
[28] – Dôgen (Đạo Nguyên, 1200-1253), tổ khai sáng phái Tào Động. Học thiền từ tăng Eisai (Vinh Tây), lập chùa Eiheiji (Vĩnh Bình Tự) ở xứ Echizen (Việt Tiền) tức là vùng tỉnh Fukui bây giờ.
[29] - Ippen (Nhất Biến, 1239-1289), tổ của phái Thì Tông. Du lịch nhiều nơi nên còn được gọi là Yugyô Shônin (Du Hành Thượng Nhân). Rao giảng rộng rãi trong dân chúng việc tụng kinh niệm Phật.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét