Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013

ChanLapPhongThoKy.html

 

CHÂN LẠP PHONG THỔ KÝ

 

Châu Đạt Quan

(Thế kỷ 13)

 

 

Dịch giả: Lê Hương

 

eBook: Lê Bắc

 

 

 

TỔNG TỰ(1)

Nước Chân-Lạp (Tchen-La)(2) cũng gọi là Chiêm-Lạp (Tchan-la). Tên bổn xứ là Cam-bội-Trí (Kan-po-tche). Triều đại hiện thời căn cứ vào kinh sách Tây-Phiên (3) gọi tên nước là Cầm-Phố-Chỉ (Kan-p’ou-Tche)(4) đọc ra gần giống như Cam-bội-Trí (Kan-po-Tche).

Rời bến Ôn-Châu (Wen-tcheou) ở Triết-Giang (Tchô-Kiang) và thẳng hướng Đinh-Vị ( Nam-TâyNam) chúng tôi đi qua hải cảng của các châu Phước-Kiến (Foukien) tỉnh Quảng Đông (Kouang-Tong) và hải ngoại. Chúng tôi vượt biển Bảy Hòn đảo (Thất-châu-dương Ts’i-tcheou-Yang – Đảo Taya) (5) đi ngang biển Annam (Giao-chỉ-dương Kiao-Tche-Yang) và đến xứ Chiêm-Thành (Tchan-Ch’eng)(6).

Ở đấy, nhờ thuận gió, trong vòng mười lăm ngày ta có thể đến thị trấn Chân-Bồ (Tchen-p’ou vùng Cap Saint Jacques hay Bà-Rịa), đó là biên giới xứ Chân-Lạp.

Đoạn, từ Chân-Bồ theo hướng Khôn-Thân (Tây-Nam – 1/6 Nam), chúng tôi đi ngang qua biển Côn-Lôn (K’ouen-Lonen, Poulo-Condór) và vào cửa sông. Sông này có hàng chục ngả, nhưng ta chỉ có thể vào được cửa thứ tư (7), các ngả khác có nhiều bãi cát (8) thuyền lớn không đi được. Nhìn lên bờ chúng tôi thấy toàn là cây mây cao vút, cổ thụ, cát vàng, lau sậy trắng, thoáng qua không dễ gì biết được lối vào, thế nên các thủy thủ cho rằng rất khó mà tìm đúng cửa sông.

Từ đó, thuận giòng nước tiến lên hướng Bắc lối mười lăm ngày, chúng tôi vào một lãnh thổ tên là Tra-Nam (Tch’a-Nan) (9) một trong những tỉnh của Chân Lạp.

Ở Tra-Nam, chúng tôi sang một chiếc thuyền nhỏ, thuận giòng đi qua Bán-lộ-thôn (Panlou-ts’ouen) (10) và Phật-thôn (Fo-ts’ouen) (11), vượt biển nước ngọt Đạm-dương (Tan-Yang) (12) hơn mười ngày đến một nơi gọi là Can-bàn (Kan-P’ang) (13) cách châu thành năm mươi lý (14).

Theo quyển “Chư Phiên chí” (15) (Tchou-fan-tche) thì lãnh thổ rộng 7.000 lý. Phía Bắc, ta đi mười lăm ngày tới nước Chiêm-Thành, phía Tây Nam, đi mười lăm ngày tới nước Triêm-La (Sienlo) (16), phía Nam đi mười ngày tới Phiên-Ngu (P’an-Yu) (17) và phía Đông là đại dương. Từ lâu rồi quốc gia này giao thương với chúng ta.

Khi Thánh-Triều (Triều đại Mông-Cổ) lãnh mạng trời mở rộng vương quyền khắp bốn biển và Nguyên soái Toa-Đô (Sôtu) bình định nước Chiêm-Thành (18), người phái một vị “Hổ phù bá hộ” (19) và một vị “Kim bài thiên hộ” (20) cùng đến đất này nhưng cả hai đều bị bắt và không có trở về.

Tháng sáu năm Ất-vị (Yi-Wei) niên hiệu Nguyên-Tr! inh (nhằm trong khoảng từ 14-7 đến 11-8-1295) Thiên Tử Thánh Vương phái một vị sứ giả chiêu dụ (dân chúng quốc gia này) (21) và cử tôi theo phái đoàn.

Tháng hai năm sau, Bính-Thân (Ping-chen, nhằm trong khoảng từ ngày 5-3 đến 3-4-1296) chúng tôi rời huyện Minh-Châu (Ming-tcheou) (22) và ngày 20 (nhằm ngày 24-3-1296), chúng tôi rời bến Ôn-Châu (Wen-tcheou) ra đại dương.

Ngày mười lăm tháng ba (nhằm ngày 18-4-1296) chúng tôi ghé Chiêm-Thành. Lúc đi đường, chúng tôi gặp gió ngược mới đến nơi vào mùa thu, tháng bảy (nhằm trong khoảng từ ngày 1 đến 29-8-1296). Chúng tôi triều kiến Quốc-vương (Chân-lạp) và trở về thuyền nhổ sào trong tháng sáu năm Đinh-Dậu (Ting-yeou) niên hiệu Đại-Đức (Ta-tô nhằm trong khoảng từ ngày 21-6 đến 20-7-1297).

Ngày mười hai tháng tám (nhằm ngày 30-8-1297) chúng tôi cặp bến Tứ-Minh (Sseu-Ming) (23).

Không chắc rằng chúng tôi biết rõ tất cả chi tiết về phong tục và sự việc xẩy ra trong quốc gia này, nhưng ít ra chúng tôi cũng có thể phân biệt được những điểm đại lược.

  1. Phiên âm đúng nguyên văn, nghĩa là “Trình bày tổng quát”. Ông Paul Pelliot dịch Introduction: Dẫn nhập.

  2. Người Pháp phiên âm chữ Tàu theo giọng nói của dân Bắc Kinh (quốc ngữ), còn ta dịch theo giọng đọc chữ Nho, ví dụ: Tchen-la là Chân-lạp. Chúng tôi để những chữ của người Pháp dịch vào dấu ngoặc hầu quý vị tiện so sánh.

  3. Ông Pelliot dịch là Tây Tạng, theo tiếng gọi của người Trung Hoa thời ấy: “Tây Phiên” chỉ vào các quốc gia chưa khai hóa ở hướng Tây.

  4. Người Pháp phiên âm là Kambuja.

  5. Theo người Trung Hoa, Thất-châu-dương là ranh giới nước Tàu và Việt-nam. Tương truyền dưới đời nhà Hớn, ông Tam-Bảo-Công quăng hai chiếc đũa sắt xuống biển hóa thành hai cây cột tròn đường kính hai mươi phân, ló lên mặt nước so le, một cây lối một thước tây, một cây hơn thước. Du khách đi tàu sang Hong Kong có thể ngắm hai cây cột này cách xa khoảng 30 thước.

  6. Nước Chiêm Thành thuở ấy do vua Chế-mân (? – 1307) trị vì, kinh đô đóng ở Bal Angué gần Bình Định tức Qui Nhơn, người Tàu gọi là Sin-Tcheou (Tân-Châu). Tên vua viết theo một bản văn trên bia đá là Jaya Sinhavarman III, theo sử liệu là Po Debatac Wor, nhà du lịch Marco Polo (1254-1324) ghi là Acrambale, phát âm theo Trung Hoa là Tchan-Ch’eng.

  7. Cửa Tiền-giang vào đất Mỹ-Tho ngày nay.

  8. Nguyên văn: bãi đất cạn (nông).

  9. Tỉnh Kompong Chhnang ngày nay.

  10. Không thể biết vùng nào.

  11. Chắc chắn là tỉnh Pursat ngày nay.

  12. Biển Hồ: Tonlésap. Tonlé: sông, sáp: (nước) ngọt.

  13. Kan-pang có lẽ là do danh từ Kompong nghĩa là Bến ghe đậu, rất thường thấy ở Cao-Miên như Kompong Thom, Kompong Luông, Kompong Cham, Kompong Trabec. Đây là bến đậu ghe trên bờ Biển-Hồ thuộc tỉnh Siem-Reap, từ đó người ta đi bộ vào kinh đô Angkor.

  14. Nguyên văn là “lý”, nhưng rất khó biết về bề dài mỗi lý bao nhiêu vì mỗi triều đại ở Trung Hoa đều thay đổi khác nhau. Ông Abel Remusat dịch đúng là Li, theo tự điển Pháp là 576 thước. Ông Paul Pelliot dịch: Stade: dặm, mỗi dặm dài 600 chân (pied), mỗi chân lối 0 thước 24 theo người Cổ La-Mã. Theo tự điển Trung Hoa từ đời Mãn Thanh trở về trước 1 lý bằng 1800 thước mộc; từ Trung Hoa dân quốc đến nay 1 lý bằng 1500 thước mộc, mỗi thước mộc dài 0mét,3126. Một dặm có 90 lý.

  15. Chư Phiên chí (Tchou-fan-tche) là quyển sách nói về các nước man rợ của ông Triệu-nhữ-Quát (Tchao-You-Koua), một nhà buôn ở Tuyền-Châu (Ts’iuan-tcheou) soạn trong năm 1225.

  16. Triêm-La tiếng gọi nước Xiêm (Thái-lan) thời ấy.

  17. Không biết thuộc vùng nào.

  18. Toa-Đô chiếm nước Chiêm-thành năm 1281.

  19. Tước quan võ mang cái thẻ bài phía trên chạm đầu cọp, giữ quyền thống lãnh một trăm quân, vị nào coi một ngàn quân gọi là “Hổ Phù thiên bộ”, một vạn quân gọi là “Hổ Phù vạn hộ”.

  20. Tước quan võ coi một ngàn quân mang thẻ bài bằng vàng. Nhà du lịch Ý Marco Polo (1254-1324) thuật rằng vị quan coi một trăm quân mang thẻ bài bằng bạc, vị quan coi một ngàn quân mang thẻ bài bằng bạc mạ vàng, vị coi một vạn quân mang thẻ bài bằng vàng phía trên có chạm đầu sư tử.

  21. Ông Paul Pelliot dịch: rappeler (les gens de ce pays) au devoir: nhắc nhở (dân chúng quốc gia này) trở lại với bổn phận.

  22. Minh-Châu là địa danh mới, dưới đời nhà Đường (618-907) gọi là Ninh-Ba (Ning-po) thuộc tỉnh Triết-Giang.

  23. Tứ-Minh là tên một trấn (tchen) ở gần huyện Thượng-Ngu (Chang-Yu) cũng thuộc Ninh-Ba (Ning-po) tỉnh Triết-Giang (Tchô-Kiang).

 

 



1. THÀNH QUÁCH (1)

Bức tường quanh thành phố dài lối hai mươi lý, có năm cửa ra vào, mỗi cửa có hai lớp.
Vách thành về hướng Đông có hai cửa, ba mặt kia mỗi mặt có một cửa mà thôi. Ngoài vách là một cái hào to, ngoài hào có cầu lớn nối liền các con đường lớn. Mỗi bên cầu có năm mươi bốn tượng Thần bằng đá hình dáng giống các vị “đại tướng đá” (2) rất lớn và dữ tợn. Cả năm cửa đều giống nhau. Bao lơn cầu toàn bằng đá, tạc hình rắn chín đầu (3). Năm mươi bốn tượng Thần giữ con rắn bằng tay và có vẻ ngăn không cho nó trốn. Trên mỗi cửa thành có năm đầu tượng Phật lớn bằng đá, bốn mặt xây theo bốn hướng, đầu ở giữa có khảm vàng. Hai bên cửa người ta chạm hình voi trên đá.



Vách tường xây toàn bằng đá nguyên khối chồng chất lên nhau, bề cao lối hai trượng (tchang) (4). Đá chất rất khít khao, chặt chịa, cỏ dại mọc không được. Không có một lỗ chân mai nào cả. Trên bờ thành người ta trồng cây quáng-lang (5) (kouang-lang) ở vài nơi. Từng khoảng từng khoảng có nhiều căn phòng bỏ trống. Phía trong vách tường giống như một cái lề xiên xiên rộng hơn mười trượng. Trên mỗi lề có cửa lớn, đêm đóng, ngày mở, có người giữ cửa. Có lịnh cấm không cho chó chạy vào.



Tường thành là một hình vuông thật đều nhau, trên mỗi góc có một ngôi tháp bằng đá. Những tội phạm bị chặt ngón chân không được vào thành. Ngay trung tâm thành phố (6), có một ngôi tháp bằng vàn! g (Bayon) (7) xung quanh có hơn hai mươi ngôi tháp bằng đá và hàng trăm căn nhà bằng đá. Ở hướng Đông có một cây cầu bằng vàng; hai tượng sư tử bằng vàng để bên mặt và bên trái đầu cầu; tám tượng Phật bằng vàng để phía dưới những căn nhà đá. Cách ngôi tháp bằng vàng lối một dặm về phía Bắc có một ngôi tháp bằng đồng (Baphuon) (8) cao hơn ngôi tháp vàng, ngắm thật đẹp mắt; dưới chân tháp bằng đồng cũng có hơn mười căn nhà đá.

Cách đó khoảng một dặm cũng về hướng Bắc là cung điện của nhà Vua, trong cung còn có một ngôi tháp bằng vàng nữa. Chúng tôi nghĩ rằng lời tán tụng “nước Chân Lạp giàu và cao nhã” mà các thương gia hải ngoại (9) thường nhắc nhở là do những ngôi tháp ấy (10).



Ngôi tháp bằng đá (Phnom Bakheng) ở ngoài cửa thành hướng Nam nửa dặm, người ta thuật lại rằng ông Lỗ-Ban (Lou-Pan) vị kiến trúc sư Trung Hoa theo huyền thoại đã xây cất trong một đêm (11). Ngôi mộ của ông Lỗ-Ban (Angkor Wat) ở ngoài cửa Nam lối một dặm, trong một vòng thành gần mười dặm, có hàng trăm căn nhà bằng đá.

Hồ nước Đông (12) ở cách châu thành lối mười dặm về hướng Đông. Giữa hồ có một ngôi tháp và nhiều căn phòng bằng đá (đền Mébon ở hướng Tây). Trong tháp có một tượng Phật nằm bằng đồng, tại lỗ rún nước vọt ra không ngừng.



Hồ nước Bắc (13) ở cách châu thành năm dặm về hướng Bắc. Giữa hồ có một ngôi tháp vuông (Néak Pean) và hàng chục căn phòng bằng đá. Tượng sư tử bằng vàng, tượng Phật bằng vàng, tượng voi, bò, ngựa bằng đồng đều có tại đó.

  1. Dịch đúng nguyên văn. Ông Abel Rémusat dịch Ville Royale: Hoàng thành; ông Paul Pelliot dịch Ville Murée: Thành phố có vách tường bao quanh.

  2. Nguyên văn là “Thạch tướng quân” (Che-tsing-kiun), ông Paul Pelliot dịch: généraux de pierre.

  3. Tượng rắn và tượng đá ngày nay vẫn còn, rắn chỉ có bảy (7) đầu, không phải chín (9).

  4. Nguyên văn là trượng, mỗi trượng dài lối 3 th 20 vị chi hơn 6 thước, nhưng không đúng, tường thành Angkor cao từ 7 đến 8 thước. Ông Paul Pelliot dịch là toise, lối đo ngày xưa bằng 1 th 949.

  5. Loại cây người Miên cà nát thân cây thành một thứ bột, ta gọi là bột mì-dè làm bánh rất ngon.

  6. Tác giả mô tả Angkor Thom là nơi Hoàng triều Chân-Lạp ngự trị thời ấy. Giữa trung tâm thành phố là đền Bayon. Ông Paul Pelliot dịch: au centre du royaume: ở giữa lãnh thổ.

  7. Bayon là ngôi đền bằng đá có nhiều tượng thần bốn mặt thật lớn. Ngôi tháp bằng vàng ở giữa đã được các đấng Tiên Vương Cao Miên dời đi lúc bỏ đế đô Angkor hoặc bị quân Xiêm cướp mất.

  8. Những chữ trong dấu ngoặc là tên ngôi đền mà tác giả không ghi.

  9. Nguyên văn là Bá Thương, người đi buôn bằng ghe, thuyền, ở đây nói các thương gia Trung-Hoa chở hàng hóa bằng thuyền đến Chân-Lạp.

  10. Tất cả tượng Thần, ngôi tháp, cây cầu, tượng sư tử bằng vàng đều bị quân Xiêm và Chiêm Thành vét khi tấn công vào Angkor. Có thuyết cho rằng vua Cao-Miên lúc chạy loạn đã bỏ một số nhiều dưới hồ Baray ở hướng Tây.

  11. Theo huyền thoại Cao-Miên, vị thần kiến trúc sư Vieva-karman xây cất các ngôi đền bằng đá ở vùng Angkor.

  12. Tác giả viết sai: Hồ nước này ở hướng Tây vì tượng Phật nằm sau này được tìm thấy trong ngôi đền Mébon ở hướng Tây. Hồ này hiện nay còn hai phần ba nước thật trong.

  13. Hồ này đã khô cạn từ lâu, mặt đất hóa thành rừng không còn dấu vết gì ngoài ra ngôi đền Néak Pean, ta gọi là Tháp Rồng vấn.

 

 

2. CUNG THẤT (1)

Cung điện nhà vua cùng các công sở và dinh thự quí phái đều xây cửa về hướng Đông. Cung Vua ở về phía Bắc ngôi tháp và cây cầu bằng vàng; gần cửa ra vào (2) bề dài vòng quanh cung lối năm hay sáu dặm. Ngói lợp gian chánh của cung Vua bằng chì, trên nóc các điện khác của Hoàng cung đều lợp ngói làm bằng đất sét màu vàng. Những cây đà ngang và cột thật lớn đều có chạm hình Đức Phật và sơn màu. Nóc cung thật là hùng tráng (3). Những mái hiên dài, những con đường hẹp có mái che xây thẳng tắp và so le có đôi phần điều hòa (4). Tại đây, nơi nhà Vua thiết triều có một cửa sổ bằng vàng, bên mặt và bên trái của khuôn cửa, trên những cây cột vuông có từ bốn mươi đến năm mươi tấm kiếng treo bên cạnh cửa. Phần dưới cửa là hình voi (5).

Tôi nghe nói ở trong cung có nhiều nơi lạ lùng lắm, nhưng lịnh cấm vô cùng nghiêm nhặt và tôi không thể nào thấy được.

Ban đêm, nhà Vua ngủ trên chót ngôi tháp bằng vàng ở giữa cung. Tất cả dân chúng tin chắc rằng trong tháp có một vị Thần là con rắn chín đầu, chủ tể cả giang sơn. Mỗi đêm Thần biến thành đàn bà đến ân ái với nhà Vua trước. Các bà vợ Vua cũng không dám vào. Canh hai, nhà Vua ra khỏi phòng, bấy giờ mới có thể ngủ với Hoàng-hậu hoặc các cung phi. Nếu đêm nào vị Thần không xuất hiện đó là ngày chết của nhà Vua (6) đã đến. Nếu nhà Vua (7) vắng mặt trong một đêm, chắc chắn ngài sẽ gặp một tai họa (8).

Dinh thự của các vị Hoàng-thân và các quan lớn xây cất khác kiểu hơn nhà dân chúng. Tất cả phần ngoại diện đều lợp tranh, chỉ có nơi thờ phụ! ng của gia đình và gian phong chánh có thể lợp ngói. Ngạch trật quân, công chánh thức hạn định khuôn khổ căn nhà từng người.

Nhà của dân chúng chỉ lợp tranh, họ không dám để trên nóc nhà họ một miếng ngói nào cả. Kích thước ngôi nhà tùy theo tài sản của từng người, nhưng không bao giờ họ dám bắt chước kiểu nhà của hạng quí tộc.

  1. Tác giả mô tả tất cả các loại nhà cửa, dinh thự cung điện. Ông Paul Pelliot dịch: Les habitations: Nhà cửa, ông Abel Rémusat dịch: Cung Điện.

  2. Ngày nay không ai biết cửa nào!

  3. Nguyên văn: Ốc Đầu Trang Quán, ông Paul Pelliot dịch: Les toits sont imposants. Năm 1902, chính ông dịch: Le corps de bâtiment est magnifique: thân nhà (cung điện) tuyệt đẹp. Ông Abel Rémusat dịch: Le sommet se termine par un magnifique donjon: trên chót có một cái tháp nhỏ tuyệt đẹp.

  4. Nguyên văn: Xảo Hữu Qui Mô: phần điều hòa không được hoàn toàn tốt đẹp.

  5. Ông Paul Pelliot dịch: Kỳ Hạ Vi Tượng Hình: Le bas de la fenêtre es en forme d’éléphant, nhưng ông chua rằng “tuy nhiên chữ tượng có thể là hình tượng gì khác chớ không phải chỉ dịch là con voi”. Đúng ra, đó là hình con voi.

  6. Trong bản dịch của ông Paul Pelliot có thêm chữ “man rợ” le roi barbare, đúng theo nguyên văn là Phiên Vương, chúng tôi lược bỏ.

  7. Huyền thoại nầy có lẽ bắt nguồn từ theo lời truyền tụng từ buổi sơ khai vị Hoàng tử Prah Thong cưới Công chúa Thủy Tề là con gái vua Rắn chín đầu, được Vua Cha uốn cạn vùng nước biển lập ra quốc gia Cao Miên. Sau đó, nhà Vua nào cũng phải cưới một Công chúa Rắn.

 

 

3. PHỤC SỨC (Cách ăn mặc)

Tất cả mọi người, bắt đầu từ nhà Vua, đàn ông và đàn bà đều bới tóc để vai trần. Họ chỉ quấn giản dị ngang lưng một miếng vải. Khi ra đường, họ quấn thêm một mảnh vải lớn chồng lên miếng nhỏ. Có nhiều qui tắc dùng hàng vải tùy theo phẩm trật của mỗi người. Trong các loại hàng của nhà Vua mặc có loại giá từ 3 đến 4 lượng vàng thật lộng lẫy và xinh đẹp vô cùng. Mặc dầu người trong nước cũng có dệt hàng vải và có mua của nước Xiêm và Chiêm-Thành nhưng loại dệt khéo và mảnh dẻ được quí trọng nhất thường ở Ấn độ (1) đưa đến.


Chỉ có nhà Vua (2) mới có thể mặc hàng vải thêu dính liền nhau. Ngài đội một cái mão bằng vàng giống như mão trên đầu các tượng Phật kim cương (3). Đôi khi Ngài không đội mão chỉ quấn một vòng hoa mùi hoa lài xung quanh đầu tóc. Trên cổ, Ngài đeo hột trai thật lớn nặng lối ba cân. Ở cổ tay, cổ chân (4) và ngón tay, Ngài đeo vòng và nhẫn vàng, tất cả đều nhận ngọc mắt mèo. Nhà Vua đi chân không. Gan bàn chân và lòng bàn tay của Ngài nhuộm thuốc màu đỏ (5). Khi ra ngoài, Ngài cầm một thanh gươm vàng (6).

Trong dân gian, chỉ có đàn bà được nhuộm gan bàn chân và lòng bàn tay, đàn ông không dám nhuộm. Các vị quan to và các Hoàng thân được mặc hàng vải thuê hoa thưa. Các quan lại tầm thường chỉ được mặc hàng vải thêu hai khóm hoa. Trong dân gian chỉ có đàn bà được phép mặc các loại hàng ấy. Nhưng nếu có người Tàu mới đến mà mặc loại hàng có hai khóm hoa người ta cũng không dám buộc tộ! i vì lẽ “ám đinh bát sát”. Ám đinh bát sát là không biết luật lệ (7).


4. QUAN THUỘC (Quan chức)

Trong nước này cũng có thừa tướng, tướng soái (8), quan coi thiên văn và các quan chức khác, dưới họ có nhiều hạng chức việc nhỏ, chỉ có danh xưng khác với tên gọi của chúng ta. Đại để chỉ có các vị Hoàng thân được giao phó trách nhiệm, nếu không, người được chọn làm quan phải nộp con gái làm phi tần. Khi các quan chức ra ngoài, những biểu hiệu và đoàn tùy tùng được qui định theo cấp bậc của mình. Các vị quan lớn ngồi trên kiệu gọng khiêng bằng vàng có bốn cây lọng cán vàng; các quan kế tiếp ngồi kiệu gọng vạng và một cây lọng cán vàng, dưới nữa là quan chỉ có một cây lọng cán bằng bạc; cũng có quan ngồi kiệu gọng khiêng bằng bạc. Quan chức nào được che lọng vàng gọi là ba-đinh (pa-ting) hoặc ám-đinh (ngan-ting), quan nào được che lọng bạc gọi là tê-lạc-đích (sseu-la-ti) (9). Tất cả lọng đều làm bằng loại vải mỏng màu đỏ của người Tàu và thân lọng buôn dài tới đất. Loại lọng nhúng dầu đều làm bằng vải mỏng màu xanh lá cây và thân lọng ngắn.

  1. Nguyên văn: Tây Dương, tiếng gọi nước Ấn độ thời ấy.

  2. Ông Paul Pelliot dịch là “le prince”: ông Hoàng.

  3. Chính là tượng thần Bà-la-môn. Ông Paul Pelliot dịch thẳng là Vajvadhara.

  4. Tục lệ đeo vòng ở cổ chân (kiềng cẳng) ngày nay phụ nữ Miên còn giữ. Đàn ông không còn mang vòng ở tay và ở chân.

  5. Tục lệ này ngày nay không còn.

  6. Gươm vàng gọi là Prak Khan biểu hiệu của nhà Vua, tương truyền do thần Indra (Vị thượng đế của đạo Bà-la-môn) tặng cho các đấng tiên vương Cao-Miên, bề dài non một thước tây, cán bằng vàng, lưỡi bằng sắt, gần cán có chạm nổi hình Thần Indra, Vishnou, Civa, vỏ gươm cẩn vàng. Vị quốc vương kế nghiệp nhận gươm trong ngày lễ đăng quang và cầm theo lúc ra ngoài thành. Hiện nay thanh gươm vẫn còn trong Triều Vua Cao-Miên do các tu-sĩ Bà-la-môn (Bakou) gìn giữ, mỗi tuần vị Tu-sĩ trưởng rút ra khỏi vỏ một lần.

  7. Danh từ “ám đinh bát sát” nghĩa là “người ngu dốt không biết gì cả”, có lẽ được dùng thường vào thời ấy ở Trung-Hoa. Ông Paul Pelliot phiên âm “Ngan Ting Pa Cha” và cho rằng tác giả muốn viết theo tiếng Cao-Miên: mình đàng – ngan ting là không biết, nhưng đến chữ pa-cha thì không có chữ Miên!

  8. Ông Paul Pelliot dịch: Ministre: Tổng trưởng, Géneraux: Đại tướng.

  9. Cả ba danh từ: ba-đinh, ám-đinh, tê-lạc-đích ngày nay không ai biết là quan chức gì ở thời ấy.

 

 

5. TAM GIÁO (Ba ngành tôn giáo)

Các nhà học giả gọi là ban-cật (pan-ki) (1), Sư sãi gọi là đinh-cô (tch’ou-kou) (2), tín đồ đạo giáo gọi là bát-ti-duy (pa-sseu-wei).

Đối với giới học giả (pan-ki), tôi không biết họ tự xưng theo kiểu nào, theo nguồn gốc nào, cũng không nghe nói học ở trường nào và cũng khó biết được họ đọc sách gì. Tôi chỉ thấy họ ăn mặc như mọi người ngoại trừ một đoạn dây nhỏ bằng chỉ trắng cột trên cổ là dấu hiệu đặc biệt của giới này. Các nhà học giả phục vụ Triều đình thường làm quan lớn. Đoạn dây ở cổ được họ đeo luôn suốt đời.


Các sư sãi cạo trọc đầu, mặc áo vàng, để trần vai mặt, phía dưới thân quí vị vận một cái chăn vải vàng và đi chân không. Chùa của quí vị có thể được lợp ngói. Giữa chùa chỉ có một tượng giống hệt Đức Thích-Ca Mâu-Ni và quí vị gọi là Bột-lại (Po-lai) (3). Tượng mặc áo đỏ, tạc bằng đất sét, người ta sơn nhiều màu; ngoài ra không có tượng nào khác. Các tượng Phật để trên tháp khác hẳn tượng này, tất cả đều đúc bằng đồng, không có chuông, trống, chập chỏa, lá phướng, tàn kiệu, v.v…. Nhà sư ăn cá và thịt nhưng không uống rượu. Trong lễ vật cúng Phật người ta cũng dùng cá và thịt. Sư dùng cơm mỗi ngày một lần tại nhà người dân cúng; trong chùa không có bếp nấu. Kinh sách sư đọc có rất nhiều, tất cả đều viết trên lá gồi chồng lên nhau thật đều đặn.

Các nhà sư viết chữ đen t! rên lá ấy, nhưng vì sư không dùng viết và mực nên tôi không biết sư viết bằng vật gì (4). Vài vị sư có quyền ngồi võng và che lọng với gọng khiêng và cáng bằng vàng hay bạc (5); nhà Vua tham khảo ý kiến quí vị khi có việc quan trọng. Không có ni-cô Phật giáo.

Tín đồ đạo giáo ăn mặc hoàn toàn giống mọi người, ngoại trừ trên đầu có đội một miếng vải đỏ hoặc vải trắng theo kiểu khăn Cổ-cô (Kou-kou) của phụ nữ Mông Cổ, nhưng hơi thấp hơn. Họ cũng có đền thờ nhỏ hơn chùa Phật, đó là vì tín đồ đạo giáo không được đông đảo như sư sãi theo Phật giáo. Họ không thờ tượng nào ngoài một cục đá (6) giống như cục đá ở bàn thờ Thổ thần ở Trung Hoa. Đối với họ tôi cũng không biết họ tu theo nguồn gốc nào. Có tín đồ phụ nữ. Đền thờ đạo giáo có thể được lợp ngói. Tín đồ không dùng cơm của kẻ khác, không ăn uống nơi công cộng. Họ không uống rượu. Tôi không được nghe họ tụng kinh và không thấy họ làm công quả cho mọi người.

Trẻ con ngoài đời trước tiên đều vào trường học (7) do các vị sư sãi dạy dỗ. Đến tuổi trưởng thành chúng trở về cuộc sống thế tục. Tôi không thể quan sát tất cả từng chi tiết.

  1. Tác giả muốn nói các tu sĩ Bà-la-môn pan-ki do chữ pandita nghĩa là tu sĩ Bà-la-môn, giới trí thức thời ấy.

  2. Do tiếng Thái-lan: Chaoku: Sư Sãi.

  3. Đúng là chữ Preah, tác giả là người Tàu nói trại ra.

  4. Người Miên dùng mũi kim viết trên lá gồi, đoạn thoa lọ nồi hoặc lọ chão lên, màu đen dính vào nét chữ lộ hẳn ra.

  5. Đó là vị Sải cả coi sóc Giáo phái trong toàn quốc gọi là Vua Sải, hiện thời vẫn còn chức vụ ấy.

  6. Chính là khối đá tạc hình dương vật của thần Civa gọi là Linga.

  7. Ở Cao Miên mỗi ngôi chùa Phật có một lớp học do sư sãi dạy. Trẻ con trong làng đều vào học chữ và kinh kệ. Cổ tục ấy vẫn còn được duy trì đến ngày nay.

 

 

6. NHÂN VẬT

Dân chúng chỉ biết phong tục của giống man rợ ở miền Nam. Về dung mạo thì thô lỗ, xấu xí và thật đen. Đó không phải chỉ là trường hợp của những kẻ cư ngụ trong vùng biệt lập trên các hòn đảo ngoài biển, mà đối với những kẻ ở tại các bộ lạc thông thường chắc chắn cũng giống như vậy. Về phần các bà ở trong cung và phụ nữ các nhà quí phái, nếu có nhiều người trắng như ngọc thạch là vì họ không thấy ánh sáng mặt trời. Toàn thể đàn bà cũng như đàn ông chỉ mặc một mảnh vải quấn ngang hông, để trần bộ ngực trắng như sữa, bới đầu tóc và đi chân không; các bà vợ vua cũng ăn mặc như vậy. Nhà Vua có năm vợ, một bà ở cung chính giữa và bốn bà ở bốn hướng, còn về phần cung phi và thị nữ ở trong cung, tôi nghe nói ba ngàn đến năm ngàn phân ra nhiều hạng; các bà ít khi ra khỏi cung.

Mỗi lần tôi vào triều kiến nhà Vua, Ngài luôn luôn ngự ra với bà vợ thứ nhất và ngồi trong khuôn cửa sổ vàng của ngôi điện chánh. Các bà trong cung đều đứng thành hàng có thứ tự hai bên mái hiên và phía dưới cửa sổ, nhưng lại đổi chỗ và tựa vào cửa để nhìn chúng tô, nhờ đó tôi có thể ngắm họ rõ ràng.

Gia đình nào có con gái đẹp, tất được triệu nạp vào cung. Dưới các cung phi là những bà phụ trách việc đi lại trong cung Vua gọi là Trần-gia-lan (tch’en-kia-lan) tổng số không kép một hay hai ngàn. Tất cả đều có chồng và sống trong dân chúng khắp nơi, nhưng trên trán họ cạo tóc theo lối người phương Bắc “mở đường nước” (1). Họ thoa phẩm đỏ chỗ cạo ấy và hai bên màng tang, đó là dấu hi�! �u đặc biệt của họ. Chỉ có các bà này mới được vào cung, tất cả người nào thuộc hạng dưới họ không vào được. Họ đi liên tiếp không ngừng trên các con đường phía trước và phía sau cung Vua.

Phụ nữ bình dân bới đầu tóc nhưng không dắt trâm, không có lược, không có đồ trang sức gì cả. Họ đeo vòng vàng ở cổ tay, nhẩn vàng ở ngón tay, cả những cung phi và các bà ở trong cung đều đeo như vậy. Đàn ông và đàn bà luôn luôn xức dầu thơm mùi bạch đàn, xạ hương và các mùi khác. Tất cả các gia đình đều thờ Phật.

Trong nước nầy có rất nhiều phụ nữ “làm hai nghề” (2) hằng ngày đi từng nhóm mười tên hoặc nhiều hơn trên công trường chợ. Thường thường bọn chúng tìm cách quyến rũ người Tàu để lấy những món quà quý giá. Thật là xấu xa, thật là đê tiện.

 


7. SẢN PHỤ (Sanh sản)

Vừa mới sinh xong, người đàn bà bổn xứ lấy cơm nóng lăn muối để vào bộ phận sinh dục. Sau một ngày một đêm, sản phụ lấy miếng cơm ra. Nhờ đấy sự sanh nở không biến chứng gì tai hại và giúp sản phụ trở lại như một cô gái còn trinh. Khi mới nghe lần đầu, tôi ngạc nhiên và không tin. Nhưng khi người con gái trong gia đình tôi trọ “nằm chỗ”, tôi được dịp hỏi đầy đủ chi tiết, hôm sau, cô ả bồng đứa bé xuống sông tắm, thật hết sức lạ lùng.

Ngoài ra tất cả những người tôi quen đều nói rằng đàn bà xứ này rất đa tình. Một hay hai ngày sau khi sinh nở, họ gần chồng ngay. Nếu người chồng không đáp lại sự đòi hỏi của họ thì sẽ bị bỏ rơi như ông Mãi-Thần (3). Nếu người chồng có việc phải đi xa vài đêm thì được, nhưng quá mười đêm, người vợ tất nhiên phải nói: “Tôi không phải là một hồn ma, làm sao tôi có thể ngủ một mình được?”

Bản tính dâm đãng của họ rất mãnh liệt, tuy nhiên, tôi cũng nghe nói có người giữ được trinh tiết với chồng. Phụ nữ rất mau già có lẽ vì họ lấy chồng và sanh sản quá sớm. Năm hai mươi hoặc ba mươi tuổi họ giống đàn bà Tàu bốn mươi hoặc năm mươi.

 

8. THẤT NỮ (Gái chưa chồng)

Khi một gia đình sanh con gái, người cha và người mẹ không quên van vái: Vái cho con sau này thành vợ của trăm và ngàn người chồng”!

Giữa năm bảy và chín tuổi đối với con gái nhà giàu, và riêng năm mười một tuổi đối với kẻ thật nghèo, người ta nhờ một tu sĩ Phật giáo hoặc Bà-la-môn phá tân. Người ta gọi lễ ấy là Trận-Thảm (Tchen-T’an) (4).

Mỗi năm chánh quyền lựa một ngày trong tháng tương đương với tháng tư của Trung-Hoa và truyền rao cho khắp nước biết. Gia đình nào có con gái dự lễ Trận-Thảm phải báo trước với chánh quyền và viên chức phụ trách trao cho họ cây đèn cầy có khắc một cái dấu. Đến ngày định trước, khi trời sập tối, người ta đốt cây đèn cầy và khi đèn cháy tới dấu thì lễ Trận-Thảm bắt đầu.

Trước ngày ấy một tháng hoặc mười lăm ngày, hoặc mười ngày, cha mẹ cô gái lựa một tu sĩ Phật giáo hay Bà-la-môn tùy nơi họ ở. Thường thường các ngôi chùa Phật và đền thờ Bà-la-môn đều có khách riêng. Các vị sư hảo hạng tu theo đường lối cao siêu được những gia đình quan lớn và phú hộ đặt trước, còn những người nghèo thì không có thì giờ rổi rảnh mà chọn lựa. Quan chức và phú gia dâng tặng tu sĩ rượu, gạo, hàng vải, tơ lụa, vật dụng bằng bạc nặng đến trăm tạ và trị giá từ hai đến ba trăm lượng bạc trắng của Trung Hoa. Tặng phẩm ít hơn có từ ba mươi đến bốn mươi, hoặc từ mười đến hai mươi tạ tùy theo gia sản của mỗi người. Nếu những cô gái nghèo đến mười một tuổi mà chưa làm lễ phá tân là tại không thể gánh nổi các tổn phí ấy. Cũn! g có người cho các cô gái nghèo tiền sở phí cuộc lễ Trận-Thảm và người ta gọi đó là “thực hành một việc tốt đẹp”. Một nhà sư chỉ có thể phá tân một cô gái trong năm và khi nhận tiền của một người rồi, sư không được hứa với kẻ khác.

Đêm ấy, người ta tổ chức một đại tiệc có âm nhạc. Giữa lúc đó, thân nhơn và láng giềng tựu họp ngoài cửa, trên các bục cao có để tượng người và thú vật nắn bằng đất sét, có khi nhiều hơn mười có khi ba hay bốn tượng. Người nghèo không có làm như vậy. Đấy là theo những phong tục xưa cũ và chấm dứt sau bảy ngày.

Mặt trời sắp lặn, người ta khiêng kiệu, cầm lọng đi theo giàn nhạc đến rước vị tu sĩ. Người ta che hai cái rạp bằng hàng lụa nhiều màu, cô gái ngồi trong một rạp, vị tu sĩ ngồi rạp kia. Người ta không thể nghe họ nói những gì, tiếng nhạc ồn ào và đêm ấy không có lịnh cấm làm náo động.

Tôi nghe nói rằng đến giờ hành lễ, vị tu sĩ vào rạp của cô gái dùng bàn tay phá tân và nhúng tay ấy vào rượu. Người ta còn nói rằng cha mẹ, thân nhơn và láng giềng lấy rượu ấy chấm trên trán hoặc uống nữa. Cũng có người nói vị tu sĩ phá tân cô gái thật sự, có người nói không có. Vì lẽ người ta không cho phép người Tàu chứng kiến các việc ấy nên không thể nào biết rõ ràng sự thật.

Sáng lại, người ta đưa vị tu sĩ trở về bằng kiệu, lọng và giàn nhạc. Phải lập tức xin vị tu sĩ cho chuộc cô gái bằng hàng vải và tơ lụa, nếu không cô ấy sẽ vĩnh viễn thuộc quyền của vị nầy và không được gã cho người nào khác.

Những gì tôi trông thấy diễn ra ! trong đ�! �m thứ sáu, tháng tư năm Đinh-Dậu (Ting-yeou), niên hiệu Đại-Đức (Ta-to) (nhằm ngày 28 tháng tư D.L 1297). Trước cuộc lễ, cha mẹ và con gái ngủ chung một phòng, từ đó về sau, cô gái bị loại khỏi nhà và muốn đi đâu thì đi, không bị cấm đoán và gìn giữ.

Trong lễ cưới, dù tục lệ có điểm tặng hàng lụa, đó là một hình thức không quan trọng, nhiều kẻ ăn ở với nhau trước rồi mới cưới sau, phong tục không cho đó là điều xấu hổ, không đáng ngạc nhiên.

Trong đêm có lễ Trận-Thảm, có khi tại một xóm hơn mười nhà cử hành lễ. Giữa thành phố, đoàn người rước nhà sư hoặc vị tu sĩ chạm trán khắp đường xá; không nơi nào mà người ta không nghe tiếng nhạc trổi.

  1. Nguyên văn: Nhị hình nhân là đàn bà “làm hai nghề”, có nghĩa là gái giang hồ. Có thuyết lại cho là kẻ ái nam ái nữ. Ông Paul Pelliot dịch là Mignon: kẻ được thương mến hãnh thần, long dương của Vua, Chúa.

  2. Châu-Mãi-Thần (Tchou-Mai-Tch’en) sanh năm nào không ai biết, mất năm 116 trước Thiên Chúa, là một tiều phu bị vợ bỏ vì nghèo. Sau ông được vời làm quan, bà vợ đến xin tái hợp, ông đổ chén nước xuống đất bảo hốt lại được thì ở. Bà vợ mắc cỡ thắt cổ chết.

  3. Trong tạp chí của trường Bác Cổ Viễn Đông số 2 năm 1902, trang 153, ông Paul Pelliot giải thích rằng: “Lễ Trận-Thảm chắc chắn là một chuyện ghi chép theo lời đồn mà chưa được sửa chữa kỹ lưõng. Cuộc lễ này không còn để lại di tích gì ở Cao-Miên ngày nay. Phận sự của nhà sư Phật giáo trong lễ cưới không quan trọng gì cả.
    Ông Aymonier (nhà khảo cổ Pháp) cho rằng: “Người Tàu ngụ ở Cao Miên đã tưởng tượng và phóng đại câu chuyện này do một vài cuộc lễ bí mật lúc cô gái đến tuổi cập kê, ví dụ: “lễ vào bóng mát” (một cuộc lễ theo phong tục Ấn Độ chứng nhận cô gái đến tuổi có chồng, sau lễ ấy cô gái mới có quyền lập gia đình). Chúng tôi cũng đồng ý cho rằng người Tàu đã thi vị hóa bài tường thuật một cuộc lễ mà họ không được mời dự, nhưng không có điểm nào chứng chắc rằng việc ấy không có một căn bản thật sự. Ngày nay các cô gái ở Cao-Miên không bao giờ lập gia đình trước năm 15 tuổi, nhưng vào cuối thế kỷ 17, theo ông De La Loubère viết trong quyển “Description du Royaume de Siam xuất bản ở Amsterdam (Hòa Lan) năm 1714, trang 155″ thì ở Thái Lan các cô gái khởi sự sinh con năm 12 tuổi, đôi khi còn sớm hơn và toàn thể thì không có ai ở một mình đến năm 40 tuổi. Tục lệ buộc họ có chồng rất sớm và con trai cũng có vợ vào tuổi ấy. Về sự giải thích sai lạc những qui điều của cổ tục Pratimoksa (cuộc lễ chứng nhận các cô gái đến tuổi lấy chồng) do các tu sĩ đảm nhận hành lễ thì ta có thể cho rằng cổ nhân muốn cho mọi người phải tuân theo cổ lệ mà thôi”. !
    Ông Paul Pelliot thuật lại rằng: “Chúng tôi có đọc hai mẫu chuyện của người Tàu nói về vấn đề này. Căn cứ theo tài liệu ấy thì hình như cả hai không có liên quan với bài của ông Châu-Đạt-Quan nhưng có vài điểm giống nhau. Bài thứ nhất trích trong tập “Doanh nhai thắng lãm” (Ying yai cheng lan) của ông Mã-Hoan (Ma-Houan) tự Vĩnh Lạc (Yong Lo), xuất dương du lịch theo ông Trịnh-Hòa (Tcheng Ho) năm 1413. Bài thứ nhì trích trong quyển “Đồ thơ tập thành” (T’ou chou sti tch’eng) nguyên tựa là “Khâm định cổ kim đồ thơ tập thành” mụb Biên-Duệ-Điển (Pien-yi-tien) nói về nước Xiêm như sau:
    “Trong lễ cưới, các sư sãi đi trước đưa chú rễ đế nhà cô dâu. Một ông sư phá trinh cô gái và chấm dấu đỏ trên trán tân lang. Lễ này gọi là Lợi-Thị (Li-Che) nghĩa là “cái chợ của hạnh phúc”. Thật là bỉ ổi! Trong vòng ba ngày, nhà sư và cha mẹ cô gái đưa tân nhơn đến nhà chú rễ bằng ghe có đem theo trầu cau. Nơi ấy, một đại tiệc có âm nhạc được tổ chức vui vầy”.
    Trong quyển Bách khoa tự điể “Tam tài đô hội” (San ts’ai t’ou hoei) xuất bản vào cuối thế kỷ 16 do danh sĩ Vương Kỳ (Wang-K’i) soạn có một đoạn ở giữa hai câu chuyện trên đây:
    “Khi một cô gái lên 9 tuổi, người ta nhờ một vị tu sĩ tụng những bài kinh và áp dụng luật Fan (Brahmâ) cho cô bé. Tu sĩ dùng ngón tay phá trinh cô gái và chấm dấu đỏ trên trán. Ông cũng chấm trên trán bà mẹ nữa. Ấy là lễ Lợi-Thị (Li-Che). Sau đấy, đến ngày thành hôn, cô gái luôn luôn vui vẻ và sung sướng. Tất c! ả thi�! �u nữ đều lập gia đình vào năm 10 tuổi”.

 

 

9. NÔ TÌ (1) (Tôi tớ)

Người ta mua những dân man rợ bắt làm công việc của kẻ nô-tì. Người có nhiều nô-tì nhất là trên một trăm tên, người có ít hơn là từ mười đến hai chục tên, chỉ có kẻ thật nghèo thì không có gì cả. Dân man rợ là những người ở trên núi hoang. Bọn chúng hợp thành một sắc dân riêng biệt mà người ta gọi là bọn cướp “Chàng” (Tchouang) (2). Đem chúng về thành phố, chúng không dám đi ra khỏi nhà. Tại đây, trong cuộc cải vã nếu có người nào gọi địch thủ là “Chàng tặc” thì kẻ kia cảm thấy sự thù ghét thâm nhập đến xương tủy vì lẽ giống dân ấy bị mọi người khinh bỉ. Tên nào còn trẻ và khỏe mạng đáng giá một xấp vải dài lối trăm thước, tên nào già và yếu, người ta có thể đổi bằng ba chục hay bốn chục thước. Dân nô-tì chỉ được phép ngồi và ngủ dưới lầu (3); chúng có thể lên lầu để làm việc nhưng phải quỳ gối chắp hai tay lạy rồi mới được đi tới. Chúng gọi ông chủa là ba-đà (pa-t’o), bà chủ là mể (mi); ba-đà (pa-t’o) nghĩa là cha, mể (mi) là mẹ. Nếu chúng vi phạm một lỗi lầm và bị đánh thì cúi đầu chịu đòn không dám cử động chút nào. Đàn ông và đàn bà bọn chúng ăn ở với nhau, không bao giờ chủ nhân muốn kết tình với chúng.

Nếu ngẩu nhiên một người Tàu đến đó, sau thời gian dài sống cô đơn, lỡ vô ý “giao tiếp một lần” với một trong đám phụ nữ ấy và bị người chủ biết được thì hôm sau ông này từ chối không ngồi chung với anh ta nữa vì anh ta đã giao tiếp với dân man rợ! .

Nếu người đàn bà nô-tì có thai cùng kẻ lạ với nhà chủ và sanh con thì người chủ không cần tìm hiểu kẻ nào là cha của đứa bé vì người mẹ không thuộc giai cấp thường dân và chính ông ta có lợi được thêm đứa nhỏ, đó là những tên nô-lệ trong tương lai.

Nếu bọn nô-tì bỏ trốn và bị bắt thì người ta xâm màu xanh trên mặt, hoặc tròng vào cổ một cái vòng sắt để giữ, có kẻ mang vòng ấy trên cánh tay hay ở cổ chân.


10. NGÔN NGỮ

Quốc gia nầy có một tiếng nói riêng biệt. Mặc dầu âm thanh gần giống nhau, nhưng người Chàm và người Xiêm cũng không hiểu được.

Một gọi là mai (mei), hai: biệt (pie), ba: ti (pei), bốn: ban (pan), năm: bột giám (po-lan), sáu: bột giám mai (po-lan-mei), bảy: bột giám biệt (po-lan-pie), tám: bột giám ti (po-lan-pei), chín: bột giám ban (po-lan-pan), mười: đáp (ta), cha: ba-đà (pa-t’o), bác cũng gọi là ba-đà (pa-t’o), mẹ: mể (mi), cô, dì và láng giềng có tuổi đáng kính trọng cũng gọi là mể (mi), anh: ban (pang), chị cũng gọi là ban (pang), em: bồ ôn (pou-wen), cậu: ngật-lại (K’i-lai), chồng của cô cũng gọi là ngật-lại (K’i-lai) (4).

Theo lối thông thường, những người nầy đảo ngược thứ tự của tiếng nói, ví như chúng ta nói: “người nầy là của Trương-Tam (Tchang-San) đứa em”, thì họ nói: “bồ-ôn (pou-wen) Tchang-San”: Em của Trương Tam; “người nầy là của Lý-Tứ (Li-Sseu) ông cậu”, họ nói: “ngật-lại (K’i-lai) Lisseu” cậu của Lý Tứ (5).

Ví dụ khác, họ gọi nước Trung Hoa là “Bị thế” ( Pei che), ông quan là “ba-đinh” (pa-ting), nhà học giả là “ban-cật” (pan-k’i). Nhưng khi gọi “một ông quan Trung Hoa” thì họ không nói “Pei-che pa-ting” mà nói “pa-ting pei-che”, để gọi “một nhà học giả Trung Hoa”, họ không nói “Pei-che pan-k’i” mà nói “pan-k’i Pei-che”, thường thường họ nói như vậy. Đây là những nét đại lược.

Ngoài ra, các quan chức có ngữ pháp quan lại để thảo luận, các nhà học giả có lối đối thoại chu đáo của giới trí thức, nhà sư và tu sĩ có tiếng nói của sư và tu sĩ, ngôn ngữ ở thành phố và làng mạc khác nhau. Đó cũng khác gì với Trung-Hoa.


11. DẢ NHÂN (Dân man)

Có hai sắc dân man rợ. Sắc thứ nhất là dân biết nói tiếng thông thường, đó là những tên mà người ta bán ở thành phố làm nô-tì. Sắc kia là dân không chịu theo nền văn minh và không biết nói tiếng thông thường. Dân này không ở nhà, chúng dắt gia đình đi lang thang trong núi, đội trên đầu một cái hũ bằng đất sét. Khi gặp một con thú rừng, chúng dùng cung tên hay cây giáo giết chết, lấy đá đập ra lửa nấu nướng rồi cùng ăn với nhau, đoạn tiếp tục đi. Tánh tình chúng rất hung tợn và thuốc độc của chúng rất nguy hiểm. Ngay trong bọn chúng cũng thường giết lẫn nhau.

Trong những vùng gần thành phố cũng có kẻ trồng cây đậu khấu và cây bông để dệt vải. Nhưng vải của họ rất thô mang nhiều hình bông hoa phân biệt khác nhau (6).


12. VĂN TỰ

Những văn kiện thường cũng như tài liệu chánh thức luôn luôn được viết trên da nai hoặc da hoẳng và những vật tương tự nhuộm màu đen. Tùy khuôn khổ theo bề dài hay bề ngang mỗi người tự ý cắt xén. Người ta dùng một loại bột giống như phấn của Trung-Hoa và làm thành thỏi gọi là thoa (so). Cầm thỏi phấn trên tay họ viết chữ trên miếng da mà không bao giờ phai lợt. Khi viết xong, họ dắt thỏi phấn trên vành tai. Nhìn chữ có thể nhận ra do ai viết. Nếu người ta chùi bằng một vật ướt thì trôi mất. Chữ viết lớn rất giống chữ của người Hồi-Hột (Ouigours) (7). Tất cả tài liệu đều viết từ trái sang phải và không từ trên xuống dưới. Tôi nghe nói ở Giả-tiên hải-nha (Asan-qaya) những chữ đọc gần giống chữ Mông-cổ; chỉ có hai hoặc ba chữ không phù hợp với nhau mà thôi. Họ không có con dấu nào cả. Về đơn từ, cũng có những cửa tiệm của người viết thuê.

  1. Trong đoạn này, ông Châu-Đạt-Quan chỉ ghi lại một loại nô-tì là dân man rợ ở trên núi. Ở Cao-Miên thời ấy còn có kẻ nô-tì vì thiếu nợ hoặc dân phiến loạn, quân xâm lăng (Xiêm, Chàm) bị bắt. Ông Paul Pelliot dịch Esclave: Nô-lệ.

  2. Chàng là tiếng người Tàu gọi theo lối phát âm của người Miên. Đây là giống dân ở trên núi phía Tây Biển-Hồ.

  3. Không phải lầu, chính là nhà sàn cao chân của người Miên. Đúng ra phải gọi “dưới sàn nhà”.

  4. Tác giả phiên âm đúng như tiếng Miên. Khi chúng tôi dịch ra theo lối phát âm chữ Nho thì sai bét, nhưng vì cần phải giữ y nguyên văn nên vẫn để như thế, xin quý vị coi những chữ phiên âm theo Việt-ngữ: một: mui, hai: pi, ba: bây, bốn: buôn, năm: pram, sáu: pram-mui, bảy: pram-pi, tám: pram-bây, chín: pram-buôn, mười: đốp, cha: patau, mẹ: mê, anh: bon, em: bon-ôn, cậu: Khlai.

  5. Tác giả so sánh lối nói của người Tàu, chúng ta và người Miên cho họ nói ngược mà họ nói người Miên nói ngược.

  6. Phân biệt tùy theo giai cấp trong xã hội.

  7. Bộ lạc Thổ Nhĩ Kỳ trong lãnh thổ Turkestan.

 

 

13. CHÍNH SÓC THỜI TỰ (Năm, tháng và thời tiết).

Những người nầy luôn luôn dùng tháng mười của Trung-Hoa làm tháng thứ nhứt của họ. Tháng ấy gọi là Giai đắc (Kia-to) (1). Trước hoàng thành, người ta cất một cái rạp lớn có thể chứa hơn ngàn người, và treo đầy đèn, hoa. Phía trước, cách khoảng hai chục trượng, người ta dùng những miếng cây sắp nối tiếp nhau cất một cái rạp cao giống sàn xây các ngôi tháp (2) bề cao hơn hai chục trượng (3). Mỗi đêm người ta cất ba hoặc bốn, hoặc năm, hoặc sáu cái. Trên nóc người ta để pháo thăng thiên và pháo nổ. Tổn phí này do các tỉnh và các nhà quý phái gánh chịu. Tối đến, người ta thỉnh nhà Vua ngự ra dự lễ. Người ta đốt pháo thăng thiên và pháo nổ (4). Pháo thăng thiên bay cao dù ở ngoài trăm dặm cũng ngó thấy; pháo nổ lớn bằng súng bắn đá và tiếng nổ làm rung chuyển cả thành phố. Các quan chức và nhà quý phái góp phần đèn cầy và cau, số tiền tổn phí thật to tát.

Nhà Vua cũng có mời quý vị Sứ thần ngoại quốc (5) tham dự. Cuộc lễ cử hành như thế trong mười lăm ngày rồi ngưng hết.

Mỗi tháng có một cuộc lễ. Tháng tư “người ta liệng trái cầu”. Tháng chín là lễ Áp-lạp (Ya-lie) (6) lễ này gồm có việc tựu họp dân chúng khắp lãnh thổ vào thành phố diễn hành trước hoàng cung. Tháng năm người ta “đi rước nước của Đức Phật”; người ta tập trung tất cả tượng Phật ở khắp các chùa trong lãnh thổ rồi đem nước đến cùng với nhà Vua tắm các tượng ấy. Tháng sáu, người ta “chèo thuyền trên mặt đất”; nhà Vua ngồi trên lầu cao dự lễ. Tháng bảy người ta “đ�! ��t lúa”. Lúc ấy lúa vừa chín, người ta ra ngoài cửa thành hướng Nam gặt lúa và đốt để cúng Phật. Vô số phụ nữ ngồi xe hoặc cởi voi đến dự lễ nhưng nhà Vua vẫn ở trong cung. Tháng tám là lễ Ai-lan (ngai-lan) (7) nghĩa là nhảy múa, người ta chỉ định những kép hát và nhạc sĩ mỗi ngày đến hoàng cung trình diễn, ngoài ra có những cuộc đấu voi hoặc đấu heo. Nhà Vua cũng mời quý vị Sứ thần ngoại quốc đến dự. Cuộc lễ kéo dài mười ngày. Tôi không thể nhớ rõ ràng những lễ gì trong mấy tháng khác (8).

Trong xứ này có người tinh thông khoa Thiên-văn (9) như chúng ta và có thể tính toán nhật thực và nguyệt thực. Tuy nhiên đối với tháng dài và ngắn, họ có một phương pháp tính khác với phương pháp của chúng ta. Trong những năm nhuận họ cũng bị bắt buộc phải có một tháng nhuận, nhưng họ chỉ chen vào tháng chín, đó là điều tôi không biết gì cả.

Mỗi đêm chỉ chia làm bốn canh (10). Bảy ngày là một tuần, cũng tương tự ở Trung Hoa người ta gọi Khai, Bế, Kiến, Trừ (K’ai, Pi, Kien, Tch’ou) (11).

Vì lẽ người bổn xứ (12) không có tên gia đình (13), không có tên người và không ghi nhớ ngày sanh nên phần đông đặt một “tên người” theo ngày trong tuần mà họ chào đời. Có hai ngày trong tuần thật tốt, ba ngày bình thường, hai ngày thật xấu; ngày nào người ta có thể đi về hướng Đông, ngày nào người ta có thể đi về hướng Tây. Phụ nữ cũng biết tính toán xem ngày tốt xấu. Mười hai con thú của chu kỳ cũng giống với mười hai con thú của Trung Hoa (14) nhưng tên gọi khác nhau. Con ngựa gọi là “Bốc-trại” (pou-sai) (15), con gà gọi là “loan” (man), con heo gọi là “trực-lư! 221; (tche-tou), con bò gọi là “cá” (Ko), v.v….

  1. Tác giả ghi đúng theo giọng nói của người Miên, Kiato là Katik: tháng mười. Chúng ta dịch theo chữ Nho không có nghĩa gì cả. Ngày nay người Miên làm lễ Đầu năm vào giữa tháng Tư dương lịch, không còn giữ tục lệ cũ nữa.

  2. Ngôi tháp là Stupa của người Miên, bốn mặt bằng nhau, nóc nhọn.

  3. Tác giả dùng chữ Trượng thật là khó hiểu vì Trượng có 10 thước Tàu, mỗi thước dài 0 mét 32 (ba tấc hai), một trượng dài 3 thước 20, nếu ngôi tháp cao hơn 20 trượng là hơn 64 thước tây. Ông Paul Pelliot dịch là Toise, mỗi toise dài 1m949, ngôi tháp cao hơn 20 toises tức là hơn 38m89! Chắc chắn không có ai cất tháp cao đến mức đó. Theo tự điển Hoa-Pháp của quý vị Cố đạo ở Tứ Xuyên (Sé-tchouan) xuất bản ở Hồng-Kông năm 1893 (trang 513) thì một trượng dài 10 thước (xích) (hơn 3 thước tây); trang 525 giảng chữ xích là lối đo bề dài thay đổi tùy theo địa phương và nghề nghiệp. Theo quyển Trung-quốc Cổ văn đại tự điển của ông F.S. Couvreur tái bản lần II ở Đài Bắc năm 1967, trang 3, thì Trượng là lối đo bề dài bằng 10 xích hay 10 chân; trang 243 giảng chữ xích là chân hay gang tay, bề dài thường thay đổi và chưa thống nhứt trong khắp lãnh thổ Trung Hoa. Dưới đời nhà Châu (1122-255 trước T.C), một thước có 20 phân và hiện thời lối 35 phân. Bề dài của hột kê là một phân, 10 phân là một tấc, 10 tấc là một thước. Dưới đời nhà Hạ (2205-1122 trước T.C) 1 thước có 9 tấc, đời nhà Châu (1122-255 trước T.C) bề dài thì 1 phân là 3 ly, 10 phân là 30 ly, 1 thước là 300 ly bằng 3 tấc Tây (0m30), 1 trượng: 3 thước Tây. Tuy nhiên, đến thế kỷ 13, không biết người Tàu tính một trượng là bao nhiêu, không có tài liệu nào chứng thực.

  4. Pháo do người Tàu đem đến bán. Sau này có nhiều vị sư sãi Miên làm pháo rất khéo đủ cung cấp cho các cuộc lễ quanh năm. Tục lệ đốt pháo hiện nay vẫn còn.

  5. Ông Paul Pelliot dịch: “Ambassadeurs étrangers” là Đại sứ ngoại quốc, chúng tôi nghĩ thuở ấy chưa có Đại sứ ở thường trực trong nước mà chỉ có phái đoàn Sứ giả đến một thời gian rồi về.

  6. Ông Paul Pelliot cho là danh từ Rap Riep của Miên nghĩa là liệt kê, kiểm tra.

  7. Ông Paul Pelliot cho là danh từ Răm của Miên nghĩa là nhảy múa.

  8. Quả đúng mỗi tháng có một cuộc lễ, ngày nay vẫn còn.

  9. Người thông khoa Thiên văn thường là quan chức trong triều gọi là Hora. Hiện thời vẫn còn các vị này mỗi năm soạn quyển lịch gọi là Maha sangkran.

  10. Đúng ra mỗi đêm có năm canh, không hiểu vì sao thuở ấy tác giả ghi bốn.

  11. Khai, bế, kiến, trừ là 4 ngày trong số 12 trực của một tháng. Trực là “gặp”. Người Trung Hoa cho rằng có 12 ngày trực trong năm là “Khai, Bế, Kiến, Trừ, Mãng, Bình, Định, Chấp, Phá, Nguy, Thành, Thu”, mỗi trực tốt, xấu khác nhau và trở đi trở lại suốt năm. Người tin tưởng ở bói toán lựa ngày tốt mà làm việc và tránh ngày xấu, ví như mở cửa tiệm thì lựa ngày Trực Khai, cưới vợ lấy chồng lựa ngày Trực Thành.

  12. Đúng nguyên văn: “Vì lẽ dân man rợ này”, chúng tôi tạm sửa lại cho đẹp.

  13. Tên gia đình là “họ”; người dân Miên không có họ, con lấy tên cha làm họ ví như: cha têng Tong Soklay sanh con đặt là Soklay Nary rồi cháu là Nary Bopha.

  14. 12 con thú của chu-kỳ Cao-Miên giống như lối gọi của người Trung-Hoa và Việt-Nam, chỉ khác tuổi Sửu là con Bò, tuổi Mẹo là con Thỏ.

  15. Tác giả phiên âm gần đúng theo tiếng Miên, chúng tôi dịch theo chữ Nho sai bét: Ngựa: sèk, gà: mon, heo: chruk, bò: kô.

 

14. TRANH TỤNG (Kiện thưa)

Những sự tranh tụng của dân chúng, dù không quan trọng cũng phải đến triều đình nhà Vua xét xử (1). Người ta nói với tôi rằng dân chúng không biết gì về lối xử đánh bằng roi tre hay roi da và chỉ bằng phạt vàng (2) mà thôi. Đối với những trường hợp đặc biệt nặng cũng không có lối xử gião hoặc chém đầu, nhưng ngoài cửa thành hướng Tây người ta đào một cái hố bắt tội phạm nằm xuống, lấp đất và đá lên, chèn ép thật chặt rồi thôi. Đối vơí những trường hợp nhẹ hơn có hình phạt chặt ngón tay, ngón chân và bàn tay hoặc lắt mũi. Tuy nhiên không có luật cấm tội ngoại tình và cờ bạc. Khi người chồng bắt được vợ ngoại tình, anh ta lấy hai mảnh gỗ nhọn cột hai chân tên gian phu rồi xiết chặt lại, tên nầy chịu đau không nổi phải giao hết tài sản mới được tự do. Cũng có người sắp đặt mưu kế để làm tiền giống như bên nước chúng ta.

Nếu người nào thấy một xác chết trước cửa nhà mình thì cột giây kéo ra khỏi thành phố bỏ trên bãi đất hoang; không có sự kiện nào mà chúng ta gọi là một cuộc “xét nghiệm đầy đủ”.

Khi dân chúng bắt được kẻ trộm, người ta có thể áp dụng hình phạt cầm tù và tra tấn. Người ta cũng nhờ một phương pháp đáng chú ý. Nếu có người mất một món đồ và nghi cho người nào ăn cắp mà người ấy không nhận, họ nấu một nồi dầu và bắt buộc kẻ bị ngờ nhúng tay vào (3). Nếu quả thật là kẻ gian thì bàn tay nát tả tơi, trái lại thịt da vẫn lành lặn như trước. Đó là phương pháp kỳ diệu của giống dân này (4).

Ngoài ra, gặp tr! ường hợp hai người tranh tụng mà không biết ai phải ai quấy thì trước hoàng thành có mười hai ngôi tháp đá nhỏ (5), người ta bắt mỗi vị ngồi vào một ngôi, thân nhơn vị nầy canh chừng vị kia. Hai vị ở trong tháp một hoặc hai ngày, hay là ba hoặc bốn ngày. Khi họ ra khỏi tháp, vị nào quấy không thể nào tránh được vài chứng bệnh như nổi mụt nhọt, hoặc đau lỗ mũi, hoặc sốt rét nặng. Vị nào phải thì không có chút gì cả. Do đó họ mới quyết định người công minh chính đại hay kẻ bất lương; họ gọi là “nhà ngục của Trời”. Đây là vị Thần của non sông linh ứng mới có như vậy.


15. BỊNH LẠI (Bịnh cùi)

Người dân xứ nầy thường mắc nhiều bịnh nhẹ mà họ trị rất dễ dàng bằng lối lặn dưới nước và gội đầu liên tiếp (6). Tuy nhiên có rất nhiều người cùi ở từng khoảng trên đường đi. Khi những người nầy đến ngủ chung hay ăn uống chung với họ, dân bổn xứ cũng không phản đối. Có người nói đó là một chứng bệnh phát khởi do tình trạng thời tiết trong xứ. Có một vị Quốc vương mắc phải bệnh này (7), vì thế dân chúng không xem là chứng bệnh đáng ghê sợ. Theo thiển kiến của tôi thì thông thường người mắc bệnh là vì sau khi thỏa mãn xác thịt rồi xuống sông tắm liền, và tôi nghe nói dân bổn xứ ân ái xong luôn luôn đi tắm ngay. Về bệnh kiết lỵ, mười người đau chết từ tám đến chín. Giống ở nước chúng ta, họ bán thuốc ngoài chợ (8), nhưng rất khác các loại thuốc của Trung-Hoa và tôi không biết gì cả. Cũng có loại phù thủy hành nghề ăn tiền thiên hạ; thật là đáng cười.


16. TỬ VONG (Người chết)

Đối với người chết, người ta không dùng quan tài, chỉ dùng một loại chiếu và bó bằng vải. Trong đám táng, họ cũng cầm cờ, phướng và có giàn nhạc đi đầu. Ngoài ra, họ bưng hai mâm gạo rang nổ vãi từng nắm hai bên đường. Họ khiêng xác chết ra khỏi thành phố, đến nơi vắng vẻ không có người ở rồi bỏ đó trở về. Họ đợi kên kên, chó và các thú vật khác đến xé xác. Nếu xác chết bị ăn hết mau chóng, họ nói rằng cha, mẹ họ có phước đức mới được hưởng điều quả báo ấy, nếu xác không bị thú ăn hoặc ăn từng miếng, họ nói rằng cha, mẹ họ mang vài tội lỗi mới có hậu quả như vậy. Hiện thời, dần dần cũng có người hỏa thiêu người chết, đó là đối với phần đông con cháu của người Trung-Hoa. Khi cha hoặc mẹ chết, con không mặc quần áo tang, nhưng con trai cạo đầu và con gái cắt tóc phía trên trán lớn bằng đồng điếu, đó là lối để tang cha mẹ. Nhà Vua được chôn trong ngôi tháp, nhưng tôi không biết người ta chôn thân mình hay chỉ chôn bộ xương (9).

  1. Đúng theo lối xử kiện của Vua Ấn Độ và Cao Miên thời xưa.

  2. Ông Paul Pelliot dịch: phạt tiền.

  3. Tục lệ này có từ triều đại Phù Nam (1-627) nhưng thuở ấy, người Phù Nam nấu nước sôi.

  4. Nguyên văn: của giống dân man rợ này, chúng tôi lược bỏ hai chữ “phiên nhân”.

  5. Mười hai ngôi tháp đá đến ngày nay vẫn còn trước Sân voi gọi là Khléang, chia làm 2 khóm, 6 ngôi ở hướng Bắc và 6 ngôi ở hướng Nam.

  6. Đúng ra là xuống sông tắm hoặc xối nước lạnh trên đầu nhiều lần; lối trị bệnh cảm, nóng của người Miên là thế, đến ngày nay họ vẫn còn giữ phương pháp này. Nơi nào xa sông ngòi, họ xối nước mà thôi.

  7. Theo truyền thuyết thì trong phổ hệ nhà Vua Cao-Miên có một vị Quốc Vương mắc bệnh cùi nhưng trong sử thì không có ghi vị nào cả. Trong quyển “Actes du XIe congrès des Orients” trang 211, nhà khảo cổ Pháp Aymonier đưa ra ý kiến là Vua Yacovarman (889-900). Chúng tôi sưu tập được 2 chuyện về Vua cùi khác nhau, một đã đăng trong tập Truyện cổ Cao-Miên do nhà Khai-Trí xuất bản, một chưa in tập thứ 3. Ngoài ra ở trên Sân voi trong thành Angkor Thom có một tượng đá mang tên là Vua cùi ngồi giữa bốn tượng cung nữ, nhưng các nhà khảo cổ Pháp nghi ngờ cho đó có thể là tượng của Yama vị Diêm vương trong thần thoại Bà-la-môn. Trước chùa Onalom ở thủ đô Phnom-Penh cũng có một tượng Vua cùi đắp giống như tượng ở Angkor Thom nhưng nhỏ hơn và không có tượng cung nữ. Tượng nầy được người Hoa-Kiều van vái thường ngày cầu xin trúng số, đánh đề, đánh cá mưa.

  8. Người Miên ngày nay vẫn còn bán thuốc bằng rễ cây, nhánh, lá, hột ngoài chợ. Tùy theo chứng bệnh, người bán bốc mấy loại khác nhau cho vào một gói bảo nấu nước uống.

  9. Nhà khảo cổ Pháp Aymonier viết trong quyển “Le Cambodge”, trang 48, như vầy:
    “Lễ hỏa táng của nhà Vua cử hành rất trọng thể. Tro tàn được giữ ở hoàng thành trong một cái bình bằng vàng. Chính các vị Hoàng tử làm lễ rước tro về Triều và sau đó đem đặt vào ngôi tháp”.
    Hiện thời, người Cao-Miên cạo đầu và mặc quần áo trắng khi chịu tang.
    Ông Paul Pelliot, nhà khảo cổ Pháp, trong tạp chí của Trường Bác cổ Viễn đông số 2 năm 1902 trang 163 giải thích cách “điểu táng” nghĩa là cho chim chóc ăn xác chết như vầy:
    “Chắc chắn ông Châu-Đạt-Quan không trình bày rõ rệt cách táng người chết của dân Miên thời ấy, nhưng ta cần phải tìm hiểu trong những cổ tục từ bên Tàu đến Cao-Miên xem có điều gì đáng bổ khuyết cho đầy đủ.
    Thoạt tiên thì quả thật phương pháp hỏa táng đã có từ thế kỷ 13 do những người Miên chánh tông truyền đến ngày nay thành một quốc tục.
    Trong quyển sử đời nhà Tùy (Tùy thư: Souei Chou) ở Trung Hoa vào thế kỷ thứ 7 có ghi rằng: “Ở Cao-Miên người chết được khiêng đi rất long trọng, đoạn, người ta đốt xác bằng một loại gỗ thơm, gom tro tàn đựng trong bình vàng hay bạc và đổ xuống sông; người nghèo dùng bình bằng đất nung”.
    Nhưng theo lời họ Châu lại có một lối khác là có người không đốt xác mà đem lên núi cho thú dữ phanh thây.
    Từ đó về sau rất ít người nhắc đến cách táng người như thế, ngoại trừ một vài trường hợp thả trôi sông.
    Ông De Groot, người Anh, có viết trong quyển “Religious system of China” chương III trang 138 về! ba loại táng người chết rất quái gở là:
    – Hỏa táng (houo tsang) thiêu xác bằng lửa.
    – Điểu táng (niao tsang) cho chim ăn thịt.
    – Thủy táng (chouei tsang) thả xác trôi sông.
    Nhưng lời giải thích – hình như trong tập Tùy thư (Souei Chou) – cho rằng vì nghèo khổ mà người Cao-Miên bỏ xác thân nhân cho chim chóc ăn thịt không được đầy đủ lắm. Ấy là một việc thiện, người xưa bắt chước Đức Thích-Ca đã đưa thân mình cho một con cọp cái đang đói để cứu con bồ câu. Người ta hỏi ý kiến bệnh nhân trước khi thở hơi cuối cùng rồi mới đem xác cho thú dữ ăn”.
    Nhà khảo cổ Moura, người Pháp, viết trong quyển “Le Royaume du Cambodge” tập I, trang 354.
    “Vào thế kỷ thứ 19, người ta thấy ở Cao-Miên có một gương tốt nổi tiếng vang lừng: “Sau khi Quốc vương Ang Duong băng hà (năm 1859) người ta lóc thịt của Ngài, cắt từng miếng nhỏ để trên mâm bằng vàng cho chim dữ ăn. Đấy là ý muốn cuối cùng của Ngài vài phút trước khi từ trần”.
    Cả ba lối táng trên đây không thích hợp cho lắm. Khi bầy chim dữ ăn hết thịt rồi, người ta phải đốt bộ xương (chính trong trường hợp của Quốc vương Ang Duong), sau đấy, tất cả mớ xương tàn hoặc còn sót lại chút ít đều được long trọng mang đi ra bờ sông đổ xuống nước.
    Cổ tục nầy không những chỉ riêng ở Cao-Miên có mà thôi, người ta còn thấy trong khắp xứ Đông Dương và Nam Dương.
    Theo lời Hầu tước Hervey de Saint Denys, người Pháp, trong bản dịch quyển Văn Hiến Thông Khảo của Mã-đoan-Lâm trang 470 thì ở nước Xích thổ (Tche T’ou) ! người ! ta cất một giàn hỏa trên chiếc bè giữa sông. Sau khi đốt cháy hết xác chết, người ta ra hiệu xô cả giàn xuống nước. Còn ở Chiêm Thành (Lin Yi: Lâm Ấp) sau khi thiêu xác nhà Vua, Hoàng Tộc hốt tro tàn đựng trong một cái bình vàng quăng xuống biển. Các vị quan to chết thì thân quyến bỏ tro vào bình bằng bạc, quăng tại cửa sông; người nghèo và thường dân thì đựng tro tàn trong bình bằng đất quăng theo giòng nước.
    Trong quyển Tam-tài đô-hội (San Ts’ai T’ou Houei), mục Biên-duệ-điển (Pien-Yi-tien) trang 3, người Tàu có viết rằng:
    “Ở nước Đốn-tốn (Touen Souen), người ta không đợi bệnh nhơn chết hẳn mới đem bỏ xác cho loại chim dữ to bằng con ngỗng ăn”.
    Văn sĩ Raffles, người Hòa Lan, viết trong quyển History of Java, trang 364, rằng:
    “Theo lời những hoạn quan thì ở Java vào thế kỷ thứ 15 có ba lối táng người chết, thiêu xác gọi là O-Bong, quăng xuống xông gọi là A’rung và cho chó ăn thịt gọi là Setra”.
    Vào thế kỷ thứ 15 trong tập Doanh-nhai thắng-lãm (Ying Yai Chen Lan) mục Biên-duệ-điển (Pien-Yi-tien) và trong tập Minh-ngoại-sử (Ming Wai Che) thuật rằng ở Thái Lan người ta bỏ người chết cho giống chim lông vàng xé xác.
    Ông Ribadeneyra, người Bồ Đào Nha, ghi trong quyển “Historia De Las Islas De L’Archipelago” xuất bản ở
    Barcelona năm 1601, trang 182 rằng: “Ông rất kinh sợ khi thấy ở Thái Lan người ta tin tưởng rằng quăng người chết xuống sông là làm một điều thiện. Ở đấy loài sấu và thuồng luồng xơi xác chết. Hoặc họ bỏ xác trong đền thờ cho chim dữ ăn”.
    Ông De la Loubère, người Pháp, ghi trong quyển “Description du Royaume de Siam”, xuất bản ở Amsterdam năm 1714, trang 378 rằng: “Người ta bỏ xác chết như thế vì nghèo. Kẻ nào không có tiền trả công cho các tu sĩ (để làm lễ tống táng), tin tưởng rằng mình đã kính trọng thân nhơn xấu số bằng cách để nằm ngoài đồng trống hay trên một cái giàn cao cho kên kên, quạ quạ ăn thịt”.
    Xem thế, ta thấy lối chôn người chết dưới đất rất hiếm có trong các quốc gia chịu ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ.
    Nhưng tại sao ông Châu-đạt-Quan lại xác nhận rằng những người Cao-Miên giòng giỏi Trung Hoa táng người theo lối hỏa thiêu, trong khi lối nầy ở Tàu không có bao nhiêu người theo?
    Có lẽ ông Châu-đạt-Quan đã ghi quá nhiều về lối điểu táng, kế đó ông hối hả thuật lối đốt xác người mà ông có dự xem và cho là những kẻ thuộc giòng giống của đồng bào ông? Có lẽ lối cho chim ăn đối với ông rất xa lạ, còn lối hỏa táng thì quá quen thuộc?
    Ông De Groot, trong quyển “Religious system of China” tập III từ trang 1391 đến 1417 có nghiên cứu kỹ lưỡng về lịch sử thiêu xác chết ở Trung Hoa. Tục lệ nầy gốc ở ngành Phật giáo và trái ngược với giáo lý đạo giáo của người Tàu được thịnh hành dưới triều Mông-cổ (1260-1368) nhưng không được đa số quần chúng áp dụng.! Người Tàu cho rằng phương pháp ấy làm tiêu mất thân thể quá nhanh nên họ không bằng lòng.
    Nếu có một điều đặc biệt trong những phong tục của người Tàu mà nhà du lịch cổ lỗ nhất của Tây phương – Marco Polo (1254-1324) – chú ý nhất nhất chính là lối hỏa táng. Người Tàu có óc mê tín lấy giấy tiền vàng bạc đốt cho người chết tiêu xài, đấy là mấy đặc điểm được ghi trong những bài tường thuật về hầu hết các tỉnh ở Trung Hoa. Có lẽ Marco Polo đã quen thấy lối chôn người chết ở Âu-Tây tất phải chú ý đến những gì trái ngược khi thấy ở Trung Quốc. Nhưng không phải trong toàn thể lãnh thổ Tàu người ta áp dụng phương pháp ấy mà chỉ ở một vài tỉnh thôi.
    Ông De Groot ghi rằng:
    “Ở tỉnh Triết Giang và Quảng Tây (Tchô-Kiang và Kiang-Si), tục lệ hỏa táng hình như ăn sâu vào óc dân chúng. Ở Triết Giang tất cả giới quan trường đều đốt quan tài ngoài đồng trống”.
    Nhà du lịch Van Braam Houckgeest, người Hòa Lan, sang Trung Hoa vào năm 1795 có hỏi nguyên do vì sao thiêu xác chết thì người ta trả lời bằng một lý luận chống với lối chôn dưới đất như một số người Cao-Miên có nói. Ấy là vì mặt đất rất thấp nên người ta không thể chôn xác, hể chôn thì xác bị ngâm dưới nước. (De Groot, trang 1397, 1400, 1414, 1416).
    Do đó, ta có thể kết luận ý kiến của ông Châu-đạt-Quan đã cho người Cao-Miên nào dùng lối hỏa táng là giòng giỏi người Trung Hoa, bởi vì quê hương ông là tỉnh Triết Giang (Tchô-Kiang), nơi thiêu xác người chết nhiều hơn các tỉnh khác trên đấu Tàu.

 

 

17. CANH CHỦNG (Trồng trọt)

Thông thường, người ta có thể làm ba hay bốn mùa trong một năm; suốt năm thời tiết giống như tháng năm và tháng sáu của chúng ta và dân chúng không biết giá và tuyết là gì. Ở xứ này trời mưa nửa năm, nửa năm kia trời không mưa. Từ tháng tư đến tháng chín, trời mưa mỗi ngày vào xế chiều. Bấy giờ mực nước ở Biển-Hồ có thể lên cao từ bảy đến tám trượng (tchang). Những cây to đều chìm mất chỉ còn ló ngọn. Dân chúng ở trên bờ hồ rút hết vào trong núi. Kế đó từ tháng mười đến tháng ba (năm sau) trời không rớt một giọt mưa! Bấy giờ chỉ có ghe nhỏ đi được trên Biển Hồ; ở nơi sâu có từ ba đến năm chân (1) nước. Dân chúng trở về. Các nhà nông tính theo thời tiết lúc nào lúa chín và vùng đất nào nước có thể ngập lúc ấy mà nhân đó gieo giống tùy cuộc đất. Họ không dùng bò kéo cày. Cây cày, lưỡi hái và cuốc của họ tất cả đều giống vài phần trên nguyên tắc với dụng cụ của chúng ta, nhưng lối kiến tạo hoàn toàn khác hẳn. Ngoài ra có một loại ruộng thiên nhiên lúa mọc luôn luôn không ai gieo trồng; khi nước dân đến một trượng (2) (tchang), lúa cũng mọc cao như vậy; tôi cho rằng đó là một giống đặc biệt.

Họ không dùng một thứ phân nào để bón ruộng và trồng rau vì họ chê dơ dáy. Người Trung-Hoa đến đây không bao giờ cho họ biết lối rải phân (3) ở nước mình vì sợ họ khinh bỉ. Hai hoặc ba gia đình đào chung một cái hố (4) dùng cỏ che ở trên, khi nào đầy họ lấp đất và đào chỗ khác. Sau khi đi sông rồi, họ luôn luôn vào hồ nước rửa, nhưng chỉ dùng bàn tay trái; tay mặt để c�! ��m thức ăn. Khi họ thấy người Trung Hoa đi sông và chùi bằng giấy thì họ chế nhạo đến nỗi không muốn cho người đó vào nhà họ nữa. Trong giới phụ nữ có người đi tiểu đứng thật là đáng cười vô cùng.


18. SƠN XUYÊN (Núi, sông)

Bắt đầu vào Chân-bồ (Tchen-p’ou, Vũng-tàu hay Bà-Rịa) hầu hết cả vùng đều là bụi rậm của khu rừng thấp, những cửa rộng của con sông lớn chạy dài hàng trăm lí, bóng mát um tùm của những gốc cổ thụ và cây mây dài tạo thành nhiều chỗ trú xum xê. Tiếng chim hót và thú vật kêu vang dội khắp nơi. Vào nửa đường trong cửa sông, người ta mới thấy lần đầu cánh đồng ruộng bỏ hoang, không có một gốc cây nào. Xa hơn tầm mắt chỉ toàn là cỏ kê đầy dẩy. Hàng trăm hàng ngàn trâu rừng tựu họp từng bầy trong vùng nầy. Tiếp đó, nhiều con đường giốc đầy tre chạy dài hàng trăm lí. tại mắt loại tre nầy có gai mọc và măng thì có vị rất đắng. Bốn phía có núi cao (5).


19. XUẤT SẢN (Sản vật)

Trong núi có rất nhiều gỗ quí. Vùng nào không có cây là nơi u-tây cùng voi tựu họp và sinh nở. Loại chim quí, loại thú lạ lùng có vô số. Sản phẩm có giá trị là lông chim thằng chài, ngà voi, sừng u-tây, sáp ong. Về sản phẩm thường có cây giáng-chân, đậu-khấu, cây vang-nhựa (họa hoàng), cây cánh-kiến, dầu cây máu-chó (đại phong tử du).

Chim thằng chài rất khó bắt. Trong rừng rậm có nhiều hồ nước và dưới hồ có cá. Chim thằng chài ở trong rừng bay ra kiếm cá. Người bổn xứ núp dưới lá cây trên bờ hồ, treo cái lồng nhốt con chim mái làm mồi tay cầm một miếng lưới nhỏ, rình chim đến gần tung lưới bắt. Có ngày anh ta bắt được ba hay năm con, có khi suốt buổi không có con nào.

Thổ dân sống trong dãy núi hẻo lánh mới có ngà voi. Mỗi con voi chết có hai cái ngà (6). Người ta nói rằng xưa kia voi thay ngà mỗi năm một lần, nhưng điều đó không đúng. Ngà của con thú bị giết bằng giáo là loại tốt nhất. Kế đó là loại ngà người ta tìm thấy sau khi con vật tự nhiên chết ít lâu. Loại kém giá trị là loại người tra gặp trong rừng sau khi con vật chết nhiều năm.

Sáp ong ở trên cây khô trong xóm làng do một giống ong lưng nhỏ như lưng con kiến tạo ra. Người bổn xứ lấy sáp ong. Mỗi thuyền có thể chở từ hai đến ba ngàn tàng ong, tàng lớn nặng từ ba chục đến bốn chục cân, tàng nhỏ nặng không dưới mười tám đến mười chín cân.

Sừng u-tây màu trắng và có gân máu đỏ là loại quý giá nhất, sừng màu đen kém giá trị hơn. Cây giáng-chân mọc trong rừng rậm. Người bổn xứ cắt lấy rất khó nhọc vì l! oại nầy ở trong ruột cây và xung quanh có chất gỗ dác dầy từ tám đến chín tấc, những gốc nhỏ dầy ít nhất từ bốn đến năm tấc.

Tất cả đậu-khấu đều do người man mọi (7) trồng trong núi.

Cây vang-nhựa (họa hoàng) là chất nhựa của một giống cây riêng biệt. Người bổn xứ rạch thân cây một năm trước để nhựa chạy ra và năm sau đến lấy.

Cây cánh-kiến mọc trên nhánh một loại cây đặc biệt và có hình dáng thật giống loại ký sinh của cây dâu. Cũng rất khó tìm thứ nầy.

Dầu cây máu chó (đại-phong-tử) do hột của một loại cây lớn. Trái cây giống trái dừa, nhưng hình tròn có mấy mươi hột.

Tiêu đôi khi cũng có. Tiêu mọc leo xung quanh cây mây và đeo dính như loại lục-thảo-tử (lu-ts’ao-tseu). Loại nào tươi và xanh lục là thứ rất cay.

  1. Chân: nguyên văn là Cước, ông Paul Pelliot dịch là pied, lối đo bằng bàn chân thời xưa, hơn hai tấc (0m20).

  2. Đây là lúa sạ trổ ngọn trên mực nước nên không chết, khi nước hạ thì thân lúa nằm dài trên mặt đất.

  3. Người Tàu đào hầm lót gạch cẩn thận để đi sông và chứa phân bán cho các nhà trồng tỉa.

  4. Họ làm cầu tiêu.

  5. Cả đoạn này tác giả tả miền Nam Việt Nam ngày nay, chỉ trừ câu chót là vào đất Miên rồi.

  6. Tác giả viết câu này chứng tỏ người Tàu không biết con voi là gì. Ở Trung-Hoa không có voi.

  7. Nguyên văn: dã nhân. Người Tàu thời ấy cho các sắc dân xung quanh họ là man di, mọi rợ không văn minh như họ.

 

 

20. MẬU DỊCH (Mua bán)

 

Trong xứ nầy phụ nữ rất thông hiểu việc mua bán, thế nên khi một người Trung-Hoa đến đây luôn luôn lập gia đình ngay để lợi dụng tài thương mãi của vợ. Mỗi ngày chợ họp từ sáu giờ đến trưa thì tan. Tại chợ nầy không có cửa tiệm có người ta ở, người bán dùng một loại chiếu trải dưới đất. Mỗi người có chỗ của mình. Tôi nghe nói người ta nộp tiền cho chánh quyền để mướn chỗ ngồi. Đối với việc giao dịch nhỏ, người ta trả bằng gạo, cốc loại và đồ vật của Trung-Hoa rồi kế đến hàng vải, đối với việc lớn người ta dùng vàng và bạc.

Nói chung, người dân xứ nầy hết sức giản dị. Khi gặp một người Trung-Hoa, họ tỏ vẻ rất sợ sệt, cung kính và gọi là “Phật”. Vừa thấy người Trung-Hoa, họ liền quỳ xuống lạy. Trước đây ít lâu cũng có kẻ lường gạt người Trung-Hoa và gây nhiều thiệt hại. Đó là việc đã xảy ra cho một số đông người Trung-Hoa đến xứ này.


21. DỤC ĐẮC ĐƯỜNG HÓA (Muốn được hàng hóa của người Trung-Hoa)

 

Tôi tin rằng xứ nầy không có sản xuất vàng và bạc; những món người ta thích nhứt ở đây là vàng và bạc của Trung-Hoa, kế là hàng lụa nhẹ màu sặc sở dệt chỉ đôi. Sau đó là thiếc của vùng Chân-châu (Tchen-Tcheou), mâm sơn mài của vùng Ôn-châu (Wen-tcheou), đồ sứ màu lục lợi của vùng Bàn-châu và Tuyền-châu (Ts’iuan-tcheou), thủy ngân, son, giấy, diêm sanh, thuốc súng, bạch đàn, rễ cây bạch-chỉ, xạ-hương, vãi gai, vãi hoàng-thảo (houang-ts’ao), dù, nồi sắt, mâm đồng, nồi đồng, ngọc trai (thủy châu), dầu trẫu, lờ tre, nia, lược gỗ, kim. Những đồ vật thường dùng và nặng xấu như chiếu ở vùng Minh-châu (Ming-tcheou). Những vật mà họ rất muốn có là lúa thúc và lúa mạch nhưng sự xuất cảng (khỏi Trung-Hoa) bị cấm.


22. THẢO MỘC (Cây cỏ)

 

Chỉ có lựu, đào, mía, hoa và ngó sen, khoai, chuối, củ khung là giống với các loại trái cây bên Trung-Hoa. Trái vãi và quít cũng lớn bằng nhưng chua hơn. Tất cả trái cây khác ở Trung-Hoa không bao giờ có. Các loại cây cũng rất khác lạ. Hoa có nhiều hơn, thơm và đẹp hơn. Hoa mọc dưới nước có rất nhiều loại mà tôi không biết tên. Còn cây đào, cây lý, cây hạnh, cây mai, cây bách (trắc bá diệp), cây tùng, cây sam, cây lê, cây táo, cây bạch dương, cây liễu, cây quế, cây lan, cây cúc, v.v… thì không có. Trong xứ nầy vào tháng giêng đã có hoa sen.


23. PHI ĐIỂU (Loài chim)

 

Trong các loài chim, con công, chim thằng chài, con két không có ở Trung-Hoa. Số còn lại có chim ưng, quạ, cò ngà, chim sẻ, chim cồng cộc, hạc, sếu, vịt rừng, chim bạch yến, v.v… nhưng thiếu chim ác-là, ngỗng rừng, chim hoàng oanh, chim quốc (táp muỗi), chim én, bồ câu.


24. TẨU THÚ (Loài thú có chân)

 

Trong các loài thú bốn chân, u-tây, voi, trâu rừng và “ngựa núi” không có bên Trung-Hoa. Có rất nhiều cọp, beo, gấu, heo rừng, nai, hươu, hoẳng, vượn, chồn cáo, v.v… thiếu sư tử, đười ươi, lạc đà. Khỏi cần nói ở đây có gà mái, vịt, trâu, bò, ngựa, heo, trừu. Ngựa rất nhỏ con. Bò rất nhiều. Người ta cởI bò lúc còn sống, nhưng khi nó chết họ không dám ăn thịt, không dám lột da, họ đợi con thú sình thúi và nêu lý do là con vật này đã đem sức lực giúp việc cho người. Họ chỉ bắt bò kéo xe.

Trước kia họ không có ngỗng; từ khi các thủy thủ bên Trung-Hoa đem đến mới có. Ở đây có nhiều con chuột lớn như con mèo và cũng có một loại chuột cái đầu thật giống đầu con chó mới sanh.


25. SƠ, THÁI (Rau, cải)

 

Về rau cải, có củ hành, cây cải, tỏi, cà, dưa hấu, bí, dưa chuột (vương-qua: Wang-koua), rau sam (nghiển-thái: hien-ts’ai); không có cải củ, rau diếp, rau diếp đắng, rau mồng tơi. Vào tháng giêng đã có các loại bầu bí và cà, có nhiều giống cà sống nhiều năm liền. Cây bông vải cao tới nóc nhà, có cây sống hơn mười năm. Có rất nhiều loại rau mà tôi không biết tên, các loại mọc dưới nước cũng thật nhiều.


26. NGƯ, LONG (Cá và Rồng)

 

Trong các loài cá và ba ba, cá lý ngư đen (2) là giống nhiều nhứt, kế đó là cá chép thường, cá chép hoang và cá mè cũng gọi là cá trắm trắng (thảo ngư: ts’ao-yu) (3) có rất nhiều. Có giống thổ-bộ-ngư (t’ou-pou-yu) (4) con lớn nặng hai cân và có khi nặng hơn nữa. Rất nhiều giống cá khác mà tôi không biết tên. Tất cả cá trên đây đều ở Biển-Hồ. Còn cá biển thì có đủ loại, con lươn, cá chạch. Người bổn xứ không ăn thịt ếch, vì thế đêm chúng ra đầy đường. Rùa biển và kỳ đà lớn như hợp-trử (ho-tchou) (5). Người ta cũng ăn thịt những con rùa “lục tạng” (lieou-tsang) (6). Loại tôm ở Tch’a-nan (Tra-Nam: Kompong chhnang) nặng một cân và có khi nặng hơn nữa. Chân rùa ở Tchen-p’ou (Chân-bồ) dài từ tám đến chín tấc. Có những con sấu lớn như chiếc thuyền có bốn chân và rất giống con rồng chỉ trừ nó không có sừng, bụng nó rất dòn. Trong Biển-Hồ, người ta có thể bắt các loại sò hến và ốc, ngao bằng tay. Người ta không thấy giống cua, tôi nghĩ rằng cũng có nhưng người bổn xứ không ăn.


27. ÔN NHƯỞNG (Nấu rượu)

 

Người bổn xứ có bốn hạng rượu. Hạng thứ nhứt người Trung-Hoa gọi là “rượu mật” (7), người ta chế bằng một thứ thuốc lên men trộn phân nửa mật và nước. Hạng kế đó người bổn xứ gọi là bằng-nha-tứ (p’ong-ya-sseu) chế bằng lá cây; p’ong-ya-sseu là tên lá của một loại cây. Dưới hết là rượu chế bằng gạo hoặc cơm còn dư, người ta gọi là bao-lăng-dốc (pao-leng-kia); pao-leng-kia nghĩa là gạo. Hạng chót là rượu đường (8) chế bằng đường. Ngoài ra khi mới vào cửa biển, dọc theo sông người ta có chế một thứ rượu bằng nước nhựa cây “giao” (kiao) (9) và nhựa lá có thể chế rượu bằng cách để dậy men.


28. DIÊM, THỐ, TƯƠNG, MIẾN (Muối, Dấm, Tương, Bún)

 

Trong xứ nầy, ngành khai thác ruộng muối không được đặt dưới một sự hạn chế nào. Dọc theo bờ biển từ Chân-Bồ (Tchen-P’ou) và Ba-Giảng (Pa-Kien) (10), người ta làm muối bằng cách nấu nước biển. Trong núi cũng có một hầm mỏ mà mùi vị như muối, người ta có thể đẽo ra và làm vật dụng.

Người bổn xứ không biết làm dấm. Nếu muốn nấu món ăn chua, họ bỏ lá cây “hàm-bình” (hien-p’ing). Khi cây mọc mầm, họ dùng đọt non, khi cây có trái, họ dùng trái.

Họ cũng không biết làm tương vì không có lúa mạch và đậu.

Họ không làm men bằng hột trái cây. Họ chế rượu với mật, nước và lá cỏ, đó là một thứ rượu cốt mà họ dùng giống như rượu cốt màu trắng ở trong làng chúng ta.


29. TÀM TANG (Tầm và cây dâu)

 

Người bổn xứ không chuyên tâm vào việc nuôi tầm và trồng dâu, vợ họ cũng không biết gì về kim, chỉ, may, vá. Họ biết dệt vải bằng bông vải mà không biết kéo chỉ bằng guồng quây sợi và chỉ kéo bằng tay. Họ không có khung dệt, họ cột một đầu vải vào lưng và dệt lần đến đầu kia. Họ làm cái thoi bằng ống tre.

Mới đây, người Xiêm đến lập nghiệp ở xứ này chuyên về việc nuôi tầm và trồng dâu, hột cây dâu và trứng tầm đều ở Xiêm đem đến. Người bổn xứ không có trồng cây gai mà chỉ có cây “lạc-ma” (lo-ma) (11). Người Xiêm dệt loại vải màu đậm bằng tơ tầm mà họ mặc. Phụ nữ Xiêm biết may và vá. Khi áo chăn rách, người bổn xứ mướn đàn bà Xiêm vá lại.


30. KHÍ DỤNG (Đồ dùng)

 

Người dân thường có một ngôi nhà nhưng không có bàn, ghế, thau hoặc thùng múc nước. Họ chỉ dùng một cái nồi đất để nấu cơm, ngoài ra họ dùng một chảo đất để nấu canh. Họ chôn ba cục đá để làm lò và dùng một cái gáo dừa làm vá. Khi ăn cơm, họ dùng mâm bằng đất hoặc bằng đồng của Trung-Hoa. Họ dùng lá cây nấu canh rồi múc ra chén nhỏ dù múc đầy cũng không tràn ra ngoài. Ngoài ra họ lấy lá cây “giao” (Kiao) làm muổng múc canh trong chén đưa vào miệng; ăn xong, họ bỏ lá. Trong những buổi lễ cúng Thần và cúng Phật họ cũng làm như vậy. Họ để gần bên mình một cái tô bằng thiếc hay bằng đất đựng đầy nước để nhúng tay vào. Họ chỉ dùng ngón tay để bốc cơm, khi cơm dính tay mà không có nước đó thì không rớt ra. Họ uống rượu đựng trong chén bằng thiếc, người nghèo dùng tô bằng đất, các nhà quý tộc hoặc phú hộ dùng mỗi người một món đồ bằng bạc, có khi bằng vàng.

Trong các buổi lễ của nhà Vua, người ta dùng rất nhiều đồ đạc làm bằng vàng theo kiểu mẫu và hình dáng đặc biệt. Dưới đất người ta trải chiếu làm ở Minh-Châu (Ming-tcheou), cũng có người trải da cọp, da beo, da nai, da hoẵng, v.v… hoặc chiếu dệt bằng mây. Gần đây, người ta bắt đầu dùng loại bàn thấp, bề cao lối một chân (12). Người ta chỉ dùng chiếu tre để ngủ và nằm trên ván; có người cũng dùng giường thấp thường thường do người Trung-Hoa đóng. Người ta đậy thức ăn bằng một miếng vải; trong cung Vua, người ta dùng lụa dệt chỉ đôi có chấm vàng toàn là phẩm vật của các thương gia ngoại quốc dâng tặng. Ng�! �ời ta không dùng thớt cối để xây lúa, họ chỉ vọt bằng cái chày và cái xối.

 

31. XA KIỆU (Xe và kiệu)

 

Kiệu làm bằng một miếng cây cong ở giữa hai đầu đứng thẳng lên, người ta chạm trên kiệu hình hoa phủ vàng hay bạc và gọi đó là đòn kiệu bằng vàng hay bằng bạc. Cách mỗi đầu lối một chân (13), người ta đóng một cái móc và dùng giây cột miếng vải rộng xếp thành nếp lớn vào hai cái móc ấy. Người cong mình dưới tấm vải cho hai người khiêng. Ngoài ra có thêm một món đồ giống như lá bườm của chiếc thuyền nhưng rộng hơn, trang trí bằng nhiều hàng lụa lạ lùng; bốn người cầm vật ấy chạy theo kiệu. Cũng có người cỡi voi hoặc cỡi ngựa để đi xa, có người ngồi xe bò kiểu mẫu giống loại xe ở các nước khác. Ngựa cỡi không có yên, voi cũng không có ghế để ngồi.

 

32. CHÂU, TIẾP (Ghe và cây chèo)

 

Những chiếc ghe lớn làm bằng ván lấy trong thân cây cứng. Người thợ không có cưa chỉ dùng búa tách từng tấm ván ra, đó là một sự phí phạm gỗ rất lớn và phí sức rất nhiều. Khi muốn làm món đồ bằng gỗ, người ta cũng chỉ dùng cây đục để móc và đẽo, khi cất nhà cũng làm như vậy. Người ta dùng đinh sắt đóng ghe lớn bọc ngoài bằng lá cây “giao” (kiao), lấy nẹp bằng cây cau giữ lại. Chiếc ghe loại này gọi là tân-nô (sin-na). Ghe đi bằng chèo. Người ta trét ghe bằng mở cá trộn với vôi.

Ghe nhỏ làm bằng một thân cây lớn khoét theo hình cái máng, người ta hơ lửa cho mềm và nới rộng ra bằng những đoạn cây, nên ghe rộng ở giữa và nhọn ở hai đầu. Ghe không có buồm và có thể chở nhiều người, người ta chỉ điều khiển bằng chèo. Ghe gọi là “bì-lan” (p’i-lan).

  1. Long: là con cá sấu lớn bằng chiếc ghe có bốn chân, không có sừng, giống con rồng. Ông Paul Pelliot dịch: cá và loại bò sát.

  2. Lý-ngư đen ở Trung-Hoa là bốn loại cá có bốn màu: đỏ, vàng, trắng, đen. Loại đỏ quí nhất vì thịt rất ngon. Mùa mưa là mùa lý ngư sanh sản, chúng vừa lội vừa xịt ra hai buồng trứng dài hàng chục thước.

  3. Thảo-ngư là loài cá ăn cỏ, ở Trung-Hoa mỗi con dài một thước tây, ngang 30 phân, mình dẹp.

  4. Thổ-bộ-ngư đúng tên là thổ-phụ-ngư hoặc đổ-phụ-ngư hình dáng như con cá trê dài bốn tấc Tàu, đầu to, miệng rộng, mình dẹp, vẫy nhỏ màu xanh thẩm và có chấm đen, sống ở nước ngọt, sinh sản vào mùa bông cải nở, tức là mùa Xuân nên còn có tên là Thái-hoa-ngư: cá hoa cải.

  5. Hợp-trữ là hình-dung-từ để so sánh một vật to lớn như cây lọng hoặc cái bàn.

  6. Rùa lục tạng, nguyên văn: Lục Tạng Chi Qui, người Tàu cho rằng con rùa là linh vật có đủ ngũ tạng, lục phủ như con người nên không ăn thịt rùa và dùng mai rùa để bói toán.

  7. Nguyên văn: mật đường tửu.

  8. Nguyên văn: đường-dám-tửu.

  9. Nguyên văn: giao-tương-tửu.

  10. Ông Aymonier cho rằng Ba-giảng là vùng Sóc-trăng, Bạc-liêu ngày nay.

  11. Không biết là cây gì.

  12. Nguyên văn: Cước, lối đo bằng bề dài của bàn chân.

 

 

33. THUỘC QUẬN (1) (Các quận thuộc vào tỉnh)

Có hơn chín chục tỉnh: Chân-Bồ (Tchen-p’ou), Tra-Nam (Tch’a-nan), Ba-Giảng (Pa-kien), Mạc-Lương (Mo-leang), Bát-Tiết (Pa-sie), Bồ-Mãi (P’ou-mai), Trỉ-Côn (Tche-kouen), Mộc-tân-ba (Mou-tsin-po), Lại-cảm-khanh (Lai-kam-k’eng), Bát-tê-lý (Pa-sseu-li); tôi không thể nhớ chi tiết các tỉnh khác. Mỗi tỉnh có quan chức và trong mỗi tỉnh người ta lập một vòng thành vững chắc bằng hàng rào cây (2).

 

34. THÔN LẠC (Làng xóm)

Mỗi làng có hoặc một ngôi nhà, hoặc một ngôi tháp. Dù dân cư không mấy gì đông đảo họ cũng có một vị quan địa phương gọi là “mãi tiết” (mai-tsie) (3). Trên các đường lớn, có những nơi nghỉ chân giống như trạm dịch của chúng ta; người ta gọi là “xâm mộc” (sen-mou) (4). Mới đây trong trận chiến với nước Xiêm các làng bị tàn phá hoàn toàn.

 

35. THỦ ĐẢM (Lấy mật người)

Trước đây, trong tháng tám (Trung-Hoa), người ta lấy mật người: đó là Vua Chiêm-Thành buộc mỗi năm phải nộp một hủ đựng hàng ngàn và hằng hà sa số mật người. Về đêm, người ta cắt người đứng rình ở những vùng trong các thành phố và các làng xóm có nhiều người qua lại. Khi bắt gặp kẻ nào đi đêm, họ chùm đầu bằng một cái mũ vải rút giây và dùng dao nhỏ mổ dưới cạnh sườn bên mặt lấy mật ra. Người ta chờ đủ số rồi mới đem dâng Vua Chiêm-Thành. Tuy nhiên, người ta không lấy mật của người Trung-Hoa, vì lẽ có một năm, người ta lấy mật của người Trung-Hoa để chung với mật người khác tức thì tất cả mật trong hủ đều thúi hết không thể nào dùng được. Mới đây, người ta bãi bỏ tập tục lấy mật và an trí riêng các quan chức phụ trách công tác này cùng những thuộc hạ cho ở trong thành gần cửa Bắc (5).

 

36. DỊ SỰ (Chuyện dị thường)

Trong thành gần cửa Đông, có một tên man mọi gian dâm với đứa con gái. Da thịt của hai người dính nhau không thể tách rời, sau ba ngày không ăn uống, cả hai đều chết. Bạn tôi, họ Tiết (Sie) sống ở xứ nầy ba mươi lăm năm xác nhận có thấy trường hợp này xảy ra hai lần. Nếu quả vậy, đó là dân chúng biết áp dụng uy lực thiêng liêng của Đức Phật.

 

37. TÁO DỤC (Tắm gội)

Xứ này nóng dữ dội, người ta không thể nào chịu nổi một ngày mà không tắm nhiều lần. Ban đêm cũng vậy, người ta không thể nào không tắm một hoặc hai lần. Không có nhà tắm, không có thau, không có thùng nhưng mỗi gia đình có một cái ao, nếu không hai hay ba gia đình xài chung một cái. Tất cả đàn ông và đàn bà vào tắm trần truồng, chỉ khi nào cha mẹ hoặc người lớn tuổi ở trong ao thì con trai, con gái hoặc người trẻ tuổi không vào. Khi bọn trẻ ở trong ao thì người lớn tránh ra nhưng nếu cùng một tuổi thì người ta không chú ý; đàn bà che chỗ kín bằng tay trái trầm mình xuống nước và thế là hết.

Luôn luôn ba hay bốn, năm hay sáu ngày, các phụ nữ trong thành phố đi từng đoàn ba hoặc năm người ra khỏi chợ tắm dưới sông. Đến bờ sông, họ cổi miếng vải quấn ngang mình rồi đi xuống nước. Hàng ngàn người tựu họp dưới sông như thế. Cả đến các bà thuộc gia đình quí phái cũng tham dự vào và không có ý thẹn thùa chút nào. Mọi người đều có thể ngắm họ từ đầu tới chân. Trên giòng sông lớn ngoài thành phố, không ngày nào không có cảnh ấy. Người Trung-Hoa vào ngày rảnh rỗi thường hoan hỉ đến đây xem chơi cho vui. Tôi nghe nói có kẻ lặn dưới nước thừa cơ hội làm xằng.

Nước luôn luôn nóng như ở trên lửa, chỉ đến canh năm mới mát một chút, nhưng khi mặt trời mọc thì nóng lại như thường.

 

38. LƯU NGỤ (Người xứ khác đến ở)

Người thủy thủ Trung-Hoa nhận thấy ở xứ nầy rất thuận tiện, người ta không cần mặc quần áo và ngoài ra gạo rất dễ tìm, đàn bà dễ kiếm, nhà dễ cất, đồ đạc dễ mua, việc mua bán dễ thao túng nên thường có kẻ bỏ trốn ở lại.

 

39. QUÂN MÃ (Quân đội)

Quân lính cũng ở trần và đi chân không. Tay mặt họ cầm giáo, tay trái cầm khiêng. Không có cung, tên, không có nỏ, không có đạn, không có áo giáp, không có nón (6). Người ta thuật lại rằng trong trận đánh với người Xiêm, người ta bắt buộc tất cả dân chúng phải tham chiến. Với một phương pháp thông thường, những người này không có chiến thuật và chiến lược.


40. QUỐC CHỦ XUẤT NHẬP (Nhà Vua ra, vào)

Tôi nghe nói rằng dưới triều các Vua trước, dấu bánh xe của các Ngài không bao giờ in khỏi cửa cung, đó là để đề phòng những trường hợp bất trắc. Tân Vương là rễ của nhà Vua trước. Xưa kia, Ngài giữ chức chỉ huy quân đội. Ông cha vợ (7) thương con gái, đứa con gái ăn cắp cây gươm vàng (8) của cha đem cho chồng. Người con ruột sau nầy không được lên ngôi. Ông ta âm mưu chiêu mộ quân sĩ nhưng Tân Vương biết được bắt chặt ngón chân và nhốt trong ngục tối (9). Trên thân thể Tân Vương có khảm (10) một miếng sắt thiêng dù dao và tên chạm vào cũng không thể gây thương tích. Tin chắc như vậy nên Ngài mới dám ra khỏi cung.

Tôi ở trong nước hơn một năm và tôi thấy Ngài đi ra bốn hay năm lần.

Khi nhà Vua du hành, quân đội đi đầu để hộ tống, kế đến là cờ của kỵ binh, cờ hiệu, giàn nhạc. Các thị nữ trong cung từ ba đến năm trăm, mặc hàng vải thêu cành lá, dắt bông trên đầu tóc, tay cầm đèn cây, họp thành một toán riêng, mặc dù giữa ban ngày đèn cầy vẫn đốt cháy. Tiếp đó là các thị nữ bưng vật dụng của nhà Vua bằng vàng, bằng bạc, và tất cả bộ đồ trang hoàng với kiểu mẩu hết sức đặc biệt mà tôi không biết cách dùng. Kế đến các thị nữ cầm khiêng, vác giáo là đoàn canh phòng riêng biệt trong cung; các thị nữ này cũng họp thành toán riêng. Tiếp theo là xe do dê kéo, xe ngựa tất cả đều trang hoàng bằng vàng.

Các quan, các vị Hoàng Thân đều cởi voi, trước mặt quí vị người ta thấy những cây lọng đỏ của quí vị từ xa, nhiều vô số.

Sau quí vị là các bà v! ợ và cung phi của nhà Vua ngồi kiệu, ngồi xe, cởi ngựa, cỡi voi, các bà có hơn trăm cây lọng thêu chỉ vàng lóng lánh. Sau quí bà là nhà vua đứng trên lưng voi, tay cầm gươm báu. Ngà voi cũng đuợc bọc trong bao vàng. Có hơn hai chục cây lọng trắng thêu chỉ vàng lóng lánh và cán bằng vàng. Rất nhiều voi đi xung quanh Ngài và có thêm toán quân lính hộ vệ Ngài.

Nếu nhà Vua đến một vùng láng giềng, Ngài chỉ dùng kiệu vàng do các cung nữ khiêng.

Thường thường Ngài ra ngoài để viếng ngôi tháp vàng nhỏ, trước tháp có một tượng Phật vàng. Người nào thấy nhà Vua phải quỳ gối và dập đầu xuống đất, người ta gọi đó là “tam bãi” (san-pa) (11), nếu không họ sẽ bị các ông thầy lễ (12) bắt mà không khi nào được tự do không (13).

Mỗi ngày, nhà Vua thiết triều hai lần để xét đoán các việc quốc gia. Không có giấy tờ, công văn qui định. Công chức hoặc dân chúng muốn triều kiến nhà Vua đều ngồi dưới đất chờ. Một lát, người ta nghe một điệu nhạc văng vẳng trong cung và ở ngoài người ta liền thổi vỏ ốc (14) như đón chào nhà Vua.

Tôi nghe nói rằng nhà Vua chỉ ngồi trên một cái kiệu vàng đến đó. Ngài dừng lại cách xa chúng tôi. Lát sau, người ta thấy hai cung nữ đưa ngón tay thon nhỏ vén màn, và nhà Vua tay cầm gươm xuất hiện đứng trong cửa sổ vàng. Các quan và dân chúng chắp tay, dập đầu xuống đất. Khi tiếng vỏ ốc ngừng thổi, họ mới có thể ngửng đầu lên. Liền khi ấy, nhà Vua ngồi xuống. Nơi Ngài ngồi có một miếng da sư-tử là bảo vật của Hoàng triều truyền lại. Khi các việc thương nghị chấm dứt, nhà Vua trở về cung, hai cung nữ bỏ! màn xu�! ��ng, mọi người đứng dậy. Theo đó, người ta thấy rằng mặc dầu là một nước man rợ, những người nầy không phải không biết thế nào là một vị Quốc Vương (15).

  1. Đúng ra là “các tỉnh” theo ông Paul Pelliot đã dịch.

  2. Những địa danh trên đây rất khó mà sưu tra để so sánh với tên tỉnh hiện thời, có lẽ qua nhiều triều đại có nhiều sự đổi thay, nhất là vào thế kỷ 15, nhà Vua Cao-Miên bỏ vùng Angkor dời đô đi nơi khác.

  3. Mai-tsie có lẽ là tiếng Mê Srok, ông Quận Trưởng thời ấy.

  4. Những ngôi nhà mát ấy tiếng Miên gọi là Thala.

  5. Trong tạp chí của Trường Bác cổ Viễn đông tập 2 năm 1902, trang 173, ông Paul Pelliot ghi rằng: “Tục lệ giết người lấy mật quả có ở Đông Dương, trái hẳn với ý kiến của ông De Groot trong quyển “Religious system of China” tập IV trang 375-376. Theo sự tin tưởng của toàn thể người Á-Đông thì mật là trung khu của tánh can đảm. Người Trung-Hoa chỉ dùng một danh từ “Đảm” (Tan) để chỉ mật và tánh can đảm. Vì thế mật các loài thú và mật người là những phương pháp thần hiệu trong ngành Y học Trung Hoa (theo ông Smith trong quyển Materia medica trang 165).
    (Chúng tôi được biết mật chuột thoa trên miếng giấy ban đêm kê vào mắt như mắt kiếng sẽ thấy mọi vật rõ như ban ngày; mật rái cá thoa trên vải hay giấy bịt mũi lặn xuống sông thì nước sẽ rẽ ra cách mặt lối một tấc tha hồ ở suốt buổi!)
    Nhà khảo cổ Pháp, Chavannes viết trong quyển “Mémoires historiques” tập IV trang 424 rằng: Để tự luyện có sức mạnh và can đảm, Vua nước Việt (Yue) là Câu-Tiển (Keou-Tsien) bị Vua nước Ngô (Wou) đánh bại vào thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch, để túi mật lên án thư, khi ngồi hay nằm, nhà vua ngước nhìn, khi ăn hay uống nhà Vua cũng nếm mật”.
    Có thuyết cho rằng nếm mật để nuốt vị đắng cho trí óc không nghĩ đến sự hưởng lạc mà chăm chú vào việc trả thù.
    Ông Trương Vĩnh Ký viết trong quyển “Cours d’histoire annamite” trang 110: “Vào thế kỷ thứ 14, vị Quốc Vương
    Annam bất lực, người ta trị bằng một thang thuốc trộn với mật của một gã trai tơ”.
    Ông Aymonier, trong quyển “Les Tchames et leurs religions” trang 33 có ghi: “Những người Chiêm-Thành (ở Bình Thuận) thường nhắc lại rằng xưa kia, những tay thợ săn cọp và voi của nhà Vua là những kẻ được dân chúng nể sợ. Nhưng ghê gớm hơn là các vị Djalaouech là người chuyên môn lấy mật người để tưới trên mình voi trận của Hoàng gia”.
    Nhà khảo cổ này còn viết trong bài “Première étude sur les inscriptions tchames” đăng trong tạp chí “Journal Asiatique” tháng giêng và hai năm 1891, trang 64: “Quả thật, những bản văn Chàm khắc trên đá cho chúng ta biết “Vị Quốc Vương tối cao của các Quốc Vương có con voi được tưới mật người mang tên pittadvipa”.
    Ông cũng có ghi trong quyển “Les Tchames et leurs religions” trang 110: “Người Chàm có một niềm tin man rợ rằng mật người dùng để uống là một chất kích thích thần diệu giúp các chiến sĩ đánh giặc rất hăng. Người ta mổ những tên bị thương lấy mật ngay trên chiến trường. Người dân Đông Dương nói rằng mật người hòa với rượu mạnh uống vào sẽ làm chấn động thân thể”.
    Trong quyển “Kinh sai thắng lãm” (Sing tch’a cheng lan) xuất bản năm 1436 tập I trang 3, các ông Hoạn quan Trung-Hoa có ghi: Tù trưởng tuế thời, thái sinh nhân đảm, nhập tiểu trung, dữ gia nhân đồng ẩm, hiệu dĩ dục thân, vị chi không thân thị đảm”. Vị tù trưởng hằng năm lấy mật người sống hòa với rượu cùng người nhà uống, rồi thoa ướt mình m! ẩy gọi là toàn thân thể đều là mật cả.
    Nhà học giả Mayers, theo tài liệu của Hoàng-tĩnh-Tăng (Houang-Sing-Tseng) biên soạn, có viết một bài tương tự như trên trong tạp chí
    China Review tập III, trang 624.
    Sử ký nhà Minh (Ming che 1368-1643) soạn hồi thế kỷ thứ 18 cũng ghi những chi tiết như thế và chua thêm ở đoạn “Thị đảm”: Kỳ quốc nhân thái dĩ hiến vương, hiện dĩ tẩy tượng mục, mỗi tứ nhân ư đạo, xuất bất ý cấp sát chi, thủ đảm vĩ khứ, nhược kỳ nhân kinh giác, tắc đảm dĩ tiên liệt, bất túc dụng hỉ, tri chúng đảm ư khí, Hoa nhân đảm tiếp cư thượng cố vưu quí chi”. “Chuyện lấy mật“: “Người nước ấy lấy mật dâng nhà Vua, người ta cũng dùng mật rửa mắt voi. Thường thường rình người dọc đường thừa lúc không để ý giết thật nhanh, lấy mật đem đi. Nếu kẻ đó sợ hải biết được thì trái mật đã tan trước không dùng được nữa. Mật để trong hủ. Mật người Tàu nổi lên trên ngay nên rất quí”.
    Trong bài “Première étude sur les inscriptions tchames” đăng ở tạp chí “Journal Asiatique” tháng giêng, tháng hai năm 1886 trang 64, ông Aymonier viết: “Ở Cao-Miên, tục lệ này hoàn toàn bị bãi bỏ vào giữa thế kỷ thứ 19 dưới triều Vua Ang Duong (1845-1859). Quả thật trong quyển “Voyage dans l’Indo-Chine” xuất bản ở Paris năm 1856 trang 241, linh mục Bouillevaux thuật rằng: “Tháng mười hai năm 1850, khi Linh mục vừa đến tỉnh Battambang thì lời đồn đãi vẫn còn làm tăng thêm tình trạng náo động; người ta nói trong vùng có nhiều tên “ioe pomat” nghĩa là kẻ giết người lấy mật. Vài người tỏ vẻ nghi ngờ Linh mục, e rằng ngài là một “ioe pomat”. Người Cao-Miên thì thầm bên tai với nhau: nhà Vua ra lịnh lấy mật người đ�! � dùng cho đoàn voi trận; có kẻ nói nhà Vua lấy bán cho người Âu Tây. Người Miên và người Lào đang bòn vàng cho vua Xiêm trên bãi cát ở thượng lưu dòng sông không dám đi sâu vào rừng sợ mang họa”.
    Tài liệu đầy đủ nhất về vấn đề lấy mật người là tác phẩm của Đức Cha Filippo de Marini, người Tây-ban-nha, nhan đề “Historia e relatione del Tunchino e del Giappone” xuất bản ở Rome năm 1655 được ông Paul Pelliot phiên dịch ra Pháp ngữ: “Histoire nouvelle et curieuse des royaumes de Tonquin et de Laos” in ở Paris, trang 349 và 350 ghi phương pháp áp dụng ở Ai-lao: “Người ta thực hành thường thường trong lãnh thổ giống như sự lạm dụng về bùa phép mà nhà Vua chưa có thể diệt trừ và chế ngự được dễ dàng mặc dầu Ngài không xá miễn gì cả lại còn ban cho mọi điều chăm sóc chu đáo vì lẽ những bậc có uy quyền nhất nước và những người ở vào cương vị Thẩm phán của Hoàng triều đều có góp phần vào. Đây là một lối giết người tàn bạo và đáng thương, dù sự việc không xẩy ra thường trực. Đại để trong một khoảng thời gian nào củ mùa đông có những kẻ hết sức dã man và vô nhân đạo chỉ vì số tiền mướn hai mươi lăm hoặc ba mươi đồng “escu” (tiền của quốc gia ấy) mà chúng vào rừng rình bắt người và vô phúc cho người nào chúng gặp đầu tiên dù đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ, tu sĩ hay thế nhân, chúng sẽ rượt bắt sống rồi mổ bụng, cắt túi mật. Chúng không cho hành động này là sát nhân, lại thản nhiên chặt đứt đầu người xấu số mà thân mình đẫm máu còn đang run rẩy, đoạn đem nộp cho vị quan nào chúng tôn trọng để chứng minh chúng lấy ! mật c�! �a người thật. Nếu chúng không tìm được ai và không thể thực hiện được kế hoạch kinh tởm, tàn bạo kia trong thời hạn ấn định với vị quan thì buộc lòng chúng phải tự sát hoặc giết vợ hay một đứa con. Kẻ bỏ tiền mua túi mật nhểu một giọt thứ nhất vào rượu rồi đem lễ bái trong cuộc lễ ghê rợn và huyền hoặc để thoa trên đầu con voi. Họ tin tưởng chắc chắn đó là một sự thật hiển nhiên, con thú được thoa mật người sẽ trở nên mạnh bạo, can đảm, mập béo, nhất định sẽ thắng dễ dàng trong các trận đấu sức với đồng loại và trên các chiến trường”.

  6. Trong quyển Tùy thư (Souel chou” vào thế kỷ thứ 7, đoạn 82, trang 4 ghi rằng: “có hơn ngàn thị vệ luôn luôn võ trang đứng trước Hoàng cung, mặc áo giáp và sẵn sàng chiến đấu”. Quyển Cựu Đường-thư (Kieou-T’ang-chou) vào thế kỷ thứ 10, đoạn 197, trang 2 ghi rằng: “các thớt voi trận của Cao-Miên mang trên lưng một cái tháp (bành) chở bốn chiến binh võ trang cung tên.”

  7. Cha vợ của nhà Vua hiện hữu là vị Quốc Vương đã băng hà.

  8. Gươm vàng gọi là Prah Khan chú thích ở đoạn trước.

  9. Trong quyển Tùy-thư (Souei-chou) vào thế kỷ thứ 7 có ghi việc các Quốc Vương Cao-Miên khi lên ngôi truyền chặt tay hoặc lắt mũi mấy người em rồi đem giao vào một nơi kín đáo cho ăn uống tử tế, nhưng không giao phó phận sự nào cả.

  10. Dịch đúng theo nguyên văn, thoạt nghe không có vẽ khoa học chút nào.

  11. Tiếng Miên là Sầm bách.

  12. Nguyên văn: “Mạo Sự”, không biết là chức việc gì?

  13. Nguyên văn: “Sở cầm bất hư thích dã”. “Không khi nào được tự do không”. Chúng tôi không hiểu “không” đây là không nộp tiền phạt, nộp hối lộ hoặc bị tù tội, vì tác giả không giải thích rõ ràng hơn.

  14. Các tu-sĩ Bà-la-môn ở trong triều thổi vỏ ốc khi Vua ngự ra ngai vàng hoặc trong các buổi lễ. Tục lệ này đến nay vẫn còn.

  15. Nguyên văn chữ Trung-Hoa: Dĩ thử quan chi tắc tuy man, mạch chi ban, vị thường bất tri hữu quân dã. (Cứ thế mà coi thì mặc dầu là một nước man rợ cũng vẫn biết có Vua).

HẾT

 

 

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét