Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

Ton giao cua nguoi Cham o Ninh Thuan Phan Quoc Anh.html


TÔN GIÁO CỦA NGƯỜI CHĂM Ở NINH THUẬN

Phan Qu ốc Anh Dân tc Chăm có khoảng 100 ngàn người, sống quy tụở hai vùng chính: Vùng Ninh – Bình Thuận và vùng Nam Bộ (Châu Đốc, An Giang và Tây Ninh). Người Chăm ở Nam Bộ theo Hồi Giáo (Ixlam), chỉ thờ nhất thần là thượng đế Ala và một thiên sứ là Môhamét. Người Chăm ở khu vực Ninh – Bình Thuận theo hai tôn giáo là Bàlamôn và Hồi giáo cũ (Bàni, để phân biệt với Hồi giáo mới Ixlam). Trong bài viết này, chúng tôi chỉđề cập đến các tôn giáo của người Chăm ở tỉnh Ninh Thuận. Người Chăm ở Ninh Thuận có khoảng trên 60 nghìn người, cư trú tương đối tập trung ở 22 làng thuộc 12 xã ở 4 huyện thị, theo hai tôn giáo chính là Bàlamôn (khoảng 38 ngàn người) và Hồi giáo. Trong Hồi giáo lại chia ra Hồi giáo cũ (Bàni 17 ngàn người) và Hồi giáo mới (Ixlam 20 ngàn người). Ngoài ra có một số người theo đạo Công giáo và Tin Lành (khoảng 700 người)(1). Tuy theo tôn giáo khác nhau nhưng người Chăm Ninh Thuận có rất nhiều nghi lễ cùng tổ chức với nhau như lễ Rija nưgar và một số nghi lễ nông nghiệp khác.

Đ ã từ lâu, hai tôn giáo này tồn tại độc lập, và trải qua quá trình lịch sử, đã hòa nhập với tín ngưỡng bản địa, tạo nên một thứ tôn giáo địa phương. Hiện nay, chưa tìm được những cứ liệu nói về sự truyền bá các tôn giáo ấn Độđến Chăm Pa. Những tư liệu khảo cổ học, nhất là các bia ký, cho thấy tôn giáo ấn Độđến Chăm Pa từ rất sớm (năm 192). Bằng chứng cho thấy niên đại sớm nhất mà Phật giáo được truyền đến Chăm Pa là tấm bia Võ Cạnh có niên đại thế kỷ thứ III-IV được tìm thấy gần Kauthara (Nha Trang). Những tư liệu khảo cổ học của tu viện Đồng Dương cho ta thấy sự du nhập Phật giáo vào Chăm Pa là rất sớm (2).

Bàlamôn giáo nh ập vào Chăm Pa từ khoảng thế kỷ thứ II, III, tồn tại và biến đổi trong cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận cho đến ngày nay. Theo các nhà khoa học, các tôn giáo ấn Độ truyền bá tới Đông Nam á bằng hai con đường thủy, bộ: một đường từ bờ biển Coromandel ấn Độ thông qua eo biển Malacca tới quần đảo Mã Lai; một đường từ át Xan tiến vào Mianma, rồi từ Mianma truyền vào lưu vực sông Mê Công, đến Chân Lạp, Phù Nam và Chăm Pa (3). Sử sách Trung Quốc cho biết, Bàlamôn giáo du nhập vào Chăm Pa rất sớm. Ba trong bốn bia ký bằng chữ Phạn có niên đại thế kỷ VII được tìm thấy ở Quảng Nam và Phú Yên ở triều đại Bhadresvaravamin, ghi nhận lãnh địa dành cho vị thần này. Còn bia ký Mỹ Sơn thì nói đến sự thành kính dành cho Mahesvara, Uma, Brahma, Visnu. Đến thế kỷ VII, ấn Độ giáo, mà chủ yếu là Siva giáo, đã trở thành tôn giáo chính thống. Từđây hình thành khu di tích Mỹ Sơn.

T ừ thời Lâm ấp đến Hoàn Vương (từ thế kỷ II đến thế kỷ IX), đạo Bàlamôn vàấn Độ giáo luôn luôn được coi trọng. Các bia ký giai đoạn này đều chứng minh tầm quan trọng của Siva giáo: "Đáng kính trọng hơn cả Brahma, Visnu, Indra. Surya, Asura, hơn những vị Bàlamôn và hơn những Rsi, các vua chúa"(4). Cũng như Phật giáo và Siva giáo, Visnu giáo cũng được coi trọng. Ba bia ký (hai của Indravarman I và một của Vikrantavarman III) tìm thấy ở Phan Rang nói nhiều tới Visnu giáo. Nhiều nhân vật đẳng cấp cao tự so sánh mình với Vikrama: "Nâng quảđất lên bằng hai cánh tay" hoặc với Narayana: "Nằm trên con rắn và nâng thế giới lên bằng bốn cánh tay". Bia ký của Senapati Par ngợi ca vị tổng đốc như một Narayana (Visnu) hiện thân, và cánh tay của ông được so với "con rắn nâng cái đĩa tráiđất chìmđắm trong đại dương của thời đại Kali"(5). Suốt chiều dài lịch sử, người Chăm luôn lấy các tôn giáo ấn Độ làm tôn giáo của mình (giai đoạn sau, từ thế kỷ XIV, XV, một bộ phận người Chăm tiếp nhận thêm Hồi giáo và bản địa hóa thành Bàni giáo) một cách hòa bình, tự nguyện. Bao trùm lên suốt quá trình lịch sử tồn tại là sự hỗn dung của các giáo phái Ấn Độ. Văn hóa và con người Chăm tiếp nhận tất cả: tính chất tư duy triết học tâm linh; Đức hiếu sinh, từ bi của Phật giáo, tình thương của Visnu giáo, tính phân biệt đẳng cấp của Bàlamôn giáo và cả tính hung bạo quyền lực của Siva giáo. Văn hóa tôn giáo ấn Độảnh hưởng không nhỏđến đời sống tâm linh của người Chăm, hướng tới quan niệm sựđồng nhất giữa con người và vũ trụ! , với thần linh, giữa tiểu ngã át man vàđại ngã Brahman, tạo nên bản sắc văn hóa Chăm vừa mang tính chất văn hóa tôn giáo ấn Độ vừa mang màu sắc văn hóa Đông Nam á.

1. Tôn giáo Chăm Bàlamôn

Ở Ninh Thuận có khoảng 38 ngàn người Chăm Bàlamôn sống tập trung ở
16 làng, chủ yếu là ở huyện Ninh Phước. Người Chăm Bàlamôn tự gọi mình là "Chăm Jat", Jat có nghĩa là gốc, sự thật(6). Người Chăm còn gọi là Bà Chăm (để phân biệt với Bàni). Các nhà nghiên cứu về Chăm cũng tập trung nghiên cứu về người Chăm Jat, bởi lẽ tôn giáo Bàlamôn du nhập vào Chăm Pa sớm hơn, tồn tại lâu hơn và tiếp biến nhiều yếu tố truyền thống văn hóa bản địa Chăm nên còn giữđược nhiều yếu tố văn hóa gốc. Trong quan niệm "nhất thể lưỡng hợp" của hai nhóm cộng đồng tôn giáo, người Chăm Bàlamôn được gọi là Ahier thuộc âm, còn người Chăm Bàni gọi là Awal thuộc dương. Người Chăm Bàlamôn theo tín ngưỡng đa thần của ấn Độ giáo, còn người Chăm Bàni thờ nhất thần là thánh Ala (người Chăm gọi là Awluah) và thiên sứ Môhamét.

Hệ thống đền tháp

Ở Ninh Thuận có ba hệ thống đền tháp của người Chăm Bàlamôn, được phân chia theo khu vực cộng đồng tôn giáo, có hệ thống chức sắc Bàlamôn cai quản, chăm lo phần hồn cho cộng đồng dân cư khu vực: Khu vực tháp Pôrômê (Ppo Rame – làng Hậu Sanh) có 6 làng thuộc huyện Ninh Phước gồm Hậu Sanh, Hiếu Thiện, Vụ Bổn, Mỹ Nghiệp, Chung Mỹ, Phước Lập; Khu vực đền thờ "mẹ xứ sở" Pô Inư Nưgar (Ppo Inư Nưgar – Inư là mẹ, mẫu, Nưgar là xứ sở – ở làng Hữu Đức) gồm 3 làng Hữu Đức, Như Bình và Bầu Trúc; Khu vực tháp Pô Klongirai (Ppo Klongirai – Phan Rang) có 7 làng gồm: Hiếu Lễ, Chắt Thường, Phú Nhuận, Hoài Trung, Phước Đồng và Thành ý. Ngoài ra, còn một khu vực đền Pô Bin Thuôn (Ppo Bin Thuơr – thôn Bĩnh Nghĩa, xã Phương Hải, huyện Ninh Hải) chỉ có một làng và không có chức sắc Bàlamôn. Mọi hoạt động tôn giáo đều do Ban phong tục của làng đảm nhiệm. Mỗi khi có những nghi lễ cần đến chức sắc Bàlamôn đều phải mời các chức sắc từ khu vực tháp Pôklongirai về làm lễ. Vì vậy, có thể quy Bĩnh Nghĩa về khu vực tôn giáo của Tháp Pôklongirai.

Hệ thống chức sắc Bàlamôn

C ơ cấu và thiết chế xã hội Chăm trước đây đã chi phối 4 tầng lớp xã hội. Theo lời văn bia Mỹ Sơn thì dưới đời vua Jaya Indravarman (1088) xã hội Chăm có 4 đẳng cấp: Brahman (Tu sĩ, tăng lữ Bàlamôn); Kryttriya (Quý tộc, vương phái, võ sỹ); Vaicya (Bình dân); Cudra (Cùng đinh, nô lệ). Ngày nay, trong xã hội Chăm vẫn còn phân biệt các đẳng cấp như trên nhưng tên gọi có khác: Tu sỹ Bàlamôn (Halơw jănưng); Quý tộc (Takai gai); Bình dân (Bal liwa pănliua, kulit); Nô lệ, tôi tớ (Halun halăk, halun klor).

Trong h ệ thống chức sắc Bàlamôn có hai tầng lớp: các chức sắc tu sỹ pà xế (passeh) và các chức sắc dân gian (các nghệ nhân sử dụng nhạc lễ, trang trí, thầy cúng, thầy pháp). Chúng tôi chỉ nêu hệ thống tu sỹ pà xế. Tu sĩ pà xế là những chức sắc tôn giáo Bàlamôn, có địa vị cao nhất trong xã hội, thậm chí cao hơn cả vua chúa. Pà xếđược coi là những người trí thức, họ biết chữ Chăm, lưu giữ các sách cổ Chăm qui định về các nghi thức hành lễ, hiểu biết tập tục, truyền bá và thực hiện các nghi thức tôn giáo.Về mặt xã hội, họ thuộc tầng lớp quí tộc cũ và trước đây là tầng lớp trung nông. Tu sĩ pà xếđược duy trì trong xã hội Chăm theo cha truyền con nối. Những người không thuộc dòng dõi chức sắc thì dù có giỏi mấy cũng không được vào hàng ngũ này. Hệ thống pà xếđược sắp xếp từ thấp đến cao: Cấp thấp nhất là thầy passeh Đung a kok. Đây là chức sắc mới nhập môn, phải học chữ Chăm, học các giáo lý, giáo luật và bắt đầu để tóc dài, búi tó. Cấp thứ hai là thầy passeh Liah,được làm lễ phong chức từ passeh Đung a kok lên. Cấp thứ ba là passeh pwah (pa huăk), được làm lễ phong chức từ passeh liah lên, phải là người có thâm niên, và là người duy nhất được làm "lễ cho ăn" trong tang ma. Cấp thứ tư là thầy passeh Tapah. Đây là những tu sĩđã đạt đến độ thoát tục, phải qua những điều kiện rất khắt khe mới được phong chức và phải trải qua ba giai đoạn: Tapahkatat, TapahkađaTapahkađôi. Đây là chức danh phó cả sư. Khi chọn người để phong chức cả sư, trước hết phải chọn Tapahkađôi. Để nhập ! vào hàng ngũ pà xế và lên đến chức cả sư, phải thực hiện đủ các lễ tôn chức như sau: Lễ nhập đạo (dungakau), gọi là lễ xông miệng học chữ Chăm; Lễ lên cấp pà xế liah, giai đoạn học kinh kệ và học các nghi thức hành lễ; Lễ tôn chức tu sĩ chính thức (puah); Lễ tôn chức cả sư hoặc phó cả sư (popaik hoặc podhia). Cao nhất là chức cả sư (Podhia – Pô xà. Pô: ngài, thần, vị, đấng, từđiển Chăm-Việt viết là Ppo). Đây là người có quyền tối cao trong tôn giáo Bàlamôn. Ở tỉnh Ninh Thuận chia làm ba khu vực tôn giáo Bàlamôn nên bao giờ cũng có 3 thầy Pô xà. Đến các làng Chăm Bàlamôn có thể nhận biết được đội ngũ chức sắc pà xế bởi vì họ luôn phải mang trang phục chức sắc của mình. Từ thầy passeh pa huăk trở lên, đi đâu họ cũng mang theo cây gậy thần theo quy định (Thầy pà xế có hai loại gậy, gậy dài gọi là gậy cài môn và gậy ngắn là gậy xừ. Gậy ngắn thường dùng đi chơi,đi thăm hỏi, đi làm lễ tang nhỏ như lễ "một thầy". Gậy dài để dùng làm lễ tang lớn…). Trang phục và đồ trang sức của các thầy khác nhau theo từng cấp pà xế. Nhưng có những điểm chung là tóc dài búi tó, không được để râu. Trên đầu các thầy pà xế luôn đội khăn vải màu trắng, không bao giờđi giày, chỉđi dép nhựa hoặc đi chân đất. Ngày xưa các thầy đi loại dép làm bằng da trâu hoặc đi chân đất. Tu sỹ pà xế Bàlamônđược quyền lấy vợ, sinh con nhưng phải tuân thủ theo những quy tắc rất khắt khe, phải kiêng cữ rất nhiều thứ: Không được ăn thịt những con vật đẻ ra con. Có thể vì lý do quan niệm lễ tang là làm lễ tái sinh ! ra ngư�! �i hoặc con vật sinh con đẻ cái; Không ăn thịt những con vật gắn với truyền thuyết, chuyện cổ Chăm và tín ngưỡng thờ súc vật như lươn, ếch, giông, cá trê, thỏ, hoẵng, những con vật chết yểu, chết do bị thương, những loại hoa quả như chuối hột, đu đủ, đậu hạt, quả sung, bí đao, rau sam, rau dền; Không uống các loại nước có chất lên men, khi đang hành lễ cũng chỉđược uống rượu tượng trưng; Không được đến dự các nghi lễ thuộc "cõi sống" như lễ cưới, lễ Rija prwong (Chà và lớn); Khi tiểu tiện phải ngồi xổm (bởi các thầy là đàn bà, thuộc âm), khi đi đại tiện phải cởi áo trùm đầu; Đi tắm phải xem ngày. Ngày rằm, mồng một theo âm lịch, ngày thứ hai, thứ sáu trong tuần không được ngủ với vợ. Trước khi ăn, ngủđều phải đọc kinh; Khi ngủ không được quay đầu hướng nam vì người Chăm Bàlamôn coi hướng nam là hướng chết (khi có người chết phải đặt quay đầu hướng nam), ngược lại với chức sắc Hồi giáo Bàni kiêng quay đầu hướng bắc. Các thầy pà xế còn phải kiêng cữ rất nhiều ở những lĩnh vực khác. Trong nhà các thầy luôn có chiếtđựng rất nhiều sách viết bằng chữ Chăm cổ hướng dẫn các qui trình hành lễ, các bài văn khấn, hình vẽ các bùa, các câu thần chú v.v… Mỗi lần hành lễ, phải có nghi thức hạ chiết sách. Tu sỹ pà xế mặc sắc phục riêng màu trắng, búi tóc ởđỉnh đầu. Sự phân biệt các cấp pà xế dựa vào hoa văn thổ cẩm đính trên váy và khăn. Hiện nay, có 37 vị tu sỹ pà xế, trong đó có 3 vị cả sư Pô xà cai quản tín đồ và đảm trách các nghi lễ của ba khu vực đền tháp. Khu vực tháp Pôrômê do cả sư Hán Bằ! ng (ngư�! ��i làng Mỹ Nghiệp) phụ trách, khu vực tháp Pôklongirai do cả sư Vạn Tạ (người làng Phú Nhuận, mới tạ thế tháng 5 năm 2004) phụ trách, khu vực đền Pô Inư Nưgar do cả sư Hải Quí (người làng Vĩnh Thuận) phụ trách. Nếu một cả sưở khu vực nào qua đời thì chọn một phó cả sư lên thay thế, nhưng phải được sựđồng tình của cộng đồng người Chăm khu vực đó.

Hệ thống giáo lý, giáo luật

T ừ xa xưa, người Chăm Bàlamôn không liên hệ với cộng đồng ấn Độ giáo trên thế giới. Vì vậy, tôn giáo Bàlamôn của người Chăm không có hệ thống giáo lý, giáo luật rõ ràng. Ngày nay, đại đa số người Chăm Bàlamôn không biết đến giáo lý, giáo luật của Bàlamôn. Chúng chỉ tồn tại trong hàng ngũ chức sắc pà xế, với tên gọi đã bị Chăm hóa nhưng vẫn bắt nguồn từ gốc ấn Độ. Đó là những bộ kinh VệĐà được Hindu giáo kế thừa và bổ sung qua bộ kinh Upanishad (áo nghĩa thư) như Rigvêđa (độc tung vệđà), Samavada (ca vịnh vệđà), Yajurvada (tế tự vệđà) và Athrvamda (gồm bùa chú và khấn trừ tà ma) và một số kinh luật khác được các tăng lữ pà xế Chăm Bàlamôn từ xa xưa phiên dịch ra tiếng Chăm, ghi lại bằng chữ Chăm trong các thư tịch cổ Chăm, được truyền lại từđời này qua đời khác và được thay đổi trong quá trình vận dụng vào cho phù hợp với thức tiễn tín ngưỡng và đời sống xã hội Chăm qua các thời kỳ. Hệ thống kinh luật thể hiện bằng văn bản chữ Chăm và được các thầy pà xế sử dụng hiện nay không còn nhiều, chủ yếu là các kinh tụng trong lễ nghi cúng tế. Kinh tụng lễ rửa tội trừ tà (Pakblih),được dùng trong lễ rửa tội cho các tu sỹ; Kinh tấn phong chức sắc thầy cả sư pô xà (Gal pak tangun); Kinh dựng và nhập kút (mưtayang); Kinh tụng nằm thiếp và tấn phong (Gal pak Pakaup); Kinh hiến tế trên tháp và cầu đảo (Băk kap); Kinh tống ôn thôn xóm (Băk kap play); Kinh trong nghi lễ cúng đền tháp, lễ chặn nguồn nước (Băk kaphay danak). Ngoài những bộ kinh chính nói trên, các chức sắc pà xế còn lưu giữ những bài tang ca, các t! ruyện thơ (Ariya), sách lịch (Sakawi)để phục vụ cúng lễ. Các bộ kinh luật trên được chép tay trên lá buông hoặc giấy vở bao xi măng. Nó được giữ gìn cẩn thận và được coi là rất linh thiêng, thường để trong các chiết sách treo trong nhà, mỗi lần hạ chiết phải làm nghi thức cúng lễ. Những bộ kinh này ít được truyền bá, chủ yếu cha truyền con nối trong tầng lớp tu sỹ. Từ lâu, hai bộ kinh cầu đảo và tống ôn trong làng ít khi dùng đến. Kinh hiến tế trên đền tháp được sử dụng định kỳ hàng năm vào dịp lễ hội Katê. Kinh được dùng thường xuyên nhất là kinh rửa tội trừ tà.

Hệ thống thần linh

Tôn giáo Bàlamôn v ốn là tín ngưỡng đa thần. Hầu như mọi yếu tố vật chất trong tự nhiên đều có thần linh ngự trị. Thần ở trên trời như thần mặt trời, thần gió, thần mưa, thần sấm sét. Thần ở trên mặt đất như thần núi, thần sông, thần cây, thần rừng, thần ở các động vật, ở các công cụ lao động, ởđền tháp.v.v… Tuy nhiên, hệ thống thần linh của người Chăm Bàlamôn không theo một hệ thống rạch ròi như Bàlamôn nguyên thủy mà đã được bồi đắp nhiều lớp đời này qua đời khác thông qua sự cúng tế, cầu nguyện. Đền tháp theo tôn giáo ấn Độ là để thờ các đấng thần linh của Bàlamôn giáo, nhưng người Chăm đã biến thành thờ các nhân thần, có tên tuổi cụ thể như Pôrômê, Pôklongirai. Trong các nghi lễ, được thỉnh mời đầu tiên là 3 vị thần: Pô Ginuor mơtri (thần Shiva); Yang Pô, Yang Amư (Giang pô là thần trời. Giang A mư là thần cha), đây là hai vị thần tối cao thuộc dương, luôn được thỉnh mời đầu tiên trong các lễ tục Chăm; Yang Pô Inư Nưgar (Thần Mẹ xứ sở) thuộc âm (ở Ninh Thuận có nhiều thần Mẹ xứ sở, đó là những thần con gái của Pô Inư Nưgar như Pô Inư Nưgar Thu Ram ở Hữu Đức, Pô Inư Nưgar Hamukút ở Bĩnh Nghĩa, Pô Inư Nưgar Taha, Barau.v.v…, có những đền thờ Mẹ xứ sởđược coi nhưđền thờ thành hoàng làng). Ngoài ra còn vô số vị thần được thỉnh mời trong các nghi lễ như: Bò thần Kapil, Thần mặt trời Pô Atlitiak, Thần hủy diệt Pô Sapalai, Thần sáng tạo Pô Sapa Jươn, Thánh mẫu Pô Yang Inư Nưgar taha, Thần lửa Pô Yang patah apui, Thần tứ phương Pô Yang Akien, Dâm thần ! Pô Yang Sari, Thần bầu trời Pô ligik, Thần biển: Pô Yang atau tathik, Thần núi: Pô Yang Atau Chơk, Thần nước: Pô patah ia, Thần gò mối Pô Yang angin, Thần mưa Pô Yang Chan, Thần hộ mệnh bên tả bên hữu Pô nưbi, Pô bihanuk.v.v…

Hệ thống nghi lễ

Ng ười Chăm Bàlamôn có hệ thống nghi lễ phong phú, đa dạng và diễn ra quanh năm. Có thể chia ra các nhóm hệ thống nghi lễ nông nghiệp, hệ thống nghi lễ vòng đời và hệ thống nghi lễ mang tính cộng đồng tôn giáo. Hệ thống lễ nghi nông nghiệp gồm một số lễ nghi tiêu biểu như: Lễ chuyển mùa, đón năm mới, tống ôn đầu năm (tháng 1 lịch Chăm): RiJa nưgar; Lễ cầu mưa: Yang palau Risah; Lễ cúng Pô nai (cầu mưa): Yang Pônai; Lễ cúng Pô riyak (cầu mưa); Lễ cúng chặn nguồn nước: Yang pakap halau kron; Lễ khai mương đắp đập: Yang trun limưn tăm; Lễ tế trâu (7 năm một lần) tại núi Đá trắng; Lễ cúng thần ruộng: Yang ey pô bhum hamu; Lễ cúng đầu lúa: Yang tac patai dok tian; Lễ cúng ruộng tục: Yang hamu tacam tadak; Lễ mừng lúa mới sau khi thu hoạch: Yang ba patai takok ditan. Hệ thống nghi lễ cộng đồng tôn giáo gồm: Lễ Ka tê là lễ hội lớn nhất của người Chăm Bàlamôn. Trong lễ Ka tê có các lễ thức: Lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng. Lễ Ka tê là lễ cúng cha (thuộc dương), vì vậy nên được tổ chức vào ngày mùng 1 tháng 7 Chăm lịch (giữa năm), vì theo quan niệm của người Chăm "nam thất, nữ cửu" nên lễ cúng cha luôn vào tháng 7, và lễ Chabul (cúng mẹ, thuộc âm) được tổ chức vào tháng 9; Lễ Chabul (lễ cúng mẹ, thuộc âm); Lễ Yỗn yang (cầu đảo). Nghi l tôn chức các chức sắc tôn giáo gồm các nghi lễ tôn chức hàng pà xế từ thấp đến cao. Lễ Rija rwong có mục đích tôn chức thầy vỗ (mưtuồn), tôn chức bà bóng khu vực (Muk pajau) và bà bóng dòng họ (Muk rija), tôn chức nghệ nhân đánh trống ghi năng và nghệ nhân thổi! kèn Saranai (On ataun Ginăn, On yuk Saranai), lễ tôn chức ông Kathành – người kéo đàn kanhi (kadhar) và bà đơm (mupuh) trong lễ tang. Nghi l vòng đời của người Chăm Bàlamôn vừa mang dấu ấn văn hóa bản địa, vừa mang những truyền thống Bàlamôn giáo, tập trung chủ yếu ở giai đoạn sinh, cưới và tang (7). Trong đó, với quan niệm luân hồi giải thoát, nghi lễ tang ma luôn được coi trọng hàng đầu. Lễ nhập kút trong nghi lễ tang ma là một hiện tượng phái sinh của Bàlamôn giáo. Các nghi lễ vòng đời của người Chăm Bàlamôn bao gồm: Nghi lễ sinh đẻ (lễ cúng khi sinh nở; lễ tắm rửa cho hài nhi, lễ tra còng, đeo dây thiêng, đặt tên), Nghi lễ cưới (Lễ dạm hỏi, lễ hỏi, lễ cưới); Nghi lễ tang ma (Lễ tắm rửa, khâm liệm, lễ hoả táng, lễ nhập kút [lễ dựng kút và nhập kút, lễ mở cửa kút], tục thờ kút, lễ cúng giỗ 3 ngày, một tuần, một tháng, một năm). Điểm đáng chú ý trong nghi lễ vòng đời của người Chăm là những quy định khắt khe về hôn nhân và liên quan đến các hình thức tang ma và giải thoát linh hồn. Theo quy định, người Chăm duy trì hôn nhân đồng tôn giáo và đồng dân tộc. Nếu người Chăm kết hôn với người khác dân tộc, khác tôn giáo, đến khi chết không được làm lễ tang cho người chết "trọn vẹn", không được nhập kút về với dòng họ mẹ và linh hồn không được giải thoát. Quy định này đã khép cộng đồng người Chăm trong những palei, được bao bọc bởi những hàng rào xương rồng gai góc.

2. Tôn giáo Chăm Bàni

V ề sự du nhập Hồi giáo vào Chăm Pa, cho đến nay chưa có những cứ liệu rõ ràng. Năm 1928, trong cuốn Le Royaume de Champa, G. Maspero nêu vấn đề Hồi giáo truyền vào Chăm Pa từ bao giờ, có dẫn trong Tống sử là ông có tìm thấy xưng hiệu Allah akbar, nhưng không quả quyết rằng vào thời nhà Tống, Hồi giáo đã vào Chăm Pa (8). Chỉ có các bia ký có niên đại vào năm 1039 là đề cập đến việc các thương nhân nước ngoài theo Hồi giáo đến làm ăn buôn bán với Chăm Pa. Các nhà nghiên cứu người Pháp đều cho rằng Hồi giáo và các nhà truyền giáo Trung Đông có đến Chăm Pa nhưng lúc này chỉ mới là giai đoạn tiếp xúc. Vào thế kỷ XII-XVI, người Chăm có hoạt động hàng hải phát triển và tiếp xúc nhiều với các nước Indonesia, Malaysia, Malacca, những nước đã tiếp nhận Hồi giáo trước đó và Hồi giáo đã bắt đầu vào Chăm Pa theo con đường này. Nhưng phải sau 1471, tình hình kinh tế xã hội Chăm suy sụp, rối ren, niềm tin vào Bàlamôn của người dân giảm sút tạo điều kiện cho Hồi giáo từ hải đảo du nhập vào, chiếm lĩnh lòng tin của một bộ phận dân cư. Cũng có tài liệu cho rằng, trước đây, số lượng tín đồ theo Hồi giáo chiếm 50% dân số Chăm, sau này số Hồi giáo còn lại ở vùng Panduranka chỉ còn 1/3, dần dần bản địa hóa thành Hồi giáo Bàni. Theo nhng tư liệu chúng tôi thu thập được qua các nghi lễ của người Chăm hiện nay, những lời hát lễ trong các nghi lễ như lễ Rija (Chà và), chuyện cổ, trường ca, truyền thuyết Chăm có liên quan nhiều đến nguồn gốc Indonesia, Malaysia. Nhiều lời bài hát lễ của các chức sắc vẫn dùng tiếng Chà và (Java), bản thân người hát cũng không hiểu nội dung! của lời hát. Theo Aymonier trong cuốn Les Tchames et leurs religions (1891) thì chữ Bàni xuất phát từ chữả Rập "beni" nghĩa là "những người con trai" của đấng tiên tri (9). Còn người Chăm ở Ninh Thuận gọi Bàni là "bìnì". Trong quan niệm "nhất thể lưỡng hợp", người Chăm coi những người theo Bàni là Awal thuộc dương, đối xứng với người Chăm theo Bàlamôn là Ahiêr thuộc âm. Người Chăm Bàni ở Ninh Thuận có khoảng 18 ngàn người, sống tập trung ở 7 làng, trong đó có một số làng sống xen kẽ với các tôn giáo khác. Làng Phú Nhuận vừa có người Chăm Bàlamôn vừa có người Chăm Bàni. Làng An Nhơn, Phước Nhơn và Văn Lâm vừa có tínđồ Bàni vừa có tínđồ Ixlam.

Hệ thống thánh đường

Tín Bàni và tínđồ Ixlam có thánh đường riêng. Hiện có 7 thánh đường Bàni ở 7 làng. Người Chăm gọi thánh đường Bàni là "Thang mưgik" hay "Thang Pô" (nhà thánh), "Thang Dhar" (nhà phước), nhiều người ở Ninh Thuận gọi là chùa Bàni. Ngày xưa, thánh đường làm bằng nhà tranh, sau này được xây cất bằng gạch ngói, hiện nay nhiều thánh đường từng bước được tu bổ khang trang, hiện đại theo phong cách thánh đường nhưng không hoàn toàn chịu ảnh hưởng của phong cách các thánh đường Hồi giáo quốc tế.

Thánh ng Bàni là một ngôi nhà lớn nằm trong khuôn viên được bao bọc bằng những tường rào ở trung tâm làng. Cổng khuôn viên hướng đông bắc, có mái che. Các bức tường thánh đường được xây dựng bằng gạch nhưng vẫn có khung nhà bằng gỗ, những hàng cột gỗ lớn. Đòn dông nhà đặt theo hướng đông – tây, cửa thánh đường mở hướng đông ở phía đầu hồi. Có một nhà khách làm bằng gỗ, đòn dông hướng bắc – nam. Trong lòng thánh đường để trống, không trang trí gì. Chỉ có một mihrabở bức tường trong cùng, là một khung gỗ cao chừng 2m, rộng khoảng 1,5m, là nơi để các tu sỹđọc kinh và làm lễ. Bên phải của mihrab có một cái bục gọi là minbar, là nơi để vị Khotip giảng kinh. Trong khuôn viên thánh đường còn có một cái giếng để lấy nước làm lễ thánh tẩy. Thánh ng là nơi các tu sỹ và các tín đồ Bàni đến cầu nguyện và dâng lễ trong các dịp lễ, là nơi làm lễ phong các chức sắc tu sỹ Bàni, nơi tập trung tín đồ tham dự mùa chay Ramưwan. Phụ trách thánh đường là một hội đồng do tín đồ bầu lên, có nhiệm kỳ từ 3 đến 5 năm. Hiện nay thánh đường còn là nơi hội họp của các chức sắc, các nhân sỹ trí thức để bàn bạc việc làng.

Hệ thống chức sắc Bàni

M ỗi thánh đường Bàni đều có đội ngũ chức sắc phụ trách các sự vụ tôn giáo. Tầng lớp tu sỹ Bàni được gọi chung là "thầy char"(cũng giống như thầy pà xế bên Bàlamôn). Theo quan niệm "nhất thể lưỡng hợp", chức sắc Bàlamôn được coi là âm (tóc búi tó) thì chức sắc Bàni là dương, cạo tóc, để râu. Các cấp tu sỹ có trang phục chức sắc riêng: áo quần màu trắng, áo dài, cạo tóc và bịt khăn.

H ệ thống tu sỹ Bàniđược tổ chức rất chặt chẽ, được phân công theo khu vực thánh đường và được chia thành bốn cấp: Chức sắc Char (Achar): là những người mới gia nhập vào hàng ngũ tu sỹ. Tùy theo thời gian và khả năng của từng người để chia chức thầy Char ra làm bốn cấp: thầy char Jăm ak, thầy char Talavi, thầy char Pôsit và thầy char Pô prong. Lễ tôn chức Char được tổ chức trong tháng ăn chay Ramưvan. Cấp Char cũng có người được tham gia vào trong ban thường trực của thánh đường và được gọi là imưmtình. Chức Khotíp hay típ: Là thầy giảng giáo lý hàng tuần vào thứ sáu. Thầy típ có nhiệm vụ thực hiện một số nghi lễ tại thánh đường và ở gia đình. Thầy típ nằm trong ban thường trực của thánh đường thì gọi là tip tanh. Chức Imưm hay mưm: Ông thầy điều khiển các buổi lễ "thứ sáu". Muốn lên chức thầy imưm, phải là người đã trải qua hơn 15 năm tu hành, thuộc hết kinh Coran và thực hiện được các nghi lễ của tôn giáo. Trong số các thầy Imưm, những người có khả năng và các tiêu chuẩn được chọn ra mắt 40 vị thánh của đạo và được gọi là Imưm pah pluh (mưm bốn mươi). Sự lựa chọn tu sĩđể tôn chức Imưm pah luh rất khắt khe, phải được các thầy cả trong vùng chấp nhận. Thầy cả Pô grù là chức vụ cao nhất và duy nhất trong một thôn hay một thánh đường Bàni. Ông là người có quyết định tối cao những vấn đềđạo và đời của các tín đồ Bàni thuộc khu vực thánh đường mình phụ trách, là người chọn ngày tổ chức các nghi lễ. Hiện nay ở Ninh Thuận có bảy thánh đường ! và bảy thầy cả phụ trách, bảy thầy này có chức quyền ngang nhau. Cứ ba năm, tất cả các chức sắc đến làm lễ suk yâng. Tại lễ này, các chức sắc của bảy khu vực thánh đường cử ra một ông phụ trách chung (như kiểu thư ký ban liên lạc) để quyết định những việc lớn liên quan đến cả bảy khu vực. Ông thư ký này thường phải là Imưm pah pluh, sau ba năm lại cử ra một ông khác. Đối với tín đồ Bàni, thầy Char rất được nể trọng. Ông vừa là người thay mặt cho thánh Ala làm các nghi thức tôn giáo, vừa là người thay mặt cho người Chăm của cả hai tôn giáo Bàlamôn và Bàni làm chủ nhiều nghi lễ mang tính chất dân gian của người Chăm Bàlamôn và Bàni. Trong các lễ Ri chà của người Chăm Bàlamôn, phải có các thầy Char đến khai lễ. Trong các nghi lễ cộng đồng mang tính nông nghiệp như Rija nưgar, Kap hlâu Krong, Mưrôi, Plao asah, các thầy Char đều đến và làm chủ lễ một số tiểu lễ. Trong các lễ tẩy uếđất đai, nhà mới, chữa bệnh, các gia đình Chăm Bàlamôn đều có mời thầy Char làm lễ. Chức sắc Bàni phải nối theo dòng họ và mỗi họ phải có một người làm thầy Char. Như vậy, mỗi thầy char trong một thánh đường đều làđại diện cho dòng họ mình. Muốn trở thành thầy char thường phải hội đủ các tiêu chuẩn: Phải giỏi chữđể học kinh thánh. Trước khi làm lễ tôn chức đã phải học kinh thánh; Là người đã có vợ, bản thân người nhập vào hàng ngũ thầy Char và vợ phải trong sạch. Vợ hoặc chồng không phải là một trong các trường hợp song sinh; Phải là tín đồ Bàni ít nhất là ba đời.

Hệ thống thần linh và hệ thống giáo lý giáo luật

T ừ tín ngưỡng đa thần của Bàlamôn giáo, người Chăm Bàni chuyển sang tín ngưỡng nhất thần, chỉ thờ phụng thánh Ala và thiên sứ Môhamet. Tuy nhiên, trong tiềm thức của người Chăm Bàni vẫn sâu đậm quan niệm đa thần, thể hiện trong việc tham gia vào các nghi lễ mang tính chất nông nghiệp như lễ hội Rija nưgar, lễ hội Kaplau krong, Plao Pasah…. Các thầy Char vẫn làm chủ một số nghi lễ cộng đồng quan trọng. Người Chăm Bàni ngoài việc cầu nguyện Pô Âu lóa (Ala), vẫn cầu nguyện các thần linh từ xa xưa như các thần thiên nhiên: thần Mưa, thần Biển, thần Núi, thần Nước, thần Sông và một số nhân thần như Pôklongirai, Pôrômê, Pô Inư Nưgar… Tôn giáo Bàni là Hồi giáo du nhập từ Indonesia, Malaysia từ lâu đời và cũng từ lâu, nó đã bị bản địa hóa khá đậm. Hồi giáo Bàni không có sự liên lạc với Hồi giáo quốc tế mà còn không chịu chấp nhận Hồi giáo mới. Vì vậy, hệ thống giáo lý giáo luật của tôn giáo Bàni hiện nay đã khác xa với hệ thống giáo lý giáo luật của Hồi giáo quốc tế. Tuy vậy, hệ thống giáo lý giáo luật của Bàni vẫn có một cái gốc chung là kinh Coran, ngoài ra còn có sách Sunna và Hadit hướng dẫn các tín đồ trong mọi ứng xử có tính thực tế mà chính Môhamet và các Clifes kế vị giảng giải. Các tu sỹ Bàni chỉ biết đến mỗi kinh Coran và kinh này cũng đã qua nhiều lần "dị bản". Các tu sỹđọc kinh nhưng không hiểu được nội dung. Chữả Rập trong kinh Coran đã bị cải biến và chuyển sang nhiều thế hệ chữ Chăm nên ngày càng xa bản gốc. Việc tụng kinh, đọc kinh của các tu sỹ là chỉ làm sao phát âm cho đúng các câu kinh và những động tác th�! ��c hiện nghi lễ. Bên cạnh đó, do quan niệm sách kinh là sách thiêng nên không được lấy xuống đọc một cách tùy tiện để nghiên cứu, nghiền ngẫm. Chỉ vào những mùa chay Ramưvan, các tu sỹ mới mang kinh xuống để học.

Hệ thống nghi lễ, việc thờ cúng

Khác v i Hồi giáo chính thống, tín đồ Bàni không làm lễ năm lần mỗi ngày. Ngày thánh lễ là vào thứ sáu hàng tuần và cũng chỉ tổ chức đơn giản vào một thời gian nhất định và mỗi năm chỉ có 9 tháng tổ chức ngày thánh lễ thứ sáu (10). Tháng chay Ramưvan là thời gian quan trọng nhất của người Bàni, Nhưng người theo Bàni không phải nhịn ăn vào ban ngày như luật Hồi giáo quy định. Chỉ có các tu sỹ phải nhịn ăn ba ngày đầu của tháng Ramưvan mà thôi. Trong tháng Ramưvan, các tu sỹ phải tu ở thánh đường, không được về nhà và chỉđược ăn những lễ vật dâng cúng. Khi ăn cơm chỉđược dùng tay và chỉăn nửa bên phải. Tu sỹ phải tắm rửa sạch sẽ, ít nhất mỗi ngày một lần. Tại thánh đường, vào đêm 27 của tháng Ramưvan diễn ra cuộc họp các thầy Char và các nhân sỹ trí thức, bô lão và những người có uy tín trong thôn và bầu ra một vị Mưtìn (mưdin). Vào rạng sáng ngày cuối tháng Ramưvan, các tu sỹđược ăn bữa cơm cuối cùng để làm lễ mãn tháng thụ thai. Thức ăn gồm cơm nấu với dừa, cá đuối, trứng. Nghi l vòng đời của người Chăm Bàni ở Ninh Thuận có nhiều điểm khác biệt với các nghi lễ Hồi giáo thế giới, có sự pha trộn với tín ngưỡng bản địa và Bàlamôn giáo. Lễ Karơh là lễ cấm phòng cho các thiếu nữ và lễ katat là lễ cắt qui đầu cho các nam thiếu niên đến tuổi trưởng thành cùng tổ chức vào một thời điểm do ông Pôgrù quyết định và tổ chức chung cho một khu vực. Lễ Karơh (cấm phòng) được coi là quan trọng hơn vàđược tổ chức lớn hơn cho các thiếu nữđến tuổi dậy thì (15 tuổi). Đây là lễ thức chuẩn bị cho con gái trưởng thành! chuẩn bị bước vào hôn nhân, thường được tổ chức cho nhiều cô gái một lúc. Người ta dựng hai căn nhà tạm đối mặt nhau: Chiếc nhà lớn ở phía đông để làm lễ, chiếc nhỏở phía tây cho các cô gái vào cầm mình. Suốt đêm hôm trước, ông thầy Pôgrù và các thầy Imưm đọc kinh cầu nguyện trong căn nhà lớn. Các cô gái ngủ trong căn nhà nhỏ và được bốn bà già canh giữ không cho ra ngoài. Sáng hôm sau, các cô gái mặc lễ phục nhiều màu xanh đỏ, được một người đàn ông mặc đồ trắng và một bà già bồng trên tay một đứa bé chừng một tuổi hướng dẫn sang căn nhà lớn làm lễ. Các cô gái vào lần lượt từng người. Ông thầy cảđặt vào miệng cô gái một hạt muối, cắt một lọn tóc nhỏ trên đầu rồi cho uống nước. Chịu lễ xong, cô gái lại trở về căn nhà nhỏ tiếp tục cầm mình. Khoảng mười giờ sáng, các cô lại trở ra, lần này mặc áo dải trắng, lần lượt sang nhà lễ, lạy tạ ông Pôgrù và các thầy Imưm. Ông thầy Pôgrù sẽđặt tên thánh cho các cô. Trong dịp này, các cô gái sẽđược cha mẹ, bạn bè, người thân tới tặng các loại của cải vật chất nhưđồ trang sức, quần áo, tiền bạc, thậm chí cả trâu bò, ruộng đất. Những tặng vật ấy được coi như là của cải hồi môn khi các cô cưới chồng về. Lễ Katắt (cắt qui đầu) còn có ý nghĩa là lễ nhập đạo và để sau này có thể trở thành tu sỹ. Ngày nay, lễ cắt quy đầu chỉ mang tính tượng trưng. Nếu như người Chăm Ixlam An Giang coi trọng lễ Katắt cho con trai thì người Chăm Bàni Ninh Thuận lại coi trọng lễ Karơh cho con gái. Điều này thể hiện chếđộ mẫu hệ còn rất đậm ở cộng đồng Chă! m Ninh Th! uận. Tang lười Chăm Bàni Ninh Thuận đơn giản, không phân biệt đẳng cấp, dòng họ nhưng cũng có nhiều nghi thức tang lễ khác nhau phân biệt bởi tuổi bị chết: Loại lễ tang do một thầy Char làm lễ trong các lễ tang cho trẻ con, người chết không bình thường, chết khi còn là bào thai, phải chôn tạm rồi sau này mới được đưa vào nghĩa địa.

Lo ại lễ tang có hai thầy Char dành cho trẻ chết dưới 10 tuổi nhưng được chôn vào nghĩa địa.

Lo ại lễ tang do ba thầy Char làm lễ dành cho những người chết dưới 70 tuổi.

Lo ại lễ tang do sáu thầy Char làm lễ dành cho những người chết trên 70 tuổi. Tang lễ này có nghi thức rửa tội.

Lo ại lễ tang do 13 thầy Char làm lễ dành cho các tu sỹ và những người giàu có.

Lo ại lễ tang do 17 thầy Char làm lễ dành cho những người chết là Pôgrù (thầy cả).

3. Hồi giáo mới (Ixlam)

H ồi giáo mới Ixlam mới du nhập vào đồng bào Chăm vào năm 1963, từ Trung Đông. Những người theo Hồi giáo này có sự liên lạc với Hồi giáo quốc tế, hàng năm có người hành hương đến thánh địa Mecca. Người Chăm theo Ixlam hiện nay ở Ninh Thuận chưa nhiều, chỉ mới khoảng 2000 tín đồ tập trung ở các thôn Văn Lâm, Nho Lâm, An Nhơn, Phước Nhơn. Tại mỗi thôn, người theo Ixlam đều có thánh đường riêng. Tên của thánh đường được gọi theo số thứ tự. Người Chăm gọi những người theo Ixlam này là Hồi giáo mới. Người đầu tiên khởi xướng và tiếp nhận Hồi giáo này là ông Từ Công Xuân ở thôn Văn Lâm, Ninh Phước. Ông là người đầu tiên đi vận động bà con Chăm Bàni gia nhập Ixlam. Hoạt động của cộng đồng Chăm Ixlam theo Hồi giáo chính thống, chỉ tôn thờ thánh Ala, cầu nguyện mỗi ngày 5 lần. Tín đồ là nam đều tắm rửa sạch sẽ, y phục chỉnh tềđến thánh đường làm lễ trưa thứ sáu hàng tuần. Tín đồ nữđược làm lễ tại nhà. Các tín đồ thực hiện nghiêm túc giáo lý giáo luật của Hồi giáo, thực hiện các bổn phận của tín đồ như nhịn ăn tháng Ramadan. Vào các năm 1998 – 2000, một số tín đồ thuộc thánh đường 101, 104 ở thôn Văm Lâm, thánh đường 102 ở thôn Phước Nhơn đã được hành hương về thánh địa Mecca. Sau khi hành hương vềđược mang tước hiệu Hadji và được tín đồ kính trọng.

Thánh ng Hồi giáo có một ban Hakem đểđiều hành các nghi lễ và cai quản tín đồ. Ngoài ra, xuất hiện một vài trường hợp người Chăm theo Thiên Chúa giáo, số này không nhiều nhưng cũng là mầm mống của sự phân rã tôn giáo tín ngưỡng Chăm ở Ninh Thuận.

4. Thực trạng tôn giáo Chăm ở Ninh Thuận

Ngoài H i giáo mới, hai tôn giáo chính của người Chăm hiện nay là Bàlamôn và Bàni là những tôn giáo đã có quá trình bản địa hóa mạnh, chỉ còn là cái vỏ bề ngoài, đã từ xa xưa không có mối liên hệ với các tôn giáo gốc nên hệ thống tổ chức không chặt chẽ, thiếu một sựđiều hành thống nhất và thiếu hệ thống lãnh đạo, chỉ huy về tôn giáo trong cộng đồng tín đồ nên thường xáo trộn, nhiều trường hợp xảy ra tranh chấp phải cậy đến chính quyền đứng ra giải quyết. Một vấn đề khác là thiếu sự thống nhất về lịch pháp. Hiện nay, cách tính lịch rất không thống nhất giữa hai tôn giáo. Người Chăm Bàni sử dụng hai loại lịch: Lịch Hồi giáo sử dụng trong tháng Ramưvan và lễ Waha. Còn tất cả các nghi lễ dân gian khác như tang lễ, lễ nghi nông nghiệp, lễ cưới, lễ dựng nhà mới v.v… lại tính theo lịch cổ truyền Chăm (lịch Chăm Bàlamôn). Trước đây lịch của hai tôn giáo còn thống nhất với nhau, nhưng từ năm 1988 đến nay, lịch hai bên chênh nhau đến 2 tháng. Đặc biệt hơn nữa, giữa các vùng ngay trong một tôn giáo Bàni cũng tính lịch chênh nhau. Trong 7 thôn Chăm Bàni có 2 thôn Văm Lâm và Phước Nhơn tính lịch khác với 5 thôn còn lại lệch nhau đến 2 tháng. Sự không thống nhất lịch sinh ra rất nhiều điều phiền toái, trước hết là các nghi lễ cộng đồng, sau đó là các nghi lễ tộc họ và gia đình như quan, hôn, tang, tếđều bị trục trặc lớn. Tình trạng này hiện nay vẫn chưa giải quyết được. Giữa hệ thống chức sắc tu sỹ Chăm và hàng ngũ trí thức Chăm xuất hiện những khoảng cách. Trước năm 1975, tỷ lệ con em người dân tộc Chăm học đại học còn rất ít ỏi. Từ n! ăm 1975 đến nay, đội ngũ trí thức Chăm phát triển không ngừng với hàng nghìn sinh viên tốt nghiệp đại học trở thành bác sỹ, kỹ sư, nhà nghiên cứu (riêng bệnh viện Phan Rang đã có vài chục bác sỹ người Chăm), đã có nhiều người học sauđại học và trở thành các nhà khoa học, trong đó có các nhà nghiên cứu văn hóa Chăm. Họ nhận thấy sự lạc hậu của hệ thống chức sắc, tu sỹ tôn giáo Chăm cả Bàlamôn lẫn Bàni, bởi nhiều chức sắc chỉ biết làm theo kiểu "xưa sao, nay vậy". Hệ thống chức sắc tôn giáo ngày càng thiếu vắng một thế hệ kế tục trong tương lai. Tu sỹ, chức sắc tôn giáo Chăm ngày nay chẳng những đang suy giảm vai trò vị trí, uy tín trong cộng đồng mà còn mất dần quyền lợi về kinh tế. Hàng ngũ chức sắc không còn là tầng lớp cao nhất trong xã hội Chăm như ngày xưa nữa. Vì vậy, mặc dù là dòng dõi đẳng tu sỹ, nhưng ngày nay, thế hệ trẻ không muốn đứng vào đội ngũ chức sắc. Lớp chức sắc cũ thì đã lớn tuổi, lại không có đội ngũ kế vị. Đây là một vấn đề không nhỏ trong thực trạng tôn giáo và xã hội Chăm.

5. Mối quan hệ giữa các tôn giáo Chăm

Ph ật giáo, Bàlamôn giáo, Hồi giáo cũ (Bàni) và Hồi giáo mới (Islam) đều đã du nhập vào cộng đồng dân tộc Chăm ở Ninh Thuận theo các thời điểm lịch sử khác nhau. Ngoại trừ Phật giáo hiện nay không còn tồn tại như một tôn giáo, các tôn giáo Bàlamôn, Bàni, Hồi giáo mới vẫn còn hiện hữu trong đồng bào Chăm. Những tôn giáo khác nhau này, tùy theo từng thời kỳ lịch sửđã đóng góp rất nhiều đến sự hình thành nên một bản sắc văn hóa Chăm mang tính đặc thù, nhưng cũng có những lúc, các tôn giáo này ít nhiều chi phối không nhỏđến sự thống nhất cộng đồng dân tộc Mối quan hệ giữa hai tôn giáo Bàlamôn – Bàni và tính "nhất thể lưỡng hợp": Khi Hồi giáo du nhập vào Chăm Pa, xảy ra sự thiếu thống nhất tôn giáo trong một cộng đồng dân tộc. Trong lịch sử, người Chăm đã giải quyết những mâu thuẫn này bằng cách ứng dụng quan niệm nhất thể lưỡng hợp để gắn cho hai tôn giáo, xóa nhòa mâu thuẫn tôn giáo trên cơ sở phân lập hai cộng đồng tôn giáo. Người Chăm theo Bàlamôn được gọi là Ahiêr (biểu tượng dương), người Chăm Bàni được gọi là Awal (biểu tượng âm). Tu sỹ Bàlamôn tuy là đàn bà (búi tóc, cạo râu) nhưng lại mặc sắc phục đàn ông biểu tượng cho dương, đeo túi biểu tượng dương, thể hiện rất rõ quan niệm trong âm có dương và ngược lại. Thầy Char, tu sỹ Bàni là đàn ông (cạo tóc, để râu) nhưng lại mặc trang phục đàn bà, có túi biểu tượng âm. Đức tin cao nhất được diễn giải trong các tôn giáo Chăm bằng câu châm ngôn: "Ngok Pô debita, ala Pôtănưh riya, gan krưh Pô Âu lóa", có nghĩa là: Trên là đấng tối cao (trời), dưới là thổ th�! ��n (trái đất), ở giữa là đấng âu lóa (mặt trời, mặt trăng). Và để biểu trưng cho sự thống nhất này là biểu tượng Omcan. Số 6 ở trên là số của trời, số 3 ở dưới tượng trưng cho đất, ở giữa là vòng trong (mặt trời) và lưỡi liềm (mặt trăng). Tất cảđược nối với nhau bằng một trục thẳng đứng. Số 3 cộng với số 6 bằng 9, là con số lớn nhất. Hình tượng này là quan niệm vũ trụ quan của người Chăm và được sùng kính, coi như vị thần tổ của người Chăm. Omcan được coi nhưđấng toàn năng nhất thể lưỡng hợp. Là sự thống nhất hai mặt âm – dương. Âm dương giao hòa thì vũ trụđược tạo dựng, muôn vật sinh sôi nẩy nở. Câu tc ngữ tajuh halâu, klâu bimông có nghĩa là bảy thánh đường, ba tháp có ngụ ý thống nhất cộng đồng, người Chăm ở Ninh Thuận có bảy thánh đường Bàni và ba ngọn tháp của Bàlamôn. Tuy là hai tôn giáo khác nhau, nhưng trong các nghi lễ tôn giáo và lễ nghi dân gian đều có sự phối hợp. Trong nhiều nghi lễ của người Chăm Bàlamôn có sự tham gia chủ lễ của thầy Char. Xét v tính chất tín ngưỡng tôn giáo, hệ thống giáo lý, giáo luật của người Chăm Bàlamôn và Bàni, nếu gọi những người Chăm jat – ahiêr là Chăm theo đạo Bàlamôn và người Chăm binì là theo Hồi giáo là chưa chuẩn xác. Thực chất đó chỉ là những mảnh vỡ của các tôn giáo nói trên và đã hòa nhập vào tín ngưỡng bản địa, tạo nên cho tôn giáo Chăm một tínhđặc thù. Tôn giáo Chăm mà đặc biệt là Bàlamôn giáo là căn nguyên tạo cho dân tộc Chăm một nền văn hóa riêng, và cũng chính Bàlamôn giáo, thông qua việc bảo tồn hệ thống nghi lễ, là rường cột đã bảo! lưu n�! �n văn hóa truyền thống Chăm cho đến ngày nay. Dân tc Chăm tiếp nhận nhiều tôn giáo khác nhau. Qua quá trình lịch sử dài lâu, những tôn giáo như Bàlamôn và Hồi giáo đã bản địa hóa, trở thành những tôn giáo dân tộc, tôn giáo địa phương. Ngoại trừ người Chăm theo Islam, người Chăm Bàlamôn và Bàni đã không còn giữđược hệ thống chức sắc tôn giáo, hệ thống giáo lý, giáo luật mà đã hòa trộn với tín ngưỡng bản địa, tạo nên một văn hóa Chăm phong phú, đa dạng và độc đáo vừa có hình bóng văn hóa ấn Độ, vừa có cốt lõi của nền văn hóa bản địa Đông Nam á. Chính những tôn giáo bị bản địa hóa dần dần đã hình thành nên chất keo dính, tạo nên sự cố kết cộng đồng khá bền vững và một sắc thái văn hóa đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, thực trạng tôn giáo trong cộng đồng người Chăm ở Ninh Thuận đang ảnh hưởng không nhỏđến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Hệ thống lễ nghi dày đặc quanh năm tốn kém thời gian, kèm theo sựđóng góp lễ vật đang là gánh nặng cho người dân Chăm. Những quy định khắt khe của các tôn giáo như hôn nhân đồng dân tộc, hôn nhân đồng tôn giáo đang là rào cản cho sự tự do yêu đương và kết hôn của thanh niên Chăm. Những quy định khắt khe về các nghi lễ tang ma, lễ nhập kút cũng đang hạn chế rất nhiều đến các vấn đề phát triển của giới trẻ.v.v… Vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu thực trạng các tôn giáo Chăm, cần cụ thể hóa các chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng đồng bào Chăm mà tâm điểm là vùng đồng bào Chăm Ninh Thuận.

P.Q.A ________

1. C ục Thống kê tỉnh Ninh Thuận, Niên giám thống kê, Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Thuận, 2002.

2, 4, 5. Ngô Văn Doanh, Văn hóa Chăm Pa, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 1994, tr.72.

3, 10. Phan Xuân Biên, Phan An, Phan V ăn Dốp, Văn hóa Chăm, Nxb KHXH, Hà Nội,
1991, tr.9.

6. Bùi Khánh Thế (chủ biên), Từđiển Chăm – Việt, Nxb KHXH, Hà Nội, 1995.

7. Phan Qu ốc Anh, Những quan niệm trong tang ma của người Chăm Bàlamôn, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 6 (84), 2002, tr.21-31.

8. Maspero G. Le Royaume de Champa, Van Dest, Pari, 1928, tr.13.
9. Aymonier, Les Tchames et leurs religions, 1891.

10. Phan Xuân Biên, Phan An, Phan V ăn Dốp, Văn hóa Chăm, Nxb KHXH, Hà Nội,
1991, tr.9.

Tài liệu tham khảo:
– Ngô Văn Doanh, Lễ hội Rija Nưgar của người Chăm, Nxb VHDT, Hà Nội, 1998.
– Viện nghiên cứu Tôn giáo, Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb Giáo dục, Hà Nội,

1997.

– Phan Xuân Biên, Văn hóa Chăm, những yếu tố bản địa hóa, Tạp chí Dân tộc học số 1,

1993.

– Hoàng Tâm Xuyên, Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb CTQG, Hà Nội, 1999.
– Phan Quốc Anh, Văn hóa người Chăm Ninh Thuận trong việc nghiên cứu văn hóa

mi ền Trung – Thông báo khoa học, Viện nghiên cứu Văn hóa – Nghệ thuật, số 2/2001, tr.45-49.

– Phan Quốc Anh, Đôi nét ảnh hưởng của tôn giáo ấn Độđối với văn hóa Chăm

Bàlamôn Ninh Thu ận, Tạp chí Văn hóa – Nghệ thuật, số 9 (207), 2001, tr.14-18.

– Phan Quốc Anh, Lễ hoả táng của người Chăm Bàlamôn Ninh Thuận, Tạp chí Nghiên

c ứu Đông Nam á, số 3 (54), 2002, tr.79-84.

– Phan Quốc Anh, Vài nét về văn hóa truyền thống Chăm (Từ góc nhìn văn hóa Đông

Nam á), Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam á, số 5(50), 2001, tr.79-85.

– Phan Quốc Anh, Nghi lễ cưới truyền thống của người Chăm Bàlamôn, Tạp chí Văn hóa
– Nghệ thuật, số 6, 7, (228-229), 2003, tr.45-49.
Tư liệu hội thảo về tôn giáo tín ngưỡng Chăm của Ban dân vận tỉnh ủy Ninh Thuận, tư

li ệu hội thảo về Văn hóa nghệ thuật Chăm trong cuộc sống hôm nay do Tạp Chí Văn hóa Nghệ thuật tổ chức năm 2000 tại Ninh Thuận.

– Tỉnh ủy Ninh Thuận, Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện thông tri 03-TT/TW về công

tác đối với đồng bào Chăm (1992 – 2000), Ninh Thuận, 2000.

– Vương Khả Lân, Chiêm Thành lược khảo, Nxb Đông Tây, Hà Nội, 1936.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét