CHIM MÙA
Ngày hè
Làng tôi ở lưng Trường Sơn, giữa một vùng núi non trùng điệp. Thế mà bây giờ ở đó đã có cả một trường cấp I.
Trường là một ngôi nhà nhỏ ngăn đôi, có hai thầy dạy. Vì thiếu thầy, trường phải học hai buổi và mỗi thày phải dạy hai lớp.
Các bạn sẽ bảo: một trường như thế thì có gì đáng nói. Nó kém xa một trường làng dưới xuôi. Ấy thế mà trong vòng bốn năm cây số đường núi, mọi em bé ở các bản([1]) làng chung quanh đều đến học ở trường này. Đến nay, việc học hành ở vùng tôi đã được mở mang như vậy nhưng mươi năm nay về trước, tôi là người duy nhất trong làng được đi học.
Hồi đó, đi học còn vô cùng khó khăn. Muốn học phải xuống trường huyện mà huyện thì ở mãi dưới chân núi, cách làng tôi gần một ngày đường. Tôi phải trọ học, lâu lâu mới về làng một lần thăm nhà và lấy lương ăn.
Tôi còn nhớ vào năm học đầu tiên lúc ấy tôi đã mười bốn tuổi khi buổi học cuối cùng kết thúc, tôi đến chào thầy để về làng. Thầy gửi lời thăm ông và mẹ tôi, rồi hỏi:
- Hè này về làng em định làm gì?
- Em đi làm đỡ mẹ. Nhà em ít người, em đi xa mẹ em phải làm việc vất vả.
- Em làm gì nữa?
- Em sẽ bảo người làng cho các bạn em cùng xuống huyện. Ở làng em có bốn năm bạn đã học hết bình dân([2]).
- Kơ-xi, em giỏi lắm! Thầy khen em.
Thầy định giơ tay vuốt tóc tôi. Sau chợt nhớ, đã có lần tôi kể chuyện nguời ở vùng tôi không bao giờ xoa đầu trẻ con, thầy rụt tay lại Chúng tôi coi cái đầu là chỗ thiêng liêng, không ai được chạm đến.
Tôi bối rối, lắp bắp:
- Em có kiêng đâu. Thầy cứ
Tôi định nói nếu ưng thì thầy cứ xoa đầu tôi đi, cái tục ấy ở lang tôi đang bỏ dần. Thầy không nghe, lúng túng nắm tay tôi, lắc mạnh như khi thầy bắt tay một người lớn.
Ra khỏi nhà thầy, tôi đi ngay về làng. Đi suốt một buổi, tôi lên đến đỉnh núi Phù Luông.
Từ sáng sớm ve đã kêu inh ỏi. Càng muộn ve cang kêu ran. Nhưng rồi bỗng im bặt. Ve thôi kêu là đã trưa. Từ bên núi Phù Xưng có tiếng tu hú vọng lại. Tôi vạch lá nhìn sang: những dãy vải hoang dưới chân núi đã lấm tấm đỏ. Vải chín nhiều rồi. Tôi thèm ứa cả nước miếng, định bụng về làng phải rủ ngay lũ bạn đi hái vài gùi.
Tôi chạy xuống dốc. Dốc thoai thoải, bóng cây che kín, đá tảng ngổn ngang từng dãy hai bên lối đi. Xuống gần chân dốc tôi đứng lại, lấy cái mo cau bọc xôi dắt sau lưng, đem đặt dưới đất. Năm ngoái khi còn ở nhà đi đuổi trâu bò, tôi và Mơn em tôi vẫn thường lên đây nghịch. Tôi ngồi vào lòng mo cau như dạo nọ, buông cho mo trôi veo.
Đứng ở chân dốc, nhìn qua bãi cỏ đã thấy làng. Con suối lớn chói chang ánh mặt trời. Cây cối xanh um. Các mái nhà lấp lánh nắng. Dừa và cau vươn cao, vẫy những tàu lá xoè rộng như những bàn tay.
Dưới bãi trâu bò đã rời chỗ trốn nắng, đi ăn bữa chiều. Bê nghé tìm mẹ, cong đuôi lên chạy. Mõ buộc dưới cổ trâu khua lúc lắc.
Tôi rảo bước đi tới.
Từ trong bụi lau, một đứa bé chạy ra đuổi bò. Tưởng ai hoá là thằng Mơn em tôi. Mơn mặc một manh quần đùi, da lưng cháy xém, tóc đỏ hoe. Mơn vừa đi vừa khua roi, mồm nghêu ngao hát. Điệu hát ê a, nghe không quen tai thì buồn, nhưng tôi lại thấy xao xuyến. Tôi thương Mơn. Từ ngày tôi đi học, Mơn phải đi lùa trâu bò một mình. Coi bộ nó gày đi và cao lên nhanh quá.
Nghe tôi gọi, Mơn vứt cả roi bò chạy đến.
Mơn ngắm tôi, nắn cái túi sách tôi đeo bên sườn, tháo cái tay áo tôi xắn đến khuỷu rồi nhìn xuống cái quần dài và đôi dép cao su dưới chân tôi.
Nó cười hì hì:
- Anh Kơxi! chẳng bao giờ anh chịu đóng khố nữa nhé!
Tôi bồi hồi hỏi Mơn tin nhà rồi hỏi xem nó có học hành thêm được gì không. Nghe nhắc chuyện đi học, Mơn như buồn, không trả lời.
Tôi an ủi:
- Đừng buồn! Mơn muốn xuống huyện, năm nay nhà làm ăn khá, ông và mẹ sẽ cho Mơn đi.
Tôi còn bảo tôi sẽ rủ cả cái Bua, cái Can, thằng Rênh, thằng Ko đi cùng. Mơn nghe nói liền cười. Nó nhìn tôi bằng cặp mắt mở tròn, tin cậy và nhắc đi nhắc lại:
- Thật đấy nhé! Đừng để tôi phải ở nhà một mình nhé!
Rồi Mơn chạy ra dồn lũ trâu bò vào ven rừng và theo tôi về làng.
Nắng chiều đã dịu. Những đồi gianh hai bên lối đi bắt đầu xào xạc. Gió thổi nhè nhẹ và trên trời từng đàn chim về tổ vừa bay vừa kêu những tiếng kêu văng vẳng gọi bầy.
Mơn bỗng vẫy ai trên chòi canh. Một thằng bé đứng đó, chống ngọn giáo lấp lánh. Tôi cố nhìn, hoá ra thằng Rênh. Hôm nay chắc đến phiên bố Rênh đi canh nhưng bận nên cho Rênh đi thay.
Tôi thoáng thấy Rênh khum tay che mắt. Nhìn thấy chúng tôi, Rênh vội quay vào gọi í ới. Rồi Rênh nhảy xuống đất xách giáo chạy ra khỏi làng. Theo sau Rênh có một đám người, tôi nhận ra lũ bạn cùng đi dồn bò ngày nọ. Nhưng không thấy ông và mẹ tôi đâu. Chắc ông tôi đi săn xa với phường còn mẹ tôi dang bận dệt vải, chưa biết tôi về.
Rênh cất tiếng gọi:
- Ơ Kơxi! Kơxi về đấy hả?
Tiếng Rênh vọng dài vào vách núi sau làng:
- Kơxi ơ ơ xi. í …! Kơ… ơ… ơ xi…i… i…!
Trông thấy lũ bạn lòng tôi bỗng bồi hồi. Tôi vòng hai bàn tay lên mồm, gọi to:
- Kơxi về đây! Về rồi đây!
Vừa nói tôi vừa kéo Mơn chạy lại với lũ bạn.
*
* *
Người ta mời tôi đi ăn uống. Nhà ai kiêm được mớ rau rừng ngon hoặc săn được món thịt tươi đều gọi tôi đến: Quý người đi xa về là cái tục từ lâu đời ở làng tôi.
Tôi thường dắt Mơn đi cùng. Có khi tôi tới nhà cụ Pơn ăn thịt nướng hoặc tới nhà Bua ăn xoài. Có khi tôi lại đằng bác Xêđan uống nước cà phê.
Sống giữa những vách núi, ai ai cũng khao khát chuyện nơi xa. Mọi người bắt tôi kể chuyện, tôi nghiễm nhiên trở thành người lớn.
Trong lúc trò chuyện tôi thấy ai cũng muốn cho con cháu đi học, chỉ phiền trẻ đi thì tốn kém và nhà thiếu người làm. Trẻ chưa làm được việc gì to tát nhưng cuộc sống gia đình thiếu chúng sẽ khó khăn. Chiều chiều lúc đi nương về chẳng ai nô đùa ca hát cho vui nhà, chẳng ai đuổi hộ con bò lạc, chẳng ai đi kiếm rau ăn hàng ngày, đi cắt lúa bẻ bắp vào vụ mùa.
Một hôm tôi hẹn họp mấy bạn trước cùng học một lớp bình dân: cái Bua, cái Can, thằng Rênh, thằng Ko… Tôi và Mơn đeo gùi lên vai. Đeo gùi khi ra khỏi nhà là thói quen, giữa đường may nhặt được thú gì còn có cái đựng. Chúng tôi đưa nhau lên đồi cà phê của bác Xêđan. Đây là chỗ đẹp trong làng. đất đồi nâu đỏ, dốc lên thoai thoải, đôi chỗ lác đác một vài phiến đã nhẵn lì. Cà phê trồng thành hàng thẳng tắp.
Các bạn đặt gùi xuống đất, gùi nào cũng lưng lửng quả rừng: nào vải, dâu da đất, bứa. Lũ con gái bốc quả xếp lên một tảng đá, quả lăn lộp độp cả xuống chân. Mỗi đứa ngồi ghé một góc tảng đá, vừa ăn vừa nói chuyện.
Tôi kể cho các bạn nghe hồi mới xuống đồng bằng, tôi học hành ra sao?
Đang học, bỗng nghe văng vẳng tiếng ông tôi gọi:
"Ơ Kơxi! Quả bắp sắp bẻ được rồi, cháu mang bẫy lên nương đi!". Tôi chẳng nhìn thấy cái bảng đen đâu nữa, chỉ thấy nương bắp vàng rực hiện lên ở chỗ bức tường quét vôi vàng. Những vết rạn trên tường biến thành những bông hoa bắp khô xác và những thân gỗ cháy dở nằm ngổn ngang. Tôi đâm nhớ nhà, bần thần bỏ bút xuống bàn. Thầy đến đặt tay lên vai tôi. Tôi bảo: "Mùa này ông tôi đi trông bắp muộn, ông đặt bẫy khỉ". Tôi chưa biết xưng em với thầy. Lũ bạn nhỏ cười tôi. Chúng hỏi: "Năm nay anh mười mấy tuổi rồi. Anh lớn thế sao còn học cùng với chúng tôi?".
Chúng không dám gọi tôi là "mày" như chúng thường gọi nhau, có đứa còn xưng em với tôi nữa.
Nghe chúng hỏi vậy, thầy bảo: "Phải giúp đỡ Kơxi. Em Kơxi là người dân tộc([3]). Người dân tộc lớn lên còn đi học săn, săn giỏi rồi mới đi học chữ".
Thầy nói thế để các bạn khỏi cười tôi là lớn.
Buổi nào nghỉ, thầy đến kèm tôi làm bài. Thầy thường nói: sau này đời sống ở vùng cao sẽ đổi mới, sẽ có trường học, bệnh viện, cửa hàng mậu dịch. Thầy còn bảo cái thác trên núi để phí lắm, phải bắt nó làm ra điện như ta vẫn bắt nó quay guồng nước. Nhưng ai điều khiển được cái thác, ai làm thầy thuốc, ai đi dạy học?
Thầy bảo: "Là em, Kơxi ạ! là các bạn em!". Lũ bạn nhao nhao khi nghe tôi nói. Bạn nào cũng muốn xuống huyện. Nhưng có bạn thì nhà túng thiếu, có bạn thì bố mẹ muốn giữ phòng vụ cà phê chín rộ, có bạn còn bận đốt đuốc đêm đêm đi soi cá kiếm thức ăn hàng ngày.
Bua hỏi một năm đi học tốn kém bao nhiêu? Tôi tính cho các bạn nghe: nào uống, may mặc, nào mua sắm sách vở. Mẹ tôi phải bán đi một con nghé, ông tôi cho thêm một gùi quế đem xuống bán dưới chợ.
Nghe tôi nói, bạn nào cũng buồn thiu. Riêng Bua thì vẫn hăm hở:
- Muốn đi học thì phải có tiền. Ta không có nghe nhưng kiếm được quế! Mùa hè này đừng đi chơi nữa, cùng nhau vào rừng tìm quế, kiếm măng…
Bua chưa nói hết, tôi đã nhỏm dậy. Ý kiến của Bua hay quá. Đúng đấy: mùa hè này đừng ai đi chơi nữa, hãy đi kiếm măng kiếm nấm trong rừng và giúp người lớn thu xếp việc nhà.
Tôi nói ý kiến đó với lũ bạn. Nghe xong mắt đứa nào cũng ngời sáng. Có đứa vui thích quá còn hú lên nữa chứ. Mơn bảo:
- Ba tháng mùa nóng làm gì một người không phơi nổi hai yến măng, vài cân nấm, dăm cân mộc nhĩ.
Rênh kêu to:
- Ta đi bẫy vẹt nữa. Hôm nọ ông tôi mang vẹt xuống chợ, người dưới đó ai cũng thích. Đang mùa vẹt bẫy dễ lắm, không tốn công.
Nghe Rênh nói tôi chợt nhớ chúng tôi có thể đi bẫy thú. Dưới huyện người ta đặt mua thú cho các vườn thú nước ngoài. Tôi lièn bàn với các bạn lập một tổ kiếm lâm sản, cùng làm cho vui và được nhiều việc. Những việc lớn như bẫy thú thì sẽ nhờ ông tôi làm giúp. Lại phải dạy cho bọn trẻ nhỏ biết trông trâu bò, khi đi học mới có người thay. Việc này tôi phân công cho Mơn.
Rồi còn phải tổ chức vài buổi săn đêm lấy thịt về sấy khô và mùa nước phải đi kiếm cá về phơi để ở nhà lấy thức ăn ăn dần. Nhiều việc quá. Chúng tôi quyết định ngay từ sớm mai cả tổ phải bắt tay vào việc cho kịp.
*
* *
Năm ngoái vì neo túng mẹ tôi giữ Mơn ở nhà. Trước kia nhà tôi vốn khá giả. Trong nhà lúc nào cũng đủ thóc lúa, cá thịt vì cha tôi vừa làm khoẻ vừa là thợ săn giỏi. Mùa rẫy cha tôi đi làm, mùa nước đi quăng chài, mùa săn đi rừng. Cha tôi nổi cồng lên, phường săn kéo đến đầy nhà. Cha tôi bước từ trên sàn xuống, ngọn giáo sáng chói trên vai. Đoàn người khiêng lưới, lùa chó vào rừng. Cha tôi vừa đi vừa kẹp ngọn giáo vào nách, tay vẫn khua cồng giục những ai ra chậm. Đoàn người lên đường vào buổi sớm và thường khiêng mồi về làng lúc chiều đã muộn, dưới ánh đuốc lập loè. Lũ đàn bà được gọi đến nhận phần thịt, làng bản tấp nập thâu đêm.
Nhưng bỗng một bữa lũ làng khiêng cha tôi về đặt giữa nhà, thương tích đầy mình. Cha tôi bị gấu vồ trong lúc đỡ hộ một bận săn yếu sức. Chạy chữa mãi không khỏi, ít lâu sau cha tôi mất. Ông tôi đã già, chỉ đi rừng được vào mùa nóng, mùa lạnh phải nghỉ vì mắc chứng tê thấp. Nhà thợ săn mất người đàn ông sa sút đi rất mau. Mẹ tôi phải cáng đáng mọi việc để nuôi dạy chúng tôi. Suốt ngày mẹ ở trên rẫy, tối về lại còng lưng trên khung vải.
Thế mà mẹ tôi vẫn cho tôi đi học: mẹ làm theo lời giối giăng của cha tôi. Hồi kháng chiến chống Pháp, nhà tôi là nơi lui tới của cán bộ . Cán bộ đã dạy cho cha tôi biết chữ và từ ấy ông yêu thích sự học.
Ông dặn lại:
- Phải cho Kơxi, cho Mơn đi học. Làng bản rồi đổi mới , không có học thì không làm nên việc gì.
Nhưng đã làm việc hết sức mà mẹ tôi cũng chỉ cho nổi một mình tôi đi. Năm nay mẹ tôi đã bằng lòng cho cả Mơn đi cùng, miễn là chúng tôi làm việc đỡ đần được người lớn.
Tôi đưa lũ bạn đến gặp ông tôi. Ông đang ngồi vá chài ngoài sàn. Chúng tôi vây quanh ông. Ông ngừng tay, tươi cười ngẳng lên:
- Nào, có việc gì nhờ đến ông ? Việc khó bằng đi bắt voi ông cũng làm hộ.
Nghe ông nói, đứa nào cũng cười. Xưa kia ông tôi là người bắt voi. Làng tôi không có phường săn voi, ông tôi thường đi nhập phường ở nơi xa. Nhưng nay về già ông chỉ ở nhà săn con mang con hoẵng cho qua ngày. Trông ông còn mạnh tuy tóc đã bạc trắng. Thoạt nhìn thì ông có vẻ dữ tợn vì ông nhiều sẹo và chân tay đầy vết trổ chàm. Nhưng ông lại rất vui tính và yêu trẻ. Tối tối ông thường ngồi bên bếp lửa kể chuyện cho chúng tôi nghe. Ông cười nói sang sảng. Những đất nước xa xôi hiện ra trước mặt chúng tôi : cánh đồng chói nắng, gió nóng bỏng, con sông lấp lánh, bầy voi mang những người quản tượng đen nhẫy trên lưng từ từ bước xuống bến sông… Mấy đứa trẻ đầu óc luôn nghĩ đến những chuyện hoang đường thì tự nhiên đồn ầm lên là ông tôi có phép thổi kèn lá gọi được rắn và voi hoang về nhà. Lại đồn ông có ma xó, nhà tôi đi vắng mà có ai vào ăn vụng cơm thì ma xó đếm; "Một bát ! Hai bát "
Nhớ lại những chuyện ấy tôi nói:
- Không phải nhờ ông thổi kèn lá gọi voi, người ta đồn vậy thôi, chúng cháu biết rồi. Chúng cháu muốn nói với ông chuyện đi học.
- Chuyện đi học à? Ông tôi vui mừng hỏi.
Đến nay tôi không còn nhớ hôm đó tôi nói những gì, chỉ mang máng rằng tôi đã nói nhiều hơn ngày thường. Tôi bảo Mơn đã học hết bình dân, phải cho nó xuống trường huyện. Tôi nói nào là phải đi học cho trí óc được mở mang, nào là để sau này làm cho bản làng đổi mới.
Ông tôi gật gù:
- Cháu không nói ông cũng đã biết. Nhưng muốn học thì phải xuống huyện, phải bán nghé. Không được! Nhà chỉ còn mấy con nghé, phải để nuôi cho lớn. Bao giờ lúa gạo nhiều, trâu bò sinh đẻ nhiều thì Mơn mới đi được.
Tôi và lũ bạn cung lắc đầu:
- Không! Ông cứ giữ nghé nuôi cho lớn. Chúng cháu có cách rồi.
Bua hăng hái nói:
- Mùa hè này chúng cháu rủ nhau đi rừng, không đi chơi nữa.
Xưa nay mùa hè là mùa chơi bời của trẻ con. Là mùa tắm suối, chơi rừng, bẫy chim, hái quả.Vì vậy thấy chúng tôi định đi làm vào mùa hè, ông tôi rất ngạc nhiên.
- Được vậy thì tốt. Ai ngờ các cháu lại biết chăm chỉ, đỡ cái lo cho người lớn.
Ông hỏi chúng tôi định làm những gì. Lũ bạn nói nhao nhao. Bua tính cặn kẽ cho ông nghe. Ông nhận sẽ giúp chúng tôi bẫy thú. Ông có hẹn đưa chúng tôi lên tận rừng già. Có thể đễn những đồng cỏ bao la kiếm sừng rụng của hươu nai về nấu cao ban long. Có thể đi bẫy các thú quý. Hoặc có khi ông sẽ đưa chúng tôi đến nơi voi hoang thường lui tới để kiếm ngà.
Chúng tôi nghe ông bàn, đứa nào cũng mừng. Tháy các cháu vui, ông liền cười theo sung sướng.
Nhưng rồi ông nói, như luyến tiếc:
- Các cháu đi cả, làng bản lại đến vắng! Chiều Chiều chẳng còn nghe đứa nào hát nghêu ngao trên nương nữa đâu!
***
Bua chạy đến nhà tôi gọi từ lúc còn moà đất.
- Kơxi ơi! Mơn ơi! Dậy đi làm cho sớm.
Thoắt lại nghe Bua gọi ở phía nhà Rênh. Tôi lay Mơn. Cả hai cùng vùng dậy. Chạy ra ngoài sân thấy sao vẫn chưa tan. Trăng đang lặn, xanh ngắt chỗ đầu núi. Buổi sớm mát mẻ làm người tỉnh táo, khoẻ khoắn. Rửa mặt xong hai anh em tôi chạy ngay vào bếp lấy lẵng xôi nguội. ăn hết lẵng xôi thì trời vừa rạng. Lúc bấy giờ người lớn mới dậy kêu nhau đi nương. Gà xao xác đòi xuống chuồng và lợn ủn ỉn đi tìm ăn chung quanh các chân cột, lấy mõm rũi tung các đống trấu.
Khi Bua gọi đủ lũ bạn thì đã thấy nắng sớm rọi sáng các đỉnh núi. Trong các bụi rậm quanh làng, chìa vôi và khướu đua nhau hót líu lo.
Chúng tôi đeo gùi vác thuổng lên đường. Buổi sớm ra đi gùi không lưng nhẹ, phải bảo nhau đi thẳng không rẽ vào đâu. Qua những bụi lạc tiên chín vàng hay những cây tranh châu quả đỏ mọng cũng phải hẹn nhau chiều về mới rẽ vào.
Thoạt đầu chúng tôi tìm đến những bụi tre và mai mọc bên bờ suối rồi kéo nhau lên tận rừng vầu. Ai cũng kén măng sừng bò mới nhú khỏi mặt đất độ vài gang để bổ đôi phơi làm măng loại nhất. Còn măng đã vồng thì cứ để cho chúng vươn thành tre, lúc cần chữa nhà ra chặt về. Các bụi tre rất lắm gai. Lấy được một cái măng tre thật vất vả: phải vạch gai luồn vào trong hoặc phải nằm xoài, lùa thuổng vào thúc. Được cái nào quẳng ra ngoài đã có Bua và Can bóc sạch nang, đem bỏ gùi. Cứ hú gọi là hai bạn gái chạy nhao lại, mồ hôi ướt hết áo.
Hôm nào chúng tôi lên rừng vầu thì kiếm dễ và nhanh hơn. Vầu mọc từng bụi, không có gai, gốc thẳng tuột. Măng vầu sừng bò cũng to bằng bắp đùi, bổ ba bổ tư đều được.
Thường cứ đến lúc mặt trời vượt khỏi đỉnh núi chừng ngọn tre thì gùi nào cũng đầy. Sáu cái gùi, xếp một dãy trên dốc đồi. Mỗi người còn lấy lạt xâu cố một xâu măng nõn.
Đường về làng xa lắc. Cái gùi sau lưng trĩu nặng, ai cũng phải thót bụng, hai tay ghì chặt quai gùi. Các bạn gái thi cứ vừa đi vừa thở hổn hển, mặt đỏ rừ và láp lánh mồ hôi.
Về đến nhà, chúng tôi chia nhau đi mượn nồi, kiếm củi và vần đá bắc bếp ngay bên bờ suối.
Măng bổ ra, xếp từng lớp vào nồi rồi luộc bỏ nước đắng và phơi trên những tảng đá. Măng bầy la liệt, mấy cái nồi lớn sôi ùng ục, bay hơi nghi nghút. Chỉ thiếu con trâu phanh thịt nằm cạnh là quanh cảnh sẽ giống một ngày hội làng.
Luộc xong được sáu gùi măng thì mặt trời vừa đứng bóng. Mọi người về nhà ăn bữa trưa và nghỉ ngơi một chốc rồi lại gọi nhau đi kiếm chuyến măng chiều.
Buổi chiều tôi thường đưa các bạn trai về sớm, ra nương thăm bẫy chim. Mùa hè vẹt bay rợp trên đầu hoặc đỗ kién các bụi rậm. Bộ lông xanh của chúng lẫn vào lá biếc nhưng cái mỏ đỏ chót thì phơi lồ lộ như trái ớt chín.
Rênh bắt chúng tôi cuốc một khoảng đất rộng và sới tung đất lên như khi tra bắp. Nó lấy nhựa phết vào que rồi đem cắm kín mặt đất. Nó vót một cần tre mềm cắm xuống giữa bãi que để buộc con vẹt mồi. Con vẹt cứ đỗ xuống là cần tre liền rung rinh trĩu sát đất nên đành phải vỗ cánh và kêu "vét! vet!" bay lên. Cả ngày con vẹt mồi cứ kêu như vậy, vẹt bầy ngoài rừng tưởng tiếng gọi đàn liền xà xuống, vô khối con bị dính vào que nhựa.
Mỗi chiều đi thăm bẫy, chúng tôi thường bắt đuợc dăm chú vẹt. Có khi còn được cả trĩ hoặc gà rừng. Những loại chim khác đều đem thịt, chỉ vẹt mới giữ lại đem nhốt vào một chiếc lồng to. Trong lồng sẵn có bắp làm thức ăn, lại có cả một cành cây để vẹt đỗ cho đỡ mỏi.
Về đến nhà các bạn gái cũng vừa luộc xong chỗ măng kiếm được bữa chiều. Anh em đưa nhau ra tắm ngoài suối. Hơi nước mát rượi bay lên từ mặt suối và từ những tảng đá bên bờ. Mọi người ngâm nước ngập đến cổ, mệt nhọc phút chốc đều tan. Chiều muộn nhá nhem, ngửa mặt lên thấy trời đầy sao sáng.
Sau mỗi cơn mưa, đường làng hết rác, cây cối được rửa sạch bóng. Bầu trời như rộng ra và sáng sủa thêm. Chim đứng rỉa lông trên những cành cây đọng nước. Bãi cỏ ngập nước đến bụng chân, trâu bò lội bì bõm. Trên các sườn núi thấy hiện ra những dòng chỉ bạc. Đó là suối lũ. Con suối dưới chân làng thì ngàu bọt, gầm thét giận dữ, nước trào ngập cả bờ đá.
Phải một vài hôm nước mới rút. Suối lại chảy êm. Cá theo nước vào bãi, ở lại trong các vũng trâu đằm. Vịt bầu trong làng và lũ trẻ kéo nhau ra ngoài bãi bắt cá con, kêu la inh ỏi.
Vào dịp này ông tôi rủ các nhà đi quăng chài. Phải dậy thật sớm, khi sao mai chưa xuống tới đầu núi. Ông đốt bó đuốc dạo quanh làng gọi to: "Ơ! Dậy đi quăng chài! Dậy đi quăng chài!". Ông không gọi tên ai, ông gọi cả làng. Người từ các nhà nô nức kéo xuống, vác chèo vác lưới đi theo.
Ngoài suối, trăng vằng vặc. Nước trôi sóng sánh, bến đá ngổn ngang. Ba ông cháu tôi cùng ngồi một thuyền độc mộc. Bao giờ thuyền ông tôi cũng đi đầu. Thuyền làm bằng cả một cây gỗ to, khoét lõm giữa, hai đầu vát nhọn như con thoi. Thuyền lướt lắm, khẽ đẩy sào cũng đi vun vút. Chỗ nào chọc sào không tới đất thì khoả chèo. Mỗi thuyền cắm một bó đuốc, cái sau trông cái trước mà bơi. Một dãy những đốm sáng nổi lênh đênh giữa hai bờ đá. Đến quãng suối hẹp thuyền như bị hút vào xoáy nước. Ánh đuốc biến mất rồi bỗng chốc lại vụt hiện ra ở cuối dòng. Các tay lái căng mắt ra để nhìn đá ngầm. Ông tôi đánh một tiếng cồng.Gần đến chỗ nước chảy xiết tôi đánh hai tiếng. Các thuyền đi sau vội nổi hiệu trả lời, tiếng cồng ngân nga lanh lảnh.
Đến khi trời rạng bắt đầu nhìn rõ đá ngầm thì các thuyền đều được tắt đuốc. Sương lởn vởn từng đám trắng, hơi nước bốc lên mát lạnh. Ai cũng vục nước vã vào mặt cho tỉnh ngủ. Lũ con gái cất tiếng hát đệm. Ông tôi cũng hát. Giọng ông trầm trầm khác hẳn giọng mọi người nhưng ông hát rất vui.
Thuyền thường đến vực lúc nắng sớm vừa hửng. Ông tôi bảo hửng nắng là cá bắt đầu đi ăn. Vực nằm sâu vào vách núi, chèo khoả nghe vang vang. Nước trong xanh sau cơn lũ đã ngả màu vàng và ngàu bọt. Những cành củi nghênh ngang bị cuốn trong các xoáy nước. Ông tôi bảo chúng tôi gõ lên mạn thuyền. Ông thả chèo cho tôi lái rồi ra đứng lom khom trước mũi, cùng quăng chài với các thuyền. Chài vung rộng, ụp xuống té nước. Ai cũng thả dây cho chài chìm tận đáyvực rồi mới kéo lên. Sau vài mẻ chài, khoang thuyền đã lao xao cá bạc. Ông tôi thường kéo được trắm, trôi, cá bạc, cá ngạnh, cá măng. Có khi còn được cả rùa, ba ba và những con gáy lửa mình đầy vẩy vàng lấp lánh. Mỗi khi thấy chài văng mạnh dưới gầm thuyền là biết được cá to. Ông tôi chưa cuộn hết chài đã thấy cá quẫy xoáy nước. Các thuyền liền hò reo ầm ĩ, tiếp sức cho ông. Tôi chú ý nhìn, cá vằng đia phía nào tôi liền lái theo cho thuyền đỡ tròng trành.
Bao giờ tung chài bốn năm mẻ mà không được cá, ông tôi cho lái thuyền ra khỏi vực. Cả đoàn chèo xuôi, gặp cái vực nào các thuyền lại toả ra theo hình cánh cung rẽ vào.
Đến chiều, thuyền ghé bến. Ông tôi kiếm chỗ ngủ ngay trên bờ suối. Vài người đi cắt lá về trải nệm. Mấy đống củi to được đốt lên, sáng cả một vùng trời nước. Ngoài bến, mọi người tấp nập mổ cá. Mổ được con nào liền kẹp que gác lên hong lửa. Bọn con gái chia nhau đi nấu ăn. Cá đấy, cứ việc chọn những con to làm các món ngon. Bữa ăn thường có cá kho sung hoặc vả, cá nấu canh chua, cá nướng. Buổi tối, mọi người ngồi xúm quanh mấy nồi cháo cá đặt trên đống lửa rừng rực.
Sớm hôm sau cá đã tạm khô, ai nấy chất cá vào gùi, xếp xuống khoang thuyền. Ông tôi nổi một hồi cồng gióng giả. Các tay sào lại đẩy thuyền ra giữa dòng, buông theo nước xuôi đến những vực khác.
*
* *
Có một đôi công thường bay qua con đường chúng tôi đi. Đôi công bay đến rất đều đặn và đúng giờ. Chiều nào cũng vậy, khi chúng tôi bắt đầu ra khỏi làng thì thấy chúng nặng nề vỗ cánh trên đầu. Từ trên rừng già chúng bay tới, xanh biếc và óng ánh như một đôi mặt gối. Con trống bay dưới thấp, xoè rông đôi cánh như đỡ cho con mái cùng bay. Chúng tôi đứng cả lại, nhìn theo cho đến khi chúng xà xuống khuất ven đồi.
Xế chiều, khi chúng tôi về gần làng thì thấy chúng bay về. Nắng vàng lấp lánh trên bộ lông rực rỡ của chúng. Chừng như chúng đã no nên nên bay nặng nề hơn. Chúng cố vươn lên cao, khép cái đuôi xum xuê và dang hết đôi cánh để bay mau về tổ.
Từ ngày gặp đôi công, Rênh cứ bồn chồn. Một bữa Rênh bảo:
- Kơ xi ơi, phải cố bẫy đôi công này mới được.
Tôi cũng mong bẫy được đôi công. Mỗi lần chúng bay qua rồi khuất bóng, tôi cứ ngẩn ngơ như vừa để mất một thứ gì quý lắm.
Nhưng bẫy được công nào phải chuyện dễ. Lũ chim này nhút nhát nhất rừng. Chúng sợ đủ mọi thứ. Một cái lá rơi, một cái cành gãy cũng đủ làm chúng giật mình. Chúng vỗ cánh bay đi và la lên: “tô hộ! tô hộ!”. Ở làng tôi, bọn trẻ bảo con công nó kêu: “tôi sợ! tôi sợ!”. Từng đôi từng đôi, chúng làm tổ ở ven rừng già xa làng, buổi chiều mới đi tìm ăn ở nơi không có bóng người, tối về thì đỗ tít trên ngọn cây cao.
Một chiều, khi đôi công bay qua, Rênh và tôi trèo nhanh lên một ngọn cây để nhìn theo. Chúng tôi thấy đôi chim xã xuống một cái nương bỏ hoang gần bờ suối, loài công vốn thích kiếm ăn gần bến nước.
Sớm hôm sau chúng tôi tìm ngay đến chỗ nương hoang. Cỏ và cây non đã bắt đầu mọc quanh những tảng đá xám. Giữa nương có một cây gỗ mục to hai bên mọc đầy mộc nhĩ màu nâu.
Rênh thuộc tính nết của từng loài chim, nó quả quyết đôi công đến đây vì cây gỗ này. Chúng đến tìm ăn mối và sâu ẩn trong gỗ mục.
Chúng tôi căng lưới ở một đầu cây gỗ, dòng dây vào một bụi rậm um tùm. Quá trưa thì đôi công bay đến, liệng vòng rồi đỗ xuống một tảng đá. Chúng chăm chú nhìn quanh, nghiêng ngó, làm lung lay cái mào lông mèm mại trên đầu. Đôi mắt nâu xẫm của chúng nom long lanh trong hai viền lông màu lam, phía trên đôi má phủ lông vàng. Bộ áo của chúng làm tôi loá mắt. Bao nhiêu là màu sắc: màu lục, màu lam, màu nâu, màu đỏ, màu đê, màu da đồng óng ánh.
Không thấy gì đáng ngờ, đôi công bay xuống chỗ cây gỗ mục. Con trống đi trước, con mái theo sau. Con trống cố cong cái đuôi dài, lấy chân cào các vụn gỗ và được con sâu nào thì kêu cục cục gọi con mái đến ăn cùng.
Đôi công ăn dần tới chỗ căng lưới. Trống ngực tôi đánh thình thình. Thỉnh thoảng Rênh lại huých vào vai tôi, ra hiệu cho tôi lặng yên. Rênh rất bình tĩnh. Tôi biết Rênh có thể chờ ở đây ba ngày, năm ngày, cho đến khi nào đôi công sa lưới mới thôi.
Đôi công ngừng ăn. Chừng như đã no, chúng thong thả dẫn nhau đến đứng dưới bóng cây. Chúng đứng lặng yên hàng giờ, mắt lim dim nhìn nắng.
Nhưng đang đứng yên bỗng con công trống vươn dài cổ chạy đi, chẳng biết vì sao. Thấy vậy con mái cũng vươn cổ chạy theo. Chạy đến chân một tảng đá, chúng lại đứng im lìm hàng giờ. Rồi đang đứng yên, con trống bỗng thong thả đi tới một chỗ rộng, cất đầu và xoè đuôi ra múa. Giữa mùa hè lông đuôi đã rụng bớt nhưng cái đuôi vẫn mở tung như một tàu lá cọ xanh biếc, đầy những đồng tiền màu lam viền những vành lục, nâu, vàng. Con vật rập rình, có lúc quay tròn làm cái đuôi cứ uốn lượn và như hắt ra muôn nghìn tia sáng.
Múa đã mỏi, con trống lại cụp đuôi xuống đứng im. Rồi như chợt nhớ trời đã xế chiều, nó liền kêu mấy tiếng và chạy đến chỗ cây gỗ mục. Con mái vội lúc cúc chạy theo, chúng lại đi ăn trước khi về ổ.
Chúng ăn dần đến chỗ căng lưới. Con trống cứ cào gỗ và từng bước chúng nhích lại gần chúng tôi.
Chợt tôi thấy Rênh giật tay. Lưới đổ xuống, kêu “rậ… ập”. Đôi công vùng lên và la: “tô hộ! tô hộ!”.
Tiếng kêu hốt hoảng vang xa, tưởng có đứng cách mấy cánh rừng cũng vẫn nghe thấy.
Chúng tôi chạy tới. Thấy người, đôi công càng rãy rụa và kêu to, nhưng càng rãy thì tấm lưới càng nặng nề đè xuống.
Tôi vừa thở vừa dang tay ôm lấy hai con mồi trong lúc Rênh nhanh nhẹn thu lưới lại.
Khi chúng tôi đưa đôi công về đến làng, lũ bạn ùa ra đón và reo ầm ỹ. Ông tôi cũng xuống đón chúng tôi dưới chân thang. Ngay đêm đó ông tự tay đan cho chúng tôi một cái lồng bằng tre cật. Lồng không to lắm nhưng cũng đủ cho đôi công đứng được thẳng chân.
Tôi đêm treo cái lồng ngay dưới sàn gỗ, chỗ tôi nằm. Đôi công cứ lục đục dưới lưng làm tôi thao thức suốt đêm.
*
* *
Các bạn đã thấy con trăn bao giờ chưa? Trông con vật thật dễ sợ, dù đó là trăn mốc hay trăn gấm. Cái thân nó dài ngoẵng và mốc meo, loang lổ. Những khi đói mồi, nó ngóc đầu nhìn chằm chằm bằng đôi mắt sắc và lạnh, bành mang rồi thè cái lưỡi đen ra khỏi mồm.
Thật ra không phải con trăn nào cũng dữ. Có những loại trăn rất hiền. Đó là lũ trăn bắt chuột còn gọi là trăn đất vì chúng hiền như đất.
Vào những năm chuột rừng sinh nở nhiều, con trăn vẫn về sống quanh quẩn trong làng. Chẳng ai sợ mà cũng chẳng ai đánh nó. Đêm đêm nó bò vào chỗ để lúa, quấn mình quanh xà nhà và dong đầu xuống lơ lửng. Mỗi khi chuột chạy qua, nó mổ một cái thé là con chuột biến mất. Có khi nó nằm trên lối lũ chuột hay đi, uốn mình thành những đoạn cầu vồng xếp cách nhau và dấu đầu vào bụi rậm. Khi chuột chui qua, nó rập khúc đè cho bẹp gí dưới chân rồi quay lại đớp mồi.
Chúng tôi định bẫy một con trăn như vậy. Sau vụ bẫy công, tôi và Rênh được tin cây nên lũ bạn lại giao việc này cho chúng tôi. Chúng tôi đi tìm vết ở các lán thóc, nhưng năm nay ít chuột, trăn không về làng.
Thế là phải nhờ ông tôi chỉ cách làm bẫy và chỉ nơi đặt bẫy. Ông tôi giao việc làm bẫy cho Ko. Ko là cháu cụ Xúc. Cụ là người thợ mộc duy nhất ở làng tôi. Thường ai cần dựng nhà thì làm cơm rượu mời thợ. Cụ Xúc đến, đưa Ko đi theo vì thế mà dần dần Ko đã thạo nghề.
Ko bắt mọi người đi chặt gỗ, chặt tre, vót nan còn nó thì chuyên lấy kích thước, cưa cắt và đục mộng.
Dăm hôm sau chúng tôi làm xong bẫy. Ông tôi đưa chúng tôi khiêng bẫy xuống tận hang con trăn. Người làng tôi gọi nơi đó là “thung lũng rắn”.
Muốn xuống “thung lũng rắn” phải quấn xà cạp kín chân. Ai có dép thì đi dép. Ông tôi còn phòng xa đem theo mấy mồi thuốc dấu. Thuốc rất hay nhưng phải có gan mới dùng được. Nếu bị rắn cắn ở đâu, phải nặn ngay hết máu và lấy dùi nung đỏ ngoáy vào đó rồi đắp thuốc.
Đường vào “thung lũng rắn” ẩm ướt và tối om, rêu trơn lớp nhớp dưới chân. Cây cối vấy bùn loang lổ. Các thân cây thì mốc meo, đầy những vết nứt và những hốc đen ngòm.
Rắn quấn trên cành cây. Dưới các vũng bùn, kỳ đà ngụp lặn, để nổi những cái đầu nhọn hoắt. Không thấy dấu chân của một loài gì, ngoài những vệt nhẵn kéo dài trên đường. Đó là dấu đi của loài trăn. Những vệt hằn rõ là dấu con trăn đất, loài này bò chậm chạp, nặng nề. Dấu đi của loài trăn gió mờ hơn vì chúng văng nhanh.
Ông dẫn chúng tôi theo một dấu đi rât lớn, rõ như vệt cây gỗ con kéo trên đường. Dấu dẫn đến cái hang đào dưới gò đất. Ông đi tìm thấy hang có nhiều ngách liền lấp hết chỉ để lại một ngách chính.
Chúng tôi đặt bẫy ngay ở cửa hang. Bẫy là cái cũi gộc trong nhốt con gà choai. Sàn cũi có vãi gạo để gà ăn dần. Cửa cũi là một cái hom ba tầng đan bằng tre cật, càng vào tầng trong càng hẹp. Trăn nghe gà chiêm chiếp liền chui vào tìm mồi. Thoạt đầu chui còn dễ, đến tầng hom thứ hai thấy khó, trăn đã muốn toài ra. Nhưng cui ngược chiều, nan hom giương hết lên đam vào thịt, con vật đành phải chui vào.
Mươi hôm sau trở lại thăm bẫy, từ xa chúng tôi thấy trong cũi có một khối đen lù lù. Mấy đứa xô tới. Mừng quá! Con trăn mắc bẫy mập như bắp chân, da đen bóng điểm những khoanh vàng.
Thấy ồn ào, con vật ngóc đầu lên nhìn. Nhưng rồi nó lại uể oải rúc đầu xuống sàn cũi. Lũ trăn đất vốn lười nhác như vậy. Chắc nó cũng đã rãy rụa nhiều rồi nhưng thấy mọi cố gắng đều vô ích nên đành chịu.
Con vật nhắm mắt lại không buồn nhìn chúng tôi. Nó nằm không nhúc nhích, như đang ngủ.
*
* *
Nhà tôi biến thành một kho hàng, ai đến ngắm cũng thích. Trên sàn chúng tôi xếp một dãy mười gùi đầy ắp măng khô. Bên cạnh có ba gùi mộc nhĩ; một gùi nấm hươg và hai gùi nấm cỏ. Dưới sàn là chỗ đặt cái cũi trăn. Con trăn cuộn tròn trong cũi, ngủ cả ngày. Cái lồng to nhốt vẹt thì treo trên cao, ba chục con vẹt lúc nào cũng kêu nhao nhác. Ngay dưới lồng vẹt chúng tôi đặt cái lồng nhốt đôi công. Lũ công vốn hay múa mà lồng thì nhỏ làm chúng chẳng xoè được cái đuôi rực rỡ nên chúng cứ dậm chân và lắc đầu hoài.
Thật đã bõ công máy tháng vất vả. Suốt ngày lũ bạn có mặt ở nhà tôi. Lũ bạn trai thì cứ quanh quẩn bên con trăn và đôi công, vừa ngắm vừa bàn cãi. Các bạn gái thường ít nói hơn. Họ lẳng lặng đến ben các gùi măng, quỳ xuống bốc từng nắm măng lên xem. Họ ngắm mãi những miếng măng vuông vắn, dày và nâu mượt, cứ như họ chưa bao giờ nhìn thấy những miếng măng như vậy. Có khi họ bốc từng vốc nấm hương thả cho rơi lả tả, làm mùi thơm ngọt ngào bay khắp nhà.
Ông tôi cũng hay đến xem hàng. Ông cũng bốc từng bốc măng nắm lên ngửi, cũng xuống sàn xem con trăn, lũ vẹt và đôi công.
Một bữa ông bảo:
- Măng nấm kiếm thế cũng đủ rồi. Các cháu nghỉ vài hôm, ông đưa đi tìm sừng rụng
Chúng tôi đi cả, chỉ để Bua và Can ở nhà. Hàng ngày họ thay chúng tôi trông cho thú ăn hoặc thỉnh thoảng gặp bữa nắng to thì đem phơi lại măng nấm cho nỏ.
Ông cháu lên đường vào một ngày nắng ráo, nồi niêu gạo muối gùi nặng sau lưng. Ông chặt cho mỗi đứa một tàu lá cọ để che mưa nắng. Bấy giờ chưa hết mùa mưa, đâu đâu cũng thấy cây ra thêm chồi và cỏ mọc xanh um. Cải xoong phủ kím các vũng lầy cạnh bờ suối. Các ngách suối đều đầy nước, đi trong rừng chỗ nào cũng nghe tiếng nước chảy róc rách.
Mấy ông cháu leo ngược các triền núi cao. Đỉnh núi nọ tiếp đỉnh núi kia, đường lên chót vót.
Ba bốn hôm sau chúng tôi tới một cánh rừng bằng phẳng. Đường rộng thênh thang và đầy dấu chân voi. Đã đến rừng già.
Hoang vắng và yên tĩnh lạ thường. Yên tĩnh đến mức bàn chân tôi đặt đến đâu cũng nghe như có tiếng vang. Cây cối vươn ngọn lên cao tít. Phần lớn đều là những cây gỗ quí, nào lim, nào táu, nào sến, nào gụ, cây nào thân cũng thẳng tắp, ngọn tung ra một tán lá tròn xoe. Thú ở đây rất dạn người, có lẽ vì chúng chưa hề gặp người bao giờ. Những con sóc nâu cong duôi nhảy thoăn thoắt qua các cành cây nhưng khi chúng thấy chúng tôi đi tới thì chúng rừng cả lại, nhìn ngơ ngác. Bầy vượn đánh đu trên cao, ném vỏ quả xuống đầu chúng tôi. Khi Mơn vung tay lên doạ, chúng nhe nanh, nhăn mặt doạ lại.
Một buổi sáng, ông cháu đến một cánh đồng rộng. Đây là nơi ẩn náu của loài có gạc.
Sau đêm ngủ bình yên, bọn hươu nai đã ra đi ăn. Mình chúng đọng sương sớm, long lanh nắng. Chúng đi từng bầy, từng bầy. Nai thì lông xám xậm, chân cao, hươu thì lông vàng đốm trằng, mình dài. Tôi còn thấy cả hoẵng. Những con hoẵng nhút nhát nhưng xinh xắn có bộ lông màu hung óng ả và một đôi tai dài lúc nào cũng động đậy để lắng nghe. Chúng chống hai chân trước và vươn cổ lên bứt dây leo mọc trùm trên những tảng đá.
Trong bọn thú rừng, tôi yêu nhất lũ hươu nai. Thật là những con vật sinh đẹp. Chúng sống cuộc sống không lo lắng và hiền lành, chẳng bao giờ làm hại ai.
Khi ông cháu tôi lại gần, lũ hươu nai vẫn không bỏ chạy. Chừng như chúng nghĩ hiền lành như chúng thì chẳng ai nỡ ghét. Chúng cứ đứng nhìn ngơ ngác, giương cặp mắt tròn đen láy. Mơn và Rênh muốn doạ cho chúng chạy đi nhưng ông tôi ngăn lại. Xua đuổi chúng làm gì, cứ để chúng ăn ở gần cho vui.
Ông tôi dắt các cháu đến những bụi lau. Hươu nai làm ổ ở đó. Đấy là do bản năng tự vệ tinh khôn của chúng: lá lau khi bị giẫm đạp sẽ kêu sột soạt, nhờ đó chúng biết có thú lạ đến gần.
Ổ của chúng là những nệm lá và cỏ khô đã xẹp xuống vì dấu nằm. Mỗi năm con đực rụng sừng một lần, chúng dấu sừng rụng ngay cạnh ổ. Giờ này chúng đang đi ăn, ổ nào cũng vắng. Ngày bên ổ đầu tiên ông cháu tôi đã nhặt được hai cặp sừng, mỗi chiếc có ba gạc nhọn. Đó là sừng hươu. Những chiếc sừng này trước đây màu nâu nhưng phơi mưa nắng đã bạc, lẫn cả vào lá lau khô.
Đến ổ thứ hai chúng tôi nhặt được một cặp sừng lạ. Cặp sừng mỏng manh và choãng rộng, đầu dẹt, có răng khía như lưỡi cưa và ó gạc nhọn gứt ra phía trước. Ông tôi bảo đó là sừng on cà toong.
Mới đến nửa buổi mà ông cháu tôi đã kiếm được hàng chục cặp sừng tốt. Mơn và Rênh rất tinh. Chúng bé nhỏ, dễ luồn qua những bụi lau rậm rạp, thoắt đã lại thấy chúng đưa được một cặp sừng ra ngoài.
Mấy ông cháu lục tìm trong các bụi rậm, đến trưa mới thôi. Sừng kiếm đã được nhiều rồi. Ông tôi xếp cho mỗi người hai cặp, đường về xa quá không thể mang được nhiều hơn. Còn lại chừng bảy, tám cặp, chúng tôi bó thành một bó đem cất vào chỗ vắng, chờ lần sau lên lấy nốt.
*
* *
Nắng đã tắt trên những vòm cây cao. Hoàng hôn mờ xám. Tôi thấy mẹ tôi đang đi lủi thủi trong rừng. Hình như mẹ đi nhặt nấm. Trên bãi rộng, ông tôi đang dồn bò. Ông với hai tay ra phía trước, vừa chạy vừa kêu. Con bò mộng mắt đỏ như tiết đâm sầm qua búi rậm. Nó nhảy vào bên trong khu rào, đứng vạng sừng vù vù. Rồi bỗng lại thấy mẹ tôi bước thấp bước cao đi về nhà. Ông tôi đốt ngọn nến trám. Mẹ tôi bưng mâm cơm đã nguội ra đặt ở giữa sàn. Chỉ có hai người ăn, vắng ngắt. Bốn góc sàn tối om. Tai tôi nghe rõ tiếng nhai cơm trệu trạo và tiếng mẹ thì thầm ” Hai thằng đi cả, nhà vắng quá!”. Ăn xong, ông tôi thổi phụt ngọn nến. Căn nhà lại tối om. Ông ngồi hút thuốc, cái đốm than của điếu thuốc lập loè nơi cửa sổ. Mẹ tôi thì sờ soạng đi vào buồng. Có lúc tôi lại thấy cụ Xúc đeo cái hòm gỗ trên vai, vừa đi vừa gọi: ” Ơ thằng Ko! Cháu đem cưa của ông đi đâu?”. Cụ đứng nhìn khắp nơi rồi thì thào: ” Thằng Ko đi học rồi cơ mà! chắc nó đang vào lớp”…
Tôi mở choàng mắt: thì ra chỉ là giấc mơ. Ai từng đi học xa mà không qua những đêm đầy mộng. Đó là những đêm thao thức đợi ngày khăn gói đến trường.
Có lẽ đã quá nửa đêm. Tôi thấy mẹ tôi đang ở ngoài bếp. Mẹ đi ra đi vào, chốc chốc lại cúi cuống chõ xôi. Hơi cơm xôi thơm lừng bay khắp nhà. Ông tôi cũng đã dậy và đang ngồi im lặng hút thuốc. Hôm nay ông sẽ đưa bọn tôi xuống trường. Ông mượn được một con voi để thồ đồ đạc cho chúng tôi, con vật đứng dưới sàn thỉnh thoảng lại quật vòi và thờ phì phì đuổi muỗi.
Lũ làng và các bạn đã đến. Mọi người khuân những gùi măng, nấm xuống xếp lên bành voi. Cái cũi trăn, lồng vẹt, lồng công và những bó sừng được buộc chắc chắn sau bành. Ông tôi xuống cho voi ăn. Ông chặt cho con vật hàng chục cây chuối, lại cho nó cả một ôm mía.
Còn sớm lắm. Sao lấp lánh trên bầu trời xa thẳm. Ông sao mai tròn và xanh biếc như một con mắt nai.
Sớm tháng tám trời đã trở lạnh. Sương đọng trên các ngọn cây rơi lộp độp xuống mái nhà.
Con voi đã ăn xong. Ông tôi lấy cấy đòng dắt sau lưng ra cầm tay. Ông bảo con voi quỳ xuống. Chúng tôi chào lũ làng, chào mẹ để lên đường. Mẹ tôi dặn phải gắng học. Rồi mẹ khóc sụt sịt làm Mơn và tôi lưu luyến mãi không nỡ rứt.
Ông tôi cười:
- Thôi đừng khóc nữa! Con được đi học là mừng, sao mà khóc.
Ông nói vậy nhưng nụ cười của ông gượng gạo, giọng nói của ông đượm buồn.
Buổi chia tay nào cũng buồn. Nhưng chia tay vào một buổi lạnh trời bao giờ cũng buồn hơn: ngoài trời thì se lạnh, trong lòng thì bùi ngùi.
Chúng tôi chèo lên lưng voi. Bua, Can, Rênh và Mơn được ngồi trong bành. Ko và tôi thì ngồi sau lưng og tôi, ngay trên đầu voi.
Chúng tôi chào lũ làng và chào mẹ lần cuối, Con voi đứng dậy. Nó quơ vòi rồi bước đi trong tiếng dặn dò tíu tít của lũ làng.
- Đi cho bình yên nhé!
- Học cho chăm giỏi nhé!
Voi đã đi xa. Làng bản, rừng cây, bờ tre dòng suối đều đã khuất nhưng lời dặn còn vang bên tai tôi. Tôi tự hẹn với mình và hẹn với lũ bạn phải gắng học cho xứng với lòng mong mỏi của ông, của mẹ và của lũ làng.
*
Chúng tôi đã cố gắng và năm học ấy ai cũng đạt kết quả tốt. Cả sáu chúng tôi đều được lên lớp và cùng được khen.
Chúng tôi làm việc đều đặn như vậy suốt mấy vụ hè nữa nhờ đó đã theo học được hết cấp một dưới trường huyện.
Khi lên cấp hai thì đã có trường dân tộc, chúng tôi được vào ăn học ở đó. Chúng tôi vẫn về làng vào dịp hè và tuy bận rộn, vẫn cố thu xếp để làm việc giúp đỡ gia đình. Từ lâu, không để phí nhữg ngày hè đã thành một thói quen trong bọn trẻ làng tôi.
Hết cấp hai, chúng tôi vào học các trường chuyên nghiệp. Bây giờ thì chúng tôi đều đã trưởng thành. Ko và Rênh học ngành lâm nghiệp, hiện nay họ làm việc ở lâm trường huyện. Bua và Can thì học ngành y, họ phụ trách trạm xá và nhà hộ sinh làng tôi.
Còn cái trường làng thì như tôi đã nói ở trên: trường có bốn lớp và hai thầy giáo, mỗi thầy trông hai lớp.
Các bạn có biết hai người ấy là ai không?
Là tôi và Mơn, em tôi.
Chim mùa
Mấy đêm nay An vẫn theo ông ra ngủ ở chòi canh bờ đầm. Hai ông cháu chờ lũ chim mùa.
Mọi năm, khi trời nổi cơn gió may đầu tiên, lũ chim đã từ phương bắc giá rét bay tới miền quê ấm áp của An.
Mở đầu cho cuộc di cư thường lệ là bầy giẽ gà. Chúng bay lác đác từng con, vun vút giữa trời rồi lao xuống đầm làng trong bóng chiều chạng vạng.
Hai ông cháu thường bắt gặp chúng đứng dưới bờ sậy lao xao. Phải tinh mắt lắm mới nhận được: chúng cắm cái mỏ dài xuống bờ đất ướt hút giun, đôi mắt đen láy đưa đẩy, bộ lông nâu có vằn vàng lẫn vào lá úa.
Giẽ gà bay được vài hôm thì cuộc di cư to tát bắt đầu. Le le, mòng, két, giẽ dun bay từng đàn. Rồi đến lũ vịt nước và ngỗng. Chúng thường bay đến đầm làng vào ban đêm, liệng vòng gọi hối hả rồi đáp xuống và sáng hôm sau An đã thấy chúng đỗ xám cả một bờ đầm.
Thế là hai ông cháu bắt đầu bận rộn. Họ đi tận những đồi xa bắt mồi châu chấu trốn rét trong các kẽ lá dứa. Rồi ông cháu ra ngời chòi, ông thì buộc lại đám dây câu vào các cần tre còn An thì phết thêm nhựa dính vào đám que bẫy.
Sáng sớm, họ gài que dưới bờ sậy và cắm những cần câu lưỡi có buộc mồi châu chấu bên những đám bèo. Châu chấu bay xập xoè và lũ chim mùa xô nhau đến mổ.
Buổi trưa hai ông cháu đẩy thuyền đi nhặt chim và thay mồi. Vào những năm chim về nhiều, mỗi ngày họ dính hoặc câu được từng lồng chim uyên má trắng và lũ tia hia có cái mỏ hồng hồng.
Nhưng năm nay, gió may nổi đã lâu mà lũ chim mùa vẫn không đáp xuống đầm làng.
Mùa hè qua, vào một buổi trưa nắng gắt, có mấy chiếc máy bay Mỹ bay dọc núi và tuôi bụi đầy trời. Bụi li ti bay khắp nơi, rơi xuống đâu thì chỉ mấy hôm sau, cây cối ở đấy đã khô héo. Những cánh rừng đang xanh bỗng rụng hết lá, chỉ còn trơ lại cành khô và trên đầm làng, những bờ sậy, những đám bèo dày đặc đầy hoa tím, bắt đầu tàn lụi. Cá chết nổi bènh trên mặt nước và lũ cỏ ngà, lũ chim từng sinh sống ở đầm làng từ ngàn xưa, đã gọi nhau bay đi.
Mấy tháng sau, sậy vẫn khô xác và bèo chưa nở lại nhưng hai ông cháu cứ đinh ninh sang mùa đông dù sao lũ chim mùa cũng sẽ tới.
Họ đợi chúng mấy đêm ròng.
Mọi năm vào mùa này, chim kêu xao xác suôt đêm. Hai ông cháu thường không ngủ, cùng nằm lăng nghe. Họ nghe thấu cả tiếng rì rào của các bầy chim mới đến ngủ đỗ trong những bờ sậy và phân biệt được mọi tiếng kêu: tiếng “kéc kéc” mơ hồ của chim uyên, tiếng “cà kíu” rộn rã của ngỗng trời và tiếng kêu “kin kít” buồn tẻ của bầy le nước.
Nhưng đêm nay tuyện nhiên vắng bặt tiếng chim, hai ông cháu chỉ nghe thấy tiếng cựa mình khó nhọc của những cây sậy đã khô và tiếng nước ì oạp vỗ vào mạn con thuyền buộc dưới chân chòi.
Những tiếng động chán ngán đó làm Anh ngủ thiếp đi. Chỉ riêng ông thì vẫn thức. Hai mắt ông chong chong chờ đợi.
Đêm đã khuya. Ngoài kia trăng vẫn sáng, trời vẫn trong nhưng một màn sương mỏng se lạnh đang bắt đầu buông trên mặt đầm.
Chợt có tiếng lao xao từ xa vẳng đến, mong manh, thoáng vọng lên rồi lại thoáng mất đi.
Ông nhỏm dậy lắng nghe.
Tiếng gió chăng? Không, đó là tiếng chim vỗ cánh, ông chẳng bao giờ lầm.
Ông hối hả gọi:
- An ơi! Ngỗng về.
An đang ngủ chập chờn, thấy gọi liền vùng dậy.
Tiếng vỗ cánh nghe đã rõ. Hai ông cháu chạy ra ngoài. Những chấm đen hiện dần trên nền trời bao la. Chẳng bao lâu một bầy chim lớn bay đến. Chúng xếp thành hình mũi tên, con nọ như ngậm lấy đuôi con kia, con nào cũng vươn dài cổ và khoan thai vỗ cánh.
Con đầu đàn đã nhìn thấy ánh nước. Nó xà xuống, dắt cả bầy xuống theo.
- Xuống đi! Đáp xuống đi – ông thầm nói.
Bầy ngỗng liệng một vòng quanh đầm. Con đầu đàn kêu mấy tiếng “Kíu! Kíu!” dò hỏi.
Mọi năm, mỗi khi nghe tiếng gọi đàn như thế thì những bầy chim đến trước đã xôn xao vỗ cánh và kêu tíu tít trả lời. Nhưng đêm nay im ắng quá! Chỉ thấy tiếng gọi lẻ loi bị gió đánh bạt đi.
Bầy chim bay lên cao. Nhưng rồi chúng liệng một vòng nữa và con đầu đàn lại cất tiếng. Từ trên bầu trời thăm thẳm, tiếng gọi vọng xuống đầy lo âu: “Kíu! Kíu! Sao mà dưới ấy vắng lặng thế! Kíu! Kíu! “.
Vẫn không thấy một tiếng trả lời.
Con chim đầu đàn liền bay lên cao tít, cả bầy vội theo lên. Chúng lại xếp thành hình mũi tên rồi sải cánh bay đi.
Hai ông cháu đứng lặng, nhìn theo. Những chấm đen nhoà trên nền trời mờ sương, chỉ còn vẳng nghe tiếng vỗ cánh và tiếng kêu văng vẳng xa dần.
An tiếc rẻ thì thào:
- Ông ơi! Thế là lũ ngỗng bỏ đi nơi khác mất rồi!
Lát sau lại một bầy ngỗng nữa bay tới.
Chúng sà xuống sát cả mái chòi, nhưng cũng như lần trước, bầy chim liệng một vòng, cất tiếng kêu và rồi không được trả lời, chúng lại vội vã bay đi.
- Có khi phải chờ sang năm, khi những bờ sậy xanh tốt lại thì chúng mới đáp xuống – ông thầm bảo An.
Nhưng đến nửa đêm, khi hai ông cháu sắp đi nằm thì bỗng nghe một tiếng “ra… ào” trên đầu.
- Vịt đấy! Vịt nước đấy! – Ông mừng rỡ kêu lên khe khẽ.
Bầy vịt đáp xuống đám sậy khẳng khiu ở phía xa. Có tiếng những thân sậy chạm nhau và tiếng nước động rồi lại im ắng.
Ông bảo An:
- Cháu tinh mắt, thử nhìn xem có thấy chúng đâu không?
An căng mắt nhìn.
Nếu trời trong thì có lẽ đã thấy những ngấn nước xao động nhưng lúc này sương đã buông mờ mịt nên An chẳng nhìn thấy gì.
Hai ông cháu chờ đợi. Lâu lắm mà vẫn không thấy bầy vịt cất cánh bay lên.
Ông cháu cùng thở phào. Thế là bầy vịt đã ở lại.
Có lẽ lúc này chúng đang nép mình dưới những cây sậy khô để chờ trời sáng.
Những đám sương trắng đang tan. Mặt trời đỏ dịu hiện ra ở bên kia bờ đầm. Làn nước phản chiếu nắng sớm, sáng như một tấm gương lớn.
Từ giữa đám sậy khô, một đàn vịt xám bơi ra, đạp nước bằng những đôi chân xoè rộng.
Chúng nổi lênh đênh, nghiêng những cái đầu xanh biếc để nhìn xuống đáy nước tìm mồi. Đôi lúc một vài con trong bầy bỗng vươn dậy và khoan khoái vùng vẫy cặp cánh làm tung lên những giọt nước lấp lánh. Trên một cành sậy cụt nằm sát mặt đầm, một con cốc đến đỗ tự lúc nào, đang dang rộng cặp cánh đen, phơi nắng.
Ngồi trong chiếc chòi tùm hom, hai ông cháu sung sướng nhìn ra ngoài.
Chưa thấy những đám bèo trôi, những đàn chim uyên má trắng vừa đuổi mồi vừa kêu lanh lảnh, chưa thấy những bầy vịt vàng và những bầy ngỗng băng băng rẽ nước. Mặt đầm còn vắng lắm so với năm xưa nhưng dù sao thì cuộc sống cũng đã trở lại, không gì ngăn trở nổi.
Ông nói:
- Thế là lũ chim đã trở về. Năm nay ông chưa muốn đặt câu vội. Hãy chờ cho chúng về đông đủ như mọi năm đã.
- Phải đấy ông ạ!
- Cháu thả mồi châu chấu ra, đãi lũ vịt nước một bữa.
Hai ông cháu mang theo ra ngoài chòi hai giỏ đầy. An với một cái giỏ và mở nùi rơm. Châu chấu bò chen chúc lên miệng giỏ. Chúng đạp càng lách tách rồi bay lên vù vù. Xạch! Xạch! Xạch! Tiếng đập cánh nghe thật vui tai.
Đầm rộng mênh mông, chúng mỏi cánh xà dần xuống mặt nước.
Bầy vịt nhìn thấy, nhao nhác trông theo. Rồi cả bầy kêu lên ầm ĩ và đập cánh, chạy rẽ nước đuổi mồi. Tiếng kêu rộn ràng lẫn tiếng đập nước làm con cốc đang đỗ im lìm cũng phải giật mình tỉnh dậy. Nó vội nhảy lên và vỗ cánh bay lại.
Đợi cho chúng ăn gần hết mồi, An lấy giỏ thứ hai, mở nùi.
Một đàn châu chấu nữa bay ra. Lũ chim lại nhao nhác, tranh nhau lướt tới.
Chỉ có một bầy vịt và một con cốc thôi mà An đã thấy vui quá! Tấp nập cứ như có đến ba, bốn bầy đang cùng tìm ăn./.
Rừng đêm
Trăng sáng quá. Trăng lơ lửng trên bầu trời đầy sao, rọi lên sàn những khoảng sáng vuông vắn qua các cửa để ngỏ.
Khi anh Ba tỉnh dậy, khoảng ánh trăng đã lan tới chỗ anh nằm. Nó xuyên quan màn và lúc anh Ba đưa tay lên để xem đồng hồ, anh thấy tay mình như được bọc trong một tấm lưới mắt nhỏ lăn tăn.
Nằm mãi không ngủ lại được, anh ra ngồi cạnh một khung cửa. Dưới sàn, trời sáng như ban ngày. Những tảng đá lớn phản chiếu ánh trăng, trắng lên như bạc. Hàng cây cao và thưa lá ngả xuống mặt đất từng khoảng bóng rung rinh. Con suối trôi trước thềm nhà, từ mặt nước sóng sánh tỏa lên một nỗi vắng lặng êm đềm. Phía xa, nơi con suối luồn qua những tảng đá chắn đường, nước chảy phảng phất, nhẹ như hơi thở của rừng đêm. Từ những cây đại dưới sàn, mùi hoa lâng lâng thoảng bay lên chỗ anh Ba ngồi.
Anh Ba chợt thấy sàn nứa rung rinh. Anh quay vào. Trong một góc sàn, anh xếp rất nhiều những con thú đã nồi cỏ. Đấy là những “tiêu bản” của nguồn thú kinh tế ở địa phương mà anh có nhiệm vụ đến điều tra. Tiếng lao xao tưởng chừng vọng ra từ đó. Những con thú như vừa tỉnh dậy, mỗi con đang sống lại cuộc đời riêng của nó trong rừng.
Con vượn đen vin tay vào một cành cây khô, muốn đu lên cao để tìm một chỗ ngủ an toàn. Nó không quen đứng mãi dưới đất. Con cheo cheo âm thâm co một chân lên, trông như nó đang rón rén đi và đang cố thu mình lại để tránh cặp mắt so mói của bầy thú lớn. Con chim mềnh – kềnh lúc lắc cái mỏ vàng và to bằng quả chuối mắn như nó đang than phiền vì phải đeo cái mỏ quá kềnh càng. Còn con hươu non xinh xắn, lưng đốm sao, thì nghểnh cổ lên, giống như nó vừa xuống bến uống nước và bây giờ đã hết khát, nó thong dong đứng nhìn trăng.
Sàn nứa vẫn rung. Anh Ba chăm chú nhìn. Nhưng các “tiêu bản” của anh vẫn lặng im, con nào ở yên chỗ của con ấy. Mãi sau anh mới nhận ra: sàn động phông phải do chúng mà do bước đi của người chủ nhà.
- A! Bác Mi đăm! – Anh Ba khe khẽ kêu.
Trăng sáng quá, đến cả bác Mi đăm cũng không ngủ được. Bác đến ngồi cạnh anh Ba. Anh Ba nói:
- Bác bước làm tôi cứ tưởng lũ thú của tôi đang tỉnh dậy.
Bác Mi đăm cười:
- Lũ thú của anh chẳng bao giờ tỉnh dậy được nữa. Nhưng bè bạn của chúng thì đi kiếm ăn về đêm. Đêm nào anh vào rừng mà xem.
- Bác đưa tôi đi nhé, – anh Ba được dịp vội đề nghị – Tôi muốn nghiên cứu tập tính của chúng. Nghĩa là tìm xem chúng sinh sống ra sao, đi kiếm ăn ra sao, ở những nơi nào?
- Được! Nhưng phải đợi một đêm tối trời, phải mượn một cây đèn săn. Trăng sáng như trăng đêm nay, thú nhìn thấy người, chúng lủi trốn hết.
Mấy hôm sau, bác Mi đăm đi mượn về một cây đèn săn. Vào buổi chiều một ngày gần cuối tháng, bác bảo anh Ba:
- Đêm nay tôi đưa anh vào rừng.
Bác dọn một chõ ngủ trong góc sàn, gọi anh Ba vào.
- Anh ngủ đi! Đêm nay ta đi suốt đêm.
Bác Mi đăm vào nằm trước và chỉ một lúc sau đã thấy bác nằm yên. Nhưg anh Ba thì thao thức, anh thấy thú rừng chạy chập chờn trước mặt. Cái bóng của chúng mơ hồ nhưng cặp mắt thì nổi rõ như những vì sao. Anh cựa mình luôn, làm cái sàn cứ kêu cót két.
Nhưng rồi anh Ba ngủ đi lúc nào không hay. Khi tỉnh dậy, anh thấy sao hôm đã sáng xanh ngoài khung cửa.
Hai người đi ăn bữa tối.
Thú rừng thường đi kiếm ăn muộn. Ngồi đợi, hai người thì thào nói chuyện. Bác Mi đăm nói với anh Ba cách nhận mắt.
Thường mắt đỏ là mắt thú ăn thịt. Mắt thú ăn cỏ thì vàng hoặc xanh biếc như lân tinh. Đôi khi cũng có con thú ăn thịt mắt xanh, như mèo rừng. Hia mắt sát nhau và nằm thấp là mắt thú nhỏ. Thú to thì hai mắt cách xa và cao độ tầm thắt lưng trở lên. Mỗi con thú nhìn đèn một cách. Mắt nai lúc nào cũng mở to và nhìn đăm đăm. Cọp lại khác: lúc giương to mắt, lúc lim dim, khi nhìn hai mắt, khi nhìn một mắt, lúc vươn cổ lên cao, khi rạp đầu sát đất…
Một con gà chợt vỗ cánh, gáy dưới sàn. Gà trong xóm nghe gọi, đua nhau gáy theo. Bác Mi đăm đốt ngọn đèn săn, đeo lên trán cho anh Ba.
- Đi thôi – bác giục. Gà gáy nửa đêm rồi. Giờ này thú ra ăn nhiều, có khi vừa xuống chân thang đã gặp.
Hai người xuống sàn.
Trăng cuối tháng vàng và nhọn như một chiếc ngà non đã ló ra khỏi đỉnh núi. Trời đầy sao. Anh Ba đi trước nhìn đường bằng ánh đèn, bác Mi đăm đi sau nhìn bằng ánh sao. Họ băng qua những dải ruộng bậc thang gập ghềnh. Trên các bờ ruộng, những bụi mua nằm rải rác, trong như bầy thú đang nằm. Xa xa trước mắt, rừng kéo dài và tối đen, bên trên nhấp nhô những đỉnh núi tím sẫm.
Luồng ánh sáng trên trán anh Ba rọi xa tắp và xoè rộng như cái giẻ quạt. Anh thong thả quay đầu sang hai bên, luồng sáng quét chầm chậm trên mặt đất. Dưới ánh đèn, từng khoảng cây cối hiện lên rực rỡ. Những lá cỏ tranh trĩu xuống, đầu ngọn treo một hạt sương long lanh.
- Nếu những hạt nước sát lại từng cặp thì cũng dễ lẫn với những cặp mắt, bác Mi đăm nhỉ? – anh Ba vừa rọi đèn vừa khe khẽ hỏi.
Bác Mi đăm thì thầm:
- Chẳng có cặp mắt rừng nào nhỏ và lóng lánh như vậy.
Anh Ba vụt quay lại, nhìn bác.
- Mắt con chuột, bác Mi đăm ạ! Ở quê tôi, chuột hay ra lục trạn, tôi soi đèn thấy mắt chúng hệt như vậy.
Mắt bác Mi đăm cũng bắt đèn và sáng long lanh. Bác cúi gằm xuống.
- Mắt chuột rừng đỏ như hai hạt ràng ràng kia. Nhưng đừng rọi đèn vào mắt người, có thể lầm với một đôi mắt thú. Người đi săn kiêng.
Anh Ba vội quay đi nhưng vẫn cố hỏi:
- Vì sao hở bác?
- Sợ bắn lầm.
Hai người thong thả bước từng bước vào rừng. Gió động trên những ngọn cây cao nhưng trong rừng thì hoàn toàn yên tĩnh. Hoa lá, quả chín, những vạt nấm ẩm ướt và con suối chảy thầm dưới chân đua nhau toả mùi thơm. Những đốm sáng lân tinh trên gỗ và trên lá mục lấp lánh khắp nơi nhưng khi ánh đèn chiếu đến thì chúng vụt tắt.
Một cặp mắt đỏ hiện lên từ xó tối, nhìn chằm chằm vào ngọn đèn. Cặp mắt bé tí nhưng sáng rực, chụm vào nhau, nằm sát dưới đất.
” Một con thú ăn thịt nhỏ. Ta phải xem bác Mi đăm nói có đúng không? ” – Anh Ba tự bảo.
Anh nghiêng đầu quét luồng sáng, thấy một con chồn xám đang đứng sững. Ngắm nó một lúc, anh Ba xoay đèn ra chỗ khác. Khi ánh đèn chiếu hắt ra xa, con vật nhìn thấy bóng người liền nhảy vào bụi.
Đến ven rừng, anh Ba lại gặp một cặp mắt đỏ đục. Anh quét đèn. Trên mỏm đá, một con chim đêm đang đứng rình mồi. Nghe động người, nó vỗ cánh bay vụt vào bàu trời bao la.
Nhìn qua vầng sáng của cây đèn, anh Ba thấy rõ cái tấp nập thầm lặng của rừng đêm. Cầy cáo chạy nhao dưới đất. Những con cheo cheo bé bỏng, lông vàng mượt, xinh xắn như một lũ hoẵng non, rón rén đi tìm măng. Đôi lúc lại thấy một vài con vật thanh mảnh nhảy vụt qua ánh đèn. Một mùi hương ngào ngạt đọng ở lối đi, tưởng chừng chúng đã để lại trên đường những dấu chân thơm. Bác Mi đăm bảo đó là lũ chồn sạ. Chúng đi tìm vả chín.
Trên cao, mèo rừng ngồi rình giữa các chạc cây. Những chấm đen trên mình chúng lẫn vào bóng đêm nhưng bộ lông vàng thì rực lên dưới ánh đèn. Từng đôi sóc nép mình trốn trong các hốc tối, nhìn ra bằng những cặp mắt nhỏ long lanh. Có con lầm tưởng trời đã sáng, chạy vụt ra khỏi tổ, đứng ngơ ngác, hai lỗ mũi ướt không ngớt phập phồng.
Thỉnh thoảng lại thấy vài đôi chim rất to đỗ chót vót trên những ngọn cây cao. Đấy là lũ mềnh – kềnh. Đầu chúng thõng xuống vì cái mỏ quá lớn. Khi ánh đèn của anh Ba chiếu đến, chúng lúc lắc cái mỏ kềnh càng và lạ lùng kêu lên xao xác.
Đi mãi, anh Ba đã thấy chồn chân. Anh đứng lại, khẽ hỏi.
- Đêm nay sao không thấy thú to, bác Mi đăm ? Muộn lắm rồi, bác nhỉ?
- Cứ đi nữa, sẽ gặp thú lớn về hang. Mờ sáng là chúng quay về.
Bác Mi đăm ngẫm nghĩ rồi nói tiếp :
- Hay là tôi đưa anh đến các đồi cỏ.
Họ lại đi. Anh Ba thong thả quay đầu sang hai bên, cái giẻ quạt sáng choang lại quét đi từ từ, nom rõ từng chiếc lá. Đường xuống dốc, thoai thoải dần.
Bỗng anh Ba thấy trời trên đầu rộng ra. Rừng lùi lại, trước mắt anh là những ngọn đồi lượn sóng. Dưới một bụi cây thưa có vô số những vì sao. Chúng xanh biếc và to như những đồng xu, lơ lửng giữa vòm lá, ghép thành từng cặp, từng cặp. “Cái gì đấy? – Anh Ba bàng hoàng tự hỏi – Sao mà nhiều ông sao mai thế?”
Anh cúi đầu xuống xem. Ánh đèn lướt nhanh, rọi rõ những cái mõm còn ướt sương đêm, rồi rọi xuống những cái ức nở nang, những cẳng chân thẳng băng phủ lông màu nâu mượt và những chiếc móng nhỏ nhắn đặt nhẹ trên mặt đường.
Anh Ba đã rọi đèn vào giữa một bày nai. Lúc anh ngẩng đầu lên, mọi cặp mắt đều biến mất. Lũ nai nhẩy đi không một tiếng động: Chúng vốn có những cặp chân nhẹ tênh.
Anh Ba quay lại nhưng không quên cẩn thận chúc cái đèn săn xuống đất.
- Bầy nai gì mà đông và lớn vậy, bác Mi đăm?
- Bầy nai trâu đó. Nhiều thịt lắm anh Ba à! Những cặp mắt to và xa nhau thế!
Hai người đứng ngẩn ngơ mãi.
Lác đác đã thấy lũ chim đêm về tổ. Chúng vỗ cánh chập chờn trên đầu đôi lúc lại kêu lên những tiếng âm thầm.
Ngôi sao mai trôi mau xuống dưới núi. Vắng nó những ngôi sao khác mờ đi rất nhanh. Bầu trời tím biếc rạng ra dần.
Anh Ba tắt đèn.
Thế là sự tấp nập của rừng đêm nhìn qua ánh đèn đã chấm dứt. Các lối đi lại vắng teo. Giờ này chắc mọi con thú đã về nằm trong hang sâu, chúng đã no nê và đang bắt đầu giấc ngủ yên tĩnh, êm đềm.
Trong khoảng khắc, lúc chuyển tiếp giữa ngày và đêm, rừng lại hoàn toàn vắng lặng. Anh Ba như nghe thấy những cây nấm cựa mình vươn lên và hoa lá rung rinh chờ đón buổi mai.
Rồi lũ gà rừng gáy rộ trong im lặng. Chúng đánh thức mọi vật. Chim bay ra khỏi tổ, đứng hót véo von trên những cành cây đọng sương. Trên những vách đá bắt đầu hửng ánh bình minh, bầy vượn đen vừa chuyền cành vừa hú những hồi trầm bổng.
Sáng rồi. Trời nổi gió sớm và cây cối bắt đầu lay động rì rào. Dưới thung lũng, hơi rừng đùn lên như bông.
Anh Ba và bác Mi đăm cùng ngồi xuống một gốc cây. Buổi sớm mát rượi làm lòng họ nhẹ nhõm.
- Bác Mi đăm à, rừng làng bác đẹp quá! – Anh Ba say sưa nói.
Bác Mi đăm khẽ lắc đầu:
- Chưa đẹp đầu! Bữa nào anh lên các làng trên mà xem: rừng trên đó còn đẹp và lắm thú hơn./.
[1] Xóm
[2] Lớp học để xoá nạn mù chữ ở những vùng chưa có trường.
[3] Tiếng để chỉ các dân tộc ít người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét